-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 10/11/2010 in all areas
-
Âm Dương Ngũ Hành Y Lý Đồ Hoạ
meiji and 3 others liked a post in a topic by Kim Cương
KINH LẠC HUYỆT VỊ ĐỒ 经 洛穴位图 NHÂN THỂ KINH LẠC DƯỠNG SINH BẢO KIỆN-HÌNH 1 人體經絡養生保健 Kích thước xem thử: như trên Tải về: Độ phân giải tối đa (3.000×6.058 điểm ảnh, kích thước: 7,01 MB, định dạng MIME: image/jpeg) --- NHÂN THỂ KINH LẠC DƯỠNG SINH BẢO KIỆN-HÌNH 2 人體經絡養生保健 Kích thước xem thử: như trên Tải về: Độ phân giải tối đa (3.000×5.932 điểm ảnh, kích thước: 4,71 MB, định dạng MIME: image/jpeg) --- NHÂN THỂ KINH LẠC DƯỠNG SINH BẢO KIỆN-HÌNH 3 人體經絡養生保健 Kích thước xem thử: như trên Tải về: Độ phân giải tối đa (3.000×5.978 điểm ảnh, kích thước: 8,88 MB, định dạng MIME: image/jpeg) Bộ hình này tương đối chất lượng, Kim Cương biết được và tìm cũng thấy được trên internet. Hi vọng sẽ đồ họa lại nó để chuyển ngữ tiếng Trung sang tiếng Việt.4 likes -
Thôi đi mà anh Vulong. Ai xóa cũng vậy thôi. Mình vì học thuật mà đúng thì một triệu người phản đối cũng chẳng ăn nhằm gì. Còn nếu sai thì cả thế giới ủng hộ mà có một người chỉ ra cái sai cũng đủ đi rồi. Bản thân tôi bị xóa nguyên một mục "Văn hiến Lạc Việt", tôi cũng lẵng lẽ bỏ đi, vậy thôi. Nhưng tôi vẫn nhớ đến một tuvilyso.com một thời đã tạo điều kiện cho tôi thể hiện những ý tưởng của mình.Vài lời chia sẻ.3 likes
-
Buổi chiều đi làm về, đang đi đường gặp 1 chú với cái xe thồ "có 2 cái sọt 2 bên" ở trên sau xe có 1 rổ "Chanh" ở dưới sọt có 1 vài bó rau "cái này nếu ai ở Hà Nội sẽ biết đó là những người ở quê ra HN bán hàng rong trên chiếc xe đạp" Chú ấy đang đứng ở rìa đường gần nhà mình, mình phóng xe qua thấy có bán chanh nên quay lại hỏi mua vài quả tối uống nước, hỏi chanh bán bao nhiêu vậy chú: chú bảo 16 ngàn 1kg, mình bảo cho cháu mấu quả, rồi nhặt 3 quả chanh cho vào túi, chú bảo thôi lấy thêm mấy quả chú tính 5 ngàn, mình bảo thôi cháu lấy 3 quả thôi, không dùng để úng lại phí, chú để đấy bán cho người khác cháu vẫn trả chú 5 ngàn Sau đó lấy 3 quả chanh và tra 5 ngàn, chú nhất định đưa thêm mình mấy quả, mình bảo là cháu không dùng đến bỏ phí đi, chú để lại bán cho người khác, chú nhất định không nhận, chứ nằng nặc bỏ vào túi mình đủ số chanh mà chú bán 5 ngàn, nhưng mình không lấy, quay xe lại, nhìn anh mắt hiền khô của chú, chú bảo thế lấy cho chú nốt bó rau cho đủ 5 ngàn cháu đưa chú, mình bảo là cháu không nấu cơm, cháu ăn quán, chú để mà bán cho người khác, đi xe về nhà, suốt dọc đường đã làm mình phải suy nghĩ mãi Tối đi uống cafe với đứa bạn thì có cháu nhỏ mang 1 tập kẹo cao su đến bảo mua cho cháu, mình hỏi bao nhiêu, cháu nó bảo 10 ngàn 1 phong, mình bảo chú không có tiền lẻ, thôi chú có 3 ngàn cho cháu luôn mua kẹo nhé, mình đưa đúa trẻ 3 ngàn, nó nhất định không lấy bảo chú mua cho cháu đi, mình bảo chú hết tiền lẻ rồi mà, thế là đứa bé rút trong phong kẹo ra 3 cái kẹo cao su đưa mình bảo thế thì 3 ngàn được 3 cái và nhất định ko lấy tiền nếu mình không lấy kẹo 2 câu chuyện đó làm tối mình ko ngủ được, 2 câu chuyện đó tuy nhỏ nhưng đúng là nó đã cho mình 1 bài học rất lớn Người khác họ cần ở mình 1 sự giúp đỡ, nhưng không phải là lòng thương hại hay là gì cả, họ nhận những cái mà họ đáng được nhận, họ tuy nghèo, tuy cực khổ để kiếm từng ngàn 1 nhưng sau hành động đó mình không thấy họ nghèo chút nào, bây giờ khó tả cảm xúc quá đi mất2 likes
-
2 likes
-
Hồ Sơ các “Tuyệt Chiêu Nổi Tiếng Trong Tử Bình" 1 - Các trạng thái của 5 Can âm được xác định giống như 5 Can dương và Can Chi trong cùng trụ không thể sinh được cho nhau - Của bố con nhà họ Nhâm Thị. 2 - Không có khái niệm "Dụng thần thay đổi" - Của Đoàn Viết Hoạt. 3 - Tất cả các giờ sinh trên thế giới phải đổi sang giờ Bắc Kinh thì mới đúng - Của Thiệu Vĩ Hoa. 4 - Địa chi có thể dẫn hóa cho tổ hợp của các địa chi hóa cục - Của Giang*Hai*Thien (tuyệt chiêu này chắc chắn cụ Thiệu Khang Tiết và cháu nội đời thứ 20, 30 gì đấy là cụ Thiệu Vĩ Hoa không hề biết). 5 - Cách hóa Thổ dụng thần phải là Mộc hay Thủy - Của Phiêu Diêu. 6 - Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa vẫn khắc được các can hay chi ngoài tổ hợp và ngược lại - của ông Quang Liên cư sĩ. 8 - Chi đại vận không bị hợp vẫn bị các chi trong Tứ Trụ xung hay khắc - của ông Quang Liên cư sĩ. 9 - Thân nhược phải lấy Thực Thương làm Thọ Tinh thì người đó mới sống Thọ được – Của Phiêu Diêu." Để cho tình hình thời sự nóng hổi tôi sẽ trình bầy Tuyệt Chiêu thứ 9 đầu tiên sau đó tới Thuyệt Chiêu thứ 8; 7; ....; 1. VULONG đã viết ở chủ đề "Cách gì đây" trong mục Tử Bình bên tuvilyso.net: “Thôi thì đành phải giải thích cho những người mới Nhập Môn hiểu nếu không thì họ lại như tôi mất 2 năm tôn thờ Tuyệt Chiêu "Mọi giờ sinh trên thế giới phải đổi về giờ Bắc Kinh thì mới đúng" của cụ Thiệu Vĩ Hoa mất (không dám giải thích cho những người đã có thâm niên 5 hay 7 năm trở lên ngâm cứu Tử Bình). 1 - Phiêu Diêu đã định nghĩa về Thọ Tinh như sau: “Muốn xem sanh tử số mệnh trước tiên phải xem thọ tinh của bát tự là thập thần nào? Bát tự này dậu là thọ tinh. Kỵ thần của thọ tinh bát tự này là mộc hỏa. Đến dần vận thì dậu lâm tuyệt địa nên rất nguy tánh mạng.“ Điều này chứng tỏ Thọ Tinh mà Phiêu Diêu định nghĩa là cái đại diện cho Thọ hay Yểu của người có Tứ Trụ. 2 - Phiêu Diêu đã xác định Thọ Tinh trong Tứ Trụ như sau: “Tui cũng giải thích rõ là thọ tinh không hẳn là dụng thần. Có khi dụng thần là thọ tinh; cũng có khi dụng thần khác thọ tinh. Thọ tinh không liên quan gì đến vượng suy của nhật can. Theo cách xem của tui thì cách xác định thọ tinh khác cách định dụng thần.“ Theo định nghĩa và cách để xác định Thọ Tinh của Phiêu Diêu thì Thọ Tinh có thể là bất kỳ thần nào trong Tứ Trụ và “Thọ tinh không liên quan gì đến vượng suy của nhật can.“ hay "dụng thần“, có nghĩa là Thọ Tinh không liên quan gì tới Thân vượng hay nhược của Tứ Trụ đó.““ Khi đã biết rõ Thọ Tinh mà PhieuDieu định nghĩa và cách để xác định như vậy thì chúng ta bắt đầu theo dõi tình tiết qua các bài viết ở chủ đề "Cách nào đây" trong mục Tử Bình bên tuvilyso.net như sau: VULONG đã viết: “"PChi đọc lại đoạn này xem Phieu Dieu đã nói cái gì và tôi đã nói cái gì? PhieuDieu đã viết: @tpt Bạn hỏi thì tui cũng góp chút ý kiến. Càn tạo: Bính Dần Canh Tý Kỷ Dậu Ất Sửu Đại vận: Tân Sửu/ Nhâm Dần/ Quý Mão Muốn xem sanh tử số mệnh trước tiên phải xem thọ tinh của bát tự là thập thần nào? Bát tự này dậu là thọ tinh. Kỵ thần của thọ tinh bát tự này là mộc hỏa. Đến dần vận thì dậu lâm tuyệt địa nên rất nguy tánh mạng. Xét lưu niên thì năm ất dậu, tuy thọ tinh lâm tuyệt địa rất sợ được sanh cũng là 1 ứng ký mất mạng, nhưng trên can ất hư thấu bị canh hợp chế nên cũng không đến nỗi. Đến năm bính tuất thì bính vượng thấu trực tiếp khắc canh + địa chi tuất hại dậu, tương hại giống như 1 loại cừu hận rất khó giải tỏa. Can chi thọ tinh đều bị khắc chết nên xác suất mất mạng càng lớn (tôi nói xác suất vì còn do nghiệp lực, âm đức của mỗi người tác động hóa giải). Tui cũng giải thích rõ là thọ tinh không hẳn là dụng thần. Có khi dụng thần là thọ tinh; cũng có khi dụng thần khác thọ tinh. Thọ tinh không liên quan gì đến vượng suy của nhật can. Theo cách xem của tui thì cách xác định thọ tinh khác cách định dụng thần. PhieuDieu" Không cần biết cách xem của ông bạn ra làm sao, tôi chỉ cần biết là Tứ Trụ này Trẻ Con cũng biết là Thân khá nhược mà Thực Thương khá mạnh (vì Sửu trụ giờ hợp với Dậu trụ ngày hóa Kim nên Sửu Thổ bị mất, còn Nhật can Kỷ tử tuyệt ở lệnh tháng). Vậy mà ông bạn lấy Dậu Kim làm Thọ tinh để cho người này được sống thọ. Thân Nhược mà Thực Thương (Kim cục) mạnh xì hơi Thân mà ông dám bảo người này sống thọ. Ông Chôm được từ sách nào vậy hay ông tự phát minh ra điều này? Sau 3 hôm nữa mà ông không trả lời tôi sẽ đưa thêm Tuyệt Chiêu thứ 10 vào danh sách của tôi là : "Thân nhược phải lấy Thực Thương làm thọ tinh để xì hơi Thân có như vậy thì người này mới sống thọ - Của Phieu Dieu." " VULONG đã viết: “Thật may mắn là Tứ Trụ này Thân khá nhược vì Thực Thương mà Thực Thương khá vượng, mà rõ ràng Dậu là Thực Thương, ai dám chối cãi điều này (ngoài lũ Vịt Bầu). Còn tôi dùng từ "Phải" ở đây để nhấn mạnh đến cái vô lý, ngớ ngẩn, đi ngược lại với nền tảng xây dựng lên môn Tử Bình cho mọi người phải chú ý. Từ một ví dụ này và dựa theo Định Nghĩa Thọ Tinh của Phiêu Diêu thì cũng có thể nói thêm là Thân Vượng "Phải" lấy Kiêu Ấn hay Tỷ Kiếp làm Thọ Tinh để sinh phù cho Thân thì người đó mới sống Thọ thì có gì là sai. Còn nếu nói Thân vượng phải lấy Thực Thương, Tài hay Quan Sát làm Thọ Tinh hay Thân nhược phải lấy Kiêu Ấn hay Tỷ kiếp làm Thọ Tinh thì làm sao nó có thể trở thành Tuyệt Chiêu được cơ chứ." Một đệ tử của PhieuDieu là PChi đã phản pháo là: "Các bác đọc kỹ lại bài viết của anh PhieuDieu xem có câu chữ nào nói thọ tinh nhất định phải là thực thương không? Bó tay với các bác!" Ở đây vì Dậu là Thược Thương nên tôi nói là Thực Thương còn ông bạn PChi muốn nói chính xác hơn là "Nếu Dậu là Quan Sát hay Tài Tinh thì Thọ Tinh sẽ là Quan Sát hay Tài Tinh". Điều này quá đúng theo Thuyết Thọ Tinh của PhieuDieu rồi còn nghi ngờ gì nữa nên tôi mới sửa lại Tuyệt Chiêu này thành: "9 - Thân nhược phải lấy Thực Thương, Tài hay Quan Sát làm Thọ Tinh cũng như Thân Vượng phải lấy Kiêu Ấn hay Tỷ Kiếp làm Thọ Tinh thì người đó mới sống Thọ được - Của PhieuDieu ". Những ai có thể chứng minh được Thuyết Thọ Tinh của PhieuDieu đúng cũng như sự phản biện của tôi là sai hay không chính xác thì xin mời. Sau 3 ngày nữa tôi mới trình bầy tới Tuyệt Chiêu thứ 8 nếu như Tuyệt Chiêu này đã đi đến kết thúc.1 like
-
Bà Lan, 90 tuổi, đãng trí và lãng tai nhưng rất thích kể chuyện. Hễ có người đến thăm là bà lão kéo lại bằng được, để nghe bà kể về một thời chiến tranh oanh liệt đã qua với trí nhớ không còn nguyên vẹn của tuổi già. "Hồi đó nhiều máy bay lắm, bà cũng cầm súng bắn đùng đùng. Cả làng xuống hầm trú đạn", bà Lan cười móm mém kể. Nhưng một hồi sau, bà lại khóc sụt sùi: "Ba mẹ bà chết hết rồi, nhiều người chết lắm...", rồi run run kéo tà áo bà ba nâu cũ lên lau nước mắt. Bà Lan là một trong số hơn 100 cụ già vô gia cư đang sống ở chùa Lâm Quang, một ngôi chùa nhỏ của các ni sư ở quận 8, TP HCM. Vốn sống bằng nghề bán vé số, hành khất, hoặc đi lang thang, nay ốm yếu bệnh tật, không còn sức mưu sinh lại bước vào tuổi xế chiều, các cụ chọn chùa Lâm Quang làm nơi nương náu. Chăm sóc các bà cụ neo đơn Mỗi người một cảnh ngộ, các cụ bà không có gia đình tìm đến nương thân chốn cửa Phật để sống quãng đời ngắn ngủi còn lại. Ảnh: Ngoan Ngoan Đến sống ở chùa Lâm Quang từ 4 năm về trước, bà Nguyễn Thị Hà, 67 tuổi, quê ở Sóc Trăng cho biết, cha mẹ li dị từ khi bà là cô bé 10 tuổi. Mẹ đi bước nữa nên bà được giao cho cha nuôi dưỡng. Nhưng rồi cha cũng lấy vợ mới, không chịu nổi cảnh dì ghẻ con chồng, bà bỏ nhà đi bụi. Lên thành phố, cô bé Hà ngày ấy gia nhập một nhóm bạn bụi đời, ngày đi bán vé số, ban đêm về ngủ dưới gầm cầu. Cuộc sống tha phương cầu thực rày đây mai đó không được học hành và không lấy chồng nên về già bà cụ vẫn cô đơn một mình. "Hồi đó sống một mình riết cũng quen, nhưng giờ về già, nhất là lúc bệnh tật không có ai chăm sóc mới thấy tủi thân. Hai năm trước tôi bán vé số ngang qua ngôi chùa này, mấy cụ ở đây thấy thương nên rủ vào sống chung, thế là tôi ở luôn cho đến bây giờ. Trước đây tôi gầy lắm nhưng được các sư cô tận tình chăm sóc, cho ăn uống ngày 3 bữa nên giờ tôi mập hẳn ra", bà Hà kể. Sư cô Thích Nữ Huệ Tuyến, trụ trì chùa Lâm Quang cho biết, từ trước khi ni sư về tiếp quản ngôi chùa này đã thấy nhiều cụ già hành khất, bán vé số đến tá túc sống, ban ngày đi mưu sinh, ban đêm về ngủ. Thấy hoàn cảnh các cụ đáng thương, sư cô ngỏ ý mời các cụ ở lại đây để tiếp tục chăm sóc. Từ đó đến nay đã 15 năm và ngày càng có nhiều cụ già neo đơn, bệnh tật tìm đến nơi này nương nhờ cửa từ bi. Huỳnh Thị Kiều Thanh cười thật tươi. Ảnh: Ngoan Ngoan Một trường hợp ngoại lệ ở ngôi chùa này là em Huỳnh Thị Kiều Thanh, 19 tuổi, bị bại não từ hồi 8 tháng tuổi. Mặc dù còn trẻ nhưng do hoàn cảnh mất cha mẹ từ nhỏ nên Thanh được sư trụ trì nhận về nuôi. Căn bệnh bại liệt khiến cô bé suốt ngày phải nằm bất động trên giường, nhưng vừa nghe nói có ai đến thăm, Thanh nằng nặc đòi mọi người đỡ lưng ngồi dậy để được trò chuyện. Thanh tâm sự: "Nghĩ lại em thấy có nhiều người khác còn đáng thương hơn mình nên em tự hứa với lòng sẽ cố gắng sống và học hành thật tốt để cuộc đời có ý nghĩa. Như thế cha em ở suối vàng mới yên lòng được". Nhờ bàn tay chăm sóc, vỗ về của các ni cô, Phật tử cũng như các tổ chức từ thiện, nhà hảo tâm, bạn trẻ tình nguyện, cuộc sống của những con người kém may mắn ở chùa Lâm Quang hiện nay đã đỡ vất vả mà vui vẻ, lạc quan hẳn lên. Sư cô Huệ Tuyến cho biết thêm, cô vừa xây xong một ngôi nhà mới hơn cho các cụ. Hiện nay nhà chùa vẫn hàng ngày mở rộng cửa đón những người có hoàn cảnh kém may mắn đến nương nhờ. "Tất cả các cụ khi có giấy của chính quyền địa phương chứng nhận không có người thân chăm sóc hoặc mất sức lao động thì sẽ được nhà chùa nhận nuôi mà không phải đóng thêm bất kỳ khoản phí nào", vị ni sư nói. Có nhiều cụ bị bại liệt phải đút từng muỗng cơm. Ảnh: Ngoan Ngoan. Trò chuyện với VnExpress.net, Lê Huy, sinh viên năm cuối trường Đại học Kinh tế TP HCM cho biết, tuần trước đến đây, nhìn thấy cảnh các cụ phải vất vả nhóm củi nấu ăn mà thức ăn vẫn dai khó nuốt, nên Huy cùng với bạn quyên góp mua tặng 2 chiếc nồi áp suất lớn giúp các cụ nấu ăn thuận tiện hơn. "Các cụ ở đây cũng bằng tuổi ông bà em ở quê nhưng vất vả hơn nhiều, vì dù sao ở quê ông bà cũng có cha mẹ em chăm sóc. Vì thế tụi em bảo nhau tranh thủ những ngày được nghỉ học để đến đây phụ nấu ăn, rửa chén giúp các cụ vơi đi khó khăn", Huy nói. Đôi tay thoăn thoắt nhặt rau, vo gạo, rửa chén, lau dọn nơi nghỉ ngơi cho các cụ, nhóm nam nữ sinh viên thế hệ 8X trường Đại học Kinh tế cho biết, hàng tháng các bạn đều tổ chức đi đến những trung tâm, mái ấm có người già neo đơn, trẻ mồ côi, cơ nhỡ trong và ngoài thành phố để thăm hỏi, động viên giúp đỡ. "Thay vì rủ nhau đi chơi xả tress sau những ngày học hành căng thẳng, tụi em bảo nhau làm một việc gì đó giúp những người kém may mắn để cuộc đời sinh viên nhiều ý nghĩa hơn. Em chỉ mong ngày càng có thêm nhiều bạn trẻ chung tay thì sẽ giúp được nhiều người bớt khổ hơn", nữ sinh Nguyễn Trần Lan Thảo, khóa QT 789, Đại học Kinh tế TP HCM vui vẻ nói.1 like
-
Về tâm linh: "Nếu chưa biết, xin đừng phủ nhận" 13/09/2010 07:06:33 - Một chiếc lá cây khi sống tạo ra một trường sinh học quanh nó, khi mất đi trường sinh học đó vẫn được bảo tồn. Với con người, điều đó có tồn tại không? Nếu có, đằng sau sự sống sẽ không còn là cái chết nữa. Những câu hỏi và logic vấn đề đã đưa GS.TS Đoàn Xuân Mượu, nguyên Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ TƯ nghiên cứu sâu về lĩnh vực này. Sau hơn 30 năm thai nghén, ông vừa cho ra đời 3 tập sách mang tên: Con người và khoa học về tâm linh. Hiểu sự huyền bí sẽ không còn mê tín dị đoan Là giáo sư đầu ngành về vi trùng, virus, tại sao ông lại chuyển sang viết sách nghiên cứu "tâm linh"? Ông không sợ người ta cho rằng thế là mê tín dị đoan? Virus nhỏ lắm. Nó còn nhỏ dưới mức vi khuẩn, mắt không nhìn thấy được. Trong thế giới tự nhiên đã có lúc ta ghi nhận những thứ không nhìn thấy được là vô hình. Trong quá trình nghiên cứu, tôi thấy thế giới vô hình rất sống động, từ đó tôi liên tưởng đến đời sống con người ở những điều ta không nhìn thấy. Cùng với quá trình nghiên cứu y học tôi cũng bắt tay nghiên cứu những điều về con người mà xưa vẫn cho là "bí ẩn", là mê tín dị đoan... Dưới ánh sáng khoa học, những "bí ẩn" đó không còn chỗ nương thân cho những gì gọi là mê tín, kỳ quặc. Nói như thế theo tôi hiểu ông công nhận thế giới tâm linh là có thật? Tôi không dám làm trọng tài trong tất cả những vấn đề mà thế giới đang tranh luận, chưa ngã ngũ. Tôi chỉ là người đọc nhiều, tâm huyết đến lĩnh vực "đời người" và cố gắng đưa những gì chưa biết ra ánh sáng. Ông có thể nói rõ hơn? 3.000 năm qua, chúng ta tìm hiểu vũ trụ nhiều hơn tìm hiểu chính mình. Do đó, vốn hiểu biết về thế giới tự nhiên lớn hơn hiểu biết chính bản thân, kể cả nguồn gốc chính mình và những khả năng đặc biệt của con người. Trước đây, khoa học chính thống theo mô thức thực chứng duy lý, dựa trên nền tảng vật lý cổ điển của Newton không giải thích được các hiện tượng đặc biệt này. Nó không công nhận thế giới siêu hình và cho rằng nguyên tử là nguyên tố bé nhất. Đến đầu thế kỷ XX xuất hiện mầm mống thuyết tương đối của Enstein thuyết này nói rằng, ngoài nguyên tử là phần tử nhỏ nhất còn có sóng và hạt. Thuyết lượng tử từ đó cũng lên ngôi. Vì vậy, về phương diện xã hội nếu quảng đại quần chúng hiểu biết cơ sở khoa học của sự huyền bí thì sẽ không còn chỗ nương thân cho mê tín dị đoan đang lan tràn rộng rãi như hiện nay. Huyền bí không mâu thuẫn với tự nhiên, chỉ mâu thuẫn với sự hiểu biết của con người về quy luật tự nhiên. GS.TS Đoàn Xuân Mượu: Con người không phải từ linh trưởng mà phát triển lên. Sóng và hạt đều là những thứ ta không sờ, nắm, nhìn thấy được, phải chăng ông muốn nói đến bên kia cuộc sống của con người vẫn tồn tại một thế giới mà ta không sờ nắm được? Tôi cho rằng thế kỷ XXI có nhiều vấn đề tâm linh khiến nhiều người quan tâm. Bộ sách 3 cuốn về con người và thế giới tâm linh của tôi ra đời từ đó, ở đó tôi nhìn nhận con người dưới góc độ khác. Nguồn gốc loài người bắt nguồn từ năng lượng Với cách nhìn nhận của ông, thủy tổ của loài người không phải là khỉ? Dựa vào các thuyết về nguồn gốc con người: thuyết tiến hóa của Darwin, thuyết Mundasep và nhiều học thuyết khác thì thấy, con người không phải từ linh trưởng mà phát triển lên. Con người cũng như động vật, thực vật muôn loài đều do tạo hóa sinh ra, từ cái gọi là chân không vật lý mà theo Phật học thì gọi là "sắc sắc không không". Mọi sinh vật được tạo hoá sinh ra không phải một cách tình cờ, mà đều có ý định, có mục đích do "Ý thức vũ trụ". Ý thức có trước, kế hoạch sáng thế có sau, tất cả đều bắt nguồn từ năng lượng. Con người phải do năng lượng sinh ra, bắt đầu từ năng lượng lỏng, năng lượng đặc và thành hình hài con người ngày nay. Thực tế, bằng phương pháp phóng xạ xương người ở Nam Mỹ cách đây hơn 3 triệu năm, phóng xạ xương của loài linh trưởng sau khi tìm kiếm đều không chứng minh được nguồn gốc con người từ linh trưởng. Từ xa xưa xương bàn tay con người đã có hoạt động khôn khéo rồi. Thế giới nhiều nơi đã công nhận con người là sinh vật do vũ trụ sinh ra, con người là hình chiếu của vũ trụ. Theo logic của ông, con người sẽ được cấu tạo thế nào? Con người gồm 7 phần gồm thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần, trong đó chỉ có thể xác là hữu hình, được y học chính thống giảng dạy (đây là năng lượng đặc), 6 phần còn lại có độ đặc khác nhau. Năng lượng càng loãng càng nghiêng dần về phía linh cảm (năng lượng chưa phải tế vi). Khi sống, phần năng lượng đặc vẫn còn nhưng khi mất đi thì phần năng lượng đặc mất, các phần năng lượng khác vẫn tồn tại. Có phải nhờ những phần năng lượng không mất đi mà một số người có khả năng ngoại cảm không? Tuyến tùng ở những người đó phát triển cao hơn bình thường? Người bình thường ai cũng có tuyến tùng như là dấu vết của con mắt thứ 3 ở giống người tiền sử (hay còn gọi là giác quan thứ 6). Khả năng ngoại cảm không phải do một mình tuyến tùng mà còn liên quan đến các thân thể tế vi. Khả năng ngoại cảm do tạo hoá ban cho, không phải do luyện tập mà có, càng không phải do tuyến tùng phì đại. Khả năng chữa bệnh của một số nhà ngoại cảm, về nguyên tắc và lý thuyết, có thể có. Tuy nhiên không phải đã là nhà ngoại cảm thì đều có khả năng chữa bệnh. Là bác sĩ Tây y sao ông lại tin tưởng vào cách chữa có vẻ phi khoa học của các nhà ngoại cảm? Các nhà y học chính thống vốn chữa bệnh cho thân thể vật lý. Tuy nhiên, còn có những dạng bệnh do năng lượng sóng đứng gây nên, chúng đòi hỏi phải có cách tiếp cận khác gọi là y học đa chiều, trong chẩn đoán, tự chẩn đoán, điều trị, tự điều trị, khác với y học chính thống. Trong thực tế chắc có những người mạo danh ngoại cảm cần phải ngăn cản. Bộ sách của tôi là sự cố gắng lý giải những điều chưa biết. Cái biết vốn dĩ hữu hạn, cái chưa biết là cái vô hạn. Tuy nhiên, không phải vì chưa biết mà phủ nhận tất cả một cách hồ đồ. Xin cảm ơn ông! GS.TS Đoàn Xuân Mượu là Đảng viên hơn 60 năm tuổi Đảng, cán bộ lão thành cách mạng, là một trong 50 đảng viên đầu tiên được Đảng và Chính phủ chọn cử đi học đại học tại Liên Xô năm 1953. Từ năm 1973 - 1994, ông đã kinh qua các chức vụ Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ TƯ, Viện trưởng Viện Pasteur Đà Lạt, Viện trưởng Viện Văcxin Quốc gia, đại diện y tế Việt Nam trong Ban Thư ký Hội đồng Tương trợ kinh tế các nước XHCN (SEV) tại Liên Xô, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Chữ thập đỏ Việt Nam. Hà Mi (thực hiện)1 like
-
1 like
-
Hòn Ðá Ném Ði:
meiji liked a post in a topic by Thiên Sứ
Sự thật về người kỳ lạ ở Viện lão khoa Trung ương Tác giả: A Sáng Tuanvietnam.vn Bài đã được xuất bản.: 11 giờ trước Tôi muốn kể lại một cách trung thực câu chuyện này và bất lực khi muốn lý giải bản chất của nó. Cái gì đang diễn ra trong đời sống chúng ta? Cái gì đã làm cho chữ Hiếu và tiền bạc lại trở nên đối nghịch đến độ không thể cắt nghĩa? Nhiều lúc tôi lại rùng mình nghĩ rằng, một ngày nào đó chính cái thân xác của tôi già nua, bệnh tật, rồi nằm liệt một chỗ. Thế rồi một bàn tay ai đó bắt đầu chăm sóc cái thân xác bệnh tật của tôi, và rồi đến một ngày tôi biết sự thật... Câu chuyện bắt đầu từ phòng điều trị số 303, tầng 3, Bệnh viện Lão khoa Trung ương. Sở dĩ tôi có mặt ở đây vì đến trông nom ông anh cả. Sức khỏe bác cả nhà tôi chưa đến nỗi phải cần người chăm sóc từng ly từng tí khi nằm điều trị. Ông anh cả tôi chỉ bị viêm dây thần kinh mắt nên cần nằm truyền kháng sinh liều cao. Những lúc nằm truyền như vậy, tôi muốn ngồi cùng bác ấy trò chuyện cho đỡ buồn. Và trong vòng hơn 7 ngày ngồi trò chuyện với bác ấy tôi đã chứng kiến câu chuyện này. Trong phòng điều trị còn hai bệnh nhân, đều mắc căn bệnh tai biến mạch máu não, nằm liệt hoàn toàn. Cụ thứ nhất có tới 6 người con cả trai cả gái. Họ đến mỗi ngày 3 người, ngồi kín cả hành lang, trò chuyện rôm rả về bệnh tật của cụ, thỉnh thoảng họ cũng tranh cãi nhau về cách chăm sóc một người liệt. Tôi đã có một bài học - bài học tuyệt vời về lòng hiếu thảo của con người. Ảnh: tintuc.xalo.vn Tôi quan sát và thật sự cảm động, thầm nghĩ rằng, người cha này có phúc lớn, lúc ốm đau con cháu kéo đến cả đàn, tranh nhau chăm sóc. Có lẽ đời người như thế là viên mãn. Khi bệnh tật đang dần cướp đi tất cả thì cái "năng lượng" của con cháu trở nên tuyệt vời hơn bao giờ hết. Cụ nằm thở thoi thóp, hình như không còn biết gì nhưng tôi thấy rõ sự yên bình trong cách "ngủ" của cụ. Chỉ cần tay cụ động một chút thì ngay lập tức một người con reo lên: "Tay bố động rồi này, gọi bác sỹ ngay!", thế rồi họ chạy rầm rầm, í ới gọi bác sỹ... Khuôn mặt của mấy đứa con cụ thật rạng ngời, chứa chan hi vọng về sự hồi phục của cha mình. Đôi lúc một trong số họ quay sang cười nói với tôi: Cụ nhà tôi lúc còn khỏe là tham việc lắm, chẳng bao giờ cụ chịu ngồi yên, 84 tuổi mà vẫn cứ đòi ra đồng, nếu không bị tai biến thì giờ này cụ đang ngoài ao cá... Họ nói hồn nhiên, say sưa như muốn quên đi hiện tại - quên đi rằng cha mình đang bị liệt. Có lẽ họ muốn quay về quá khứ, về cái ngày mà cha họ còn khỏe, đơn giản vì họ yêu cha mình thật sự. Đó là chuyện của cụ thứ nhất, ngay bên cạnh cũng một cụ nằm liệt như thế nhưng xem chừng nặng hơn bởi cụ hầu như không cử động chút nào, chỉ khò khè thở. Chỉ nhìn qua cũng biết được cụ thuộc tầng lớp giàu có vì xung quanh giường của cụ toàn những thứ đắt tiền: đệm đặc chủng cho người bị liệt (loại này bệnh viện không có), máy thở đặc chủng (nghe nói họ thuê riêng) và vô vàn thứ đặc biệt khác. Nhưng đặc biệt hơn chính là người chăm sóc cụ - chỉ duy nhất một thiếu phụ chừng 40 tuổi. Trái ngược với sự đông đúc, ầm ĩ của người nhà bệnh nhân bên cạnh, người thiếu phụ này chăm sóc bệnh nhân một cách kỳ lạ. Sự kỳ lạ ở chỗ chị ấy hết sức thành thạo mọi việc: lau rửa, cho ăn, kiểm tra, bôi thuốc... nhưng kỳ lạ hơn chính là cách trò chuyện cực kỳ thân mật của chị. "Con cho ông ăn nhé! Trời ơi, chân ông lại loét rồi này, từ từ nhé con cho ông nằm nghiêng nhé! Ông thấy thoải mái hơn không!?" - cứ thế vừa làm chị ấy vừa nói thật âu yếm. Tình yêu thương lẫn nhau là món quà lớn nhất của cuộc sống. Ảnh: tin247.com Tôi xúc động với bệnh nhân kia bao nhiêu thì thán phục đến rớt nước mắt với chị ấy bấy nhiêu. Tôi tự nhủ rằng, cụ này còn phúc hơn cụ kia trăm lần. Có được một cô con gái thế này trên đời thật hiếm. Đám con cháu của cụ bên kia chỉ chiếm số đông, nhưng đa phần vụng về không thành thạo việc chăm sóc người nằm liệt, đặc biệt là công đoạn thay "bỉm", hoặc ống nước tiểu được gắn liền với bộ phận sinh dục của cụ. Họ loay hoay, tranh cãi, đôi lúc làm rối tung mọi việc. Những lúc như thế người thiếu phụ ở giường bên kia liền hướng dẫn, hoặc tự tay giúp họ. Chị vừa làm vừa giải thích: Muốn thay phải nâng người cụ lên thế này, lúc lau phải dùng khăn thế này, dùng loại dung dịch này, cái ống nước tiểu phải lắp thế này... Bàn tay khỏe mạnh và rất khéo léo của chị thật thành thạo công việc. Đám con cháu chiếm số đông ấy cứ ngượng nghịu đứng ngẩn tò te. Tôi cũng ngẩn tò te nhìn chị làm cái công việc hết sức khó khăn ấy. Tôi lại thầm nghĩ rằng, có lẽ cha chị ấy đã nằm liệt lâu nên mới có nhiều kinh nghiệm chăm sóc như vậy. Nhưng đó mới chỉ là kinh nghiệm, cái làm tôi xúc động chính là cách chị trò chuyện với người bệnh. Có một cái gì đó thật sự yêu thương - tình yêu thương kiên trì vô cùng của chị. Tôi cũng tò mò hỏi chị về cụ: "Ông nằm liệt bao lâu rồi chị?". "3 năm rồi, đây là lần đột quỵ thứ hai..." - chị trả lời thản nhiên. Tôi rất thắc mắc rằng vì sao đã 5 ngày liền tôi không thấy bất cứ ai ngoài chị đến chăm nom cụ, nhưng tôi lại nghĩ chuyện này không nên hỏi. Nhưng tò mò quá không đừng được, tôi thốt lên: "Có mỗi mình chị chăm sóc cụ thôi à?". "Ừ, họ bận cả..." - chị trả lời nhát gừng ý như không muốn nói chuyện này, tôi đành im lặng và tiếp tục quan sát người phụ nữ đáng ngưỡng mộ này. Ngày hôm sau, vẫn một mình thiếu phụ ấy bên cụ. Lần này chị đang loay hoay chuyển tư thế nằm cho cụ. Dù khá khoẻ mạnh, nhưng việc vần một bệnh nhân nằm liệt hoàn toàn và khá béo như thế cũng khiến chị toát mồ hôi. Tôi nhanh nhảu đến giúp chị thì ôi thôi! Cái lưng của cụ đã bị loét ra nhiều chỗ, đặc biệt là hai cái mắt cá chân thì gần như thối rữa dù người bệnh nằm trên cái đệm đặc biệt có tác dụng chống loét. Khi đã vần được cụ nằm nghiêng, chị bắt đầu dùng thuốc khử trùng cẩn thận lau những chỗ loét ấy. Thú thực tôi phải cố gắng lắm mới đủ sức đứng nhìn chị lau rửa. Chị vừa làm vừa nói âu yếm: Khổ thân chưa, chắc đau lắm ông nhỉ!? Con đã bảo rồi, lúc nào đau thì mở mắt để con biết... Khổ thân ông của con quá...! Cứ thế chị nỉ non, như nói cho người bệnh, như nói cho chính mình nghe. Người bệnh thì hoàn toàn như không biết gì, ngoài việc ngậm cái ống bơm thức ăn ở miệng, đôi mắt vẫn nhắm nghiền, những vết loét kia hình như không phải trên da thịt mình... Tôi bắt đầu chuyển từ sự xúc động sang thắc mắc. Đã 6 ngày nay chỉ một mình chị ấy chăm sóc cha mình, mà đã 3 năm nay như vậy thì thật đáng khâm phục. Có lẽ anh chị em nhà chị ấy bận hoặc giao phó công việc không muốn làm này cho mình chị. Tôi đã từng chứng kiến nhiều gia đình đông anh chị em có cha mẹ bị ốm. Họ đùn đẩy nhau, trách móc nhau, tố cáo nhau... tất cả chỉ muốn tránh cái việc chăm sóc bậc sinh thành ra mình. Có người còn trốn biệt như việc đó không liên quan đến mình. Và đôi khi chính tôi cũng cảm thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm với cha mẹ. Tôi thật sự khâm phục người thiếu phụ này. Bỗng chốc căn phòng điều trị vốn nhiều sự não nề trở nên ấm cúng lạ thường. Ông cả nhà tôi cứ ngồi trầm ngâm nhìn người thiếu phụ. Đôi mắt giàu kinh nghiệm của ông hình như cũng đang có cùng suy nghĩ như tôi. Nhiều lúc bẵng đi vài tháng tôi thật sự quên rằng mình đang có một người mẹ già ở quê, tất nhiên chính tôi lại tự biện hộ ngay rằng, mẹ mình còn khoẻ, mình bận rộn thỉnh thoảng quên cũng chẳng hề hấn gì, công việc mà... Thỉnh thoảng mẹ tôi chủ động gọi điện hỏi thăm tôi mới giật mình thấy xấu hổ. Có lẽ lâu quá tôi không gọi về nên mẹ lo lắng, câu đầu tiên bao giờ mẹ tôi cũng hỏi: Con bận lắm à? Mỗi lần như vậy tôi lại thấy mình thật tồi tệ, chưa làm tròn chữ Hiếu với bậc sinh thành. Và bây giờ tôi chứng kiến những con người này: một đàn con đông đúc, tranh nhau chăm sóc cha; một người thiếu phụ kỳ lạ, lúc nào cũng âu yếm chăm sóc người bệnh, tôi chưa hề thấy một dấu hiệu nào về sự chán nản, thất vọng, hay cáu gắt trên khuôn mặt chị ấy suốt 6 ngày liền. Bằng ấy đủ để chứng minh rằng, sự cẩn trọng, tỉ mỉ, âu yếm của chị là thật. Tôi suy nghĩ miên man về điều này. Tự nhiên thấy mình thật sự bé mọn vì luôn hoài nghi những điều xung quanh. Báo chí đã viết nhiều về những sự bất hiếu, vô đạo đức, đối xử lạnh lùng... với người thân khi họ mắc bệnh, hoặc quá già. Vì thế tôi luôn mang trong đầu óc phán xét, hoài nghi mỗi khi tiếp cận những hoàn cảnh tương tự vậy. Nhưng lần này tôi đã có một bài học - bài học tuyệt vời về lòng hiếu thảo của con người. Tôi vẫn miên man suy nghĩ và ngắm nhìn người thiếu phụ đầy ngưỡng mộ này thì đột nhiên từ cửa phòng bệnh xuất hiện một người phụ nữ. Chị ta ăn mặc sang trọng, trang sức đeo khắp người, chỉ nhìn qua cũng biết là người giàu có. Chị ta đi thẳng đến giường bệnh, một tay bịt mũi hất hàm hỏi người thiếu phụ: "Cụ thế nào? Có khá hơn không?". Người thiếu phụ nhoẻn cười: "Vẫn thế, được cái không bị trớ lúc ăn...". Chị ta cũng không thèm ngồi xuống chỉ đứng từ xa nhìn người thiếu phụ đang lau rửa chỗ loét, tay vẫn bưng lấy mũi, khuôn mặt sang trọng hằn rõ sự khó chịu. Cũng chỉ vài phút sau chị rảo bước ra ngoài, rồi đi thẳng. Lúc này người thiếu phụ mới nói: "Con gái cụ đấy, thỉnh thoảng mới đảo qua, họ bận lắm...". Tôi trố mắt hỏi dồn: "Thế còn chị?". Người thiếu phụ mắt vẫn không rời những chỗ loét, bàn tay mạnh khoẻ và khéo léo của chị vẫn lau rửa và thủng thẳng trả lời: "Không, tôi là người làm thuê thôi. Tôi làm nghề này lâu rồi, nhưng chắc sang năm nghỉ, họ nói mãi tôi mới ở lại đấy...". Tôi thấy mình như bị một cái tát vào mặt! Hoá ra là vậy, tôi đã nhầm và tôi không có được bất cứ bài học gì. Tôi nhầm! Lạy Phật tôi nhầm lẫn!1 like -
hỡi bông hoa có không hương và kém sắc. Quý cô có bị đá thì cũng là may đấy, chứ ko thì gia đình tan nát. Hãy học hát bài "Em sẽ là người đến sau" đi nhé. Hãy trải nghiệm tình yêu và tìm đến người cũng vậy. Như thế sẽ tốt hơn cho cả 2. 2012 kể ra cũng có cơ hội, nhưng sợ là ko thành hôn được, đến 2014 thì chắc cú lên xe hoa. Trước tiên, hãy học làm 1 bông hoa có hương thơm, có sắc mầu. Sau đó là học làm vợ và làm mẹ. Số của quý cô về chuyện hạnh phúc nói chung là nát bươm như xơ mướp. Vì thế hãy học, hành, tu luyện đi là vừa. Đời ko phải lúc nào cũng phải sống thật, kịnh sỹ lại hay hơn là sống thật đấy, có khi lại còn được người đời khen là có tính nghệ thuật, chẳng mấy mà thành nghệ sỹ.1 like
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Với khài niệm và cách hiểu về "khoa học" hiện nay thì mọi thứ phải được kiểm chứng bằng thực nghiệp lặp lại, phải được nhận thức bằng trực quan hoặc thông qua các phương tiện kỹ thuật. Nhưng thực tại hiển nhiên không phải lúc nào cũng cho phép những phương tiện nhận thức được nó. Trong tương lai con người sẽ phải thừa nhận những tương tác có thực trên thực tế qua những hiện tượng quan sát được và suy luận ra những thực tế tồn tại tạo ra những tương tác ấy. Nó tương tự như việc từ những tương tác làm sai lệch quỹ đạo của sao Hải Vương để suy luận ra sự tồn tại một hành tinh khác là sao Diêm Vương. Nhưng trong trường hợp mà tôi đề cập đến thì có thể dùng hình ảnh như thế này - con người sẽ chỉ suy luận ra sao Diêm Vương và không thể "nhìn thấy" sao này. Bởi vậy, triết học không thể chết, mà nó là một trong những cơ sở để tiếp tục phát triển của các lý thuyết khoa học được hình thành và được minh định tính chân lý trên cơ sở tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng. Một ví dụ cho trường hợp này là: Vật chất không tự nhận thức được nó. Vậy cái gì nhận thức được tất cả mọi sự vận động của vật chất? Linh hồn chăng? Tâm linh chăng? Nhưng chính linh hôn và tâm linh lại là đối tượng được nhận thức thì nó chưa phải là bản chất của sự nhận thức. Nếu như con người xác định rằng có một thực tại nhận thức đang tồn tại thì đó chính là một thực tại không thể nhận thức bằng mọi phương tiện. Mà người ta chỉ suy luận ra sự tồn tại của nó trong một giả thuyết khoa học. Đây là điều kiện chấp nhận một lý thuyết thống nhất.1 like
-
Trong đời có lần trắng tay [mấy lần thì không biết], sau này theo nghiệp kinh doanh là đắc cách. Hi vọng xem đúng. Cố gắng kiên nhẫn đến năm 33 tuổi vận sẽ hanh thông thôi. Chứ bây giờ cứ lật tới lật lui lá số tử vi cũng vậy thôi ah, thời gian cũng không thể trôi nhanh hơn. Ah cho hỏi kì vừa rồi có đậu cao học?1 like
-
XH này đúng là thế. Tôi cũng gặp nhiều tình huống tương tự, lòng tự trọng và những người đó họ luôn xác định chỉ lấy đúng thành quả của họ làm ra, không hơn, không kém. Tuy nhiên trong xh có những kẻ ra tay vơ vét đến những xu dính túi cuối cùng của ngay nhưng con người bần cùng nhất. "ác báo ác giả", câu đúc kết này sẽ không sai tuy nhiên có khi nó khôg ứng nghiệm ngay trong 1 hoặc 2 thế hệ mà có hậu quả lâu dài về sau. Chứng kiến những gia đình giàu có, quyền chức, tham ô... nhưng con cái nghiện ngập...gia đình đang tan nát mà thấy "Ông trời có mắt". Tuy họ đã nhận ra được nhân quả nhưng đã quá muộn. Ông cha ta có câu "Con hơn cha là nhà có phúc", duy trì được ý nghĩa câu nói này và thực hiện nó tôi nghĩ xh sẽ trở lên tốt đẹp.1 like
-
Một câu chuyện đang đọc và suy nghĩ.1 like
-
Ai xem cho Duanh nói vậy thế nhỉ :lol: Làm ntpt phải đi lục lại topic xem mình có nói "bậy" không :D "Vượt rào" thì chắc có :D1 like
-
Mình cũng đọc được một bài viết do một khách du lịch viết về Việt Nam, vị khách đó đi mua bánh mỳ, lúc ấy giá của một cái bánh mỳ pate là 5000, vị khách chỉ có 10 ngàn nên đưa cho người bán bánh mỳ 10 ngàn và chỉ lấy một cái nhưng người bán bánh mỳ đuổi theo nhất quyết đưa cho vị khách hai cái, điều đó khiến người khách Tây ngạc nhiên và khâm phục người bán bánh mỳ Việt Nam "đói cho sạch, rách cho thơm"1 like
-
"Các Tuyệt Chiêu Nổi Tiếng Trong Tử Bình Theo yêu cầu của ban điều hành diễn đàn (tuvilyso.net) và một số người đã không công nhận đã đưa ra các Tuyệt Chiêu này hoặc họ không muốn mất uy tín..., vì vậy ở đây tôi viết lại và chỉ đưa nội dung của các Tuyệt Chiêu để mọi người suy ngẫm và cảnh giác trước những Phát Minh, Sáng Tạo mới mà nội dung của chúng đi ngược lại với nền móng xây dựng lên môn Tử Bình. Hy vọng mọi người cùng tôi sưu tầm tiếp các Tuyệt Chiêu mới để bổ xung vào danh sách này, mục đích nhằm giúp mọi người tránh được những sai lầm khi học và nghiên cứu Tử Bình. 1 - Các trạng thái của 5 Can âm được xác định giống như 5 Can dương và Can Chi trong cùng trụ không thể sinh được cho nhau. 2 - Không có khái niệm "Dụng thần thay đổi". 3 - Tất cả các giờ sinh trên thế giới phải đổi sang giờ Bắc Kinh thì mới đúng. 4 - Địa chi có thể dẫn hóa cho tổ hợp của các địa chi hóa cục. 5 - Cách hóa Thổ dụng thần phải là Mộc hay Thủy... 6 - Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa vẫn khắc được các can hay chi ngoài tổ hợp và ngược lại. 7 - Chi đại vận không bị hợp vẫn bị các chi trong Tứ Trụ xung hay khắc. 8 - Thân nhược phải lấy Thực Thương, Tài hay Quan Sát làm Thọ Tinh cũng như Thân Vượng phải lấy Kiêu Ấn hay Tỷ Kiếp làm Thọ Tinh thì người đó mới sống Thọ được. 9 - ....." Tôi đã viết lại nội dung bài này để tránh "những vấn đề nhậy cảm...." mà tôi nghĩ là uy tín hay danh dự của những người đưa ra các Tuyệt Chiêu này nhưng bây giờ thì tôi mới biết điều suy nghĩ này là không phải bởi vì bài viết này và nick của tôi ở tuvilyso.net đã bị xóa. Điều này chứng tỏ ban điều hành của tuvilyso.net cự kỳ sợ tên của chủ đề này chứ không phải sợ tên của các Cao Thủ được nêu ra ở đây mất uy tín. Tại sao lại như vậy? Chả nhẽ họ sợ nội dung của các Tuyệt Chiêu này tới được những người yêu thích Tử Bình hay sao? Nếu đúng như vậy thì mục đích của trang web tuvilyso.net là gì ? Các câu hỏi này dành cho bạn đọc tự trả lời.1 like
-
1 like
-
Ờ chị chỉ khuyên em muộn lập gia đình để vợ chồng bền duyên. Còn muốn em vẫn có thể lấy sớm mà. Chẳng lẽ giờ nói với gia đình "Không được!!! tử vi bắt con 32 tuổi mới cưới!!!" [Vô lý hỉ :D] Thiệt là "Cá trong lờ đỏ lơ con mắt Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô" Còn chuyện "kia" thì có cách để không xảy ra muh hỉ?! nếu mình không muốn Chị có câu này muốn khuyên em: "Nếu đã biết đó là sai lầm và không đúng thì chỉ nên CHO PHÉP MÌNH PHẠM MỘT LẦN THÔI"1 like
-
Năm Mão thì sinh vào mùa Xuân hoặc Đông là tốt nhất!1 like
-
Ufo?
Rin86 liked a post in a topic by Thiên Sứ
Video: 2 UFO "sánh đôi" ở miền bắc nước Anh 10/11/2010 06:40:08 - Tối thứ Hai vừa qua, hai vật thể bay không xác định (UFO) đã phát hiện gần như cùng lúc trên bầu trời ở thành phố Scarborough, Anh. TIN LIÊN QUAN Video: UFO phát sáng trên bầu trời Hà Nội Rộ tin đồn UFO bắt cóc cả làng ở Trung Quốc UFO hình tam giác trên bầu trời nước Anh Xem UFO xuất hiện trên bầu trời bang Virginia, Mỹ Chỉ trong 3 tuần vừa qua, UFO đã được phát hiện tại Rotherham, South Yorks, Harrogate, North Yorks. Những khu vực này đều nằm ở miền bác của nước Anh. UFO được phát hiện trước đó là vào tối ngày Chủ Nhật (7/11) trên bầu trời thị trấn Osgodby, gần thành phố Scarborough. Nick Pope, cựu chuyên gia về UFO của Bộ Quốc phòng Anh (MOD), cho biết: “Trước đây, UFO thường xuất hiện nhiều nhất ở bang Arizona (Mỹ), nhưng trong thời gian gần đây, dường như số lượng UFO được ghi nhận xuất hiện trên bầu trời miền bắc của nước Anh còn nhiều hơn ở Arizona”. Theo The Sun, hai UFO xuất hiện trên bầu trời ở thành phố Scarborough gần như cùng một lúc. UFO thứ nhất có đuôi như một sao chổi, nhưng UFO thứ 2, xuất hiện sau đó ít giây, có hình tròn như một đĩa bay. Ông Paul Sinclair, người đã gửi đoạn video dưới đây cho The Sun, nói: “Con rể của tôi đã ghi hình được 2 UFO bay trong vài phút trước khi chúng biến mất. Một UFO có đuôi như sao chổi, trong khi, UFO còn lại có hình một chiếc đĩa bay. Nhiều người khác cũng thấy vật thể này. Chắc chắn, có một điều bất thường nào đó đang xảy ra tại đây”. Lê Hương (Theo The Sun)================================ LẠM BÀN CỦA THIÊN SỨ Cứ nước nào ngoi lên thành siêu cường thí cứ y như rằng có UFO xuất hiện. Trước đây - dưới thời "Cách mạng văn hóa" của Người cầm lái vĩ đại, chẳng thấy cái UFO nào xuất hiện. Bây giờ nó ở đâu xuất hiện ầm ầm. Còn với Anh Mỹ Nga thì thôi khỏi nói, cứ gọi là hồ sơ về UFO dày cả thước tây. Nhưng có điều lạ khiến Phó thường dân như Thiên Sứ tôi théc méc là: "Với mắt thường dân chúng còn thấy UFO, vậy lực lượng không quân hùng mạnh của các siêu cường ấy đâu mà không lên bắt tay, hỏi chuyện vui vẻ, mà im re vậy? UFO bay vào không phận các siêu cường như đi chợ vắng chủ, nhảy múa rồi đi ra tỉnh queo?"1 like -
Người mệnh Liêm trinh thường cao lớn, xương to, da thô và thường có nếp nhăn sớm so với tuổi bạn ạ. còn người mệnh có Phá quân thì trông đẫy đà, đầy đặn theo mình biết thì người phá quân không bị nếp nhăn sớm bạn ạ.1 like
-
Dạ cháu chào chú Thiên Sứ: Có lẽ là mỗi người có mỗi quan điểm và nhìn nhận sự việc theo ý hiểu của mình, việc xét xử Nghĩa là cần thiết và càng nặng càng tốt để răn đe xã hội Em chào anh PhamHung: Đầu tiên là em không giám nhận là ngài, em chưa bao giờ nói là không nên xử tử Nghĩa, và quan điểm của em từ đầu tới cuối là vẫn phải xử Nghĩa đúng với tội mà hắn gây ra Việc hắn Bình Thản thì lúc đó còn gì nữa đâu mà chả Bình Thản, mất hết tất cả rồi, chấp nhận tất cả rồi, dù gì đi nữa cũng chấp nhận hết, các cánh cửa đóng chặt hết rồi, thì chả nhẽ lại khóc tu tu ra để cầu xin sự tha thứ, cầu xin không xử tử hình chăng, trước tòa hôm xử, Nghĩa đã nói lời nhận lỗi trong đoạn video tung lên mạng rồi đó thôi, dù chết có trăm ngàn lần cũng không hết tội, con người khi vào cái tâm lý trống rỗng rồi thì người khác muốn làm gì thì làm, họ phản ứng làm gì nữa1 like
-
Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Ðến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ. Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi". Ði đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù. Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì ăn hối lộ, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sach mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: "Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta". Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất. Trong trường hợp này, chỉ có gia đình ông Ba là có thể cứu sống được nghĩa, điều quan trọng là ông Ba có bỏ được hòn đá trong tay mình hay không Đồng ý với bạn tuyết mai xã hội nó là thế, phải có tốt có xấu, như cái avatar của bác thiên sứ vậy cũng có 1 nửa là đỏ, 1 nửa là xanh, nhưng là con người thì phải lên tiếng và bảo vệ cái tốt, cái chính nghĩa, ai cũng thế cả mà thôi, mỗi người mỗi ý, mà không biết thế nào là đúng thế nào là sai "Cuộc đời khác chi cõi mộng, hư hư thực thực, đúng đúng, sai sai"1 like
-
1 like
-
1 like
-
Ohhh, anh Hoc Tro sợ em nó tranh mất mấy nàng hay sao, mà xúi em í kỳ thế!!! :D Em ơi, em chỉ cần cười thôi, không cần nói gì đâu, cũng có hàng hàng tá tá...1 like
-
Đào bông gặp cự kỵ thì làm ăn được gì đâu.thêm liêm nữa thì có khác nào Tình bay xa. Cứ xem cô nào, cao ráo, trắng, xinh thì cưa thôi. ko quan tâm xuất thân, gia cảnh nhé. chậm nhất 31 tuổi sẽ thành phu thê, nên cứ mạnh cần mà dật, mạnh miệng mà cưa thôi.1 like
-
tìm tuổi tân dậu thì hay hơn!1 like
-
Xem qua hai bài viết của tác giả, tôi biết tác giả muốn nói gì. Nhưng tôi cảnh báo sự tụt hậu của tri thức "pha học" vốn nghèo nàn bi những cách giải thích dốt nát kéo xuống. Tôi chi lưu ý rằng: Tất cả mọi sự tồn tại khách quan đều là đối tượng của khoa học. Một cách giải thích được coi là khoa học phải lý giải một cách hợp lý những vấn đề liên quan đến nó. Đấy cũng chỉ là một trong điều kiện cần.1 like
-
Bách Việt Tiên Hiền Chí hodovietnam.vn 05/04/2007 Giới Thiệu "Bách Việt Tiên Hiền Chí" là một tác phẩm quan trọng cho những ai muốn tìm hiểu về nguồn gốc của chủng tộc Bách Việt ngày xưa. "Theo bộ đại từ điển Từ Hải Hợp đính, gọi tắt là Từ Hải, viết bằng lối chữ phồn thể, xuất bản tháng 3 năm 1947 (tái bản tháng 2 năm 2003) thì: "Bách Việt (chữ Việt bộ Tẩu), tên của chủng tộc, cũng viết là Bách Việt (chữ Việt bộ Mễ). Theo sách Thông Khảo Dư Địa Khảo Cổ Nam Việt: Từ Ngũ Lĩnh về phía Nam, cùng thời với Đường, Ngu, Tam Đại, là nước của Man Di, ấy là đất của Bách Việt." "Bách Việt (chữ Việt bộ Tẩu), tên của chủng tộc, cũng viết là Bách Việt (chữ Việt bộ Mễ). Theo sách Thông Khảo Dư Địa Khảo Cổ Nam Việt: Từ Ngũ Lĩnh về phía Nam, cùng thời với Đường, Ngu, Tam Đại, là nước của Man Di, ấy là đất của Bách Việt." Từ Hải còn ghi chú thêm: "Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, bảy, tám nghìn dặm, Bách Việt sống lẫn lộn với các dân tộc khác, nhưng luôn luông giữ cá tính của dân tộc(Bách Việt tạp cư, các hữu chủng tính). Xem như vậy, Bách Việt , từ núi Ngũ lĩnh đổ xuống phương Nam, vừa là nước, vừa là sắc dân, sự hiện diện đã được ghi nhận, từ thời thượng cổ Đường ( vua Nghiêu), Ngu ( vua Thuấn), Tam Đại ( Hạ, Thương, Chu). Và, người Bách Việt có cá tính riêng và luôn luôn giữ cá tính nầy. Đúng với sự khẳng định của Nguyễn Trãi, trong bài Bình Ngô Đại Cáo: Sơn xuyên chi phong vực ký thù Nam Bắc chi phong tục diệc dị Sơn hà cương vực đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Trần Trọng Kim - Bùi Kỷ dịch "Bách Việt Tiên Hiền Chí", như tựa đề, là một công trình sưu tập, nghiên cứu, ghi lại một cách công phu hành trạng, công nghiệp, ngôn từ, tư tưởng của các danh nhân người Bách Việt , trải qua nhiều triều đại của Trung Hoa. Những danh nhân này, với phong cách cao quý, tài năng vượt bực, tư tưởng cao siêu, đã là thành phần nồng cốt xây dựng nên nền văn minh, mà ngày nay, thế giới gọi là văn minh Trung Hoa. Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam đã sưu tập được hai bộ "Bách Việt Tiên Hiền Chí". Một bản in năm Tân Mão (1831), đời Thanh, chữ lớn, khắc đẹp, nơi tên tác giả đề là Thuận Đức Âu Đại Nhậm (ông Âu Đại Nhậm, người ở Thuận Đức). Bản thứ hai, in vào năm Dân Quốc thứ hai mươi sáu (1936), chữ nhỏ, bản khắc có nhiều chữ không rõ, nơi tên tác giả đề là Minh Thuận Đức Âu Đại Nhậm Trinh Bá soạn (soạn bởi ông Âu Đại Nhậm, tự là Trinh Bá, người ở Thuận Đức, đời nhà Minh). Như vậy, tác giả của sách là Âu Đại Nhậm. Theo Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu, Âu Đại Nhậm, tên chữ là Trinh Bá, người huyện Thuận Đức, tỉnh Quảng Đông, làm quan đời Gia Tĩnh, triều Minh, đã từng giữ những chức vụ huấn đạo Giang Tô, đổi làm học chánh Quang Châu, rồi về triều làm bác sĩ Quốc Tử Giám, chúc vụ sau cùng của ông là hộ bộ lang trung ở Nam Kinh. Phần lớn cuộc đời làm quan của ông là ở đất Bách Việt cũ, nên ông có nhiều cơ hội tìm hiểu, sưu tập những chứng tích về tiên hiền Bách Việt. Vả chăng, Âu Đại Nhậm, gốc tích từ Thuận Đức, Quãng Đông, cũng là người thuộc gốc Bách Việt. Thuận Đức là một huyện thuộc Quảng Đông, phía Đông Nam huyện Nam Hải, gần giáp Giang Tây, chạy ra tới biển. Tên huyện được đạt thời nhà Minh, tiếp tục giữ dưới thời nhà Thanh. Đến đời vua Quang Tự nhà Thanh, Thuận Đức được mở rộng thành một hải cảng lớn, nỗi tiếng là nơi sản xuất và xuất cảng tơ, lụa, vân, sa... (Xin đừng lầm với phủ Thuận Đức thuộc tỉnh Trực lệ. Phủ nầy được lập vào đời nhà Tống, vào thời Kim, Nguyên đổi thành bộ, đến đời Minh đổi lại là phủ. Nhà Thanh vẫn giữ nguyên theo nhà Minh. Đến thời Dân Quốc, tên Thuận Đức bị bãi bỏ. Như vậy, bộ "Bách Việt Tiên Hiền Chí" được viết bởi một người gốc Bách Việt, từng làm quan nhiều năm ở đất Bách Việt cũ, viết về tiên hiền Bách Việt. Tóm tắt, đây là bộ sách của người Bách Việt viết về tiền nhân Bách Việt. Nhận thấy tầm quan trọng của bộ "Bách Việt Tiên Hiền Chí", đối với dân tộc Việt Nam (là một trong Bách Việt), nhất là trong giai đoạn nầy, giai đoạn mà Việt tộc đang phải chống chọi với những cuộc xâm lăng văn hóa từ nhiều phía, Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam đã đề nghị giáo sư Trần Lam Giang phiên dịch bộ sách nầy ra Việt ngữ và giáo sư đã mau mắn nhận lời, coi đây là một công tác mà anh em giao phó, để giúp cho các thế hệ trẻ có thêm tài liệu xác tín khi tìm hiểu về quá khứ của dân tộc. Người xưa có câu "chu tầm chu, mã tầm mã", nghĩa là "những người sống trên thuyền thì tìm đến và sống với những người sống trên thuyền; giống dân sống trên lưng ngựa thì tìm đến và sống với giống dân sống trên lưng ngựa." Câu nầy phân biệt rõ rang sự khác nhau giữa hai chủng tộc, Việt ở phương Nam và Tàu ở phương Bắc; giữa giống dân sống định cư, làm ruộng trên vùng sông nước và giống dân sống du mục trên lưng ngựa, khác nhau từ nếp sống, phong tục tập quán đến văn hóa. Trong Kinh Thi, với thiên Chu Nam và Thiệu Nam, Khổng Tử đã ca tụng nền văn minh rực rỡ của phương Nam và vị vạn thế sư biểu của Bắc tộc đã học hỏi rất nhiều ở nền văn minh nầy, đem áp dụng và đặt ra những quy luật xã hội cho các giống dân phương Bắc... Trong kinh Xuân Thu, Khổng Tử đã ghi lại bao nhiêu trường hợp cha giết con, cha cướp vợ của con, con cướp vợ của cha, anh em dâm loạn với nhau, bề tôi giết chúa, trong giới vua chúa quý tộc Trung Hoa. Điều nầy, chứng tỏ rằng, trong khi Bách Việt ở phương Nam đã đi vào đời sống nề nếp của văn minh nông nghiệp, thì Bắc tộc Trung Hoa vẫn còn dã man với nếp sống du mục. Khổng Tử đã đem những gì nghiên cứu, sưu tập, học hỏi của nền văn minh Bách Việt phương Nam, đạt để thành những quy luật, trật tự xã hội cho phương Bắc. Bởi vậy, ông mới xác định công việc của ông là "thuật nhi bất tác" Trải qua các triều đại Tần, Hán, Đường, Tống, Bắc tộc Trung Hoa đã xâm lăng, thôn tính được đất đai Bách Việt, nhưng ngược lại đã bị nền văn minh Bách Việt đồng hóa. Hởi ơi, Bách Việt ngày nay còn lại những dòng tộc nào? Có còn chăng là Việt Văn Lang trên mảnh đất hình chữ S ven bờ Đông Hải. Lịch sử của Việt Văn Lang là chống chọi triền miên với các cuộc xâm lược của Bắc tộc, để gìn giữ nền độc lập, tự chủ cho mảnh đất cuối cùng của Bách Việt ở cõi trời Nam. Ngày nay, người Đài Loan xác định nguồn gốc Bách Việt của họ, gồm Điền Việt từ Vân Nam, Việt Đông từ Quảng Đông, Quảng Tây và Mân Việt từ Phúc Kiến, Chiết Giang, với mục đích muốn tuyên bố độc lập cho đảo quốc nầy. Cũng ngày nay, do các công trình khảo cổ, nghiên cứu chủng tộc, người ta xác định dân tộc Nhật Bổn vốn phát xuất từ Việt Đông. Việt Văn Lang không cần xác định gì hết về nguồn gốc, vì từ ngàn xưa, vẫn vững chân trên lãnh thổ của mình. Chẳng những vậy, Việt Văn Lang còn "cầm búa đi khai phá phương Nam" (đúng theo ý chí của tiền nhân khi dung bộ "tẩu" viết nên chữ Việt), để mở rộng cơ đồ xuống tận mũi Cà Mau... Đọc "Bách Việt Tiên Hiền Chí" để hiểu rõ sự khác biệt giữa văn hóa Bách Việt và văn hóa Bắc tộc Trung Hoa; để phân biệt đâu là văn minh Bách Việt trong nền văn minh mà thế giới ngày nay gọi là văn minh Trung Hoa. Trên tường bên trong lăng Triệu Mạt ở Quảng Châu là nhiều tranh vẽ hoặc khắc trên đá thể hiện văn minh của thời Bách Việt vốn vẫn còn ảnh hưởng qua ngôn ngữ và văn hoá người Quảng Đông. Người Quảng Châu vẫn dùng từ 'Việt' rất nhiều, nhưng chữ Việt đây theo bộ Mễ, không phải Tẩu, dù có thể trước đây được dùng qua lại Ghi chú: "Bách Việt tiên hiền chí " tác giả Âu Đại Nhiệm viết vào năm 1554 Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam trân trọng giới thiệu tác phẩm nầy. Theo nguồn "Việt Nam Gia phả" ----------------------------------- Nhời bàn của Thiên Sứ: Tôi thường tự cho mình cô đơn trong học thuật khi minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến. Bởi vì, một trong những quan niệm của tôi là Lạc Việt là khái niệm chung chỉ dân tộc Việt, tức Bách Việt. Nhưng có thể nói. Nhiều học giả cho rằng: Lạc Việt chỉ một bộ phận trong Bách Việt. Tôi giới thiệu bài này vì nó nhắc đến cuốn sách mang tính tư liệu có giá trị, chứ không có ủng hộ quan niệm của bài viết nhận xét về cuốn này. Rất tiếc, tôi chưa thấy trang web ở Việt Nam nào giới thiệu cuốn sách này, nên phải sử dụng bài này.1 like
-
Theo lá số của anh nầy có 2 cách rất xấu ; [1] - mã đầu đới kiếm tại mệnh ,[2] mệnh không thân kiếp lại có phá quân tọa thủ nơi mệnh ,mệnh Thân hội đủ bộ lục sát tinh . có sách nói rằng người sanh tháng 04 -10 âl thì 2 sao không kiếp ảnh hưởng rất kém ,nhưng không có nghĩa là không có . Có sách cho rằng tất cả chính diệu đều nhập miếu ,vướng ,đắc địa là số phi thường cách rất hiếm có ,nhưng lâu nay trong diễn nầy thời gian không lâu nhưng tối đã gặp khoảng gần 10 lá số tất cả chính diệu đều miếu vượng đắc cả ,nhưng cuộc đời của họ chẳng có gì là phi thường cả ,ngay cả anh bạn nầy thử hỏi có phải là người phi thường không ? tôi cũng đã xem qua vài sách nhưng thời gian trãi nghiệm cũng khá lâu cho thấy tác giả có nhiều mâu thuẫn trong các cách cục mà chưa có dịp đễ trình bày ! quan điễm của tôi thì không có phi thường cách mà chỉ có cách phi thường cho những cách cục hội đủ yếu tố với nhau ;vì bất cứ chính tinh nào dầu ở vị trí miếu địa vẫn phải bị phá cách khi gặp phải Tuần-Triệt và các bộ lục sát và lục bại ,có nghĩa là sát tinh có thể phá chính tinh chứ chính tinh không thể giải được sát tinh ,ngoại trừ vài bộ sao giải nạn tinh như ;hóa khoa ,quang -quí ,tam giải ,tứ đức ... bàn riêng về lá số của anh nầy rất đáng lo ngại mặc dầu cung phúc tốt nhưng sợ rằng không giải nỗi hết hạn xấu ,vào thập niên đại hạn 46t hội đủ lục sát tôi sợ rằng anh ta sẽ không qua khỏi .1 like
-
“Ta rằng hỡi ôi! Số người thác ở đây trăm đời sau vẫn là ma khách. Nay các ngươi đều được về đây, thi thể các ngươi thoát khỏi cảnh ngâm thây đáy nước, dãi nắng bãi cỏ hoang, ăn gió uống sương hồn phách chập chờn như đom đóm...”. Đây là những chữ được khắc trên tấm bia dựng tại cánh đồng Tốt Động, nơi diễn ra trận huyết chiến lịch sử giữa nghĩa quân Lam Sơn và giặc Minh, địa danh sáng chói trong Đại cáo bình ngô: “Ninh Kiều máu chảy thành sông tanh trôi vạn dặm Tốt Động thây chất đầy nội nhơ để ngàn năm…” Quá khứ Mùa Đông năm Bính Ngọ - 1426, nghĩa quân Lam Sơn với những cuộc vây thành bức hàng khiến quân Minh lâm vào thế chia cắt bị động không ứng cứu cho nhau được. Tháng Mười, vua Minh phong cho Thái tử Hoài vương hầu Vương Thông chức Chinh Di tướng quân, mang 5 vạn quân và 5 ngàn ngựa cùng Thượng thư Bộ binh Trần Hiệp và Tham tướng Mã Anh sang ứng cứu. Khi đến Đông Quan, Vương Thông lập tức cách chức một loạt tướng cũ, thành lập bộ chỉ huy mới, cùng với Sơn Thọ, Mã Kỳ, Phương Chính, Trần Hiệp, Lý Lượng... tổ chức một cuộc hành quân bão táp với 15 vạn người, “dài đến mười dặm, mũ giáp lòa trời, cờ tàn rợp nội, tự cho là đánh một trận có thể quét sạch quân ta”- (Lam Sơn thực lục). Vương Thông chia quân làm hai mũi tiến công. Mũi chính với 10 vạn quân do đích thân Vương Thông chỉ huy, hành quân từ Đông Quan qua Tốt Động, vòng lên đánh úp bản doanh nghĩa quân Lam Sơn đang náu trên vùng Cao Bộ (thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Tây). Hiệu lệnh hiệp đồng là “khi nào có súng hiệu là hai bên đánh thế gọng kìm vào quân ta”- (Việt sử toàn thư). Lúc này Lê Lợi và đại quân vẫn đóng trong Thanh Hóa. Những đội quân tham gia bức thành Đông Quan và chia cắt các phủ lộ chỉ có vài ngàn người do các tướng Nguyễn Xí, Lý Triện, Lê Lễ, Lê Ngân... chỉ huy. Đoán được âm mưu của giặc, nghĩa quân Lam Sơn đã bố trí tại Tốt Động một trận địa phục kích. Tốt Động cách Hà Nội 25km về phía Tây Nam. Thời đó nơi đây là một đầm lầy ngập tràn lau lách. Nghĩa quân Lam Sơn tham gia trận đánh chỉ chưa đầy 3.000 người và 2 thớt voi chiến, xét về tương quan lực lượng thì thua xa quân của Vương Thông. Nhưng, nhờ khôn khéo chọn địa hình có lợi và bố trí lực lượng hợp lý, đặc biệt đã biết dùng kế nghi binh (cho bắn súng hiệu giả lừa Vương Thông tiến quân sớm hơn kế hoạch), nên nghĩa quân Lam Sơn đã có một trận đánh ngoạn mục. Đạo quân của Vương Thông hùng hổ tiến quân. Nhưng con đường duy nhất đi qua Tốt Động quá nhỏ hẹp, một bên là những gò cao, một bên là đầm lầy. Đạo binh của Vương Thông đang ào ào như thác lũ bắt buộc phải “bóp thắt” theo dạng cổ chai, đội hình hành quân kéo dài hàng chục dặm từ Ninh Kiều (một địa điểm trên sông Đáy thuộc xã Mai Lĩnh ngày nay) đến Tốt Động. Tại quyết chiến điểm, khi một tiếng súng lệnh nổ vang, voi chiến cùng nghĩa quân Lam Sơn hò nhau xông ra. Quân giặc bị bất ngờ, “cả người và ngựa lồng lên hoảng sợ nhảy xuống đầm lầy, giày xéo lên nhau chết chìm không biết bao nhiêu mà kể”. Tiền quân tan vỡ, hậu quân dồn lên ứng cứu, và cứ thế hết lớp này đến lớp khác, cánh đồng Tốt Động trở thành mồ chôn xác giặc Minh. Trận chiến diễn ra từ giờ Ngọ đến giờ Thân. 5 vạn quân giặc bị chết tại chỗ, 1 vạn bị bắt sống. Thượng thư Trần Hiệp và nội quan Lý Lượng bị chém đầu. Vương Thông bị trọng thương phải bỏ chạy về Đông Quan đóng cửa thành viết thư cầu viện binh. Trận Tốt Động có ý nghĩa chiến lược, buộc nhà Minh phải điều Liễu Thăng và Mộc Thạnh mang 12 vạn quân sang cứu nguy, để rồi cả hai đạo quân này đều bị đánh bại trong chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang nổi tiếng năm 1427, khiến Vương Thông không còn đường nào khác phải chấp nhận đầu hàng. Theo truyền thuyết, xác giặc Minh nổi trên đồng nhiều không kể xiết, cá trê ăn xác giặc nên sinh sôi nhiều vô kể. Dân làng liền đặt tên là đồng Trê. Nơi nhân dân Tốt Động mang gạo ủng hộ nghĩa quân thì đặt tên đồng Gạo. Vài năm sau khi giành độc lập, vua Lê Thái Tổ đã xuống chiếu cho làng Tốt Động thu nhặt hài cốt giặc Minh chôn vào 300 ngôi đại mộ, hàng năm cúng tế đàng hoàng. Đến năm Bính Dần - 1866, vua Tự Đức ra chiếu cho làng Tốt Động làm “việc nghĩa chủng”, quy tụ hài cốt về một đại mộ, xây bó đá ong và đặt tên nơi đó là đồng Mồ. Trên đồng Mồ đặt tấm bia đá “di ngôn”, do cử nhân Bộ lại Đặng Tĩnh Trai thừa soạn. Hiện tại Làng Tốt Động có một cái lễ đặc biệt. Vào ngày 24 tháng Chạp hàng năm, dân làng mang cơm cháo rượu thịt... lên đồng Mồ và đọc bài văn cúng “ma khách”: “Hỡi ơi các vong hồn! Vua ta có lòng nhân nghĩa, ra sắc chỉ cho thu nhặt hài cốt, xây mồ. Vì không nơi nương tựa, các ngươi hãy nhớ ngày này trở về đây mà hưởng tết. Lòng thành lễ mọn, các ngươi cùng hưởng, không phải e lệ chi…”. Trong khi thầy cúng đọc, trẻ em chăn trâu trên đồng sẽ đóng vai những “ma khách” đói khát chầu chực quanh chiếu lễ vật chỉ chờ thầy cúng đọc đến câu “ô hô cẩn cốc” là tranh nhau cướp. Bởi thế lễ này mang tên Cướp cháo cầu. Tục cướp cháo cầu tại “bia di ngôn” vẫn còn được duy trì đến tận ngày hôm nay. Đỗ Tiến Thụy1 like
-
THIÊN 4: TÀ KHÍ TẠNG PHỦ BỆNH HÌNH Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Tà khí trúng vào người thì thế nào ?” [1]. Kỳ Bá đáp : “Tà khí trúng vào người thì trúng vào chỗ cao” [2]. Hoàng Đế hỏi: “Cao hay thấp, có phân độ gì không ?” [3]. Kỳ Bá đáp : “Từ nửa thân mình trở lên do tà khí trúng vào, từ nửa thân hình trở xuống do thấp khí trúng vào [4]. Cho nên mới nói rằng tà khí khi trúng vào người thì không ở vào 1 nơi nhất định, trúng vào Âm thì lưu chảy vào phủ, trúng vào Dương thì lưu chảy vào kinh [4]. Hoàng đế hỏi: “Âm và Dương, tuy có tên gọi khác nhau, nhưng cùng đồng loại với nhau, trên dưới cùng tương hội, kinh và lạc quán thông nhau như chiếc vòng ngọc không đầu mối [5]. Nay tà khí trúng vào người, có khi trúng vào Âm, có khi trúng vào Dương, trên dưới, trái phải, không ở hẳn vào 1 nơi ‘hằng thường’ nào cả [6]. Lý do nào đã khiến như thế?”[7] Kỳ Bá đáp : “Chỗ hội của các kinh Dương đều ở nơi mặt [8]. Tà khí trúng vào người vào lúc mà (nguyên khí) bị hư, (tà khí) ‘thừa’ lúc đó (để vào), hoặc lúc mới dùng quá sức, hoặc ăn uống mồ hôi ra, tấu lý mở, do vậy mà tà khí mới trúng vào [9]. Khi tà khí trúng vào mặt thì nó theo xuống dưới bằng đường kinh Dương minh [10]. Khi tà khí trúng vào cổ gáy, thì nó theo xuống dưới bằng đường kinh Thái dương [11]. Khi tà khí trúng vào má thì nó theo xuống dưới bằng đương kinh Thiếu dương [12]. Khi tà khí trúng vào ngực và lưng, hai bên sườn thì cũng giống như là trúng vào các kinh (Dương) vậy” [13]. Hoàng Đế hỏi: “Tà khí trúng vào kinh Âm thì thế nào ?” [14]. Kỳ Bá đáp : “Tà khí trúng vào kinh Âm thường theo vùng cánh tay và cẳng chân mà bắt đầu [15]. Ôi ! Cánh tay và cẳng chân có phần da mép trong (Âm bì) mỏng, thịt nhuận mà mềm, cho nên cùng thọ phong tà mà chỉ độc thương ở Âm mà thôi” [15]. Hoàng Đế hỏi: “Nguyên nhân trúng tà này có làm thương đến tạng không ?” [16]. Ký Bá đáp : “Thân thể con người khi trúng phong, không nhất định là phải làm thương đến tạng [17]. Bởi vì khi tà khí nhập vào theo con đường kinh Âm, bấy giờ tạng khí còn thực, tà khí vào, nhưng không thể ‘ở khách’, vì thế nó phải quay trở lại phủ [18]. Cho nên mới nói rằng: “Tà khí trúng vào Dương thì lưu chảy vào kinh, trúng vào Âm thì lưu chảy vào phủ” [19]. Hoàng Đế hỏi: “Tà khí khi trúng vào tạng của con người thì thế nào ?” [20]. Ký Bá đáp : “Buồn sầu, ưu tư, sợ hãi làm tổn thương đến Tâm, thân hình đang bị lạnh, lại uống thức uống lạnh vào thì sẽ làm tổn thương đến Phế, nếu để cho 2 cái hàn (trong và ngoài) cùng cảm thì trong và ngoài đều bị thương, cho nên khí bị nghịch mà thượng hành. có khi bị té xuống, ác huyết giữ vào bên trong, hoặc có khi có việc phải giận dữ, khí lên mà không xuống được, để rồi tích ở dưới sườn, sẽ làm thương đến Can [21]. Có khi bị đánh, té, hoặc uống rượu say rồi làm chuyện trai gái, hoặc mồ hôi mà đứng trước gió, tất cả sẽ làm thương đến Ty [22]ø. Có khi dùng quá sức, gánh vác vật nặng, hoặc làm chuyện trai gái quá độ, mồ hôi ra tắm thì sẽ làm thương đến Thận” [23]. Hoàng Đế hỏi: “Ngũ tạng bị trúng phong như thế nào ?” [24]. Kỳ Bá đáp : “Chỉ khi nào Âm lẫn Dương đều bị cảm thì tà khí mới có cơ hội ‘tấn công’ vào” [25]. Hoàng Đế nói: “Đúng vậy thay !” [26]. Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá rằng: “Đầu mặt và thân hình, thuộc vào nhau do cốt (xương), liền vào nhau bởi cân (gân), đồng huyết, hợp khí [27]. Mỗi khi trời lạnh, có thể làm nứt đất, đóng băng, khi cơn lạnh đến vội sẽ làm cho tay chân bị bủn rủn, trong lúc đó thì gương mặt của người không cần che lại tại sao thế ?” [28]. Kỳ Bá đáp : 12 kinh mạch, 365 lạc, huyết khí (của chúng) đều lên mặt và thoát ra bằng những không khiếu [29]. Khí ‘tinh Dương’ thì chạy lên trên vào mắt thành ra tinh khí, khí ‘biệt’ chạy lên trên thoát ra mũi thành ra xú khí, khí ‘trọc’ xuất ra ở Vị chạy lên trên môi và lưỡi thành vị khí [30]. Tân dịch của các khí đều lên trên hơ ấm gương mặt, hơn nữa ø da mặt lại dày, bắp thịt cứng hơn [31]. Cho nên, dù thiên khí có lạnh đến đâu cũng không ‘thắng’ được (sức chịu lạnh của mặt) vậy” [32]. Hoàng Đế hỏi: “Khi tà khí trúng vào người thì bệnh hình như thế nào?” [33]. Kỳ Bá đáp : “Hư tà khi trúng vào thân thì thân hình sẽ như có lúc dao động và rợn người. Chính tà khi trúng vào thân thì sẽ nhẹ hơn. Trước hết nó hiện ra ở sắc mặt, không cảm thấy gì ở thân, như có không, như hết như còn, khó mà nắm được đầy đủ sự bộc lộ ra ngoài” [34]. Hoàng Đế nói: “Đúng vậy thay !” [35]. Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá rằng: “Ta nghe nói: Thấy được sắc diện mà biết được bệnh, gọi là ‘minh’, án mạch mà biết được bệnh, gọi là ‘thần’, hỏi bệnh mà biết được nơi bệnh, gọi là ‘công’[36]. Ta mong được nghe rằng làm thế nào để có thể thấy được sắc diện mà biết bệnh, án mạch mà biết bệnh, hỏi bệnh mà biết được đến nơi ?” [37]. Kỳ Bá đáp : “Ôi ! Sắc mặt tương ứng với nơi bì phu của bộ xích, giống như sự tương ứng với tiếng dùi trống đánh trống, không thể để cho “thất điệu” với nhau [38]. Đây cũng là những chứng hậu xuất ra có gốc, có ngọn, có rễ, có lá [39]. Cho nên nếu cái gốc chết thì cái lá sẽ khô vậy [40]. Sắc mặt và hình nhục không thể cùng thất điệu với nhau [41]. Cho nên, biết một gọi là ‘công’, biết hai gọi là ‘thần’, biết ba gọi là ‘thần và minh’ vậy” [42]. Hoàng đế nói: “Ta mong được nghe cho hết” [43]. Kỳ Bá đáp : “Sắc mặt xanh thì mạch phải Huyền, sắc mặt đỏ thì mạch phải Câu, sắc mặt vàng thì mạch phải Đại, sắc mặt trắng thì mạch phải Mao, sắc mặt đen thì mạch phải Thạch. Thấy được sắc diện mà không đắc được mạch tương ứng, ngược lại chỉ đắc được mạch tương thắng, như vậy là chế [44]. Khi nào đắc mạch tương sinh thì bệnh xem như là đã giảm rồi” [45]. Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá rằng: Bệnh hình của sự biến hóa sinh ra từ ngũ tạng như thế nào? [46] Kỳ Bá đáp : Trước hết phải định sự tương ứng giữa ngũ sắc và ngũ mạch sau đó mới định được bệnh chứng [47]. Hoàng Đế hỏi: Sắc mặt đã định xong rồi phải phân biệt như thế nào nữa ? [48] Kỳ Bá đáp : Phải “sát” được sự hoãn, cấp, tiểu, đại, hoạt, sắc của mạch, được vậy thì mới định được sự biến của bệnh [49]. Hoàng Đế hỏi: “Sát” như thế nào ? [50] Kỳ Bá đáp : Mạch cấp thì nơi bì phu của bộ xích cũng cấp, mạch hoãn thì nơi bì phu của bộ xích cũng hoãn, mạch tiểu thì nơi bì phu của bộ xích cũng gầy yếu và thiếu khí, mạch đại thì nơi bì phu của bộ xích cũng phồng lên, mạch hoạt thì nơi bì phu của bộ xích cũng hoạt, mạch sắc thì nơi bì phu của bộ xích cũng sắc [51]. Phàm tất cả sự biến này, có vi, có thậm [52]. Cho nên, người nào khéo “sát” được bộ xích thì không cần đến bộ thốn, người nào khéo “sát” được mạch thì không cần đợi ở sắc diện, người nào có thể “tham hợp” tất cả để ứng hành thì đáng gọi là “thượng công”, thượng công thì mười trường hợp có thể thành công đến chín, người nào có thể ứng hành được hai thì được gọi là “trung công”, trung công thì mười trường hợp có thể thành công đến bảy, người nào chỉ ứng hành được một thì gọi là “hạ công”, hạ công thì mười trường hợp chỉ thành công có sáu [53]. Hoàng đế nói: “Ta xin được hỏi về bệnh hình của các mạch hoãn, cấp, tiểu, đại, hoạt, sắc, như thế nào ?” [54]. Kỳ Bá đáp : “Thần xin nói về bệnh biến thuộc ngũ tạng” [55]. Tâm mạch, khi cấp thậm gây thành chứng khiết tùng, khi vi cấp gây thành chứng Tâm thống, dẫn ra đến sau lưng, ăn không xuống [56]. Tâm mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng cười như điên, khi vi hoãn gây thành chứng Phục lương, ở dưới Tâm, chạy lên chạy xuống, thường hay bị thổ huyết [57]. Tâm mạch, khi đại thậm gây thành chứng như có vật gì cứng chận ngang trong cổ họng, khi vi đại gây thành chứng Tâm tý, dẫn ra đến sau lưng, dễ chảy nước mắt [58]. Tâm mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng dễ ói, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn [59]. Tâm mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng Tâm sán, dẫn xuống đến rún, vùng tiểu phúc kêu [60]. Tâm mạch, khi sắc thậm gây thành chứng cảm, khi vi sắc gây thành chứng huyết tràn, chứng duy quyết, tai kêu và điên tật [61]. Phế mạch, khi cấp gây thành chứng điên tật, khi vi cấp gây thành chứng Phế hàn nhiệt, lười biếng, uể oải, ho, ói ra máu, dẫn đến vùng thắt lưng, lưng và ngực, trong mũi có mọc cục thịt làm cho mũi không thông [62]. Phế mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng ra nhiều mồ hôi, khi vi hoãn gây thành chứng nuy lũ, thiên phong, từ đầu trở xuống mồ hôi ra không dứt [63]. Phế mạch, khi đại thậm gây thành chứng sưng thủng từ gót chân đến gối, khi vi đại gây thành chứng Phế tý dẫn đến vùng ngực và lưng, khi thức dậy sợ mặt trời [64]. Phế mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng tiêu chảy, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn [65]. Phế mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng tức bôn, thướng khí, khi vi hoạt gây thành chứng ra máu mũi miệng ở trên và ra máu ở tiểu và đại tiện [66]. Phế mạch, khi sắc thậm gây thành chứng ói ra máu, khi vi sắc gây thành chứng thử lũ ở khoảng cổ và dưới nách, đó là vì hạ khí không thắng được thượng khí, đưa đến kết quả là chân và gối bị mềm yếu vậy [67]. Can mạch, khi cấp thậm gây thành chứng nói xàm bậy bạ, khi vi cấp gây thành chứng phì khí, ở dưới sườn như cái ly úp xuống [68]. Can mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng dễ ói, khi vi hoãn gây thành chứng thủy hà và tý [69], Can mạch, khi đại thậm gây thành chứng nội ung, dễ ói, chảy máu mũi, tai; khi vi đại gây thành chứng Can tý, chứng teo bộ sinh dục, khi ho sẽ đau dẫn đến tiểu phúc [70]. Can mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng uống nhiều, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn [71]. Can mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng đồi sán, khi vi hoạt gây thành chứng đái dầm [72]. Can mạch, khi sắc thậm gây thành chứng uống nhiều, khi vi sắc gây thành chứng khiết luyến, cân tý [73]. Tỳ mạch, khi cấp thậm gây thành chứng khiết túng, khi vi cấp gây thành chứng cách trung, ăn uống vào bị ói trở ra, hậu môn tiêu ra phân có bọt [74]. Tỳ mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng nuy quyết, khi vi hoãn gây thành chứng phong nuy, tứ chi yếu, không co duỗi được, trong lúc đó Tâm lại bình thường như không có bệnh [75]. Tỳ mạch, khi đại thậm gây thành chứng bệnh như bị đánh sắp té xuống, khi vi đại gây thành chứng sán khí, bụng như ôm một cái gì to lớn, đó là mủ và máu ở bên ngoài Trường và Vị [76]. Tỳ mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng hàn nhiệt, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn [77]. Tỳ mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng đồi lung, khi vi hoạt gây thành chứng có trùng độc, loại hồi hạt, bụng bị nóng [78]. Tỳ mạch, khi sắc thậm gây thành chứng Trường đồi, khi vi sắc gây thành chứng nội đồi, đi tiểu ra nhiều mủ máu [79]. Thận mạch, khi cấp thậm gây thành chứng cốt điên tật, khi vi cấp gây thành chứng trầm quyết, chứng bôn đồn, chân không co duỗi được, không tiểu tiện và đại tiện được [80]. Thận mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng đau muốn gãy lưng, khi vi hoãn gây thành chứng động, chứng động làm cho ăn không tiêu hóa, ăn xuống liền bị ói trở ra [81]. Thận mạch, khi đại thậm gây thành chứng âm nuy, khi vi đại gây thành chứng thạch thủy, khởi lên từ rún xuống đến tiểu phúc, có vẻ nặng nề, bên trên lên đến Vị hoãn, chết, không trị được [82]. Thận mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng động tiết, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn [83]. Thận mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng lung đồi, khi vi hoạt gây thành chứng cốt nuy, ngồi xuống không đứng lên được, đứng lên thì mắt sẽ không thấy gì cả [84]. Thận mạch, khi sắc thậm gây thành chứng đại ung, khi vi sắc gây thành chứng không có kinh nguyệt và chứng nội trĩ trầm trọng [85]. Hoàng đế hỏi: “Lục biến của bệnh, phải châm như thế nào ?” [86]. Kỳ Bá đáp : “Các mạch cấp thì nhiều hàn, các mạch hoãn thì nhiều nhiệt, các mạch đại thì nhiều khí, ít huyết, các mạch tiểu thì huyết và khí đều ít, các mạch hoạt thì Dương khí thịnh, hơi có nhiệt, các mạch sắc thì nhiều huyết, ít khí, hơi có hàn [87]. Cho nên, khi châm các mạch cấp phải châm sâu vào trong và lưu kim thật lâu[88]. Khi châm các mạch hoãn, phải châm cạn vào trong và rút kim ra thật nhanh, nhằm giải bớt nhiệt[89]. Khi châm các mạch đại phải châm tả khí thật nhẹ, đừng cho xuất huyết [90]. Khi châm các mạch hoạt phải châm bằng cách rút kim ra thật nhanh mà châm vào thì phải cạn, nhằm tả bớt Dương khí, giải bớt nhiệt khí[91]. Khi châm các mạch Sắc, phải châm cho đúng với mạch, phải tùy theo lẽ ‘nghịch và thuận’ mà lưu kim lâu [92] . Trước hết phải án huyệt, xoa, khi đã rút kim ra thì phải mau mau án ngay vào vết châm, nhằm mục đích làm cho huyết không xuất ra được, và cũng để làm cho mạch được hòa [93]. Khi gặp các mạch tiểu, đó là trường hợp mà Âm Dương, hình khí đều bất túc, đừng chọn huyệt để châm mà chỉ nên điều hòa khí huyết bằng cam dược” [94]. Hoàng Đế hỏi: “Ta nghe khí của ngũ tạng, lục phủ, chỗ nhập của huyệt Huỳnh và huyệt Du gọi là huyệt Hợp, vậy nó nhập theo con đường nào ?, nhập vào như thế nào để có sự liên hệ tương thông với nhau ?, Ta mong được nghe nguyên nhân đó” [95].. Kỳ Bá đáp : “Đây là trường hợp Dương mạch biệt nhập vào bên trong thuộc về phủ” [96]. Hoàng đế hỏi: “Huyệt Huỳnh, huyệt Du và huyệt Hợp, mỗi huyệt có định danh hay không ?” [97]. Kỳ Bá đáp : “Huyệt Vinh và huyệt Du trị ngoại kinh, huyệt Hợp trị nội phủ” [98]. Hoàng đế hỏi: “Trị nội phủ phải như thế nào ?” [99]. Kỳ Bá đáp : “Phải thủ huyệt Hợp” [100]. Hoàng đế hỏi: “Huyệt Hợp của Vị nhập vào huyệt Tam lý, huyệt Hợp của Đại trường nhập vào huyệt Cự hư Thượng liêm, huyệt Hợp của Tiểu trường nhập vào huyệt Cự hư hạ liêm, huyệt Hợp của Tam tiêu nhập vào huyệt Ủy Dương, huyệt Hợp của Bàng quang nhập vào huyệt Ủy trung ương, huyệt Hợp của Đởm nhập vào huyệt Dương Lăng tuyền” Phải thủ huyệt như thế nào?” [101]. Kỳ Bá đáp : “Thủ huyệt Tam lý phải buông thấp bàn chân xuống, thủ huyệt Cự hư phải đưa chân lên, thủ huyệt Ủy dương phải co và duỗi chân, thủ huyệt Ủy trung phải co (gối) lại, thủ huyệt Dương lăng tuyền phải ngồi ngay thẳng, co gối, buông thẳng chân, kéo xuống bên mép ngoài huyệt Ủy dương. Thủ các huyệt ngoại kinh, phải duỗi ra, đưa tay chân ra một cách thoải mái để thủ huyệt rồi theo đó mà trị liệu” [102]. Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe về bệnh của lục phủ” [103]. Kỳ Bá đáp : “Gương mặt nhiệt, đó là bệnh của kinh Túc Dương minh [104]. Chứng sung huyết nơi ngư lạc, đó là bệnh của kinh Thủ Dương minh [105]. Trên mu của 2 bàn chân mạch kiên mà hãm, đó là bệnh của kinh Túc Dương minh [106]. Đây là những chứng thuộc Vị mạch vậy [107]. Bệnh của Đại trường làm cho trong ruột đau quặn thắt và đồng thời sôi lên ồ ồ [108]. Nếu gặp mùa đông, bị trúng cảm bởi hàn khí thì sẽ bị chứng tiêu chảy, đau ngay ở phần rún, không thể đứng lâu được, cùng 1 chứng hậu với Vị, nên thủ huyệt Cự Hư Thượng Liêm để chữa trị [109]. Bệnh của Vị làm cho bụng trướng to lên, Vị hoãn sẽ đau thấu tới Tâm, chói lên trên vào 2 hông sườn, từ cách lên đến yết hầu không thông, ăn uống không xuống, nên thủ huyệt Tam lý để chữa trị [110]. Bệnh của Tiểu trường làm cho tiểu phúc đau, cột sống ở thắt lưng khống chế đến 2 hòn dái cũng bị đau nhức, lắm khi đau đến nỗi phải nghiêng ra phía sau mới chịu nổi, có khi trước tai bị nhiệt, có khi như thể là lạnh nhiều, hoặc như thể là mí mắt trên bị nhiệt nhiều, cho đến trong khoảng giữa ngón út và ngón áp út cũng bị nhiệt, như thể là mạch bị hãm, đó là những chứng bệnh hậu(của tiểu trường) vậy [111]. Bệnh của kinh Thủ Thái dương nên thủ huyệt Cự Hư Hạ Liêm [112]. Bệnh của Tam tiêu làm cho phúc khí bị đầy, tiểu phúc cứng hơn, không tiểu tiện được khiến cho người bệnh bị quẫn bách, khi nước nhiều quá, sẽ lưu giữ lại một chỗ làm thành chứng trướng [113]. Chứng hậu ở tại đại lạc bên ngoài kinh Túc Thái dương, đại lạc ở khoảng giữa kinh Thái dương và Thiếu dương, cũng hiện ra ở mạch, nên thủ huyệt Ủy Dương để trị [114]. Bệnh của Bàng quang là làm cho tiểu phúc bị sưng thủng mà đau, dùng tay để ấn lên tức thì làm cho bệnh nhân muốn đi tiểu mà không tiểu được, trên mi mắt bị nhiệt, như thể là mạch bị hãm, cho đến ngoài ngón chân út lên đến sau mắt cá và cẳng chân đều bị nhiệt. Nếu mạch bị hãm nên thủ huyệt Ủy Trung Ương để trị [115]. Bệnh của Đởm làm cho (bệnh nhân) dễ bị thở mạnh, miệng đắng, ói ra chất nhờn, dưới Tâm đập mạnh, hay lo sợ là có người sắp bắt lấy mình, trong cổ họng như có vật gì chận ngang và thường hay khạc nhổ (nước bọt) [116]. Ở huyệt gốc và ngọn của kinh Túc Thiếu dương, cũng có thấy được mạch bị hãm xuống, (trường hợp này) thích hợp với phép cứu [117]. Khi nào bị hàn nhiệt thì thủ huyệt Dương Lăng Tuyền” [118]. Hoàng Đế hỏi: “Phép châm này có phải theo một đường lối nào không ?” [119]. Kỳ Bá đáp: “Châm theo phép này ắt phải châm đúng khí huyệt, đừng châm trúng nhục tiết [120]. Nếu châm trúng khí huyệt thì mũi kim sẽ như đang đi chơi nơi con đường hẻm rộng, còn nếu châm trúng nhục tiết sẽ làm cho phần bì phu bị đau [121]. Phép bổ tả mà áp dụng nghịch nhau thì bệnh sẽ càng nặng [122]. Nếu châm trúng cân (gân) sẽ làm cho cân bị hoãn (lơi lỏng), tà khí không xuất ra được, do đó nó sẽ đánh nhau với chân khí tạo thành cuộc hỗn loạn và không chịu ra đi, quay ngược vào trong để rồi lớn dần ra [123]. Người dụng châm nếu không thẩm sát cho kỹ, đó là họ đã biến thuận thành nghịch rồi vậy” [124]1 like
-
Kính thưa các độc giả! Rubi viết lại và viết tiếp nội dung trong Hệ thống thời châm Tý ngọ lưu chú, với hình thức cấp cao hơn về kỹ thuật viết bài và hình ảnh minh hoạ. HỆ THỐNG THỜI CHÂM TÝ NGỌ LƯU CHÚ Kích thước xem thử: 500 × 500 điểm ảnh Độ phân giải tối đa](3.000 × 3.000 điểm ảnh, kích thước: 7,1 MB, định dạng MIME: image/jpeg) Miêu tả Miêu tả: Bảng ngày đường kinh chủ đạo trong hệ thống thời châm tý ngọ lưu chú Chính lý và minh hoạ: Rubi_Lê Đức Hồng Phiên bản: bộ 3.0 Ngày xuất tập tin: 02-01-2010 Chi tiết cấp cao Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Không gian màu: sRGB ĐOẠN 01-NGÀY ĐƯỜNG KINH THẬN CHỦ ĐẠO-KINH SINH HUYỆT Kích thước xem thử: 309 × 231 điểm ảnh Độ phân giải tối đa(1.188 × 888 điểm ảnh, kích thước: 1,02 MB, định dạng MIME: image/jpeg) Miêu tả Miêu tả: Bảng ngày đường kinh thận chủ đạo trong hệ thống thời châm tý ngọ lưu chú Chính lý và minh hoạ: Rubi_Lê Đức Hồng Phiên bản: bộ 3.0 Ngày xuất tập tin: 02-01-2010 Chi tiết cấp cao Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Không gian màu: sRGB Ngày Can Quý: Giờ Can Chi 00 Quý hợi trùng/tức giờ thứ 120 trong 120 giờ của chu kỳ, Thận huyết "xuất" ra ở huyệt Dũng Tuyền, huyệt Dũng Tuyền nằm ở giữa lòng bàn chân, thuộc huyệt Tỉnh Mộc. Sang tiếp Ngày Can Giáp: Đến giờ thứ 02 Ất Sửu, Can huyết "lưu" vào huyệt Hành Gian, huyệt Hành Gian nằm ở khe ngón chân cái, thuộc huyệt Huỳnh. Đến giờ thứ 04 Đinh Mão, Tâm huyết "chú" vào huyệt Thần Môn, huyệt Thần Môn nằm ở phía xương trụ, nằm trên lằn chỉ cổ tay, nơi chỗ lõm sát bờ ngoài gân cơ trụ trước và góc ngoài bờ trên xương trụ, thuộc huyệt Du. Cũng trong giờ thứ 04 Đinh Mão, xảy ra hiện tượng Phản bản hoàn nguyên. Thận huyết "quá" vào huyệt Thái Khê, huyệt Thái Khê nằm tại trung điểm giữa đường nối bờ sau mắt cá trong và mép trong gân gót, khe giữa gân gót chân ở phía sau, thuộc huyệt Du. Đặc biệt, tham gia cùng hiện tượng Phản bản hoàn nguyên trong Ngày đường kinh thận chủ đạo còn có Tâm bào huyết. Tâm bào huyết “quá” vào huyệt Đại Lăng nằm ở chỗ thấp xuống giữa hai đầu xương sau bàn tay, thuộc huyệt Du. Hiện tượng Phản bản hoàn nguyên của Ngày đường kinh Bàng quang chủ đạo và của Ngày đường kinh Thận chủ đạo khác với hiện tượng Phản bản hoàn nguyên của các Ngày đường kinh chủ đạo khác là có sự tham gia cùng của Tâm bào huyết hay Tam tiêu khí. Tiếp theo, giờ Can Chi 06 Kỷ Tỵ, Tỳ huyết “hành” vào huyệt Thương Khâu, huyệt Thương Khâu nằm ở chỗ lõm vào, nhích về phía dưới mắt cá trong, thuộc Kinh. Đến giờ Can Chi 08 Tân Mùi, Phế huyết “nhập” vào huyệt Xích Trạch, Huyệt Xích Trạch nằm ở động mạch giữa khủy tay, thuộc huyệt Hợp. Đền giờ Can Chi 10 Quý Dậu, Tâm bào huyết được "trút" vào ở huyệt Trung Xung, huyệt Trung Xung nằm ở đầu ngón tay giữa, thuộc Tỉnh mộc. ĐOẠN 01-NGÀY ĐƯỜNG KINH THẬN CHỦ ĐẠO-KINH SINH HUYỆT Ngày-CanGiờ-Can ChiKinh TạngLoại HuyệtTên HuyệtGhi ChúQuý00 Quý HợiThậnM-TỉnhDũng TuyềnGiờ 00=120. Thận Huyết "xuất" ra ở Huyệt Dũng Tuyền.Giáp02 Ất SửuCanH-HuỳnhHành GianCan Huyết "Lưu" vào ở Huyệt Hành Gian.Giáp04 Đinh MãoTâmW-DuThần MônTâm Huyết "chú" vào ở Huyệt Thần Môn.Giáp04 Đinh MãoThậnW-DuThái KhêThận Huyết "quá" nơi Huyệt Thái Khê. Huyệt khắc Kinh.Hiện tượng phản bản hoàn nguyên. Giáp04 Đinh MãoTâm BàoW-DuĐại LăngTâm Bào Huyết "quá" nơi Huyệt Đại Lăng. Huyệt hoà Kinh.Tham gia cùng Hiện tượng phản bản hoàn nguyên. Giáp06 Kỷ TỵTỳK-KinhThương KhâuTỳ Huyết "hành" vào ở Huyệt Thương Khâu.Giáp08 Tân MùiPhếT-HợpXích TrạchPhế Huyết "nhập" vào ở Huyệt Xích Trạch.Giáp10 Quý DậuTâm BàoM-TỉnhTrung XungTâm Bào Huyết "trút" vào ở Huyệt Trung Xung. Huyệt khắc Kinh. ĐOẠN 02-NGÀY ĐƯỜNG KINH ĐỞM CHỦ ĐẠO-HUYỆT KHẮC KINH Kích thước xem thử: 309 × 309 điểm ảnh Độ phân giải tối đa](1.188 × 1.188 điểm ảnh, kích thước: 1,35 MB, định dạng MIME: image/jpeg) Miêu tả Miêu tả: Bảng ngày đường kinh đởm chủ đạo trong hệ thống thời châm tý ngọ lưu chú Chính lý và minh hoạ: Rubi_Lê Đức Hồng Phiên bản: bộ 3.0 Ngày xuất tập tin: 02-01-2010 Chi tiết cấp cao Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Không gian màu: sRGB Ngày Can Giáp: Giờ Can Chi 11 Giáp Tuất, Đởm Khí "xuất" ra ở huyệt Khiếu Âm, huyệt Khiếu Âm nằm ở đầu ngón áp út phía ngón út, thuộc huyệt Tỉnh kim. Sang tiếp Ngày Can Ất: Đến giờ Can Chi 13 Bính Tý, Tiểu Trường Khí "Lưu" vào huyệt Tiền Cốc, huyệt Tiền Cốc nằm ở mép ngoài bàn tay, ngay xương bản tiết, thuộc huyệt Huỳnh. Đến giờ Can Chi 15 Mậu Dần, Vỵ Khí “chú” vào huyệt Hãm Cốc, huyệt Hãm Cốc nằm ở khe trên ngón giữa, chỗ lõm phía trên (huyệt Nội đình) 2 thốn, thuộc huyệt Du. Cũng tại giờ Can Chi 15 Mậu Dần xảy ra hiện tượng Phản bản hoàn nguyên của Ngày đường kinh đởm chủ đạo. Đởm Khí “quá” nơi huyệt Khâu Khư, huyệt Khâu Khư nằm ở chỗ lõm, trước dưới mắt cá ngoài, thuộc huyệt Nguyên. Đến giờ Can Chi 17 Canh Thìn, Đại Trường Khí “hành” vào huyệt Dương Khê, huyệt Dương Khê nằm ở chỗ lõm vào của xương phụ cốt, phía ngoài khủy tay - co tay lại để thủ huyệt, thuộc huyệt Hợp. Đến giờ Can Chi 19 Nhâm Ngọ, Bàng Quang Khí “nhập” vào huyệt Ủy Trung, huyệt Ủy Trung nằm ở giữa khoeo chân (quắc trung ương), thuộc huyệt Hợp - co chân lại để thủ huyệt. Đến giờ Can Chi 21 Giáp Thân, Tam Tiêu Khí được "trút" vào tại vào huyệt Dịch Môn, huyệt Dịch Môn nằm ở trong khe giữa ngón áp út, thuộc huyệt Huỳnh. ĐOẠN 02-NGÀY ĐƯỜNG KINH ĐỞM CHỦ ĐẠO-HUYỆT KHẮC KINH Ngày-CanGiờ-Can ChiKinh PhủLoại HuyệtTên HuyệtGhi ChúGiáp11 Giáp TuấtĐởmK-TỉnhKhiếu ÂmĐởm Khí "Lưu" vào ở Huyệt Khiếu Âm.Ất13 Bính TýTiểu TrườngT-HuỳnhTiền CốcTiểu Trường Khí "chú" vào ở Huyệt Tiền Cốc.Ất15 Mậu DầnVỵM-DuHãm CốcVỵ Khí "quá" nơi Huyệt Hãm Cốc.Ất15 Mậu DầnĐởmNguyênKhâu HưĐởm Khí "xuất" ra ở Huyệt Khâu Hư.Hiện tượng phản bản hoàn nguyên Ất17 Canh ThìnĐại TrườngH-KinhDương KhêĐại Trường Khí "hành" vào ở Huyệt Dương Khê.Ất19 Nhâm NgọBàng QuangW-HợpỦy TrungBàng Quang Khí "nhập" vào ở Huyệt Ủy Trung.Ất21 Giáp ThânTam TiêuT-HuỳnhDịch MônTam Tiêu Khí "trút" vào ở Huyệt Dịch Môn. Kinh khắc Huyệt. ĐOẠN 03-NGÀY ĐƯỜNG KINH CAN CHỦ ĐẠO-KINH HOÀ HUYỆT Kích thước xem thử: 231 × 309 điểm ảnh Độ phân giải tối đa](888 × 1.188 điểm ảnh, kích thước: 1.001 kB, định dạng MIME: image/jpeg) Miêu tả Miêu tả: Bảng ngày đường kinh can chủ đạo trong hệ thống thời châm tý ngọ lưu chú Chính lý và minh hoạ: Rubi_Lê Đức Hồng Phiên bản: bộ 3.0 Ngày xuất tập tin: 02-01-2010 Chi tiết cấp cao Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Không gian màu: sRGB Ngày Can Ất: Giờ Can Chi 22 Ất Dậu, Can Huyết "xuất" ra ở huyệt Đại Đôn, huyệt Đại Đôn nằm ở ngay đầu ngón chân và nơi chùm 3 sợi lông (tam mao), thuộc huyệt Tỉnh Mộc. Đến giờ Can Chi 24 Đinh Hợi, Tâm Huyết "lưu" vào huyệt Thiếu Phủ, huyệt Thiếu Phủ nằm ở lòng bàn tay, giữa xương bàn tay thứ 4 và 5, huyệt nằm trên đường văn của lòng bàn tay, thuộc huyệt Huỳnh. Sang tiếp Ngày Canh Bính Đến giờ Can Chi 26 Kỷ Sửu, Tỳ Huyết "chú" vào huyệt Thái bạch, huyệt Thái Bạch nằm ở dưới xương mé trong bàn chân, thuộc huyệt Du. Cũng tại giờ 26 Kỷ Sửu xảy ra hiện tượng Phản bản hoàn nguyên của Ngày đường kinh can chủ đạo. Can Huyết "quá" vào huyệt Thái Xung, huyệt Thái Xung nằm ở chỗ lõm vào cách huyệt Hành Gian 2 thốn, thuộc huyệt Du. Đến giờ Can Chi 28 Tân Mão, Phế Huyết "hành" vào huyệt Kinh Cừ , Huyệt Kinh Cừ nằm ở giữa Thốn khẩu, động mà không ngừng lại, thuộc huyệt Kinh. Đến giờ Can Chi 30 Quý Tỵ, Thận Huyết "nhập" vào huyệt Âm Cốc, huyệt Âm Cốc nằm sau xương phụ cốt, dưới gân lớn, trên gân nhỏ, ấn tay vào thấy mạch ứng với tay - Co gối lại để thủ huyệt - thuộc huyệt Hợp. Đến giờ Can Chi 32 Ất Mùi, Tâm Bào Huyết "trút"vào huyệt Lao Cung, huyệt Lao Cung nằm ở khoảng giữa ngay gốc khớp (bản tiết) của ngón giữa ở giữa lòng bàn tay, thuộc huyệt Huỳnh. ĐOẠN 03-NGÀY ĐƯỜNG KINH CAN CHỦ ĐẠO-KINH HOÀ HUYỆT Ngày-CanGiờ-Can ChiKinh TạngLoại HuyệtTên HuyệtGhi ChúẤt22 Ất DậuCanM-TỉnhĐại ĐônCan Huyết "xuất" ra ở Huyệt Đại Đôn.Ất24 Đinh HợiTâmH-HuỳnhThiếu PhủTâm Huyết "Lưu" vào ở Huyệt Thiếu Phủ.Bính26 Kỷ SửuTỳW-DuThái BạchTỳ Huyết "chú" vào ở Huyệt Thái Bạch.Bính26 Kỷ SửuCanW-DuThái XungCan Huyết "quá" nơi Huyệt Thái Xung. Kinh khắc Huyệt.Hiện tượng phản bản hoàn nguyên. Bính28 Tân MãoPhếK-KinhKinh CừPhế Huyết "hành" vào ở Huyệt Kinh Cừ.Bính30 Quý TỵThậnT-HợpÂm CốcThận Huyết "nhập" vào ở Huyệt Âm Cốc.Bính32 Ất MùiTâm BàoH-HuỳnhLao CungTâm Bào Huyết "trút" vào ở Huyệt Lao Cung. Huyệt sinh Kinh. ĐOẠN 04-NGÀY ĐƯỜNG KINH TIỂU TRƯỜNG CHỦ ĐẠO-KINH KHẮC HUYỆT Kích thước xem thử: 309 × 309 điểm ảnh Độ phân giải tối đa ](1.188 × 1.188 điểm ảnh, kích thước: 1,35 MB, định dạng MIME: image/jpeg) Miêu tả Miêu tả: Bảng ngày đường kinh tiểu trường chủ đạo trong hệ thống thời châm tý ngọ lưu chú Chính lý và minh hoạ: Rubi_Lê Đức Hồng Phiên bản: bộ 3.0 Ngày xuất tập tin: 02-01-2010 Chi tiết cấp cao Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Không gian màu: sRGB Ngày Can Bính: Giờ Can Chi 33 Bính Thân, Tiểu Trường Khí "xuất" ra ở huyệt Thiếu Trạch, huyệt Thiếu Trạch nằm ở đầu ngón tay út, thuộc huyệt Tỉnh Kim. Đến giờ Can Chi 35 Mậu Tuất, Vỵ Khí "lưu" vào huyệt Nội Đình, huyệt Nội Đình nằm ở khe của phía ngoài ngón chân trỏ, thuộc huyệt Huỳnh. Sang tiếp ngày can Đinh: Giờ Can Chi 37 Canh Tý, Đại Trường Khí "chú" vào sau xương bản tiết, đó là huyệt Tam Gian, thuộc huyệt Du. Cũng tại giờ 37 Canh Tý xảy ra hiện tượng Phản bản hoàn nguyên của Ngày đường kinh tiểu trường chủ đạo. Tiểu Trường Khí "quá" nơi huyệt Uyển Cốt, huyệt Uyển Cốt ở trước xương cổ tay, mép ngoài bàn tay, thuộc huyệt Nguyên. Đến giờ Can Chi 39 Nhâm Dần, Bàng Quang Khí "hành" vào huyệt Côn Lôn, huyệt Côn Lôn nằm ở sau mắt cá ngoài, trên xương gót, thuộc huyệt Kinh. Đến giờ Can Chi 41 Giáp Thìn, Đởm Khí "nhập" vào huyệt Dương Lăng Tuyền, huyệt Dương Lăng Tuyền nằm ở chỗ lõm, phía ngoài đầu gối, thuộc huyệt Hợp - duỗi chân ra để thủ huyệt. Đến giờ Can Chi 43 Bính Ngọ, Tam Tiếu Khí "trút" vào huyệt Trung Chử, huyệt Trung Chử nằm ở chỗ lõm ngoài sau xương bản tiết, thuộc huyệt Du . ĐOẠN 04-NGÀY ĐƯỜNG KINH TIỂU TRƯỜNG CHỦ ĐẠO-KINH KHẮC HUYỆT Ngày-CanGiờ-Can ChiKinh PhủLoại HuyệtTên HuyệtGhi ChúBính33 Bính ThânTiểu TràngK-TỉnhThiếu TrạchTiểu Tràng Khí "xuất" ra ở Huyệt Thiếu Trạch.Bính35 Mậu TuấtVỵT-HuỳnhNội ĐìnhVỵ Khí "Lưu" vào ở Huyệt Nội Đình.Đinh37 Canh TýĐại TrườngM-DuTam GianĐại Trường Khí "chú" vào ở Huyệt Tam Gian.Đinh37 Canh TýTiểu TrườngNguyênUyển CốtTiểu Trường Khí "quá" nơi Huyệt Uyển Cốt.Hiện tượng phản bản hoàn nguyênĐinh39 Nhâm DầnBàng QuangH-KinhCôn LônBàng Quang Khí "hành" vào ở Huyệt Côn Lôn.Đinh41 Giáp ThìnĐởmW-HợpD.Lăng TuyềnĐởm Khí "nhập" vào ở Huyệt D.Lăng Tuyền.Đinh43 Bính NgọTam TiêuM-DuTrung ChửTam Tiêu Khí "trút" vào ở Huyệt Trung Chử. Huyệt khắc Kinh. ĐOẠN 05-NGÀY ĐƯỜNG KINH TÂM CHỦ ĐẠO-HUYỆT SINH KINH Kích thước xem thử: 309 × 231 điểm ảnh Độ phân giải tối đa](1.188 × 888 điểm ảnh, kích thước: 1,01 MB, định dạng MIME: image/jpeg) Miêu tả Miêu tả: Bảng ngày đường kinh tâm chủ đạo trong hệ thống thời châm tý ngọ lưu chú Chính lý và minh hoạ: Rubi_Lê Đức Hồng Phiên bản: bộ 3.0 Ngày xuất tập tin: 02-01-2010 Chi tiết cấp cao Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Không gian màu: sRGB Ngày Can Đinh: Giờ Can Chi 44 Đinh Mùi, Tâm Huyết "xuất" ra ở huyệt Thiếu Xung, huyệt Thiếu Xung nằm ở ngón tay út phía tay quay, cách chân góc tay út 0.1 thốn, trên đường tiếp giáp da bàn tay-mu tay, thuộc huyệt Tỉnh. Đến giờ Can Chi 46 Kỷ Dậu, Tỳ Huyết "lưu" vào huyệt Đại Đô, huyệt Đại Đô nằm ở chỗ lõm vào và chỗ sau bản tiết, thuộc huyệt Huỳnh. Đến giờ Can Chi 48 Tân Hợi, Phế Huyết "chú" vào huyệt Thái Uyên, huyệt Thái Uyên nằm ở sau huyệt Ngư Tế 1 thốn, ở giữa chỗ lõm vào, thuộc huyệt Du. Cũng tại giờ Can Chi 48 Tân Hợi xảy ra hiện tượng Phản bản hoàn nguyên của Ngày đường kinh tâm chủ đạo. Tâm Huyết "quá" vào huyệt Thần Môn, huyệt Thần Môn nằm ở phía xương trụ, nằm trên lằn chỉ cổ tay, nơi chỗ lõm sát bờ ngoài gân cơ trụ trước và góc ngoài bờ trên xương trụ. Sang tiếp ngày Can Mậu: Đến giờ Can Chi 50 Quý Sửu, Thận Huyết "hành" vào huyệt Phục Lưu, huyệt Phục Lưu nằm ở trên mắt cá trong 2 thốn - động mà không ngừng nghỉ, thuộc huyệt Kinh. Đến giờ Can Chi 52 Ất Mão, Can Huyết "nhập" vào huyệt Khúc Tuyền, huyệt Khúc Tuyền nằm ở trên gân lớn, dưới lồi cầu trong xương đùi - Nên co gối để thủ huyệt, thuộc huyệt Hợp. Đến giờ Can Chi 54 Đinh Tỵ, Tâm Bào Huyết "trút" vào huyệt Đại Lăng, huyệt Đại Lăng nằm ở chỗ thấp xuống giữa hai đầu xương sau bàn tay, thuộc huyệt Du. ĐOẠN 05-NGÀY ĐƯỜNG KINH TÂM CHỦ ĐẠO-HUYỆT SINH KINH Ngày-CanGiờ-Can ChiKinh TạngLoại HuyệtTên HuyệtGhi ChúĐinh44 Đinh MùiTâmM-TỉnhThiếu XungTâm Huyết "xuất" ra ở Huyệt Thiếu Xung.Đinh46 Kỷ DậuTỳH-HuỳnhĐại ĐôTỳ Huyết "Lưu" vào ở Huyệt Đại Đô.Đinh48 Tân HợiPhếW-DuThái UyênPhế Huyết "chú" vào ở Huyệt Thái Uyên.Đinh48 Tân HợiTâmW-DuThần MônTâm Huyết "quá" nơi Huyệt Thần Môn. Kinh sinh Huyệt.Hiện tượng phản bản hoàn nguyên. Mậu50 Quý SửuThậnK-KinhPhục LưuThận Huyết "hành" vào ở Huyệt Phục Lưu.Mậu52 Ất MãoCanT-HợpKhúc TuyềnCan Huyết "nhập" vào ở Huyệt Khúc Tuyền.Mậu54 Đinh TỵTâm BàoW-DuĐại LăngTâm Bào Huyết "trút" vào ở Huyệt Đại Lăng. Kinh hoà Huyệt. ĐOẠN 06-NGÀY ĐƯỜNG KINH VỴ CHỦ ĐẠO-KINH SINH HUYỆT Kích thước xem thử: 309 × 309 điểm ảnh Độ phân giải tối đa](1.080 × 1.080 điểm ảnh, kích thước: 1,28 MB, định dạng MIME: image/jpeg) Miêu tả Miêu tả: Bảng ngày đường kinh vỵ chủ đạo trong hệ thống thời châm tý ngọ lưu chú Chính lý và minh hoạ: Rubi_Lê Đức Hồng Phiên bản: bộ 3.0 Ngày xuất tập tin: 02-01-2010 Chi tiết cấp cao Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Không gian màu: sRGB Ngày Can Mậu: Giờ Can Chi 55 Mậu Ngọ, Vỵ Khí "xuất" ra ở huyệt Lệ Đoài, huyệt Lệ Đoài nằm ở đầu ngón chân trỏ gần ngón chân cái, thuộc huyệt Tỉnh kim. Đến giờ Can Chi 57 Canh Thân, Đại Trường Khí "lưu" vào huyệt Nhị Gian, huyệt Nhị Gian ở chỗ lõm phía trước và bở ngoài khớp xương bàn và ngón trỏ, trên đường tiếp giáp gan bàn tay, mu tay, thuộc huyệt Huỳnh. Đến giờ Can Chi 59 Nhâm Tuất, Bàng Quang Khí "chú" vào huyệt Thúc Cốt, huyệt Thúc Cốt nằm ở chỗ lõm ngoài sau xương bản tiết, thuộc huyệt Du. Cũng tại giờ Can Chi 59 Nhâm Tuất, xảy ra hiện tượng Phản bản hoàn nguyên của Ngày đường kinh vỵ chủ đạo. Vỵ Khí "quá" nơi huyệt Xung Dương, huyệt Xung Dương nằm ở chỗ lõm, từ nơi bàn chân (ngón chân) lên trên 5 thốn, thuộc huyệt Nguyên - Dao động (bàn) chân để thủ huyệt. Sang tiếp ngày Can Kỷ: Đến giờ Can Chi 61 Giáp Tý, Đởm Khí "hành" vào huyệt Dương Phụ, huyệt Dương Phụ nằm trên mắt cá ngoài, nằm trước xương phụ cốt và ở đầu xương tuyệt cốt, thuộc huyệt Kinh. Đến giờ Can Chi 63 Bính Dần, Tiểu Trường Khí "nhập" vào huyệt Tiểu Hải, huyệt Tiểu Hải ở chỗ lõm ngoài xương to, phía trongkhủy tay, cách đầu khủy tay nửa thốn, thuộc huyệt Hợp. Đến giờ Can Chi 65 Mậu Thìn, Tam Tiêu Khí "trút" vào huyệt Chi Câu, huyệt Chi Câu nằm ở chỗ lõm vào giữa hai xương, cách cổ tay ba thốn, thuộc huyệt Kinh. ĐOẠN 06-NGÀY ĐƯỜNG KINH VỴ CHỦ ĐẠO-KINH SINH HUYỆT Ngày-CanGiờ-Can ChiKinh TạngLoại HuyệtTên HuyệtGhi ChúMậu55 Mậu NgọVỵK-TỉnhLệ ĐoàiVỵ Khí "xuất" ra ở Huyệt Lệ Đoài.Mậu57 Canh ThânĐại TrườngT-HuỳnhNhị GianĐại Trường Khí "Lưu" vào ở Huyệt Nhị Gian.Mậu59 Nhâm TuấtBàng QuangM-DuThúc CốtBàng Quang Khí "chú" vào ở Huyệt Thúc Cốt.Mậu59 Nhâm TuấtVỵNguyênXung DươngVỵ Khí "quá" nơi Huyệt Xung Dương.Hiện tượng phản bản hoàn nguyên. Kỷ61 Giáp TýĐởmH-KinhDương PhụĐởm Khí "hành" vào ở Huyệt Dương Phụ.Kỷ63 Bính DầnTiểu TrườngW-HợpTiểu HảiTiểu Trường Khí "nhập" vào ở Huyệt Tiểu Hải.Kỷ65 Mậu ThìnTam TiêuH-KinhChi CâuTam Tiêu Khí "trút" vào ở Huyệt Chi Câu.Huyệt sinh Kinh. ĐOẠN 07-NGÀY ĐƯỜNG KINH TỲ CHỦ ĐẠO-HUYỆT KHẮC KINH Kích thước xem thử: 309 × 309 điểm ảnh Độ phân giải tối đa](1.080 × 1.080 điểm ảnh, kích thước: 1,3 MB, định dạng MIME: image/jpeg) Miêu tả Miêu tả: Bảng ngày đường kinh tỳ chủ đạo trong hệ thống thời châm tý ngọ lưu chú Chính lý và minh hoạ: Rubi_Lê Đức Hồng Phiên bản: bộ 3.0 Ngày xuất tập tin: 02-01-2010 Chi tiết cấp cao Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Không gian màu: sRGB Ngày Can Kỷ: Giờ Can Chi 66 Kỷ Tỵ, Tỳ Huyết "xuất" ra ở huyệt Ẩn Bạch, huyệt Ẩn Bạch nằm ở mép trong đầu ngón chân cái, thuộc huyệt Tỉnh Mộc. Đến giờ Can Chi 68 Tân Mùi, Phế Huyết "lưu" vào huyệt Ngư Tế, huyệt Ngư Tế nằm ở chỗ giống hình con cá trên lòng bàn tay, thuộc huyệt Huỳnh. Đến giờ Can Chi 70 Quý Dậu, Thận Huyết "chú" vào huyệt Thái Khê, huyệt Thái Khê nằm ở chỗ lõm vào của trên xương gót và sau mắt cá trong, thuộc huyệt Du. Cũng tại giờ Can Chi 70 Quý Dậu xảy ra hiện tượng Phản bản hoàn nguyên của Ngày đường kinh vỵ chủ đạo. Tỳ Huyết "quá" vào huyệt Thái Bạch, huyệt Thái Bạch nằm ở dưới xương mé trong bàn chân, thuộc huyệt Du. Đến giờ Can Chi 72 Ất Hợi, Can Huyết "hành" vào huyệt Trung Phong, huyệt Trung Phong nằm ở chỗ lõm vào trước mắt cá trong 1 thốn rưỡi - Nếu châm nghịch thì bị uất, nếu châm hòa thì được thông. Nên co duỗi bàn chân để thủ được huyệt, huyệt này thuộc huyệt Kinh. Sang tiếp ngày Can Canh: Giờ Can Chi thứ 74 Đinh Sửu, Tâm Huyết "nhập" vào huyệt Thiếu Hải, huyệt Thiếu Hải có vị trí khi co tay lại, huyệt nằm ở cuối đầu nếp gấp khuỷu tay, mặt trong cánh tay, cách mỏm trên lồi cầu trong 0.5 thốn, thuộc huyệt Hợp. Đến giờ Can Chi 76 Kỷ Mão, Tâm Bào Huyết "trút" vào huyệt Gian Sử, đường đi của Gian Sứ nằm ở ngay nơi cách (cổ tay) 3 thốn, giữa hai đường gân - Khi nào có bệnh thì mạch nó đến, khi nào không bệnh thì ngưng, thuộc huyệt Kinh. ĐOẠN 07-NGÀY ĐƯỜNG KINH TỲ CHỦ ĐẠO-HUYỆT KHẮC KINH Ngày-CanGiờ-Can ChiKinh TạngLoại HuyệtTên HuyệtGhi ChúKỷ66 Kỷ TỵTỳM-TỉnhẨn BạchTỳ Huyết "xuất" ra ở Huyệt Ẩn Bạch.Kỷ68 Tân MùiPhếH-HuỳnhNgư TếPhế Huyết "Lưu" vào ở Huyệt Ngư Tế.Kỷ70 Quý DậuThậnW-DuThái KhêThận Huyết "chú" vào ở Huyệt Thái Khê.Kỷ70 Quý DậuTỳW-DuThái BạchTỳ Huyết "quá" nơi Huyệt Thái Bạch. Huyệt hoà Kinh.Hiện tượng phản bản hoàn nguyên. Kỷ72 Ất HợiCanK-KinhTrung PhongCan Huyết "hành" vào ở Huyệt Trung Phong.Canh74 Đinh SửuTâmT-HợpThiếu HảiTâm Huyết "nhập" vào ở Huyệt Thiếu Hải.Canh76 Kỷ MãoTâm BàoK-KinhGian SửTâm Bào Huyết "trút" vào ở Huyệt Gian Sử. Kinh sinh Huyệt. ĐOẠN 08-NGÀY ĐƯỜNG KINH ĐẠI TRƯỜNG CHỦ ĐẠO-KINH HOÀ HUYỆT Kích thước xem thử: 309 × 309 điểm ảnh Độ phân giải tối đa](1.188 × 1.188 điểm ảnh, kích thước: 1,36 MB, định dạng MIME: image/jpeg) Miêu tả Miêu tả: Bảng ngày đường kinh đại trường chủ đạo trong hệ thống thời châm tý ngọ lưu chú Chính lý và minh hoạ: Rubi_Lê Đức Hồng Phiên bản: bộ 3.0 Ngày xuất tập tin: 02-01-2010 Chi tiết cấp cao Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Không gian màu: sRGB Ngày Can Canh: Giờ Can Chi 77 Canh Thìn, Đại Trường Khí "xuất" ra ở huyệt Thương Dương, huyệt Thương Dương nằm ở đầu ngón tay trỏ, phía ngón tay cái, thuộc huyệt Tỉnh Kim. Đến giờ Can Chi 79 Nhâm Ngọ, Bàng Quang Khí "lưu" vào huyệt Thông Cốc, huyệt Thông Cốc nằm ở mép ngoài của xương bản tiết, thuộc huyệt Huỳnh. Đến giờ Can Chi 81 Giáp Thân, Đởm Khí "chú" vào huyệt Túc Lâm Khấp, huyệt Lâm Khấp nằm ở chỗ lõm, cách trên (huyệt Hiệp khê) 1 thốn rưỡi, thuộc huyệt Du. Cũng tại giờ Can Chi 81 Giáp Thân xảy ra hiện tượng Phản bản hoàn nguyên của Ngày đường kinh đại trường chủ đạo. Đại Trường Khí "quá" nơi huyệt Hợp Cốc, huyệt Hợp Cốc nằm ở trong khoảng giữa của xương kỳ cốt, thuộc huyệt Nguyên. Đến giờ Can Chi 83 Bính Tuất, Tiểu Trường Khí "hành" vào huyệt Dương Cốc, huyệt Dương Cốc ở chỗ lõm phía dưới của xương nhô lên (nhuệ cốt) thuộc huyệt Kinh. Sang tiếp ngày Can Tân: Giờ Can Chi 85 Mậu Tý, Vỵ Khí "nhập" vào huyệt Túc Tam Lý, huyệt Túc Tam Lý ở dười mắt gối ngoài 3 thốn, phía ngoài xương mác khoảng một khoát ngón tay, nơi cơ cẳng chân trước, khe giữa xương chầy và xương mác, thuộc huyệt Hợp. Đến giờ Can Chi 87 Canh Dần, Tam Tiêu Khí "trút" vào huyệt Thiên Tỉnh, huyệt Thiên Tỉnh nằm ở chỗ lõm ngay trên đầu xương mép ngoài khủy tay, thuộc huyệt Hợp - co cánh chỏ lại để thủ huyệt. ĐOẠN 08-NGÀY ĐƯỜNG KINH ĐẠI TRƯỜNG CHỦ ĐẠO-KINH HOÀ HUYỆT Ngày-CanGiờ-Can ChiKinh PhủLoại HuyệtTên HuyệtGhi ChúCanh77 Canh ThìnĐại TrườngK-TỉnhTh.ng DươngĐại Trường Khí "xuất" ra ở Huyệt Thương Dương.Canh79 Nhâm NgọBàng QuangT-HuỳnhThông CốcBàng Quang Khí "Lưu" vào ở Huyệt Thông Cốc.Canh81 Giáp ThânĐởmM-DuT.Lâm KhấpĐởm Khí "chú" vào ở Huyệt T.Lâm Khấp.Canh81 Giáp ThânĐại TrườngNguyênHợp CốcĐại Trường Khí "quá" nơi Huyệt Hợp Cốc. Hiện tượng phản bản hoàn nguyên Canh83 Bính TuấtTiểu TrườngH-KinhDương CốcTiểu Trường Khí "hành" vào ở Huyệt Tiểu Trường.Tân 85 Mậu TýVỵW-HợpT.Tam LýVỵ Khí "nhập" vào ở Huyệt T.Tam Lý.Tân87 Canh DầnTam TiêuW-HợpThiên TỉnhTam Tiêu Khí "trút" vào ở Huyệt Thiên Tỉnh. ĐOẠN 09-NGÀY ĐƯỜNG KINH PHẾ CHỦ ĐẠO-KINH KHẮC HUYỆT Kích thước xem thử: 231 × 309 điểm ảnh Độ phân giải tối đa](888 × 1.188 điểm ảnh, kích thước: 1.004 kB, định dạng MIME: image/jpeg) Miêu tả Miêu tả: Bảng ngày đường kinh phế chủ đạo trong hệ thống thời châm tý ngọ lưu chú Chính lý và minh hoạ: Rubi_Lê Đức Hồng Phiên bản: bộ 3.0 Ngày xuất tập tin: 02-01-2010 Chi tiết cấp cao Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Không gian màu: sRGB Ngày Can Tân: Giờ Can Chi 88 Tân Mão, Phế Huyết "xuất" ra ở huyệt Thiếu Thương, huyệt Thiếu Thương nằm ở mép ngoài đầu ngón tay cái, thuộc Tỉnh Mộc. Đến giờ Can Chi 90 Quý Tỵ, Thận Huyết "lưu" vào huyệt Nhiên Cốc, huyệt Nhiên Cốc nằm dưới xương nhiên cốt, thuộc huyệt Huỳnh. Đến giờ Can Chi 92 Ất Mùi, Can Huyết "chú" vào huyệt Thái Xung, huyệt Thái Xung nằm ở chỗ lõm vào cách huyệt Hành Gian 2 thốn, thuộc huyệt Du. Cũng tại giờ Can Chi 92 Ất Mùi xảy ra hiện tượng Phản bản hoàn nguyên của Ngày đường kinh phế chú đạo. Phế Huyết "quá" vào huyệt Thái Uyên, huyệt Thái Uyên nằm ở sau huyệt Ngư Tế 1 thốn, ở giữa chỗ lõm vào, thuộc huyệt Du. Đến giờ Can Chi 94 Đinh Dậu, Tâm Huyết "hành" vào huyệt Linh Đạo, huyệt Linh Đạo ở mặt trước trong cẳng tay, trên nếp gấp cổ tay 1.5 thốn, thuộc huyệt Kinh. Đến giờ Can Chi 96 Kỷ Hợi, Tỳ Huyết "nhập" vào huyệt Âm Lăng Tuyền, huyệt Lăng Tuyền thuộc Âm nằm ở chỗ lõm vào của phía dưới xương ống chân (phụ cốt) - duỗi chân ra để thủ huyệt, thuộc huyệt Hợp. Đến giờ Can Chi 98 Tân Sửu, Tâm Bào Huyết "trút" vào huyệt Khúc Trạch, huyệt Khúc Trạch nằm ở chỗ lõm vào của mép trong cánh chỏ, co tay lại để thủ huyệt, thuộc huyết Hợp. ĐOẠN 09-NGÀY ĐƯỜNG KINH PHẾ CHỦ ĐẠO-KINH KHẮC HUYỆT Ngày-CanGiờ-Can ChiKinh TạngLoại HuyệtTên HuyệtGhi ChúTân88 Tân MãoPhếM-TỉnhThiếu ThươngPhế Huyết "xuất" ra ở Huyệt Thiếu Thương.Tân90 Quý TỵThậnH-HuỳnhNhiên CốcThận Huyết "Lưu" vào ở Huyệt Nhiên Cốc.Tân92 Ất MùiCanW-DuThái XungCan Huyết "chú" vào ở Huyệt Thái Xung.Tân92 Ất MùiPhếW-DuThái UyênPhế Huyết "quá" nơi Huyệt Thái Uyên. Huyệt sinh Kinh.Hiện tượng phản bản hoàn nguyên. Tân94 Đinh DậuTâmK-KinhLinh ĐạoTâm Huyết "hành" vào ở Huyệt Linh Đạo.Tân96 Kỷ HợiTỳT-HợpÂ.Lăng TuyềnTỳ Huyết "nhập" vào ở Huyệt Â.Lăng Tuyền.Nhâm98 Tân SửuTâm BàoT-HợpKhúc TrạchTâm Bào Huyết "trút" vào ở Huyệt Khúc Trạch. ĐOẠN 10 - NGÀY ĐƯỜNG KINH BÀNG QUANG CHỦ ĐẠO-HUYỆT SINH KINH Kích thước xem thử: 309 × 309 điểm ảnh Độ phân giải tối đa](1.188 × 1.188 điểm ảnh, kích thước: 1,36 MB, định dạng MIME: image/jpeg) Miêu tả Miêu tả: Bảng ngày đường kinh bàng quang chủ đạo trong hệ thống thời châm tý ngọ lưu chú Chính lý và minh hoạ: Rubi_Lê Đức Hồng Phiên bản: bộ 3.0 Ngày xuất tập tin: 02-01-2010 Chi tiết cấp cao Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Không gian màu: sRGB Ngày Can Nhâm: Giờ Can Chi 99 Nhâm Dần, Bàng Quang Khí "xuất" ra ở huyệt Chí Âm, huyệt Chí Âm nằm ở đầu ngón chân út, thuộc huyệt Tỉnh kim. Đến giờ Can Chi 101 Giáp Thìn, Đởm Khí "lưu" vào huyệt Hiệp Khê, huyệt Hiệp Khê nằm ở khe chân của ngón út và áp út, thuộc huyệt Huỳnh. Đến giờ Can Chi 103 Bính Ngọ, Tiểu Trường Khí "chú" vào huyệt Hậu Khê, huyệt Hậu Khê nằm ở sau bản tiết, mép ngoài bàn tay, thuộc huyệt Du. Cũng tại giờ Can Chi 103 Bính Ngọ xảy ra hiện tượng Phản bản hoàn nguyên của ngày đường kinh bàng quang chủ đạo. Bàng Quang Khí "quá" nơi huyệt Kinh Cốt, huyệt Kinh Cốt nằm ở dưới xương to phía ngoài của chân, thuộc huyệt Nguyên. Đồng thời, tham gia cùng hiện tượng Phản bổn hoàn nguyên, Tam Tiêu Khí "quá" vào huyệt Dương Trì, huyệt Dương Trì nằm ở chỗ lõm của cổ tay, thuộc huyệt Nguyên. Đến giờ Can Chi 105 Mậu Thân, Vỵ Khí "hành" vào huyệt Giải Khê, huyệt Giải Khê nằm trên huyệt Xung Dương 1 thốn rưỡi, thuộc huyệt Kinh. Đến giờ Can Chi 107 Canh Tuất, Đại Trường Khí "nhập" vào huyệt Khúc Trì (*), huyệt Khúc Trì ở vị trí co khuỷu tay vào ngực, huyệt ở đầu lằn chỉ nếp gấp khủy, nơi bám của cơ ngửa dài, cơ quay 1, cơ ngửa ngắn khớp khuỷu. Đến giờ Can Chi 109 Nhâm Tý, Tam Tiêu Khí "trút" vào huyệt Quan Xung, huyệt Quan Xung nằm ở đầu ngón tay áp út, về phía ngón út, thuộc huyệt Tỉnh Kim. Chú thích: (*) Khúc Trì: Theo mốt số sách mới như Tích hợp đa văn hóa đông tây hay Châm cứu theo giờ thì tại thời điểm giờ Can Chi 107 Canh Tuất, huyệt Khúc Trì được mở, nhưng theo tài liệu Hoàng Đế Nội Kinh Linh Khu thì thấy không có huyệt Khúc Trì mà chỉ có huyệt Dương Khê. Tuy nhiên huyệt Dương Khê đã tham gia mở ở giờ thứ 17 theo sách mới. Vậy Rubi theo sách mới. ĐOẠN 10-NGÀY ĐƯỜNG KINH BÀNG QUANG CHỦ ĐẠO-HUYỆT SINH KINH Ngày-CanGiờ-Can ChiKinh PhủLoại HuyệtTên HuyệtGhi ChúNhâm99 Nhâm DầnBàng QuangK-TỉnhChí ÂmBàng Quang Khí "xuất" ra ở Huyệt Chí Âm.Nhâm101 Giáp ThìnĐởmT-HuỳnhHiệp KhêĐởm Khí "Lưu" vào ở Huyệt Hiệp KhêNhâm103 Bính NgọTiểu TrườngM-DuHậu KhêTiểu Trường Khí "chú" vào ở Huyệt Hậu KhêNhâm103 Bính NgọBàng QuangNguyênKinh CốtBàng Quang Khí "quá" nơi Huyệt Kinh Cốt.Hiện tượng phản bản hoàn nguyên. Nhâm103 Bính NgọTam TiêuNguyênDương TrìTam Tiêu Khí "quá" nơi Huyệt Dương Trì.Tham gia cùng Hiện tượng phản bản hoàn nguyên. Nhâm105 Mậu ThânVỵH-KinhGiải KhêVỵ Khí "hành" vào ở Huyệt Giải Khê.Nhâm107 Canh TuấtĐại trườngW-HợpKhúc TrìĐại trường Khí "nhập" vào ở Huyệt Khúc Trì.Quý109 Nhâm TýTam TiêuK-TỉnhQuan XungTam Tiêu Khí "trút" vào ở Huyệt Quan Xung. Huyệt sinh Kinh. ĐOẠN 11 - KHOẢNG THỜI GIAN BẾ HUYỆT Một chu kỳ của Tý Ngọ Lưu Chú diễn biến trong 10 ngày lịch Can Chi, từ ngày can Giáp đến ngày can Quý, tức là trong khoảng thời gian 120 giờ cổ và cũng là 240 tiếng giờ thường. 120 giờ cổ trong Tý Ngọ Lưu Chú được chia thành 11 khoảng, và khoảng thứ 11 là khoảng thời gian bế huyệt. Khoảng thời gian bế huyệt nằm trong ngày Can Quý, từ đầu giờ Can Chi 110 Quý Sửu đến hết giờ Can Chi 119 Nhâm Tuất. ĐOẠN 11-KHOẢNG THỜI GIAN BẾ HUYỆT Ngày-CanGiờ-Can ChiGhi ChúQuýQuý Quý Quý Quý Quý Quý Quý Quý Quý 110 Quý Sửu111 Giáp Dần 112 Ất Mão 113 Bính Thìn 114 Đinh Tỵ 115 Mậu Ngọ 116 Kỷ Mùi 117 Canh Thân 118 Tân Dậu 119 Nhâm Tuất Một chu kỳ của Tý Ngọ Lưu Chú diễn biến trong 10 ngày lịch Can Chi, từ ngày can Giáp đến ngày can Quý, tức là 10 (thiên can) x12 (địa chi) = 120 giờ cổ, cũng là 240 tiếng giờ thường. Chu kỳ này được chia thành 11 đoạn, trong số đó 10 đoạn đầu gọi là 10 ngày đường kinh chủ đạo, và đoạn thứ 11 là khoảng thời gian bế huyệt. Khoảng thời gian bế huyệt nằm trong ngày Can Quý, từ đầu giờ Can Chi 110 Quý Sửu đến hết giờ Can Chi 119 Nhâm Tuất. Còn tiếp1 like
-
Vậy nhinhi đã hiểu ý nghiã của cách bát sinh tử - đi tám bước sinh đứa con. Ngoài trừ kinh thư trong nội, không có sách nào hiện nay viết về ngũ hành - kim hỏa mộc thủy thổ. Hiện nay có 3 cuốn binh thư trên thế giới có ghi chi tiết nầy, và huynh cũng biết cả 3 chủ nhân đó. Vì vậy huynh biết nhinhi chưa đọc qua sách nầy. Tự tiềm tự hiểu. Giỏi, đệ Vô Tri nói đúng: nhinhi quả là một nhân tài hiếm có Huynh Đào Hoa ps: Môn mà huynh dùng thường xuyên là môn kinh dịch. Môn mà huynh thích nhất là môn Tử Vi Thiên Văn Học. Nhưng môn huynh giỏi nhất là môn Phong Thủy. Christmas năm nay các huynh đệ muội gặp nhau, huynh sẽ tặng muội một cuốn sách quý về Phong Thủy.1 like
-
Cuối năm, khi những cơn gió lạnh mùa đông đến, theo tập quán của người Việt, những gia đình có người chết quá 3 năm thì tiến hành bốc mộ. Đây là công việc gây nhiều lo lắng, hoang mang cho mỗi gia đình. Những người con cháu quan niệm rằng, đây là cơ hội cuối cũng lo lắng cho người đã quá cố. Ngoài việc giữ trọn đạo hiếu với người đã khuất, đây còn là dịp để quan tâm đến Phong Thuỷ âm phần, theo truyền thống tâm linh người Việt, ngoài việc giúp cho vong linh được an lành, còn góp phần thúc đẩy sự thành công và may mắn cho các thành viên trong gia đình sau khi cải táng. Để giúp bạn đọc có những kinh nghiệm cần thiết trước khi tiến hành việc này, tôi sẽ hệ thống lại các công việc cần thiết theo Phong Thuỷ, cho mỗi gia đình tham khảo trước khí tiến hành việc đại sự … 1. Chọn lựa thời điểm : Chọn lựa thời điểm để cải táng là một việc vô cùng quan trọng. Theo phong tục của người Việt Nam, người mất sau 3 năm thì cải táng, cũng là lúc con cháu mãn tang, tức là hoàn toàn hết để tang vong linh. Vì thế, việc cải tháng thường được tiến hành sau 3 năm chôn hung táng. Tuy nhiên, hiện nay thực tế môi trường địa lý và khí hậu có nhiều thay đổi, các hoá chất được sử dụng nhiều trong đất để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng sau 3 năm xác người chết chưa phân huỷ diễn ra khá phổ biến, nên nhiều gia đình lựa chọn giải pháp là để thời gian cải tháng lâu từ 4 đến 5 năm để tránh hiện tượng trên. Năm để tiến hành cải táng phải lựa chọn theo tuổi của vong, tránh những năm xung sát. Ngoài ra còn phải căn cứ theo tuổi của trưởng nam trong nhà, vì khi vong đã mất thì mọi sự may rủi đều gánh trên vai của người trưởng nam. Năm để tiến hành cải táng cũng phải được phù hợp với tuổi của người trưởng nam. Một vấn đề được quan tâm nhiều nhất, đó là trường hợp mộ kết. Theo quan niệm của Phong Thuỷ, khi được chôn vào huyệt tốt thì sau một thời gian mộ sẽ kết phát. Nếu mộ kết phát thì con cháu sẽ thuận lợi, nhiều thành tựu, may mắn. Nếu mộ kết mà tiến hành cải táng thì không những mộ bị mất kết mà còn gặp nhiều điều rủi ro cho gia đình. Vì thế cần thẩm định kỹ mộ trước khi cải táng xem mộ có phải là mộ kết hay không. Nhìn mộ có thể đoán định được bằng các đặc điểm sau : - Huyệt đất trước khi tiến hành hung táng là một huyệt đất mới chưa được đào xới - Mộ có đất vững chắc, nếu lấy một cây gậy cắm vào mộ thì đất rất chắc, khó có thể cắm được. Mộ không có nứt lún hoặc các hang hốc do các loài vật làm tổ. - Khí của mộ tươi tốt, cỏ cây trên và xung quanh mộ được xanh tươi - Đất của mộ nổi cao lên rõ rệt, xung quanh và trên mộ đất đùn lên trông thấy kích thước phát triển quá mức ban đầu. Các bạn lưu ý rằng, nên nhờ một thầy chuyên gia có kinh nghiệm Phong Thuỷ chính tông tiến hành xem xét cẩn thận trước khi cải táng, nếu không biết mà tự ý tiến hành thì sẽ dẫn đến những hậu qủa khó lường. Nếu là một kế thì không nên cải táng, xây dựng, mà chỉ cần trong coi mộ cho cẩn thận, hoặc chỉ xây hàng rào thấp bao xung quang mộ. 2. Chọn lựa huyệt đất mới : Khi đã chọn lựa được thời điểm tiến hành thì người trong gia đình sẽ phải chọn lựa một huyệt đất mới để chuyển hài cốt sang. Ngày xưa, điều kiện đất đai còn rộng lớn thì việc này tương đối dễ dàng. Ngày nay, đất chật người đông, diện tích đất dành cho người chết cũng rất hạn chế. Thường ở địa phương sẽ tiến hành bố trí cho gia đình một huyệt đất mới ở cùng nghĩa trang nơi hung táng. Nếu các gia đình có nhu cầu chọn lựa phải mua đất ở nơi khác rồi chuyển hài cốt về. Việc chọn lưạ huyệt đất là tương đối khó khăn, để tìm được vị trí mới tốt lành, cần lưu ý các điểm sau đây : - Huyệt mộ là nơi đất mới chưa từng bị chôn lấp, đào xới. Khí đất của huyệt tươi tốt, đất rắn chắc tươi tắn. Nếu là vùng đồng bằng thì đất tươi mịn, có mùi thơm, đào lên phía dưới độ 6,70cm đất đặc quánh, có màu vàng nhạt hoặc màu nâu đậm. Nếu là miền sơn cước thì đất mịn màng, tuy khô nhưng có màu vàng nhạt. - Kỵ nhất là huyệt là nơi đất tơi xốp, có chứa nhiều rác rưởi, hoặc có nguồn nước thải bị ô nhiễm. Đào lên ở đáy huyệt phải có mạch nước ngầm chảy dưới huyệt. Màu sắc của nước trong xanh, mùi thơm, tránh nước bị ô nhiễm hoặc nước có mùi hôi. Những huyệt ở đồng bằng thì kỵ không có nước ở dưới huyệt. - Ở các vùng nghĩa trang nơi quy tập nhiều mộ, thường bị tình trạng quá tải về diện tích, các mộ chen lấn nhau. Tránh huyệt bị các mộ xung quanh lấn chiểm, hoặc nằm án ngữ ngay trước phần mộ, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh mộ. Nếu chọn được huyệt phía trước rộng thoáng, lại nhìn ra ao hồ hay sông suối là đắc cách. Trường hợp đất đai quá hiếm không chọn được huyệt có phía trước thoáng rộng thì tối thiểu cũng phải có một khoảng đất trống nằm ngay phía trước huyệt mộ. - Quan sát cẩn thận hệ thống đường đi xung quanh huyệt. Nếu huyệt có đường đi đâm thẳng vào giữa hoặc đâm xuyên sang hai bên thì chủ về phá bại không thể dùng. Đường đi sát ngay phía sau huyệt cũng tối kỵ chủ tổn hại nhân đinh. Tốt nhất chọn huyệt nơi yên tĩnh xa cách với đường đi lối lại quanh khu vực mộ. - Ở vùng núi non thì cần thẩm định huyệt theo những tiêu chí của địa lý chính tông. Huyệt cần được bao bọc có long hổ hai bên ôm lấy huyệt, phía sau có cao sơn che chắn, phía trước có minh đường thuỷ tụ… Các bạn lưu ý rằng, nên nhờ một thầy chuyên gia có kinh nghiệm Phong Thuỷ chính tông tiến hành xem xét cẩn thận trước khi cải táng, nếu không biết mà tự ý tiến hành thì sẽ dẫn đến những hậu qủa khó lường. 3. Các bước tiến hành : Bước 1 : Chọn ngày giờ Hoàng đạo : Cần tiến hành chọn lựa thời điểm phù hợp, tháng được chọn nên tránh tháng xung khắc với tuổi trưởng nam, tuổi của vong linh. Trong tháng chọn ra 2 ngày tốt gần nhau để tiến hành việc đào huyệt, xây mộ mới và ngày giờ tiến hành đưa hài cốt sang huyệt mộ mới. Ngày giờ tiến hành xây huyệt mộ mới thường chọn trước ngày bốc mộ khoảng 1 tuần. Những giờ tiến hành bốc thường là các giờ về đêm, theo quan niệm âm dương, hài cốt thuộc âm thì nên tiến hành vào các giờ âm để tránh xung hại. Các giờ này là các giờ Hợi, Tí, Sửu, Dần (11h đêm đến 5h sáng) Bước 2 : Nghi thức tiến hành : Vào ngày tiến hành động thổ xây huyệt mộ mới. Trước giờ khởi công, trưởng nam cùng gia đình sắm sửa lễ để cúng quan thần linh, vì theo quan niệm của tín ngưỡng Việt nam, trước khi làm việc gì cũng phải xin phép Thần Linh bản cảnh chứng giám để gia đình tiến hành công việc được thuận lợi. Lễ vật gồm hoa quả, tiền vàng, lễ mặn, gạo muối,…. Sau khi khấn Thần Linh thì tiến hành động thổ xây dựng. Huyệt thường được đào và xây vuông xung quanh huyệt, phía dưới không xây chỉ để lớp đất bằng để hạ quách dựng hài cốt xuống. Lưu ý : Kích thước xây chỉ vừa đủ rộng hơn quách mỗi chiều khoảng 10-20cm. Phía dưới không được láng xi măng để tránh bị âm dương ngăn cách. Nếu đất rắn chắc thì không cần xây tường xung quanh huyệt. Độ nông sâu của huyệt cũng cần được xem xét rất cẩn thận, phải đào hết lớp đất mặt, thường đào đến lớp đất thịt khoảng 50-60 cm. Tuy nhiên, cần phải nhờ một thầy có kinh nghiệm thẩm định độ nông sâu của huyệt. Công việc chính và quan trọng nhất là tiến hành đưa hài cốt sang huyệt mộ mới. Hài cốt sau khi được bốc, xếp gon gàng vào tiểu sành sẽ được đưa sang huyệt mới để hạ xuống và lấp đất lên. Sau đó gia đình sẽ tiến hành hoàn thiện phần xây dựng mộ. Mộ xây dựng bao giờ cũng phải có phần thông thiên, tức khoảng đất trên mặt mộ để dương khí giáng xuống. Bước 3 : Hoàn tất Sau khi mọi việc xây dựng đã hoàn tất, bước cuối cùng là nghi lễ tiến hành lễ tạ phần mộ và cúng cho vong linh được yên ổn, siêu thoát. Theo phong tục truyền thống, lễ vật chuẩn bị bao gồm lễ mặn và lễ chay, ngoài ra còn có đồ mã như ngựa, quần áo, vàng mã. Sau đó gia đình tiến hành lễ tạ quan Thần Linh, lễ điền hoàn long mạch. Những gia đình có truyền thống Phật giáo thì tổ chức nghi lễ cầu siêu cho vong linh được siêu thoát. Trên đây là những cách thức cơ bản về Phong Thuỷ và tâm linh cho việc cải táng, một việc làm cuối cùng để yên tâm cho người sống và người đã khuất. Ngoài những yếu tố vô hình về Phong Thuỷ và tâm linh, đây còn là dịp để mọi người có cơ hội thể hiện lòng hiếu thảo với cha ông của mình, sum họp với gia đình và dòng họ, một việc làm rất có ý nghĩa trong trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Nguồn:nhantrachoc.net.vn1 like
-
b. THỜI PHỤC HƯNG 1 . Triều :Đinh Hoàn hay Đinh Hoàng Hoa sử gọi là : BắcChu vua Vũ văn Giác Niên đại : 557 – 581 Vũ Văn Thái nắm toàn quyền đất Tây Ngụy là sự khởi đầu để con là Vũ Văn Giác tuyên bố sự phục hưng của dân Trung Hoa, với quốc hiệu Chu. Sử Trung Hoa gọi là Bắc Chu, Chu biến âm từ từ Chiêu như trước đã nói. Phân tích ý nghĩa danh hiệu 2 ông có thể khẳng định: Vũ Văn Thái là vua tổ, Thái là tổ. Vũ Văn Giác chỉ vua khai quốc ; vua Văn thứ nhất, Giác là biến âm của Giáp, Can thứ nhất trong Thập Can . Sử Việt Nam đặt tên triều phục hưng này là Đinh Hoàng chính xác là Đinh Hoàn nghĩa là vua họ Đinh, quốc danh thời phục hưng huy hoàng này được Đinh Hoàng đặt tên là Đại Cồ Việt, ‘Cồ’ là âm Nôm cũng có nghĩa là to lớn . Chỉ nghe tên Vũ văn Thái- Vũ văn Giác ta đã cảm thấy ngay thanh điệu Việt chẳng cần phải phân tích từ ngữ chi cả. Theo Việt nam sử lược của Trần trọng Kim thì thời vua Đinh nước ta có 10 đạo quân , nếu căn cứ vào ‘phép’ tổ chức quân đội nhà Đinh thì 1 đạo có 10 quân , 1 quân có 10 lữ , 1 lữ có 10 tốt , 1 tốt có 10 ngũ và 1 ngũ có 10 người ...cứ vậy nhân lên thì nhà Đinh có đạo quân khổng lồ là 1 triệu người ,thử hỏi nếu nhà Đinh là nước mà lãnh thổ chỉ là đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh và bắc bộ thì lấy đâu ra người mà xung quân lắm thế ? lấy lương thực đâu mà nuôi ? Theo sử Trung Hoa thì nước Bắc Chu truyền được 5 đời vua, đánh diệt Bắc Tề hậu thân của Đông Ngụy, thống nhất miền Hoa Bắc. Năm đời đế của Đại Cồ Việt hay 5 Đinh Hoàng: Hiếu Mẫn Đế: Vũ Văn Giác – Vua Văn Giác Minh Đế: Vũ Dụ – Vua Dụ Vũ Đế: Vũ Dung – Vua Dung Tuyên Đế: Vũ Huân – Vua Huân Tĩnh Đế: Vũ Xiễn – Vua Xiễn Vua cuối cùng là Chu Tĩnh Đế, đối chiếu với sử Việt là Vệ Vương lên ngôi lúc 6 tuổi, quyền hành nằm trong tay Dương Kiên, cha của Thái hậu Dương Vân Nga. Ở đoạn này các sử gia Việt Nam đã sai lầm lớn : lấy sự kiện vua khai quốc nhà Tống là Triệu Khuông Dẫn thay thế nhà Hậu Chu chép thành chuyện Lê Hoàn thay ngôi Đinh Hoàn (sử Trung Hoa gọi là nhà Bắc Chu …) 2 sự kiện diễn ra y hệt nhau khiến ta khẳng định đã sự chép lẫn. Tên triều đại CHU và vua VĂN cho thấy rõ ràng có sự liên hệ với nhà CHU và Văn vương hay VĂN LANG . 2. Triều Lê Hoàng hay Lê đại Hành Hoa sử là : Nhà Tùy vua Dương Kiên Niên đại : 581 – 618 Dương Kiên phế ngôi của cháu ngoại và giáng xuống tước Vương, sử Việt Nam gọi Vệ Vương – Đinh Phế đế. Dương Kiên lên ngôi lập ra triều đại Tùy chữ Tùy này là đồng âm của chữ Sở , đất Hồ bắc xưa là nước Sở , người ở đấy gọi là TỦY-VIỆT hay VIỆT TỦY gọi là ‘nhà TÙY’ chỉ là sự bóp méo của sử Trung quốc ; chính xác phải gọi là triều VIỆT TỦY một triều đại của người họ HÙNG . Vì có sự đoạt ngôi không theo khuôn phép truyền thống nên niên hiệu nhà Tùy không hề có chữ ‘Vũ’ nghĩa là vua, nói khác đi là lịch sử không công nhận là 1 triều đại chính thống như các triều đại Trung Hoa khác. sử Việt Nam gọi triều đại này là triều Lê Hoàn tức Lê Hoàng nghĩa là vua họ Lê. Lãnh thổ của vua Lê (Lê Hoàng) lúc lên ngôi đã là cả miền Hoa Bắc, vì đấy là đất cũ của người Man họ Thác bạt nên Lê Hoàng-Dương Kiên rất khôn khéo trong chính sách đối nội, vẫn tôn trọng quý tộc Tiên Ty cho họ hưởng các đặc quyền đặc lợi của tầng lớp trên nên không có cớ để họ nổi loạn. Lê Hoàng hay Vua Lê còn có tên là Lê Đại Hành. Hoa sử gọi Dương Kiên - Tùy Văn Đế đã tiến quân diệt Trần quốc của Trần hậu chủ thống nhất toàn cõi Trung Hoa năm 589, sử Trung Hoa chép: vì dân miền Hoa Nam vẫn coi Dương Kiên là người Nam, ý nói là người Trung Hoa chính gốc nên mau chóng khuất phục mở ra cảnh nước non thống nhất thái bình và thịnh trị. Lê Hoàn – Dương Kiên có tác phong của 1 người lính, rất kiên quyết, cứng rắn, rất kham khổ trong cuộc sống. Ông nhanh chóng tiêu diệt tất cả các thế lực cát cứ manh mún, diệt trừ tham quan ô lại, chia lại ruộng đất cho nông dân, nói chung các mặt kinh tế, giao thông, văn hóa đều có bươc phát triển. Ông cũng rất cẩn trọng cho việc kế tục ngôi vua, giáo dục người kế vị hết sức nghiêm khắc, nhưng trời không chiều lòng người, Dương Kiên đã tin lầm kẻ gian manh và mắc lõi lớn khi truyền ngôi cho Dương Quảng, sử Việt Nam gọi là Lê Long Đĩnh. Lê Long Đĩnh lên ngôi vua, sử Trung Hoa gọi là Tùy Dạng Đế, một kẻ say mê với những gì to lớn, ông ta cho xây Đông Đô cực kỳ tráng lệ, huy động sức lực cả nước để thỏa sự đam mê của mình bất chấp sự tàn tạ của dân chúng, công bình mà xét thì một trong những công trình được làm dưới đời ông đến nay dân chúng vẫn còn được hưởng lợi, đó là các vận hà mà Tùy Dạng Đế cho đào để nối liền các con sông lớn như Hoàng Hà, Hoài Thủy, Trường Giang, V.v… sử VN chép thành : Lê Hoàn cho đào kênh 'sắt' và kênh 'xước' ở bắc trung việt. Sự chịu đựng của con người có giới hạn, đến một mức nào đó người dân không còn cách nào khác là vùng lên để tự cứu lấy mình. Dạng Đế chạy về thành Kiến Nghiệp, ở đó ông ta bị chính binh lính mình giết chết. Sử Việt Nam mô tả rất rõ sự tàn ác của Lê Ngọa Triều … như róc mía trên đầu nhà sư, đốt chết tù nhân, thả người trôi sông … nói tóm lại tàn ác không thua Kiệt, Trụ thời xưa. 3. Triều Lý 1 - Lý công Uẩn . Hoa sử gọi là : Nhà Đường vua Lý Uyên Niên đại : [618-684][705-907] Lý Uyên là quý tộc triều Tùy, tước Đường Quốc Công, năm 617 Tùy Dạng Đế phái ông trấn thủ Thái Nguyên chống chọi với rợ Đột Quyết, là rợ ở Tây Bắc ngày nay Trung Hoa. Lý Uyên có 4 con trai trong đó Lý Thế Dân là hùng lược hơn cả. Sử Việt Nam gọi Lý Uyên là Lý Công Uẩn; nhưng sử Việt Nam lại chép 2 đời Lý thành một, khiến người sau không nhận ra, ở đây ta tạm gọi là Lý Công Uẩn 1 tức nhà Đường của sử Trung Hoa. Lý Công Uẩn 2 là triều do anh em Lưu Cung, Lưu Ẩn lập ra ở Giao Châu xưa, xưng là Đại Việt. Tùy Dạng Đế khi đã đi đến mức cùng cực của xa hoa đồi bại thì Lý Thế Dân nhìn rõ cục diện với cha khởi binh xây dựng đế nghiệp. Đầu tiên Lý Uyên mang quà cáp biếu xén Khả Hãn Đột Quyết, yên được mặt Bắc (HN) cha con nhà Lý đem “Đường quân” tấn công Trường An, quân nhà Tùy là lũ quân tướng hũ bại làm sao có thể chống chọi được, Lý Uyên vào Trường An tuyên bố 12 Điều Ước Pháp khiến an lòng dân, ông khôn khéo chưa lên ngôi vội mà đưa cháu nội Tùy Dạng Đế – Lê Long Đĩnh tên là Dương Hựu lên làm vua bù nhìn. Năm 618 Tùy Dạng Đế bị giết ở Giang Đô, Lý Uyên mới chính thức phế Dương Hựu để lên ngôi hoàng đế lấy quốc hiệu là Đường, Lý Uyên trở thành Đường Cao Tổ. Đất Đường, sử Việt Nam gọi là Việt Thường nằm ven sông đằng hay Thương Giang thời cổ xưa, sông Đường hay Thương Giang, Thường Giang là Dương Tử Giang ngày nay. Sử Trung Hoa gọi triều đại theo tên đất gốc, nên có tên nhà Đường; sử Việt Nam gọi theo họ của vua nên triều đại này là triều Lý, đặc biệt trong thiên khảo luận này thì đây là triều Lý thứ 1 vì còn triều Lý 2 . Cuộc khởi nghĩa của cha con Lý Uyên được nhân dân ủng hộ mạnh mẽ nên nhà Tùy sớm tiêu vong. Năm 627 Lý Thế Dân kế nghiệp cha lấy đế hiệu là Đường Thái Tông. Sử Việt Nam gọi Lý Thế Dân là Thái tử Phật Mã, đế hiệu cũng là Lý Thái Tông. Cả 2 dòng sử đều ghi chép về biến cố khi Thái Tông lên ngôi, tuy có tình tiết hơi khác nhưng chắc chắn là 2 sử liệu của cùng 1 sự việc. Để được kế nghiệp ngôi báu thì Lý Thế Dân – Thái tử Phật Mã đều trải qua cuộc tàn sát anh em của mình, sử Trung Hoa chép vị trung thần giúp Thế Dân chiến thắng là Uất Trì Kính Đức; còn sử Việt Nam gọi là Lê Phụng Hiểu. Lê Phụng Hiểu sau được Thái Tông ban thưởng bằng cách trèo lên núi ném con dao, con dao đi đến đâu thì chỗ ấy là đất riêng ban cho ông, sự việc này được truyền thuyết Việt Nam gọi là “Thác Đao Điền”. 2 dòng sử Việt – Hoa còn chép trùng nhau về một số sự kiện nữa: Sử Trung Hoa có chuyện Đường tam Tạng tây du thỉnh kinh Phật , sau này hư cấu thành chuyện Tây Du Ký nổi danh. Còn sử Việt Nam chép: … vua sai Nguyễn Đạo Thành sang Trung Hoa (?) xin kinh Tam Tạng đưa về nước. Đặc biệt việc tôn sùng Nho học, việc học hành thi cử của triều Lý – Đường được 2 dòng sử viết giống hệt nhau. Về võ công thì Đường Thái Tông sai Lý Tịnh một danh tướng toàn đức toàn tài tấn công lên hướng Bắc đánh tan quân Khiết Đan chiếm cả vùng Trung Á rộng lớn ở Tây Bắc Trung Hoa, uy danh Trung Hoa là việc ngoại giao với Trung Á thuận lợi từ đấy. Còn sử Việt Nam cũng ghi: … danh tướng Lý Thường Kiệt xuất quân Bắc phạt chỉ chiếm Châu Ung, Châu Khâm, và Châu Liêm của Tống quốc rồi rút về. Thực ra cuộc tiến công của Lý Thường Kiệt là xãy ra ở triều Lý 2. Còn nhiều sự kiện khácdo sử Việt Nam lồng 2 triều Lý làm một nên lẫn lộn rất nhiều. Triều Đường có Võ Hậu nắm triều chính xưng là Tắc Thiên Hoàng Đế, cải quốc hiệu là Chu làm gián đoạn Đường triều từ năm 685 tới 704. Còn sử Việt Nam chỉ chép có một thái phi tài đức vẹn toàn nhưng chỉ nhiếp chính sau bức rèm đó là Ỷ Lan Thái Phi. Năm 705 đại tướng Trương Giản Chi ép Võ Tắc Thiên thoái vị, tái lập lại Đường quốc. Triều Đường hay triều Lý 1 là một trong những triều đại dài nhất, nổi tiếng nhất đã tạo nên khuôn đúc Trung Hoa, đến tận thời cận kim người Hoa đã di cư ra nước ngoài sinh sống vẫn nhận mình là “Thoòng dành” tức Đường nhân đủ biết dấu ấn của triều Đường sâu tới đâu trong lịch sử Trung Hoa. Trên đất ngày nay là Việt nam nhà Đường cho lập đến 2 đô hộ phủ : An nam đô hộ phủ để trông coi các châu KIMI ở miền lĩnh nam xưa. Phong châu đô hộ phủ có sách chép là đô đốc phủ trông coi các châu KIMI thuộc miền tây bắc Việt nam tức đất Phong hay Phong châu xưa . Châu KIMI là gì ?. đó là vùng đất của các sắc dân thiểu số : KI là chép sai chữ CƠ , Việt ngữ là CẢ là dòng họ của Hùng Vũ thời lập quốc, sử Trung hoa chép Hiên viên là tổ họ CƠ ; ngày nay gọi chung là người Kađai. MI là họ của người thuộc Long tộc xưa , tức hậu duệ của Động đình quân , con cháu Long nữ, Đồ Sơn thị ngày nay gọi là người Tai. Các châu KIMI được hưởng quyền tự trị rộng rãi . Nhà Đường ý thức rất rõ về dòng giống đã tôn Lão tử-Lý Nhĩ là tổ của dòng tộc , vì Cơ và Mi là 2 dòng chính truyền của gốc tổ Trung hoa nên nhà Đường đã đặt 2 đô hộ phủ ở đất Việt làm công việc bảo hộ cho 2 sắc dân Kađai và Tai này. Đô hộ phủ chỉ nghĩa là cơ quan lo việc bảo trợ cho... không phải nghĩa chữ đô hộ là đè đầu cưỡi cổ như chúng ta quen dùng ngày nay. Nếu nhà Đường là 1 triều đại của đế quốc Hãn cai trị An nam thì ông Khương công phụ cao lắm là... được làm nông dân cày ruộng mà ăn ; làm gì có chuyện làm tới tể tướng và được vua Tàu rất qúi trọng ...như sử sách đã ghi . Xin hỏi các sử gia : ở Thiểm tây-Sơn tây có châu KIMI không ? Nếu không thì xin trả lại sự trung thực cho lịch sử Vì thiên khảo luận này không phải là sử ký , chỉ nghiên cứu lịch sử để tìm cái mới ,điều đúng , ở đây chỉ nhấn mạnh những sự kiện đặc biệt nhằm chứng minh cho sử thuyết nguồn gốc và những nét cơ bản của qúa trình dựng nước và giữ nước . Văn nhân, thi sĩ, võ tướng đời Đường nhiều vô kể, thực là một triều đại huy hoàng của dân họ Hùng, Người Việt ngày nay là truyền nhân chính thống và duy nhất của nền văn hóa – văn minh đời Đường vì toàn cõi Trung Hoa trừ Việt Nam đều chìm sâu dưới móng ngựa quân xâm lược phương Bắc từ cuối đời Tống đến tận đầu thế kỷ 20, dù muốn hay không chắc chắn đã diễn ra qúa trình lai tạp . Hiện các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã bắt đầu xác định : âm Hán Việt chính là âm ngữ đời Đường , khi nghe tên nhà Đường hay nước Đường người Việt thấy rất xa lạ nhưng biết đâu rằng đó chỉ là ký âm bằng Hán văn của từ VIỆT-THƯỜNG , tên gọi một thời của nước họ HÙNG .1 like