-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 08/11/2010 in all areas
-
Bác Thiên Sứ ơi, sau khi mẹ cháu sửa nhà theo phong thủy (chưa xong 100%) thì có một chuyện thế này xảy ra cách đây 2 hôm. Cháu đang ngủ trưa ở văn phòng thì sếp cháu gọi sang phiên dịch cho sếp vì có khách Mỹ đến chơi, đó là một cụ già tóc bạc trắng, bà ấy là một nghệ sĩ nhưng đã về hưu và công việc trước đây là vận động hành lang cho chính phủ, bà ấy có gửi tặng trung tâm Mỹ thuật đương đại một cái máy in. Sau khi nói chuyện với sếp cháu 1 tiếng đồng hồ về các chủ đề linh tinh (chiến tranh Việt Nam, Mỹ thuật thế giới...) cháu nói nhỏ với bà ấy rằng cháu cũng là một hoạ sĩ, và mời bà ấy xem tranh của cháu. Bà ấy bèn theo cháu sang phòng của cháu đề xem tranh và cháu nói với bà ấy rằng cháu đang tìm một xuất học bổng, vậy là bà ấy bảo bà ấy có thể giúp được và bảo cháu gọi bà ấy là grandmother rồi cho cháu thông tin liên lạc và hẹn ngày sang Mỹ. Nơi bà ấy định xin học bổng cho cháu là một trường đại học gần nhà bà ấy ở Santa Fe. Cháu rất hy vọng là bà ấy sẽ giúp được cháu. Cháu hy vọng được học chuyển tiếp từ cao đẳng lên đại học, không phải học lại từ đầu nữa. Phong thuỷ thật kỳ diệu vì lần nào cũng vậy, cứ sửa nhà (dù chỉ một ít) là có chuyện may mắn xảy ra. Cháu xin cám ơn Phong Thủy Lạc Việt.2 likes
-
Phong thủy Lạc Việt hiệu quả thì đúng rồi. Nhưng đó cũng chỉ là một nguyên nhân. Nguyên nhân chính là vì Rin86 ủng hộ văn hiến Việt, nến điều hợp lý tất yếu là tin theo PTLV và hiệu quả chính là kết quả tất yếu trên. Vusónganh cũng ủng hộ PTLV, nên có việc cho bác phát biểu trên truyền hình Đà Nẵng. Và PTLV xác định rằng: Năm nay không có bão lớn đánh vào Đà Nẵng (Mặc dù những năm gần đây, năm nào Đà Nẵng cũng bị). Tôi đang chờ kết quả, vì còn ba tháng nữa mới hết năm.2 likes
-
Hòn Ðá Ném Ði:
meiji liked a post in a topic by Thiên Sứ
HÒN ĐÁ NÉM ĐI. Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Ðến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ. Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi". Ði đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù. Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sach mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: "Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta". Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất. Leon Tolstoi1 like -
Hộ niệm lúc lâm chung Hộ niệm là niệm Phật cầu nguyện cho một bệnh nhân khi nhận thấy thuốc chữa trị không còn tác dụng đối với người ấy nữa, khi mà người bệnh sắp qua đời. Sự nhất tâm của người trợ niệm cùng với công năng của sự niệm Phật sẽ gia hộ cho người bệnh sớm chấm dứt đoạn hành trình cuối cùng trong cuộc đời mình. Hộ niệm là gì? Hộ niệm là niệm Phật cầu nguyện cho một bệnh nhân khi nhận thấy thuốc chữa trị không còn tác dụng đối với người ấy nữa, khi mà người bệnh sắp qua đời. Sự nhất tâm của người trợ niệm cùng với công năng của sự niệm Phật sẽ gia hộ cho người bệnh sớm chấm dứt đoạn hành trình cuối cùng trong cuộc đời mình. Nhờ vậy, người bệnh sẽ được tự do, thanh thản và được vãng sanh về cảnh giới của chư Phật. Không có gì hạnh phúc hơn được sống và chết như thế. Khổng Tử từng nói: "Người nào mà buổi sáng nghe được đạo, buổi chiều chết cũng thỏa lòng". Tại sao vậy? Tại vì chết không là gì cả đối với người đã nghe được đạo. Người ấy thật sự đã vượt lên trên những ý niệm tầm thường lúc họ chết. Hộ niệm chính là giúp họ đạt được điều này. Hộ niệm là cầu nguyện chư Phật và chư Phật ở đây là đạo vậy. Dù cho trong quá khứ họ đã làm gì đi nữa cũng không sao. Nếu trước đây họ có một chút ít phước thiện và trong lúc lâm chung lại được những người bạn đạo thân thiện đến hộ niệm thì họ vẫn có thể vượt thoát khổ đau. Nhờ sự hộ niệm, họ nghe được danh hiệu Phật và nhập vào chánh đạo nên được vượt thoát khổ đau. Phút lâm chung là thời điểm nguy kịch nhất đối với người hấp hối. Đấy cũng là cơ hội cuối cùng để cho người hấp hối có thể chuyển đổi. Cho nên, với tư cách là một người Phật tử, chúng ta phải hộ niệm cho mọi người khi cần thiết. Tại sao chúng ta cần phải hộ niệm? Chúng ta thường nghĩ rằng, khi một người tắt thở tức là người ấy đã chết. Điều này không hoàn toàn đúng. Theo sự diễn tả trong kinh thì sau khoảng 8 giờ đồng hồ, tâm thức sẽ tách khỏi thể xác và sẽ trở thành "thân trung ấm". Thân trung ấm là một trạng thái tâm thức trung gian giữa sự chết và tái sinh. Trong vòng 7 tuần sau, những người thân của người chết nên tiếp tục niệm Phật trợ duyên, tụng kinh, bái sám và mời những người Phật tử khác cùng hành lễ để trợ duyên cho người chết được siêu thoát. Ở đây có một vấn đề cần phải được làm sáng tỏ. Khi một người chết, xác thịt của người ấy trở về với cát bụi, nhưng còn phần tâm thức của người ấy thì sao, điều gì sẽ diễn ra với nó, nó có tồn tại mãi mãi không? Vấn đề này được kinh điển diễn tả rằng, trong vòng bảy tuần sau khi chết, ba loại nghiệp sẽ tham gia quyết định nơi đến của thần thức, nơi mà người ấy tái sinh. Ba loại nghiệp đó là: Trọng nghiệp, tập quán nghiệp và cận tử nghiệp. Trong đó, cận tử nghiệp có sự chi phối mạnh nhất. Thứ nhất là sự quyết định của trọng nghiệp. Trọng nghiệp là những việc lành lớn hoặc là những việc cực ác mà người ta đã từng làm lúc còn sống. Kết quả của những nghiệp ấy đã được xác định cụ thể. Người nào gieo những hạt giống thiện thì khi quả chín muồi, họ sẽ được sinh lên thiên giới hoặc thác sanh về cảnh giới của chư Phật. Nếu người nào gieo những hạt giống bất thiện thì kết quả họ sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh. "Tất cả những gì người ta đã tạo ra, dù tốt hay xấu, chính họ sẽ là người nhận lãnh những kết quả ấy". Thứ hai, con người thường có những thói quen và những sở thích. Người tốt thì có thói quen tốt và ngược lại, người xấu thì có thói quen xấu. Một khi sở thích đã trở thành thói quen thì khó lòng thay đổi được chúng. Khi một người mới chết, nếu không có sự chi phối nào khác thì người ấy sẽ đi theo những người có thói quen tương tự với mình và sẽ tái sinh ở đó. Thứ ba, cận tử nghiệp thường gắn liền với ý niệm của người hấp hối. Những ý niệm cuối cùng của người chết sẽ quyết định là sẽ tái sinh vào trong sáu cảnh giới của cõi dục hay là được thác sanh về cảnh giới của chư Phật. Ý niệm cuối cùng ấy rất quan trọng. Nếu người hấp hối không có những trọng nghiệp, cũng không có thói quen và ý niệm cuối cùng cũng không rõ ràng gì cả thì thần thức sẽ bị lấp lửng như những làn sóng vô tuyến. Khi người ấy nghe tiếng khóc than của người thân thì sẽ nảy sinh ý niệm muốn quay trở lại. Nếu lúc ấy mà nghe tiếng niệm Phật thì người đó sẽ không bị vướng bận bởi những âu lo của cuộc đời. Ý niệm muốn quay trở lại là nguyên nhân dẫn đến tái sinh trong sáu cõi hữu tình, trong khi ý niệm không bị ràng buộc bởi những lo âu của trần thế là nhân tố dẫn đến sự thác sanh về cảnh giới của chư Phật. Có một người Trung Quốc nói rằng: "Khi bạn đánh vào cái chiêng một nghìn lần, thì lần đánh sau cùng sẽ tạo nên âm thanh hòa điệu". Hộ niệm là "gõ lần cuối cùng để tạo nên sự hòa điệu" ấy. Có nghĩa là dùng sự hộ niệm để điều chỉnh ý niệm của người hấp hối, để khơi gợi và để tác động trực tiếp vào tâm thức của người ấy. Một ý niệm thiện lành thì sẽ đưa đến sự tái sanh ở cõi lành, một ý niệm bất thiện thì bị tái sinh vào ác đạo. Tuy nhiên, người sắp lâm chung cần phải được chăm sóc hết sức cẩn thận trong giờ hấp hối. Khi một người hấp hối là họ bắt đầu khởi một ý niệm, chúng ta phải hộ niệm để gợi mở, để truyền cảm hứng và để dẫn dắt dòng tâm thức của người đó. Đây là lý do mà chúng ta cần phải hộ niệm. Hộ niệm có lợi ích gì? Như quí vị đã biết, có bốn giai đoạn trong đời sống một con người, bốn giai đoạn ấy là: sanh, già, bệnh và chết. Chúng còn được biết đến như là bốn định luật của cuộc sống. Chúng ta hãy bỏ qua ba giai đoạn đầu và chỉ tập trung vào giai đoạn cuối cùng, đó là "chết". Từ xưa cho đến nay, đã có rất nhiều vị anh hùng, nhưng không có ai trong số họ thoát khỏi sự chết. Tuy nhiên, để chết trong yên bình hay không thì người ta có thể điều khiển được. Mọi người đều mong ước có được cuộc sống thú vị và yên bình. Cũng như vậy, mọi người mong ước được bình yên khi chết. Lúc hấp hối, người ta thường rơi vào bốn trạng huống: 1. lo âu về cái chết, 2. đau đớn, 3. không muốn dứt bỏ đời sống hiện tại và 4. không tỉnh táo. Nếu bốn trạng huống ấy không thực sự chi phối đến người chết, nhưng người ấy lại chết trong tiếng than khóc của người thân thì sẽ không thể ra đi một cách yên bình được. Tuy nhiên, nếu chúng ta hộ niệm cho người ấy lúc hấp hối thì chúng ta có thể truyền cảm hứng, an ủi, nhắc nhở và dẫn dắt người ấy hướng về chánh đạo. Trong tiếng niệm Phật, người ấy sẽ cảm thấy bớt căng thẳng hơn bởi sự nhớ nghĩ chơn chánh và tự thấy mình không còn bị ràng buộc bởi những lo âu, sợ hãi thường tình. Do đó, người ấy sẽ được tái sinh về cảnh giới của chư Phật một cách an nhiên. Khổng Tử nói rằng: "Khi con chim sắp chết, tiếng hót của nó thật não ruột, khi một người sắp chết, họ nói thật thân ái". Điều này chứng tỏ không ai muốn chết trong khi người ta vẫn còn thở. Khi nhận thấy điều đó không thể có được thì người ta sẽ mong ước có được một nơi an toàn để bám vào. Nhờ sự hộ niệm, người hấp hối có thể nương vào ánh hào quang của Phật để thoát ra khỏi những âu lo thường tình và tìm đến nương tựa nơi Đức Phật. Người ta sẽ đến được nơi an nghỉ cuối cùng, đó là cảnh giới của chư Phật. Đây là một lợi ích của sự hộ niệm. Một lợi ích khác của sự hộ niệm là dùng những "luồng tư tưởng" lành được sinh ra bởi những đạo hữu đang niệm Phật để khai mở ý niệm đầu tiên nhất của người hấp hối. Sau đó làm cho ý niệm lành ấy tiếp tục được điều chỉnh cho hợp với những ý niệm thiện khác trong mười pháp giới. Bằng sự nỗ lực thích đáng, nghiệp thiện ấy sẽ đến được với giới hạn của những hạt giống thiện. Người hấp hối sẽ tập trung vào ý niệm thiện ấy một cách nhất tâm và sẽ được vãng sanh về cảnh giới của chư Phật. Người ta thường ý thức được rằng, một ý niệm thiện khởi lên là thiên đường hiện khởi và một ý niệm bất thiện khởi lên là địa ngục xuất hiện. Tư tưởng trong hiện tại quyết định cảnh giới tái sanh là thiên đường hay địa ngục. Hộ niệm bằng cách niệm Phật là thôi thúc người hấp hối hãy khai mở một ý niệm thiện trong hiện tại và nắm vững lấy nó, chứ không để xảy ra bất cứ một sơ suất nhỏ nào, vì điều ấy sẽ khiến cho người ta đi lạc đường. Những nguyên tắc khi hộ niệm Người bệnh thường bị hành hạ bởi sự đau đớn trước khi chết. Sự đau đớn ấy không thể diễn tả nổi. Vì thế, người bệnh cần có "sự thanh thản" trước và sau khi chết. Người ấy sẽ ra đi hết sức bình yên trong sự thanh thản. Có một số nguyên tắc cần được tôn trọng khi hộ niệm: 1- Không di chuyển thân thể của người chết, 2- Không được khóc than, 3- Không nên gây ồn ào không cần thiết, 4- Niệm Phật một cách trang nghiêm. Trước hết là không được di chuyển thân thể của người chết. Từ khi trút hơi thở cuối cùng, người chết cần có sự thanh thản, bất kỳ sự di chuyển nào cũng làm cho thể xác người chết càng đau thêm. Trong lúc đau đớn, người chết sẽ sinh lòng căm hờn. Chính lòng căm hờn này dẫn người chết đến chỗ sa đọa. Việc tắm rửa và thay áo quần cho người chết nên tiến hành trước lúc người ấy chết hoặc là sau khi chết khoảng 8 tiếng đồng hồ. Điều này rất quan trọng. Thứ hai, không được khóc than. Mọi người cho rằng, khóc cho người chết là một nghĩa cử thông thường của con người. Một khi có người chết, chúng ta khóc bên xác của người ấy. Điều này chỉ đem đến sự buồn phiền cho người chết mà thôi. Thay vì khóc than, chúng ta hãy ngăn những dòng nước mắt lại và niệm Phật một cách thành kính để cầu cho người ấy được sanh về cõi Cực lạc. Như thế thì cả người sống và người chết đều sẽ cảm thấy tốt hơn. Nếu ai đó không ngăn được sự khóc than thì nên đi nơi khác và khóc cho thỏa lòng rồi hãy trở lại. Như thế thì sẽ làm dịu bớt sự dồn nén ở trong lòng. Thứ ba là không nên gây ồn ào không cần thiết. Khi có người chết, thân quyến và bạn bè đến viếng và sẽ có không ít vấn đề được bàn tán ngay sau khi người ta chết. Khi có quá nhiều quan điểm và lời huyên thuyên không ngớt thì chỉ làm mất đi sự yên tĩnh và làm phân tâm những người hộ niệm. Tốt hơn là nên thảo luận và sắp xếp công việc ở một phòng khác hoặc là ở bên ngoài. Hãy giữ cho căn phòng người chết đang nằm được yên tĩnh. Mọi người hãy niệm Phật trong sự điềm tĩnh và hãy để cho người chết chỉ nghe tiếng niệm Phật mà thôi. Được như thế thì người chết sẽ có thể nhất tâm và dòng tư tưởng thanh cao của họ không bị gián đoạn. Đây mới là cách trợ giúp phù hợp nhất. Thứ tư là niệm Phật một cách trang nghiêm. Tất cả những người Phật tử hay không phải Phật tử, sau khi hiểu được lợi ích của sự hộ niệm, họ thường mời những người giúp đỡ đến để chuẩn bị cho việc hộ niệm. Cần phải quan sát sự chuyển biến của người hấp hối, khi thấy người thân của mình đang nằm, vẫn còn thở, sắp tắt thở, đang trút hơi thở cuối cùng, lúc ấy hãy mời mọi người hộ niệm cho họ. Mọi người nên cùng nhau niệm Phật trong sự trang nghiêm để cầu cho người đang nằm được vãng sanh về cõi Cực lạc. Có một vài điểm cần lưu tâm trong khi gia đình có người hấp hối: a. Chỉ di chuyển thân thể người chết sau 8 giờ kể từ lúc tắt thở. Điều này sẽ hơi bất tiện nếu đấy là khu vực có quá nhiều bệnh nhân. Chúng ta có thể chuyển nguyên cả cái giường mà người chết đang nằm đến phòng khâm liệm và tiếp tục hộ niệm cho đến tám tiếng đồng hồ. Sau đó, chúng ta có thể chuẩn bị cho việc khâm liệm. b. Nếu người chết đang trong tư thế ngồi, cứ để vậy và không cần phải phủ khăn áo gì cả. Tuy nhiên, chúng ta không được để cho thể xác bị nghiêng. Và sau 8 tiếng thì chúng ta sẽ chuyển đổi. c. Không cần phải mặc áo quần tốt cho người chết, chỉ cần phủ lên thân thể họ một tấm ra sạch là được. Cuối cùng thì thể xác ấy cũng được mai táng hoặc là hỏa thiêu, cho nên việc mặc quần áo tốt cho họ cũng không có lợi ích gì. Nếu như đem những áo quần tốt đó cho người thân của mình dùng lúc đang còn sống thì tốt hơn, nó sẽ làm tăng thêm phần giá trị cho người ấy. d. Sau 8 đến 12 tiếng, chúng ta vẫn tiếp tục sắp xếp cho tang lễ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể tiếp tục hộ niệm. Làm gì khi "nhạc đã cất lên mà người vẫn chưa đi"? Có một câu châm ngôn rằng: "Tiếng nhạc cất lên và người thanh thản ra đi". Niệm Phật thật ra là hát "bản nhạc vô sanh". Sau khi nhạc cất lên thì người hấp hối nên từ giã cõi trần. Tuy nhiên, đôi khi sự việc lại không diễn tiến như vậy. Tiếng niệm Phật cất lên mà người vẫn chưa ra đi, người ấy vẫn còn sống. Lúc ấy chúng ta nên làm gì? Trường hợp này giống như sau khi chúng ta niệm Phật trợ tiến cho người hấp hối nhưng người ấy không chết, họ vẫn tiếp tục sống thêm 10 năm nữa. Chúng ta nên làm gì trong trường như thế? Đấy là kết quả tốt, là một trường hợp đáng mừng, là một điềm lành. Bởi vì công năng của việc hộ niệm đã làm hồi sinh. Nhờ phước đức của việc hộ niệm mà người hấp hối đã thoát khỏi bệnh tật, mạng sống được kéo dài ra. Như thế không tốt hơn sao? Hộ niệm là xưng niệm "Nam mô A Di Đà Phật" xung quanh người đang hấp hối. Việc làm này gợi cho người đang hấp hối hay đã chết nhớ lại rằng, biển khổ là không bờ, sám hối là tự cứu lấy mình. Người hấp hối sẽ nắm lấy cơ hội này để hướng sự chú ý vào nội tâm nhằm nhận ra bản tánh thanh tịnh vốn có của mình. Khi chúng ta nhìn thấy được bản tánh cũng có nghĩa chúng ta nhìn thấy được Phật tánh và sẽ được quay về với cảnh giới của chư Phật. Tỷ kheo Tai Kwong -Minh Phú lược dịch (Nguyệt San Giác Ngộ 175)1 like
-
1 like
-
Mới 21 mà lo lắng sức khỏe thế? Tay hay chân đã có thương tích? Theo lá số này, đương số sức khỏe tương đối tốt, cô nào lấy được đ/c này cũng sẽ khỏe lây :) Bác Học Trò nhắc đến tình duyên vì lá số này rất đào hoa và sức mạnh đàn ông ... Công danh sau này tương đối tốt, dư cứ phải ngoài 30, nên làm phó thì thuận. Học hành: chăm học thì đỗ cao, khỏi phải xem1 like
-
Bạn đã chính xác về giờ sinh? Có thể mô tả chút đỉnh về tướng mạo1 like
-
"Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi". Tôi muốn phát rồ vì thiên hạ cứ theo sách Tàu cổ rồi phán lung tung. Tôi đã viết thành cả một luận đề "Luận Tuổi Lạc Việt" để chứng minh rằng: Nam nữ yêu nhau cứ lấy. Cái vấn đề là đối tượng kia nó có yêu mình không cơ chứ! Ngày xưa - trong "Trần Bình Thế gia" - Sử Ký Tư Mã Thiên - có cô gái ông quan huyện kia, lấy đến ba đời chồng đều lăn ra chết - Kinh chưa? Vậy mà lấy Trần Bình thì làm nên đến Tể tướng oai vang thiên hạ. Nó cũng còn cái phúc đức của nhà chồng và cái oai của ông chồng nữa chứ! Nếu cứ tuổi hợp thì mới lấy nhau được, vậy tôi xin hỏi: Có 6 tỷ người trên thế gian này. Như vậy có khoảng 3 tỷ là nữ - chia cho 60 năm tuổi của người nữ - ta có: 3. 000. 000. 000/ 60 = 500. 000. 000 người nữ cho một tuổi hợp với ta. Lạy Chúa! Trừ đi những cô ích kỷ, sứt môi, lồi rốn, mắt híp, gián nhấm, răng hô, hôi nách....chê không lấy. Và trừ đi những hoa hậu kiêu sa, tiểu thư đài các, con ông A, bà B....không với tới được thì cũng còn ngót 1000. 000 cô để hợp tuổi. Khiếp. Nhưng ta chỉ lấy được một người. Vô lý quá! Cứ thế mà suy ra: Yêu nhau cứ lấy. Nếu Ất Sửu lấy nhau mà con út là Đinh Dâu 2017 mà được con trai thì giàu có lớn. Nếu là con gái thì giàu chậm một tý nhưng hậu lại tốt. Cứ thế về nói với bố mẹ. Hỏi ai nói ? Bảo cụ Sư Thiến - đệ tử Chí Phèo bảo thế! :)1 like
-
Xác định giờ sinh kỹ đi, vì các cụ thường đau đẻ quá nên quên hết cả giờ giấc Lá số sai giờ là sai 1 ly đi 1 rặm, bói ra mà mà quét nhà ra đầy rác1 like
-
HTH mới nhận được bản ghi nhận từ phóng viên Thái Hà. danh sách các hộ gia đình đã nhận được quà :1 like
-
Đàm Vĩnh Hưng lấy áo hứng tiền 04/11/2010 10:28 (GMT +7) Không ngại phải giữ hình ảnh, Mr Đàm nhét đầy ắp tiền từ thiện trong chiếc áo đang mặc biểu diễn, và đếm công khai ngay trước đông đảo người hâm mộ miền Trung. Chương trình Hướng về miền Trung có sự tham gia của ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng, Dương Triệu Vũ, Long Quân, Nhật Thu, Khánh Phương... nhằm gây quỹ ủng hộ hai trường học ở Nghệ An bị thiệt hại do lũ lụt. Ngoài hôm từ thiện của BTC, trong phần trình diễn của mình ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng còn trực tiếp nhận quyên góp của khán giả. Anh vừa hát, vừa chụp ảnh chung và nhận tiền từ thiện. Ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng chia sẻ, với 5.000 đồng có thể mua được cho đồng bào khó khăn 1 viên thuốc, 10.000 đồng cho môt ký gạo và hơn nữa cho chiếc áo, chiếc gối hay chăn ấm... trong lúc hoạn nạn, sự đóng góp - giúp đỡ ấy quý báu vô cùng. Đặc biệt, không chỉ có việc sống qua giai đoạn khó khăn của người dân, mà việc sửa chữa lại các trường học để các em nhỏ tiếp tục đến trường cũng quan trọng vô cùng. Mr Đàm mong mọi người cùng mình sẽ đóng góp vì thế hệ trẻ... Tintuconline.vn ================================== Lời bàn: Cảm giác bị xúc phạm khi nhìn hình ảnh này của ĐVH,(Một sư nữ cúi nhặt những tờ tiền) của cho không bằng cách cho? Ở trường hợp này tôi nghĩ tác giả về hình ảnh đã cố tình đưa hành vi hay phong cách? để độc giả nhìn nhận sâu sắc hơn cách thể hiện ngông cuồng vô văn hóa của ca sĩ này! Thật không chấp nhận được!1 like
-
Năm vừa rồi có cơ hội rất cao lấy chồng, chuyện gì đã xảy ra? Hay năm vừa rồi chỉ mới có người yêu thôi?1 like
-
Cá nhân lukhach thấy ko nên vội vã quy kết về tư cách của 1 người thông qua một tấm hình. Rất nhiều trường hợp những bức hình thời sự của cánh nhà báo ko phản ánh đúng bản chất của sự việc đâu các bạn ạ. Chắc các bạn cũng đã từng có mặt trong những bức ảnh bạn bè vui mà khi xem lại chúng ta cảm thấy mình 'dở cười dở khóc', ko thanh minh được. Tôi chưa tiếp xúc với DVH ngoài đời nên ko dám nhận xét về tư cách của anh ta, nhưng tôi có tham gia vào buổi từ thiện do ca sỹ này tổ chức tại HN 3 ngày trước khi tiền và quà được gom chuyển đến 3 xã khó khăn trong đợt bão lụt. Buổi tiệc từ thiện do cty của DVH tổ chức theo tôi đánh giá là diễn ra một cách giản dị, ko phô trương. Những người tham gia chương trình cũng thành tâm đóng góp cho đồng bào với thái độ đúng mực thôi. Còn trong giới showbiz thì nhiều thị phi lắm, nhưng tôi xin bàn ở dịp khác và nơi khác. Thân ái,1 like
-
Dương mộc với âm Mộc là hợp, do có âm có dương trong 1 hành nên hợp!1 like
-
1 like
-
cháu điều tra ra vụ này rồi, đứa bạn cháu hôm đó có xem cái chương trình này, nó bảo hôm đó ĐVH đi xuống dưới khán giả hát, sau đó nhiều người đưa tiền, cầm ở tay nhiều quá ko cầm hết nên là bỏ vào trong người Cũng tắc trách ban tổ chức không nhanh nhạy, là khi thấy thế thì cử 1 người mang hòm quyên góp đi xuống mà cứ mặc kệ ĐVH Và cũng trách các bạn khán giả không đi lên sân khấu có hòm tiền để bỏ mà cứ đổ xô ra đưa tiền cho ĐVH, đúng là khán giả Việt Nam chán thiệt, cứ đổ sô hâm mộ mấy ông ca sĩ làm gì cơ chứ1 like
-
Xin Tư Vấn Tử Vi
cotaomobile liked a post in a topic by ntpt
Cái này xin tư vấn ở mục luận tuổi và phong thủy. Tử vi không xem được những cái đó. Tử vi của em chỉ thấy bổn mệnh không vững, làm gì cũng không được. Sách nói "phi yểu tắc bần". Nếu được thì đưa lá số người vợ xem có khá hơn không1 like -
Lúc này đây trời mây thật thấp và sấm chớp vang dội.... Đội sớ Cầu Siêu. ACE nhất tâm hộ niệm. Lễ thí phát ..... Lũ trẻ đã nhận phần thí phát... Buổi lễ kết thúc vào lúc mưa nhẹ hạt, ACE chúng tôi lần nữa tri ân công đức Chư Đại Đức Chùa Diệu Pháp đã giúp đỡ dẫn lễ cho chúng tôi hoàn thành buổi lễ Cầu Siêu các hương linh được vãng sanh cực lạc. Nguyện dâng Ân đức hồi hướng cúng dường thập phương Chư Phật. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.1 like
-
1 like
-
Chào các bạn, Thấy vụ bí ẩn số 8 củng ly kỳ, nên lập quẻ kỳ môn xem thử: Ngày 18/10/2010 Năm Canh Dần, Tháng Bính Tuất, Ngày Tân Sửu Giờ Tý là Mậu Tý, Tiết Hàn Lộ, Âm 1 cục Mậu Tý thuộc tuần Giáp Thân Giờ Canh Dần (Khoảng rạng sáng) [Đinh, Đinh, Xung,Khai,MậuTý...] [Kỷ, Kỷ,Trụ,Hưu,NhâmThìn....] [Ất, Ất,Cầm,Sinh,CanhDần.......] [bính,Bính,Phụ,Kinh,KỷSửu.......] [Quý,Quý,Nhuế,Trung,ĐinhHợi] [Tân,Tân,Anh,Thương,ẤtDậu.....] [Canh,Canh,Nhậm,Tử,GiápThân] [Mậu,Mậu,Tâm,Cảnh,TânMão..] [Nhâm,Nhâm,Bồng,Đỗ,BínhTuất] Trực Phù: Nhậm Trực Sử: Sinh Cung Cấn 8: Phục Ngâm, Thiên Canh, Địa Canh, Trực Phù: Phi Phục Can, gặp Tử Môn Trực Sử: Phản Ngâm, gia Tử Địa Hướng Đông Bắc, Tây Nam đều Hung lắm. Xe từ Đăk Nông đến Hà Tỉnh thì đi theo trục Tây Bắc Đông Nam, Từ Hà Tỉnh ra Nam Định bắt đầu đi theo trục Đông Bắc Tây Nam.1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
Đây là tật cố hữu của những người nổi tiếng, nhiều khi họ cứ vô tư thoái mái làm mà không nghĩ trước nghĩ sau, họ cứ nghĩ họ không có ý xấu là không có gì xấu Cái này thật sự là 1 sai lầm, chỉ cần ĐVH 1 tay hát, 1 tay ôm hòm từ thiện có phải hay biết mấy Theo cháu nghĩ đây cũng chỉ là nhất thời làm càn, làm mà ko có suy nghĩ trước sau, quen với việc mình là người của công chúng, quen với việc được tung hô mà thôi, chắc là trong đầu của ĐVH cũng không có ý xấu1 like
-
Đại Lễ Cầu Siêu 6.11.2011
Guest liked a post in a topic by wildlavender
Hoanganh 256 và Khoinguyen2004 đã trà châm.1 like -
Buổi chiều, Lễ trai Đàn Bạt Độ được tổ chức tại nhà Lục Giác, dẫn lễ gồm năm vị Đại Đức và ACE Lý Học thụ lễ. Thời tiết nghịch với buổi sáng nắng gắt, bắt đầu mưa và nặng hạt, triều cường dâng cao ngấp nghé bậc cuối của nấc thang, gió thổi mạnh từng đợt sóng giống như đây là dòng chảy hôm nào đã cuốn đồng bào đáng thương của chúng ta ra đi.... Nhưng tôi tin là họ nhận được thông điệp của các Thầy và lời cầu nguyện của chúng tôi có thể họ sẽ hoan hỷ chứng giác...hy vọng là thế! Mưa càng lúc càng nặng hạt....nhưng dòng nước bớt xô sóng đã hiền hòa hơn. Các Thấy đã hướng dẫn và chu đáo lo cho những hương vong oan khuất một buổi lễ hoàn hảo.1 like
-
Cái cốt bì là 1 thợ hớt tóc ,thời may có được giọng tốt mà gặp thời , khoe khoang sự giàu có ,cách làm từ thiện như thế nên đáng bị xịt nước mắm vào mặt hơn là bị xịt nước cay ... giọng ca thì rống như bò kêu khát nước nhưng không biết tại sao lại có nhiều người hâm mộ ???1 like
-
Thật buồn cho những hình ảnh trên....1 like
-
1 like
-
Có chắc giờ sinh ra đã đúng chưa ? theo lá số nầy năm rồi đã lấy chồng .1 like
-
Xét theo lấy giờ thông thường: 10h10' ngày 10 tháng 10 năm 2010 dương lịch http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2 Xét theo lấy giờ theo mùa: Giờ thìn ngày 10 tháng 10 năm 2010 dương lịch http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2 2 số phận khác xa nhau.1 like
-
Bài này tác giả viết bài không có trình độ cao về tử vi,tử vi chỉ là một trong các môn dự báo về một con người nên không thể lấy nó để áp dụng vào quy luật xã hội là tập hợp của tất cả mọi người được. Nhu cầu nâng cao đời sống luôn thúc đẩy mỗi người và nhu cầu đó không có mặt trong tử vi,cho nên quy luật tất yếu mà Các Mác vĩ đại đã vạch ra về phần xã hội là tuyệt đối đúng, chỉ còn thời gian để hội tụ đủ điều kiện xuất hiện xã hội chân lý của loài người theo quy luật tất yếu mà Các Mác đã chỉ ra vào lúc nào mà thôi.1 like
-
**2** 2 . Trống đồng và quê hương dịch lý Trên mặt tất cả trống đồng loại 1 tức loại xưa nhất, đều được đúc theo khuôn mẫu : trung tâm là mặt trời, rồi đến các vòng đồng tâm khắc hình chim và nai, sau đó là cảnh sinh hoạt, đánh trống đồng, đo bóng mặt trời, cảnh chiến binh trên thuyền..v.v. Mặt trời được người Việt cổ coi là nguồn sáng và nguồn sống cho muôn loài, với quan niệm cha trời mẹ đất, tổ tiên ta đã hiểu rõ những gì thu hoạch được từ đất như củ, quả … không thể có được nếu không có ánh nắng mặt trời, điều này thật đời thường nhưng cũng rất khoa học, lúc đó người ta làm gì biết đến diệp lục tố và sự quang hợp như chúng ta ngày nay, nhưng bằng sự quan sát và so sánh việc được mùa và không được mùa có liên quan chặt chẽ tới sự chiếu sáng của mặt trời người xưa đã hiểu được có sự phối hợp giữa trời và đất để ban của ăn nuôi sống con người từ đó hình thành quan niệm lưỡng hợp, một phía là cái cụ thể có thể nắm bắt là đất, một phía ta biết rõ ràng có đấy nhưng không thể nắm bắt đó là những gì đến từ trời, dần dần tổng kết thành các qui luật trời đất có âm, có dương, ý niệm khởi nguồn của Kinh Dịch. Với quan niệm mặt trời là nguồn sáng, cổ nhân coi mặt trời là khởi nguồn của văn minh, của sự sáng suốt, vì không có ánh sáng mặt trời thì bóng tối che phủ, không thể phân biệt được cao thấp, xấu đẹp, không gian trở thành một khối hỗn mang và trong màn đêm đó không biết bao sự rình rập của quỷ dữ, của ác thú, sinh mệnh con người mong manh biết bao nhiêu, và mọi vật chỉ trở nên sống động thực sự khi mặt trời ló dạng, từ đó con người sùng bái mặt trời. Với người Việt sự sùng bái đã gần như một ý thức về tôn giáo: đạo thờ Trời, thờ ông Thiên và hình ảnh biểu tượng là mặt trời. Với vị trí là tâm điểm trên trống đồng, mặt trời là trung tâm của vũ trụ. Điều này chắc mới dừng ở ý niệm siêu hình, nhưng trong đó ta đã thấy thấp thoáng bóng khoa học rồi . Trên trái đất không biết bao nhiêu loài thú, tại sao chim và nai lại được coi trọng ngang hàng với con người được kết hợp với người để tạo thành thế giới 3 thành phần trên mặt trống, coi như hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ? Ta trở lại với Dịch Lý. Mọi người đều nhất trí coi Hà và Lạc là một phần của Dịch Lý, hoặc là cách diễn đạt Dịch Lý thông qua các nút số, một loại diễn đạt khác với Dịch Lý vạch quẻ của Bát quái. Vậy Hà là gì? và Lạc là gì? Trải qua mấy ngàn năm, các cuộc tranh luận của các bậc trí giả “nhìn xa trông rộng” vẫn còn tiếp tục xãy ra, nào là long mã, nào là thần qui; người thì bảo là thần vật xuất hiện ở Hoàng Hà, rồi Mạnh Hà, rồi Lạc Thủy, … sở dĩ như vậy là tại các vị nhìn một vật ngay trước mắt qua “kính viễn vọng” nên hậu quả là …. vẫn còn cãi nhau. Thật ra khi ta nhìn bằng mắt trần thì sự việc trở nên đơn giản: Hà nghĩa là Trời; Lạc là biến âm của Lục nghĩa là Đất, Hà Lạc là Trời và Đất … rất rõ ràng: chính xác phải gọi là Hà Thư – Lạc Đồ, chứ không thể gọi ngược như trước đây được;.hà thư tức thiên thư, lac đồ cũng là điạ đồ Sự liên quan giữa trống đồng và Dịch Lý là: Thông điệp trên mặt trống đồng rất rõ ràng: Mặt trời là trung tâm và ở các vòng đồng tâm kế tiếp nhau là Hạc – Nhân – Lộc, tức trên là trời, giữa là người, dưới là đất nối tiếp “chạy” quanh mặt trời. Trời = Hà→Hạc : chimHạc hay hồng hạc . Đất = Lục→Lộc : con nai Từ mối tương quan giữa Hà- Lạc và trống đồng này đủ để ta khẳng định : ‘Dân trống đồng’ là chủ nhân đích thực của dịch học ; như vậy ‘tứ thánh' của dịch học là Phục Hy Văn vương Chu công và Khổng tử không thể nào sống ở bắc Hoàng hà (hiện nay )... vì ở đấy không tìm thấy trống đồng thời cổ . Và cũng Từ sự việc này gợi ra ý kiến là: chữ “tượng hình” không phải là loại chữ cổ xưa nhất mà là sự tiếp nối một loại chữ khác có trước tạm gọi là chữ “nguyên hình”. Ta liên tưởng trong Kinh Dịch phần Thuyết Quái, Khổng Tử viết: “… Ngày xưa họ Bào Hy ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xem thế đất … quan điểu thú chi văn …” rồi tổng kết lại thành các qui luật Dịch Lý, câu ‘quan điểu thú chi văn’ được hiểu là: ‘nhìn các nét “văn’ trên (mình) chim, thú …’ Nay ta có thể hiểu khác đi là … đã có một loại chữ là “điểu thú văn” tức chữ “nguyên hình”từ trước khi họ Bào Hy tác dịch? Trong bối cảnh Văn hoá Á đông ta có thể tìm thêm 4 chữ “nguyên hình” nữa ngoài các chữ “chim hạc” và “con nai”(= Trời và Đất). 1. Hướng Xích đạo: là vùng nhiệt đới tượng trưng bằng con Hổ, Hổ là biến âm của Hoả là lửa – tính của lửa là nóng. 2. Ngược với lửa là nước, nơi vùng nước này có rất nhiều con Sấu, Sấu là biến âm của Xíu là nước (âm Quảng Đông). trong truyền thuyết lịch sử Việt Nam, nó là con thuồng luồng, một loài thủy quái hại người, sau này do biến cố khí hậu loài sấu ở phía Bắc (cứ tạm gọi như tên hiện nay) bị tiêu diệt nên người xưa thay thế bằng con rùa tức Qui. 3. Hướng đông là biển nên biểu tương bằng thần vật có công hút nước làm mưa mà người xưa gọi là Rồng hay Long. Trong văn hoá Việt – Hoa, Rồng được coi là chúa tể cai trị thế giới biển cả. 4. Ai đã từng học Dịch Lý đều biết quan điểm hướng đông là phương động, tượng trưng bởi Quẻ Chấn cũng gọi là Quẻ Thìn tức quẻ con rồng; chính xác phải gọi là hướng động vì đông là biến âm của động. Và theo nguyên lý đối lập của Dịch, phương tây là tịnh như trong Thuyết Quái của Dịch: cứng mềm cọ sát sinh ra động tịnh. Phương đông: mềm mà động Phương tây: cứng mà tịnh.,định Việt ngữ có từ kép “định đoạt” để chỉ phương tây;định là chỉ bên không thay đổi , đoạt là tên khác của quẻ đoài phương tây là phương tịnh và ở đó có rất nhiều voi, nên con voi trở thành chữ “nguyên hình” là tịnh , con tịnh. Như thế ta có thể coi chữ “nguyên hình” là loại chữ tối cổ, đó cũng là điểm xuất phát của chữ “tượng hình” sau này. Tổng số ta có được 7 “chữ “: - Mặt trời là trung tâm. - Hạc = trời. - Lộc = đất. - Hổ = phương nóng, xích đạo. - Sấu, Qui = phương nước, ngược với phương nóng. - Long, Rồng =phương đông. - Tịnh = phương tây. Xác định như trên ta có thể khẳng định đất nướcTrung Hoa hiện nay không thể là quê hương của Dịch Lý được vì không thể tìm được vùng đất nào của Trung Hoa mà phương đông là biển và phương tây có voi. Chỉ có miền Trung của Việt Nam mới hội đủ tính chất chỉ định của 6 chữ “nguyên hình” hay “điểu thú văn” như phần trên. loài Hổ đông dương ở Trường Sơn và Nam Lào đã nổi tiếng từ lâu rồi, về hướng bắc thì đồng bằng Bắc Bộ vài ngàn năm trước là vùng đầm lầy chắc chắn lý tưởng cho loài sấu. Về hướng đông là biển, đúng là quê hương của rồng và hướng tây… chỉ tên nước ‘Lào triệu voi” cũng đủ minh chứng cho sự khẳng định trên, Trong lãnh vực tâm linh, tất cả các đền, miếu của Việt Nam đều có hình Hạc hay Hồng Hạc đứng trên mai Rùa tượng trưng cho Trời và Đất như thế đã đủ 6 con vật tượng trưng cho 6 cõi của 1 không gian 3 chiều ,Người xưa đã dùng những con vật nổi trội ở 1 vùng đất như 1 dạng thức chữ : chữ “nguyên hình” để chỉ 4 phương: (Trung tâm chính là nơi sinh tụ của cộng đồng người cổ đã tạo nên Dịch Lý) Dịch Lý đã là tài sản của cả nhân loại, phát nguyên từ đâu không phải là điều quan trọng đối với thiên hạ; nhưng đối với người Việt Nam thì khác, nếu không thể làm sáng tỏ về quê hương Dịch Lý thì mắc lỗi với tiền nhân. Người xưa đã lao tâm khổ tứ biết bao mới có thể ký thác được những giá trị vĩnh hằng vào trong đấy làm tài sản cho con cháu vào đời, quá khứ không phải qua đi là hết, dòng linh khí từ quá khứ sâu thăm thẳm vẫn liên tục chảy về hiện tại tạo thành sức mạnh tâm linh vô song cho mỗi người, dù tiếp nhận trong vô thức ; dòng linh khí đó trở thành bản lĩnh sống, thành năng lực bẩm sinh của trí tuệ; đấy cũng là lý do để ta nỗ lực vượt bực mong tìm được đích xác nguồn gốc dòng giống của mình; xác định cho được bản quyền dân tộc trên Dịch Lý, một siêu phẩm của minh triết và khoa học1 like
-
KỲ ÁN TỬ VI
nvhuypvc liked a post in a topic by Thiên Sứ
Tử Vi có nhiều vấn nạn - phần do thất truyền - nên mọi chuyện cần nghiên cứu khám phá. Bởi vậy topic này mới có tựa là: Vấn Nạn Tử Vi - tức là những cái cần tìm hiểu, khám phá.Câu hỏi ấy là một hướng nghiên cứu và không thể trả lời ngay. Nhưng cách hiểu của bạn bị sai: Tại sao Âm lại thiệt hơn Dương trong lá số? Tôi đã nói là Dương trước Âm sau và xét có hợp cách với lá số không? Hợp thì Âm sau cũng tốt, không hợp thì Dương trước cũng suy.1 like -
Dịch học họ HÙNG . bài 18 PHẦN II 64 QUẺ TRÙNG Ở đây vẫn gọi là quẻ trùng vì đã quen như thế đúng tiếng Việt phải gọi là “Quả chồng” vì 64 quả được tạo thành bằng cách chồng đôi 8 quả đơn hay 8 nguyên tố đơn. 2 quẻ 3 vạch chồng lên nhau tạo thành quẻ 6 vạch kết quả hình thành tổng số 64 quẻ chồng hay 64 nguyên tố kép của Dịch học. Tới tận ngày nay các nhà Dịch học còn chưa xác quyết được bản thân quẻ trùng đã là quẻ 6 vạch từ đầu hay là chồng 2 quẻ đơn mà thành. Theo Dịch học họ Hùng thì 8 quẻ đơn là 8 tượng tin nền, thông tin nó mang là thông tin khởi đầu. Sự chồng 2 quẻ thực ra là sự “ghép từ” tạo chữ mới mà nghĩa của nó tạo thành từ sự liên kết nghĩa của 2 tượng tin nền; chỉ cần đảo vị trí trên dưới khi xếp 2 quẻ đơn là nghĩa quẻ trùng hoàn toàn khác. Ở phần Dịch học tổng quát nếu so sánh Dịch học họ Hùng và Dịch học của người Tàu hiện nay thấy đã có các khác biệt cơ bản. - Phương hướng Bắc Nam đảo ngược. - Ý nghĩa âm dương đảo ngược - Vạch đứt vạch liền đảo ngược - Ngũ hành đảo 2 hành Kim và Thổ - Các đồ hình Bát Quái hoàn toàn khác. tới phần 64 quẻ trùng thì khác biệt giữa 2 nền Dịch học trở nên xa lắm: 1 - khác hẳn nhiều tên quẻ. 2 - nhiều tên quẻ đồng âm hay cận âm, nhưng nghĩa hoàn toàn khác 3 - đại lượng tức sự mô tả quẻ bị xáo trộn rất nhiều. Khi soạn Dịch lý họ Hùng người soạn đã cố ý né tránh sự so sánh và kết luận đúng sai vì công việc tìm hiểu Dịch học còn mênh mông lắm sớm sa vào những tranh cãi là vô ích, ngày rộng tháng dài từ từ mọi việc sẽ rõ ràng, nhưng tới đoạn này phải nêu ra vài sự khác biệt cơ bản để người đọc dễ chấp nhận các ý tưởng mới mẻ, mạnh bạo, quyết liệt mà không cảm thấy choáng váng, vì những đảo lộn. 64 quẻ trùng được thiết lập dựa trên các nguyên tắc chặt chẽ: - Luật – Tầng sâu và độ số - Luật thay đổi: một tăng một giảm tạo thành sự tuần tự biến đổi độ số âm dương từ cực này tới cực kia. - Tổng số 64 quẻ. Từ quẻ thuần Kiền 63 __, 00 _ _ Tới thuần Khôn 00 __ , 63 _ _ Ta có 64 quẻ hữu danh và một quẻ ẩn mà độ số âm dương cân bằng: 31,5 __ 31,5 _ _ 64 Nguyên tố Dịch lý theo thứ tự Chu Dịch và Dịch họ Hùng. 64 quẻ là 64 nguyên tố kép dịch học Chu Dịch và Dịch học họ Hùng sắp xếp các quẻ theo nguyên tắc khác: 64 nguyên tố được tổ hợp thành 32 cặp quẻ 28 cặp quẻ đảo: tức quẻ này lật ngược thì thành quẻ kia. 4 cặp quẻ đối: với những cặp không có quẻ đảo thì dùng cách đối nghịch âm dương để tạo thành. Việc hình thành 32 cặp quẻ mang ý nghĩa chính của Dịch học họ Hùng. Về mặt lý luận mỗi cặp quẻ : - là sự sinh đôi: nghĩa là luôn có 2 sự việc cùng xảy ra một lúc Thí dụ: ký tế – vị tế Việc đã xong – việc chưa xong – chu kỳ hay vòng tuần hoàn này kết thúc tức là khởi đầu vòng khác -Hoặc là sự sinh thành Thí dụ cặp truân – Mông Mờ tối thì gian nan vất vả, ý nói trình độ dân trí thấp thì việc tổ chức và thực hiện kế hoạch phát triển rất khó khăn mệt mỏi. -Hoặc là một cặp nhân quả Thí dụ: cặp tụ + thăng, tựu – thành Tụ là tụ tập, ý của Dịch học rất rõ: tích tiểu dĩ cao đại, tích dần đến nhỏ để thành cái lớn, vinh quang danh vọng đến không phải tự nhiên đến, mà do sự đều đặn tích đức, làm điều nhân nghĩa có thể từ đời ông đời cha không phải chỉ đời mình mà thôi. 32 cặp quẻ chính là 32 vấn đề và giải pháp trong sự vận hành, phát triển xã hội Phát triển là điều tất yếu của xã hội loài người cứ lần mò, vấp ngã gánh chịu tổn thất, rồi lại đứng dậy sữa sai tìm phương hướng và đi , ngay bây giờ dù đã là thế kỷ 21 rồi nhưng về mặt quy luật phát triển xã hội vẫn là sự lần mò mù lòa; từ cổ chí kim duy nhất có một dân tộc bước đi trong ánh sáng đó là dân họ Hùng , ánh đuốc soi đường chính là Dịch lý. Đại nạn đã đến với dân tộc này vào khoảng đầu công nguyên, Trọng Thủy tên “sở khanh” đã gạt vợ là Mỵ Châu để tráo nỏ thần đem về phương Nam (Bắc ngày nay). Linh Qui thần trảo hay nỏ thần Rùa Vàng chỉ là hóa thân của “Quy Tàng Dịch” mà thôi, đó là lời nhắn gửi cho con cháu của tiền nhân họ Hùng, mơ hồ nhưng vô cùng rõ rệt, rời rạc nhưng vô cùng chắc chắn và đặc biệt chỉ con cháu họ Hùng mới hiểu biết điều linh thiêng ấy, để cùng nhau lấy nước mà rửa cho ngọc châu ngày càng sáng, rửa tức bóc gỡ lớp bụi bặm đất cát bẩn thỉu tà ma bói toán đang vây bọc Dịch lý, viên ngọc ngày càng sáng ra tức ý nghĩa khoa học cao minh, ý nghĩa triết học cao siêu hàm chứa trong Dịch học được phát lộ trở thành Kim chỉ nam cho con cháu nhà Hùng trên hành trình đến hạnh phúc. Dịch lý thực bao la, đầu óc ta quá nhỏ bé nên không dám nghĩ đến sự quán thông chỉ xin góp với đời tất cả những gì mình nhận thấy hoặc cảm thấy mà thôi.1 like
-
Dịch học họ HÙNG . bài 14 D. Tam Toà hay Tam Tài Tòa trong tiếng Việt có nghĩa là đơn nguyên, Thiên Chúa tam ‘tòa’ tức Thiên chúa ba ‘ngôi’. Tòa nhà tức một khối nhà. Chu Dịch viết rất giản đơn: Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái … có người gọi đó là Dịch, thực ra đó chỉ là phương pháp luận Dịch lý chứ không phải là Dịch học. 1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8 chính là định luật sóng đôi mà ta đã nói tới. Ngoài sự diễn biến theo qui luật trên Dịch học còn có một loại hình diễn biến khác. 1 → 3 → 5 → 9 thái cực → tam tòa → ngũ hành → cửu trù 1 cục → 3 tòa → 5 hình → 9 chỗ Ở lưỡng ngôi ta có 2 thành phần hợp tác với nhau để sinh thành. Con người đầu đội trời, chân đạp đất như vậy con người đứng giữa, ở trung tâm đúng nghĩa chữ nhân; do mối tương quan tay ba. Một bên là tương quan: người – xã hội; bên kia là tương quan: người – tự nhiên thông qua trung tâm là con người, 2 mối tương quan này trở thành ràng buộc của nhau, chế độ xã hội phải phù hợp với mối quan hệ người – tự nhiên. Tức trình độ khoa học và công cụ kỹ thuật. Tam tài có tính mẫu mực là Thiên Nhân Địa, vẫn được dùng để tôn cao địa vị con người ngang với trời đất. Thiên là những yếu tố vô hình, địa là những yếu tố hữu hình cụ thể. Năng lượng, ánh sáng đến từ vũ trụ hợp với các nguyên liệu từ đất tạo thành cây cỏ thực vật, đến khi có sự tham gia của bàn tay khối óc con người thành ra sự kết hợp tay ba: Thiên – Nhân – Địa và nền nông nghiệp ra đời từ sự kết hợp đó. Sự ra đời của kỹ thuật trồng trọt được Dịch học đánh giá rất cao trong hào Nhị quẻ Kiền: “hiện long tại điền lợi kiến đại nhân” nếu dịch là “rồng hiện trên mặt ruộng kiến (gặp) đại nhân thì có lợi” chỉ đúng về mặt chữ còn đối với Dịch học thì coi như vô nghĩa. ý nghĩa câu trên theo kiến giải Dịch học là : “con người trở nên người lớn tức vượt qua thời người nguyên thủy khi bắt đầu biết trồng trọt, lúc chấm dứt sự phụ thuộc hoàn toàn vào giới tự nhiên cũng là lúc xuất hiện thần tính (được ví như con rồng) khiến con người vượt trên mọi sinh vật, sánh ngang cùng trời đất. Cặp từ Thiên và Địa không nhất thiết phải là trời và đất như ở trên ta đã nói đến: trời chỉ các yếu tố vô hình, đất là những gì cụ thể, có thể nắm bắt được. Thí dụ: trong công thức nổi tiếng về binh pháp: ‘thiên thời – địa lợi – nhân hòa’, thì thiên đâu có nghĩa là trời mà là thời cơ lịch sử, địa là điều kiện vật chất đang thủ giữ, còn nhân là lòng người, lòng quân và lòng dân, yếu tố quan trọng nhất. Trong Tam tòa thì Tòa Nhân luôn luôn là quan trọng nhất, có một thế giới gọi là khách quan vận động một cách mù lòa, vô hướng, vô nghĩa; tất cả những giá trị xuất phát từ thế giới ý thức, vũ trụ trở nên có “giá trị” từ khi nó được phản ánh bằng thông tin vào não con người và được chính con người ban cho phần giá trị để trở thành 1 phần của thế giới đã được định hướng. E. Ngũ hành hay 5 hình 5 hình là 1 cơ cấu tổ chức, 1 cơ chế hoạt động có 5 thành phần, trong đó hình quan trọng nhất có vị trí trung tâm là điểm khởi đầu và kết thúc của chuỗi phản ứng dây chuyền. Ngũ hành hay 5 hình xếp theo đồ hình: Tên 5 Hình là: lửa, nước, gỗ, đá, và không khí . Tới đây có 2 điểm phải thuyết minh: lửa, nước, gỗ, đá là 4 loại hình vật chất rất cơ bản của loài người , riêng không khí ở trung tâm được tượng bởi hình Cam . - Cam Việt ngữ là màu vàng sậm, màu vàng là màu của trung cung. - cam biến âm thành kim, kim trong Hoa ngữ là hiện nay, lúc này là điểm giữa của 1 bên là quá khứ và 1 bên là tương lai. - cam trong Hoa ngữ nghĩa là ngọt, vị trung tâm của ngũ vị, đắng, cay, ngọt, mặn, chua. Tóm lại: với 3 lần nghĩa là trung tâm, hành Kim hay Cam không thể là hành biểu thị cho phía tây như trong Hán Dịch đã ghi. Điểm cần thuyết minh thứ hai: Trong tiếng Việt: mộc là gỗ và cũng là biến âm của ‘mọc’ tức phương Đông mặt trời mọc lên, ngược với phương Tây mặt trời “thụt” xuống, thụt biến âm ra thạch và thục (trong Hoa ngữ thành từ kép ‘Tây Thục’). Thạch cũng chính là đá, ta khẳng định phương Tây tiêu biểu bởi đá không là Kim vì theo Dịch lý họ Hùng thì phương Tây là phương “không đổi” hay phương Căng, Cứng, tục ngữ Việt Nam có câu: ‘cứng như đá’ giúp cũng cố thêm cho xác quyết này và Dịch học hình thành từ thời Thái cổ thì làm gì đã có kim loại để có hành “Kim” ở phương Tây. Ta có vế đối: phương Đông là mộc tức gỗ; phương Tây là thạch tức đá; gỗ đá là 2 vật liệu cơ bản của người cổ ; người Tàu đã biến thạch → thổ là đất và đưa vào trung cung, đổi hành cam ra phía tây và biến âm thành kim, tức kim loại, trở thành vật đối xứng với đầu bên kia là gỗ (mộc). Càng đi sâu vào nghiên cức Dịch càng có thể khẳng định chỉ có 1 Dịch học xuyên suốt và thống nhất nhưng có nhiều hình thức biểu hiện; Dịch nút số hay tượng số xuất hiện từ thời Thái cổ cách nay trên chục ngàn năm, Dịch tượng vạch thể hiện tư tưởng bằng vạch quẻ ra đời cách nay khoảng 5.000 – 6.000 năm, bộ Chu Dịch diễn tả bằng văn tự xuất hiện vào đời Chu cách nay hơn 3.000 năm. Nhưng trong lịch sử Dịch học Trung Hoa luôn chứa nhiều điều kỳ bí như: Hà đồ lạc thư – đã có từ thời Thái cổ, vậy mà mãi tời đời Tống tức chỉ cách nay hơn 1.000 năm mới công bố. Sách ‘Hoàng đế nội kinh tố vấn’ có từ thời Hoàng Đế cách nay 5 – 6 ngàn năm, trong sách có các thông tin của Dịch lý như ngũ hành, hà thư, ngũ sắc, ngũ âm v.v…; điều gây thắc mắc là ‘Hoàng đế nội kinh tố vấn’ viết bằng loại chữ gì? được viết lên trên vật liệu gì? hay là chỉ được truyền khẩu? Ở phần trên ta đã khẳng định sự thống nhất xuyên suốt của Dịch học, có nhiều đồ hình tức các văn bản cổ sơ bằng hình vẽ nhưng giữa các đồ hình đều có sự nhất quán, tương thông ý nghĩa. Ta tìm hiểu sự thương thông trong Hà thư, Tứ tượng, và Ngũ hành: Dịch viết: Nhất viết Thủy, nhị viết Hỏa, tam viết Mộc, tứ viết Thạch (Thổ), ngũ viết Cam (Kim); Dịch học họ Hùng khác Dịch Tàu ở 2 điểm: trong 5 hành đã hoán đổi vị trí hành Kim và Thổ (viết thành Cam và Thạch) Nếu so sánh Hà Thư và 5 hành ta nhận ra sự tương đồng vị trí đúng như đã được chỉ định ở trên. Hành Hỏa ở phía trên hoặc phương Bức (hướng xích đạo); Hành Thủy chiếm bên dưới hoặc hướng địa cực Bắc hiện nay. Mộc ở phương Đông, Thục (Thạch, Thổ) ở phương Tây và Cam ở chính giữa. Đoạn văn chỉ dẫn trên cho ta biết Hà Thư là Dịch dùng nút số đã có trước rồi từ cái nền của Hà Thư con người xác lập vị trí của ngũ (5) hành. Khi đặt chồng cả 3 đồ hình: Tứ Tạng, Ngũ Hành và Hà Thư ta mới giải nghĩa mỗi đoạn “công thức” ngắn ngủi sau: Hỏa viêm thương Thủy nhuận hạ Mộc viết khúc trực Thạch viết tòng cách Cam viết giá sắc Nguyên văn trong dịch học thông hành : Kim viết Tòng cách Thổ viết giá sắc Ta đã biết số 2 và 1 trong Hà Thư là nhẹ và nặng, số 3 và 4 là mềm và cứng nên so sánh mới viết: 1. Hỏa số 2 viêm thượng, lửa thì nhẹ nên bốc lên trên cao; đấy là nghĩa vật lý còn ý nghĩa triết học là : tinh thần là phần làm nên giá trị con người, tức trở nên cao quí hay viêm thượng. 2. Thủy số 1 nhuận hạ, thân xác người cũng là 1 sinh vật trong sinh giới, nó cũng bị chi phối bởi các quy luật vật lý và sinh học như các động thực vật khác vì vậy : Dịch viết: Thủy nhuận hạ, hạ đây không phải là hạ cấp- bên dưới mà là sự ràng buộc vào thế giới vật chất , không ăn-uống không trao đổi chất thì không thể sống ̣được . 3. Thạch số 4 viết Tòng cách (nguyên văn Kim viết Tòng cách) Tòng là tuân theo Cách là sửa đổi Hướng Tây là cứng (Hà Thư) là mối quan hệ người – tự nhiên (tứ tượng) nên trong ngũ hành tượng trưng bởi đá, tục ngữ Việt thường nói cứng như đá; không thay đổi là đặc tính của quy luật lý lẽ. Chi phối mối tương quan con người và tự nhiên là lý lẽ; đứng trước các quy luật con người chỉ có một cách duy nhất là tuân theo, không thể nào sửa đổi được vì nếu sửa đổi được thì đâu có còn là quy luật tự nhiên, đó chính là nghĩa chữ Tòng. Tôn trọng các quy luật để vận dụng ngay các quy luật đó làm lợi cho mình gọi là tòng - cách. Thí dụ: ta không thể bắt nước chảy ngược từ thấp lên cao được; nhưng vận dụng ngay quy luật nước chảy xuống thấp để đắp đập tưới tiêu, làm thủy điện v.v… Biến thủy tai thành thủy lợi đấy chính là tòng cách. 4. Mộc số 3 viết khúc trực Khúc trực có nhiều ý: - Gẫy khúc và thẳng thắn - Cong và ngang - Gián tiếp và trực tiếp Ý rất rõ : muốn đến thẳng phải đi đường vòng … nói như thế nghe hơi kỳ… Quẻ Mộc phương Đông chỉ mối tương quan – Người và môi trường xã hội . Hà thư có vòng trong là vòng sinh, vòng ngoài là vòng thành; vòng thành chỉ những gì đã hiện ra; đã hình thành rồi; nhưng cái gốc rễ sinh ra nó lại nằm chìm ở vòng sinh. Thí dụ: trộm cắp như rươi có nguyên nhân chính ở vòng trong là: sự thiếu thốn quá mức như vậy nhà cầm quyền không phải chỉ biết có trừng phạt… mà còn phải biết giải quyết tệ nạn tận gốc rễ tức làm sao để không còn nghèo đói, ai cũng đủ ăn, đủ mặc. Tóm tắt mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân sâu xa, muốn giải quyết nó tức “trực” thì phải thay đổi nguyên nhân đã tạo ra nó tức “khúc” . Mộc viết khúc trực không phải là một quan niệm cổ nữa khi hiểu đúng nó trở thành một định luật của ngành khoa học chính trị hiện đại. 5. Cam số 5 viết giá - sắc Nguyên văn trong Dịch học của Tàu Thổ viết giá sắc. Cam là hành trung tâm, là nơi xuất phát và qui về. Cam ở đây chỉ con người sống thực, một đời sống bị vây tứ phía bởi các quy luật tự nhiên và xã hội . Cam = chính ta, tại đây, lúc này. Dịch viết: cam viết giá sắc (nguyên văn Thổ viết giá sắc) . Giá là gieo, sắc là gặt ; con người là kẻ gieo nhân và cũng chính họ là người gặt quả ., ý nghĩa quan trọng nhất ở ̣đây là sự chủ động trong diễn trình sinh hóa vũ trụ ; chính sự chủ động này đã xác lập đẳng cấp chủ nhân đối với vạn vật . Con người phát động chuỗi phản ứng dây chuyền trong mối tương tác : xã hội – con người – tự nhiên và cũng chính con người lãnh hậu quả sau cùng. Dịch học chỉ ra 2 chuỗi phản ứng : ngũ hành tương sinh và ngũ hành tương khắc . Sinh và khắc là Hán Tự ký âm từ Việt . Sinh có gốc là Chữ suôn trong suôn sẻ thuận lợi ; suôn → sinh; Sinh ở đây không có ý nghĩa là sanh đẻ. Chữ khác → khắc, khắc chế , khác có nghĩa là vận động khác chiều hay trái chiều tự nhiên . Nếu 2 lực thúc đẩy đồng chiều thì tổng là số cộng còn nếu 2 lực trái chiều thì tổng là số trừ của nhau. Đấy chính là ý nghĩa toán học của sinh và khắc. Còn ý nghĩa triết học là: Sinh là đồng chiều với khuynh hướng tự nhiên, nếu cứ để tự nhiên đừng can thiệp vào bằng nỗ lực chủ quan thì chiều diễn biến sẽ như thế. Ngược lại: khác là bơi ngược dòng nên hậu quả là rất tốn công sức, rất mệt mỏi mới có thể đến đích. Sở dĩ con người phải chấp nhận sự mệt mỏi, vất vả vì đi theo chiều khắc là đi đường tắt, đường đến đích ngắn nhất, nhanh nhất. Bằng nỗ lực chủ quan mà vượt lên bất chấp điều kiện khách quan. Thực tế vận động theo vòng nghịch chỉ 1 số ít thánh nhân thành công còn đối với người phàm như đại đa số cái gọi là giống người thì chiều khắc chỉ được coi là ý hướng, cố gắng tiến đến càng gần càng tốt, dù chỉ rút ngắn được một khoảng nhỏ tượng trưng cũng đà xứng mặt “quân tử ” , còn quần chúng không cần đi tắt cứ bình thản theo vòng sinh mà đi. - a . Ngũ hành tương sinh . Tương sinh nghĩa là thuận theo khuynh hướng tự nhiên . Chúng ta vẫn thường quen đọc là cam sinh thổ, thổ sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh cam… Đơn giản hóa chuỗi sinh này: Cam → Thổ → Thủy → Mộc → Hỏa → Cam Với Dịch lý người Tàu vòng sinh như sau: Thổ → Kim → Thủy →Mộc →Hỏa →Thổ Vẽ theo đồ biểu ngũ hành ta có vòng sinh: Con người từ nguyên thủy tiến lên từng bước đến văn minh. Xuất từ con người tức hành Cam, đầu tiên xử lý mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên tượng trưng bởi hành Thổ (Thạch) cụ thể là tăng tiến tri thức khoa học và cải tiến công cụ để tạo ra năng suất mỗi ngày mỗi cao hơn, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn và đưa đến: Thổ sinh Thủy: ý nghĩa là dựa vào sự thăng tiến khoa học kỹ thuật mà đời sống vật chất của con người được cải thiện, nâng cao lên. Thủy sinh Mộc: Mộc là tình cảm giữa con người với nhau, khi của cải vật chất dồi dào, nhu cầu cho sinh tồn không bức bách nữa thì con người dễ thông cảm với nhau, dễ tôn trọng chia xẻ hơn, thực ra tình cảm đối với con người cũng là một bản năng cũng y như bản năng sinh lý vậy, tình cảm chỉ lụi tàn khi bị bản năng sinh tồn lấn lướt. Mộc sinh Hỏa: Khi cuộc sống đã ít phải lo toan, mối liên hệ người và người đã tốt đẹp thì sự thăng tiến trong đời sống tinh thần trở nên dễ dàng hơn. Khi ăn bữa nay lo chạy bữa mai thì khó nói đến việc tự chủ tự cường càng khó hơn để nói đến sự chia sẻ . Con người phải nhắm đạt 3 chữ chủ : làm chủ bản thân, làm chủ thiên nhiên và làm chủ xã hội Làm chủ bản thân tức sự đấu tranh giữa ý hướng vươn lên của tinh thần và sự kéo xuống của dục vọng, rõ ràng khi nhu cầu vật chất không thiếu thốn nữa, con người dễ vươn lên hơn nhiều. b . Ngũ hành tương khắc: Vòng tương khắc như sau: Cam khắc Thủy - Thủy khắc Hỏa- Hỏa khắc Thạch- Thạch khắc Mộc- Mộc khắc Cam. 4 khía cạnh của ý thức là: Hỏa = ý chí, Thủy = dục vọng, Mộc = tình cảm, Thạch = lý lẽ và Cam là Nhân nơi dung hợp cả 4 khía cạnh. • Cam khắc Thủy: bước đầu phải diệt dục để trở thành vô cầu. • Thủy khắc Hỏa: khi đã diệt dục rồi thì tinh thần thảnh thơi tự tại không bị lôi kéo bởi vật dục nữa, tinh thần thăng hoa tột đỉnh đạt trạng thái gọi là vô vọng. • Hỏa khắc Thạch: khi đã đạt vô cầu, vô vọng bản thân không còn bị ràng buộc của tục lụy trần gian; lý lẽ, đúng sai, phải trái không còn ý nghĩa nữa, nghĩa là đã vượt vòng cương tỏa thong dong tự tại trong trạng thái vô chấp, các quy luật thông thường của tự nhiên và xã hội đều vô can với mình. • Thạch khắc Mộc: cái vô thứ 4 đạt đến là vô biên, sau vồ cầu, vô vọng, vô chấp đỉnh cao mà con người có xương có thịt đạt đến được là vô biên; không còn các biên giới phân ranh giữa ta và người khác. Đạt đến mức này, thì từ sở hữu không còn ý nghĩa nữa tức có thể xây dựng chế độ cộng sản trên trái đất này. • Mộc khắc Cam: bước cuối cùng của hành trình tương khắc là trở về với nhân tức con người, nhân cũng chính là bước khởi đầu chuỗi tác động dây chuyền, nhưng con người bây giờ không còn là là con người cũ nữa, sự tột đỉnh của hữu đã biến thành… vô, con người cá thể không còn, thay vào đấy là tột đỉnh vô ngã… tức không còn là người theo nghĩa thông thường nữa mà là thánh nhân. Tương khắc thực chất là con đường tu hành, chỉ có 1 số người có phẩm chất đặc biệt mới theo được… Ta tuyệt đối không bao giờ được sai lầm, đem áp dụng cho cả xã hội- cộng đồng, nếu bừa bãi cuối cùng chắc chắn là rơi vào đường đi không đến… hay càng đi càng xa đích nghĩa là trầm luân khổ ải vô bờ. Vậy thánh nhân chỉ ra ngũ hành tương khắc để làm gì? Nếu vận dụng thành công ngũ hành tương sinh ta có thể xây dựng được một cộng đồng giàu mạnh; nhưng giàu mạnh chưa chắc đã là hạnh phúc, có khi còn ngược lại … khổ hơn khi chưa giàu. Hạnh phúc là một xúc cảm nội thể tạo nên bởi các yếu tố nội sinh, các yếu tố bên ngoài chỉ ảnh hưởng mà thôi, ảnh hưởng dù mạnh tới đâu cũng vẫn là ảnh hưởng, quyết định vẫn là chuyện của bên trong. Chính vì vậy mới phải có vòng tương khắc. Một xã hội dù giàu có tới đâu cũng không thể là xã hội an hòa khi trong lòng nó vẫn tồn tại mâu thuẫn rất cơ bản; một bên là tính hữu hạn của vật chất và bên kia là lòng tham vô hạn của con người, của cải vật chất thủ đắc biết bao nhiêu cho đủ? Chính vì vậy mà thánh nhân mới tác Dịch để dạy chúng ta vòng tương khắc; tính hữu hạn của vật chất là khách quan ta không can thiệp được nhưng vế sau là lòng tham lam của con người thì có thể uốn nắn, sửa đổi được. Ta nhận xét: Ngũ hành tương sinh tồn tại trong văn minh nhân loại với tư cách là nền khoa học, khoa học tiến hóa xã hội. Ngũ hành tương khắc lại có tư cách một nền đạo đức xã hội, nó thúc dục, định hướng sinh hoạt nội tâm mỗi con người và sau cũng chính nó chứ không gì khác dẫn con người đến hạnh phúc.1 like
-
các bạn thân , hết sức cám ơn các bạn , về việc dịch các bài viết sang anh ngữ....tôi không đủ khả năng ....mong các bạn giúp cho...chúng ta coi đây là trách vụ hay bổn phận của chúng ta đối với tiền nhân , không màng gì đến lợi với danh ... nqn1 like