• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 06/11/2010 in all areas

  1. Không hiểu ý Hạt gạo làng lắm, theo ý ntpt nghĩ mỗi người đều có nghiệp riêng của mình. Người bố mất là nghiệp của người bố. Ntpt luôn tin ông Trời luôn công bằng và đối với ntpt, tử hình có phải là quá "ưu ái" cho người này?! BÙM MỘT PHÁT LÀ XONG. Để sống cho dằn vặt, đau khổ, ám ảnh về những việc mình đã làm, cho những điều khác hành hạ có lúc muốn sống cũng không được muốn chết cũng không yên...CHẾT THÌ DỄ SỐNG MỚI KHÓ. Vài lời mạo muội, mong mọi người đứng đả kích :D
    2 likes
  2. Nghĩ chắc giờ sinh chưa đúng. Nghĩ lá số này là của bạn: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2 Hỏi lại từ đầu nhé :D
    2 likes
  3. Nơi đây ngôi nhà Lục Giác sẽ được thực hiện Lễ Cầu Siêu, Mặt nhà Lục giác hướng ra phía Sông nơi phóng Sinh. Có những bâc thang ra mé sông. Khuôn viên tòa nhà chúng ta có thể ngỗi đãnh lễ. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát tại vị trí trung tâm Chùa, nơi đây hàng tuần và ngày rằm mùng một người dân thành phố thường đến để thí lễ phóng sinh chim cá.
    2 likes
  4. HÒN ĐÁ NÉM ĐI. Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Ðến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ. Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi". Ði đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù. Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sach mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: "Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta". Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất. Leon Tolstoi
    1 like
  5. Điều lệ của diễn đàn ; chỉ xem cho người là thành viên ,người yêu chưa phải là người vợ chồng .
    1 like
  6. Tiến sĩ Trần Đăng Tuấn (tốt nghiệp bằng tiến sĩ ngành truyền hình tại Liên Xô) đã làm việc tại Đài truyền hình Việt Nam 20 năm, chức vụ phó tổng giám đốc VTV, vừa mới đệ đơn xin Thủ tướng cho thôi chức, và đã được chấp nhận. Tiến sĩ có bài thơ mới viết trên blog của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. Tôi tình cờ đọc được, thấy rất thông cảm với tâm sự của một công chức nhà nước. Trong bài thơ có chữ CỦA để chữ in hoa, không biết vô tình hay hữu ý, nhưng nó giúp tôi “tóm” được câu thành ngữ mới của tiếng Việt, đó là câu “chút gian khó của”. Thành ngữ tiếng Việt thường có kết cấu hai vế “nhân” và “quả”. Câu “ chút gian khó của” nghĩa là cái gian ít thì khó kiếm được của. Có lẽ đây là nguyên nhân để tác giả đi tìm một môi trường khác để dễ giữ được sạch mình, như những con người chân chính vẫn hằng tâm nguyện suốt cuộc đời . Cảm ơn tác giả về bài thơ. CÓ MỘT NGÀY Có một ngày Rời chậu cảnh, cây ra ngoài đất bãi Đất cằn hơn và bãi rộng hơn Có một ngày Không vui sướng cũng không ngần ngại Tôi rẽ vào ngả đời Gập ghềnh hơn mà thanh thản hơn! Tết này có ai cho rượu ngoại? Càng thấu tình men lá rượu ngô trong Xuân này thôi họp hành lễ lạt Cha dắt con đi chơi non biếc nắng hồng Giờ như bao chú cô bác khác Cha loay hoay tìm việc để nuôi con Chút gian khó CỦA đời cha sẽ nếm Để gần hơn bao thân phận mất còn! Trần Đăng Tuấn Hà Nội, 3-11-2010
    1 like
  7. Kem muốn hỏi lại anh câu "số nên buôn bán kd, làm công chức thì bất đắc chí ngoài 40 thì được hoạnh taì" nghĩa là em lam cc bây giờ ko tốt nhưng sau 40 thì tốt? túm lại là hoạnh tài về cc hay kd ạ? Ngoài 40 tuổi thì làm ăn được giữ được tiền của không cứ gì CC hay KD nhưng số em theo anh thì nên tốt hơn. vì KD thì có cơ hội chủ động , về TC còn CC thì em nhiều khi không bằng lòng được với công việc, dễ gây ra bất mãn, và dễ buông xuôi. Nhưng anh tin con người em không dễ buông xuôi mà luôn luôn có ý chí vươn lên.
    1 like
  8. THÔNG TIN BỔ SUNG Thiên tai tăng nặng....... ========================================================================= Hậu quả khủng khiếp của núi lửa Merapi ở Indonesia Thứ Bẩy, 06/11/2010 - 06:54 (Dân trí) – Tính đến hôm qua, số nạn trong cơn giận giữ dữ dội nhất trong hơn 100 năm qua của núi lửa Merapi ở Indonesia lên tới 122 người kể từ ngày 26/10, trong khi nhiều làng mạc cây cối đang bốc cháy vì dung nham và hơi nóng tràn ra từ núi lửa này. Lực lượng tìm kiếm làm việc trong điều kiện cực kỳ nguy hiểm Các vụ nổ hôm 4/11 kéo dài 2 tiếng đồng hồ là chuỗi vụ nổ mạnh nhất từ một thế kỷ qua. Nhưng vụ nổ sáng 5/11còn mạnh hơn nữa về cường độ. Hơn 5 giờ sáng, núi lửa Merapi bắt đầu phun những đám mây tro khổng lồ với sức nóng hơn 700 độ C, trong một tiếng nổ vang kinh khủng nghe thấy cách đấy cả 20 km. Hàng chục người, nhất là ờ làng Argomulyo, đã không chạy thoát. Hai tiếng đồng hồ sau, lính của lực lượng đặc biệt đã được phái đến nơi. Phóng viên đài truyền hình Indonesia đi theo họ đã cho thấy cảnh tàn phá ghê gớm: cả một ngôi làng bị cháy rụi ngay, một lớp tro dày bao phủ các căn nhà bị thiêu hủy. Nhiều người đã không chạy thoát... ... số thiệt mạng đang tăng lên Số nạn nhân chết vì tro bụi và khí độc của núi lửa Merapi mỗi ngày mỗi nhiều thêm. Trong số các nạn nhân vụ núi lửa phun lên hôm qua có 9 trẻ em dưới 10 tuổi không kể nhiều chục người bị phỏng nặng. Toàn khu vực bị bao phủ trong một bầu không khí ngẹt thở và đen xám.Dân cư các vùng lân cận đã chạy đến các trại tạm trú, hiện đón đến cả trăm ngàn người. Những người bị thương rất đau đớn vì áo quần, chăn mền của họ bốc hỏa. Suốt ngày hôm qua, núi Merapi tuôn trào khói tro nóng khiến kính xe hơi cách đó tới 500km cũng dính đầy.Những người cứu cấp làm việc trong điều kiện cực kỳ nguy hiểm vì những đợt khói nóng của núi lửa không ngừng đe dọa mạng sống của họ. Nhiệt độ cực cao giết hại hàng loạt gia súc và tiêu hủy hết mùa màng khu vực gần núi lửa... Người dân cách núi lửa hơn 500km cũng bị ảnh hưởng Kể từ khi trở mình hoạt động từ ngày 26/10, Merapi đã có hàng chục vụ phun khói tro và dung nham tràn ra trên sườn núi. Vùng tử thần đã được vạch ra là 20km cách miệng núi lửa. Giới chuyên gia theo dõi hoạt động của núi lửa Merapi rất lo ngại. Không ai biết diễn tiến sắp tới ra sao. Còn 3 núi lửa khác ở Indonesia cũng đang có dấu hiệu hoạt động trở lại. Công tác tìm kiếm các thi thể vẫn tiếp tục... ...nhưng không ai biết diễn tiến sắp tới sẽ ra sao Các nhà núi lửa học cho rằng vụ phun lửa lần này của Merapi là lớn nhất từ những năm 1870 đến nay. Làng Bronggang, cách núi 15km là bị nặng nhất, có đến 78 tử thi được tìm thấy ở đây. Trong thế kỷ 20, những lần hoạt động của Merapi đã giết chết 1.500 người. Sở dĩ người ta sống đông đảo dọc theo sườn núi vì đất đai do dung nham tạo rất màu mỡ để trồng trọt. Việt Hà Tổng hợp ============================================== Thật đau lòng cho những con người sống ở nơi đây. Giờ Thìn - Ngày 1. 10 Canh Dần Việt lịch, tôi độn được quẻ Hưu Xích Khẩu. Những tai họa này sẽ tàn phá rất lớn và con người phải làm lại từ đầu ở những vùng bị thiên tai. Mong rằng trong vòng một tuần sự phun trào này sẽ chấm dứt. Theo quẻ là gần một tháng sau.
    1 like
  9. Theo em nghĩ, bây giờ chị cứ làm việc bình thường, tranh thủ học thêm được gì thì học, khi thời cơ đến thì chị sẽ thấy được là cái nào okie với mình nhất thôi
    1 like
  10. Anh Vuivui và quí vị quan tâm thân mến. Tác giả Ngô Quang Hưng cho rằng cần có thử nghiệm với hiện tượng mà mọi người gọi là "ngoại cảm". Ông viết như sau: Toàn văn đoạn viết như sau. Toàn văn bài viết xin xem đường link trong bài anh Vuivui dẫn.Tôi xác định rằng: Tác giả Ngô Quang Hưng đã sai lầm về mặt phương pháp phân tích, xác định và từ đó dẫn đến kết luận sai, trong đó có phương pháp thử nghiệm. Sai lầm này không chỉ xảy ra ở ông Ngô Quang Hưng, mà có thể nói ở cả một số nhà khoa học khác. Mặc dù xét về cá nhân ông Hưng và một số nhà khoa học khác có các nhìn nhận tương tự chỉ là hiện tượng. Nhưng với phương pháp luận của Lý học Đông phương thì chỉ cần một hiện tượng dù rất nhỏ, có thể phân tích toàn bộ cảnh quan của một bức tranh toàn cảnh. Thực tế đã cho thấy rằng: Ở tầm vĩ mô, nền khoa học hiện đại đã đi đến chỗ bế tắc. Chính ông hoàng vật lý hiện đại SW Hawking - một tác giả liên quan đến topic này - đã khuyên nhân loại nên đi tìm hành tinh khác để ở, sau 200 năm nữa. Sai lầm của lập luận này ở chỗ nào? Tôi xin được trình bày như sau. I - Về mặt định nghĩa hiện tượng. Tác giả viết: Tác giả đã sai lầm ngay từ khi định nghĩa hiện tượng. "Ngoại cảm" là một hiện tượng đặc biệt khác thường, tồn tại khách quan và có ở trong một số người. Cho dù gọi nó là cái gì! Bởi vậy, nếu tác giả không thừa nhân khái niệm "ngoại cảm" và cho rằng nó không chính xác thì điều đó không có nghĩa phủ nhận hiện tượng, mà chỉ có thể phân tích hiện tượng và đặt cho nó một cái tên khác. Lập luận của ông Hưng cho rằng: .Tất nhiên sự cân đo, đong đếm chỉ có thể bắt đầu sau khi con người thừa nhận hiện tượng và nghiên cứu hiện tượng. Chẳng ai cân đo một cái mà người ta không biết đến nó. Tác giả đã tự mâu thuẫn khi xác định : . Tất nhiên Aristotle không tin. Vì vào thời đại của Aristotle, chưa nhận thức được hiện tương và cũng không có khái niệm này. Nhưng tất nhiên, vào thời đại của chúng ta hiện tượng này là có thật.Ông Ngô Quang Hưng viết: Như vậy, ông Hưng nghi ngờ tính thực tế của hiện tương này và cho rằng nó được thực hiện bởi phương pháp khác phi "ngoại cảm". Nhưng nếu như vậy thì việc đầu tiên là ông Hưng phải tìm cách chứng nghiệm điều này, chứ không phải đặt vấn đề giải thích nó khác đi bằng một thực tại khác.Bởi vậy, qua đoạn này, tôi xác định rằng: Ông Ngô Quang Hưng đã sai lầm ngay từ đầu khi phủ nhận hiện tượng khách quan - mà cách gọi phổ biến hiện nay là "hiện tượng ngoại cảm". Với cách suy nghĩ và lập luận này của ông Hưng, con người có thể phủ nhận tất cả mọi thứ trên thế gian, nếu những thứ ấy không tác động một cách trực quan vào các giác quan của con người, hoặc thông qua những phương tiện kỹ thuật. Với hiện tượng "ngoại cảm", dù chỉ xảy ra một lần duy nhất và chỉ trong một con người - thí dụ như cô Phan Thị Bích Hằng - thì với một tư duy khám phá thực sự, cũng đáng để quan tâm nghiên cứu cơ chế nào tạo ra hiện tượng đó. Huống chi, nó là hiện tượng khách quan, được lặp lại nhiều lần và xảy ra ở nhiều người. Ngoại cảm không phải là một phương pháp luận, một giả thuyết có tính lý thuyết để chỉ ra cái sai, mà là một hiện tượng khách quan đang tồn tại trên thực tế, mà khoa học chưa giải thích được. Vấn đề là người ta hiểu nó như thế nào và ứng xử ra sao. Nếu xét về góc độ khoa học thì sự phủ nhận hiện tượng khách quan là sai lầm phi khoa học. Kiến thức khoa học thì thời đại nào trong lịch sử văn minh nhân loại đều có. Tùy theo khả năng tiếp thu mà có những địa vị khác nhau để xác định khả năng tiếp thu đó. Thí dụ như thời hiện đại gọi là giáo sư, tiến sĩ....vv.....Nhưng vấn đề không phải chỉ dừng lại ở sự tiếp thu kiến thức khoa học (Mà bằng chứng người ta đã tạo ra được những robo bác học để tiếp thu những kiến thức này, rẻ hơn nhiều so với việc đào tạo). Bởi vậy, để những tri thức con người tiếp tục phát triển còn cần khả năng tổng hợp những tri thức đó để tiếp tục giải thích, hoặc nghiên cứu những thực tại khách quan, nhằm phát triển những tri thức đó. Bởi vậy nó cần đến một phương pháp nghiên cứu và cách đặt vấn đề. Con robo bác học nếu chỉ nạp dự liệu bằng những kiến thức khoa học thời đại Aristotle, mà bắt nó giải thích hiện tượng "sóng diện từ" thì có lẽ nó bị "đứng máy". Đấy chính là sự phân biệt giữa robo bác học và sự sáng tạo. II - Về phương pháp và cách đặt vấn đề thực nghiệm Tất nhiên từ cách đặt vấn đề sai lầm có tính phủ nhận hiện tượng khách quan thì tất yếu phương pháp không thể đúng - "không thể tìm một cái đúng từ một cái sai". Ông Ngô Quang Hưng viết: Cả ba phương pháp thử nghiệm đều sai. Chúng ta lần lượt xét các phương pháp của ông Hưng và tổng hợp cả ba, như sau: Tôi cho rằng đây là một thử nghiệm sai. Chuyện chỉ đơn giản thế này: Có rất nhiều người trùng tên đã chết và đang sống. Vậy cụ thể sẽ phải tìm người nào? Nhà ngoại cảm cần nhiều dữ liệu khác liên quan, thí dụ như: Bố mẹ, thân nhân người chết, ngày sinh và ngày mất nếu có....vv.....để xác định người đó có thật và là một người cụ thể cần tìm. Tôi nghĩ rằng: Nếu chỉ với một cái tên không thì đến FBI và CIA cũng bó tay trong việc lục đống dữ liệu của họ. Lạy Chúa! Tất nhiên nhà ngoại cảm sẽ không thể tìm được, nếu họ định hướng khả năng ngoại cảm vào việc đi tìm ....ngay cả chỉ với một cái tên thật trống rỗng và không định hướng như trên (Phương pháp 1). Ngoại trừ một điều có khả năng xảy ra. Đó là nhà ngoại cảm định hướng xem người hỏi có thật hay không. Nhưng trên thực tế sẽ chẳng có một nhà ngoại cảm nào lại đề phòng thân chủ của mình như vậy. Đây là thách đố phi học thuật và không nghiêm túc. Vì nó buộc người được thí nghiệm phải nghĩ đến một tình huống không xảy ra - Xác định câu hỏi có thật hay không - trước khi trả lời câu hỏi đó. Về điều kiện thứ 3 này - trên thực tế các nhà ngoại cảm có thể chưa làm, nên tôi không có ý kiến. Nhưng tôi tin họ có thể làm được. Tuy nhiên với cách đặt vấn đề của tác giả thì gần như ông Hưng không cho pháp các nhà ngoại cảm tiếp xúc với những cơ sở dữ liệu (CSDL). Đây là cách đặt vấn đề rất sai lầm. Bởi vì, nếu cho rằng chỉ với cơ sở dự liệu, người ta có thể tìm được mộ thì có lẽ sẽ chỉ có những người mất tích trong chiến tranh khi bị mất cơ sở dữ liệu. Còn nếu đầy đủ cơ sở dữ liệu thì người ta tìm ra từ lâu rồi.Nhưng rõ ràng thực tế khách quan đã cho thấy rằng: Các nhà ngoại cảm đã tìm được những hài cốt ở những nơi mà không một cơ sở dữ liệu nào ghi nhận. Như vậy, từ cách đặt vấn đề sai lầm, ông Hưng đã đi đến một phương pháp sai lầm và tất nhiên kết luận cũng sai luôn. Ông đặt vấn đề xác xuất không đáng tin cậy và dẫn chứng sai lầm của cô Hằng trong một lần tìm nơi trôi dạt của những người chết vì xe bị lũ cuốn. Ở đây tôi chưa nói đến việc cô Hằng đã phủ nhận rằng cô ấy không dự báo chuyện này. Cứ giả thiết rằng cô ấy dự báo sai và có thể nhiều lần sai với thống kê xác xuất 70% - Tức là 30% sai - thì việc này không có nghĩa là hiện tượng ngoại cảm không có thật. Ông cho rằng việc đi "sờ đầu rùa", "lạy tượng đất nung" là sai lầm phi khoa học. Nhưng rất tiếc! Từ ngàn xưa - khi chưa hề có khái niệm "khoa học" trong văn minh nhân loại - thì con người đã đi "sờ đầu rùa" và "lạy tượng đất nung" rồi. Hiện tượng này có một nguyên nhân sâu xa của nó với cách giải thích khác. Tuy nhiên nó không thuộc nội dung của topic này, nên tôi không lạm bàn. Tôi chỉ xin đặt vấn đề với câu nói nổi tiếng của ông Trịnh Xuân Thuận: Để giải thích một hiện tượng dù rất nhỏ, phải viện dẫn đến toàn bộ lịch sử hình thành vũ trụ. Tôi có thể nói một cách hình tượng rằng: Nếu vũ trụ này được lập ra bởi Thượng Đế thì việc lạy tượng đất nung là cần thiết. Và ngay cả sau này, khi mà khoa học loại được Thượng Đế ra ngoài khái niệm vũ trụ thì hình ảnh của tượng đất nung chính là một mắt xích quan trọng tạo ra hiện tại. Vì nó là một bộ phận trong lịch sử văn minh nhân loại, một bộ phận của lịch sử vũ trụ. Nếu ai bắn vào quá khứ bằng một viên đạn súng lục thì sẽ bị tương lai bắn bằng đại bác. Đại ý vậy. Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
    1 like
  11. Sang năm là được rồi cố lên, tuy có trắc trở nhưng để sang năm nữa thì còn khó hơn cẩn thận sang năm nữa nhà có tang
    1 like
  12. Mưa rồi lũ lụt kéo nhau về Thủy Tinh hoán vũ đã chán chê Oải hương ngập trong mưa lũ đó Chỉ đợi Nắng về, sẽ xum xuê :D :D :D :D :D :D :D :D :D Tạ lỗi vì feedback cô wild chậm quá mà, :)
    1 like
  13. Vứt tôn giáo ra thì đúng, nhưng bỏ đạo thì không được. Bởi bản chất của tôn giáo là tín ngưỡng, còn bản chất của đạo là đi tới cái thường hằng, là cái nền tảng giản dị nhất của thế giới. Không phải tất cả mọi khoa học đã và đang đi tìm cái giản dị nhất của chính minh đó sao ?. Trong thực tế, đáng tiếc là những môn phê phán, tiêu diệt tín ngưỡng lại là những môn tín ngưỡng nhất. Những người vô thần lại là những người lập tôn thuyết giáo mạnh mẽ nhất. Thân ái.
    1 like
  14. Ngất ngây trước chùa vàng Shwedagon ở Myanmar. Từ năm 1586, du khách người Anh Ralph Fitch đã viết sau khi thăm chùa: “Công trình được gọi là Dogonne, đẹp một cách kỳ vĩ, được mạ vàng từ chân đến đỉnh tháp. Với tôi, ngôi chùa cao lớn này là nơi đẹp nhất thế giới”. >> Nét cổ kính chùa Bổ Đà >> Góc lạ ở Đan Mạch >> Mộc mạc làng gốm Phù Lãng Myanmar là một quốc gia giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, có nhiều công trình mang tính tâm linh, các thắng cảnh đẹp mê hồn. Trong đó Shwedagon được coi là một trong những ngôi chùa đầu tiên của nhân loại, dù không ai biết niên đại thực sự của chùa. Trước khi ngôi chùa được xây dựng ở đồi Singuttara (thủ đô Yangon), địa điểm này đã được coi là đất thánh vì lưu giữ thánh tích của ba vị Phật tử. Truyền thuyết kể rằng, đã gần 5.000 năm trôi qua kể từ khi đức Phật xuống trái đất, và đồi Singuttara sẽ không còn linh thiêng nếu không có được di vật của một vị Phật mới. Để tìm kiếm di vật đó, vua Okkalapa đã dành rất nhiều thời gian thiền tịnh và cầu nguyện trên đỉnh đồi. Cuối cùng phép màu đã hiện ra: 8 sợi tóc của Phật đã xuất hiện tại đây. Để thờ thánh tích này, rất nhiều chùa bằng bạc, đồng, thiếc, đá, sắt và vàng đã được xây dựng, chồng lên nhau. Sau nhiều thế kỷ, trải qua nhiều truyền thuyết và cả sự thật, ngôi chùa ngày nay cao 98 m. Chùa Shwedagon được trùng tu nhiều lần sau các trận động đất. Hình dáng chùa hiện nay được xây lại sau trận địa chấn năm 1786 từng khiến nửa trên của chùa sụp xuống. Kiến trúc của Shwedagon cũng rất đẹp, nhưng điểm làm nên sức hấp dẫn của công trình này là ánh vàng rực rỡ mà công trình tỏa ra. Tầng dưới của chùa được dát bằng 8.688 lá vàng. Tầng trên dát 13.153 lá vàng. Trên đỉnh tháp gắn 5.488 viên kim cương, 2.317 viên ngọc ruby, saphire và các loại đá quý, có 1.065 chuông vàng và trên đỉnh là một viên kim cương 76 carat. Khí hậu Myanmar chia mùa rõ rệt: Mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 8, độ ẩm cao, mưa từ chiều đến tối, thường xuyên có lũ lụt), mùa khô (từ tháng 10 đến tháng 5). Thời tiết mát mẻ nhất là từ tháng 11 hiện nay đến tháng 2. Nền nhiệt độ chỉ dao động từ 21 đến 28 độ C rất dễ chịu. Trong tháng 3 và tháng 4, không khí vẫn khô nhưng nhiệt độ cao, khoảng 45 độ C, có thể khiến du khách mệt mỏi. Hiện nay đang là thời gian lý tưởng để đi du lịch Myanmar và thăm chùa vàng Shwedagon. Tour kéo dài 4 ngày 3 đêm khởi hành từ Việt Nam tới xứ Miến Điện xưa có giá khoảng hơn 8 triệu đồng. Một số hình ảnh chùa Shwedagon: Theo BĐVN
    1 like
  15. Đây không chỉ là bản thông điệp của một nền văn hiến mà nó còn là một bản "Tuyên ngôn độc lập" nữa sau bản "Tuyên ngôn độc lập" của CT Hồ Chì Minh đọc năm 1945 với những trích dẫn nổi tiếng: "Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác..." hay "Tuy mạnh yếu mỗi lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có..." Đặc biệt trong bản "Tuyên ngôn độc lập" này còn có một ý có thể hiểu là thông điệp gửi tới Trung quốc. Thông điệp đó là nước Việt tuy yêu chuộng hòa bình, người dân trọng nhân nghĩa song không bao giờ run sợ khuất phục trước cường quyền". Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay khi Trung quốc gia tăng đe dọa Việt nam (triển khai các trận địa tên lửa chiến lược nhằm vào Việt nam) và lộng hành trên biển Đông. Ngoại trừ một điểm nhỏ đó là con Hồng, cháu Lạc nếu sửa là con Rồng cháu Tiên thì sẽ hay hơn vì Lạc Hồng không cụ thể và khái quát cũng như nội dung lịch sử không đúng với Tổ tiên thì bài diễn văn này là một bản hùng văn xuất sắc. Từng lời lẽ ngắn gọn, khúc chiết, mềm mỏng nhưng đanh thép. Nội dung thì nêu bật được những gì cần nêu và đặc biệt trọng tâm là nền văn hiến lâu đời của dân tộc Việt. Giọng đọc của bác Triết cũng cực kỳ hào sảng (không biết có phải khi đứng trên quảng trường Ba Đình thì vậy hay không) đã tạo ra một cảm xúc đặc biệt và một cảm xúc thiêng liêng về dân tộc.
    1 like
  16. THÔNG BÁO VỀ VIỆC THAM GIA MỤC TRAO ĐỔI HỌC THUẬT Thân gửi các thành viên diễn đàn, Thay mặt BDH diễn đàn xin trân trọng thông báo: Nhằm mục đích phát triển diễn đàn chất lượng hơn, đặc biệt là các chủ đề liên quan đến học thuật. BDH diễn đàn hạn chế bớt các thành viên tham gia trao đổi ở mục "Trao đổi học thuật" như sau: 1. Chỉ những nhóm thành viên sau được tham gia trao đổi: - Hội viên chính thức - Hội viên tích cực - Hội viên ưu tú 2. Những thành viên được sự giới thiệu của những người thuộc nhóm có thể gửi bài ở TRAO ĐỔI HỌC THUÂT. 3. Đối với những thành viên không nằm trong nhóm có thể gửi bài ở TRAO ĐỔI HỌC THUẬT trên nhưng muốn cùng tham gia đóng góp và trao đổi có thể gửi bài đề nghị được xem xét ở chủ đề dưới đây. Đăng Ký Tham Gia Chuyên Mục TRAO ĐỔI HỌC THUẬT Rất mong nhận được sự ủng hộ từ tất cả các ACE. Nếu ACE có ý kiến muốn đóng góp để cùng phát triển diễn đàn vui lòng gửi bài tại mục ĐÓNG GÓP Ý KIẾN PHÁT TRIỂN hoặc có thể gửi mail đến webmaster@lyhocdongphuong.org.vn. Chúng tôi rất hoan nghênh những ý kiến đóng góp của các bạn. Trân trọng, Thay mặt BDH diễn đàn.
    1 like
  17. Sử thuyết Họ HÙNG ... nhìn lại ... Tổng hợp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học đã cho thấy thời cổ xưa cách nay hàng vạn năm Đông nam Á theo nghĩa rộng là 1 vùng thuần nhất dân tộc và văn minh , hơn thế nữa đây là 1 trung tâm văn minh của loài người khai sinh và phát triển riêng biệt độc lập với vùng dân tộc và văn minh Hoàng hà của Hán tộc , Người Đông nam Á mang đặc điểm nhân chủng nhánh Môngoloit phương nam hoàn toàn khác với nhánh Môngoloit của người Hán . Hàng ngàn năm trước công nguyên vật phẩm văn hóa tiêu biểu cho văn minh tộc người Đông nam Á là trống đồng mà xuất sứ đã xác định được là vùng đất giáp giới giữa Việt nam và Trung quốc ngày nay . Chính những nhà nghiên cứu Trung quốc đã thừa nhận trống đồng là vật phẩm văn hóa phi Hán , chủ nhân của nó là những dân tộc ít người ở Hoa nam tức tộc người người Đông nam Á . Sử thuyết và văn minh họ Hùng đã khám phá sự liên hệ giữa trống đồng và Dịch học , trong kinh dịch có những thông tin về trống đồng và trên trống đồng cũng thể hiện dịch lý đây là bằng chứng vật thể chắc chắn không thể phủ nhận , khám phá này giúp khẳng định dân tộc chế tạo ra trống đồng cũng chính là chủ nhân của kinh Dịch và dựa vào những thông tin lịch sử mang trong kinh Dịch kinh Thư và kinh Thi thì không thể nói khác : Ngũ kinh trung hoa là sách của người Đông nam Á viết về lịch sử văn hóa văn minh của mình vì 1000 năm trước công nguyên thì ảnh hưởng của Hán tộc và văn minh Hán chưa hề bén mảng tới vùng đất này ;xét như thế nghi án cội nguồn văn minh Trung hoa về cơ bản đã được giải quyết . Từ sự nhận định mang tính nền tảng này đối chiếu truyền thuyết lịch sử Việt và Hoa xác định được điều quan trọng thứ 2 là : thủy tổ của Trung hoa là Hoàng đế Hiên viên vua Hữu Hùng quốc chính là Hùng Vũ vương Hiền đức lang của truyền thuyết Việt , Hùng Vũ tức vua HÙNG , Hiền Đức tức Hiền đế , Hiền lang cũng là Hiền vương , Hiên Viên chỉ là ký âm sai của Hiền vương , Hữu Hùng thực ra là họ Hùng , Hữu là ký âm của từ họ trong Việt ngữ mà thôi . , vua HÙNG hay Hùng vũ là vua nước họ HÙNG hay Hữu Hùng quốc là điều hoàn toàn hợp lý , từ kết luận này ta biết được tên tộc người đông nam Á thời Hoàng đế Hiên viên hay Hùng vũ vương là người họ HÙNG và quốc gia của họ là Hữu Hùng quốc tức nước của người họ HÙNG. Năm 1911 khi ông Tôn dật Tiên đặt tên nước Trung hoa dân quốc chỉ quốc gia của các dân tộc sống trên lãnh thổ đế quốc Mãn Thanh cũ là ông ta đã tạo ra từ hoàn toàn mới không có chút liên hệ nào về mặt lịch sử với từ Trung hoa chỉ vùng trung tâm thiên hạ trong sách sử cũ , xưa Trung hoa cộng với chư hầu thành ra thiên hạ nên trước cuộc cách mạng Tân hợi 1911 trong lịch sử không hề có tộc người nào tên là Trung hoa . Quốc thống nước họ Hùng kể từ triều đại Hùng Vũ vương hay Hoàng đế Hiên viên truyền được 14 triều đại đến những năm đầu công nguyên thì mất nước vào tay Hãn tộc ; nếu cộng thêm 4 đời tổ phụ tượng trưng cho các chi tộc sống ở 4 phương đã kết hợp thành giống dòng duy nhất từ thời lập quốc thì tổng cộng có 18 đời vua Hùng tức 18 triều đại vua nước họ Hùng . Sau công nguyên dòng giống Hùng phục sinh trong lịch sử dưới tên gọi Bách Việt nghĩa là Việt tộc đông đúc ( dùng thay chữ đại nghĩa là to lớn ) , Triều đại đánh dấu việc chấm dứt thời lập quốc để chính thức trở thành 1 vương quốc là triều Hùng Việt vương –Tuấn lang , cổ sử Trung hoa ( tên quen gọi ) gọi là vua Đại vũ tổ nhà Hạ và cũng là tổ của các vương triều mãi về sau...chính vì vậy từ Việt trở thành tên dân tộc thay thế cho Hùng tộc trước đây đã bị khai tử bởi vó ngựa Hãn quân .. Đã xác định lịch sử và văn minh trong cổ thư mà xưa nay quen gọi là Trung hoa chính là lịch sử và văn minh của người bách Việt nhưng dòng Bách Việt có không gian sinh tồn là cả vùng châu Á gió mùa vô cùng rộng lớn ( cặp lưỡng nghi Chấn – Tốn của 8 quái ) vậy điểm khởi phát của nền văn minh ấy là ở đâu ? Sử thuyết họ Hùng và phần Văn minh họ Hùng đã căn cứ vào chính những thông tin đặc biệt là các thông tin về Địa lý khí hậu phản ánh môi trường sống trong Ngũ kinh ( bài Trống đồng và quê hương dịch học và bài 9 châu và văn minh nhà Hạ )để chỉ ra phần đất Việt nam ngày nay là nơi lập quốc và khởi phát của nền văn minh Bách Việt ( tên gọi của Hùng tộc sau công nguyên ) từ điểm xuất phát này dần theo thời gian lãnh thổ và văn minh người họ Hùng phủ lấp cả vùng rộng lớn đến thời nhà Chu là cả đông nam Á lục địa , phía bắc lãnh thổ tới tận lưu vực Hoàng hà thực vậy trong vùng văn minh Trung hoa ở Đông nam Á và lãnh thổ Trung quốc không có nơi nào vừa có biển ở phía đông vừa có voi sinh sống như đã chép trong kinh Thư ...trừ đất Việt nam . Ánh sáng của văn minh Trung hoa phát toả ở thời nhà Chu , Sử thuyết họ Hùng đã xác định được Văn lang đồng nghĩa với Văn vương , nước Văn lang có nghĩa là nước của Văn vương , lãnh thổ của Văn lang đã được truyền thuyết Việt chỉ đích xác: bắc giáp động đình hồ , nam giáp Hồ tôn , tây giáp nước Thục và đông giáp Nam hải tức vùng Trung và bắc Việt nam , tỉnh Vân nam –Quảng tây - Quý châu thuộc Trung quốc ngày nay , nước Văn lang chính là Trung hoa của thiên hạ thời nhà Chu đã được minh định trong các bài Hùng Chiêu vương Lang Liêu lang và Hùng Ninh vương thừa Văn lang .; Chiêu vương và Chu vương là một , Lang Liêu làm ra bánh dày bánh Chưng tức đạo vuông tròn - âm dương chỉ là cách diễn tả khác việc Văn vương viết Chu dịch mà thôi , Ninh vương là danh hiệu của Chu vũ vương lúc chưa lên ngôi thiên tử truyền thuyết Việt chỉ thêm vào chữ Hùng để xác định dòng giống , Thừa Văn lang chỉ rõ việc thừa kế ngai vàng từ Văn vương ...đó là những chứng liệu không thể bác bỏ . Nút thắt để lật cánh biến cổ sử của dòng giống Hùng thành sử của Hán tộc đã được Sử thuyết họ Hùng tìm ra và chỉ rõ ...đó là sự tiếp nối giả tạo thời Tiền và Hậu Hán hay Tây và Đông Hán .( bài cây cầu Hoa –Hán ) sự biến mất Triều Hiếu của Lý Bôn-Lưu bang Hiếu Cao trong sử Trung hoa là 1 chỉ dẫn chính xác về sự tráo đổi lịch sử độc nhất vô nhị này , cái đầu sử họ Hùng tiền nhân của Bách việt được tháp gắn lên cái mình Hán sử tạo thành lịch sử ‘nhân – sư’ quái dị ....lừa gạt cả nhân loại bao năm nay che lấp đi sự chiếm đoạt trắng trợn nền văn minh Trung hoa cổ xưa vô cùng rực rỡ của dòng họ HÙNG . Sử thuyết họ Hùng nghiên cứu lịch sử Bách Việt từ thời thái cổ đến thời Nhà Lý Việt nam , thời điểm này người Bách Việt vẫn còn tồn tại ở Hoa nam nên sử Trung quốc vẫn còn quyền nhận những giai đoạn viết về lịch sử Bách Việt là lịch sử của mình nhưng sau thời cai trị của Mông cổ và Mãn thanh người Bách việt đã hoàn toàn biến mất chỉ còn lại người Hoa đã Hán hoá ở Hoa nam và những tộc người thiểu số cũng đã quên mất gốc tổ ...nên họ không còn quyền đưa những triều đại của người Bách Việt vào lịch sử Trung quốc nữa , cứ cố tình nhập nhèm như Trung sử hiện lưu hành thì chẳng khác nào đánh cắp gia sản người khác về làm của mình như thế tránh sao khỏi sự chê cười của cả bàn dân thiên hạ ?. Các sử gia thời hậu Lê khi viết sử đã mắc sai lầm lớn , với định kiến chỉ triều đại nào có kinh đô trên lãnh thổ Việt lúc viết sử mới được coi là 1 triều đại chính thống của lịch sử dân tộc Sư sai lầm này gây ra hậu qủa rất lớn lao; . xin nêu sự kiện :Lịch sử Bách Việt có 2 triều đại Lý , triều Lý thứ 1 do Lý Uyên kiến lập năm 618 chấm dứt năm 907 kinh đô ở Thiểm tây , văn hoá chủ đạo là văn hóa Việt Thường ở vùng sông Dương tử , triều Lý thứ 2 do anh em Lý Ẩn-Lý Cung lập nên giai đoạn đầu kinh đô ở Quảng châu từ năm 917 đến 971 sau khi mất phần đất Việt đông và Việt tây vào tay nước Tống đưa đến giai đoạn sau định đô trên đất Việt nam ngày nay bắt đầu năm 968 .....chỉ có giai đoạn lịch sử sau của triều Lý thứ 2 này mới được các sử gia công nhận và đưa vào Việt sử như là Triều lý duy nhất ở thời trung đại , diễn biến lịch sử cả 2 triều Lý bị nén lại trộn lẫn với nhau đã làm mất đi sự chân xác của cả giai đoạn lịch sử mấy trăm năm , sự dịch chuyển niên đại triều Lý đã kéo theo sự dịch chuyển dây chuyền niên đại các triều trước đó khiến lịch sử Việt trở nên hỗn loạn lẫn lộn cả một thời gian dài ....chính sự việc này đã làm mờ đi sự tương đồng trong 2 dòng sử Việt và Hoa khiến ‘hậu nhân’ không thể nào nhận ra được dù sự tương đồng ấy khá rõ nét mà ta có thể kể ra : Thần nông là vua chung thời thái cổ , Hiên Viên –Hiền vương hay Hiền đế , đế Nghiêu-đế Nghi , Hùng Chiêu vương-Chu vương , Hùng Ninh vương-Ninh vương , Đinh tiên hoàng-Tần thủy hoàng , Lý Bôn- Lưu Bang , Trưng Trắc- Trương Giác , Lý Bí-Lưu Bị , Lý thiên Bảo- Lưu Biểu , Ngô Quyền –Tôn quyền , Lý Uyên-Lý công Uẩn , Lý Ẩn Lý Cung- Lý Công Uẩn .....sự trùng lặp chỉ xảy ra 1 lần thì có thể là ngẫu nhiên ...đến 2 lần đã là khó , 3 lần thì không thể có ...ở đây có qúa nhiều điều trùng lập ...nên chỉ có thể kết luận là chúng đã được ghi lại bởi 2 dòng sử khác nhau viết về cùng 1 diễn biến lịch sử của 1 dân tộc hay quốc gia . Đọc Sử thuyết họ Hùng bạn có thể tự hỏi ..., sông CƠ trong cổ thư Trung hoa có thể là sông CẢ trên thực địa Việt nam ngày nay ? thưa trên bình diện ngôn ngữ là có thể hơn nữa ở đấy khảo cổ học đã tìm thấy nền văn hóa cổ Quỳnh văn hơn 5000 năm tuổi , sông Khang có thể là Mê Công ngày nay không ? trong sách Đại nam thực lục nó tên là Khung giang , Khung và Khang về âm tiết là một , Đan thuỷ của cổ thư sao lại có thể là sông Đà ngày nay , sông đen khi viết bằng chữ Nho đã ký âm Đen thành Đan ,nên sông Đen viết thành Đan thủy , sông đen còn gọi là Hắc thủy chính là tên sông Đà xưa , đặc biệt cổ thư nói tới địa danh Đồ sơn quê vợ của ông Đại Vũ ...thì nay vẫn nguyên là Đồ sơn ở Hải phòng -Việt nam là nơi có nền văn minh Hạ long khoảng 2000 năm trước công nguyên hoàn toàn khớp đúng với cổ thư Trung hoa , đọc tới đây trong lòng không khỏi phân vân suy nghĩ ...về sự ‘qúa chính xác’ của thông tin có từ 5-6 ngàn năm trước . Nếu cổ thư trung hoa là của người Tàu thì với tính khí của họ chắc chắn dân tộc Việt không bao giờ được mang những từ cực cấp của sự tốt đẹp như Hùng Hồng ; Hồng chỉ sự to lớn vô cùng ở bề ngoài hay vật chất , Hùng cũng là sự to lớn vô cùng nhưng là sự to lớn ở bề trong hay tinh thần , Giao chỉ hay chỗ giữa trong ngôn ngữ dịch học là nơi giao cắt của 2 đường thượng hạ và tả hữu hay nam bắc- đông tây nghĩa chính xác là vùng Trung tâm ; man di mà chiếm trung tâm trong khi con trời văng ra 4 góc là chuyện không thể có ...; Việt là vượt lên cũng không thể được ...vì trong bối cảnh trung hoa ...chỉ có thể vượt lên trên Hán tộc , rõ ràng ‘Việt’ là tư tưởng và hành động đại nghịch bất đạo đối với ...‘thiên tộc’ , tại xưa nay người ta không để ý chứ chỉ với chuyện chữ nghĩa này thôi cũng đủ xác định gốc gác của cổ thư - cổ sử Trung hoa . Cho tới nay điều băn khoăn trăn trở lớn nhất của những nhà Việt học ...vẫn là chữ viết của người Việt ...một dân tộc không có chữ viết thì không thể nào gọi là văn minh được huống hồ nước Việt vẫn xưng có hơn 4000 năm văn hiến càng không thể chấp nhận sự việc này ...nhưng mọi hướng truy tìm vẫn ...bế tắc , đây là sự bế tắc buồn cười của triết gia không biết cách nào với tay lấy quả trứng trước mặt ....Người Việt xưa dùng chữ Nho thì chữ Nho không của người Việt thì của ai ? nay với sử họ HÙNG thì mọi chuyện đã rõ ràng ; tứ thư - ngũ kinh đã xác định là sách của người họ HÙNG không lẽ chữ viết trên những cổ thư đó lại là ‘chữ ngoại”?, chữ Nho đúng ra là chữ ‘nhỏ’( nhưng Nho giáo không có nghĩa là đạo nhỏ ) sách vở gọi là chữ ‘tiểu triện’ , Khoa đẩu là sự đọc sai của khoa hay khoác hay khuyếch đầu nghĩa là làm cho phần đầu to ra nên còn được gọi là chữ ‘đại triện’là loại chữ dùng ở thời nhà Chu cũng là thứ chữ đã chép ngũ kinh linh hồn của văn minh Trung hoa, trên đời này chỉ có chữ Nho chữ của người Bách Việt mà thôi không hề có Hán tự như trước nay vẫn lầm tưởng . Bài viết cô đọng Sử thuyết họ Hùng này hy vọng giúp bạn đọc dễ nắm bắt những gì tác giả muốn gửi tới mọi người .
    1 like
  18. Thưa ông Nhatnguyen, tôi có một vấn đề nho nhỏ không biết ông nghĩ thế nào..... Đó là 2 chữ 'THÀNH ĐÔ'... Thành đô trong tiếng Việt nghĩa là gì ? Tại sao tại Tứ Xuyên lại có một địa danh gọi là Thành Đô ? Liệu 'Thành Đô' có từng là kinh đô một (hay nhiều) triều đại nào đó của Việt Sử ?
    1 like
  19. Dịch học họ HÙNG . bài 8 b . Ý nghĩa khoa học thứ 1 của Hà Thư: 1/ Cặp tượng số (1-6) dân gian mô tả bằng điệp tự rất sinh động: cô đơn lạnh lẽo, số 1 = cô = đơn ta đã biết; số 6 trong chục con là cóng tức lạnh cóng, số 1 còn là “độc” biến âm ra đặc; đặc sinh ra nặng tóm lại trong bản thân số (1-6) hàm chứa nghĩa là: nặng và lạnh 2/ Cặp số (2-7) được mô tả là: ôm ấp, ấm áp; ôm ấp chỉ 1 đôi như ta đã biết; còn từ điệp ấm áp chỉ rõ : ấm = nóng bức = “nhiệt”, áp → ép hay sức ép; ép cho ta 1 khái niệm “Lực” Ta thấy rõ hơn ý niệm Lực ở nghĩa số 1 và 2; 1 là độc = đặc → nặng; 2 = nhị = nhẹ; cặp nhẹ – nặng minh thị “ý niệm” “Lực” trong trọng lực. Như vậy trục tung hay trục dọc của Hà Thư chỉ rõ ý nghĩa: bản thân vật chất luôn chất chứa ở trong mình nhiệt và lực tức 2 dạng của năng lượng. 3/ Cặp số (3-8) Tượng số 8 trong thập can là Bính, tiếng Việt là bấn, bấn loạn hay động loạn, chữ Bính thành Biến có nghĩa là thay đổi.- chuyển động ở đây là sự so sánh vị trí tương đối của vật so với chung quanh, ngược với động là định , ngược với biến là hằng, Tượng số 9 là Đinh; Đinh biến âm để tạo ra nhiều từ: Đinh, Đanh là vật cứng giúp gắn liền hay cố định 1 vật, Hoa ngữ biến âm thành từ Đính . Đinh biến âm ra Tịnh, Tĩnh → Tạng → Tượng tất cả chỉ sự yên lặng, không thay đổi, đứng yên và đặc biệt Tịnh hay Tượng nghĩa là con voi; 1 loài thú đặc thù của vùng nhiệt và xích đới là con thú làm biểu tượng cho vùng đất phía tây nước Việt . 4/ cặpsố ( 4-9) Số 4 trong thập can là khăng biến âm là cang hay cứng tức sự ổn định về hình dạng của 1 vật , cứng thường đi đôi với rắn nói chung chỉ những gì không thay đổi được. Tóm lại khi Liên kết ý nghĩa 4 cặp tượng số phát minh ra định luật: Vật chất được xác định bởi 4 tượng; 2 tàng ẩn ở trong và 2 phát lộ ra ngoài. -2 tượng ở trong là nhiệt chỉ định bửi số 6 –cóng hay lạnh và lực được biểu thị bằng số 2- ép hay áp lực -2 phát lộ ra ngoài là: - Trạng thái động hay Định cuả 1 vât so với chung quanh, vật lý hiện đại gọi là vận tốc chuyển động tượng trưng bởi số 8- bính bay biến và dạng vật chất cứng hay mềm được chỉ đinh bởi số 4 cang- căng . - Dạng thể của vật chất: cứng hay mềm; gọi là cứng hay mềm chỉ là tượng trưng cho sự phân loại vật chất theo thể dạng: thông thường có 3 là: dạng rắn, lỏng và dạng hơi, ngày nay khoa học đang với tới dạng vật chất thứ 4 đó là plasma Điểm then chốt trong định luật khoa học Hà Thư này là: 4 tượng hay 4 biểu hiện của vật chất gắn chặt với nhau và trở thành 1 khối thống nhất, chỉ cần thay đổi ở 1 tượng trong nhiệt – lực – dạng – tốc thì lập tức phát sinh thay đổi đối ứng ở các tượng còn lại nghĩa là vật chất đạt trạng thái cân bằng mới.với tốc độ di chuyển nhanh hơn hay chậm hơn ... Còn nếu bản thân vật chất không thể tự cân bằng nó sẽ bị phá vỡ và các phần tử của nó trở thành 1 phần của các vật khác như hòn đất nếu ném vào bức tường cứng sẽ vỡ vụn ra . Thí dụ khác : ta nung kim loại tức làm thay đổi nhiệt trong bản thân vật đó; đến nhiệt độ nào đó, kim loại chuyển từ dạng rắn sang dạng lỏng. Khi ta nén chất khí đến một áp suất nào đó khí sẽ hóa lỏng Ví dụ cụ thể và dễ dàng nhất để chúng ta nhận biết là sự biến dạng của nước; dưới 0o là thể rắn từ 0o là 100o C là dạng lỏng trên 100oC nước bốc hơi. Sự hiểu biết định luật này là nền tảng cho tiến bộ khoa học kỹ thuật của con người và rõ ràng vượt xa trình độ chung của người đương thời cách đây hàng vạn năm c. Ý nghĩa khoa học thứ 2 của Hà Thư Từ lâu loài người đã biết vật chất có 3 dạng thể: rắn, lỏng và khí nhưng dựa vào Hà Thư và các tượng tin chứa trong các số của thập can và đặc biệt là ngôn ngữ Việt ta tìm thấy 2 loại vật chất nữa là: vật chất loãng hơn khí và đặc hơn chất rắn nghĩa là trong bảng xếp loại từ đậm đặc đến loãng thì 2 loại vật chất này nằm dưới chất rắn và trên chất khí. Nhìn vào Hà Thư ta thấy có 1 cặp số ruột là (5-10) và 4 cặp số vỏ (1-6), (3-8), (2-7), (4-9) Sự tương tác 1 cặp số ruột luôn là (5-10) và 1 cặp số vỏ cho ta 1 dạng thể vật chất ta có bảng phân loại vật chất theo độ đậm đặc như sau Ta thiết lập qui luật sau: Nhìn vào Hà Thư ta thấy ruột khối vật chất được biến tạo bởi 2 số 5 và 10, số 5 được số 10 bao bọc. Độ đậm đặc của khối vật chất quyết định bởi sự tương tác của số (10) và lớp vỏ, sự tương tác này diễn ra theo quy luật; cùng cơ ngẫu hay chẵn lẻ thì không tương tác, khác cơ ngẫu mới phát sinh tương tác, như vậy độ đậm đặc của vật chất được biểu thị bằng số trừ (hiệu số) của số 10 và số lẻ của cặp số vỏ, Ta có: Dựa vào đâu ta nhận ra như thế? Chính do Hà Thư chỉ ra cho chúng ta: _ chất chắc- mật số ‘1’ một , ngày nay chúng ta gọi là chất rắn. _ chất nhũn hay nhão số ‘3’ là chất lỏng. _ chất óp là chất khí hay hơi số ‘2’ , số 2 hai biến âm thành hơi _ chất căng số ‘4’ là dạng vật chất dãn nở hết mức nên không khối lượng có thể xem là 1 năng lượng khối _ chất mẹ hay cả số ‘5-10’ là vật chất siêu đặc chưa có tên, đó là loại vật chất của các lỗ đen trong vũ trụ. Rõ ràng hơn ta thấy: 1. Tượng số 1 trong (5-10) (1-6): Chữ chắc chỉ số 1 ta đã nói rõ rồi, nay củng cố thêm ý nghĩa bởi số một trong số đếm của người Việt; một là biến âm của Mật trong tiếng Việt các từ: Mật, Cô, Canh đều có nghĩa là đặc hay làm cho đặc lại; rõ ràng ý chỉ loại vật chất có độ đậm đặc cao hay chất rắn mà thập can gọi là: chắc 2. Tượng số 3 trong (5-10) (3-8) Số trong thập can 3 là nhũn- nhăn, Hoa ngữ ký âm thành nhung. Tiếng Việt từ nhũn, nhão chỉ vật chất không thể tự định hình, nếu xếp trong bảng phân loại vật chất ngày nay thì loại nhũn, nhão này chính là chất lỏng. 3. Tượng số 2 trong (5-10) (2-7) Tượng số 2 thập can là óp ta đã biết ở các phần trên; óp cũng là loãng, loại vật chất ít đậm đặc, lập luận này được củng cố bởi ý nghĩa số 2 trong tiếng Việt: 2 = nhẹ (nhìn); Hai biến âm thành “hơi”; Hơi là từ đồng nghĩa với khí. Tới đây ta đã xác định được 3 dạng vật chất, nếu chưa quen với Dịch học người đọc có thể cho… đây là sự khiên cưỡng, áp đặt thái quá… nhưng bạn nên nhớ Hà Thư “xuất thế” ít ra cũng hơn 10.000 năm rồi; cả vũ trụ vận động chỉ gói ghém trong chỉ có chục con hay 10 chữ nếu chỉ 1 ý nhỏ thôi trong Hà Thư mà ngày nay chúng ta bắt được hay nhận ra được cũng đồ sộ bằng cả 1 kho sách ngàn trang. Nếu chưa quen, bạn đọc có thể phê phán, chê trách… nhưng không sao cả điều quan trọng là dựa vào Hà Thư ta biết còn 2 loại dạng vật chất nữa ngoài 3 dạng rắn –lỏng - khí thông thường đã biết. 4. Tượng số 9 trong (5-10) (4-9) Một dạng loãng hơn cả chất khí và 1 dạng đậm đặc hơn cả chất rắn, dạng loãng hơn chất khí với các tượng số cấu tạo (5-10) (4-9) được Hà Thư gọi là Căng (số 4 = Quí = Khăng) phản nghĩa với tượng số 3 là Nhũn. Căng là Từ Việt … diễn tả cụ thể là cầm 2 đầu mà kéo ra hết mức. Hết mức nghĩa là không thể hơn được nữa, nếu hơn nữa sẽ phá hủy chính vật đó (rách – đứt) Nhìn vào hàng số (5-10) (4-9) ta thấy 2 cụm số có trị số gần bằng nhau; lực cố kết vật chất và lực bứt phá gằn bằng nhau, cho ta cảm nhận vật chất tồn tại rất mong manh; trực giác chỉ dẫn cho ta: đây là loại vật chất mà nhân đã bị kéo dãn ra tới độ lực cố kết cấu tạo nhân hầu như bị triệt tiêu, nên thập can mới gọi là số 4 là căng. Tạm thời ta đặt tên dạng vật chất này là vật chất không ruột hay không nhân, hoặc 1 từ tương đương là “năng lượng khối” tức 1 dạng đang ở thời trung gian chuyển hoá giữa năng lượng và vật chất, giữa E và M trong công thức của Einsten. 5. Tượng số 0 trong (5-10) (0-5) hay (5-10) (5-10) gợi cho ta thấy đây là dạng vật chất đặc biệt thuần nhận hay ruột không có vỏ, tất cả vật chất dù ít tới đâu đều phải có 2 điều ta tạm gọi là: không gian tồn tại và khối lượng tồn tại, ở dạng vật chất không vỏ này thì khối lượng tồn tại cực lớn dồn nén trong không gian tồn tại cực nhỏ khiến độ đậm đặc đạt mức tuyệt đối nghĩa là không thể nào dồn nén hơn được nữa. Do là thuần nhân nên 1 khối vật chất này tạo ra chung quanh nó 1 sức hút kinh khủng, trong 1 phạm vi nhất định chung quanh nó mọi vật chất đều không thể cưỡng lại lực hút này bị tan ra biến thành năng lượng khiến ngày một thêm đậm đặc hơn cái gọi là trường Năng lượng bao quanh khối vật chất không vỏ đó. Cho đến 1 ngày khi sự tương tác giữa các lực bên trong tổ hợp – vật chất thuần nhân và trường Năng lượng bao quanh đạt đến sự thăng bằng nào đó; sẽ xảy ra hiện tượng tái cấu trúc vật chất, đây chính là 1 phần của tiến trình tạo lập vũ trụ, 1 phần của nhân và 1 phần của lớp năng lượng bao quanh bắt đầu xoắn xuýt vào nhau bắt đầu vũ điệu kiến tạo , các thiên thể mới dần dần hình thành. Thay thế cho các thiên thể đã nổ tung hay bốc hơi trước đó. Tóm lại: Hà Thư dạy cho ta có tới 5 dạng vật chất tồn tại trong vũ trụ: 3 loại thường thấy là dạng rắn, lỏng và khí, 2 dạng đặc biệt tạm đặt tên là: -Vật chất không nhân hay chất “căng”; phải chăng đấy chính là dạng vật chất thứ 4 , dạng plasma mà khoa học ngày nay đang nói đến:. -Vật chất thuần nhân hay không vỏ, phải chăng đây chính là các lỗ đen mà nhà bác học thiên tài Einsten đã nói đến? Còn tên của nó theo Hà Thư là chất Mẹ âm Hoa ngữ là Mậu. Tóm lại 5 dạng vật chất biểu hiện bằng công thức tượng số là: (5-10) (4-9): 9 → chất căng (5-10) (2-7): 2 →chất hơi, (khí) (5-10) (3-8): 8 → chất nhũn, (lỏng) (5-10) (1-6): 1 → chất đặc (rắn) (5-10) (0-5): 5 →chất Mẹ Có thể cho đây là sự tưởng tượng qúa mức không...? tại chúng ta chưa hiểu dịch học nên ngỡ là thứ bói toán lăng nhăng thực ra dịch học cao siêu hơn ta tưởng nhiều lắm thí dụ định luật vật lý mở đầu dịch học: chất trong bay lên thành trời chất đục canh hay cô lại thành đất....mới nghe tưởng như câu nói của đám nhà quê ít học nhưng tìm hiểu thấu đáo ta thấy: trong là nhìn xuyên suốt như không có..., vật chất mà mắt thịt nhìn không thấy tức là dạng vật chất vô hình không khối lượng ngày nay chúng ta gọi là năng lượng tức 1 trong 2 dạng vật chất của vật lý học hiện đại, là E trong công thức lừng danh của Entien , chất trong bay lên thành trời tức ý nói :Trời chỉ là 1 trường năng lượng mà thôi , đây là sự khẳng định rõ ràng dứt khoát hoàn toàn đúng với nền khoa học ngày nay chỉ tại chúng ta qúa coi thường dịch lý nên không biết ; Dịch học đã chỉ ra vật chất có 2 dạng cơ bản : _ vật chất trong . _vật chất đục . ý câu- từ đơn sơ nhưng chỉ định cực kỳ chính xác không thể nghĩ khác được: Chính chúng là 2 dạng năng lượng và vật chất của vật lý hiện đại được biểu diễn là E và C , cách đây cả chục ngàn năm những bậc thánh tác dịch chỉ thua enstien chưa tìm ra phần nối kết 2 dạng vật chất là m² ( m bình phương ) Chất đục kết tụ lại thành đất, đất ở đây là sự kết tụ của dạng vật chất đục-đặc ; một hiện tượng phổ biến của tự nhiên làm thành các tinh cầu trong vũ trụ ; thánh nhân đâu có nói ..chỉ kết thành qủa đất này tức duy nhất đâu ? tại chúng ta hiểu sai chữ ‘đất’ mà thôi , có kẻ kém trí còn cười phương đông xưa đần độn cho là quả đất hình vuông ...đúng là lũ ‘hữu nhỡn vô ngươi’ .
    1 like
  20. 18 HÙNG triều –Lịch sử. *lịch sử* 9. Hùng triều thứ 9 - Hùng Hoa Vua khai sáng : – Hải Lang Danh hiệu khác trong Việt sử : Linh Lang Dang hiệu khác trong Hoa sử : Khải , Hạ vương Quốc hiệu : Hồng bang 2, nước Thao hay Đào. Niên đại : cách nay 4.000 năm Khi Kinh Dương Vương – Hạ Vũ mất thì con ông là Khải dựa vào những người ủng hộ mình làm cuộc lật đổ để lên ngôi chúa, ông Bá Ích phải bỏ nước đi ẩn ở Kỳ Sơn. Thực ra ông Khải mới chính là người lập ra triều Hạ và ông tôn vua cha coi như người khai sáng triều đại mới, chữ ‘Khải’ là biến âm của từ ‘khởi’ trong tiếng Việt. Khi lịch sử đặt tên cho ông ta là ‘Khởi’ là ý nói ông là người khởi đầu lập ra nhà Hạ; lịch sử không nói nhưng chắc chắn đã có một cuộc tranh giành ngôi vương giữa 3 cộng đồng trong Họ Hùng. Ông Khải là con của Hạ Vũ và Đồ Sơn Thị, (nghĩa là người đàn bà ở Đồ sơn), nay thuộc Hải Phòng sát với Quảng Ninh, nhờ liên kết được 2 cộng đồng bên bố và bên mẹ nên ông Khải đã thắng và Ông Ích phải đi ẩn nhưng thực ra là lưu vong ở Kỳ Sơn. Truyền thuyết Việt nói: “Kinh Dương Vương (Tuấn lang ) kết duyên cùng Long Nữ con gái Động Đình Quân, vua vùng Động Đình Hồ … như ở phần trước ta đã khẳng định, Đồ Sơn Thị và Long Nữ là tên của 1 người viết theo 2 dòng sử khác nhau, ông Khải chính là Lạc Long Quân của truyền thuyết Việt; Lạc là dòng Bố, Long là dòng mẹ, quân là thủ lãnh. Nhiều thần tích, thần phả còn ghi lại: Linh Lang hóa (chết) ở Hồ Tây, Hà Nội thì hồn theo dòng nước ngầm xuôi về Động Đình Hồ … điều này giúp ta thêm khẳng định, Động Đình Hồ trong truyền thuyết lịch sử Việt Nam là biển Đông chứ không phải Động Đình Hồ của Trung Quốc hiện nay, Linh là biến âm của Lung (Hoa) hay Long (Hán Việt ) nghĩa là con rồng chỉ phương đông trong dịch học, quẻ Chấn, số 3, con rồng ,màu xanh là những dịch tượng chỉ phương đ̣ông . Truyền tích đạo giáo cho biết quê mẹ của Linh Lang là xứ Bồng Lai , cụm từ “Bồng Lai Tiên cảnh” gợi cho ta thắng cảnh Hạ Long ở Vịnh Bắc bộ càng giúp khẳng định đấy chính là Động đình hồ, nền văn hóa Hạ long mà khảo cổ học đã xác định được càng giúp ta cả quyết hơn . Linh lang là vì vua được thờ kính nhiều nhất tại Việt nam khắp nơi đều có đền thờ nhưng tới nay vẫn chưa xác định được ngài là ai trong lịch sử ?.Từ Hạ người Hoa phát âm là Xạ hay Xịa đồng âm với xà là con rắn bản gốc cuả thần thú Rồng, tam xà cũng là chỉ nhà Hạ ở phương đông. Con rồng là thần thú người ta đã tạo ra để làm biểu tượng cho mối lương duyên Lạc và Long tức sự phối hợp của 2 cộng đồng người sống ở lãnh thổ phía nam (xưa) và phía đông, phương Nam loài thú tượng trưng là con sấu , phương đông là con rắn hay xà...’vẽ rắn thêm chân’ ra con rồng , cụ thể rồng là thần thú có đầu,chân và đuôi của cá sấu nhưng mình lại là mình rắn..., chính xác tên là con ‘rung’ tức động sau biến âm ra rồng Hoa ngữ ký âm thành ‘Lung’ Hán Việt đọc là ‘long’ sau này long đã đoạt ngôi của Xà trong cương vị là biểu tượng cho phương đông trong văn hóa Việt –Hoa. Bản thân rồng không thể hiện hữu bên ngoài môi trường vùng vẫy của rồng , nói khác đi là không thể có rồng nếu không có biển Đông hay Chấn trạch, Lôi trạch ; dù có đào được cả trăm chứ đừng nói 1 cái bình có hình rồng ở chốn sa mạc nóng bỏng hay vùng băng gía tuyết dầy thì đấy cũng chỉ là cục đất xét vì rồng là Thần- thìn , mỗi lần Rồng hiện là 1 lần kinh thiên động địa , gío bão sấm sét làm rung động trời đất thì mới xứng với Thìn- thần ; hỏi Thiểm Tây- sơn tây và cả những vùng cận kề có mưa bão sấm sét hay không ? Cổ sử Trung Hoa viết: sau khi lên ngôi ông Khải đã tiến đánh Hữu Hộ Thị vì bất phục lấy đấ́t An ấp của họ làm kinh đô đày dân Hữu hộ thị đi khắp nơi gọi là tứ Di ;nguyên nhân sự bất phục ở trên ta đã biết, Hữu là họ Hộ thực ra là Hổ biến âm của từ Hỏa nghĩa là lửa, vậy Hữu Hộ Thị chỉ nghĩa là tộc họ Hỏa, hay Lửa chính là người La còn gọi là Di-lão . Đế Minh đã chia nước làm 2 miền: Bắc – Nam hay Lửa – Nước, và truyền ngôi cho Đế Nghi là con trưởng, phong Lộc Tục làm vương phương Nam hay phương Nước. Họ Lửa chính là dân của Đế Nghi ở đất Giao-bắc, là Vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh hiện nay, Cao Giao nghĩa là thủ lãnh dân Giao (bắc), ông Cao Giao mất người kế nghiệp ông là Bá Ích, Ích là biến âm của ất hay úp là Can số 2 trong Thập Can, chỉ phương bức (nóng), cùng vị trí với Quẻ Lửa trong Hậu Thiên Bát Quái, và Hành Hỏa trong Ngũ Hành ; La-Lê- Liêu và Lão đều nằm trong cụm từ có gốc là âm Lửa. Cổ sử Trung Hoa chép kinh đô thứ 2 của nhà Hạ là An ấp, an là biến âm của ôn nghĩa là ấm cho biết đó là vùng nhiệt đới, rất có thể kinh đô An ấp triều Hạ là động Hoa lư ở Ninh bình Việt nam , Hoa là tên triều đại Hùng Hoa, lư là biến âm của Ly-Lửa chỉ mặt trời cũng còn dùng chỉ ông vua trong văn hoá Việt-Hoa. Vì đô ấp ở đất Đào nên tên nước trở lại là Hồng bang, để dễ phân biệt ta gọi là Hồng bang 2.,cổ sử Trung Hoa gọi là nước Thao biến âm của Thiêu nghĩa là đốt –cháy. Ông Ích lưu vong đến Kỳ Sơn. Cổ sử Trung Hoa cũng chép: Ông Cổ Công Đản Phụ dẫn dân “ấp” mình sau 5 lần tạm dừng bước, mới định cư hẳn ở Kỳ Sơn, ông Cổ Công Đản Phụ là tổ nhà Chu; liên kết 2 biến cố ta có thể kết luận: ông Cổ Công Đản Phụ chính là Bá Ích, vì 1 vùng Kỳ Sơn không thể có 2 chúa trong lịch sử, thêm bằng chứng nữa là qúy tộc ở vùng Kỳ Sơn mang họ Cơ như Cơ Xương, Cơ Phát, mà họ Cơ phát xuất từ sông Cơ, sông Cả đất Giao-bắc của người Lửa nơi khởi nguồn của dân tộc Hùng , một học giả Trung hoa đã viết rõ hơn trong phần thuyết minh Chu dịch : dân ‘Mân ấp’ đã lũ lượt kéo nhau theo chúa của mình đến Kỳ sơn...sự ràng buộc (giữa chúa và dân) chắc như cột bằng da bò vàng...., Mân ấp khiến ta liên tưởng tới đế Minh tên gọi khác của vua Hùng....cùng với dòng đế Khai Minh của nước Thục sau này ; Mân ấ́p là cách viết gỉan lược cuả ‘đô ấp Mân’ đồng nghĩa với kinh đô Mân hay Mân đô –Minh đô , Kinh Thư nói đến 4 địa danh đánh đấu lãnh thổ quốc gia thời vua Đại vũ là : Dương cốc, Muội cốc , Minh đô và U đô...; có sự tương thông ngữ nghĩa giữa Mân ấp và Minh đô hay không ?; thực ra cả 4 địa danh này đều có gốc là Việt ngữ được chuyển sang Hoa văn hết sức kỳ lạ độc đáo..., 1 phần ký âm còn phần kia dịch nghĩa : -Cốc là biến âm từ Gốc –góc của Việt ngữ tương tự : Kà→gà Cái→gái. Dương cốc hay dương góc nghĩa là ‘góc mặt trời mọc’ Muội cốc là ‘góc mặt trời khuất’ tức lặn . Từ góc này đồng cách với ‘góc trời’ cuả Việt ngữ ngày nay mà chúng ta thường dùng. - Đô là biến âm của ‘đầu’. Minh đô là đầu sáng, u đô là đầu tối. Đầu sáng chỉ hướng xích đạo , đầu tối chỉ hướng địa cực. Rất có thể Dương cốc chính là Dương thành tên xưa của Qủang châu, Muội cốc là Kiểu kinh hay Cửu kinh thời Tây Chu , Minh đô là cố đô Hoa lư ở Ninh bình Việt namvà U đô là kinh đô nước Thục ở Quý châu , chữ U này chính là chữ Âu trong Âu cơ chỉ có nghĩa là phương nam đồng nghĩa với huyền phương mà thôi ; xét như vậy ta thấy Kinh thư không thể có trước đời nhà Chu. Triều Hùng Hoa Vương – Hải Lang, sử Trung Hoa gọi là nhà Hạ hay triều đại Hạ, ta thấy trong vương hiệu: Hùng Hoa – Hải lang đã thấp thoáng bóng ‘Hoa –Hạ’ rồi .. Đất Lạc Long của Lạc Long Quân gồm đất Lạc là Bắc Việt Nam cộng đất Lâm tức Quảng tây ngày nay, đất Long là Nam Quảng tây và Quảng Đông; sử Trung Hoa ký âm sai thành đất ‘Lục Lương’. Những dòng sử trên cho ta xác định: danh xưng Trung Quốc -Hoa Hạ xuất phát từ triều Hùng Hoa này ; Hải Lang và Hạ Vương là 2 cách gọi khác nhau của cùng 1 vua; Hùng Hoa Vương được người Việt gọi là Linh Lang, Linh là biến âm của Lung như ta đã biết; đất của Hải Lang ký âm sai thành đất Hải Nam nay còn chứng tích là Vịnh Hạ Long hay Hạ Lang và đảo Hải Nam Hải Nam là đất của Hải lang – Hạ Vương. Vân Nam là đất của Văn Lang – Văn Vương. Chu nam và Thiệu nam 2 vùng đất nổi tiếng trong Kinh Thi cũng ở dạng ‘cố tình sai’ này ; chính xác là ‘Chu lang’ và ‘ Thiệu lang’ tên thực ấp của 2 đại công thần nhà Chu là Chu công Đán và Thiệu công Thích , Chu lang và Thiệu lang được người Tàu đổi thành Chu công và Thiệu công vì Hoa ngữ không có chữ ‘lang’ còn thực ấp thì đổi ‘lang’ thành ‘nam’, tương tự khi vua Mông cổ gọi dân bắc Trường giang là người Hãn tức dân gọi vua là Hãn, nam Trường giang là người LANG vì gọi vua là Lang ai đó đã cố tình chuyển Hãn ra Hán, Lang ra nam nhằm thủ tiêu những dấu tích lịch sử bất lợi cho ý đồ của họ. Ở phần trước ta đã minh định về 2 thời kỳ: lập quốc và vương quốc của lịch sử họ Hùng .Bước sang giai đoạn đã trở thành vương quốc Cổ sử Trung Hoa viết : xưa Trung Hoa chỉ có 2 Châu: Châu Đào và Châu Đường, gọi tắt là đất Đào - Đường hay Đào – Dương (2), dùng các dịch tượng của Dịch Lý ta xác định: đất Đào , màu đỏ là lãnh thổ nhà Hạ, Đường hay dương là lãnh thổ nhà Thương. Đất khởi phát của nhà Hạ là lưu vực sông Hồng, hay Nhĩ hà, Hồng cũng là màu đỏ người Thái gọi là ‘Nậm tao’ Tao biến âm ra Đào và Thao. Chữ Hồng trong Hồng bang là màu đỏ ↔ Đào. Hồng còn nghĩa là bó đuốc → đốt → thiêu → Thao, Thao là biến âm của thiêu nghĩa là đốt (cháy). Ngày nay ở Việt Nam còn dấu vết: Có 1 khúc sông Hồng vẫn được gọi là sông Thao. Dấu tích của thời nhà Hạ hay Hùng Hoa còn lưu lại ở 3 nền văn hoá cùng thời mà khảo cổ học đã khám phá gọi là nền văn hóa Phùng Nguyên, hay di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên thuộc lưu vực sông Hồng, sơ bộ khảo cổ học Việt Nam nhận định đấy là lưu tồn vật chất của người Tày cổ mà phạm vi phân bố tới tận lưu vực sông Tứ hay Châu Giang; trùng khớp với địa bàn dòng Bách Lộc hay Lạc Tộc như đã biết, nền văn hóa Hạ long và quan trọng hơn cả là nền văn hóa Hoa lộc ở vùng Ninh bình Hoà bình và lưu vực sông Mã ., các hiện vật thu được ở 3 nơi có sự đồng nhất nhưng cũng có những sự khác biệt , điểm khác chỉ ra là có 3 cộng đồng người khác nhau , điểm đồng nhất cho thấy đã có sự hợp nhất để trở thành một dân tộc. Thao và Đào đều là đồng nghĩa của chữ Hồng chính vì vậy mà sau này ta mới có tên vua Nam Việt là Triệu Đà hay Triệu Tha , Lịch sử thời này được minh xác trong bài thơ sử của Phạm sư Mạnh thế kỷ thứ 14 : Nghỉ thuyền hà thạch tố thanh ba Lũng lại tranh nghênh sứ Bái qua LÔ THỦY phân ly THAO tục LẠC VĂN LANG nhật nguyệt THỤC sơn hà. câu : Lô thủy phân ly Thao tục Lạc nghĩa là : Nước và Lửa , bắc và nam tức người Kanh và người La trước là anh em một nhà nay tách biệt ;Lạc liên kết với Long thành Lạc- Long hay Hoa mở ra chiến cuộc Hoa-Di mà tàn cuộc chiến nước Thao ra đời thay cho nước Lạc hay Lạc quốc. Hồng Bàng Thị nghĩa là ‘thời Hồng bang’,. Việt Thường Thị là ‘thời nhà Thương’, hay Việt Thường, cũng là Đường quốc. Đô ấp thứ 2 của nhà Hạ là An ấp, bị Hậu Nghệ cướp ngôi khi phục quốc dời đô về vùng Nam Hải hay Hải Nam tức Quảng Đông ngày nay, cổ sử ghi là Đô Ấp thứ 3 nhà Hạ là Dương Thành, chính là Quảng Châu ngày nay. Thời Hải Lang Hạ Vương, vương triều đầu tiên trong Tam Đại của Trung Hoa là thời đã hoàn tất việc đúc kết dân tộc và kết tinh văn hóa. Bốn dòng : Hồ Động Đình, sông Cả, sông Cương và sông Hắc ; dần theo thời gian cộng sinh và cộng huyết đã dần đúc nên hình nên dáng của dân tộc Việt ngày nay, đó cũng là sự kết tinh văn hóa của 4 phương nên trong người Việt hiện nay là tổng hoà các yếu tố văn hóa các dòng ngôn ngữ : Môn-Khmer, Tày-Thái, Nam đ̣ảo và sau cùng là sản phẩm của lịch sử... người Việt đã buộc phải thêm vào kho ngôn ngữ của mình dòng ngôn ngữ Hán -Tạng. Ngày nay Đông nam Á đã là một Hiệp hội ,tiến tới chắc hẳn có một hiến ước và rồi tất phải có một ngôn ngữ Đông nam á ; ứng cử viên sáng giá nhất cho chiếc ghế này là Việt ngữ vì về ‘hình’ thì Việt ngữ đã cách tân dùng mẫu tự Latinh là loại mẫu tự dễ dàng tiếp cận với nền khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới còn về ‘thanh’ thì bản thân tiếng Việt do lịch sử hình thành đã là ‘tiếng’ Đông nam á từ mấy ngàn năm nay rồi. Con cháu Viêm Đế + con cháu Thiếu Hạo  con cháu Hiền Vương – Hiên Viên, Trên lãnh thổ tây bắc Việt Nam, người La lại hòa huyết với người Miêu, con cháu của tổ phụ Xuyên Húc (sông Hắc) hay Vũ Tiên thành ra người Kanh -Lạc; Bước sau cùng của quá trình đúc kết là thời Kinh Dương Vương kết duyên cùng Long Nữ hay ông Vũ lấy vợ là Đồ Sơn Thị sinh ra Lạc Long Quân mở ra thời kỳ lịch sử Việt Nam gọi là triều Hùng Hoa – Hải lang. Hùng Hoa cho ta dân tộc Hoa. Hải Lang – Hạ Vương cho ta vương triều Hạ. Đất Đào hay Đào Ấp cho ta tổ quốc “Thao” hay Hồng Bang (Hồng Bàng Thị). Tiền nhân người Việt đã hao hơi tổn sức không biết bao nhiêu để sáng tác và lưu truyền hàng ngàn năm truyện sự tích trầu cau, cốt lõi chỉ nhằm giúp con cháu xác định được dòng giống của mình. Trong sự tích trầu cau ta thấy sự hiện diện của 2 ông, 1 bà; 1 ông biến thành cây cau, chính xác là cao, trên cao là thiên, 1 ông biến thành hòn đá là địa, có thiên có địa rồi còn ngôi “nhân” dành cho người nữ, đó chính là hình dạng quẻ Ly theo Dịch Lý họ Hùng (ngược với Dịch Lý của Trung Hoa), 2 ông là 2 vạch liền, 1 bà ở giữa là vạch đứt: đấy chính là ý nghĩa của nước “Xích Qủy” trong truyền thuyết rồng tiên, Xích quẻ tức màu đỏ, quẻ Ly mà ai đó đã cố công biến ‘quẻ” thành “qủy” để che mắt thiên hạ. Khi nhai trầu thì biến ra thứ nước “màu đỏ’ trong tiếng Việt ‘nước’ là 1 thứ vật chất nhưng cũng có nghĩa là quốc gia, nước đỏ chính là “Đào quốc” hay “Hồng Bang”. Ngành khảo cổ học Việt Nam đã có đầy đủ các dữ kiện để xác định trên lãnh thổ Bắc Việt hiện nay thời trước Công Nguyên đã có mặt ít nhất 3 thành phần văn hóa chính thể hiện trên những lưu tồn vật chất mà khảo cổ học đã khai quật được; núi rừng Tây và Bắc mang đậm yếu tố “Tày cổ” đồng dạng với văn minh Tây Giang cùng thời kỳ; chếch về hướng Đông là các yếu tố văn hóa Hạ Long, đồng dạng với các yếu tố văn hóa dọc bờ biển nam Trung Hoa; và sau cùng là các yếu tố văn hóa của người “Thanh – Nghệ” tiến ra khai phá Đồng bằng sông Hồng .. Thời Lạc Long Quân – Hùng Hoa : 2 thành tố Lạc và Long đã tạo ra thành tố Hoa. Thời Hùng Việt → người Việt, dân tộc Việt. Thời Hùng Hoa → người Hoa, dân tộc Hoa. Người Việt Nam cũng rất tự hào về thời quá khứ Hồng Bàng Thị hay Hồng Bang của dân tộc mình. Hồng Bang, đất Đào, quốc gia Thao đều phát xuất từ mã tin Dịch Lý: Quẻ Ly tức ngọn lửa biểu trưng cho ánh sáng và sức mạnh hay nguồn năng lượng của mặt trời chiếu dọi xuống trái đất tạo nên mầm sống. Tương truyền là ông Khải cho đúc 9 cái vạc đồng làm quốc bảo, như thế vào đầu đời Hạ, Trung Hoa đã bước vào thời đồ đồng. Nhà Hạ có 2 thời kỳ: thời lập triều và thời tái lập. Sau ông Khải truyền đến Thái Khang thì bị Hậu Nghệ cướp ngôi; cháu chắt Khải đế phải chạy đến vùng định cư của con cháu ông Thuấn nhờ sự giúp đỡ và ủng hộ của họ Thiếu Khang đã đánh bại Hàn Tróc dành lại ngôi vua, lịch sử gọi là Thiếu Khang Trung Hưng. Cổ sử Trung Hoa chép nhà Hạ có 3 đô ấp: - Thứ nhất là Khang Địch nghĩa là đô ấp ở phía tây đất nước. - Thứ hai là An Ấp đã xác định ở trên. -Đô ấp Thứ ba là Dương Thành, Dương Thành nghĩa là thành phố phía đông, còn gọi là Long Thành chính là thành phố Quảng Châu ngày nay, Dương Thành đã có lịch sử trên 4.000 năm và dứt khoát không phải là thành phố của dê (dương là dê), như ai đó muốn bôi bác nó để chối bỏ lịch sử. Chúng ta xếp vương triều Hạ khởi đầu thời Lịch sử vì đã có đủ thông tin về 17 đời vua và 3 kinh đô. Vương triều Hạ kể cả Hạ Vũ là 17 đời, lãnh đạo đất nước Đào hay Thao trên 400 năm, vua sau cùng là hôn quân bạo chúa tên Kiệt bị Thành Thang đánh bại và nhà Thương thay nhà Hạ. Các vua nhà Hạ, Hồng bang là: 1. Vũ, 2. Khải, 3. Thái Khang, 4. Trọng Khang, 5. Tượng, 6. Thiếu Khang, 7. Trữ, 8. Hòe, 9. Mang, 10. Tiết, 11. Bất Hàng, 12. Quynh, 13. Cẩn, 14. Khổng Giáp, 15. Cảo, 16. Phát, 17. Kiệt. Từ thời Thiếu Khang Trung Hưng, trung tâm Thao Quốc chuyển về Quảng Đông không nằm trên đất Việt nữa, tới thời Kiệt dân chúng thường nguyền rủa: “Mặt trời ơi, hãy tắt đi chúng tao vui lòng chết cùng mày.” Việc này chỉ ra: dân chúng nhà Hạ gọi chúa là mặt trời hay Ly – Lửa (Quẻ Ly cũng chỉ mặt trời, hay nguồn năng lượng), sau Ly biến thành họ Lý, họ Lê ; Con cháu nhà Hạ đã có công khai phá vùng Phúc Kiến-Triết giang lập nên nước “Việt” thời Chiến Quốc vùng này cũng gọi là Mân Ấp – vùng đất dành riêng để thờ cúng các vua nhà Hạ. Trong triều đại Hùng Hoa-Hải lang ; Hậu Nghệ là thủ lãnh tộc Di vì Thái Khang là vua ngu tối không lo chính sự chỉ ham săn bắn, có lần đi săn ở Nam Lạc Thủy cả 100 ngày không về, Hậu Nghệ đem quân chặn ở Bắc (Dịch Lý) Lạc Thủy, thế là Thái Khang đành sống lưu vong. hậu Nghệ tôn em Thái Khang là Trọng Khang lên ngôi nhưng thực quyền đều nằm trong tay Hậu Nghệ, sau khi Trọng Khang chết thì Hậu Nghệ chính thức lên ngôi vua. Lạc Thủy nay chỉ còn là con sông nhỏ chảy qua rừng quốc gia Cúc Phương, thuộc Ninh Bình – Việt nam ngày nay. Sử Trung Hoa viết, thời đó trên trời có tới 10 mặt trời, nóng quá mặt đất khô khan không còn giọt nước, dân chúng kêu than vang trời, Hậu Nghệ dùng cung bắn 9 phát rụng liền 9 mặt trời chỉ để lại 1 mặt trời như ngày nay; truyền thuyết là vậy, sự thực ra sao? Đây chỉ là hiện tượng thời tiết tự nhiên ,qua cơn hồng thủy đến thời hạn hán , khi hạn hán mặt ao đầm khô nước nứt nẻ thì thủy quái thuồng luồng làm sao sống, nhưng truyền thuyết chép là Hậu Nghệ dùng tài bắn cung bách phát bách trúng diệt hết thủy quái cứu dân; điều này chứng tỏ tâm tình của nhân dân rất kính trọng Hậu Nghệ chứ không chê bai khinh thường như 1 kẻ cướp ngôi … vô đạo. Hậu Nghệ là cấu trúc tiếng Việt; còn cấu trúc Hán văn là Nghệ Hậu. Hậu Nghệ là thủ lãnh tộc Di, tộc Di hay Di Lão chính là người La bị Đế Khải đánh đuổi phải di cư lên phía Bắc đến núi Kỳ Sơn; tộc Di Lão còn được gọi là Di Việt sau Hậu Nghệ bị Hàn Tróc giết và cướp ngôi, Thiếu Khang con cháu nhà Hạ được sự ủng hộ của bộ tộc Hữu Ngu dòng Đế Thuấn đã đánh bại hàn Tróc khôi phục vương triều Hạ . Chúng ta thấy truyền thuyết lịch sử đã không công bằng với Hậu Nghệ tuy nói rõ vì vua ngu tối ham hưởng lạc mới đưa đến việc soán ngôi , khi ở ngôi Hậu nghệ đã làm bao điều ićh quốc lợi dân nhưng vẫn không ̣đ̣ược coi là 1 triều đại chính thống .
    1 like