-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 05/11/2010 in all areas
-
Chữ “động” trong từ ghép “hang động” Trích: “Tổ tiên người Việt cổ ở Phú Thọ thời hồng hoang ắt hẳn sống trong các hang động có rất nhiều ở huyện miền núi Thanh Sơn. Phải chăng vì thế mà sau này khi rời hang động ra sống ở ngoài trời, người ta lấy động làm tên gọi điểm tụ cư như người Việt gọi là kẻ, chạ, thôn, làng. Trước đây người Mường thường vẫn gọi điểm tụ cư của mình là động. Triều đình cũng gọi là các động. Ở Phú Thọ cũng có các địa danh gọi là động như động Khuất Lão ở huyện Tam Nông, động Lăng Xương ở Thanh Thủy, thị xã Phú Thọ cũng có thời gọi là Phú An động. Thị trấn Hưng Hóa gọi Hoa Nham động. Làng Cự Đà (Phù Ninh) thời nhà Lý còn gọi là động Cự Đà, v.v.”(Nguyễn Hữu Nhàn) Chữ “động” trong tiếng Việt hay dùng trước địa danh, cũng như chữ “đồng” đều không có nghĩa là “hang” hay xuất xứ từ “hang” mà nó có nghĩa là “vùng”, vì Vuông = Vùng = Đồng = Đoong (tiếng Lào)= Động = Rọng ( tiếng Nghệ An) = Ruộng, có nghĩa là một cái diện tích đất rộng lớn.Từ “hang” chỉ cái hang là một từ Việt , như góc kín của cơ thể thì gọi là “ háng”, lối ngõ sâu hun- hút như cái hang thì chữ nho viết là chữ “hạng 巷” gọi là “hẻm”, từ “hang” tách đôi Âm - Dương thì sinh ra từ dính không thể đảo ngược là “hom - hỏm” nghĩa là sâu và tối, nó dẫn đến từ “hẻm” trong tiếng Việt là cái ngõ sâu như hang và từ “thẩm” trong tiếng Thái nghĩa là cái hang. Từ “động” nghĩa là hang chỉ có từ khi bị Hán hóa, nó đồng âm với từ “động” nghĩa là vùng của tiếng Việt. Nhưng chữ nho của người Việt “động 洞” vốn nghĩa là “vùng” ấy đã bị Hán lấy để tải âm “tung” nghĩa là hang của tiếng Hán.Từ “động” nghĩa 同 là cùng, biểu ý là cùng một nước, lấy âm cùng để biểu đạt cho âm vùng, nghĩa của nó là “vùng nước” tức “một vùng của đất nước” hay là nước nhỏ trong cùng một nước to. Chữ nho “động 洞” ấy người Hán mượn để ký âm từ “tung” trong tiếng Hán là chỗ ở cũng có nghĩa là hang, vì người Hán cổ ở vùng thảo nguyên đất khô, họ làm nhà bằng cách đào hàm ếch vào đồi để ở tránh gió lạnh và tuyết, bây giờ vẫn còn phổ biến trên thảo nguyên mênh mông gió và tuyết, người ta đào một giao thông hào sâu và rộng rồi hai bên đào hàm ếch sâu vào thành những cái “tung” cho từng hộ gia đình ở, về sau cả tòa nhà xây độc lập trong thành phố họ cũng gọi là cái “tung”, ghi mượn bằng chữ nho “đống 棟” của người Việt, gồm bộ mộc 木 là gỗ và chữ đông 東 thay cho âm “chống” có nghĩa là “cái cột nhà bằng gỗ để chống đỡ cái mái”, cái “để chống” gọi lướt là cái “đống”. Về sau do bị Hán hóa nên người Việt cũng dùng chữ “động 洞” hiểu nghĩa là hang như người Hán, nhưng còn có thêm từ ghép “hang động” nghĩa là nhiều hang nói chung, nên từ ghép “hang động” thường chỉ đi sau lượng từ “các” hay “nhiều”, mà ở cái từ ghép đó thì “hang” trước, “động” sau theo đúng trình tự cái nào có trước trong tiếng Việt thì đứng trước trong từ ghép, chứ không ai nói là “động hang” cả. Tai hại của Hán hóa là “động” = “đồng” = “vùng”, cả âm lẫn nghĩa như biểu ý của chữ nho, đã bị biến thành “hang” vì người Hán dùng chữ “động 洞” ấy nhưng bảo nó nghĩa là hang, nên đành phải ừ là “hang động” cho nó huề. Thời thượng cổ người Việt dùng chữ nho vẫn viết theo cấu trúc ngữ pháp Việt cho đến tận thời Đường, nên các địa danh ở Trung Hoa toàn là theo cấu trúc ngữ pháp Việt như Hồ Nam là hồ phía nam, Sơn Tây là núi phía tây, Sơn Đông là núi phía đông. Ở Việt Nam thì Tam Cốc là ba hang, sau bị Hán hóa lại thêm là “động Tam Cốc” thành thừa một chữ hang vì “cốc” đã nghĩa là hang, nó to hơn cái “hốc”.Thời cận đại khi chưa có chữ quốc ngữ, dùng chữ nho, người Việt vẫn đặt theo cấu trúc ngữ pháp Việt như vậy , như Cửu Long là chín rồng vì sông Mê Kông vào Nam Bộ chia thành chín nhánh đổ ra biển; Phú Quốc là “giàu nước” tức ra đảo làm giàu cho đất nước (trước tiên là làm nước mắm) chứ không phải như thông tin đại chúng giải thích Phú Quốc là “mảnh đất giàu có” theo ngữ pháp Hán, bởi không có người đến khai phá thì chẳng mảnh đất nào giàu có cả. Thời Đinh Tiên Hoàng thì xã hội Việt Nam dùng chữ nho đã là văn minh sáng lạn lắm rồi, nhưng Hoa Lư vẫn gọi là động Hoa Lư, có nghĩa là vùng Hoa Lư chứ không có nghĩa là dân ở đó sống trong hang. Biết bao địa danh khác ở đồng bằng mênh mông chẳng có một ngọn núi cái hang nào cả vẫn gọi là “động” bởi vì từ ấy có nghĩa là “vùng” “ Việt sử lược” viết: “Đinh kỷ, tiên vương húy Bộ Lĩnh, tính Đinh thị, Hoa Lư động nhân丁 紀 , 先 王 諱 部 領,姓丁氏,華 閭 洞 人nghĩa là Thời Đinh, vua đầu tên húy là Bộ Lĩnh, họ Đinh, người vùng Hoa Lư” . Viên gạch khai quật trong Hoàng thành Thăng Long là sản xuất ở động Hoa Lư rồi chở thuyền lên Thăng Long, gạch đó từng viên đều có dòng chữ: “Đại Việt quốc quân thành chuyên 大 越 國 軍 城 磚 “ nghĩa là “Made in Việt Nam – gạch xây thành quân sự” chứ không phải như thông tin đại chúng đọc là “gạch xây thành vua Đại Việt”( chữ quân trên viên gạch là chữ quân 軍 sự chứ không phải chữ quân 君 vương, ngày xưa viết hàng chữ nho không có chấm phẩy hay gạch nối gì cả).4 likes
-
HỖ TRỢ ĐỒNG BÀO MIỀN TRUNG GẶP THIÊN TAI Tiếp theo Trên đường từ nhà cậu học sinh xấu số về, chúng tôi thấy một chiếc cầu xi măng bị lũ cuốn trôi phần thân cầu, chỉ còn trơ lại hai cái trụ. Những người thợ đang ra sức xây lại. Đây cũng là nơi thi hài cậu bé học sinh xấu số bị dạt về đây Các bạn có thể tưởng tượng nước lũ dâng ngập đến ô gió của tầng mái cao nhất khu chợ thôn quê này......Thật là khủng khiếp! Cơn lũ 100 năm mới có một lần. Nhưng sự yên bình đang trở lại nơi miền Trung đau thương: Chú bê con an lành và hồn nhiên theo mẹ gặm những chiếc lá tre tiếp tục cuộc sống của nó......Chúng đều gầy giơ xương. Hậu quả của những ngày lũ lụt kinh hoàng. Đoàn chúng tôi được cô phóng viên Thái Hà hiếu khách, mời về nhà chơi. "Các anh ăn thử khoai lang vàng xứ Hà Tĩnh và uống nước trà xanh với gia đình em! Ngon lắm đấy!". Gia đình cô thuộc vào hàng khá giả ở quê nghèo nơi đây. Nhà của cô Hà ở trên một gò đất cao. Vậy mà nước ngập ngang nhà. Trò chuyện được ít phút, chúng tôi tạm biệt gia đình cô Hà ra về. Trên đường về chúng tôi đi qua nhà văn hóa thôn. Chúng tôi thấy bà con hồ hởi xách những bọc quần áo, gạo cứu trợ về nhà. Những quần áo này của nhân viên khách san Daewoo - nơi bà xã Meckey công tác. Tất cả hầu hết là quần áo mới, chỉ lỗi mốt, hoặc mới mặc một hai lần. Chúng được giặt và là ủi cẩn thận, lựa chọn kỹ và cho vào từng túi nilon. Mỗi một túi gồm đủ quần áo nam nữ, người lớn và trẻ em. Đường về thôn...... Quang cảnh đìu hiu, nhưng ông đang chở cả những tấm lòng hường đến miền Trung trong cơn hoạn nạn. Còn tiếp2 likes
-
Với hầu hết mọi người, cô Hằng là Thánh cô, còn với tôi, cô là một người bạn lớn. Là nhà ngoại cảm năng lực nhất Việt Nam, nhưng cô cũng là 1 người mẹ, 1 người vợ, 1 nàng dâu. Và cũng sống một cuộc sống như bao người phụ nữ Việt Nam khác. Cô mang bầu, cũng ốm nghén. Cô đẻ bé Bi còn bị băng huyết, sữa cũng lúc được lúc mất, phải uống thuốc bồi bổ. Cũng vẫn thức đêm bế con cùng với bà ngoại và e trai cô, và ko hề có người giúp việc. Cũng sẩy thai, cũng ước ao có 1 cô con gái mà không được. Nghĩa là, cũng như bao nhiêu người phụ nữ bình thường khác. Chỉ có điều, cô bận rộn hơn nhiều, rất nhiều, bởi ngay thư bộ trưởng, thứ trưởng còn có vài chục và hang ngàn người hỗ trợ, còn người như cô thì cả Việt Nam có mấy người? Có bao nhiêu bữa tối của cô không trọn vẹn trong suốt 20 năm qua, tôi cũng không biết và cũng không đếm được. Nhưng, cũng giống như tôi, giống như bao người vợ khác, cô cũng là 1 người vợ có vô số tối chờ chồng về ăn cơm. Có hôm, chờ tới 10h chú chưa về, khách chưa vãn, giục cô ăn cơm, cô nói chờ chú về. Rồi muộn quá, tôi bảo cô, để cháu nấu bát canh cô ăn nhé, muộn lắm rồi. Đôi khi, muốn thể hiện tình yêu với chồng sao mà cũng khó thế cô nhỉ, muốn chờ chồng về để ăn cùng nhau cũng xa xỉ thế nhỉ? Cô bảo uh, muốn thể hiện là yêu chồng mà khó thế đấy cháu ạ Có hôm, cô cháu tôi khóa cửa để ăn cơm tối thì có một người nhà về, ra mở cửa, và bao nhiêu khách lại ùa vào. Và tôi chỉ ép được cho cô 1 cốc hoa quả mà hôm cô kịp uống, hôm thì không. Tôi nhớ cách đây lâu lắm rồi, dễ tới gần chục năm, cô phải đi nhiều lắm, dọ theo chiều dài đất nước để tìm hài cốt liệt sỹ. Bé T lúc ấy còn rất nhỏ, ôm c H và nói chị H ơi, e rất nhớ mẹ, nhưng e ko dám nói đâu, ko thì bà lại mắng mẹ. Tự dưng mà cảm thấy trào nước mắt. Những e bé khác cùng tuổi đó luôn được ở bên mẹ, còn T luôn phải xa người mẹ mà e vô cùng yêu quí. Chỉ có ai đã làm dâu, đã ở cùng bố mẹ chồng, công việc lại bận rộn thì mới có thể thấu hiểu như thế nào. Bạn hãy tự nghĩ xem, bạn đi tối ngày như cô, toàn những việc ko đi ko được, con để nhà như thế, có nhà chồng nào hài lòng vui vẻ? Nhất là khi bố chồng bị bệnh nằm liệt giường?? Tôi còn nhớ rõ về một buổi tối mùa đông mưa rét cách đây mấy năm mà cảm giác của tôi như vẫn là ngày hôm qua. Cô và bé T từ Kim Liên về nhà, ngày đó, cô vẫn duy trì lịch tiếp dân tối thứ 7 hàng tuần tại B19 Kim Liên. Chú công tác vắng nhà. Trời thì mưa, và lạnh. Lại quá khuya. 2 mẹ con lang thang ra Hồ Hai Bà, gọi mãi mới được 1 chiếc taxi để quay về Kim Liên. Cô khóc. “Cô ơi, cho cháu ôm cô thật chặt” :D :D :D E trai cô ra đón chị cũng khóc. Đâu có phải là Thánh cô, thì thoát được những ràng buộc đời thường, bạn nhỉ??? Hai bé nhà cô, đẹp đẽ như thiên thần, khỏe mạnh, thông minh và rất thương mẹ. Nhưng cũng thiệt thòi hơn các bé khác cùng tuổi rất nhiều, bởi mẹ đâu có nhiều thời gian cho chúng, mẹ phải đi làm việc cho toàn thể nhân dân. Nhớ mùa đông qua, một buổi tối bé Bi cứ chờ mẹ tắm cho mình, tới hơn 9h rồi, mà mẹ Hằng thì còn nhiều khách lắm, còn chưa được ăn tối nữa kia. Tôi kêu bé Bi nhanh nhanh, lên tầng lấy quần áo chị tắm cho, rồi chị còn về nhà với cháu N ko thì muộn rồi. Mẹ còn làm việc chưa được ăn đâu e ạ, chờ mẹ thì ốm mất. Bi rất ngoan và thương mẹ và như hiểu trước tuổi, ngoan ngoãn lên nhà lấy quần áo, tắm xong bảo tôi, thôi chị về đi, e tự mặc quần áo được mà, c không phải mặc cho e đâu, c về đi ko lại muộn đấy – 1 đứa bé 6 tuổi mà chững chạc thế đấy. 1 đứa bé mà ngay việc được mẹ tắm cho cũng là điều quá xa xỉ, điều mà bất cứ đứa trẻ nào ở tuổi nó cũng đương nhiên được hưởng. Một buổi chiều đẹp trời ko hẹn khách khứa, hẹn là 5h chiều cô sẽ đưa 2 em đi chơi, lâu lắm rồi chúng ko được đi chơi với mẹ. Tôi, bé N nhà tôi cùng 2 bé nhà cô vẫn chơi trò xếp hình chờ mẹ Hằng về, vậy mà, khi mẹ về, chỉ 1 lúc sau, lại khách đến – ai cũng có nhu cầu cho phần âm nhà m mà. 2 bé đi ra đi vào, mẹ ơi, nay mẹ hứa đi chơi cùng mẹ rồi mà, mẹ ơi, mẹ ko thất hứa đâu nhé,… Xin lỗi các vị khách, hãy để hồ sơ lại, để cô tôi còn được chút ít ỏi thời gian bên các con của mình, Bởi cô tôi cũng còn có gia đình như bao người khác. Bởi quĩ thời gian của cô tôi cũng chỉ có 24h mỗi ngày như bao người khác. Bởi cô tôi cũng phải ăn, phải uống, phải ngủ, phải giải trí, phải có thời gian cho mình, cho con, cho chồng, ... như bao người khác. ......... (Còn tiếp)2 likes
-
Các bài báo về nhà ngoại cảm PTBH luôn thu hút sự chú ý của dư luận và đông đảo bạn đọc. Có lẽ, độ nóng của cô còn hơn bất kỳ một ngôi sao màn bạc hay một chính sách tầm cỡ nào. Nhưng ở đây, tôi ko muốn viết về những điều kỳ bí quanh cô – điều mà đã tốn không ít giấy mực của báo chí, không ít trà đá vỉa hè của nhân dân, mà chỉ muốn viết đôi dòng về người phụ nữ mà tôi vẫn ngưỡng mộ, vẫn luôn học và sống theo cô. Có lẽ, để viết hết thì sẽ rất dài, nên tôi sẽ viết dần dần, để mong mọi người hiểu hơn về một con người, một tấm lòng mà ngay như nick YM của cô đã nói lên tất cả tamlongvangxxxx2 likes
-
Mật Tông
nuhoangaicaptk21 and one other liked a post in a topic by Thiên Đồng
Thần chú Cầu Tài Tại một số nhà ngoài hai tượng của Ông Địa và Thần tài như bình thường , người ta còn thờ ở chính giữa ban thờ một vị như hình đầu tiên . Vị đó chính là Hoàng Thần Tài . Hoàng Tài Thần là hóa thân của Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) ngự tại Bắc phương trong Mandala tượng trưng Bình Đẳng Tánh Trí . Hoàng Tài Thần có 8 vị thần tướng vận chuyển về tài và Tứ Đại Thiên Vương theo hộ Pháp . Có tất cả 5 vị Thần tài : Hoàng Thần tài , Bạch Thần Tài , Hỏa Thần Tài , Hắc Thần Tài , Lục Thần Tài . Trong đó : ” Hoàng Tài Thần chủ về PHÁP TÀI : Trì tụng chú của Ngài hành giả sẻ được tăng trưởng thêm về Phật Pháp và công đức cũng như tiền bạc , theo kinh điển Mật Tông thì ngài hiện thân trừ thiên ma quấy phá lúc Phật Thích Ca Mâu Ni lần đầu thuyết Bát Nhã Tâm Kinh , sau đó Thế Tôn thọ ký cho Ngài như nguyện làm Thiên Tài-Hộ Pháp . Bạch Tài Thần chủ về TÂM TÀI : Chủ trừ các phiền não về tài và hóa giải các định nghiệp . Hỏa Tài Thần coi về ÁC TÀI : năng trừ các kẻ thù về tài , làm cho trí huệ tăng trưởng . Hắc Tài Thần coi về TÀ TÀI : Chủ trừ các tà quỉ , oan gia đến báo vì tài . Lục Tài Thần coi về YỂU TÀI : Năng trừ yểu mệnh vì tài . Hoàng Tài Thần là hóa thân của Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) ngự tại Bắc phương trong Mandala tượng trưng Bình Đẳng Tánh Trí . Hoàng Tài Thần có 8 vị thần tướng vận chuyển về tài và Tứ Đại Thiên Vương theo hộ Pháp . Bạch Tài Thần là hóa thân từ giọt nước mắt bên phải của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát (Tara Độ Mẫu là hóa thân từ giọt nước mắt bên trái), Bạch Tài Thần có 4 vị Đồ Cát Ni (Dakini), hộ trợ , vận chuyển về tài lộc . Hỏa Tài Thần là hóa thân của Ngài Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) Hắc Tài Thần là hóa thân của A Súc Bệ (Akshobyah) Diệu Sắc Thân Như Lai , ngự tại hướng đông của Mandala tượng trưng Đại Viên Chủng Trí . Lục Tài Thần là hóa thân của 1 trong Tứ Đại Thiên Vương . Nếu Bạn có trì Chú của Chư Vị này , trước nên trì Kim Cang Tát Đỏa bách tự minh chú hay Đại Bi hoặc các thần chú linh cảm của Quán Thế Âm thì công năng sẻ tăng rất nhiều . Nếu chỉ thuần túy cầu xin tài lộc , chỉ trì tâm chú của Hoàng và Hắc Tài Thần là đủ rồi . Hoàng Tài Thần Tâm Chú : OM DZAMBHALA DZALENTRAYE SVAHA Bạch Tài Thần Tâm Chú : OM PADMA TROTHA ARYA DZAMBHALA SIDDHAYA HUM PHAT . Hỏa Tài Thần Tâm Chú : OM DZAMBHALA DZALIM DZAYA NAMA MUMEI E SHE E . Hắc Tài Thần Tâm Chú : OM JLUM SVAHA OM INDRAYANI MUKHAM BHAMARI SVAHA . Lục (xanh lục) Tài Thần Tâm Chú : OM DZAMBHALA DZALIM DZAYE SVAHA . ” ( Chép lại bài viết của Thày Sương Mãn Thiên ) Một bản Anh ngữ và bản lược dịch kèm theo mà dienbatn sưu tập được ( Quên mất nguồn ) nói về Hoàng Thần Tài như sau để các bạn tham khảo : ” The Lord of Wealth, Granter of Supreme Accomplishments Establish the motivation Main practice: From emptyness appears a multicolored lotus Upon which is a sun with a golden-yellow DZAM (on it) I become golden Dzambhala with a semi-wrathful face Right hand holding a citron fruit and Left hand grasping a mongoose emitting a shower of jewels Wearing a crown of the Five Buddhas And adorned with a garland of blue utpala-flowers and many jewels and heavenly clothing. Both feet pressing on the great treasures (such as) ‘Conch-Owner’ and ‘Lotus-Owner’ In my forehead is a white OM The throat is a red AH And in the heart is a blue HUNG From these three syllables shine forth multicolored lights The gathering of Wisdom-beings and the Empowerment-deities dissolves (into myself) Visualization during mantra-recitation: At the heart is a golden-yellow DZAM circled by a golden-yellow mantra garland with light radiating Making offerings to all Buddhas and Bodhisattvas, gathering back their blessings Purifying the obscurations of all sentient beings of the Three Realms Establishing all in the state of Peace and accomplishing all the enlightened-activities The light returns and dissolves into the mantra-garland and the seed-syllable OM DZAMBHALA DZALENDRAYE SVĀHĀ Offerings: OM VAJRA ARGHAM/ PĀDYAM/ PUSHPE/ DHŪPE/ ĀLOKE/ GANDHE/ NAIVEDYĀ/ SHABDA/ PRATĪCCHA SVĀHĀ Praise: Lord of Wealth, owner of precious treasures Master of many yaksha keepers of wealth Guardian of the North, Protector Dzambhala Wealth-deity, granter of supreme accomplishments – I prostrate and praise! Dedication: By this virtue, may I swiftly Attain the state of the Noble Dzambhala And (may I) establish all beings without exception In that very same state ” ” zambhala đã hiện hữu trong vô số kiếp . Trong một tiền kiếp của Phật , Ngài chỉ là một gã đốn củi nghèo nàn . Ngài thực hành về thần chú Dzambhla , như một kết quả , Ngài trở thành một vị vua đầy quyền lực và giàu có . Lúc ấy , với nhiều phương tiện trong tay , Ngài hành pháp Bố Thí Ba La Mật và đạt đến viên mãn pháp này . Ngài đắc quả Sơ Địa . Do đó , Dzambhla , dù rằng là Bổn Tôn Tài Bảo Thịnh Vượng , nhưng được xem là Cha Mẹ Chư Phật , tượng trưng cho hạnh Bố Thí Ba La Mật của Chư Phật . Dzambhla được Phật phú chúc vào thời gian sau khi Ngài nhập Niết Bàn , thường qua lại trong các cõi , ủng hộ chúng sinh tăng trưởng hạnh phúc thịnh vượng và hộ pháp . Bản văn trên là một đoản tụng , có thể dành để gieo nhân duyên cho người thành tâm , chân thật thâm tín Phật Pháp . Đi đến sự tăng trưởng hạnh phúc trong vật chất cùng tinh thần là con đường hướng thượng ! Tu là hạnh phúc với Trung Đạo , chớ chẳng phải gò ép xác thân , rồi bị xiềng trói trong một ảo kiến tự ngã vi tế !” B/ Qua nhiều năm thực hành nghiên cứu , dienbatn thấy Thần Tài – Ông Địa có những đặc tính nổi bật sau đây : 1/ Tuy thờ cúng , bàn thờ để dưới đất , nhưng các vị này rất ưa chuộng sự sạch sẽ , sáng sủa . Chính vì vậy , trong quá trình thờ cúng , chúng ta nên giữ cho các vị này luôn sạch sẽ bằng cách tắm rửa thường xuyên bằng nước hoa thơm , xịt nước hoa . Một cách thấy có hiệu quả nhất mà dienbatn nghiệm thấy là khi Trời mưa to , các bạn bê Thần Tài , Ông Địa , Ông Cóc cho vào một cái thau sạch và để tắm mưa ngoài Trời độ 15 phút . Sau đó mang vào lau khô , xịt nước hoa và thắp hương xin . Nhiều lần thấy rất Linh diệu . 2/ Khi cúng Thần Tài – Ông Địa , người ta thường cúng nhiều thứ , nhưng dienbatn thấy có lẽ các vị này thích nhất là đồ ngọt , Thịt quay , bánh hỏi , chuối , bưởi . Có lần một vị về báo mộng xin cúng chuối , sau khi cúng là có lộc liền . Nếu bạn nào ở Sài Gòn , nên mua tiền giấy cúng riêng Thần Tài – Ông Địa , người ta làm sẵn cả một bộ , trong đó có tiền Quý Nhân ( Âm và Dương – Tức là những tờ giấy gập đôi màu đỏ có đục những hình Thần Tài khắp bề mặt ) . Thứ tiền này , dienbatn không thấy có bán ở miền Bắc . 3/ Cách thắp nhang : Khi mới lập bàn thờ , chúng ta nên thắp nhang liên tục trong 100 ngày để bàn thờ tụ Khí . Tuyệt đối không vì sợ tốn điện mà tắt đèn trên bàn thờ , vì những ngọn đèn đó giống như những ngọn Hải Đăng dẫn đường cho các vị giáng xuống . Trong 100 ngày đó mỗi sáng chỉ cần thay nước và thắp một nén nhang . Những lúc cần cầu xin điều gì thì thắp 3 nén cắm theo hàng ngang . Những ngày rằm , mùng một , lễ , tết thắp 5 nén theo hình chữ thập . Nên chọn loại nhang cuốn tàn ( giữ được tàn ) , sau một thời gian sẽ có bát hương rất đẹp và tụ Khí rất tốt . Chỉ đến ngày 23 tháng Chạp mới rút chân nhang và đem hóa cùng tiền giấy . Khi hóa xong nhớ đổ một chút rượu vào đám tro . 4/ Không để hoa , lá héo úa trên bàn thờ , vì khi đó dễ dẫn đến làm ăn khó khăn . C/ CÁC BÀI CHÚ CẦU TÀI ĐỌC TẠI BÀN THỜ ÔNG ĐỊA – THẦN TÀI : ( dienbatn sưu tập và được thày Sương Mãn Thiên chỉ dạy ) các bạn có thể sử dụng : Các loại Chú cầu Tài : BẠCH Y THẦN CHÚ : Câu chú này dùng tất cả trong những công việc của đời thường. Cầu xin may mắn , tai qua nạn khỏi .Cầu xin các Tổ nghề dạy nghề, Thỉnh Long Thần hộ Pháp…Đọc khi Khai trương, mở tiệm ,bán nhà , làm cho vợ chồng thương yêu nhau ,hộ thân , cầu mua may bán đắt , giải ếm , làm mồ mả, hay bất cứ công việc gì đều có thể được . Người thường chỉ cần tụng theo nghi ở dưới, riêng các Thày có thêm phần vẽ Phù Linh Thần. BẠCH Y THẦN CHÚ : (Nam mô đại từ đại bi – Tầm thinh cứu khổ, cứu nạn – Quảng đại linh cảm – Bạch Y Quán thế âm Bồ tát ) – 3 lần. Nam mô – Bút đada – Nam mô – Đạtmada – Nam mô xănggada. Nam mô – Arida – Avalôkitê – Xoarada – Tadactha. ( Ohm – Gara oata – Gara oata – Gaha oata – Raga oata – Raga oata – Xoáha ) – 7 – 21 –108 biến. Thiên la Thần, Địa la Thần. Nhân ly nạn , Nan ly thân , Nhất thiết tai ương hóa vi trần. Nam mô Bạch y Quán Thế Âm Bồ tát – Cảm ứng chứng minh cho con là……….tuổi…….. địa chỉ…….. ( Xin gì thì nói ra ). QUAN ÂM ĐỘ TRÌ GIA MÔN KINH QUAN ÂM ĐỘ TRÌ GIA MÔN KINH ! Phật tử Quan Âm gia môn kinh , bảo ngả gia môn vạn sự hưng , bảo ngả gia nội đại phú quí , bảo ngả gia môn thêm tài đinh. Nhật nhật tụng kinh hửu thât’ biến , Thần Phật thính chi bất cam hiềm , tiền nhật hửu tội kim nhật giải , kim nhật giải tội hửu vạn biến. Nhật nhật tụng kin hửu thiên bàn , kháo Thần kháo Phật tối thái sơn ,nhất lai bảo nam nhị bảo nử , bảo ngả hợp gia độ bình an.Bái Phật bái Thần bái từ bi, cầu Thần cầu Phật lai bảo an , gia trung đại tế Phật lai bảo, gia nội hửu sự phất mạt khai. Bái đáo lô để hương hựu hương , bái đáo đăng quang trúc hựu hồng , bái đáo gia nội đại phú quí , bái đáo tử tôn đô bình an. Quan Âm trụ tại Phổ đà sơn , gia nội phụng kính đô nhất bàn , hửu nhân tụng đắc Quan âm kinh , thiên tai bách nạn tận tiêu hội. Quan Âm nương nương tại gia viên , tảo tảo vảng vảng nương phù trì , ma ha Phật tổ lai tứ phúc , tứ ngả gia môn phúc lộc tồn. Nam mô bồ tát ma ha tát, ma ha chư Phật bảo bình an. Nam mô a di đà Phật (7 lần) án ma ni bát di hồng , ma hắt nghê nha nạp , tích đô đặc ba đạt , tích đặt ta nạp , vi đạt rị cát , tát nhi cáng nhi tháp , bốc rị tất tháp cát nạp , bổ ra nạp nạp bốc rị ,thưu thất ban nạp nại ma lô kiết , thuyết ra da tá ha. (7 lần ) Trì Quan Âm gia môn kinh trên mổi ngày , giải tai ách chướng nạn , hưng vượng phú quí , tùy sở cầu mà có , cầu tài có tài , cầu con có con…….Thần Phật luôn ngự trị , phù trì nơi nhà mình. CHÚ VÁI ĐẤT ĐAI , THỔ ĐỊA , THẦN TÀI . ( sáng chiều 2 lần thắp nhang cầu nguyện đọc 3 lần ) Nam mô Ngũ phương ngũ thổ Long Thần , Tiền hậu địa chủ Tài thần , Thành hoàng bổn xứ , Thành hoàng bổn cảnh , đất đai dương trạch , đất nước ông bà cảm ứng chứng minh phù hộ đệ tử ….(tên họ tuổi v.v…..) gia trạch bình an , thương mại hiệp thuận , đa khách đáo lai v.v….. ( Khi mình đi chổ lạ ngủ qua đêm hay ngủ nơi khách sạn v.v….cần vái câu này , cũng như là dùng lể ra mắt vậy ) CHÚ CẦU TÀI ĐỌC NGAY BÀN THỜ THẦN TÀI SÁNG CHIỀU . Trương thần Táo , quan thần Địa , tài thần chí , chơn thân hạ giáng , hiện thân lai lâm hộ trì đệ tử (tên họ tuổi v.v……) cầu tài hưng vượng , vạn sự an khương ( 3 lần ) Ôm chên pa la cha linh cha na de xoá ha (21 , 36 , 72 , 108 lần bao nhiêu tuỳ mình , càng nhiều càng tốt , đây là tâm chú của HOÀNG THẦN TÀI ) CHÚ CẦU TÀI Phụng thỉnh Tam Thanh giáo chủ cứu độ dương gian , trên ông Hắc Đế ra lịnh . Nam mô Đông phương Thanh Đế Tây phương Bạch Đế Nam phương Xích Đế Bắc phương Hắc Đế Trung Ương Huỳnh Đế . Thần Lôi , Long Thần , Tài Thần , Trạch Thần , Thổ Thần , ngũ phương ngũ thổ nghiêm trang chỉnh tề hộ độ đệ tử (tên họ tuổi ……),sở nguyện thành tâm , sở cầu thương mãi hiệp thuận , đa nhơn lai đáo (hay tài lợi sung mãn v.v….). (Sáng ,chiều 2 thời đốt nhang ngay Đạo Tràng hay bàn thờ Thổ Thần đọc 5 lần mỗi khi ) Chú Cầu Tài Pali Nam tông (của Lục Cả Miên truyền). Nắc mô ta sắ , phắ cá quá to , á rá há to , sam ma sam pút đa sắ (3 lần lạy Tam Bảo 3 lạy) Ê mê hê ly ba thu ba ty , ca rê hê Pút Thăn Thơm Măn Son Khăn , a bi bớt cha đẹt mi , Pút Thăn mê ta Thơm măn mê ta Son khăn mê ta Pút Thăn à nách Thơm Măn à nách Son Khăn à nách Một kho luôn kha-nhum hon …( tên họ tuổi mình v.v…)ê hý mặc mặc . (đọc câu này 5 lần sáng , chiều) Chú Thần Tài Xiêm (Thái Lan) Nắ lư mô linh sa hảnh thù thăn lu cà fụt , danh là danh na sang thì sưởn lảnh ca , Nắ Mô Pút Thê Dắ . ( Nơi đây chúng tôi đã phiên âm từ chử Pali ra theo lối đọc của tiếng Việt , câu chú này có thể đọc 3 , 5 , 7 , 9 , 21 , 36 , 72 , 108 lần tùy ý mỗi ngaỳ , khi đốt nhang bàn thờ Tài Thần , Thổ Địa ) Hoàng Thần Tài chú (Tây Tạng) Om Jăm Pa La cha linh cha na de xoá ha brum . Chú kêu khách đến cửa hàng , tiệm quán của mình cho đông : La ly a thô a úc kha mao ta da rô hô chặc bon sum chô dô lốt . (sáng đọc 21 lần cúng bánh , kẹo , trái cây , rượu trắng , bắp rang ngay bàn thờ Thổ Thần hay ngay cửa .) nguồn: http://mynghevietnam.com2 likes -
Có rất nhiều người thắc mắc /về cái tên họ của mình có liên quan đến phần số của mình không ? phương pháp thần số học của Tây phương dựa vào những con số đã định cho một mẫu tự /cấu thành tên họ có thể tiên đoán được /nhân cách tính tình /công việc năng khiếu /tình cảm của con người dính liền với cái tên thật của mình do cha mẹ đặt ra .Vấn đề nầy có thể giúp bạn giải thích những thắc mắc ở đây /Nếu bạn cho biết tên thật của mình !1 like
-
Phan Thị Bích Hằng sẽ dừng công việc “ngoại cảm”? Thứ Năm, 28/10/2010 - 10:15 Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng tuyên bố, chị đã quyết định dừng công việc ngoại cảm, không tiếp nhận hồ sơ những cá nhân đề nghị chị tìm giúp phần mộ của người thân. Phan Thị Bích Hằng: Nghề phán không phải nghề của tôi Nhà ngoại cảm Bích Hằng đề nghị làm rõ các tin đồn ác ý Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng Theo nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, ý định này chị đã nghĩ đến từ đầu năm 2010 và chị cũng đã công bố trên một vài diễn đàn dưới dạng thông tin không chính thức. Tuy nhiên, dừng lại công việc “áp dụng khả năng ngoại cảm” đối với Phan Thị Bích Hằng không đồng nghĩa với “đoạn tuyệt” công việc tìm mộ. “Hiện nay, tôi mới giải quyết xong phần tìm mộ của các hồ sơ nhận từ năm 2008. Tôi dừng lại để có thể hoàn thành công việc tìm mộ của hơn 5.000 hồ sơ mà bà con đã tin tưởng gửi gắm. Dừng lại nghĩa là tôi sẽ không nhận thêm hồ sơ do các cá nhân nhờ giúp còn trong đời sống sau này, trên những bước đường tôi qua, nếu có duyên “gặp gỡ”, tôi vẫn sẽ “chỉ đường” để những người bị “mất mộ” người thân biết mà nhận lại”, nhà ngoại cảm Bích Hằng chia sẻ. Áp lực lớn nhất là dư luận xã hội Mở lòng trong cuộc trao đổi, chị Phan Thị Bích Hằng cho biết, áp lực lớn nhất trong suốt 21 năm là một nhà ngoại cảm với chị và với các nhà ngoại cảm có lẽ là cách nhìn nhận của dư luận xã hội. “Người ta thường đòi hỏi nhà ngoại cảm phải chính xác tuyệt đối nhưng trên thực tế thì không có gì tuyệt đối cả. Không riêng gì tôi mà rất nhiều các nhà ngoại cảm khác đã bị chỉ trích nếu chẳng may có sai sót. Chính điều đó khiến chúng tôi mất hết nhiệt huyết. Có lẽ là do họ chỉ nhìn thấy chúng tôi, gặp chúng tôi những lúc chúng tôi sạch sẽ, ăn mặc đẹp còn những khi chúng tôi khoác ba lô lên đường, lội sông, lội suối, những lúc nguy hiểm như lần tôi tìm thấy ngôi mộ liệt sĩ mà chỉ cách bẫy lợn rừng có 1m, những lần vào rừng tìm kiếm hài cốt liệt sĩ bị ong đốt suýt chết… thì dường như chẳng ai nhớ đến. Nhưng chỉ một lời nói bâng quơ trong cuộc điện thoại hỏi thăm giữa hai người bạn với nhau trong vụ xe khách bị lũ cuốn vừa qua cũng bị “nghiêm trọng hóa vấn đề”. Rồi những tin đồn về cầu Bãi Cháy, cầu Thăng Long, cầu Long Biên, tôi không nói, không phát ngôn mà cũng bị đồn thổi ầm ĩ. Trong tất cả mọi công việc đều phải có xác suất. Tôi mong rằng độc giả nên mở lòng hơn với các nhà ngoại cảm”, chị Bích Hằng tâm sự. Rất mừng nếu hết “khả năng” “Trước đây, thứ 7 nào tôi cũng tiếp dân nhưng bắt đầu từ năm 2010, tôi đã bỏ lệ đấy. Bạn thử nghĩ xem, ngày nào cũng như ngày nào, cứ 5 - 6h sáng, vừa mở mắt đã có người xếp hàng chờ ngoài cửa, chiều 16h30 - 17h về, người cũng lại xếp hàng đầy cửa. Đến 23h30 mới hết khách là chuyện bình thường. Nhiều lần tôi mệt quá đã nói người nhà ra bảo với mọi người rằng Bích Hằng hết khả năng rồi. Hồi năm 1997 khi mang thai đứa con đầu lòng, tôi đã phải viết là Phan Thị Bích Hằng hết khả năng và còn nhắn mọi người sang chỗ anh Liên (Thầy Liên - PV) nếu cần. Thực ra hết hay còn khả năng chỉ có mình tôi biết. Tôi rất thấm nhuần điều mà Khổng Tử đã rút ra: Biết bắt đầu công việc là người giỏi, biết làm việc là người tài, biết dừng lại đúng lúc là vĩ nhân. Trong lĩnh vực ngoại cảm tôi đã cống hiến hơn 20 năm rồi, chính xác là 21 năm từ khi tôi mới có 18 tuổi, cả một quãng đường dài và với một công việc luôn rất căng thẳng, phải hao tâm tổn trí rồi những áp lực... Là người có khả năng đặc biệt nhưng ngoài ra tôi cũng chỉ là một phụ nữ hoàn toàn bình thường, có bổn phận làm con, có trách nhiệm làm vợ, làm mẹ. Tôi đã từng rất thương với “ông xã”, khi ngày này qua tháng khác, tôi thì cứ ba lô lên đường đi tìm mộ liệt sĩ đến nỗi thấy 3 bố con chiều thứ 7 nào cũng đi chơi ở Công viên Thủ Lệ, một cô bán nước gần đấy đã hỏi ông xã tôi, anh bị vợ bỏ à? Hồi bố chồng tôi bị ốm, phải nằm liệt giường, vì công việc, tôi vẫn phải đi tối ngày, lúc đó chồng tôi đã nói với tôi rằng: “Anh có 2 ước mơ, thứ nhất đó là khi ngủ dậy thì bố đứng lên đi lại được. Và ước mơ thứ hai là bỗng một sáng thức dậy, em nói với anh: anh ơi, hình như em hết khả năng rồi? Đấy là ước mơ rất dung dị nhưng tôi nghĩ đã đến lúc phải sống cho giấc mơ đấy, cho bản thân mình và cho những người thân của mình nữa”, chị Bích Hằng tâm sự. Nói về lý do dẫn đến quyết định “dừng” công việc tìm mộ, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cho biết có 3 lý do khiến chị muốn dừng lại. Thứ nhất, chị muốn dừng lại để có thời gian tập trung vào công việc học hành và hoàn thành đề tài nghiên cứu về tâm linh trong tâm lý kinh doanh. Chị dự định sẽ viết một cuốn sách về những việc đã làm trong hơn 20 năm. Thứ hai nữa là do căn bệnh cột sống khiến Bích Hằng không thể suốt ngày ngồi trên ô tô để đi tìm mộ: “Hiện nay, các bác sĩ không cho phép tôi ngồi quá 45 phút và theo bác sĩ ở Viện Dân tộc Quân đội thì khí âm trong tôi quá nhiều, ngồi đâu cũng thấy lạnh mà nguyên nhân theo bác sĩ cho biết là vì tôi tiếp xúc với hài cốt nhiều”. Và lý do thứ 3 nữa theo Bích Hằng là chị muốn dừng lại để có thời gian gần gũi, chăm sóc cho chồng con nhiều hơn, thực hiện ước mơ dung dị mà chồng chị đã từng “ngỏ”. Theo Thu Hiền VTC News ====================================== Nhời bàn của Thiên Sứ: Để có một thiên tài như cô Bích Hằng hàng trăm năm mới có một người trên hàng triệu người sinh ra và chết đi ở trái Đất này. Nhưng người ta có thể cần đến cô và không cần đến cô. Không có cô, sự mất mộ là chuyện rủi ro, chuyện không may của một gia đình, một dòng tộc Đông phương có truyền thống tôn trọng tổ tiên và người đã khuất. Có cô, thì người ta tìm được mộ, người ta gặp may. Chuyện chỉ đơn giản thế thôi. Nhưng cô đã phải tự hủy diệt khả năng của mình, phải chối bỏ. Bởi vì người đời không hiểu được tại sao lại có hiện tượng như cô. Họ đặt vấn đề sai vì thiếu hiểu biết. Lần đầu tiên tôi biết sự gian khổ của cô: Cô đừng buồn. Đời là thế! Một bác sĩ giỏi, trị bệnh cứu người. Cứu xong bệnh nhân thoát chết thì cùng lắm là câu chuyện được kể cho hàng xóm và con cháu nghe với lời kính trọng. Và nếu vị bác sĩ có đến cửa hàng cháu nội của người được cứu sống thì may ra được mua giảm giá một lần. Vâng! Thế thôi. Đấy còn là may. Chưa kể những lời xầm xì nói xấu của đồng nghiệp. Cô có lúc sai. Bởi vì Thượng Đế không cho cái thế gian này tuyệt đối cô ah. Đó không phải lỗi của cô, mà là - nói một cách hình tượng: do "ý muốn của Thượng Đế". Vì chỉ có Ngài là tuyệt đối - Nhưng thế nhân muốn cái tuyệt đối. Họ muốn phán xét như Thượng Đế cô ah, mặc dù họ không có ý thưc về điều này. Xét về cá nhân thì là một sai lầm khi họ rất muốn sự tuyệt đối trong cái nhìn của họ. Nhưng xét về tổng quan thì chính vì thế mà trí tuệ con người tiến lên đi tìm chân lý. Cô quá nổi tiếng vì tài năng xuất chúng. Tất nhiên để tỏ ra hiểu biết, để khoe khoang, những kẻ tầm thường sẽ kể cái sai của cô cho người khác biết, để chứng tỏ họ hiểu được những khiếm khuyết của một thiên tài. Tối thiểu là như vậy cô ah. Họ cần đề cao họ trước những người khác bằng cách chê bai một người như cô. Vì họ chẳng có gì để khoe, nên phải chê một người như cô mới gây được sự chú ý của những người xung quanh họ cô ah. Đời nó thế! Đầy ra cả đấy cô ah. Cô hơi đâu mà buồn. Nếu cô cảm nhận được đây là cảm hứng của cô, là trách nhiệm của cô trước cuộc đời, cô cứ làm. Còn thế nhân nói ra nói vào thì đó là "chuyện thường ngày ở Huyện" mà. Cô quên đi cô ah. Mặc dù chỉ gặp cô một lần và cũng không nói gì được nhiều. Nhưng tôi rất quý cô. Với tôi cô là một thiên tài thể hiện tài năng của mình bằng những thực tại khách quan. Cô nói vậy, chứ tôi tin rằng cô vẫn sẽ giúp đỡ mọi người. Không cần đến 70% đâu cô ah. Chỉ cần 1 trong 10 cũng đủ để những nhà khoa học thật sự và nghiêm túc phải suy ngẫm về khả năng con người. Ở đây không phải là phép tính xác xuất. Mà là một chuỗi những hiện tượng chứng tỏ một khả năng của con người của 1 lần trong 10 lần đó. Đức Phật nói: "Nguyên nhân của sự khổ trên thế gian chính là Tham Sân Si". Vài lời tâm sự với cô.1 like
-
Lý và tình trong vụ án Nguyễn Đức Nghĩa VIETNAMNET.VN Cập nhật lúc 06:17, Thứ Năm, 04/11/2010 (GMT+7) Trong những ngày qua, dư luận xã hội đang có những ý kiến trái chiều, 2 mặt lý và tình trong vụ án Nguyễn Đức Nghĩa. >> Tâm lý Nguyễn Đức Nghĩa không bình thường >> Chưa biết nơi bố Nguyễn Đức Nghĩa bị nạn >> Mẹ Nguyễn Đức Nghĩa: ’Giờ tôi mất hết rồi!’ >> Mẹ Nguyễn Đức Nghĩa xin giảm tội cho con >> Nhiều người thương bố Nguyễn Đức Nghĩa >> Bố Nguyễn Đức Nghĩa tử vong vì tai nạn Đa phần các ý kiến cho rằng, chuyện gì ra chuyện đó, với những gì gây ra cho gia đình nạn nhân, Nguyễn Đức Nghĩa vẫn sẽ bị cơ quan pháp luật dành cho một bản án tử hình như trong phiên sơ thẩm hôm 14/7. Tuy nhiên, cũng có những người chia sẻ với mất mát quá lớn của bà Phạm Thị Chuân, mẹ tử tù Nguyễn Đức Nghĩa và rụt rè đưa ra ý kiến mong pháp luật giảm tội chết cho hung thủ. Dư luận trái chiều này bắt đầu xuất hiện sau khi báo chí đưa tin ông Nguyễn Đức Hùng, bố tử tù Nguyễn Đức Nghĩa tử vong vì TNGT và bà Phạm Thị Chuân viết thư cho cơ quan chức năng xin giảm tội chết cho con. Trong những ngày qua, dư luận xã hội đang có những ý kiến trái chiều, 2 mặt lý và tình trong vụ án Nguyễn Đức Nghĩa. Ngày 3/11, ông Nguyễn Văn Ba, bố đẻ nạn nhân Nguyễn Phương Linh đã trả lời báo chí rằng, ông vẫn giữ nguyên quan điểm ở phiên toà sơ thẩm và mong muốn pháp luật phán xét nghiêm minh, đúng người đúng tội. "Tội của Nghĩa là giết người để cướp của đã rõ rồi. Thực ra về phía gia đình thì dù là gia đình tôi hay phía gia đình Nghĩa cũng không giải quyết được vấn đề gì. Mà cái đó phải để luật pháp xem xét, xử lý theo tội trạng. Theo luật pháp, ai có tội danh đến đâu thì phải chịu thôi. Còn tôi, chỉ mong luật pháp nghiêm minh, tôi không còn có ý kiến nào khác hơn được. Kể cả bản thân gia đình nhà tôi cũng như gia đình bà Chuân - mẹ Nghĩa cũng vậy thôi, quan điểm rõ ràng là phải chờ luật pháp" - ông Ba nói với báo VTC ngày 3/11. Báo này cũng dẫn lời ông Ba, cho biết, chỉ có nghiêm minh thì mới răn đe được kẻ phạm tội và làm gương cho xã hội. Nếu không nghiêm minh, thì chắc chắn rằng sẽ có mầm mống thứ hai như Nghĩa. Hành vi, việc làm của Nghĩa đã gây nên sự bức xúc trong toàn xã hội, làm ảnh hưởng tới an ninh chính trị, trật tự xã hội. Cũng đưa tin về vụ việc đang thu hút sự quan tâm của dư luận này, PLVN dẫn lời Luật sư Nguyễn Anh Thơm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Nguyễn Đức Nghĩa: “Trong phiên phúc thẩm tới, ngoài tôi và Luật sư Thủy còn có Luật sư Nguyễn Thân tham gia bào chữa cho bị cáo. Về mặt tình cảm con người, dư luận đều biết và chia sẻ cảm thông với bi kịch gia đình Nghĩa, nhưng tinh thần thượng tôn pháp luật cũng rất rõ ràng". Theo ông Thơm, tội danh của Nghĩa đã rõ, còn lá thư của bà Chuân sẽ là một tình tiết để HĐXX xem xét. "Người mẹ nào cũng thương con và cứu con mình khi gặp nạn. Lương tâm của người mẹ là như vậy dù họ biết rằng cơ hội gần như không có. Tất cả sẽ trông đợi ở phán quyết của HĐXX” - ông Thơm nói. Trước đó, như VietNamNet đã đưa tin, ngày 1/11, ngay sau khi lo hậu sự cho chồng, bà Chuân đã viết thư gửi các cơ quan chức năng xin giảm nhẹ tội cho con. Ngày 11/11 tới, phiên xử phúc thẩm Nguyễn Đức Nghĩa sẽ diễn ra.1 like
-
Cùng Nhau Học Dịch
VHTNQ liked a post in a topic by Hà Uyên
Chào Anh Chị Em Chủ đề: "Cùng nhau học Dịch", được gợi mở khi anh Dichnhan đặt vấn đề: "Người đời học Dịch". Cũng mong Anh Chị em nhìn từ nhiều góc độ với sách Kinh Dịch, chúng ta cùng bình giải và bình luận khi học Dịch. - Anh Dichnhan viết: Hiện tại tôi đang soạn 2 tập tài liệu Kinh Dịch Tự Điển và Giải Mã Hào Từ nên mất rất nhiều thời gian suy nghĩ cho chúng. Nhưng may sao nhờ có chương V của Tâm Pháp nên đã bớt đi được phần nào khó khăn, giống như có chiếc la bàn chỉ hướng vậy. Tôi vừa mới giải lại hào 1 quẻ Quải, mời Bác cùng nghiệm xét: Sơ Cửu: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.” - Hà Uyên viết: Quá trình nhận thức cá nhân, thường tôi phân: giải Dịch theo trường phái - hoặc giải Dịch theo "thuyết". Có nghĩa rằng, giải Dịch theo "thuyết", thường tự xây dựng một học thuyết riêng, mang tính độc lập. Đối với giải Dịch theo trường phái, thường lấy căn cứ theo Âm Dương chọn nghĩa, tam tài chọn tượng. Hướng tư duy cá nhân tôi, đang thăm dò hướng tới kết cấu khung, trong tổng thể 384 hào, để khảo chứng tìm về nguyên nghĩa của ý nghĩa hào từ, trên nguyên tắc: phải mang tính liên tục, tính hệ thống lôgíc của hào từ, sau đó mới xét tới không gian Quái danh, sau tiếp mới xét tới thời điểm Quái vị. Cụ thể: 1. Kinh viết: "Quải, Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu" - Dịch: Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn tới cưu hại. 2. Anh Dichnhan giải Dịch: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.” Tôi bình giải theo kết cấu khung: 1. Tính liên tục hào từ: tìm nguyên nhân: trước hào Sơ quẻ Quải, là hào Sơ quẻ Hàm - Hàm, Sơ Lục, hàm kỳ mẫu. - Dịch: Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái. 2. Tính hệ thống: tìm xu hướng từ quẻ "đối" và quẻ "đảo", sau đó mới giải thích được tại sao lại " tráng vu tiền chỉ". Mong anh chị em cùng tham gia bình giải khi học Dịch Hà Uyên.1 like -
Quái nhỉ cô bé chưa biết chắc mình sinh giờ nào mà cứ nhờ xem hoài ah! nên nghiệm xem các bác nói đúng ở điểm nào thì luận ra giờ sinh vì trong tử vi tướng người là tương đối chuẩn. khi nào đngs giờ sinh thì hãy nhờ xem nhé nếu không sai một ly đi ngàn dặm đó cháu , đôi khi phải cung cấp thêm nhiều thông tin để các bác kiểm chứng1 like
-
1 like
-
Mệnh em nếu làm công chức .eh........... eh Không chắc đã làm dược lâu dài. A nói theo lá số nhé nếu em thấy được thì cứ làm. Anh nói suy nghĩ của em đúng hay kg đúng em coi như không có nhé . Em muốn làm gì cũng được nhưng ngay lập tức thì không thể làm Seft, em phải trải qua một thời gian và hãy tỏ rõ năng lực của mình bằng hành động, nhiều khi nếu em thể hiện ngay dễ gây phản cảm từ đồng nghiệp. Việc này có cơ sở đấy . Em là người rất có năng lực, phải một điều : Em tôi ngay thẳng quá mà trong xã hội này việc ngay thẳng quá đôi khi dễ bất đắc chí. Vì vậy nếu em chuyển ra kinh doah độc lập thì không những không phải phụ thuộc chồng mà bất cứ điều gì em cũng tự quyết tự làm được. Em có đầu óc kinh doanh phán dooans chính xác: Ví dụ cổ phiếu, giá vàng , USD em sẽ phán đoán tốt. Nhưng có điều khi đó em sẽ lúc được lúc mất, em nên cẩn thận một chút , và quyết đoán một chút, Số em ra ngoài ngoại giao tốt đay chính là điểm mà em có thể kinh doanh nhưng muốn giữ được tiên phải ngoài 45 tuổi. sau này nếu em làm ăn tốt mời anh một chén nước chè OK!1 like
-
Thông thường 1 cán bộ thanh liêm khi bận việc quan đã lãng việc nhà, nay một người như Cô PTBH việc của nhân dân mênh mông con người cần, ai cũng muốn mình sớm tìm được người thân lưu lạc đâu đó lại càng bức bách, sao cô có thể khước từ thế là ngày qua tháng qua lại lỗi đạo với gia đình riêng, mấy ai hiểu sự hy sinh thầm lặng? Cá nhân tôi nghĩ đây là sứ mệnh thiên định, có chuyên môn học vị chưa hẵn đã đảm được việc thiêng liêng này đôi khi áp lực xã hội công việc còn trùng trùng nhìn lại thấy mình thiếu sót với gia đình Cô đã có suy nghĩ dừng, nhưng tôi hy vọng Cô thu xếp việc nhà bù đắp bổn phận người vợ người Mẹ và quay lại vì những tử sĩ bơ vơ những người thân đau đáu mong chờ. Tôi linh cảm hay đúng hơn là tôi tin cô sẽ lại ra tay độ thế nhân.1 like
-
lấy vợ hãng lo đến sự nghiệp; Cố cưa cẩm thành công nhé. he he he Báo trước là tình 1 và 2 khó thành công.1 like
-
Bạn mua đất nhà chắc cũng phải nhờ anh em trong nhà . nhưng sau có thể phải bán một lần, Sau này thì cũng có nhà cao cửa rộng. Số bạn nên buôn bán hoặc kinh doanh thì tốt, còn làm công chức thì bất đắc chí số ngoài 40 thì được hoạnh tài , phúc đức nhà bạn tốt nên chắc là tai cũng qua nạn cũng khỏi thôi1 like
-
1 like
-
ý của quý anh là gì? ở đây, những người coi bói đều rất thật đấy, bói nhầm là khổ tâm lắm, bói láo là thất đứt nên chẳng ai nói càn đâu nhé.1 like
-
QC số vợ chồng bạn nên sống chồng nam vợ bắc thì được còn sống gần nhau e không được bền lâu( QN nói là theo lá số nhé, đúng hay không đúng, bạn không nên bận tâm). Bởi QN cũn là người thẳng thắn khoomg ngại khó khăn. Việc làm ăn của bạn khá bấp bênh , khi lên khi xuống , Tiền vào nhiều thì ra cũng nhiều. Nhà bạn anh chị em có ai chết trẻ không(hoặc mẹ có làn nào sảy)nếu không thì trong anh em bạn phải rất cẩn thận. Rất may là bạn đã ăn chay, làm điều phúc thiện cũng sẽ giải bớt nhiều hung họa. Bạn ra ngoài có số đào hoa có nhiều đàn ông con trai theo đuổi1 like
-
Nhà chị nên sinh con năm Sinh năm Nhâm Thìn 2012 hoặc Quý Tỵ 2013. Sau này sức khỏe người mẹ sẽ suy giảm nhưng gia đình sẽ khá hơn bây giờ, có điều kiện bồi bổ cho người mẹ!!!1 like
-
Không, xét thì xét cả cha mẹ, xét thiên can, địa chi và mạng. Âm mộc thì chắc chắn ko sinh âm mộc, cùng hành thì không sinh. Âm sinh âm vd như kỷ âm thổ sinh tân âm kim. Mão dậu là trực xung. Địa chi có Lục xung, Tứ tuyệt, lục hại... tam hợp nhị hợp..1 like
-
Số em vất vả . vợ chồng hình khắc, hay cãi nhau vợ hoặc chồng ghen nhau mà dẫn đến chia lìa. tính em nóng nảy. (tính này không tốt đối vớiphụ nữ) em hãy thay đổi tính nết đi học lấy cái TỪ BI,HỈ,XẢ - Nếu muốn nghe những lời khuyên chân thật .1 like
-
Khất lại chị nhé. Em mệt wá rùi :D1 like
-
đã nhận được mail của anh. Anh đợi nhé, tuần sau sẽ trả lời cho anh Thân mến1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
Khí Công Dưỡng Sinh Từ Thiện Nhằm giúp cho mọi người lợi lạc về sức khỏe, niềm vui và tâm hồn, Đại Sư Huynh Nguyên Hà sẽ trực tiếp hướng dẫn luyện tập và thị phạm hành công trong 2 tuần, từ ngày 15/11/2010 đến 26/11/010, tại Tp HCM. Chương trình: Mục đích: Trị bệnh, gia tăng sức khỏe. Hình thức: học tập trung và miễn phí hoàn toàn. Thời gian: Từ thứ 2 đến thứ sáu của 2 tuần 15/11/2010 và 26/11/2010. Giờ học: từ 19g00 đến 20g30. Địa điểm: Trường Nguyễn Bỉnh Khiêm gần Thảo Cầm Viên Tp HCM. Quý vị biết thông tin này, cũng nên cho những người bệnh, những người muốn cải tạo sức khỏe cùng biết, đây cũng là một cách làm từ thiện cụ thể, lợi lạc cho đồng bào. Thiên Đồng1 like
-
Năm sau học hành thi cử vất vã lắm hãy cố gắng thật nhiều xem thế nào .1 like
-
Ông bạn biết sang năm hoạnh phát tài danh rồi còn gì, sao phải lăn tăn -> buôn gì cũng kiếm bộn tiền, miễn pháp luật ko cấm :D1 like
-
Chuẩn :D , năm sau 29T rơi vào cung mệnh1 like
-
Ly Kỳ Tảng đá Thèm Thịt Người ở Hòa Bình “Nhất thiêng đền Lu, thứ hai Bục Cả, thứ ba Khụ Khêng”- người Hòa Bình đến giờ vẫn truyền dạy cho con cháu câu nói ấy như một lời nhắc nhở. Khụ Khêng - Đình Khêng ở Mường Khêng (huyện Lạc Sơn) thờ ông Chưởng Tín, bà Triệu Ân. Theo tín ngưỡng dân gian của người Mường đây là nơi thu nạp hồn, vía các loại ma chết non, chết đột tử, chết vì dao kiếm. Dạ Há được người dân đặt tên cho hòn đá tự nhiên, cao chừng 1m, chân đế đường kính khoảng 1m nằm ngay ở chân núi. Còn trong các câu chuyện dân gian Mường thì Dạ Há là con vật ác, con vật này thường ăn thịt người. Tượng Dạ Há ở phía Đông Nam so với nhà đình, ngay cạnh sân đình. Người Mường thường cúng bằng cách vần tượng Dạ Há vào ngày mở hội. Ông Bùi Văn Nhưởng, người Mường xóm Mận năm nay đã gần 80 tuổi, sống ở xã Văn Sơn (Lạc Sơn) kể ba năm làm hội một lần trên núi Khêng vào tháng rằm tháng hai lúc trăng non: Hội vui lắm, mổ một trâu, một lợn cả làng lên núi ăn trong hai ngày hai đêm. Trước hội là lễ múc nước cho vua ở giếng tại ruộng Tình Khêng. Bình thường mùa hạn giếng này không hề có nước, chỉ có một lỗ nhỏ như lỗ cua. Bố tôi sai tôi đi lấy đất để be xung quanh cái lỗ đấy lên, tôi bảo: “Có quái gì nước mà be hở bố?”. Bố tôi lừ mắt bảo: “Cứ ra mà làm”. Ban ngày tôi ra đắp, be giếng tử tế. Mười hai giờ đêm hôm đó, bố tôi bảo ra lấy nước về đóng rượu cần cho vua uống, tôi cãi, ban ngày ra be bờ giếng có nước đâu, bố tôi bảo cứ ra mà lấy. Ra đến nơi, kỳ lạ thay nước đầy và trong vắt, mát lắm… Hòn Dạ Há xưa kia có chiếc lưỡi bằng đá to bằng cái dép tông, về sau bị người nào nghịch ngợm lấy mất. Trước hội, dân làng treo tảng thịt lợn vào cổ tảng đá, lấy bốn cái đòn buộc bằng chão chòng vào. Nhà thầy cúng sau khi gieo quẻ âm dương, ông Dạ Há muốn quay hướng nào đông, tây, nam, bắc thì quẻ phải một sấp một ngửa. Gieo quẻ xong ông thầy cúng khấn: “Hôm nay ông muốn đi ăn hướng nào?”. Bốn thanh niên khỏe cầm đòn xoay hòn đá. Mồm Dạ Há quay hướng nào thì hướng đó người hay bị ốm đau, chăn nuôi súc vật, trồng trọt hay bị dịch bệnh. Lạ nữa là xã mình không bao giờ bị nhưng các xã khác là bị. Năm đấy quay về hướng Thượng Cốc, ở đó bệt quá, không làm ăn gì được, sợ quá họ bèn cử nhiều người lên quay trộm. Quay mãi cũng không được, cho Dạ Há ăn thịt cũng không quay được…Lúc đó tôi chưa vợ, cũng được cử ra để quay đá. Có nhiều người đã thử xoay khi không cúng, không cho Dạ Há ăn thịt lợn thì không thể xoay được. Còn cúng rồi, cho ăn thịt rồi bốn người quay dễ, chỉ nặng hơn cối xay lúa một ít. Ở núi Khêng còn có ngôi chùa thiêng lắm. Hồi trước có một anh du kích ở Tân Lạc bị Pháp bắn gẫy chân, máu chảy chạy bò lê vào gần nhà chùa, khấn: “Các ngài thương con không chạy được chỉ có chết”. Pháp cứ theo vết máu mà tìm nhưng cuối cùng không biết đi đâu vì không còn dấu nữa. Hôm sau hai anh em trong tổ tam tam cáng anh du kích đi khỏi chùa”. Ngoài lễ lớn ba năm một lần, hàng năm lễ nhỏ vào rằm tháng hai, tháng bảy, tháng tám mỗi nhà cúng một con gà hoặc góp tiền làm một con lợn cúng xong, ăn luôn. Người dân thường trồng ngô, trồng lúa. Mường Khêng có hai cánh đồng Bàn Cờ và đồng Khêng. Vào hai thời điểm rằm tháng hai và rằm tháng bảy nông nhàn trời cũng ít nắng, mưa nhiều thuận lợi cho sâu bọ phát triển. Người Mường hay nói đây là thời điểm “chổ cảnh rôi ke” nghĩa là châu chấu cắn, sâu ke cắn. Nhẹ thì vàng lụi lá, nặng thì đổ cây ngổn ngang. Tháng bảy, lúa vừa lên một gang, sâu bọ xuống ăn lúa,có năm ăn nhiều lắm. Mỗi khi như vậy ông từ Cố ở chùa Khênh họp dân làng lại và bảo: “Năm nay mùa màng sâu bọ nhiều quá, phải cúng các ngài để sâu bọ khỏi phá”. Mỗi nhà cúng một con gà. Làm xong buổi chiều, tối ngủ một giấc, sáng mai ra chim sáo ở trong núi đá bay ra đầy đồng đã nhặt hết sâu bọ. Tôi theo cách mạng nhưng điều này lại tin vì chính mắt mình thấy có nhiều chim sáo về nhặt sâu vậy. Lại nói về hội. Hội khi đó đông người tham gia lắm! Họ kéo một dải vải dài cỡ 20 mét có bốn chữ nho “Bình yên thiên bảo” cầu bình yên, no ấm đi xung quanh cái chùa Khêng. Thầy nho đi trước, thầy cúng đi thứ hai, những người cầm lọng, cầm cờ và dân đi sau rốt. Hòn đá xoay từ hồi kháng chiến chống Pháp là không mở hội, không xoay nữa, ngay cả cái đình giờ cũng bị san phẳng. Anh Bùi Văn Mẩng nhà ở gần cái giếng xưa bảo có tới 3 cái lỗ giếng là giếng Biệng, giếng Khường, giếng Lở Lác. Giếng Lở Lác ai mà tắm y như rằng bị lở, lác toàn thân. Giếng Khường để lấy nước cúng vua trong lễ hội. Chính mảnh đất có giếng nhà anh Mẩng, chính anh đào ao, lấp giếng rồi chặt những cây si, cây duối cổ thụ xung quanh giếng. Tự dưng gia đình lục đục, con cái ốm đau, sợ quá, anh Mẩng bèn đem mảnh đất cho chị Quách Thị Chiên là chị dâu họ làm nhà, sinh sống. Cứ như lời chị Chiên: Việc làm ăn cứ vào rồi lại ra hết còn sức khỏe của cả nhà cứ lao đao. Ngay như tôi lúc đau đầu, lúc mỏi chân tay, khi quặn ruột còn chồng tôi cũng bị tai nạn mất năm 2003. Đi xem thầy hết thầy nọ đến thấy kia người ta bảo đó là phạm vào giếng thiêng nên phải chuyển nhà đi, nhưng biết chuyển đi chỗ nào, nhà thì mới xây làm sao nhổ đi được. Sát chỗ cái lấp mấy cái giếng tôi cất cái chuồng lợn, nhưng mua lợn về nuôi thế nào về sau nó cũng chỉ bằng ấy, chậm lớn lắm! Các ô chuồng cách cái giếng mấy mét thì lợn cũng lớn gọi là tạm được. Chị Chiên kể tiếp: Một câu chuyện kỳ lạ chính mắt tôi chứng kiến là cách đây hơn hai năm, khi tết tôi mổ một con lợn trên 30 kg ở cạnh cái giếng đào trong sân, lúc mổ giếng còn đầy tràn nước, chưa cạo xong lông lợn thì bơm không lên nổi một giọt vì đã cạn ráo tự lúc nào. Sợ quá tôi nhờ bà mỡi (một dạng thầy cúng) Bùi Thị Ninh ở cùng xóm cúng một lúc, nước lại dâng lên đầy, lại cạo lông, mổ lợn tiếp. (Theo NNVN)1 like
-
Tin từ trung tâm khí tượng thủy văn trung ương. http://www.nchmf.gov.vn/web/vi-VN/104/23/6673/Default.aspx +Bão - Áp thấp nhiệt đới TIN THỜI TIẾT NGUY HIỂM Hồi 13 giờ chiều nay (3/11), vị trí trung tâm vùng áp thấp ở vào khoảng 12,0oN - 14,0oN; 111,0oE – 113,0oE trên khu vực biển ngoài khơi các tỉnh Quảng Nam – Khánh Hòa. Dự báo trong 24 giờ tới, vùng áp thấp này di chuyển chậm theo hướng Tây. Do ảnh hưởng của hoàn lưu vùng áp thấp kết hợp với đới gió đông bắc mạnh và nhiễu động trong đới gió đông trên cao, ở khu vực Bắc và giữa Biển Đông (bao gồm cả vùng biển quần đảo Hoàng Sa), vùng biển ngoài khơi các tỉnh từ Quảng Trị đến Khánh Hòa có gió mạnh cấp 7, có lúc cấp 8, giật cấp 9 – 10 và có mưa dông mạnh. Biển động rất mạnh. Trong cơn dông cần đề phòng có lốc xoáy và gió giật mạnh. Ở các tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Khánh Hòa có mưa vừa, mưa to đến rất to. Cần chú ý theo dõi diễn biến thời tiết và thủy văn trong các bản tin tiếp theo. Tin phát lúc: 14h30 Dự báo của chúng tôi đường đi của vùng áp thấp này1 like
-
anh xem có phải cách tính này không nhé, đại hạn người này đang nằm trong thời kỳ 22 - 32, tức cung thê, khi đó tính tiểu hạn các năm thì mình chiếu sang cung đối diện, thì 23 ứng với cung quan lộc nhưng vì là âm nam nên mình tính tiếp thì lùi lại 1 cung và tính theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, thì 24 sẽ dơi vào cung nô, 25 - cung quan lộc, 26 - cung điền trạch, 27 - cung phúc đức, 28 - cung phụ mẫu, nếu tính sang năm thì người này phải là 29T (cả tuổi mụ) thì phải ứng với cung mệnh chứ ạ, mấy cái cách tính này em chưa hiểu lắm, mong anh và mọi người chỉ bảo1 like
-
Vậy bạn sinh giờ Tỵ rồi.1 like
-
Mở quán ăn khang trang, lịch sự / Buôn bán BĐS. ntpt chỉ nói linh tinh không có cơ sở :(1 like
-
Sang năm chuyển là đẹp rồi , tuy nhiên có hao tài tốn của một chút nhưng sao người HN mà lại rời HN. Sang năm tuy có một số sao xấu nhưng phù tinh cũng nhiều . Yên tâm đi cô bé1 like
-
Ở đây có lẽ anh Thiên Sứ lộn! Nguyễn Bặc là công thần của Đinh Tiên Hoàng, nổi dậy chống Lê Đại Hành.Theo tôi biết, trong thời Trần Thủ Độ, chỉ có 2 cuộc nổi dậy của Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn là đáng kể, không kể các cuộc binh biến của Quách Bốc, nhưng đều chống nhà Lý và bị Trần Thủ Độ trấn áp thành công. Khi nhà Trần thay nhà Lý, hầu như không có cuộc nổi dậy nào lớn. Hoàng tử Lý Long Tường là người tài giỏi. Ông được vua Trần Thái Tông phong chức: Thái sư Thương trụ quốc, Khai phủ Nghi đồng Tam ty, Thượng thư Tả bộc xạ, lĩnh Đại đô đốc, tước Kiến Bình Vương. Đương nhiên phải bị Trần Thủ Độ dè chừng, kiềm chế nhất cử nhất động. Cái đó là khách quan, không thể trách Thủ Độ được. Hơn nữa, ông vượt biển ra đi mang đồ thờ cúng, vương miện, áo long bào và thanh Thượng phương bảo kiếm truyền từ đời Vua Lý Thái Tổ cùng sáu ngàn gia thuộc qua cửa Thần Phù, Thanh Hóa chạy ra biển Đông trên ba hạm đội, rất là rầm rộ. Trần Thủ Độ không thể không biết. Nhưng Trần Thủ Độ không hề ngăn cản, có lẽ ông cho rằng đó là giải pháp tốt nhất cho cả ông và Lý Long Tường, nếu không, sớm muộn cũng dẫn đến một cuộc thư hùng có hại cho đất nước. Điều này chứng tỏ ông là người sáng suốt, đức độ, vì đại cục và không tàn bạo. Tôi cho rằng, việc Trần Thủ Độ tàn sát tôn thất nhà Lý là không có thực. Có thể kẻ nào đó trong tôn thất nhà Lý muốn chống lại ông thì tất yếu ông phải xuống tay. Đó là cần thiết và hợp lý, nhưng tuyệt đối không có chuyện ông lạm sát bừa bãi. Một người lãnh đạo tàn bạo, lạm sát nhiều người vô tội không thể không để lại di chứng cho thể chế mình gây dựng nên. Như Tào Tháo gian hùng là thế, khôn ngoan sáng suốt, nhìn xa trông rộng mà không tránh được họa Tư Mã Ý ngay trước mắt. Nhà Trần rất hùng mạnh, bền vững và đoàn kết được toàn dân. Trong cả 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông, không một người họ Lý nào vì phẫn nộ với nhà Trần lạm sát mà theo hàng giặc để báo thù cả, ngược lại, một số người có công được phong thưởng. Thế mà tôn thất nhà Trần thì không ít kẻ phản bội! Đại Việt sử ký, không chỉ có chuyện này mà còn nhiều vấn đề, nhiều chuyện khác cần phải xem xét lại tính khách quan. Tôi cho rằng, đặt vấn đề như bài viết trên là đúng đắn. Nhưng để thuyết phục cần có nghiên cứu sâu rộng hơn.1 like
-
Một giả thuyết khoa học được coi là đúng thì nó phải giải thích một cách hợọ lý hầu hết các vấn đề và hiện tượng liên quan đến nó một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính hệ thống, tính khách quan, tính qui luật và khả năng tiên tri. Giả thuyết này chỉ giải thích có giới hạn những hiện tượng mà nó nếu ra. Các hiện tượng cần giải thích tiếp theo là: Hoàng Tử Lý Long tường vượt biển lánh nạn sang Cao Ly. Tại sao? Các tướng trung thành với nhà Lý nổi dậy chống nhà Trần - Thí dụ Nguyễn Bặc. Tại sao? Còn nhiều hiện tượng và v/d khác nữa cần lý giải để chứng minh cho giả thuyết trên là đúng.1 like
-
Hai người dân ở Lục Yên, Yên Bái tìm thấy hai thanh kiếm cổ. Một tìm thấy trong hang trên núi Chuông. Một tìm thấy ở dòng suối trên núi Lung Chạng. Từ ngày tìm thấy hai thanh kiếm ấy, hai người này gặp phải nhiều chuyện bí ẩn chưa thể giải thích nổi. Kiếm người âm hại người dương Một cán bộ xã Tân Lĩnh dẫn tôi đến gia đình bà Nguyễn Thị Hoa. Bà Hoa cho biết: Vào năm 2004 chồng bà là Đỗ Văn Ngự đã tìm thấy thanh kiếm cổ trong hang đá trên núi Chuông. Ông Hoàng Ngọc Chấn, chủ tịch UBND xã Tân Lĩnh cho hay: Dưới chân núi Chuông có làng Chuông, tên này không biết các cụ đặt từ bao giờ. Làng Chuông có 3 thôn: Hin Chạng, Roong Chuông và Chuông ính. Bà Nguyễn Thị Hoa, vợ ông Ngự tâm sự: Tôi chưa được tận mắt nhìn thấy thanh kiếm cổ mà ông nhà tôi tìm thấy trong hang đá trên núi Chuông, chỉ được nghe ông ấy kể lại: Hôm ấy một mình ông vào trong hang đá, vì nghe mọi người nói trong hang đá người xưa để rất nhiều đồ thờ cúng. Ông ấy vào trong hang đá để tìm các đồ cổ bán kiếm tiền. Núi Chuông - nơi ông Đỗ Văn Ngự đã tìm thấy thanh kiếm cổ trong hang đá.Hang đá nằm trên lưng chừng núi và rất sâu, trên làn đá cao thấy nhiều đồ cúng như bát đĩa, bình hương... ông ấy chỉ lấy mỗi thanh kiếm mang về. Vốn nhát gan nên không dám mang về nhà mà đưa cho hai người tên là Hải và Hoà cất giữ. Tôi cũng chả biết hai người bán được bao nhiêu, nghe nói có cho ông Ngự nhà tôi mấy chục ngàn. Từ sau khi nhặt được thanh kiếm đó, tiền chẳng thấy đâu còn gia đình tôi thì gặp bao nhiêu là chuyện chẳng lành: Trâu đang buộc trong chuồng tự nhiên sùi bọt mép lăn đùng ra chết, lợn gà chết dịch không còn một mống. Ông nhà tôi thì đổ đốn ham mê cờ bạc, rượu chè. Tìm được thanh kiếm năm trước thì năm sau ông ấy bị ngã bệnh mất. Bệnh viện bảo ông ấy chết vì bệnh phổi. Đứa con gái lớn nhà tôi đang yên đang lành thì bị một thằng đàn ông đã có hai con lừa làm vợ. Lại còn lừa vào tận trong Nam, nuôi con nó công cốc, còn mình thì chẳng sinh nở gì. Năm rồi nó bỏ ra đây rồi xin vào làm trong Công ty Hùng Đại Dương. Vào đó làm một thời gian rồi "xin xỏ" mãi mới kiếm được thằng cháu trai này bác ạ. Khổ quá, chả biết nói thế nào cho hết được nỗi khổ. Người trời mách nước tìm kiếm cổ Anh Triệu Văn Chanh, dân tộc Tày thôn Thâm Luy, xã Lâm Thượng là người tìm thấy thanh kiếm cổ thứ hai. Ông Hoàng Văn Thành, phó chủ tịch UBND xã dẫn tôi đến nhà anh Chanh, ông cho hay: Tôi với anh Chanh là anh em họ đấy. Năm ngoái anh Chanh tìm thấy thanh kiếm cổ khi lúa đã xanh đồng. Anh Chanh đi vào Nam làm ăn từ trước Tết, chỉ có mình chị vợ ở nhà thôi. Chị Nguyễn Thị Lúi vợ anh Chanh bảo, anh Chanh đi đâu làm ăn từ năm ngoái, Tết cũng không về. Nghe nói anh Chanh có một lần gọi điện về nhà người anh em, nhưng máy khoá hai chiều nên chẳng nghe được gì cả. Anh Chanh không gửi tiền cho gia đình. Thanh kiếm cổ thứ hai.Tôi hỏi việc anh Chanh tìm được thanh kiếm cổ như thế nào, ở đâu? Chị Lúi bảo: "Chả biết thế nào đâu! Hôm ấy ngủ dậy nó chuẩn bị đồ để đi đâu đó. Tôi hỏi đi đâu thì chỉ bảo: Tôi đi có việc đừng hỏi làm gì. Thế là nó đi lên núi Lung Chạng trên kia đấy. Cũng chả biết nó lên đấy làm gì, hôm trước nó cũng đi lên đấy rồi. Sau khi lấy được thanh kiếm về nó mới kể cho mọi người nghe, đêm trước nó nằm mơ gặp được ông tổ họ Triệu, râu tóc bạc phơ như người trên trời. Ông tổ mách trên thát (thác nước trên cao) ở chỗ cao nhất có rùa vàng. Cụ tổ bảo nhìn kỹ mới thấy, nếu thấy con thứ nhất rồi sẽ thấy con thứ hai, con thứ ba. Nó mang về rửa, thấy mọi người trong thôn tới xem đông lắm, vợ bảo vứt đi. Nó lại mơ nhặt được chiếc bật lửa to bằng vàng, cụ tổ bảo không được vứt đi... Sáng hôm sau nó dậy một mình đi lên núi, tìm mãi không thấy rùa vàng, nó cạy hòn đá thì thấy thanh kiếm nằm ngang suối. Nó mang về đến nửa đường sợ không dám mang về mà giấu vào bụi cây, nói chuyện với em chú và dượng của nó. Mọi người bảo cứ mang về đi, hôm sau nó mới lên núi mang kiếm về, đặt ở đây mọi người đến xem đông lắm. Em không dám động vào thanh kiếm, sợ mà..." Chém đá, lưỡi kiếm không quằn Ông Nguyễn Quang Long, phó phòng Văn hoá huyện Lục Yên kể lại việc đi thu chiếc kiếm cổ do Triệu Văn Chanh tìm thấy: "Nghe cậu Chanh nói chuyện, tôi thấy anh ta đầu óc có vẻ không bình thường. Anh ta kể lại việc tìm thấy thanh kiếm qua giấc mơ, khi lấy được về có người ở thị trấn Yên Thế trả 30 triệu đồng, anh ấy và dòng họ không bán, bảo để giữ lại. Sau đó lại đồng ý cho huyện mang về bảo tàng..." Thanh kiếm cổ tìm thấy ở núi Chuông dài chừng 80cm, bản rộng gần 3cm, đã mất chuôi, nước thép còn rất tốt, người ta đã thử chém vào đá nhưng lưỡi kiếm không quằn, không mẻ. Lưỡi kiếm tìm thấy trên thác nước núi Lung Chạng, dài chừng 1,2m, giống thanh long đao, bản kiếm chỗ rộng nhất gần 5cm, có hai đường rãnh chạy song song dọc thân kiếm, gần chuôi có khắc chữ nổi, nhưng do để lâu trong nước bị han gỉ nên không nhìn rõ chữ, trên sống lưng có mấu như vây cá, chuôi bằng gỗ bọc thép, lớp gỗ bên trong một phần đã mục, phần còn lại thì vẫn rất chắc, kiếm nặng khoảng 3kg. Cho đến lúc này hai thanh kiếm chưa được các nhà khoa học giám định, nên không biết nó xuất hiện từ thời nào. Quanh chuyện hai thanh kiếm cổ tìm thấy ở Lục Yên có nhiều điều bí ẩn. Núi Chuông đứng độc lập giữa cánh đồng. Vì có hình dáng như quả chuông nên người dân mới gọi là núi Chuông. Một số người dân tộc Tày cho biết, trên núi Chuông có hang đá khá sâu, khi gió thổi qua tạo thành âm thanh nghe binh bong tựa như tiếng chuông chùa. Tiếng Tày còn gọi núi Chuông là Đán Đình, nghĩa là nơi thờ cúng của người dân. Các cụ từ xa xưa truyền lại: Núi Chuông là nơi thờ tự rất linh thiêng, bất kể ai đi qua núi Chuông đều phải hạ nón mũ, cũng như khi đi qua núi Vua Áo Đen, nếu ai không hạ mũ nón ắt sẽ gặp chuyện chẳng lành.1 like
-
Sư phụ đã đến tận nhà hàng để thưởng thức rồi và sư phụ có cả một bài viết về nhà hàng này đấyThân mến1 like
-
Đi nhà hàng, ngắm cổ vật Đông Sơn 12 chiếc trống đồng lớn nhỏ, có trống còn nguyên vẹn, có trống đã mất một phần tang trống hoặc sứt chân. Có trống được cho là có niên đại 2.000 năm, có trống 2.200 năm và có trống tới 2.300 năm. Chúng được trưng bày trong một “nhà hàng - bảo tàng” chưa từng có ở Hà Nội. Ngoài cả tá trống đồng, bộ sưu tập này còn bao gồm hàng trăm cổ vật được cho là có niên đại trước cả văn hóa Đông Sơn, từ Phùng Nguyên đến Đồng Dậu, Gò Mun. Đó là hàng trăm di vật như rìu đá, đồ trang sức: vòng tay, hoa tai, bùa và dao đeo cổ. Có di vật nhỏ xíu như kim đá, lưỡi câu đồng. Có di vật tinh xảo nhỏ xinh như vòng đeo tay, đeo chân và trâm cài tóc, khuyên tai. Có di vật tinh xảo nhưng lớn hơn như tượng người nam nữ hoặc dao găm có cán khắc tượng người đàn bà mặc lễ phục và đeo hoa tai, dao găm có cán khắc tượng hai người đàn ông cầm đèn, dao găm có cán khắc tượng người đàn bà cõng người đàn ông, dao găm có cán khắc tượng người đàn ông cầm rìu và thổi kèn. To hơn thì là lẫy nỏ, chuông đồng, tấm che ngực, dao ngọc, kiếm ngọc. Chủ nhân của bộ sưu tập, ông Nguyễn Đại Dương - Giám đốc nhà hàng Trống đồng Đông Sơn (số 1 Trần Đăng Ninh, Hà Nội) đều nhờ đến sự cộng tác của các chuyên gia trong ngành khảo cổ học để xác định niên đại của từng trống đồng cũng như các di vật khác. Ông đã có một “thông báo” chính thức, kêu gọi sự góp ý của những ai quan tâm tới cổ vật thuộc nền văn hóa Đông Sơn: “Để đảm bảo uy tín của nhà hàng cũng như sự trưng bày cổ vật được khách quan trung thực. Chúng tôi kính mong quý vị giám định cổ vật được trưng bày tại nhà hàng. Nếu quý vị chứng minh được hiện vật nào là giả cổ, chúng tôi xin kính biếu 10.000 USD cho mỗi hiện vật được chứng minh là giả cổ (với bằng chứng khoa học hoặc vật đối chứng cụ thể). Thời gian nhà hàng hỗ trợ quý khách giám định cổ vật từ 15 - 20 giờ các ngày trong tuần (trừ chủ nhật và ngày lễ)”. Chỉ là bộ sưu tập của cá nhân và những cổ vật được trưng bày gói gọn trong một không gian cũng tư nhân song đa dạng và trân trọng nên nhà hàng Đông Sơn thu hút nhiều sự quan tâm của những nhà khảo cổ và giới nghiên cứu sử học. Tất nhiên bộ sưu tập làm nhiều người bất ngờ. PGS.TS khảo cổ học Lâm Thị Mỹ Dung - Giám đốc Bảo tàng Nhân học cho biết bộ sưu tập này “đẹp, độc đáo, nhiều hiện vật lần đầu tiên được nhìn thấy”. Bà chỉ lưu ý những chỉ dẫn về niên đại cần cẩn trọng, đặc biệt cần xem xét kỹ hơn về niên đại và xuất xứ của hiện vật đá tiền Đông Sơn. Chú thích niên đại của nhiều hiện vật cũng làm TS. Bùi Văn Liêm, Thư ký Hội đồng khoa học - Viện Khảo cổ học có lưu ý tương tự sau khi nhận xét: “Trang trí xếp đặt hiện vật chứng tỏ chủ nhân có đầu tư lớn và tham khảo nhiều bảo tàng trên thế giới. Sưu tập hiện vật nguyên vẹn, đẹp song cần đầu tư nghiên cứu thêm về niên đại”. PGS.TS khảo cổ Phan Minh Huyền cũng khuyên: “Để thật chính xác về niên đại và giá trị của từng hiện vật, nên chia thành từng nhóm đồ và nhờ các chuyên gia giám định”. PGS. TS Trịnh Sinh - Viện Khảo cổ học cũng chân thành khen “nhiều hiện vật quý giá” nhưng “cần giám định lại một số hiện vật”. Nhiều chuyên gia cũng tỏ ý sẵn lòng giúp vị chủ nhân ngoại đạo với ngành khảo cổ và cổ vật giám định hiện vật. Chẳng hạn TS. Nguyễn Văn Việt - Giám đốc Trung tâm tiền sử Đông Nam Á ngỏ ý: “Nếu cần, tôi sẵn sàng giúp giám định các hiện vật đồng Đông Sơn và gốm các loại”. TS.Ngô Thế Phong, chuyên gia về thời đại đá, nhà khảo cổ - Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng sẵn lòng giúp giám định, thời gian do chủ nhân bộ sưu tập tự bố trí. Ông Nguyễn Đại Dương vẫn đang âm thầm sưu tập thêm những cổ vật Đông Sơn, tiền và hậu Đông Sơn với một niềm tin mãnh liệt: “Có thể mất hàng năm, chục năm hoặc lâu hơn nữa để chứng minh những cổ vật bằng đá được trưng bày trong bộ sưu tập cá nhân của tôi là của tổ tiên người Việt thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Dậu, Gò Mun - chính là nền tảng hun đúc nên nền văn minh Đông Sơn, nền văn minh đánh dấu sự ra đời của nhà nước Văn Lang Âu Lạc, nhà nước đầu tiên của các vua Hùng. Nhưng tôi luôn tin rằng chân lý vẫn đang ở phía trước, và những cổ vật trong bộ sưu tập này sẽ cất lên tiếng nói về giá trị lịch sử của nó”. Hải Nguyệt Việt Báo (TheoThanhNien)1 like
-
Khoa Đẩu Tự?
lukhach liked a post in a topic by PhucTuan
Gửi người tạc tượng Alexandre De Rhodes (1) Lời HLT: Việc nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng hiến tặng tượng Alexandere de Rhodes cho Thủ đô Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long lịch sử đã dấy lên nhiều tranh luận trong và ngoài nước dạo gần đây. Ngày 18/8, HLT có nhận email và bài viết của nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc về vấn đề này. HLT lần lượt đăng tải loạt bài viết mang tính nghiên cứu nghiêm túc của tác giả Trần Vân Hạc. Rất mong bạn đọc lưu tâm theo dõi. Và đây là bài đầu tiên trong số loạt bài viết ấy. Hân hạnh giới thiệu quý bạn đọc xa gần. Trên Báo Văn Nghệ của Liên Hiệp các Hội văn học nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh, số 69 trang 17 có bài của Trí Nhân: “Suy nghĩ từ một… bức tượng”, viết về công trình của nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng đã dày công tạc tượng Alexandere de Rhodes bằng đã hoa cương trắng, nặng tới 43 tấn và sẵn sàng hiến tặng Thủ đô Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long lịch sử và vai trò của nhân vật Alexandere de Rhodes. Tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm của tác giả, rất tôn trọng lao động sáng tạo của nhà điêu khắc và xin nói rõ thêm về vấn đề này. Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài ở Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Gần đây Nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và giáo dục thời Hùng Vương, do nhà văn Khánh Hoài - Đỗ Văn Xuyền lãnh đạo đã có những khám phá rất quan trọng. Một trong những kết quả nghiên cứu của Nhóm là phát hiện ra một bộ chữ Việt cổ được lưu giữ ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Các nhà khoa học cho rằng văn tự này có thể là một biến thể của chữ “Khoa đẩu” hay “Hoả tự” đã ghi trong cổ sử. Thứ chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt - Mường. Do không được sử dụng phổ biến, bộ chữ này bị đóng băng, không phát triển theo kịp những biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại. Đến thế kỷ 16 khi đạo Thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Theo nhà nghiên cứu chữ Việt cổ Đỗ Văn Xuyền: “Trước và sau Alexandere de Rhodes đã có hàng chục cuốn tài liệu và từ điển của nhiều tác giả. Chữ quốc ngữ ở đấy có cấu trúc lạ như: - São le - song le, Tỏ tuầng - tỏ tường (Sách giảng tám ngày của Alexandere de Rhodes) - Đàng lão - đàng trong, Đàng ngoày - đàng ngoài (A .palmeiro 1632) - Lạc Lão Cuôn – Lạc Long Quân), Thần Nõu – Thần Nông (Iginio Văn Tín 1659) Đặc biệt trong từ điển Việt Bồ La có hàng nghìn từ như vậy: Lão - Long, Suấy - suối, Thic Ca - Thích Ca, Sống mũy - sống mũi…” Alexandere de Rhodes là người biết nhiều ngoại ngữ, tại sao không dùng tiếng Pháp hay Ý hay một ngôn ngữ khác mà lại viết như vậy? Ngay trong mấy vạn từ của cuốn từ điển Việt Bồ La, riêng phần chữ Việt có 6088 từ (vần C có 658 từ, vần T có 785 từ, vần E có 12 từ, vần F 1 từ)…) Trong số này Đàng trong chỉ có 11 từ, còn lại là các từ Đàng ngoài. Trong số các từ Đàng ngoài lại thể hiện sự đặc trưng ngôn ngữ của các vùng khác nhau: Tlàng học, hạoc tlò, tlợn mắt, vỏ tlấu… là ngôn ngữ của vùng Thái Bình. Còn những từ: Đánh phết, sâu rọm, mẹ na con, làm rốn, ghe gà, đi bến, đi sông… lại của vùng trung du Bắc bộ... “Đặc biệt những từ rất tục của riêng từng vùng, chỉ những người địa phương thật thân nhau mới nói ra, được ghi lại trong từ điển ấy chứng tỏ có một nhóm trí thức địa phương đã góp cho từ điển Việt Bồ La một ngân hàng chữ như vậy. Nếu một trí thức Việt Nam, dù ở trình độ nào cũng không đủ sức làm như vậy, chứ chưa nói đến các giáo sỹ phương tây, chưa thạo tiếng Việt lại không có điều kiện đi sâu vào các địa phương” - Đỗ Văn Xuyền. Sau khi giải mã và tìm ra được cấu trúc đặc trưng của chữ Việt cổ, ông Đỗ Văn Xuyền phát hiện ra một điều thú vị: “Những từ vô lý trong chữ Quốc ngữ buổi đầu (từ các từ điển cho đến các văn bản khác) đã sử dụng lối cấu trúc của chữ Việt cổ và chỉ thay vỏ La Tinh vào”, Cũng chính vì tìm được ít nhất 10 dòng chảy của chữ Việt cổ tràn vào từ điển Việt Bồ La, phát triển thành hàng ngàn từ khó đọc, ông Đỗ Văn Xuyền đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ giải rác trong dân và trong thư viện Lisbon, Pari, Roma… Như vậy phải chăng phương đông ở thế kỷ 16, 17 Việt Nam là nước duy nhất La Tinh hóa được văn tự, vì Việt Nam đã có sẵn bộ chữ Khoa đẩu từ thời Vua Hùng (Đời Nghiêu, người Việt ta đã tặng con rùa ngàn năm tuổi, trên mai có khắc chữ Khoa đẩu (chữ như con nòng nọc) chép việc từ thời khai thiên lập địa trở đi để giữ hòa hiếu giữa hai nước. Chữ Việt cổ trên mai Thần Qui có nội dung: “Kể từ trời Nam mở vận, dòng họ đầu tiên trong nước là Hồng Bàng, bậc quân Vương thụ mệnh trời đầu tiên là Kinh Dương Vương - là hậu duệ của Thần Nông. Kinh Dương Vương vốn được cha là Đế Minh phong Vương làm chủ Nam Việt. kết duyên cùng Long nữ Hồng Đăng Ngàn, con gái Động Đình Quân, sinh ra Lạc Long Quân, húy là Sùng Lãm. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm con trai từ một bọc trứng, ấy là thủy tổ của Bách Việt vậy” (Ngọc phả Liệt Vị Đại Vương - La Nội, Hà Tây). Sự kiện này cũng được chép trong Ngọc phả đền: “Tứ Lạc Long Quân chi tử” đời Trần Thái Tông, tại xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Trong sách “Thông giám cương mục” của Chu Hy, sách “Tân lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh…). Bộ chữ tượng thanh của dân tộc ta phát triển không kém bộ chữ La Tinh. Khi nền văn minh phương tây tràn vào, một số trí thức Việt Nam đã phối hợp với các giáo sỹ phương tây tạo nên một văn tự mới trên cơ sở cấu trúc chữ Việt cổ, thay vào đó cái vỏ La Tinh, đơn giản và tiến bộ hơn chữ Việt cổ đã bị đóng băng hàng nghìn năm dưới ánh đô hộ, tàn sát của phong kiến phương bắc. Như vậy nếu coi Alexandere de Rhodes là người sáng tạo nên bộ chữ Quốc ngữ là hoàn toàn sai lầm và áp đặt, mà chỉ nên coi ông là người có công cải tiến chữ Quốc ngữ. Nhưng dù có vô tình trở thành một nhà ngôn ngữ như vậy, cũng không thể quên Alexandere de Rhodes “là kẻ gián điệp sớm nhất trong lịch sử xâm lược của phương tây vào nước ta” - nhà nghiên cứu lịch sử Bùi Kha. Như vậy việc tạc tượng nhằm “tri ân” Alexandere de Rhodes có đúng với “công lao”: của ông ta hay không? Chưa nói đến việc tác giả còn định tặng cho Thủ Đô nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, Hà Nội? Người viết bài này vẫn khẳng định một lần nữa cái tâm trong sáng của nhà điêu khắc, cái sự lầm này mấy trăm năm nay cả dân tộc ta vẫn hiểu nhầm như vậy (cũng như chúng ta vẫn hiểu nhầm một số sự kiện lịch sử khác) mà không được ai có trách nhiệm chỉ ra để các thế hệ hiểu đúng về dân tộc mình. Nếu các vị nào không tin, xin mời các nhà ngoại cảm giỏi nhất gọi hồn Alexandere de Rhodes lên hỏi cho rõ xem ông ta có phải là người có công khai sinh ra chữ Quốc ngữ hay không? Chắc chắn ông ta sẽ nhảy dựng lên mà rằng: “Các ngài nhầm rồi, tôi chỉ là người góp phần cải tiến chữ Quốc ngữ của các ngài thôi, mà việc đó cũng chỉ nhằm mục đích truyền đạo và đồng hóa dân tộc của các ngài dễ dàng và nhanh hơn, bởi vậy xin đừng dựng tượng tôi, xấu hổ lắm, dựng lên rồi có lúc con cháu các ngài hiểu rõ lại đập đi thì còn nhục nhã gấp trăm lần”! Trần Vân Hạc F.201, Nhà.B4, Ngõ.189, Thanh Nhàn P. Quỳnh Lôi, Q. Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội Nguồn hoalinhthoai.com Gửi người tạc tượng Alexandre De Rhodes (2): Vài nét về tiến trình của chữ Quốc ngữ Đã từ lâu, một câu hỏi lớn làm bao người Việt Nam trong và ngoài nước, cùng giới nghiên cứu quốc tế có tài và có tâm trăn trở: Dân tộc Việt Nam ta từ 3.000 năm trước đã chế tác được hàng loạt những trống đồng vô cùng tinh xảo, đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật, cũng như tinh hoa của một nền văn minh rực rỡ, làm kinh ngạc cả thế giới văn minh hiện đại. Vậy dân tộc ta thời ấy có chữ viết hay không, chữ ấy như thế nào, ai là người tạo nên bộ chữ Quốc ngữ, chữ Quốc ngữ được xây dựng trên cơ sở nào..? Đôi điều về chữ Việt cổ: Từ hàng nghìn năm qua, các nhà khoa học trong và ngoài nước, trước hết là Trung Quốc đều khẳng định: Việt Nam có chữ viết từ rất sớm, trước chữ Hán cả nghìn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Các nhà nghiên cứu, Anh, Tiệp xác nhận: “Ngay từ trước công nguyên, người Việt đã có chữ tượng thanh - loại chữ ghép chữ cái thành từ”. Điều này được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ đồ gốm, đồ đồng của thời kỳ Đông Sơn như: Lưỡi cày, lưỡi xéo, đặc biệt là trống đồng…cùng các hình vẽ chữ viết trên đá cổ Sa Pa, Xín Mần. Pá Màng… theo một hệ thống nhất quán, tất cả đều thể hiện đó là những chữ viết cổ từ thời kỳ tiền văn tự, phát triển và hoàn thiện dần thành bộ chữ “khoa đẩu”. Hệ thống giáo dục của nước ta đã phát triển ngay từ thời Hùng Vương, An Dương Vương, thời Triệu, thời Hai Bà Trưng… ở khắp vùng giao Chỉ, Cửu Chân cũ, nay tài liệu còn lưu ở kho AE Viện Hán Nôm (qua cuộc khảo sát của Pháp năm 1938). Ở Việt Nam, từ lâu, những nhà nghiên cứu như: Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Lê Huy Nghiệm, Lê Trọng Khánh, Hà Văn Tần, Trần Trọng Thêm, Phạm Ngọc Liễn, Đỗ Văn Xuyền… cùng đông đảo các nhà nghiên cứu Việt kiều đã có những thành công đáng kể. Tất cả đều đi đến cái đích chung, đó là những luận cứ khoa học chứng minh cho sự tồn tại của chữ Việt cổ - chữ “khoa đẩu” mà thuở xưa Hùng Quốc Vương cho khắc trên lưng rùa bản tóm tắt lịch sử nước ta tặng cho vua Nghiêu để tỏ tình hòa hiếu. Đó chính là bộ chữ ẩn trong bộ chữ “hỏa tự” do Tri châu Phạm Thận Duật tìm thấy ở Tây Bắc năm 1855 - 1856, cùng nhiều tài liệu khác có cùng cấu trúc đồng dạng. Bộ chữ này hình thành và phát triển đồng hành với dân tộc Lạc Việt cả về thời gian, không gian và quá trình lịch sử. Bộ chữ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt cổ trước công nguyên, tồn tại song hành cùng ngôn ngữ Việt, thích ứng với đặc điểm ngôn ngữ Việt. Cũng chính vì tìm được cách giải mã chữ Việt cổ mà các nhà nghiên cứu hiện nay có thể đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ giải rác trong dân và trong thư viện Lisbon, Pari, Roma… mà đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Đặc biệt theo: “Những tín hiệu thu được từ bản lược đồ địa danh ngôn ngữ Việt cổ” của giáo sư Lê Trọng Khánh, thì không gian phân bố của chữ Việt cổ vô cùng rộng lớn, góp phần vào việc vạch phương hướng tìm hiểu cương vực và nguồn gốc người Việt cổ. Như vậy “Chữ viết đóng góp quyết định vào nền văn minh Việt cổ” và: “Sự đồng nhất ngôn ngữ trên chữ viết và địa danh cổ càng khẳng định tính chất bản địa của người Việt cổ có nguồn gốc Đông Sơn và rất gần với nhau. Vấn đề này có liên quan đến việc phân bố dân cư cổ đại có nguồn gốc chung trên một địa bàn. Sự đồng nhất ngôn ngữ trên chữ viết và địa danh cổ, tổ tiên trực tiếp của chúng ta ngày nay. Người Lạc Việt đã sáng tạo văn minh Đông Sơn, có ảnh hưởng rất lớn đối với các dân tộc khác trước công nguyên” - Lê Trọng Khánh. Cũng chính vì vậy mà bao năm Sỹ Nhiếp ra lệnh triệt phá, tàn sát, bộ chữ “khoa đẩu” của người Việt cổ vẫn có một sức sống bất diệt. Chữ Quốc ngữ: Khi nền văn minh phương tây tràn vào, một số trí thức Việt Nam đã phối hợp với các giáo sỹ phương tây tạo nên một văn tự mới trên cơ sở cấu trúc chữ Việt cổ, thay vào đó cái vỏ La Tinh, đơn giản và tiến bộ hơn chữ Việt cổ đã bị đóng băng hàng nghìn năm dưới ánh đô hộ, tàn sát của phong kiến phương bắc… mà công đầu và là người tiên phong thuộc về giáo sĩ Bồ Đào Nha Francisco de Pina. “Trong một bức thư viết vào đầu năm 1623, Francisco de Pina đã viết: “Về phần tôi, tôi đã biên soạn một chuyên luận nhỏ về từ vựng và các thanh của ngôn ngữ này (tức tiếng Việt) và tôi đang bắt tay viết về ngữ pháp. Tuy nhiên, tôi cũng đã tập hợp được những cổ tích, thuộc nhiều loại khác nhau nhằm cung cấp các trích dẫn của các tác giả để xác minh nghĩa của các từ và các quy tắc của ngữ pháp, cho đến nay tôi có thể yêu cầu một người nào đó đọc để tôi phiên dịch sang các chữ Bồ Đào Nha (tức chữ La tinh)... Ngoài ra, tôi đã có ba bốn cuốn tập hợp các bài viết có lý luận trong số các bài viết hay nhất mà tôi tìm thấy được ở Vương quốc này”. Đầu năm 1625, F.de Pina làm Cha bề trên ở Dinh trấn Thanh Chiêm mà A.de Rhodes là cấp dưới. Tiếp đó, ông thay mặt Giáo đoàn Đàng Trong ra Phủ Chúa yết kiến Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên về vấn đề truyền đạo, mang theo A.de Rhodes để dạy tiếng Việt. Ông bị tai nạn lật thuyền và mất ngày 15/12/1625 khi thay mặt các giáo sĩ ra một chiếc tàu đậu ở ngoài khơi Hội An để nhận hàng tiếp tế của Macao. Sau khi người Thầy Francisco de Pina qua đời, các công trình Latinh hoá tiếng Việt đầu tiên của ông đã vào tay người học trò Alexandre de Rhodes và ông này đã mang theo khi ra Đàng ngoài năm 1627. Alexandre de Rhodes đã được giáo sĩ Bồ đào Nha Gaspar do Amral trao cho cuốn Từ điển Việt - Bồ do ông biên soạn tại Macao vào mùa đông 1645. Sau đó giáo sĩ này đã bị chết trong một vụ đắm tàu ngày 23/12/1645 trên đường đến Đàng ngoài. Nhờ những công trình Latinh hoá tiếng Việt có sẵn của các đồng nghiệp nói trên, Alexandre de Rhodes về sau đã bổ sung thêm một ít tư liệu của mình để biên soạn cuốn Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - Latinh được Vatican xuất bản năm 1651. Trong “Cùng bạn đọc” của cuốn từ điển đó, chính Alexandre de Rhodes viết: “Ngay từ đầu, tôi đã học với Cha Francisco de Pina là người thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không cần phiên dịch. Tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một hội dòng, nhất là Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa. Cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển, ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ, nhưng cả hai ông đều chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng Latinh theo lệnh các Hồng y đáng tôn kính...”. Về việc người Việt có tham gia trong sự phát minh chữ Quốc ngữ, theo Roland Jacques - nhà nghiên cứu người Pháp đã viết gồm hai nhóm: Thứ nhất là giới trí thức gồm có các thầy đồ, sư sãi, các trưởng tông phái (đạo Lão, đạo Khổng...), quan lại hưu trí và sĩ tử là những người giỏi tiếng mẹ đẻ, am hiểu nền văn hoá dân tộc. Nhóm thứ hai gồm các phiên dịch là thanh niên giáo dân biết tiếng Bồ Đào Nha, La tinh giúp giáo sĩ truyền đạo. Và số người Việt này phải đông hơn gấp nhiều lần sơ với các giáo sĩ”. Bởi vậy Roland Jacques đã viết : “Chính cả Pina và các đồng nghiệp đã tập hợp được những người hợp tác có chất lượng mà nếu không có họ, mọi công trình ngôn ngữ học nghiêm túc sẽ không thể có được”. Và ông đề nghị: “Cần thiết phải đặt đứng vị trí việc làm của cá nhân Alexandre de Rhodes trong một công trình tập thể mà ông chỉ là một trong số nghệ nhân cư yếu, trong đó người Bồ Đào Nha và những người cạnh tranh ngang hàng Việt Nam của họ đã giữ vai trò hàng đầu” - Nguyễn Phước Tư. Điều này nhất quán với quan điểm của các nhà nghiên cứu chữ Việt cổ và thể hiện rõ trong cấu trúc đặc biệt của từ điển Việt - Bồ - La. Đó là việc sử dụng nhiều từ mang tính đặc thù của nhiều địa phương. Có thể khẳng định nhóm trí thức địa phương đã góp cho từ điển Việt Bồ La một ngân hàng chữ rất lớn. Nếu một trí thức Việt Nam, dù ở trình độ nào cũng không đủ sức làm như vậy, chứ chưa nói đến các giáo sỹ phương tây, chưa thạo tiếng Việt lại không có điều kiện đi sâu vào các địa phương. Vì vậy năm 1868 khi người Pháp có ý định dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán, đã phải hội thảo và đến năm 1886 lại tổ chức tiếp cuộc hội thảo nữa nhưng hoàn toàn bế tắc. Đến năm 1902 phải lập một ban cải tiến chữ Quốc ngữ gồm nhiều học giả người Việt và người Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám, ngày 21.9.1960 chúng ta đã tổ chức Hội nghị cải tiến chữ Quốc ngữ và có những thành công đáng kể. Từ đấy đến nay, chữ Quốc ngữ của chúng ta được hoàn thiện hơn rất nhiều, góp phần to lớn vào việc tôn vinh văn hóa dân tộc, nâng cao dân trí. Thay lời kết: Như vậy, chữ Quốc ngữ chúng ta dùng hiện nay có nguồn gốc từ chữ Việt cổ, một loại chữ tượng thanh phát triển không kém chữ La Tinh, nhưng không phát triển được do sự đô hộ, tàn sát của phong kiến phương bắc. Bộ chữ Quốc ngữ buổi đầu là sự hội nhập của hai nền văn hóa đông tây, mà công đầu là của hai giáo sỹ Bồ Đào Nha: Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa cùng đội ngũ những trí thức người Việt, chính những trí thức người Việt đã giúp ích rất nhiều cho các giáo sỹ phương tây xây dựng nên bộ từ điển Việt -Bồ - La, nếu không có sự cộng tác đầy thiện ý này, các giáo sỹ phương tây không thể hoàn thành cuốn từ điển với chất lượng như vậy. Còn Alexandre de Rhodes chỉ có công hệ thống hóa và chỉnh lý như chính ông ta tự nhận. Trần Vân Hạc ------------------------- * Trong bài có sử dụng và trích dẫn tư liệu của giáo sư Lê Trọng Khánh, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền và Nguyễn Phước Tư. * Chân thành cám ơn nhà văn, nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc đã gửi bài viết về trang nhà Hoa Linh Thoại để chia sẻ các giá trị Chân-Thiện-Mỹ với mọi người. Nguồn hoalinhthoai.com Gửi người tạc tượng Alexandre De Rhodes (3): Vài nét về công trình chữ Việt cổ của Giáo sư Lê Trọng Khánh Ngày 11.6.2009 tại trụ sở Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam, Giáo sư Lê Trọng Khánh đã thuyết trình về những cứ liệu khoa học mới nhất, chứng minh cho sự tồn tại và phát triển của chữ Việt cổ. Đã có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, mỗi người đều tìm cho mình một con đường để đi đến cái đích chung. Với giáo sư Lê Trọng Khánh, là một nhà khoa học, nên giáo sư tìm cho mình con đường riêng: Ngoài thông qua các thư tịch cổ trong và ngoài nước, thì chủ yếu là thông qua những căn cứ khoa học đã được kiểm chứng, trong một hệ thống phát triển từ thấp lên cao, mang tính bản địa đặc thù và nhất quán. Cụ thể: Từ những đồ gốm, đồ đồng Đông Sơn, đến những văn tự “thắt gút” của người Chăm Hrê ở Nghĩa Bình, những hình đồ họa, dần dần phát triển thành ngôn ngữ viết hoàn chỉnh ở bậc cao. Cũng chính vì có phương pháp nghiên cứu có hệ thống và khoa học như vậy, nên cho đến lúc này, giáo sư là người duy nhất chứng minh được sự liên hệ của chữ viết trên đá cổ ở Sa Pa và Đông Sơn, giải mã thành công văn tự trên đá cổ ở Sa Pa, từng gây ra bao cuộc tranh luận làm đau đầu bao giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Thành công này của giáo sư Lê Trọng Khánh, với phương pháp luận không thể phủ nhận, được giới nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Sự nghiệp nghiên cứu chữ Việt cổ của giáo sư Lê Trọng Khánh có thể chia làm hai giai đoạn: Từ năm 1958 đến năm 1986 và từ 1986 đến nay. Nếu như ở giai đoạn đầu là giai đoạn tìm những chứng cứ và con đường đi, thì ở giai đoạn sau là sự khẳng định phương pháp nghiên cứu một cách khoa học biện chứng. Chính vì vậy ở giai đoạn này giáo sư có những bước tiến quan trọng, chính xác trong sự nghiệp nghiên cứu của mình. Qua các hiện vật khảo cổ được phát hiện ở nhiều nơi trên lãnh thổ Việt Nam, giáo sư có được phát hiện vô cùng quan trọng: “Hệ thống chữ viết ấy xác định quá trình ra đời có nguồn gốc sâu xa từ những yếu tố tiền văn tự. Với thời gian dài tiến triển thành hệ thống chữ viết hình vẽ phát triển cao, được khắc trên đá ở Sa Pa, vào giai đoạn văn hóa đồng thau phát triển – Gò Mun. Trên cơ sở đó chuyển lên loại hình chữ viết cao hơn. Và cũng chính ngay bản thân hệ thống chữ viết cao đó, cũng có cứ liệu vững chắc để thấy sự đi lên của nó, từ thấp đến giai đoạn hoàn chỉnh của chữ viết ghi âm Đông Sơn – chữ viết có nguồn gốc riêng, sớm nhất ở Đông Nam Á”. Theo giáo sư: “Sự phát hiện chữ viết góp phần hiểu sâu hơn văn hóa Đông Sơn. Nền văn minh đó, tất nhiên không giống các nền văn minh cổ khác đã ra đời ở các dòng sông lớn trên thế giới như sông Nil, Lưỡng Hà và Ấn Hà” và: “Văn minh Đông Sơn đã tỏa ảnh hưởng ra ngoài và chữ viết của người Việt cổ làm cơ sở cho các hệ chữ viết còn lại sau này”. “Chữ viết của người Việt cổ đã được định hình và phát triển trên địa bàn rất rộng vào các thế kỷ trước công nguyên. Nó phân bố rộng hơn phạm vi thống trị của Tần – Hán ở các nước phía nam và Đông Nam Á… Thời khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, chữ Hán còn rất hạn chế; chữ Việt cổ vẫn là công cụ thông tin và truyền lệnh sắc sảo, góp phần tích cực cho thắng lợi trên phạm vi 65 thành (huyện) – bao gồm Lưỡng – Việt, Hải Nam đến Nhật Nam?”. Để giải mã được chữ khắc trên đá cổ Sa Pa, giáo sư tìm thấy sợi dây liên hệ “Từ một rìu lưỡi xéo có khắc hai hình người trên thuyền, hình chó chặn hai con nai. Hình người có tính chất sơ đồ hóa cao, tương tự với chữ viết hình vẽ trên đã Sa Pa. Đây là bằng cứ mối liên hệ nguồn gốc từ chữ khắc đá tới chữ viết trên đồ đồng Đông Sơn. Hình khắc này không nhằm trang trí mà chứa đựng một ý tưởng sâu sắc. Người và thuyền chỉ sự hoạt động sông, biển. Chó và nai là hiện tượng của núi rừng. Những hình khắc này mang tính lưỡng phân: Sông, biển (nước) - núi, rừng (đất) Chó - Người Lưỡng phân có xu thế tất yếu tiến lên lưỡng hợp: Đất + Nước = Tổ Quốc. Chó + người phối hợp bao vây nai. Hình khắc này là một bản chữ viết có nội dung: Vũ khí trong tay chiến binh chống kẻ thù, như hình tượng người và chó bao vây nai”. Theo giáo sư : “Bản viết trên rìu chiến trở thành “điều lệnh chiến đấu”. Điều này từ Đông Sơn trở thành truyền thống xuyên suốt cuộc hành trình của dân tộc chống giặc ngoại xâm, biểu hiện thành hai chữ “Sát Thát” khắc trên tay người chiến binh nhà Trần chống giặc Nguyên”. Khi giải mã những hình khắc trên đá cổ Sa Pa, giáo sư có một kết luận quan trọng: “Các hình khắc trên đá ở Sa Pa không thuộc một thời kỳ, mà có lịch sử lâu dài nhiều thế hệ của một cộng đồng người cư trú tại đây, từ thời đại đá mới đến thời đại đồng thau phát triển. Những hình khắc là những ký hiệu tiền văn tự và hệ thống văn tự đồ họa, ghi chép những hoạt động lớn của xã hội lúc bấy giờ. Đây là những hình ghi lại cuộc kháng chiến chống quân xâm lược”. Cụ thể bản thứ nhất: Trước nạn ngoại xâm (hình khắc dài 3,36m, cao 2,73m), trong đó diễn tả khu vực của thủ lĩnh chiếm khu trung tâm, bên trái và phải là cánh đồng ruộng, cư dân đông đúc, nhà kho được xây dựng xa nhà để phòng cháy… Ngòai biên cương dân cư thưa, đất đai nhỏ hẹp, kẻ thù từ phương bắc tới. Quân ta đã tổ chức sẵn sàng chiến đấu, thế trận đã sẵn sàng… Bản thứ hai: Quân thù bị đánh bại (bản khắc dài 4,35m, cao 3,54m): Tổng chỉ huy thiết lập ở phía nam dãy đồi, (đầu phát những tia hào quang), bình tĩnh suy nghĩ, thái độ cương quyết (tay chân dang rộng). Giặc từ phương bắc xuống dọc theo phía đông dãy núi. Quân ta bất ngờ tiến công vào sườn địch, địch rối loạn. Quân ta lợi dụng đêm tối, trăng khuyết tập kích địch. Trận quyết định diễn ra tại cánh đồng đông nam. Kẻ địch thiệt hại nặng rút chạy về hướng bắc. Quân ta đại thắng, hòa bình trở lại. Mặt trời trên cao chiếu rọi khắp nơi. Giáo sư dự đoán: “Những bản này có niên đại thuộc văn hóa Gò Mun, khoảng đầu thiên niên kỷ 1 trước CN, thời kỳ hình thành nước Văn Lang. Gò Mun là tiền Đông Sơn, giai đoạn cực thịnh, khi đó người Việt đã từng đánh bại quân xâm lược từ phương Bắc rất mạnh. Phải chăng những bản chữ viết hình vẽ Sa Pa đã phản ánh cuộc chống ngọai xâm của Dóng (giặc Ân là tên gọi chung những kẻ xâm lược phía Bắc, trước Tần – Hán?). Chữ viết hình vẽ Sa Pa đã vượt qua giai đoạn vẽ hiện thực nguyên thủy và đã tiến tới chữ biểu ý đầu tiên. Vì vậy có thể coi là là thuộc loại hình chữ viết hình vẽ biểu ý ( pic to – idéogramme)… Trên các bản khắc Sa Pa có hình mái nhà cong như trên trống đồng Đông Sơn loại 1. Từ bản khắc Sa Pa đến trống đồng Đông Sơn là một tuyến phát triển từ thấp đến cao. Sơ đồ hình người Sa Pa tương đồng với người trên lưỡi rìu, lưỡi xéo Đông Sơn. Như vậy cũng rõ ràng có một xu hướng phát triển chữ viết hình vẽ tiến lên giai đoạn cao hơn – giai đoạn chữ viết ghi âm Đông Sơn”. Theo giáo sư, chỉ có một tảng đá ở Sa Pa có chữ viết. Theo yêu cầu của giáo sư, người viết bài này sẽ viết thành một bài riêng. Còn trong bài này chỉ xin được nói khái lược rằng, đó là lời dặn của Tổ tiên: Ông cha đã có công dựng nước, các thế hệ sau phải có trách nhiệm giữ gìn và xây dựng đất nước ! Công trình nghiên cứu bao năm trời của giáo sư Lê Trọng Khánh vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc khẳng định nền văn minh từng phát triển rất sớm của dân tộc ta, mà bao năm bị kẻ thù tìm mọi cách tàn sát, hủy diệt, vẫn có một sức sống mãnh liệt và trường tồn, làm nên bản sắc văn hóa đặc thù của một dân tộc mang trong mình dòng máu Lạc Hồng. Năm nay giáo sư đã 85 tuổi, nhưng khi nói về chữ Việt cổ, về nền văn minh Đông Sơn, về lịch sử hào hùng dân tộc, giáo sư như trẻ lại, ánh mắt ngời lên ngọn lửa tình yêu và trách nhiệm với cội nguồn văn hóa dân tộc. Trần Vân Hạc ------------ * Chân thành tri ân nhà văn, nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc đã gửi bài viết về trang nhà để chia sẻ các giá trị Chân-Thiện-Mỹ với bạn đọc Hoa Linh Thoại. Nguồn hoalinhthoai.com Gửi người tạc tượng Alexandre De Rhodes (4): Thư từ Hà Nội Nhân bài viết về chữ Quốc ngữ với người sáng lập ra nó của bạn Trí Nhân, chúng tôi xin được bổ xung một số tư liệu để các bạn đọc hiểu rõ hơn về truyền thống văn hóa Đại Việt ta. Kính gửi: Ban biên tập Tuần báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, Chúng tôi ở xa, đọc báo Văn nghệ TPHCM không đều. Tuy nhiên gần đây qua một số bài có tính khảo cứu về lịch sử và văn hóa, chúng tôi rất tâm đắc. Thực tình không biết người viết chuyên sâu tới mức nào nhưng bài viết dựa trên những căn cứ lịch sử hiển nhiên, có tâm, có tình, thuyết phục và được nhiều bạn đọc hoan nghênh. Một tờ báo Văn lại viết những vấn đề về Sử không phải là một việc làm tréo ngoe vì người viết văn được trang bị những kiến thức Sử và Triết càng sâu thì ngòi bút càng vững vàng chín chắn. Trong khi nhiều báo chuyên đề Văn hóa xã hội và Lịch sử nếu không làm ngơ thì lại có những bài viết mập mờ lẫn lộn trắng đen, thậm chí trái chiều lịch sử nên những bài của quý báo là rất cần thiết. Vả chăng, bảo vệ sự chân thực lịch sử là trách nhiệm công dân, nhất là với người cầm bút. Nhân bài viết về chữ Quốc ngữ với người sáng lập ra nó của bạn Trí Nhân, chúng tôi xin được bổ xung một số tư liệu để các bạn đọc hiểu rõ hơn về truyền thống văn hóa Đại Việt ta. Thực ra người Việt từ xa xưa đã có chữ viết riêng, trước khi có chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Chữ Việt cổ là thứ chữ tượng thanh, ghép những chữ cái thành từ. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học của ta lâu nay như Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Hà Văn Tấn, Lê Huy Nghiệm, Trần Trọng Thêm, Lê Trọng Khánh, Phạm Ngọc Liễn… đã có những khám phá và còn tiếp tục dò tìm. Những nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa như Từ Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu… đều khẳng định người Việt ta đã có chữ viết riêng từ rất sớm. Năm 1855, Tri châu Phạm Thận Duật ở Tây Bắc tìm ta một bộ chữ lạ có cấu trúc gần giống với chữ Mường cổ. Gần đây, nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và nền giáo dục thời Hùng Vương do các nhà văn Khánh Hoài và Đỗ Văn Xuyền chủ trì, cho rằng ngữ tự này có thể là biến thể của chữ Khoa đẩu, hay còn gọi là Hỏa tự đã được ghi trong cổ sử, nghĩa là nó có từ thời vua Hùng. Bộ chữ ấy còn lưu lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Kết hợp với bộ môn Khảo cổ học, người ta thấy trên các mặt trống đồng và nhiều di vật cổ xưa khác khai quật ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải rác ở phía nam Trung quốc, có một dạng ký hiệu giống nhau, như hình con nòng nọc và phát hiện ra đó chính là tự dạng để ghi lại những âm thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ. Bộ chữ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt từ xưa lắm, xa trước Công nguyên nhiều. Nó tồn tại song hành cùng ngôn ngữ Việt, thích ứng với đặc điểm ngôn ngữ Việt. Các nhà nghiên cứu đã mã hóa được các tự dạng đó và đã giải mã được các ký tự Việt cổ. Từ đó bật ra được tiếng nói của tổ tiên thời tiền sử… Đời vua Nghiêu, để giữ hòa hiếu giữa hai nước, người Việt đã đem Thần Quy ngàn năm tuổi tặng, trên mai có khắc chữ Khoa đẩu, chép việc từ thời khai thiên lập địa, nội dung như sau: Kể từ trời Nam mở vận, dòng họ đầu tiên trong nước là Hồng Bàng. Bậc quân vương thụ mệnh trời đầu tiên là Kinh Dương Vương – là hậu duệ của Thần nông. Kinh Dương Vương vốn được cha là Đế Minh phong làm chủ Nam Việt, kết duyên cùng Long nữ Hồng Đăng Ngân – con gái Động Đình Quân, sinh ra Lạc Long Quân, húy là Sùng Lãm. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm con từ một bọc trứng, ấy là thủy tổ của Bách Việt vậy. (Ngọc phả Liệt phả liệt vị Đại vương – La Nội, Hà Nội; Ngọc phả đền Tứ Lạc Long quân chi tử – Lập Thạch, Vĩnh Phúc; sách Tân lĩnh nam chích quái của Vũ Quỳnh)… Nhờ biết giải mã các ký tự cổ đó, người ta phát hiện ra một điều thú vị: Những từ vô lý (Suấy = suối; São le = song le; Đàng lão = Đàng trong; Thần Nõu = Thần nông; Lạc Lão Cuôn = Lạc Long quân… ) trong chữ Quốc ngữ buổi đầu (có trong từ điển và các văn bản khác) đã sử dụng lối cấu trúc của chữ Khai đẩu và thay vỏ La-tinh vào. Nó còn giúp các nhà nghiên cứu hiện nay có thể đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ rải rác trong dân và trong các thư viện ở Lisbon, Rhoma, Paris... Chữ viết đóng góp phần quyết định vào nền văn minh của một dân tộc. Hệ thống giáo dục ở nước ta đã phát triển ngay từ thời Hùng Vương, An Dương Vương, thời Triệu, thời Hai Bà Trưng… ở khắp vùng Giao Chỉ, Cửu Chân cũ. Người Lạc Việt đã làm nên nền văn minh Đông sơn, có ảnh hưởng rất lớn đối với các dân tộc khác trước công nguyên và chữ Việt cổ có một không gian phân bố vô cùng rộng lớn (Lê Trọng Khánh). Tiếc rằng tổ tiên ta chịu một quá trình lâu dài đô hộ với âm mưu huỷ diệt nền văn minh bản địa và quyết liệt đồng hoá dân tộc của các nước lớn ngoại bang. Chữ viết là đối tượng bị huỷ diệt trước nhất bởi nó phản ánh tư tưởng, tâm hồn của một dân tộc. Thời Bắc thuộc, chính quyền đô hộ dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt bộ chữ Khoa đẩu của người Việt cổ. Sách sử truyền rằng Sỹ Nhiếp đã mang chữ Hán về khai hoá cho dân tộc Nam man hay là việc đó nằm trong chủ tâm thâm trầm độc địa của quốc gia xâm lược?! Đời này qua đời nọ, con chữ ngoại lai được tôn lên vị trí chính thống, dùng mãi dần quen đi, thì đồng thời con chữ truyền thống của dân tộc cũng bị lãng quên và chìm dần vào dĩ vãng! Chữ Khoa đẩu do không được phổ biến nên bị đóng băng, dần không phát triển kịp theo những biến âm trong tiếng nói của người Việt qua từng thời kỳ phát triển, mặc dù nó vẫn âm thầm tồn tại trong giao tiếp dân gian. Tuy nhiên, sức sống của người Việt vô cùng mạnh mẽ. Với khát vọng độc lập tự do luôn thôi thúc, từ chữ Hán tượng hình, người Việt chế tác ra thứ chữ Nôm cho riêng mình và chỉ qua mấy thế kỷ, chữ Nôm đã có những thành tựu rực rỡ, làm nên nền văn hoá Việt Nam cận đại với bản sắc riêng. Đến thời thuộc Pháp, một lần nữa, chữ viết của người Việt – chữ Nôm, lại bị bức tử! Một bộ chữ mới gọi là Quốc ngữ ra đời. Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt thì sự ra đời của chữ Quốc ngữ có những đặc thù riêng. Phải chăng, chữ Việt cổ cùng trên cơ sở với chữ La-tinh tượng thanh, đã mau chóng được các linh mục đồng thời là những nhà ngôn ngữ học không chủ ý người phương tây tiếp nhận, sáng chế ra một dạng chữ đơn giản và dễ phổ cập là chữ Quốc ngữ ta dùng hiện nay. Tuy nhiên, để hình thành bộ chữ mới này, mấy ông tây dù học thức, thông thái đến đâu cũng không thể thâm nhập sâu vào đời sống dân dã để làm nên những quyển từ điển dày dặn công phu với những từ ngữ dân gian khá phong phú, kể cả những lời chửi tục mà chỉ được dùng với những người thân cận trong trạng thái tình cảm thất thường. Tất nhiên họ phải có những người bản địa cộng tác đắc lực. Theo Roland Jacques – nhà nghiên cứu ngôn ngữ học người Pháp, thì số người Việt góp công trong sự phát minh ra chữ Quốc ngữ lúc sơ khai gồm hai nhóm: Nhóm thứ nhất thuộc giới có học, là những thầy đồ, thầy tu thuộc nhiều tông phái Phật, Khổng, Lão, Trang…, quan lại, sỹ tử… hiểu nhiều tiếng mẹ đẻ, am tường nền văn hóa dân tộc. Nhóm thứ hai gồm các phiên dịch là các thanh niên giáo dân biết tiếng Bồ-đào, La-tinh giúp các giáo sỹ đi truyền đạo. Tất nhiên, số người Việt này phải hơn gấp nhiều lần so với các nhà truyền giáo tây phương. Điều hiển nhiên là trước khi có cuốn từ điển Việt-Bồ-La của giám mục Alexandre de Rhodes thì đã có những giám mục Bồ-đào-nha đến đây sớm hơn, hướng dẫn A.Rhodes và để lại những công trình ngôn ngữ cụ thể, như Francisco de Pina, Gaspa de Amaral, Antonio Barbosa. Chính Giám mục A.Rhodes thừa nhận đã sử dụng công khó của hai ông (G.Amaral với cuốn từ điển Việt-Bồ và A.Barbosa với cuốn từ điển Bồ-Việt) và thêm vào đó phần tiếng La-tinh. Cho nên R. Jacques đề nghị: Cần thiết phải đặt đúng vị trí việc làm của cá nhân Alexandre de Rhodes trong một công trình tập thể mà ông chỉ là một trong số nghệ nhân cư yếu, trong đó người Bồ-đào-nha và những người cạnh tranh ngang hàng Việt Nam của họ đã giữ vai trò hàng đầu. Vậy là đã rõ, việc làm của Alexandre de Rhodes, nên được coi như có phần đóng góp cải tiến chứ không thể vinh danh đơn phương là người khai sáng ra chữ Quốc ngữ ngày nay. Việc cải tiến và đưa chữ Quốc ngữ vào đời sống của người Việt là cả một quá trình dài không đơn giản. Ý đồ hủy diệt một nền văn minh lâu đời của một dân tộc ở phương Đông không dễ được thực hiện. Trước hết nó gặp sự bất hợp tác của người bản địa là lẽ đương nhiên. Chữ Quốc ngữ ra đời vào giữa thế kỷ XVII, hầu như chỉ lưu hành trong giáo hội Cơ đốc, để các linh mục tây phương tiếp cận với người bản xứ. Nửa sau thế kỷ XIX, khi người Pháp hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam, họ có ý định dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán-Nôm thì ngay trong giới cầm quyền thuộc địa cũng có những phản ứng gay gắt. Họ đã hai lần tổ chức hội thảo nhưng vấn đề vẫn chưa được khai thông. Chính Toàn quyền Pasquier, đứng ở góc độ văn hóa, đưa ra lời khuyến cáo: “Các tác phẩm văn học Việt Nam, dù đậm nét dân gian hay có giá trị đỉnh cao của Nho học – một kho tàng văn hóa độc đáo, phi thường, nếu ta làm mất đi trong quên lãng, thử hỏi đó có là trọng tội không?... Ta không nên phá hoại bất cứ thứ gì trong tòa lâu đài văn hóa cổ xưa này... Nếu với sự độ lượng khoan dung, nước Pháp sẽ có thể được tôn trọng hơn, được qúy mến hơn khi họ biết đánh giá, biết nâng niu trân trọng những tài năng, những tác phẩm của người dân An Nam tại Đông Dương, biết cúi xuống thấp hơn một chút khi chào, cười với một ông thầy Đồ, chấp nhận mà không chút miệt thị, trên quan điểm thoáng mở có chọn lọc, trung thực, những thành tựu phát triển trí tuệ của họ”. Đến đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa lập một Ban cải tiến chữ quốc ngữ gồm nhiều học giả người Pháp và người Việt. Chữ Quốc ngữ được cởi trói và các thể loại văn học mới lần lượt ra đời nhưng vẫn không nhận được sự hưởng ứng mặn mà trong giới nho sỹ và giới bình dân. Phải đến khi nhân dân ta giành được quyền làm chủ vận mệnh quốc gia thì ý thức cần được khai thông trí tuệ mới trỗi dậy mạnh mẽ. Lời Cụ Hồ nói cả nước đồng tình: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu! Yếu thì đói nghèo và mất nước! Đói nghèo – Dốt nát và Kẻ xâm lăng đều là giặc! Sự thật đó hiển nhiên nhưng mấy ai đã nhận ra? Và diệt nó tới cùng không dễ! Chữ Quốc ngữ được mạnh dạn cải tiến trên cơ sở tiếng Việt là thứ tiếng thống nhất trong cả nước nên việc phổ cập rất nhanh. Sau khi đuổi được giặc Pháp, năm 1960, Hội nghị cải tiến chữ Quốc ngữ lại được tổ chức tại Hà Nội. Chữ Quốc ngữ được nâng cấp, phát triển toàn diện, đáp ứng được trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ sinh hoạt, tình cảm, trí tuệ, tâm linh tới các bộ môn khoa học xã hội và tự nhiên hiện đại rất phức tạp, là ngôn ngữ chính thống giảng dạy trong các trường từ mầm non đến đại học. Song, hãy nhìn vào thành tựu của văn hóa Quốc ngữ và văn hóa chữ Nôm mà suy ngẫm. Một thứ thì dễ dụng và một thứ thì thâm trầm. Một đàng mở lòng ra đón gió bốn phương. Một đàng kín đáo khép mình biền ngẫu. Nhà Quốc ngữ tiên phong Nguyễn Văn Vĩnh từng nói: Kể những sách của những bậc tài nôm nước Nam để lại mà làm nền cho quốc văn thì thực hiếm, nhưng tuy hiếm mà thực là quý, thực là hay. Như văn Kim-Vân-Kiều mà đem vào kho tàng văn chương thế giới kể cũng xứng, chớ không đến nỗi để người An Nam mình phải hổ thẹn rằng nước không có văn. Cho đến hôm nay, văn chương Quốc ngữ đủ loại và nhiều nhưng đã có sách nào hay, quý sánh ngang bằng bậc cha ông? Nhìn vào các tác phẩm văn chương đang được người ta tung hứng mà lòng những thẹn với lòng! Có ai kịp suy nghĩ lại lời cảnh báo như là tiên tri của ông Pasquier ngày ấy: Hãy tìm cách thích nghi, hòa nhập, chứ không phải hủy hoại, sao cho trong một thế kỷ tới người Pháp sẽ không phải chuốc lấy những lời trách cứ nặng nề rằng: Dưới chế độ tập quyền nghiệt ngã, những bản sắc đặc thù của một đất nước xa xôi đã bị tàn phá ! Chúng ta khỏi phải làm một việc như đã làm đối với Provence là: Vực dậy một nền văn học chết! Trong khi lại có người gọi là trí thức, mang dòng máu Lạc-Hồng, tri ân người theo ngoa ngôn của mấy ông thầy dòng: Khi cho Việt Nam các mẫu tự la-tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ! Cần biết rằng trên thế giới này có nhiều loại ký tự. Theo dòng tượng thanh như: La-tinh, Slavơ… Theo dòng tượng hình như: Ai-cập, Hán… Mỗi vùng miền có những đặc thù riêng về địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa và chính trị. Đánh giá nền văn minh và tốc độ phát triển của một dân tộc không ai chỉ dựa vào ký tự. Chúng tôi cùng nghĩ như bạn Trí Nhân: Cái xác chữ chẳng là gì. Cái thần của chữ mới làm nên văn hóa. Cái thần ấy gọi là hồn nước, tiềm ẩn trong tâm thức mỗi người dân Đại Việt. Nhiệm vụ của những người cầm bút chân chính là dựng dậy tinh thần Đại Việt. Những ngày thu tháng Tám 2009 Trần Vân Hạc Nguyễn Lê * Chân thành cảm niệm và tri ân nhà văn, nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc và nhà văn Nguyễn Lê đã gửi bài viết chia sẻ với bạn đọc trang nhà Hoa Linh Thoại. Nguồn hoalinhthoai.com.vn Gửi người tạc tượng Alexandre De Rhodes (5): Chữ viết khoa đẩu duy nhất trên đá cổ Sa Pa Sau nhiều năm khảo sát, nghiên cứu những hình vẽ, chữ viết trên đá cổ Sa Pa, giáo sư Lê Trọng Khánh, chuyên gia hàng đầu của Việt Nam về chữ Việt cổ đã công bố những kết luận được dư luận trong và ngoài nước rất quan tâm. Người viết bài này đã có buổi làm việc với giáo sư tại Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam: - Thưa giáo sư, xin giáo sư cho biết những căn cứ để hiểu ý nghĩa chữ viết trên tảng đá cổ ở Sa Pa. - Trên 200 bản khắc trên đá cổ Sa Pa (190 tảng còn lại, gần 20 tảng bị phá), tôi thấy chủ yếu là chữ viết đồ họa thuộc tiền văn tự, duy nhất chỉ một tảng ở Tả Van là có chữ. Đây là loại hình chữ “khoa đẩu”, các ký tự này đồng nhất với các ký tự trên đồ đồng Đông Sơn và đặc biệt giống chữ khắc trên rìu đồng Bắc Ninh, đồng nhất với chữ viết của người Thái đen Tây Bắc. Điều đó cho phép ta giải mã và hiểu được những ký tự trên đã cổ Sa Pa. - Thưa giáo sư, như trong một bài viết giáo sư từng công bố, thì trên một số các hình đồ họa trên đá cố Sa Pa mô tả cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của tổ tiên ta? - Đúng như thế, những chữ viết hình vẽ trên đã cổ Sa Pa đã phản ánh cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của cha ông ta. Tôi khẳng định như vậy vì những chữ viết hình vẽ này đã vượt qua giai đoạn vẽ hiện thực nguyên thủy và đã tiến tới chữ biểu ý đầu tiên. Vì vậy có thể coi đây là loại hình chữ viết biểu ý có thể đọc được. Nhất là khi ta đặt trong một hệ thống phát triển từ thấp đến cao qua những hiện vật khảo cổ thuộc văn hóa Đông Sơn như lưỡi cày hình cánh bướm, rìu cân xòe, rìu Bắc Ninh, trống dồng Lũng Cú, trên những viên gạch nung ở Cổ Loa… Theo quan điểm của văn tự học hiện đại qui định thì chữ viết hình vẽ - văn tự đồ họa Sa Pa truyền đạt cả ý cả câu - chữ viết ghi câu. Như vậy ta có thể giải mã được ý nghĩa chữ viết trên đá cổ Sa Pa một cách khoa học và có sức thuyết phục cao. Giáo sư Lê Trọng Khánh với chữ đá cổ Sa Pa - Xin giáo sư cho biết ý nghĩa cụ thể của chữ viết trên tảng đá cổ có chữ viết duy nhất ở Tả Van. - Toàn bộ có trên 30 chữ, một số chữ bị mất hoàn toàn, đặc biệt là mất gần hết các dấu ở vị trí trên và dưới chữ, điều đó làm cho việc giải mã gặp rất nhiều khó khăn, trong khi ta chưa có điều kiện kỹ thuật để phục hồi những chữ đã mất. Song bằng những gì còn lại tôi thấy nội dung cơ bản của bản khắc đó nói về: “Công lao của tổ tiên đã xây dựng đất nước. Muôn đời sau con cháu phải bảo vệ lấy non sông của mình”. Trầm ngâm giây lát, nhìn ra phía trời xa, trong ánh mắt của vị giáo sư đã bước vào tuổi 85 như ngời lên ánh lửa: - Dân tộc ta ngay từ buổi đầu dựng nước đã luôn phải đấu tranh với quân xâm lược phương bắc, bởi vậy khi ta hiểu di huấn của tổ tiên, ta càng thấm thía hơn những gì ông cha ta khắc trên đá gửi lại cho hậu thế. Những tảng đá, những hình vẽ, chữ viết ấy thấm cả máu của bao thế hệ, chuyên chở khát vọng sống của bao đời. - Trân trọng cảm ơn giáo sư, kính chúc giáo sư mạnh khỏe ! Ngày 11.6.2009 Trần Vân Hạc thực hiện * Chân thành cảm niệm và tri ân nhà văn, nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc đã gửi bài viết chia sẻ với bạn đọc trang nhà Hoa Linh Thoại Nguồn hoalinhthoai.com1 like