-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 04/11/2010 in Bài viết
-
Hòn Ðá Ném Ði:
meiji and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
HÒN ĐÁ NÉM ĐI. Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Ðến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ. Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi". Ði đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù. Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sach mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: "Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta". Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất. Leon Tolstoi2 likes -
Kính thưa quý vị quan tâm với những hiện tượng bí ẩn mà khoa học chưa giải thích được - Tôi đã nhiều lần đặt vấn đề cho rằng: đây là những cơ hội để những phát kiến khoa học mới xuất hiện. Tất nhiên nó chỉ dành cho những người thích khám phá và chấp nhận thất bại. Nếu như chúng ta chỉ với những kiến thức đã có để phủ nhận một cách đơn giản vì không giải thích được thì không còn gì để bàn. Chính những hiện tượng bí ẩn tồn tại trên hiện tượng thực tế khách quan, như những hiện tượng ngoại cảm, dự báo của Lý Học Đông Phương và những sự huyền bí của nền văn hóa Đông Phương nói chung là những thực tại khách quan cần khám phá. Tôi cũng nhiều lần nói răng Thuyết Âm Dương Ngũ Hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang tìm kiếm...... Nhân được đọc cuốn sách "Cuộc tìm kiếm hài cốt cố Tổng bí thư HÀ HUY TẬP" mà trong đó có lời nói đầu của GS.VS ĐÀO VỌNG ĐỨC, tôi nhận thấy rằng có rất nhiều điểm tương đồng trong luận điểm của GS về việc khám phá một lý thuyết thống nhất vũ trụ. Bởi vậy, tôi xin đưa lên đây toàn bộ bài viết giới thiệu cuốn sách của GS.VS ĐÀO VỌNG ĐỨC để quý vị tham khảo. Xin trân trọng cảm ơn! ============================================================ LỜI GIỚI THIỆU GS.VS.ĐÀO VỌNG ĐỨC Viện Vật Lý và Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng con người (Trích trong cuốn sách “CUỘC TÌM KIẾM HÀI CỐT CỐ TỔNG BÍ THƯ HÀ HUY TẬP” ). Cuộc hành trình tìm kiếm di hài cốt cố tổng bí thư Hà Huy Tập đã hoàn thành với kết quả mong đợi. Có cơ duyên tham gia công việc từ những ngày khởi đầu, nhiều người đã được chứng kiến sự kiện và giữ mãi những kỉ niệm đầy ấn tượng và xúc động. Nhớ lại cách đây gần hai năm, một số đại diện cho dòng họ Hà – Ông Hà Huy Lợi, Đại tá Hà Văn Sỹ, và Phó giáo sư – Tiến sỹ Hà Vĩnh Tân – đã bố trí cuộc gặp với Trung Tâm Nghiên Cứu tiềm năng con người, bày tỏ nguyện vọng nung nấu của dòng họ, tìm kiếm di hài của cụ Hà Huy Tập để đưa về an táng tại quê hương Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh. Nhận thức rằng đây là việc làm đầy tình nghĩa, có ý nghĩa lớn lao không những riêng cho dòng họ mà là chung cho cả đất nước. Thuận theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, Trung tâm đã rất nhiệt tình hưởng ứng và tích cực hỗ trợ cho việc tìm kiếm. Trong những thập kỷ gần đây chúng ta chứng kiến những bước phát triển ngoạn mục của Khoa học kỹ thuật và công nghệ, đánh dấu bởi vô số những phát minh kỳ diệu từ những lãnh vực lý thuyết trừu tượng nhất đến các ứng dụng rộng rãi nhất trong thực tế sản xuất và đời sống. Cũng đồng thời ngày càng dồn dập những thông tin, trong nước cũng như trên thế giới, về những khả năng rất kỳ lạ của con người, những hiện tượng siêu phàm kỳ bí, thể hiện rất đa dạng trong đời sống cộng đồng, mà không cách nao lý giải nổi trong khuôn khổ những kiến thức đã có của các ngành khoa học truyền thống. Tiếp cận những vấn đề này một cách khách quan, tôn trọng sự thật, với thái độ thực sự cầu thị, khiêm tốn học hỏi để khám phá, nhằm mục đích tối thượng phục vụ cộng đồng, là điều tâm đắc của rất nhiều nhà nghiên cứu trong các lãnh vực phi truyền thống. Có thể dự đoán rằng để có một lý thuyết về các khả năng đặc biệt của con người, về các hiện tượng siêu nhiên sẽ phải vận dụng phối hợp nhiều ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội đặc biệt là Triết học, Cận tâm lý học và Thần học. Và cũng dễ hiểu rằng trong cuộc hành trình này – Vật lý học, với những thành tựu vĩ đại trong thế kỷ qua là thuyết lượng tử và thuyết tương đối và thành tựu có tính cách mạng đang chờ đón trong những thập kỉ tới là lý thuyết Đại thống nhất, sẽ có những tác dụng định hướng. Lịch sử phát triển của khoa học cho thấy rằng những phát minh lớn có được không chỉ dựa vào lý trí và lập luận logic mà còn bằng cả những nhạy cảm thẩm mỹ và sự hỗ trợ của yếu tố trực giác, cảm hứng. Theo dự đoán của nhiều học giả nổi tiếng thì thế kỷ 21 này sẽ được đánh dấu một bước tiến vĩ đại, đó là nhận thức được rằng Khoa học và Tâm linh không đối nghịch nhau, mà là hai mặt đối ngẫu bổ sung cho nhau để nghiên cứu thực tại. Einstein – nhà bác học lỗi lạc nhất thế kỷ 20, người khai sáng ra thuyết tương đối và thuyết lượng tử, những luận thuyết đã mang lại biết bao thành quả diệu kỳ trong khoa học và công nghệ hiện đại – vẫn luôn tự đánh giá vốn kiến thức của mình còn quá nhỏ bé trước cái huyền bí bao la sâu thẳm của vũ trụ, đã khẳng định rằng: “Khoa học, Tôn giáo, Nghệ thuật là những cành nhánh cùng một cây… Khoa học không có Tôn giáo thì khập khiễng, Tông giáo không có Khoa học thì mờ ảo”. Pauli, nhà vật lý lừng danh với “Nguyên lý loại trừ Pauli” trong vật lý nguyên tử, nhận định rằng “Nếu Vật lý và tâm linh được xem như các mặt bổ sung cho nhau của thực tại thì sẽ cực kỳ thỏa mãn”. Tiên đề xuyên suốt của thuyết lượng tử là tính đối ngẫu bổ sung của thực tại thông qua “Nguyên lý bổ sung đối ngẫu “khằng định rằng mọi vật thể cung một lúc thể hiện mình với hai bản chất tương phản nhau: Sóng và Hạt. Nguyên lý này dẫn đến một hệ quả cực kỳ quan trọng là vật thể vi mô chuyển động không theo bất cứ một quỹ đạo xác định nào, có nghĩa là chuyển từ vị trí này qua vị trí khác theo vô số con đường cùng một lúc. Suy rộng ra là có thể cung một lúc hiện diện tại vô số vị trí khác nhau, cùng một lúc có thể ở trong vô số trạng thái khác nhau. Điều này gợi cho ta liên tưởng đến các câu chuyện thần thoại về thần không biến hóa, xuất quỷ nhập thần…Thuyết lượng tử nhìn nhận một cách sâu sắc rằng bản chất mọi vật thể là sóng, thế giới hiện tượng là những con sóng uốn lượn lan tỏa trên mặt một đại dương năng lượng mênh mông, có lúc cô đọng lại thành các khối có hình thể và rồi cũng lại tan biến thành sóng trên mặt đại dương đó. Nguyên lý bổ sung đối ngẫu cũng hoàn toàn phù hợp với giáo lý Đạo Phật, thể hiện sâu sắc nhất trong Kinh Kim Cương và Kinh Bát Nhã Ba La Mật khi luận về tính đối ngẫu của Ngũ Âm: Sắc – Thọ - Tưởng – Hành – Thức cũng như trong đạo lý Chân không. Cũng hoàn toàn trùng hợp với đạo lý chân không trong Kinh phật, thuyết lượng tử dẫn đến một hệ quả rất quan trọng là không thể tồn tại chân không như một “không gian trống rỗng”. Khi hội tụ các điều kiện thích hợp, từ chân không sẽ tạo ra các hạt và phản hạt mọi thể loại, tương tác với nhau theo mọi cách để tạo ra thế giới hiện tượng muôn hình muôn vẻ như ta cảm nhận, và cuối cùng lại hủy hoại trở về chân không. Chân không là trạng thái nền mức năng lượng thấp nhất, nhưng mức thấp nhất ấy cũng đã là lớn vô hạn. Bản chất này của “Chân không lượng tử” dẫn đến một hệ quả rất đặc biệt là sự tồn tại một tha lực kỳ bí trong đó (Hiệu ứng casimir). Ứng dụng hiệu ứng này vào công nghệ nano và tìm kiếm những năng lượng mới là một hướng nghiên cứu đầy hứa hẹn có tính thời sự đặc biệt, đang được nhiều người quan tâm. Một phương hướng nghiên cứu sâu sắc nhất và có tầm quan trọng đặc biệt của vật lý học hiện đại là xây dựng Lý thuyết Đại thống nhất – thống nhất các dạng tương tác – các dạng năng lượng trên cùng một nền tảng. Các kết quả nghiên cứu lý thuyết phát hiện rằng ngoài ba chiều không gian như ta đang sống và cảm nhận, nhất thiết là phải có thêm ít nhất là sáu chiều không gian phụ trội. Điều đặc biệt là trong Lý thuyết Đại thống nhất này nhất thiết phải tồn tại các trường “vong”. Các trường “Vong” giữ vai trò chủ chốt trong các cấu trúc, có tác dụng chủ đạo chi phối các cơ chế tương tác nhưng không hề xuất hiện một các tường minh trong thực tế. Những thành tựu của Khoa học và Công nghệ hiện đại rọi những tia sáng mới vào Khoa học dự báo. Người ta dần dà cảm nhận được mối liên hệ sâu sa giữa khoa học dự báo và khoa học hiện đại, đặc biệt là Vật lý học. Dự báo liên qua chặt chẽ với phạm trù không – thời gian lại là một trong những vấn đề cốt lỡi nhất của Vật lý học hiện đại. Theo Thuyết tương đối của Einstein, không gian và thời gian đều có cùng một bản chất và biến đổi qua nhau theo các hệ quy chiếu. Thuyết tương đối rộng Einstein còn cho thấy rằng không gian và thời gian thay hình đổi dạng theo nội dung của vật chất tồn tại trong đó, và khẳng định rằng khái niệm không – thời gian khi bị tách ra khỏi mọi nội dung vật lý thì không tồn tại. Ta thường cảm nhận về sự trôi chảy của thời gian, nhưng đó chỉ là ảo tưởng của tâm thức. Chính Einstein đã phát biểu rằng “Quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là những ảo tưởng cố hữu”. Khoa học hiện đại cũng đã bắt đầu nghiên cứu vấn đề vì sao ta lại có những cảm nhận về sự chuyển động của thời gian. Đã có nhiều ý kiến cho rằng cảm nhận đó liên qua đến các quá trình lượng tử xảy ra trong não bộ. Chính trong lúc hành thiền sâu nhiều vị thiền sư đã đạt được trạng thái không còn ảo giác đó, lúc này vạn vật dường như đóng băng lại trong thời gian. Vật lý học hiện đại hình dung thời gian trong tổng thể như một “thời cảnh” trong đó các sự kiện được đính vào thời điểm cố định, cũng tương tự như hình dung, không gian như một phong cảnh trong các vật thể được đặt ở các vị trí xác định. Đặc biệt, trên cơ sở lỳ thuyết đại thống nhất hiện đại nhất – lý thuyết Dây, lý thuyết M có thể giải thích hiện tượng linh cảm một cách khoa học. Trong mô hình vũ trụ suy ra từ lý thuyết này tồn tại cung một lúc vô số những con người khác nhau trong cùng một con người, và cùng một lúc tất cả các thông tin về vũ trụ ở mọi thời đại đều hiện hữu. Cũng cần nói thêm rằng liên quan đến Thông tin – Dự báo, một lãnh vực đang được phát triển mãnh mẽ là máy tính lượng tử, viễn tải lượng tử và thông tin lượng tử, và một số phương hướng nghiên cứu phát sinh từ đó là “Viễn tải tâm linh” (psychie tele-por-tation) đang được đặc biệt quan tâm. Thực chất của “Viễn tải tâm linh” là áp dụng các nguyên lý của máy tính lượng tử để truyền đạt ý tưởng con người, hoặc điều khiển các vật thể di chuyển bằng cách sử dụng một dạng năng lượng tâm linh huyền bí. Ở đây, về lý luận cón rất nhiều vấn đề phải giải quyết, rất nhiều câu hỏi được lý giải. Chằng hạn: là gì và hình dáng ra sao? Những gì tồn tại trong đó?...v..v. Có giả thiết cho rằng các chiều không gian phụ trội này chính là các chiều liên qua đến thế giới tâm linh. Cũng nảy sinh một câu hỏi rất tự nhiên rằn: ngoài các dạng tương tác đã biết được hiện nay còn tồn tại chăng các dạng tương tác khác chưa được phát hiện? Không loại trừ rằng còn có các dạng siêu tương tác ứng với các dạng siêu năng lượng liên qua đến các hiệu tượng siêu nhiên mà các giác quan bình thường của con người chưa thể cảm nhận được, cũng như khoa học và kỹ thuật hiện nay chưa đủ trình độ để phát hiện. Ở đây ta có thể liên tưởng đến một dạng siêu năng lượng bắt nguồn từ lọng vị tha bác ái, được nói đến nhiều trong Kinh Phật, cũng như các vị thầy tâm linh thường nhắc nhở - Lòng từ bi, tình yêu thương chân thành cũng như môi trương tình thương dẫn đến một dạng tương tác tâm linh tạo ra “năng lượng tình thương” giúp chiến thắng bệnh tật và tạo nên sức mạnh vô biên. Rõ ràng răng nghiên cứu các lĩnh vực với mức độ tinh tế khác nhau thì cách tiếp cận phải khác nhau, đặc biệt với các hiện tượng siêu tinh tế thì đòi hỏi phải vận dụng các khái niệm và các hệ tiên đề hoàn toàn mới, có thể rất xa lạ với những điều đã quen thuộc trước đó. Đây là cuộc viễn chinh khoa học gian nan nhưng đầy hứa hẹn, đòi hỏi sự kết hợp hài hòa giữa Khoa học và Tâm linh, sự đóng góp lâu dài công sức và trí tuệ của các nhà khoa học và các nhà ngoại cảm. Có thể hi vọng rằng cung với sự phát triển ngày càng sâu rộng của Khoa học và Công nghệ, dần dà chúng ta sẽ tiếp cận được những hiện tượng mà cho tới nay vẫn được xem là huyền bí hoặc hầu như là phi lý. Tập sách này kể lại một cách trung thực một số nét chủ yếu vê những sự kiện đáng ghi nhớ qua những ngày tháng qua cuộc hành trình tìm kiếm đó. Với những minh chứng đầy sức thuyết phục qua những lời kể sinh động trong tập sách, có cơ sở để có thể khẳng định sự tồn tại các vong linh và vai trò nổi bật của các yếu tố tâm linh trong cuộc hành trình này. Xin trân trọng giới thiệu tập sách “Cuộc tìm kiếm hài cốt cố tổng bí thư Hà Huy Tập” cùng độc giả với hy vọng sẽ đem lại nhiều điều bổ ích và ý nghĩa. Hà Nội, ngày 22 tháng 2 năm 2010.2 likes
-
Tản Mạn Về Chữ Việt Cổ
Lãn Miên and one other liked a post in a topic by Thiên Luân
Tản mạn về chữ Việt cổ (chữ trên trống đồng Lũng Cú) - Khái lược về chữ Việt cổ: Trần Thi Từ hàng nghìn năm qua, các nhà khoa học trong và ngoài nước đều khẳng định: Việt Nam có chữ viết từ rất sớm, trước chữ Hán cả nghìn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Các nhà nghiên cứu, Anh, Tiệp xác nhận: “Ngay từ trước công nguyên, người Việt đã có chữ tượng thanh – loại chữ ghép chữ cái thành từ”. Điều này được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ đồ gốm, đồ đồng của thời kỳ Đông Sơn như: lưỡi cày, lưỡi xéo, đặc biệt là trống đồng…cùng các hình vẽ chữ viết trên đá cổ Sa Pa, Xín Mần. Pá Màng… theo một hệ thống nhất quán, tất cả đều thể hiện đó là những chữ viết cổ từ thời kỳ tiền văn tự, phát triển và hoàn thiện dần thành bộ chữ “khoa đẩu”. Ở Việt Nam, từ lâu, những nhà nghiên cứu như: Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Lê Huy Nghiệm, Lê Trọng Khánh, Hà Văn Tần, Trần Trọng Thêm, Phạm Ngọc Liễn, Đỗ Văn Xuyền… cùng đông đảo các nhà nghiên cứu Việt kiều đã có những thành công đáng kể. Qua các di chỉ khảo cổ, đặc biệt là các di chỉ thuộc nền văn minh Đông Sơn, trống đồng Lũng Cú, các bản khắc đá cổ… các nhà khoa học đã có những luận cứ chắc chắn, khoa học chứng minh cho sự tồn tại của chữ Việt cổ – chữ “khoa đẩu” mà thuở xưa Hùng Quốc Vương cho khắc trên lưng rùa bản tóm tắt lịch sử nước ta tặng cho vua Nghiêu để tỏ tình hòa hiếu – (Theo cổ sử Trung Quốc “vào thời Vua Nghiêu ( năm 2357 trước công nguyên) có sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà – tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng một con thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa Đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau”. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch. Sách Lĩnh Nam Chích Quái của ta cũng ghi rõ điều này. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông cũng ghi: “Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” nghĩa là thời vua Nghiêu, nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu). Đó chính là bộ chữ ẩn trong bộ chữ “hỏa tự” do Tri châu Phạm Thận Duật tìm thấy ở Tây Bắc năm 1855 – 1856, cùng nhiều tài liệu khác có cùng cấu trúc đồng dạng – (Vương Duy Trinh năm 1903 là Tổng đốc Thanh Hóa, ông viết trong “Thanh Hoá quan phong” in năm 1903 đã cho rằng chữ Thái là chữ Việt cổ còn sót lại ở Tây Bắc. Vương Duy Trinh viết: “Vì thập châu (vùng Tây Bắc) là nơi biên viễn (biên giới xa) nên dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp (186) bắt bỏ hết để học Hán tự”. Bộ chữ Thái thổ tự của Phạm Thận Duật phát hiện năm 1855 cũng ở vùng Tây Bắc). Các nhà khoa học cho rằng văn tự này có thể là một biến thể của chữ “Khoa đẩu” hay “Hoả tự” đã ghi trong cổ sử. Thứ chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt – Mường. Do không được sử dụng phổ biến, bộ chữ này bị đóng băng, không phát triển theo kịp những biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại. Đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Bộ chữ khoa đẩu ấy hình thành và phát triển đồng hành với dân tộc Lạc Việt cả về thời gian, không gian và quá trình lịch sử. Bộ chữ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt cổ trước công nguyên, tồn tại song hành cùng ngôn ngữ Việt, thích ứng với đặc điểm ngôn ngữ Việt. Cũng chính vì tìm được cách giải mã chữ Việt cổ mà các nhà nghiên cứu hiện nay có thể đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ giải rác trong dân và trong thư viện Lisbon, Pari, Roma… mà đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Đặc biệt theo: “Những tín hiệu thu được từ bản lược đồ địa danh ngôn ngữ Việt cổ” của giáo sư Lê Trọng Khánh, thì không gian phân bố của chữ Việt cổ vô cùng rộng lớn, góp phần vào việc vạch phương hướng tìm hiểu cương vực và nguồn gốc người Việt cổ. Như vậy “Chữ viết đóng góp quyết định vào nền văn minh Việt cổ” và: “Sự đồng nhất ngôn ngữ trên chữ viết và địa danh cổ càng khẳng định tính chất bản địa của người Việt cổ có nguồn gốc Đông Sơn và rất gần với nhau. Vấn đề này có liên quan đến việc phân bố dân cư cổ đại có nguồn gốc chung trên một địa bàn. Sự đồng nhất ngôn ngữ trên chữ viết và địa danh cổ, tổ tiên trực tiếp của chúng ta ngày nay. Người Lạc Việt đã sáng tạo văn minh Đông Sơn, có ảnh hưởng rất lớn đối với các dân tộc khác trước công nguyên” – (Lê Trọng Khánh). Cũng chính vì vậy mà bao năm Sỹ Nhiếp ra lệnh triệt phá, tàn sát, bộ chữ “khoa đẩu” của người Việt cổ vẫn có một sức sống bất diệt. Do tính chất khoa học và tiến bộ đặc biệt của bộ chữ Việt cổ đã được sáng tạo theo kiểu Alphabet, nên chỉ cần điều chỉnh đôi chút, các dân tộc Bách Việt đã có thể sử dụng để ghi tiếng nói của dân tộc mình, cũng như của Tổ Tiên Bách Việt. Một trong những thành tựu rực rỡ nhất mà ông cha ta xây dựng nên từ thời tiền sử là thành tựu giáo dục. Thời Hùng Vương chúng ta đã có một hệ thống giáo dục với các trường học, các thầy cô giáo và các học sinh. Cha ông ta đã phát minh ra giấy viết. Các nhà nghiên cứu đã dầy công tìm hiểu và có được chính xác được tên tuổi 18 thầy giáo từ thời Hùng Vương từ thời Hùng Vương thứ 6 và nhiều tên tuổi các học trò nổi danh trong lịch sử. Theo một cuộc điều tra của Pháp những năm 30 về hệ thống đền, đình ở nước ta – tài liệu vẫn còn lưu trữ ở Viện Hán – Nôm, thì toàn miền Bắc và miền Trung có hơn 40 đền thờ các thầy cô giáo và những học trò thời trước Hán, tức là thời Hùng Vương đến thời An Dương Vương. Tại thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, Thành phố Việt Trì (Phú Thọ) nằm trong địa phận của Kinh đô Văn Lang xưa, có đền Thiên Cổ Miếu, nơi tương truyền thờ hai vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, đời Hùng Vương thứ 18, dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Cho đến nay, qua những chứng tích còn lại, đấy là ngôi đền thờ thầy cô giáo, tôn vinh sự học cổ nhất ở Việt Nam. Các nhà nghiên cứu cũng thống nhất được bộ chữ Quốc ngữ được các giáo sỹ phương tây cùng những trí thức Việt Nam La Tinh hóa tên cơ sở bộ chữ “Khoa đẩu”, mà công đầu là của hai giáo sỹ Bồ Đào Nha: Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa cùng đội ngũ những trí thức người Việt bằng những căn cứ khoa học không thể chối cãi đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước thừa nhận. Trên cơ sở công trình đó, sau này Alexandre de Rhodes hệ thống hóa và chỉnh lý hoàn thiện thêm. Như vậy, các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước qua hệ thống di chỉ khảo cổ, qua khảo cứu ngôn ngữ: thư tịch cổ, địa danh ngôn ngữ… đã khẳng định chắc chắn: Chữ Việt cổ đã từng tồn tại và phát triển ở trình độ cao từ rất sớm. - Đôi điều suy nghĩ: Các công trình nghiên cứu mới mang tính tự phát, xuất phát từ cái tài, cái tâm của một số nhà khoa học; chưa được các cơ quan chức năng coi trọng đúng mức; chưa có sự tổ chức tham gia của nhiều nhà khoa học và chuyên nghành liên quan; chưa có các hội thảo khoa học đúng nghĩa mang tầm quốc gia về vấn đề này. Bởi vậy ngay trong giới nghiên cứu cũng chưa có tiếng nói chung, con đường đến đích cũng vì thế mà dài thêm và không tránh khỏi có những vấn đề còn phải bàn bạc. Gần đây có những công trình rất đáng chú ý, như: “Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình khoa đẩu”, của giáo sư Lê Trọng Khánh. Bằng những cứ liệu khoa học và khảo cứu ngôn ngữ mang tính bản địa đặc thù và nhất quán, giáo sư đã chỉ ra được sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ từ thấp lên cao. Công trình cả cuộc đời ấy có giá trị to lớn, đặt nền móng cơ sở vững chắc cho các công trình nghiên cứu tiếp của các họcc giả khác. Trong công trình này có những phần đặc biệt quí giá như: “Những tín hiệu thu được từ bản lược đồ địa danh ngôn ngữ”. Theo giáo sư nghiên cứu địa danh cổ là cơ sở để suy nghĩ về nguồn gốc người Lạc Việt. Và cùng từ lớp địa danh cổ này, khẳng định một vấn đề quan trọng, người Lạc Việt là cư dân bản địa, bắt nguồn từ một cộng đồng người cổ, vốn đã sinh sống trong tiền sử trên đất nước ta. Người Lạc Việt từ Hai Bà Trưng trở về trước, trong ngôn ngữ có lớp từ cơ bản là thống nhất; chính sự xâm nhập của người Hán – là yếu tố cơ bản có tác động đến sự chuyển hóa dần dần tiếng nói của người Lạc Việt thành những nhóm ngôn ngữ có yếu tố khác nhau trong lịch sử. Những dẫn liệu về địa danh cổ không dừng lại ở giới hạn sử liệu khô khan mà còn nêu lên nguyên nhân cơ bản lịch sử, đặc biệt từ sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, phương Bắc đã chiếm đất và đồng hóa một bộ phận người Lạc Việt ở Lưỡng Việt và làm phân liệt về tộc người thành các bộ phận khác nhau. (trong một ngày gần đây cuốn: “Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình khoa đẩu” được xuất bản và phát hành rộng rãi trong và ngoài nước). Giáo sư vẫn ao ước có một sự tài trợ đúng mức về tinh thần và vật chất để hoàn thành công trình: “Yếu tố Mường – Việt trong ngôn ngữ Thái”, thêm một cứ liệu cho công trình chữ Việt cổ. Ở tuổi 87 trí tuệ còn rất minh mẫn, sức khỏe còn tốt, bầu nhiệt huyết với văn hóa dân tộc vẫn tràn đầy, song tiếc thay..! Ông Đỗ Văn Xuyền ở thành phố Việt Trì, năm nay đã gần 80 tuổi, đã mấy chục năm nghiên cứu về chữ Việt cổ. Theo ông là đã giải mã được bộ chữ Khoa đẩu, dùng bộ chữ ấy ghi lại được các mặt đời sống xã hội từ cổ đại cho đến hiện đại. Ông cũng dày công tìm được hệ thống thầy cô giáo thời Hùng Vương trên khắp đất nước và khao khát công trình được nghiệm thu, chữ Việt cổ được công khai thừa nhận và được đưa vào giảng dạy trong nhà trường… Dư luận trong và ngoài nước quan tâm rất cảm phục cái tài, cái tâm của các nhà nghiên cứu chữ Việt cổ, song không khỏi băn khoăn: Cứ liệu để khẳng định sự tồn tại của chữ Việt cổ qua di chỉ còn ít. Trong công trình của một nhà nghiên cứu, Chữ “khoa đẩu” tìm được giống chữ Thái Việt Nam tới trên 70%, nhưng việc chứng minh chữ Thái có nguồn gốc từ chữ Khoa đẩu chưa đủ tính thuyết phục. Ngay cách đọc các chữ cái khoa đẩu cũng giống người Thái đọc. Vậy ngày xưa ngôn ngữ nói của người Việt cổ như thế nào? Yếu tố Việt trong ngôn ngữ Thái còn đến bây giờ như thế nào? Hiện nay còn bao nhiêu phần trăm còn trong ngôn ngữ nói hiện đại? Cũng theo nhà nghiên cứu đó, chữ khoa đẩu có thể ghi âm được mọi mặt sinh hoạt trong xã hội hiện đại, vậy xã hội mà khi chữ khoa đẩu cực thịnh đã phát triển tới mức nào..? Trong khi mỗi ngôn ngữ là sản phẩm và chỉ phản ánh một giai đoạn lịch sử nhất định. Không có một thứ chữ nào thích ứng với mọi thời đại?! Và tại sao cho đến nay công trình nghiên cứu chữ Việt cổ chưa được trở thành công trình mang tầm quốc gia…? - Thay lời kết: Sự tồn tại và phát triển của chữ Việt cổ là một sự thật khách quan, được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước thừa nhận, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Việc nghiên cứu, tìm và giải mã được chữ Việt cổ có tác dụng to lớn giúp ta hiểu thêm về lịch sử nước nhà, tăng cường lòng tự hào dân tộc. Công trình chữ Việt cổ của các nhà nghiên cứu, dù thành công ở mức nào cũng rất đáng trân trọng. Bởi tất cả những tư liệu quí báu đó như những đốm lửa làm nên ngọn lửa, soi sáng cho chúng ta trên con đường tìm được, giải mã được, khẳng định được chữ Việt cổ của Tổ Tiên! Mong sao công trình chữ Việt cổ của các nhà nghiên cứu được chú trọng và đầu tư đúng mức trong lúc còn chưa quá muộn. Vanhac.org2 likes -
1 like
-
Nếu là độc thủ thì như 1 mình 1 cỏi mặc sức tung hoành ,có chính tinh thì cũng lệ thuộc chia xẻ với chính tinh ,nhưng đối với nữ thì không nên có Đà La nằm tại cung mệnh thân hay phu cung , dầu có chính diệu tốt cũng khóc khổ vì chồng con .1 like
-
Giờ nGọ /dạng người cao trung bình ,mặt vuông kém đầy đặn nước da hơi trắng hay rám dễ bắt nắng ,tóc hoăn hay hoe ,có tóc bạc sớm,tánh nóng nhưng thâm trầm ,giận thì để bụng không nói ra , tình thì nhân hậu thẳng thắn ,học hành cũng khá thông minh lanh lợi ,vui vẻ và uyển chuyển,nhưng không hiển đạt dù có học đến mấy cũng vậy ,có thiên kiến về các môn văn chương nghệ thuật hay hội họa mỹ nghệ /anh em chỉ có 1 ,nhưng xung khắc với người anh chị cả , anh chị khá giả giàu có không mãi mai nhờ được .Giờ Mùi / người hơi cao nhưng gầy ,nước da xanh xao hay vàng ,mặt tròn nhỏ mắt lõm , tánh nhút nhát e dè ,hay đa nghi làm việc gì cũng thiếu suy nghĩ hay thất bại , học hành kém thông minh ,sức khỏe kém thường hay đau yếu / có anh chị em cũng nhiều hơn 2 , anh chị khong thuận nhưng vẫn thường hay giúp đỡ lẫn nhau . NẾU LÀ GIỜ nGỌ ANH TA CÓ THỂ LÀM ĐÁM CƯỚI TRONG THÁNG 11 ÂL NĂM NẦY .1 like
-
Tháng 12 âl nầy cô ta sẽ có thai lại trong năm tới sẽ có con ,tháng nầy và tháng 10 âl tình cảm vợ chồng gây cấn cung phu cô nầy Vcd ĐÀ LA độc thủ , mệnh phá -kình tính ngang bướng hay gây sự , lúc khi mới quen giao tiếp lần đầu với ai cũng có thiện cảm dần dà về sau tình cảm mất dần không được bao lâu thì xoay 180 độ , nếu có con trong năm tới thì gia đạo của 2 người mới có hy vọng lâu bền ,nếu không hạnh phúc tồn tại hay không nằm trong tay quyết định của cô nầy .1 like
-
Cháu có bị hhen suyễn ? Là con 1 ,nhưng trước khi sanh mẹ có bở người chị gái nào ? Cha hay mẹ là người có danh chức quyền ? Bên trái tay hay chân có tì vết ? trên trán có vết chàm ,sẹo ?1 like
-
Chào bác VuiVui Liêm trinh nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận giá trị khoa học mà Đức phật đã khám phá ra như luật "nhân quả" chẳng hạn. Liêm trinh mới kiểm tra lại luật này ở vụ án "Lệ Chi Viên".Vì bà Nguyễn Thị Anh làm những việc khuất tất nên buộc phải giết Nguyễn Trãi một người dốc hết tâm sức theo khả năng của mình cho dân tộc đất nước.Kết cục khi đã leo lên tới ngôi thái hậu và con đã là vua rồi mà vẫn phải trả giá. Chỉ tiếc cho vị vua con của bà Nguyễn Thị Anh và có thể cả vợ và con của vị vua nàycùng gia quyến của bà Nguyễn Thị Anh(Thời phong kiến những sự liên quan như vậy thường diễn ra) đã phải chết oan uổng do tội của bà Nguyễn Thị Anh gây ra. cái đạo bác nói liêm trinh cũng không hiểu nó là cái gì hay là cái "đạo đức kinh" u u mê mê của Lão Tử vì liêm trinh đọc tất cả trong rổ sách của mình, tùy từng lúc nghĩ cái gì thì tìm lại những cái có thể liên hệ được để đọc. Nói chung liêm trinh nghĩ như người Việt Nam chúng ta có câu:"Lá rụng về cội","cóc chết ba năm quay đầu về núi" tất cả mọi người Việt Nam khi đang học tập nghiên cứu thì còn tìm cái huyền vi ở đâu đó và khi đủ độ chín thì mỗi lần thắp nén hương trầm trên bàn thờ Tổ Tiên lại dật mình thấy các cụ nhà mình giỏi thật sao lại gọi là "Tổ Tiên" , sao lại gọi là "Tập văn cúng Gia Tiên",sao lại nói là "Tổ Tiên phụ hộ độ trì". Bác thử kiểm tra lại lời liêm trinh nói xem có đúng không,thứ bảy chủ nhật tới bác về nhà thờ tổ họ của bác thắp hương xem người thân trong họ của bác có hỏi chào bác về thắp hương cho Tổ Tiên không. Kính bác1 like
-
Sg Ngập Nắng
Hạt gạo làng liked a post in a topic by Nắng
Nắng vẫn đâu đây, vẫn lắng nghe Thu qua, đông tới hay sang hè Vẫn nhớ oải hương mong Nắng đấy Nắng về hoa oải có xum xuê?1 like -
Khí Công Dưỡng Sinh Từ Thiện Nhằm giúp cho mọi người lợi lạc về sức khỏe, niềm vui và tâm hồn, Đại Sư Huynh Nguyên Hà sẽ trực tiếp hướng dẫn luyện tập và thị phạm hành công trong 2 tuần, từ ngày 15/11/2010 đến 26/11/010, tại Tp HCM. Chương trình: Mục đích: Trị bệnh, gia tăng sức khỏe. Hình thức: học tập trung và miễn phí hoàn toàn. Thời gian: Từ thứ 2 đến thứ sáu của 2 tuần 15/11/2010 và 26/11/2010. Giờ học: từ 19g00 đến 20g30. Địa điểm: Trường Nguyễn Bỉnh Khiêm gần Thảo Cầm Viên Tp HCM. Quý vị biết thông tin này, cũng nên cho những người bệnh, những người muốn cải tạo sức khỏe cùng biết, đây cũng là một cách làm từ thiện cụ thể, lợi lạc cho đồng bào. Thiên Đồng1 like
-
Cũng cần phải nói rõ thêm là:Quan niệm Phong thủy gồm nhiều yếu tố tương tác là của Phong Thủy Lạc Việt. Phong thủy còn lại từ cổ thư chữ Hán không nói điều này, mà nó gồm nhiều trường phái mâu thuẫn nhau. Phong thủy Lạc Việc là khái niệm xác định cội nguồn lịch sử, nguyên lý căn để và sự hiệu chỉnh một số tính ứng dụng cụ thể của môn này trong văn hóa Phương Đông. Chứ nó không thay đổi về phương pháp luận và nhiều nguyên tắc ứng dụng trong phong thủy còn lại. Nó có tác dụng tổng hợp tất cả cái gọi là "Trường phái" lưu truyền trong cổ thư chữ Hán và tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh.1 like
-
Chào Anh Phong thủy bao gồm nhiều yếu tố tương tác và phong thủy tốt hay xấu không thể thay đổi số mệnh. Phong thủy chỉ có thể thay đổi định lượng chứ không thể thay đổi định tính của số mệnh. Hướng tốt xấu chỉ là 1 yếu tố và có thể trấn yểm. thân chào hth1 like
-
1 like
-
1 like
-
Thần chú Cầu Tài Tại một số nhà ngoài hai tượng của Ông Địa và Thần tài như bình thường , người ta còn thờ ở chính giữa ban thờ một vị như hình đầu tiên . Vị đó chính là Hoàng Thần Tài . Hoàng Tài Thần là hóa thân của Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) ngự tại Bắc phương trong Mandala tượng trưng Bình Đẳng Tánh Trí . Hoàng Tài Thần có 8 vị thần tướng vận chuyển về tài và Tứ Đại Thiên Vương theo hộ Pháp . Có tất cả 5 vị Thần tài : Hoàng Thần tài , Bạch Thần Tài , Hỏa Thần Tài , Hắc Thần Tài , Lục Thần Tài . Trong đó : ” Hoàng Tài Thần chủ về PHÁP TÀI : Trì tụng chú của Ngài hành giả sẻ được tăng trưởng thêm về Phật Pháp và công đức cũng như tiền bạc , theo kinh điển Mật Tông thì ngài hiện thân trừ thiên ma quấy phá lúc Phật Thích Ca Mâu Ni lần đầu thuyết Bát Nhã Tâm Kinh , sau đó Thế Tôn thọ ký cho Ngài như nguyện làm Thiên Tài-Hộ Pháp . Bạch Tài Thần chủ về TÂM TÀI : Chủ trừ các phiền não về tài và hóa giải các định nghiệp . Hỏa Tài Thần coi về ÁC TÀI : năng trừ các kẻ thù về tài , làm cho trí huệ tăng trưởng . Hắc Tài Thần coi về TÀ TÀI : Chủ trừ các tà quỉ , oan gia đến báo vì tài . Lục Tài Thần coi về YỂU TÀI : Năng trừ yểu mệnh vì tài . Hoàng Tài Thần là hóa thân của Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) ngự tại Bắc phương trong Mandala tượng trưng Bình Đẳng Tánh Trí . Hoàng Tài Thần có 8 vị thần tướng vận chuyển về tài và Tứ Đại Thiên Vương theo hộ Pháp . Bạch Tài Thần là hóa thân từ giọt nước mắt bên phải của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát (Tara Độ Mẫu là hóa thân từ giọt nước mắt bên trái), Bạch Tài Thần có 4 vị Đồ Cát Ni (Dakini), hộ trợ , vận chuyển về tài lộc . Hỏa Tài Thần là hóa thân của Ngài Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) Hắc Tài Thần là hóa thân của A Súc Bệ (Akshobyah) Diệu Sắc Thân Như Lai , ngự tại hướng đông của Mandala tượng trưng Đại Viên Chủng Trí . Lục Tài Thần là hóa thân của 1 trong Tứ Đại Thiên Vương . Nếu Bạn có trì Chú của Chư Vị này , trước nên trì Kim Cang Tát Đỏa bách tự minh chú hay Đại Bi hoặc các thần chú linh cảm của Quán Thế Âm thì công năng sẻ tăng rất nhiều . Nếu chỉ thuần túy cầu xin tài lộc , chỉ trì tâm chú của Hoàng và Hắc Tài Thần là đủ rồi . Hoàng Tài Thần Tâm Chú : OM DZAMBHALA DZALENTRAYE SVAHA Bạch Tài Thần Tâm Chú : OM PADMA TROTHA ARYA DZAMBHALA SIDDHAYA HUM PHAT . Hỏa Tài Thần Tâm Chú : OM DZAMBHALA DZALIM DZAYA NAMA MUMEI E SHE E . Hắc Tài Thần Tâm Chú : OM JLUM SVAHA OM INDRAYANI MUKHAM BHAMARI SVAHA . Lục (xanh lục) Tài Thần Tâm Chú : OM DZAMBHALA DZALIM DZAYE SVAHA . ” ( Chép lại bài viết của Thày Sương Mãn Thiên ) Một bản Anh ngữ và bản lược dịch kèm theo mà dienbatn sưu tập được ( Quên mất nguồn ) nói về Hoàng Thần Tài như sau để các bạn tham khảo : ” The Lord of Wealth, Granter of Supreme Accomplishments Establish the motivation Main practice: From emptyness appears a multicolored lotus Upon which is a sun with a golden-yellow DZAM (on it) I become golden Dzambhala with a semi-wrathful face Right hand holding a citron fruit and Left hand grasping a mongoose emitting a shower of jewels Wearing a crown of the Five Buddhas And adorned with a garland of blue utpala-flowers and many jewels and heavenly clothing. Both feet pressing on the great treasures (such as) ‘Conch-Owner’ and ‘Lotus-Owner’ In my forehead is a white OM The throat is a red AH And in the heart is a blue HUNG From these three syllables shine forth multicolored lights The gathering of Wisdom-beings and the Empowerment-deities dissolves (into myself) Visualization during mantra-recitation: At the heart is a golden-yellow DZAM circled by a golden-yellow mantra garland with light radiating Making offerings to all Buddhas and Bodhisattvas, gathering back their blessings Purifying the obscurations of all sentient beings of the Three Realms Establishing all in the state of Peace and accomplishing all the enlightened-activities The light returns and dissolves into the mantra-garland and the seed-syllable OM DZAMBHALA DZALENDRAYE SVĀHĀ Offerings: OM VAJRA ARGHAM/ PĀDYAM/ PUSHPE/ DHŪPE/ ĀLOKE/ GANDHE/ NAIVEDYĀ/ SHABDA/ PRATĪCCHA SVĀHĀ Praise: Lord of Wealth, owner of precious treasures Master of many yaksha keepers of wealth Guardian of the North, Protector Dzambhala Wealth-deity, granter of supreme accomplishments – I prostrate and praise! Dedication: By this virtue, may I swiftly Attain the state of the Noble Dzambhala And (may I) establish all beings without exception In that very same state ” ” zambhala đã hiện hữu trong vô số kiếp . Trong một tiền kiếp của Phật , Ngài chỉ là một gã đốn củi nghèo nàn . Ngài thực hành về thần chú Dzambhla , như một kết quả , Ngài trở thành một vị vua đầy quyền lực và giàu có . Lúc ấy , với nhiều phương tiện trong tay , Ngài hành pháp Bố Thí Ba La Mật và đạt đến viên mãn pháp này . Ngài đắc quả Sơ Địa . Do đó , Dzambhla , dù rằng là Bổn Tôn Tài Bảo Thịnh Vượng , nhưng được xem là Cha Mẹ Chư Phật , tượng trưng cho hạnh Bố Thí Ba La Mật của Chư Phật . Dzambhla được Phật phú chúc vào thời gian sau khi Ngài nhập Niết Bàn , thường qua lại trong các cõi , ủng hộ chúng sinh tăng trưởng hạnh phúc thịnh vượng và hộ pháp . Bản văn trên là một đoản tụng , có thể dành để gieo nhân duyên cho người thành tâm , chân thật thâm tín Phật Pháp . Đi đến sự tăng trưởng hạnh phúc trong vật chất cùng tinh thần là con đường hướng thượng ! Tu là hạnh phúc với Trung Đạo , chớ chẳng phải gò ép xác thân , rồi bị xiềng trói trong một ảo kiến tự ngã vi tế !” B/ Qua nhiều năm thực hành nghiên cứu , dienbatn thấy Thần Tài – Ông Địa có những đặc tính nổi bật sau đây : 1/ Tuy thờ cúng , bàn thờ để dưới đất , nhưng các vị này rất ưa chuộng sự sạch sẽ , sáng sủa . Chính vì vậy , trong quá trình thờ cúng , chúng ta nên giữ cho các vị này luôn sạch sẽ bằng cách tắm rửa thường xuyên bằng nước hoa thơm , xịt nước hoa . Một cách thấy có hiệu quả nhất mà dienbatn nghiệm thấy là khi Trời mưa to , các bạn bê Thần Tài , Ông Địa , Ông Cóc cho vào một cái thau sạch và để tắm mưa ngoài Trời độ 15 phút . Sau đó mang vào lau khô , xịt nước hoa và thắp hương xin . Nhiều lần thấy rất Linh diệu . 2/ Khi cúng Thần Tài – Ông Địa , người ta thường cúng nhiều thứ , nhưng dienbatn thấy có lẽ các vị này thích nhất là đồ ngọt , Thịt quay , bánh hỏi , chuối , bưởi . Có lần một vị về báo mộng xin cúng chuối , sau khi cúng là có lộc liền . Nếu bạn nào ở Sài Gòn , nên mua tiền giấy cúng riêng Thần Tài – Ông Địa , người ta làm sẵn cả một bộ , trong đó có tiền Quý Nhân ( Âm và Dương – Tức là những tờ giấy gập đôi màu đỏ có đục những hình Thần Tài khắp bề mặt ) . Thứ tiền này , dienbatn không thấy có bán ở miền Bắc . 3/ Cách thắp nhang : Khi mới lập bàn thờ , chúng ta nên thắp nhang liên tục trong 100 ngày để bàn thờ tụ Khí . Tuyệt đối không vì sợ tốn điện mà tắt đèn trên bàn thờ , vì những ngọn đèn đó giống như những ngọn Hải Đăng dẫn đường cho các vị giáng xuống . Trong 100 ngày đó mỗi sáng chỉ cần thay nước và thắp một nén nhang . Những lúc cần cầu xin điều gì thì thắp 3 nén cắm theo hàng ngang . Những ngày rằm , mùng một , lễ , tết thắp 5 nén theo hình chữ thập . Nên chọn loại nhang cuốn tàn ( giữ được tàn ) , sau một thời gian sẽ có bát hương rất đẹp và tụ Khí rất tốt . Chỉ đến ngày 23 tháng Chạp mới rút chân nhang và đem hóa cùng tiền giấy . Khi hóa xong nhớ đổ một chút rượu vào đám tro . 4/ Không để hoa , lá héo úa trên bàn thờ , vì khi đó dễ dẫn đến làm ăn khó khăn . C/ CÁC BÀI CHÚ CẦU TÀI ĐỌC TẠI BÀN THỜ ÔNG ĐỊA – THẦN TÀI : ( dienbatn sưu tập và được thày Sương Mãn Thiên chỉ dạy ) các bạn có thể sử dụng : Các loại Chú cầu Tài : BẠCH Y THẦN CHÚ : Câu chú này dùng tất cả trong những công việc của đời thường. Cầu xin may mắn , tai qua nạn khỏi .Cầu xin các Tổ nghề dạy nghề, Thỉnh Long Thần hộ Pháp…Đọc khi Khai trương, mở tiệm ,bán nhà , làm cho vợ chồng thương yêu nhau ,hộ thân , cầu mua may bán đắt , giải ếm , làm mồ mả, hay bất cứ công việc gì đều có thể được . Người thường chỉ cần tụng theo nghi ở dưới, riêng các Thày có thêm phần vẽ Phù Linh Thần. BẠCH Y THẦN CHÚ : (Nam mô đại từ đại bi – Tầm thinh cứu khổ, cứu nạn – Quảng đại linh cảm – Bạch Y Quán thế âm Bồ tát ) – 3 lần. Nam mô – Bút đada – Nam mô – Đạtmada – Nam mô xănggada. Nam mô – Arida – Avalôkitê – Xoarada – Tadactha. ( Ohm – Gara oata – Gara oata – Gaha oata – Raga oata – Raga oata – Xoáha ) – 7 – 21 –108 biến. Thiên la Thần, Địa la Thần. Nhân ly nạn , Nan ly thân , Nhất thiết tai ương hóa vi trần. Nam mô Bạch y Quán Thế Âm Bồ tát – Cảm ứng chứng minh cho con là……….tuổi…….. địa chỉ…….. ( Xin gì thì nói ra ). QUAN ÂM ĐỘ TRÌ GIA MÔN KINH QUAN ÂM ĐỘ TRÌ GIA MÔN KINH ! Phật tử Quan Âm gia môn kinh , bảo ngả gia môn vạn sự hưng , bảo ngả gia nội đại phú quí , bảo ngả gia môn thêm tài đinh. Nhật nhật tụng kinh hửu thât’ biến , Thần Phật thính chi bất cam hiềm , tiền nhật hửu tội kim nhật giải , kim nhật giải tội hửu vạn biến. Nhật nhật tụng kin hửu thiên bàn , kháo Thần kháo Phật tối thái sơn ,nhất lai bảo nam nhị bảo nử , bảo ngả hợp gia độ bình an.Bái Phật bái Thần bái từ bi, cầu Thần cầu Phật lai bảo an , gia trung đại tế Phật lai bảo, gia nội hửu sự phất mạt khai. Bái đáo lô để hương hựu hương , bái đáo đăng quang trúc hựu hồng , bái đáo gia nội đại phú quí , bái đáo tử tôn đô bình an. Quan Âm trụ tại Phổ đà sơn , gia nội phụng kính đô nhất bàn , hửu nhân tụng đắc Quan âm kinh , thiên tai bách nạn tận tiêu hội. Quan Âm nương nương tại gia viên , tảo tảo vảng vảng nương phù trì , ma ha Phật tổ lai tứ phúc , tứ ngả gia môn phúc lộc tồn. Nam mô bồ tát ma ha tát, ma ha chư Phật bảo bình an. Nam mô a di đà Phật (7 lần) án ma ni bát di hồng , ma hắt nghê nha nạp , tích đô đặc ba đạt , tích đặt ta nạp , vi đạt rị cát , tát nhi cáng nhi tháp , bốc rị tất tháp cát nạp , bổ ra nạp nạp bốc rị ,thưu thất ban nạp nại ma lô kiết , thuyết ra da tá ha. (7 lần ) Trì Quan Âm gia môn kinh trên mổi ngày , giải tai ách chướng nạn , hưng vượng phú quí , tùy sở cầu mà có , cầu tài có tài , cầu con có con…….Thần Phật luôn ngự trị , phù trì nơi nhà mình. CHÚ VÁI ĐẤT ĐAI , THỔ ĐỊA , THẦN TÀI . ( sáng chiều 2 lần thắp nhang cầu nguyện đọc 3 lần ) Nam mô Ngũ phương ngũ thổ Long Thần , Tiền hậu địa chủ Tài thần , Thành hoàng bổn xứ , Thành hoàng bổn cảnh , đất đai dương trạch , đất nước ông bà cảm ứng chứng minh phù hộ đệ tử ….(tên họ tuổi v.v…..) gia trạch bình an , thương mại hiệp thuận , đa khách đáo lai v.v….. ( Khi mình đi chổ lạ ngủ qua đêm hay ngủ nơi khách sạn v.v….cần vái câu này , cũng như là dùng lể ra mắt vậy ) CHÚ CẦU TÀI ĐỌC NGAY BÀN THỜ THẦN TÀI SÁNG CHIỀU . Trương thần Táo , quan thần Địa , tài thần chí , chơn thân hạ giáng , hiện thân lai lâm hộ trì đệ tử (tên họ tuổi v.v……) cầu tài hưng vượng , vạn sự an khương ( 3 lần ) Ôm chên pa la cha linh cha na de xoá ha (21 , 36 , 72 , 108 lần bao nhiêu tuỳ mình , càng nhiều càng tốt , đây là tâm chú của HOÀNG THẦN TÀI ) CHÚ CẦU TÀI Phụng thỉnh Tam Thanh giáo chủ cứu độ dương gian , trên ông Hắc Đế ra lịnh . Nam mô Đông phương Thanh Đế Tây phương Bạch Đế Nam phương Xích Đế Bắc phương Hắc Đế Trung Ương Huỳnh Đế . Thần Lôi , Long Thần , Tài Thần , Trạch Thần , Thổ Thần , ngũ phương ngũ thổ nghiêm trang chỉnh tề hộ độ đệ tử (tên họ tuổi ……),sở nguyện thành tâm , sở cầu thương mãi hiệp thuận , đa nhơn lai đáo (hay tài lợi sung mãn v.v….). (Sáng ,chiều 2 thời đốt nhang ngay Đạo Tràng hay bàn thờ Thổ Thần đọc 5 lần mỗi khi ) Chú Cầu Tài Pali Nam tông (của Lục Cả Miên truyền). Nắc mô ta sắ , phắ cá quá to , á rá há to , sam ma sam pút đa sắ (3 lần lạy Tam Bảo 3 lạy) Ê mê hê ly ba thu ba ty , ca rê hê Pút Thăn Thơm Măn Son Khăn , a bi bớt cha đẹt mi , Pút Thăn mê ta Thơm măn mê ta Son khăn mê ta Pút Thăn à nách Thơm Măn à nách Son Khăn à nách Một kho luôn kha-nhum hon …( tên họ tuổi mình v.v…)ê hý mặc mặc . (đọc câu này 5 lần sáng , chiều) Chú Thần Tài Xiêm (Thái Lan) Nắ lư mô linh sa hảnh thù thăn lu cà fụt , danh là danh na sang thì sưởn lảnh ca , Nắ Mô Pút Thê Dắ . ( Nơi đây chúng tôi đã phiên âm từ chử Pali ra theo lối đọc của tiếng Việt , câu chú này có thể đọc 3 , 5 , 7 , 9 , 21 , 36 , 72 , 108 lần tùy ý mỗi ngaỳ , khi đốt nhang bàn thờ Tài Thần , Thổ Địa ) Hoàng Thần Tài chú (Tây Tạng) Om Jăm Pa La cha linh cha na de xoá ha brum . Chú kêu khách đến cửa hàng , tiệm quán của mình cho đông : La ly a thô a úc kha mao ta da rô hô chặc bon sum chô dô lốt . (sáng đọc 21 lần cúng bánh , kẹo , trái cây , rượu trắng , bắp rang ngay bàn thờ Thổ Thần hay ngay cửa .) nguồn: http://mynghevietnam.com1 like
-
Yếu Tố Việt-Mường và Tày-Thái Trong Nền Tảng Văn Hóa Đất Tổ Đoạn sông Hồng chảy qua Phú Thọ được mang tên theo ngữ hệ Tày - Thái cổ là dòng Nậm Tao, sau gọi Sông Thao. Dọc bờ hữu ngạn sông Thao xa xưa là địa vực cư trú của người Tày - Thái cổ. Thời Hùng Vương bộ tộc người Tày, họ Ma cư trú ở vùng chân núi Đọi Đèn thuộc huyện Sông Thao. Ông tổ họ Ma, tên là Ma Khê được vua Hùng phong làm Lương tướng. Vị Lương tướng họ Ma thường hội kiến với vua Hùng và thánh Tản Viên ở làng Văn Khúc. Đình làng Văn Khúc thờ Ma Khê có sắc phong ông là "Phụ quốc đại thần đại tướng quân Ma Khê" vì tương truyền ông được vua phong chức quan đầu triều lo về chính sự thay vua cha khi già yếu và giúp vị vua trẻ lúc mới kế vị ngai vàng. Ma Khê lấy người con gái ở chân núi Vi, cạnh đền Hùng. Về sau ông chuyển cả bộ tộc sang tả ngạn sông Thao. Cháu chắt ông là Ma Xuân cho đắp thành trồng lũy gọi là Ma Thành, gọi chệch là thành Mè. Ngày nay thị xã Phú Thọ có chợ Mè, nền móng thành Mè và ở phố Phú An có đền thờ ông là vì vậy. Vào thời 12 sứ quân cát cứ, cháu chắt Ma Khê là Ma Xuân Trường cầm đầu Ma tộc trấn giữ Thành Mè. Khi thành Hội Hồ (ở làng Văn Khúc) bị thất thủ, tướng quân Kiều Công Thuận chạy sang Ma Thành cùng với Ma Xuân Trường chống lại Đinh Bộ Lĩnh. Kiều Công Thuận tử trận. Ma Xuân Trường chạy lên Tuần Quán, Trấn Yên, Yên Bái. Sau mất ở đấy, được dân làng lập đền thờ và Đinh Bộ Lĩnh vì thán phục uy đức mà truy phong ông là "Ma tộc thần tướng". Nay ở Làng Trù Mật, thị xã Phú Thọ cũng có đền thờ Kiều Công Thuận và Ma Xuân Trường. Dòng họ Ma nay cư trú ở thị xã Phú Thọ, Lâm Thao hậu duệ của bộ tộc ấy hiện có một chi nhánh cư trú ở Việt Trì có gia đình cụ Ma Văn Thực là thân sinh ca sĩ Ma Thị Bích Việt. Hiếm có dòng họ nào lưu giữ được thần phả, gia phả từ thời Hùng Vương như họ Ma ở Phú Thọ. Họ Ma gốc Tày cũng như nhiều họ gốc Mường: Đinh, Quách, Bạch, Hà... là những nhóm cư dân Việt cổ phát triển lên thành người Việt hiện nay. Các truyền thuyết về Ma Khê và Tản Viên ở vùng đất Tổ cũng nói đến sự hội nhập của hai nhóm Việt Mường và Tày - Thái ở Phú Thọ. Tản Viên là người Mường. Dù Tản Viên đã được thần thoại hóa đến hoang đường, nhưng bóc bỏ lớp huyền thoại, ta vẫn tìm được lõi thật lịch sử: ông là con một bà người Mường có tên là Đinh Thị Đen quê ở chân núi Thu Tinh làng Yên Sơn. Bà lấy chồng rồi về sống, sinh đẻ Tản Viên ở Động Lăng Xương, làng Trung Nghĩa bên bờ sông Đà thuộc Phú Thọ. Ông được dân gian tôn sùng đắp vẽ thành một thần tượng của cộng đồng, vừa là anh hùng trận mạc vừa là anh hùng văn hóa. Ông đánh giặc tài lại có công chống lại Thủy Tinh biểu tượng của thiên tai lũ lụt. Ông là người anh linh nghĩa cử khước từ ngôi báu, khuyên vua cha nhường ngôi cho Thục Phán để muôn dân thái bình. Thục Phán cũng gốc Tày - Thái quản lĩnh miền rừng núi phía trên nước Lạc Việt của các Vua Hùng. Yếu tố Việt - Mường và Tày - Thái còn biểu hiện ở sự pha trộn ngôn ngữ. Ngôn ngữ Tày - Thái cổ gọi tre là pheo, gọi chim là chóc gọi chó là má, gọi thật là chân để đan xen thành những từ ghép trong tiếng Việt như: tre pheo, chim chóc, chó má, chân thật. Cũng ghép như vậy với tiếng Mường để có các từ ghép: cá mú, nắng nôi, v.v. Ở khu di tích đền Hùng có ba quả núi. Trong đó có núi Nỏn, cạnh núi Nghĩa Lĩnh đặt tên theo ngữ hệ Tày - Thái: Nỏn là út, vì thế quả núi còn tên nôm thuần Việt một âm tiết là núi út. Ở xã Hy Cương, nơi có Đền Hùng, bên cạnh núi Nghĩa Lĩnh, nay vẫn còn một xóm có tên là xóm Bản Pheo. ắt hẳn người Tày - Thái cổ đến cư trú lập bản ở đây. Do có nhiều tre nên người ta gọi xóm bản của mình là Bản Pheo (pheo là tre) ngày nay xóm Bản Pheo vẫn chìm ngập trong bóng tre. Xòe là múa dân gian của đồng bào Thái. Người Mường ở các xã sát Sơn La, Nghĩa Lộ xưa cũng hay xòe. Phụ nữ Mường ở các xã đó tuy mặc áo cóm và áo dài kiểu Mường truyền thống, nhưng khuy cài cúc cũng khâu dải ngang. Cổ và hai nẹp áo trước ngực cũng thêu như áo phụ nữ Thái, và đầu vấn khăn "piêu" theo kiểu Thái. Người Mường ở vùng này cũng gọi quan đầu Mường của mình là ông quan ngài như người Thái. Có một họ Hà thờ con cuốc vì truyền thuyết họ Hà này cùng họ hàng với Thục Đế (họ Thục Phán). Con cuốc là tổ tiên của Thục Phán. Vùng Mường ở Phú Thọ vì thế có pha trộn văn hóa Tày - Thái ở cận kề. Tiếng Mường và Tày - Thái đều gọi ruộng là "na" hoặc gọi chệch "na" thành "là". ở vùng người Việt (Phú Thọ) cũng nhiều nơi gọi ruộng là "na" như ở Tứ Xã, Sơn Vi, Do Nghĩa, Hà Thạch, Thụy Vân. Làng Cao Xá có những khu đồng như: Là Pheo, Là Giũa, Là Đỏ, v.v. Một tấm bia trên đền Hùng có 50% số địa danh được ghi là na như na Hưu, na Dầu, na Lao, na Hoàng, v.v. Vì nước Văn Lang thời các Vua Hùng là nước của người Lạc Việt (Việt - Mường) nên yếu tố Mường đậm đặc hơn yếu tố Tày - Thái trong nền văn hóa dân gian vùng Đất Tổ. Tổ tiên người Việt cổ ở Phú Thọ thời hồng hoang ắt hẳn sống trong các hang động có rất nhiều ở huyện miền núi Thanh Sơn. Phải chăng vì thế mà sau này khi rời hang động ra sống ở ngoài trời, người ta lấy động làm tên gọi điểm tụ cư như người Việt gọi là kẻ, chạ, thôn, làng. Trước đây người Mường thường vẫn gọi điểm tụ cư của mình là động. Triều đình cũng gọi là các động. Ở Phú Thọ cũng có các địa danh gọi là động như động Khuất Lão ở huyện Tam Nông, động Lăng Xương ở Thanh Thủy, thị xã Phú Thọ cũng có thời gọi là Phú An động. Thị trấn Hưng Hóa gọi Hoa Nham động. Làng Cự Đà (Phù Ninh) thời nhà Lý còn gọi là động Cự Đà, v.v. Riêng Phú Thọ gọi các ông già bà lão là bủ, do ảnh hưởng phong tục Mường. Người Mường Phú Thọ gọi những người già đã có chắt (cháu 4 đời) là bủ. Những người có chắt nội người Mường gọi là ông bủ hoặc bà bủ. Người có chắt ngoại được gọi là bủ vãi ông hoặc bủ vãi bà. Người chưa có chắt nhưng anh hoặc chị mình có cháu 4 đời cũng được gọi là bủ anh hoặc bủ em nếu anh, em ruột mình có chắt nội và được gọi là bủ vãi anh hoặc bủ vãi em nếu anh, chị mình có chắt ngoại. Từ đấy người Việt ở Đất Tổ gọi gộp những người già sáu bảy mươi tuổi trở lên là bủ để tỏ lòng tôn kính. Người Mường có tục gọi vía lúa. Những năm mất mùa, người ta phải đi gọi vía lúa về làng bản của mình. Người ta phải làm lễ cúng vía lúa, rồi thầy mo hoặc một người hát "rang" gọi vía lúa, rủ rê vía lúa về với mình. Nhiều làng Việt cũng có tục rước bông lúa thần trong lễ hội làng mình. Người Việt gọi là thần lúa cũng bắt nguồn từ người Việt - Mường gọi thần lúa là vía lúa. Vì có truyền thuyết vua Hùng từng đứng trên núi Nghĩa Lĩnh gọi vía lúa, nên ở Đền Hùng xưa cũng thờ hòn đá tượng trưng lúa thần. Nếu như người Mường thuộc Mường Kịt có bài hát "rang" gọi vía lúa như sau: .. Lúa nương thì ở phương xa" "Lúa nhà thì ở phương gần" "Về cúng mâm cơm mâm rượu" "Vui từ cửa từ nhà" "Sáng ngày mai vui ra đồng ruộng"... thì người Việt ở làng Nam Cường (huyện Tam Nông) lại có tục múa mo. Có chúa mo đứng chủ trò. Chúa mo có nguồn gốc từ các ông mo là người hoạt động tín ngưỡng của các cộng đồng người Mường. Chúa mo ở Nam Cường hát gọi: "Trong làng cây muống" "Làng ta làm ruộng" "Lúa tốt đề đa" "Là hú ha ha!" "Là hú hơ hơ!" Các lễ hội về mùa màng của người Việt cũng gần giống như của người Mường: lễ hạ điền, thượng điền, cơm mới, v.v. Nhiều làng Mường và Việt ở Phú Thọ cùng thờ Tản Viên làm Thành hoàng. Nếu như nhiều làng Mường thờ dâm thần như ở Thu Cúc xưa có đình miếu thờ nam thần dâm ở xóm Quẽ, nữ thần dâm ở Đồng Than, thì nhiều làng Việt ở Tam Nông, Lâm Thao, Sông Thao cũng có tục cầu thờ sinh thực khí như thờ nõ nường ở Tứ Xã, Sai Nga. Thờ kén (30 cặp sinh thực khí nam) ở làng Dị Nậu, v.v. Nếu như người Mường làm nhà mồ chia của cho người chết, thì người Việt cũng có tục đem theo đồ dùng cho người chết gọi là đồ tùy táng. Các hình thức cưới xin của người Việt cũng tương tự người Mường như tục nòm (ăn hỏi) đưa đón dâu, của hồi môn, v.v. Người Việt và người Mường đều có các trò chơi ném còn, cướp phết; từ đu cọn của người Mường, người Việt đã làm ra đu tiên. Cả hai dân tộc đều hát ví, hát đúm, đều ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình... Người Mường Thanh Sơn có tục hát nàng bung nàng bạn. Những đêm trăng thanh gió mát, các nhà mày (đạo diễn) trải 6 chiếc chiếu ra bãi cỏ cho nam thanh nữ tú vào hát đua tài. Có hát các tích truyện thơ Mường. Chỉ có hát mà chưa có diễn. Có tích nhưng chưa dịch ra trò. Phải chăng chiếu "nàng bung nàng bạn" là tiền thân chiếu chèo của người Việt ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Văn hóa vùng Đất Tổ là sự kế thừa phát huy văn hóa gốc Lạc Việt (Việt - Mường), Tày - Thái, và tiếp thụ các dòng văn hóa khác qua hàng nghìn năm giao lưu, với các vùng khác, các tộc người khác. NGUYỄN HỮU NHÀN1 like
-
1 like
-
4. Những chòm sao cơ bản của Thiên Văn phương đông: 4.1 Chòm sao Đại Hùng Đây là chòm sao Gấu Lớn (Ursa Major) mà một phần của nó bao gồm 7 sao, hình như cái đấu lớn tạo thành chòm sao Bắc Đẩu nổi tiếng. 7 sao đó là Tham Lang, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Văn Khúc, Lộc Tồn, Cự Môn và Phá Quân. Cũng có một cách gọi khác của 7 sao này Thiên Xu (Tham Lang), Thiên Tuyền (Cự Môn), Thiên Cơ (Lộc Tồn), Thiên Quyền (Văn Khúc), Thiên Hành (Liêm Trinh), Khai Dương (Vũ Khúc) và Dao Quang (Phá Quân). Trong 7 sao này, sao Thiên Quyền là sáng yếu nhất do nó ở xa trái đất nhất nhưng lại nằm ở vị trí chính giữa chòm sao Đại Hùng là điểm nối giữa phần gáo và phần chuôi của chòm sao này. Cho nên Đạo giáo xem nó là ngôi sao trọng yếu nhất của cả chòm sao là nơi ngự của thần Bắc Đẩu. Đọc Tam Quốc chí, hẳn ai cũng biết Gia Cát dâng sao giải hạn, 7 ngon đèn thắp sáng theo đúng hình dạng của Chòm Bắc Đẩu thất tinh, trong đó ngọn chủ đăng thì nằm ở vị trí sao Thiên Quyền, đó là nơi chủ sinh tử của con người. Trong lịch pháp, chòm Bắc Đẩu đóng một vai trò rất quan trọng. Người xưa chia Hoàng đạo ra làm 12 cung đặt tên theo địa chi : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Và quy định rằng chuôi của chòm Bắc đẩu chỉ vào cung nào thì tháng đó sẽ mang tên của địa chi tương ứng. Chuôi chỉ vào cung Tý thì đó là tháng Tý ---------------------- Sửu --------------- Sửu ---------------------- Dần --------------- Dần ..... Cung mà chuôi của sao Bắc Đẩu chỉ vào còn gọi là "Kiến". Ở đây phải nói rõ, tôi viết là chòm sao Đại Hùng để phiên âm Hán Việt cho Ursa major, chứ thật ra chòm sao Bắc Đẩu gồm 7 sao chỉ là 1 phần của chòm Đại Hùng - vốn là tên gọi của Thiên Văn Phương Tây. Phương Đông chỉ biết đến chòm Bắc Đẩu gồm 7 sao chứ ko có khái niệm chòm Đại Hùng. 4.2 Chòm sao Tiểu Hùng Còn gọi là chòm sao Gấu Nhỏ (Ursa Minor), nó quan trọng vì nó chứa sao Bắc Cực (Bắc Thần) là ngôi sao duy nhất đứng yên trên bầu trời. Đường nối từ Trái Đất đến sao Bắc Thần được gọi là Thiên Trục và người xưa quan sát mọi tinh tú quay quanh thiên trục này. Thiên trục bản thân lại không cố định mà nó có chuyển động theo 1 hình nón - tuế sai- nếu nhìn từ trái đất. Hình chóp này có đỉnh là trái đất và đáy thì quét thành một vòng tròn đi qua các chòm sao Thiên Vương, Thiên Nga, Thiên Cầm, Vũ Tiên, Thiên Long. Như vậy bây giờ sao Bắc Cực đang nằm ở trong chòm Tiểu Hùng, 2000 năm nữa sẽ ở chòm sao Thiên Vương, 8000 năm nữa sao Bắc Cực sẽ ở chòm sao Thiên Nga, 10000 năm nữa ở chòm sao Thiên Cầm,... 1 chu kỳ như vậy thiên văn phương Tây tính được xấp xỉ 26000 năm, còn phương Đông môn Thái Ất đã hàm chỉ ra là 25920 năm.1 like
-
Thân Mời
Thiên Sứ liked a post in a topic by wildlavender
Nơi đây ngôi nhà Lục Giác sẽ được thực hiện Lễ Cầu Siêu, Mặt nhà Lục giác hướng ra phía Sông nơi phóng Sinh. Có những bâc thang ra mé sông. Khuôn viên tòa nhà chúng ta có thể ngỗi đãnh lễ. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát tại vị trí trung tâm Chùa, nơi đây hàng tuần và ngày rằm mùng một người dân thành phố thường đến để thí lễ phóng sinh chim cá.1 like -
Chỉ là lấy vợ sinh con thôi bạn ạ , xong rùi bạn làm gì nào , ko vương ko vấn lòng ko hận nhé ! đàn bà con gái vốn là của nợ của đời mà :D1 like
-
Em hiểu phi yểu tắc bần là gì không? Còn chuyện tình củm, không dính vào sẽ không mệt mỏi thui :D1 like
-
Trong triết lý phật giáo có 2 chử Nhân - Quả / có nghĩa là cái cây có được thì nhờ hạt giống mới thành ra cây ,cây lâu ngày lớn lên đơm bông kết quả ; tức là gieo hột chanh thì cây kết quả không thể nào ra trái quít đường được .1 like
-
Mệnh cháu VCD không được không nào cũng cố cho mệnh hết ,phúc đức cũng kém ,duy chỉ có Thân Cư di thì tốt ,nên đi xa hay đi xuất ngoại du học được thì càng tốt ,công cũng thành danh cũng toại sau 34t trở đi thì bổn mạng mới vững vàng ,trước tuổi nầy làm gì cũng nên suy tình cẩn thận ,nếu còn sống qua 34t thì mới thành đạt được ...Sức mệnh con người mà người ta thường nói số phận đã an bày ,tức là đã có sự xếp đặt từ trước ,do duyên nghiệp từ kiếp mà thành cho số kiếp hiện nay , vấn đề lựa chọn cũng như 1 khe hở mà con người cố thoát ra cái định mệnh cai nghiệt đó mà người đời thường nói nhân định thắng thiên hay tận nhân lực tri thiên mệnh ,điều khó trả lời rằng nhân của mình có đủ để thắng thiên mệnh hay không? thượng đế cũng không khắt khe với bất cứ ai ,chẳng qua mình gặp trong hoàn cảnh nghiệt ngã là do kiếp trước mình nợ thì kiếp nầy phải trả ; giả sữ nói rằng cháu không có ý định hay tính mình không như vậy , nhưng đến khi hoàn cảnh nào đưa đẩy mà không thể từ nan , biết đâu kiếp trước cháu nợ 2 người nên kiếp nầy người đó có dịp lên để đòi cái nợ mà cháu còn thiếu ,hay ngược lại kiếp trước hào phóng quá cho nhiều người vay ,bây giờ kiếp nầy họ lên để gặp cháu để trả lại cái nợ họ còn đang thiếu ? đàn ông 2 -3 vợ sống cùng lúc thì thấy cũng thường ,nhưng đàn bà mà sống cùng lúc 2 ông chồng trong 1 nhà mà không hề gây lộn mà lại thuận thảo cùng chung lưng phục vụ cho 1 bà vợ ,cháu đã thấy chưa ? bác đã thấy qua rồi ,vsf cũng từng thấy lá số của người đó ,lúc đầu mới xem thì nghĩ có lẽ mình nhầm ,hay dự đoán mình sai ,nhưng thời gian đã xác định điều đó trước mắt không thể chối cãi là định mệnh đã AN BÀY. Cháu thì không muốn có 2 vợ ... ,nhưng như bác đây muốn kiếm thêm vài bà nữa cho vui nhà vui cửa mà kiếm hoài không được ,chắc tại kiếp trước không thiếu nợ ai nhiều hay vốn tính ít kỹ không cho ai vay mượn nên kiếp nầy không ai trả nợ cho mình hết !!!1 like
-
Đường quan lộ vất vã nhưng hay được người trên dìu dắt giúp đỡ ,,làm việc tận tình tận tụy ,được xếp đánh giá có khă năng và được cấp trên tín nhiệm ,đối với người dưới hay kẻ làm chung thì sanh ra đố kỵ ,thường hay bị kẻ tiểu nhân rình rập hãm hại / sự nghiệp không bền hay thay đổi liên tục cũng như chổ ở ,nếu không thì thườn hay đi xa bởi công ăn việc làm ,gia sản không thừa hưởng cử phụ ấm để lại nếu có cũng phá tán hay từ bỏ đi xa mà không được hưởng , cuộc sống chật vật phải nổ lực thật nhiều mới tậu được mái nhà về già mới có được nơi ăn chốn ở nhất định / anh em rất hiếm may mắn chỉ có 1 ,nhưng không thành nhân nếu không cũng có cố tật / tài bạch kiếm tiền cũng dể nhưng cũng có lúc túng thiếu ,thâu nhập không nhất định ,nói chung không thể giàu có được / đến năm 25t có cơ hội lập gia đình sớm ,cợ dạng người thấp ,da trắng mặt hơi vuông hay tròn ,là trưởng nữ nếu không cũng đoạt trưởng ,tánh tình tiền hậu bất nhất ,hay thích xa mưu cầu những việc viễn vông không bền chí, hay xúc động dễ mềm lòng ,cả 2 đều rất thông minh , cưới nhau cũng dễ nhưng vài năm sau đó phải chia tay rồi có thời mới xum họp lại , vợ chồng hay gây gỗ đánh nhau , số nầy có thể có 2 vợ sống cùng 1 lúc .1 like
-
đến 25 tuổi thì xem tử vi nhé? xem xem 24 tuổi có mắt tơ tình ko đã. Đàn ông đàn ang mà có vẻ hơi mềm yếu đấy.1 like
-
THIÊN SỨ ĐI DỰ ĐÁM CƯỚI. Đây là chuyện có thật 100%, chỉ có câu cuối là Sư Thiến tôi bịa ra để cười chơi cho vui. Nhận được thiệp mời dự dám cưới của Thiên Việt Trần Quốc Bảo, đám Lý học kéo nhau đi. Bàn tiệc gồm: Vợ chông Dũng Tử Vi, Kỳ Thân, Luke và vợ chồng Thiên Sứ. Dũng Tử Vi tuyên bố: - Thôi! Cánh đàn ông ngồi sang một phía và các bà ngồi đối diện. Để chúng tôi nói chuyện. Các bà thì biết cái gì. "Phạm thượng". Thiên Sứ nghĩ thầm, mặt tái xanh. Nhưng vợ Dũng Tử Vi và Kỳ Thân chấp hành nghiêm chỉnh, ngồi sang phiá đối diện. Như vậy chỉ còn bà xã Thiên Sứ và Luke ngồi cạnh chồng. Cứ y như hòa đàm "Ba Di", các bên ngồi chung quanh một cái bàn tròn. Mặc dù ngồi đối diện chồng qua cái bàn rông hơn một mét, nhưng vợ Dũng Tử Vi luôn chăm lo gắp thức ăn cho chồng rất là âu yếm. Cứ mỗi khi thấy bát của chồng hết thức ăn thì nàng lại nhẹ nhàng xoay cái mặt bàn thủy tinh và gắp thức ăn cho chồng. Thiên Sứ tôi quay lại nói với bà xã: - Em àh! Em có thấy vợ Dũng Tử Vi thương chồng không? Bà xã tôi mỉm cười và ghé đầu rất tế nhị vào tai tôi theo phép lịch sự nơi công cộng, nàng thỏ thẻ: - Anh àh! Theo em thì nước mắm không cần phải hâm nóng lên đâu ạh.1 like