• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 31/10/2010 in all areas

  1. ĐỊNH XÍCH KỲ THƯ Chọn kích thước nhà cửa cát tường Nguyễn Văn Trung ******* Thân chủ: Họ tên: Nguyễn Văn Trung Hướng nhà: Nam, lệch 0 độ Gang nách trái rộng: 17 cm Gang nách phải rộng: 18 cm Một thốn rộng: 2 cm Chú thích: Gang nách trái hoặc phải là chiều rộng của một gang tay trái hoặc phải, tính từ đầu ngón trỏ đến đầu ngón cái, khi đang dang ra hết cỡ Thốn là kích thước của một đốt ngón tay giữa (tương tự với Thốn trong Đông y) ******* LỜI MỞ ĐẦU Từ xưa đến nay, phàm những người làm nhà thường luôn muốn chọn cho mình các kích thước đẹp, hợp phong thủy để sử dụng cho cửa, ban thờ, bếp và các vật dụng khác trong nhà. Để làm được điều đó, công cụ thường được sử dụng là thước Lỗ Ban. Thước Lỗ Ban là cây thước được Lỗ Ban, ông Tổ nghề mộc ở Trung Quốc thời Xuân Thu phát minh ra. Nhưng trên thực tế, trong ngành địa lý cổ phương Đông, ngoài thước Lỗ ban (Lỗ Ban xích) còn có nhiều loại thước khác được áp dụng.như thước Đinh Lan (Đinh Lan xích), thước Áp Bạch (Áp Bạch xích), bản thân thước Lỗ Ban cũng bao gồm nhiều phiên bản khác nhau như các bản 52,2cm, 42,9cm, ... Trên thị trường hiện bán phổ biến loại thước cuộn trên đó có in thước Lỗ Ban loại 42,9cm ở hàng trên dùng để đo dương trạch và thước Đinh Lan (38,8cm) in ở hàng dưới dùng để đo âm phần. Thợ mộc khi sử dụng loại thước cuộn này thường tâm niệm câu khẩu ngữ: hai đen thì bỏ, hai đỏ thì dùng. Nghĩa là nếu cả hai loại thước (Lỗ Ban 42,9cm và Đinh Lan 38,8cm) đều rơi vào vạch đỏ (cung tốt) thì chọn kích thước đó cho vật dụng, bằng ngược lại thì bỏ đi. Thực chất quan niệm này theo chúng tôi là không đúng, bởi lẽ trong ngành địa lý cổ Trung Hoa thì thước Đinh Lan là để đo âm phần (phần đất của người chết), nên việc đo đồ đạc theo thước này là không phù hợp. Tuy nhiên, khi không hiểu rõ tác dụng của mỗi loại thì chọn cả hai loại tốt cũng là giải pháp chấp nhận được, kiểu như "có thờ có thiêng" vậy. Khi đi sâu nghiên cứu ngành địa lý cổ phương Đông, tìm hiểu các loại thước cổ, chúng tôi thấy rằng các thước như Lỗ Ban, Đinh Lan dầu là sự đúc kết hàng ngàn năm dựa trên kinh nghiệm xây dựng của người xưa, nhưng chưa thực sự dành riêng cho từng căn nhà, từng gia chủ. Chúng được áp dụng một cách chung chung cho hầu hết các trường hợp. Chỉ có loại thước Áp Bạch (Áp Bạch Xích) với các căn cứ tính dựa trên Bát trạch (tọa hướng của căn nhà) và thước Huyết Thống (căn cứ trên chiều dài gang nách và một đốt thốn ngón tay của gia chủ) mới là loại thước áp dụng riêng cho từng căn nhà, từng gia chủ. Tập Định Xích Kỳ Thư này là một tập tài liệu chuyên nghiên cứu để lựa chọn ra những kích thước tốt nhất cho các bộ phận, đồ đạc trong nhà, trên cơ sở sự kết hợp của Áp Bạch Xích, Lỗ Ban Xích và Đinh Lan Xích Nhà hướng Nam, lệch 0 độ. Theo la bàn, hướng nhà rơi vào 180 độ, tính từ hướng chính Bắc Theo Bát Trạch: nhà tọa Khảm hướng Ly Tức tọa sơn Tý, hướng Ngọ, thuộc Thiên Nguyên Long, quẻ Phụ Mẫu, sơn Âm. Trong Áp Bạch Xích, người ta thường sử dụng hai loại thước đó là Xích Bạch (đo các khoảng lớn) và Thốn Bạch (đo các khoảng nhỏ). Kết hợp kết quả từ Xích Bạch và Thốn Bạch sẽ được kích thước cần tìm. 1. Phép đo Xích Bạch (尺白): Trong Xích bạch có hai phép là Thiên phụ quái và Địa mẫu quái. Thiên phụ quái là phép Đại du niên bát biến, dùng để đo kích thước chiều cao và chiều sâu (theo phương thẳng đứng thì dùng phép này). Địa mẫu quái là phép Tiểu du niên, dùng để đo kích thước chiều ngang, dài rộng (phương nằm ngang). Áp Bạch Xích vốn là một loại thước trực 8 (Bát môn xích), bao gồm 8 khoảng là Tài, Bệnh, Ly, Nghĩa, Quan, Kiếp, Hại, Bổn (hay Cát), được an tương ứng 8 vì sao. Căn cứ vào Tọa sơn của căn nhà để tìm sao được an tương ứng với từng thước trong Xích Bạch. Gang nách trái của gia chủ rộng 17 cm, gang nách phải rộng 18 cm, cộng lại được một xích là 35 cm. 1.1. Thiên phụ quái: Thiên phụ quái là phép Đại du niên bát biến, dùng để đo kích thước chiều cao và chiều sâu (phương thẳng đứng). Căn nhà này tọa sơn Tý, phép đo Thiên phụ quái được khởi an từ sao Văn Khúc (sao Xấu). Lần lượt an 8 vì sao theo thứ tự dùng cho dương trạch có: Thước thứ 1: an sao Văn Khúc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 0 đến 35 cm Thước thứ 2: an sao Liêm Trinh, sao Xấu, ứng với kích thước từ 35 đến 70 cm Thước thứ 3: an sao Vũ Khúc, sao Tốt, ứng với kích thước từ 70 đến 105 cm Thước thứ 4: an sao Phá Quân, sao Xấu, ứng với kích thước từ 105 đến 140 cm Thước thứ 5: an sao Phụ Bật, sao Tốt, ứng với kích thước từ 140 đến 175 cm Thước thứ 6: an sao Tham Lang, sao Tốt, ứng với kích thước từ 175 đến 210 cm Thước thứ 7: an sao Cự Môn, sao Tốt, ứng với kích thước từ 210 đến 245 cm Thước thứ 8: an sao Lộc Tồn, sao Xấu, ứng với kích thước từ 245 đến 280 cm Thước thứ 9: an sao Văn Khúc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 280 đến 315 cm 1.2. Địa mẫu quái: Địa mẫu quái là phép Tiểu du niên, dùng để đo kích thước chiều ngang, dài rộng (phương nằm ngang). Căn nhà này tọa sơn Tý, phép đo Địa mẫu quái được khởi an từ sao Phá Quân (sao Xấu). Lần lượt an 8 vì sao theo thứ tự dùng cho dương trạch có: Thước thứ 1: an sao Phá Quân, sao Xấu, ứng với kích thước từ 0 đến 35 cm Thước thứ 2: an sao Phụ Bật, sao Tốt, ứng với kích thước từ 35 đến 70 cm Thước thứ 3: an sao Tham Lang, sao Tốt, ứng với kích thước từ 70 đến 105 cm Thước thứ 4: an sao Cự Môn, sao Tốt, ứng với kích thước từ 105 đến 140 cm Thước thứ 5: an sao Lộc Tồn, sao Xấu, ứng với kích thước từ 140 đến 175 cm Thước thứ 6: an sao Văn Khúc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 175 đến 210 cm Thước thứ 7: an sao Liêm Trinh, sao Xấu, ứng với kích thước từ 210 đến 245 cm Thước thứ 8: an sao Vũ Khúc, sao Tốt, ứng với kích thước từ 245 đến 280 cm Thước thứ 9: an sao Phá Quân, sao Xấu, ứng với kích thước từ 280 đến 315 cm 鲁班 2. Phép đo Thốn Bạch (寸白): Thốn là độ dài của một đốt ngón tay giữa (tương tự Thốn trong Đông y). Thốn của gia chủ dài 2 cm 2.1. Thiên phụ quái: Thiên phụ quái là phép Đại du niên bát biến, dùng để đo kích thước chiều cao và chiều sâu (phương thẳng đứng). Căn nhà này tọa sơn Tý, phép đo Thiên phụ quái được khởi an từ sao Nhị Hắc (sao Xấu). Lần lượt an 8 vì sao theo thứ tự dùng cho dương trạch có: Thước thứ 1: an sao Nhị Hắc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 0 đến 2 cm Thước thứ 2: an sao Tam Bích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 2 đến 4 cm Thước thứ 3: an sao Tứ Lục, sao Xấu, ứng với kích thước từ 4 đến 6 cm Thước thứ 4: an sao Ngũ Hoàng, sao Xấu, ứng với kích thước từ 6 đến 8 cm Thước thứ 5: an sao Lục Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 8 đến 10 cm Thước thứ 6: an sao Thất Xích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 10 đến 12 cm Thước thứ 7: an sao Bát Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 12 đến 14 cm Thước thứ 8: an sao Cửu Tử, sao Tốt, ứng với kích thước từ 14 đến 16 cm Thước thứ 9: an sao Nhất Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 16 đến 18 cm Thước thứ 10: an sao Nhị Hắc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 18 đến 20 cm Thước thứ 11: an sao Tam Bích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 20 đến 22 cm Thước thứ 12: an sao Tứ Lục, sao Xấu, ứng với kích thước từ 22 đến 24 cm Thước thứ 13: an sao Ngũ Hoàng, sao Xấu, ứng với kích thước từ 24 đến 26 cm Thước thứ 14: an sao Lục Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 26 đến 28 cm Thước thứ 15: an sao Thất Xích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 28 đến 30 cm Thước thứ 16: an sao Bát Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 30 đến 32 cm Thước thứ 17: an sao Cửu Tử, sao Tốt, ứng với kích thước từ 32 đến 34 cm Thước thứ 18: an sao Nhất Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 34 đến 36 cm 2.2. Địa mẫu quái: Địa mẫu quái là phép Tiểu du niên, dùng để đo kích thước chiều ngang, dài rộng (phương nằm ngang). Căn nhà này tọa sơn Tý, phép đo Địa mẫu quái được khởi an từ sao Ngũ Hoàng (sao Xấu). Lần lượt an 8 vì sao theo thứ tự dùng cho dương trạch có: Thước thứ 1: an sao Ngũ Hoàng, sao Xấu, ứng với kích thước từ 0 đến 2 cm Thước thứ 2: an sao Lục Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 2 đến 4 cm Thước thứ 3: an sao Thất Xích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 4 đến 6 cm Thước thứ 4: an sao Bát Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 6 đến 8 cm Thước thứ 5: an sao Cửu Tử, sao Tốt, ứng với kích thước từ 8 đến 10 cm Thước thứ 6: an sao Nhất Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 10 đến 12 cm Thước thứ 7: an sao Nhị Hắc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 12 đến 14 cm Thước thứ 8: an sao Tam Bích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 14 đến 16 cm Thước thứ 9: an sao Tứ Lục, sao Xấu, ứng với kích thước từ 16 đến 18 cm Thước thứ 10: an sao Ngũ Hoàng, sao Xấu, ứng với kích thước từ 18 đến 20 cm Thước thứ 11: an sao Lục Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 20 đến 22 cm Thước thứ 12: an sao Thất Xích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 22 đến 24 cm Thước thứ 13: an sao Bát Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 24 đến 26 cm Thước thứ 14: an sao Cửu Tử, sao Tốt, ứng với kích thước từ 26 đến 28 cm Thước thứ 15: an sao Nhất Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 28 đến 30 cm Thước thứ 16: an sao Nhị Hắc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 30 đến 32 cm Thước thứ 17: an sao Tam Bích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 32 đến 34 cm Thước thứ 18: an sao Tứ Lục, sao Xấu, ứng với kích thước từ 34 đến 36 cm 鲁班 3. Tổng hợp từ kết quả của hai phép đo Xích Bạch và Thốn Bạch, ta được: Các kích thước đẹp theo chiều cao (đơn vị cm): 78; 79; 82; 83; 84; 85; 86; 87; 96; 97; 100; 101; 102; 103; 104; 105; 148; 149; 152; 153; 154; 155; 156; 157; 166; 167; 170; 171; 172; 173; 174; 175; 183; 184; 187; 188; 189; 190; 191; 192; 201; 202; 205; 206; 207; 208; 209; 210; 218; 219; 222; 223; 224; 225; 226; 227; 236; 237; 240; 241; 242; 243; 244; 245; Các kích thước đẹp theo chiều rộng (đơn vị cm): 37; 38; 41; 42; 43; 44; 45; 46; 55; 56; 59; 60; 61; 62; 63; 64; 72; 73; 76; 77; 78; 79; 80; 81; 90; 91; 94; 95; 96; 97; 98; 99; 107; 108; 111; 112; 113; 114; 115; 116; 125; 126; 129; 130; 131; 132; 133; 134; 247; 248; 251; 252; 253; 254; 255; 256; 265; 266; 269; 270; 271; 272; 273; 274; Đến đây ta đã có các số đo đẹp ứng với phương vị căn nhà, từ kết quả đo của Áp Bạch Xích. Với các số đo này, quý thân chủ hoàn toàn có thể tin tưởng để định các kích thước cửa đi, cửa sổ, ban thờ, giường, tủ, bàn, ghế,... Tuy nhiên với những người cầu kỳ, muốn có một sự cát tường tuyệt đối, có thể sử dụng thêm các thước Lỗ Ban loại 52,2cm, thước Lỗ Ban loại 42,9cm và thước Đinh Lan để so sánh và có được những kết quả hoàn mỹ nhất. Lưu ý rằng, thước Lỗ Ban 52,2cm được coi là loại thước Lỗ Ban gốc được lưu truyền từ Trung Hoa. Còn thước Lỗ Ban 42,9cm thì lại là loại thước được sử dụng rộng rãi nhất. Thước này cùng với thước Đinh Lan (38,8cm) được in trên loại thước sắt do Đài Loan sản xuất hiện bán nhiều trên thị trường. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, thước Đinh Lan là loại thước dùng để đo âm trạch (mồ mả người chết) nên việc sử dụng cho các kích thước trong nhà ở là không hợp lý. Vì vậy phần 6 dưới đây chỉ là để quý thân chủ tham khảo thêm mà thôi. 鲁班 4. Đối chiếu các kích thước này với thước Lỗ Ban 52,2cm (thước đo dương trạch) và lọc bỏ đi các kích thước không tốt thì còn lại: Các kích thước đẹp theo chiều cao (đơn vị cm): 78; 79; 82; 83; 84; 85; 86; 100; 101; 102; 103; 104; 105; 152; 153; 154; 155; 156; 157; 183; 184; 187; 188; 189; 190; 205; 206; 207; 208; 209; 210; 236; 237; 240; 241; 242; Các kích thước đẹp theo chiều rộng (đơn vị cm): 55; 56; 59; 76; 77; 78; 79; 80; 81; 107; 108; 111; 112; 126; 129; 130; 131; 132; 133; 134; 256; 265; 266; 鲁班 5. Đối chiếu các kích thước này với thước Lỗ Ban 42,9cm (thước đo dương trạch) và lọc bỏ đi các kích thước không tốt thì còn lại: Các kích thước đẹp theo chiều cao (đơn vị cm): 82; 83; 84; 85; 86; 104; 105; 152; 153; 154; 155; 156; 189; 190; 236; 237; 240; 241; 242; Các kích thước đẹp theo chiều rộng (đơn vị cm): 107; 108; 111; 112; 126; 129; 130; 131; 132; 133; 134; 256; 鲁班 6. Đối chiếu các kích thước này với thước Đinh Lan 38,8cm (thước đo âm trạch) và lọc bỏ đi các kích thước không tốt thì còn lại: Các kích thước đẹp theo chiều cao (đơn vị cm): 82; 153; 154; 155; 156; 236; 237; 242; Các kích thước đẹp theo chiều rộng (đơn vị cm): 107; 108; 126; 133; 134; 256; 鲁班 Ghi chú: Trong các kết quả trên, có hai khái niệm: - Các kích thước đẹp theo chiều cao (hoặc chiều sâu): gọi là H - Các kích thước đẹp theo chiều rộng: gọi là W Đo cửa: - Đo kích thước thông khí trong lòng khung cửa, không đo cánh cửa - Chỉ đo phần ô để đi lại, không đo các phần ô thoáng phía trên cửa - Chiều cao từ đất lên đến dưới ngưỡng cửa (không kể ô thoáng) được tính theo H - Chiều rộng thông khí lòng cửa được tính theo W Đo đồ đạc, vật dụng: - Đo kích thước phủ bì dài, rộng, cao hoặc đường kính - Với bàn, ghế, giường, tủ,... thì chiều cao và chiều dài của vật dụng tính theo H - Chiều rộng, đường kính tính theo W Đo chiều cao nhà: - Đo từ mặt cốt sàn dưới lên mặt cốt sàn trên (bao gồm cả lớp lát sàn) - Tổng chiều cao nhà thì cộng các chiều cao của từng tầng - Tính chiều cao nhà theo H 鲁班 nguồn:http://phongthuy.vietaa.com/Tools/Kythu/Template/dinhxichkythu.htm
    3 likes
  2. Vị tướng yêu văn hóa dân tộc Chiều ngày 16.10.2010, thượng tướng Phan Trung Kiên, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thứ trưởng Bộ Quốc phòng, anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, cùng phu nhân đã về thăm khu di tích lịch sử văn hóa Lệ Chi Viên, nơi cách đây gần 600 năm đã xẩy ra vụ án đen tối cả đất trời Việt Nam. Nguyễn Trãi cùng ba họ và Nguyễn Thị Lộ rơi đầu vì “lưỡi dao oan nghiệt của cái triều đình hèn hạ và ngu muội do chính Nguyễn Trãi đã chiến đấu hơn mười năm gian khổ để góp phần xây dựng nên”. Thượng tướng Phan Trung Kiên không chỉ là vị tướng tài ba, trung kiên, nhân hậu mà còn rất quan tâm đến văn hóa dân tộc, đặc biệt ông thường xuyên tham gia các hoạt động từ thiện. Sau lẽ dâng hương, thượng tướng cùng phu nhân đi thăm khu di tích và nghe nhà giáo Hoàng Đạo Chúc, hội chủ “Hội những người yêu kính Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ”, trưởng ban xây dựng ba ngôi đền thờ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ ở Tân Lễ, Hưng Hà, Thái Bình; Khuyến Lương, Trần Phú, Hà Nội và Lệ Chi Viên, Gia Bình, Bắc Ninh báo cáo, thượng tướng đã xúc động nói: - Từ lâu tôi đã biết đến nhà giáo Hoàng Đạo Chúc không quản tuổi cao sức yếu, bao năm ròng đi vận động tổ chức minh oan và tôn vinh hai Cụ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Hôm nay được tận mắt chứng kiến sự đoàn kết một lòng của các cấp Đảng và chính quyền cùng nhân dân địa phương, chung tay xây dựng khu di tích Lệ Chi Viên, tôi rất phấn khởi. Bản thân tôi vô cùng yêu kính cụ Nguyễn Trãi, một nhân vật kiệt xuất của lịch sử Việt Nam. Việc làm tốt đẹp của các đồng chí là hành động thiết thực hướng về cội nguồn, tri ân các bậc anh hùng đã xả thân vì nước, có tác dụng giáo dục sâu sắc cho muôn đời sau. Nếu ta không biết tôn trọng lịch sử thì không có hiện tại và tương lai. Hướng về phía bài vị hai cụ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ, thượng tướng bộc bạch: - Tôi luôn ghi nhớ lời của cụ Nguyễn Trãi: “Chèo thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, không có bạo ngược cường quyền nào ngăn được bước đi của nhân dân, của lịch sử. Chúng ta phải huy động được sức mạnh của lòng dân, được dân ủng hộ thì khó khăn nào cũng vượt qua. Chúng ta phải biết đối xử công bằng với những người có công với nước. Gia đình tôi xin công đức một phần vào việc xây dựng khu di tích Lệ Chi Viên bằng những đồng tiền có được do lao động chính đáng. Đây là nơi trong sạch, thanh cao, các cụ sẽ không bao giờ cho phép ai làm vấy bẩn hương linh hai cụ và trăm họ. Tôi mong rằng các cơ quan có trách nhiệm, các nhà hảo tâm trong cả nước sẽ tiếp tục đóng góp công, của để xây dựng khu di tích, trong một thời gian gần đây, khu di tích Lệ Chi Viên sẽ được công nhận cấp quốc gia cho xứng với tầm vóc của hai cụ. Thượng tướng cùng phu nhân đã trồng cây lưu niệm ở khu dích tích.
    2 likes
  3. Tôi có cảm nhận nghiệp chướng là có thật. Và tính nhân quả là điều không sai. Nhưng có điều tôi không thể coi đây là một lý thuyết mà chỉ là một cảm nhận qua những gì tôi đã nhận thấy trong cuộc đời tối. Tôi kể những câu chuyện này là những gì tôi đã trải qua và chứng nghiệm bằng chính cuộc đời mình. Hy vọng rằng các bạn sẽ chia sẻ.
    1 like
  4. Được sự đồng ý của SP Thiên Sứ, hth xin được mở topic riêng về dự báo và chứng nghiệm hướng đi của Bão và Áp Thấp mới hình thành có khả năng ảnh hưởng tới Việt Nam Trước tiên là áp thấp nhiệt đới đã hình thành bão Chaba Thêm một vài hình ảnh về cơn bão này
    1 like
  5. Phan Thị Bích Hằng sẽ dừng công việc “ngoại cảm”? Thứ Năm, 28/10/2010 - 10:15 Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng tuyên bố, chị đã quyết định dừng công việc ngoại cảm, không tiếp nhận hồ sơ những cá nhân đề nghị chị tìm giúp phần mộ của người thân. Phan Thị Bích Hằng: Nghề phán không phải nghề của tôi Nhà ngoại cảm Bích Hằng đề nghị làm rõ các tin đồn ác ý Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng Theo nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, ý định này chị đã nghĩ đến từ đầu năm 2010 và chị cũng đã công bố trên một vài diễn đàn dưới dạng thông tin không chính thức. Tuy nhiên, dừng lại công việc “áp dụng khả năng ngoại cảm” đối với Phan Thị Bích Hằng không đồng nghĩa với “đoạn tuyệt” công việc tìm mộ. “Hiện nay, tôi mới giải quyết xong phần tìm mộ của các hồ sơ nhận từ năm 2008. Tôi dừng lại để có thể hoàn thành công việc tìm mộ của hơn 5.000 hồ sơ mà bà con đã tin tưởng gửi gắm. Dừng lại nghĩa là tôi sẽ không nhận thêm hồ sơ do các cá nhân nhờ giúp còn trong đời sống sau này, trên những bước đường tôi qua, nếu có duyên “gặp gỡ”, tôi vẫn sẽ “chỉ đường” để những người bị “mất mộ” người thân biết mà nhận lại”, nhà ngoại cảm Bích Hằng chia sẻ. Áp lực lớn nhất là dư luận xã hội Mở lòng trong cuộc trao đổi, chị Phan Thị Bích Hằng cho biết, áp lực lớn nhất trong suốt 21 năm là một nhà ngoại cảm với chị và với các nhà ngoại cảm có lẽ là cách nhìn nhận của dư luận xã hội. “Người ta thường đòi hỏi nhà ngoại cảm phải chính xác tuyệt đối nhưng trên thực tế thì không có gì tuyệt đối cả. Không riêng gì tôi mà rất nhiều các nhà ngoại cảm khác đã bị chỉ trích nếu chẳng may có sai sót. Chính điều đó khiến chúng tôi mất hết nhiệt huyết. Có lẽ là do họ chỉ nhìn thấy chúng tôi, gặp chúng tôi những lúc chúng tôi sạch sẽ, ăn mặc đẹp còn những khi chúng tôi khoác ba lô lên đường, lội sông, lội suối, những lúc nguy hiểm như lần tôi tìm thấy ngôi mộ liệt sĩ mà chỉ cách bẫy lợn rừng có 1m, những lần vào rừng tìm kiếm hài cốt liệt sĩ bị ong đốt suýt chết… thì dường như chẳng ai nhớ đến. Nhưng chỉ một lời nói bâng quơ trong cuộc điện thoại hỏi thăm giữa hai người bạn với nhau trong vụ xe khách bị lũ cuốn vừa qua cũng bị “nghiêm trọng hóa vấn đề”. Rồi những tin đồn về cầu Bãi Cháy, cầu Thăng Long, cầu Long Biên, tôi không nói, không phát ngôn mà cũng bị đồn thổi ầm ĩ. Trong tất cả mọi công việc đều phải có xác suất. Tôi mong rằng độc giả nên mở lòng hơn với các nhà ngoại cảm”, chị Bích Hằng tâm sự. Rất mừng nếu hết “khả năng” “Trước đây, thứ 7 nào tôi cũng tiếp dân nhưng bắt đầu từ năm 2010, tôi đã bỏ lệ đấy. Bạn thử nghĩ xem, ngày nào cũng như ngày nào, cứ 5 - 6h sáng, vừa mở mắt đã có người xếp hàng chờ ngoài cửa, chiều 16h30 - 17h về, người cũng lại xếp hàng đầy cửa. Đến 23h30 mới hết khách là chuyện bình thường. Nhiều lần tôi mệt quá đã nói người nhà ra bảo với mọi người rằng Bích Hằng hết khả năng rồi. Hồi năm 1997 khi mang thai đứa con đầu lòng, tôi đã phải viết là Phan Thị Bích Hằng hết khả năng và còn nhắn mọi người sang chỗ anh Liên (Thầy Liên - PV) nếu cần. Thực ra hết hay còn khả năng chỉ có mình tôi biết. Tôi rất thấm nhuần điều mà Khổng Tử đã rút ra: Biết bắt đầu công việc là người giỏi, biết làm việc là người tài, biết dừng lại đúng lúc là vĩ nhân. Trong lĩnh vực ngoại cảm tôi đã cống hiến hơn 20 năm rồi, chính xác là 21 năm từ khi tôi mới có 18 tuổi, cả một quãng đường dài và với một công việc luôn rất căng thẳng, phải hao tâm tổn trí rồi những áp lực... Là người có khả năng đặc biệt nhưng ngoài ra tôi cũng chỉ là một phụ nữ hoàn toàn bình thường, có bổn phận làm con, có trách nhiệm làm vợ, làm mẹ. Tôi đã từng rất thương với “ông xã”, khi ngày này qua tháng khác, tôi thì cứ ba lô lên đường đi tìm mộ liệt sĩ đến nỗi thấy 3 bố con chiều thứ 7 nào cũng đi chơi ở Công viên Thủ Lệ, một cô bán nước gần đấy đã hỏi ông xã tôi, anh bị vợ bỏ à? Hồi bố chồng tôi bị ốm, phải nằm liệt giường, vì công việc, tôi vẫn phải đi tối ngày, lúc đó chồng tôi đã nói với tôi rằng: “Anh có 2 ước mơ, thứ nhất đó là khi ngủ dậy thì bố đứng lên đi lại được. Và ước mơ thứ hai là bỗng một sáng thức dậy, em nói với anh: anh ơi, hình như em hết khả năng rồi? Đấy là ước mơ rất dung dị nhưng tôi nghĩ đã đến lúc phải sống cho giấc mơ đấy, cho bản thân mình và cho những người thân của mình nữa”, chị Bích Hằng tâm sự. Nói về lý do dẫn đến quyết định “dừng” công việc tìm mộ, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cho biết có 3 lý do khiến chị muốn dừng lại. Thứ nhất, chị muốn dừng lại để có thời gian tập trung vào công việc học hành và hoàn thành đề tài nghiên cứu về tâm linh trong tâm lý kinh doanh. Chị dự định sẽ viết một cuốn sách về những việc đã làm trong hơn 20 năm. Thứ hai nữa là do căn bệnh cột sống khiến Bích Hằng không thể suốt ngày ngồi trên ô tô để đi tìm mộ: “Hiện nay, các bác sĩ không cho phép tôi ngồi quá 45 phút và theo bác sĩ ở Viện Dân tộc Quân đội thì khí âm trong tôi quá nhiều, ngồi đâu cũng thấy lạnh mà nguyên nhân theo bác sĩ cho biết là vì tôi tiếp xúc với hài cốt nhiều”. Và lý do thứ 3 nữa theo Bích Hằng là chị muốn dừng lại để có thời gian gần gũi, chăm sóc cho chồng con nhiều hơn, thực hiện ước mơ dung dị mà chồng chị đã từng “ngỏ”. Theo Thu Hiền VTC News ====================================== Nhời bàn của Thiên Sứ: Để có một thiên tài như cô Bích Hằng hàng trăm năm mới có một người trên hàng triệu người sinh ra và chết đi ở trái Đất này. Nhưng người ta có thể cần đến cô và không cần đến cô. Không có cô, sự mất mộ là chuyện rủi ro, chuyện không may của một gia đình, một dòng tộc Đông phương có truyền thống tôn trọng tổ tiên và người đã khuất. Có cô, thì người ta tìm được mộ, người ta gặp may. Chuyện chỉ đơn giản thế thôi. Nhưng cô đã phải tự hủy diệt khả năng của mình, phải chối bỏ. Bởi vì người đời không hiểu được tại sao lại có hiện tượng như cô. Họ đặt vấn đề sai vì thiếu hiểu biết. Lần đầu tiên tôi biết sự gian khổ của cô: Cô đừng buồn. Đời là thế! Một bác sĩ giỏi, trị bệnh cứu người. Cứu xong bệnh nhân thoát chết thì cùng lắm là câu chuyện được kể cho hàng xóm và con cháu nghe với lời kính trọng. Và nếu vị bác sĩ có đến cửa hàng cháu nội của người được cứu sống thì may ra được mua giảm giá một lần. Vâng! Thế thôi. Đấy còn là may. Chưa kể những lời xầm xì nói xấu của đồng nghiệp. Cô có lúc sai. Bởi vì Thượng Đế không cho cái thế gian này tuyệt đối cô ah. Đó không phải lỗi của cô, mà là - nói một cách hình tượng: do "ý muốn của Thượng Đế". Vì chỉ có Ngài là tuyệt đối - Nhưng thế nhân muốn cái tuyệt đối. Họ muốn phán xét như Thượng Đế cô ah, mặc dù họ không có ý thưc về điều này. Xét về cá nhân thì là một sai lầm khi họ rất muốn sự tuyệt đối trong cái nhìn của họ. Nhưng xét về tổng quan thì chính vì thế mà trí tuệ con người tiến lên đi tìm chân lý. Cô quá nổi tiếng vì tài năng xuất chúng. Tất nhiên để tỏ ra hiểu biết, để khoe khoang, những kẻ tầm thường sẽ kể cái sai của cô cho người khác biết, để chứng tỏ họ hiểu được những khiếm khuyết của một thiên tài. Tối thiểu là như vậy cô ah. Họ cần đề cao họ trước những người khác bằng cách chê bai một người như cô. Vì họ chẳng có gì để khoe, nên phải chê một người như cô mới gây được sự chú ý của những người xung quanh họ cô ah. Đời nó thế! Đầy ra cả đấy cô ah. Cô hơi đâu mà buồn. Nếu cô cảm nhận được đây là cảm hứng của cô, là trách nhiệm của cô trước cuộc đời, cô cứ làm. Còn thế nhân nói ra nói vào thì đó là "chuyện thường ngày ở Huyện" mà. Cô quên đi cô ah. Mặc dù chỉ gặp cô một lần và cũng không nói gì được nhiều. Nhưng tôi rất quý cô. Với tôi cô là một thiên tài thể hiện tài năng của mình bằng những thực tại khách quan. Cô nói vậy, chứ tôi tin rằng cô vẫn sẽ giúp đỡ mọi người. Không cần đến 70% đâu cô ah. Chỉ cần 1 trong 10 cũng đủ để những nhà khoa học thật sự và nghiêm túc phải suy ngẫm về khả năng con người. Ở đây không phải là phép tính xác xuất. Mà là một chuỗi những hiện tượng chứng tỏ một khả năng của con người của 1 lần trong 10 lần đó. Đức Phật nói: "Nguyên nhân của sự khổ trên thế gian chính là Tham Sân Si". Vài lời tâm sự với cô.
    1 like
  6. Năm nay sao không cưới? Vợ chồng thật đẹp đôi!!! Vợ dáng người cao vừa tầm, dáng thon, khuôn mặt phúc hậu, xinh đẹp, là con trưởng, có học thức. Đang ở trong giai đoạn tốt của cuộc đời. Phát mạnh từ năm 35 tuổi, nhưng nhớ tích góp cho những năm từ 45-64. Tham khảo thêm ý kiến của mọi người nhé
    1 like
  7. đưa nhầm chuyện vẫn xảy ra . Trong nhà nên nhớ phải thờ cả hai-() Nhân tiện đã nói ra rồi thì chuyện đưa nhầm hài cốt có nguy hiểm lắm không ạ. Gia đình cháu rất lo lắng mặc dù mấy năm trước trên bia mộ có ghi rõ tên tuổi quê quán, thế mà lại nhầm
    1 like
  8. Giờ Thân: Ngoài tướng mạo như anh Gia back mô tả, bỏ phần da trắng, da mặt không được đẹp có tàn nhang hoặc sẹo, có bệnh viêm đường niệu / các kỳ có thể không đều? Nói chuyện không có duyên, hay cãi bướng. Giờ Mùi: Người cao vừa tầm, hơi nở nang, tiếng nói to, khuôn mặt đầy đặn, nước da hồng hào, cười có duyên, tính tình thâm trầm, người lém lỉnh, nhưng hơi khó tính, kén chọn trong việc giao du kết bạn.
    1 like
  9. Mình rất hiểu và chân thành chia sẻ với những khó khăn mà 2 bạn đang gặp phải bây giờ, mình nghĩ rằng 2 bạn đã yêu nhau thì hãy cố gắng thuyết phục các cụ bạn àh, bởi các cụ cũng chỉ xuất phát từ sự thương và quan tâm đến con cái mà thôi, nhưng cũng phải có lý lẽ để thuyết phục bạn àh. theo chủ quan của mình bạn nên cho các cụ xem nội dung trong website này theo địa chỉ này nhé: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=4374, để các cụ hiểu, và yên tâm, ngày xưa mình cũng vấp phải khó khăn như bạn bây giờ đấy. Vài dòng tâm sự chia sẻ cùng HungUyen. chúc 2 bạn gặt hái nhiều thành công trong công tác dân vận nhé. Trân trọng!
    1 like
  10. Lá số giờ Thân: tính hơi nhút nhát, đa nghi, sợ ma, ăn nói hay bị hớ (khẩu thiệt), dáng người thấp đậm, da trắng mặt tròn. Ăn uống tốt, dễ bị trục trặc đường tiêu hóa. Nếu kô trúng -> chắc sinh giờ khác
    1 like
  11. Trả lời nốt câu cuối cho bạn: 87 lấy 88 là hợp Can: Chồng sinh Vợ Mệnh: cũng Chồng sinh Vợ Chi: Chồng Mão hại Vợ Thìn-> ông nói gà, bà nói vịt 2 tuổi này lấy nhau là OK, quả 88 nên hạn chế ít nhời, đừng có nổi cơn thường xuyên là gia đình hạnh phúc. Góp ý cho lá số: với lá số này, đương số tính tình thâm trầm, nhiều mưu mô. Muốn hưởng phúc và thuận lợi cho cuộc sống, tuyệt đối không hại người kể cả trong lời nói lẫn hành vi. Ngoài 30 cuộc sống sẽ dễ chịu hơn nhiều, cũng nên đi học thêm trong thời gian này để chuẩn bị cho thập niên 36-45 như anh Quốc Tuấn đã viết ở trên. Chúc bạn may mắn
    1 like
  12. theo tôi số bạn này khả năng tránh được tù ngục nhưng thế nào cũng phải đến cửa quan. vì có nhiều phúc tinh( tienf hậu có long phượng) như vậy là có quý nhân phù trợ đứng bên cạnh rồi . cách sát phá tham nàynaodhnikàmyàaniờơưugnờng chồng con là lận đận, trong công việc tham vọng vừa thôi kẻo có ngày oan gia. số du học thì có nên đi
    1 like
  13. Rau cần chữa ho, thiếu máu Rau cần ta khác với rau cần tây. Có hai loại rau cần, một loại sống dưới nước và một loại sống trên cạn, đều có thể dùng làm thuốc được. Theo Đông y, rau cần ta vị thơm, tính bình, không độc, có công hiệu thanh nhiệt, bổ máu, thông đường ruột, giải khát, hạ huyết áp, trị ho. Trị chứng xanh xao, thiếu máu, mất máu: Khi bị mất máu do chấn thương, do phẫu thuật thì lấy hai bó rau cần ta nấu với 200 - 300 gr thịt bò, ăn cả nước lẫn cái. Ăn khoảng 10 - 15 ngày sẽ cho kết quả tốt. Trị chứng tiểu đường: Lấy 500 gr rau cần ta rửa sạch, vò nát, ép lấy nước, uống ngày 1 - 2 lần. Dùng liên tục. Hoặc rau cần ta rửa sạch, chần qua nước sôi, cắt khúc, trộn thêm gia vị, ăn hằng ngày. Trị chứng cao huyết áp: Lấy 10 cây rau cần ta rửa sạch, giã nát, cho thêm 10 quả táo tàu, đun lâu với nước, uống ngày hai lần. Một đợt điều trị 15 - 20 ngày. Hoặc dùng 500 gr rau cần ta, rửa sạch, luộc chín cho thêm đường trắng uống thay trà trong ngày. Hoặc dùng 120 gr rau cần ta cả rễ rửa sạch, cắt nhỏ, cho thêm gạo đủ dùng, nấu cháo ăn thường xuyên. Trị chứng viêm gan mạn tính, đi tiểu ra máu: Lấy 200 gr rau cần ta rửa sạch, vò nát, ép lấy nước, cho thêm 50 gr mật ong, trộn đều, uống nóng. Ngày uống 1 - 2 lần. Dùng liên tục trong nhiều ngày sẽ có hiệu quả. Trị chứng viêm phế quản: Lấy gốc rau cần ta cả rễ 100 gr, vỏ quýt 9 gr, kẹo mạch nha 30 gr. Cho kẹo mạch nha vào nồi đun sôi, cho gốc rau cần và vỏ quýt, sao cháy, đổ thêm nước, sắc uống nóng trong ngày. Trị chứng ho gà: Lấy 500 gr rau cần ta (cả cây) rửa sạch, vắt lấy nước cốt, thêm vài hạt muối, hấp cách thủy, chia uống hai lần vào sáng sớm và tối. Uống liền trong nhiều ngày. Trị chứng nôn mửa, thổ tả ở trẻ em: Rau cần ta tươi rửa sạch đun nước cho trẻ uống. Theo BS Nguyễn Thu Hiền Đất Việt
    1 like
  14. Lá số của vợ:http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2 Của chồng: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2 Năm sau có lại nhưng phải rất cẩn thận mới giữ cái này này, vì hạn cho thấy năm sau sức khỏe yếu bệnh phụ nữ, có thể phải sinh mổ hay băng huyết... gì đó nên đi khám thường xuyên bệnh phụ nữ. chờ bác haithienha lên tư vấn thêm cho chính xác nhé, thân chào!
    1 like
  15. Góp ý với bạn 1 chút về những câu hỏi bạn đưa ra, chờ bác haithienha tư vấn thêm cho chính xác nhé, thân chào!
    1 like
  16. oh lá số người này kể ra phải sinh giờ dậu mới phải
    1 like
  17. Cha mẹ có phải khá giả và cũng có địa vị ngoài xã hội, 1 trong 2 người có phải là khác dân tộc hay lai giữa 2 dòng máu nếu không lúc nhỏ cũng có thời gian xa cách người cha mà không đc ở gần.
    1 like
  18. Lấy chồng đến nơi rồi còn đợi gì nữa, không quá 26 tuổi thế nào cũng cưới
    1 like
  19. Các bạn thân yêu . Đã có một lần nào đó, ý muốn một cuộc sống hướng thiện, thanh cao và giải thoát đã bừng cháy lên trong mỗi chúng ta, hãy đọc những lá thư của những bậc thiện tri thức để luôn nuôi dưỡng hạt giống từ bi và bác ái ấy trong tâm hồn bạn nhé . Xin đăng toàn bộ lá thư của Thầy Tâm Pháp gửi cho một học trò của mình, được sự đồng ý của Thầy, Hoa Đào xin đăng toàn bộ lá thư vì nhận thấy từng lời từng chữ rất có ích cho tất cả chúng ta trên con đường tu tập dù là tại gia hay xuất gia . Chúng con xin tri ân Thầy cùng tất cả những người Thầy đang dìu dắt thế hệ thanh niên chúng con trên con đường giải thoát khỏi những phiền não của cuộc sống . Xin cảm ơn thành viên Đất Nở Hoa đã ngồi gõ lại bức thư này ra văn bản . Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật . Phước Hân con . Thầy đã nhận được thư con và đọc nhiều lần lá thư ấy. Thầy rất thương con! Tội nghiệp con quá! Con cũng giống như thầy ngày xưa khi mới bỡ ngỡ bước chân đi tìm đạo, thật cô đơn và bơ vơ, không biết phải đi về đâu nữa. Khổ nhất là cái cảnh nửa đời nửa đạo như thế. Đời thì vừa chán vừa sợ mà sợ nhất là những đam mê của nó cùng với phiền não trong mình dễ dàng cuốn mình vào trong một vòng xoáy khó thoát của nghiệp lực mà đạo thì chưa thấy đâu, chưa biết bước chân tiếp theo sẽ đặt chỗ nào để định hướng cho cả cuộc đời mình. Thầy rất hiểu và đồng cảm với con bởi vì chính thầy cũng đã từng phải trải qua những năm tháng bơ vơ và đau khổ ấy để bước chân vào đạo, dâng mình trọn vẹn cho cuộc đời hướng thượng, thanh cao. Con thân mến! Đức Phật nói rằng sự hưởng thụ ở đời vui ít, khổ nhiều, sự nguy hiểm còn nhiều hơn. Nó nguy hiểm vì rất khó thoát con ạ, vì vậy chớ có vì tò mò, vì muốn biết mà hối ko kịp đấy con nhé. Ở đời có rất nhiều thứ mình chưa biết nếu dành cả cuộc đời quý báu và ngắn ngủi này để đi biết thì cũng chưa đủ đâu, mà những thứ người ta háo hức muốn khám phá đều có vẻ mỹ miều cả, để rồi dẫn đến cùng một chỗ giống nhau: KHỔ, KHỔ NỮA, KHỔ VÔ TÂN! Người đời luôn mù quáng như vậy đấy, luôn sống trong hy vọng về một niềm hạnh phúc không bao giờ đến. Họ luôn đuổi theo hy vọng như đuổi theo một ảo ảnh, luôn luôn mong rằng mình sẽ tìm thấy hạnh phúc vĩnh hằng ở một ngày mai, một công việc mới, ở một người bạn mình sẽ gặp, ở một nơi mình sẽ đến. Họ sống như những kẻ mộng du, đôi mắt khát vọng luôn nhìn về phía trước xa xăm mà chẳng bao giờ nhìn xuống ngay bước chân trước mặt mình. Đức Phật nói rằng cái dục ở đời giống hư mật dính ở lưỡi dao, càng liếm dao càng cứa đứt lưỡi, hoặc giống như 1 người khát nước mà uống nước biển. càng uống càng chết khát. Người đời là như vậy, con đã thấy ra được phần nào sự vô nghĩa của cuộc sống hưởng thụ khi con lên TP rồi đấy! Con đã có được những nhận xét và quan sát cũng như những suy nghĩ rất chín chắn, đôi khi làm thấy phải sửng sốt bởi vì thấy chưa bao giờ thấy được những điều đó ở những người trẻ tuổi như con. Con rất có duyên với đạo, kiếp trước đã từng tu, kiếp này đi lại con đường cũ mình đã từng đi, con sẽ tiến rất nhanh và vững vàng. Thầy tin là như thế! Con ạ, tu là đi ngược dòng đời. Người đời chạy theo dục lạc, ai cũng đi về một hướng giống nhau: học hành, xin việc, lấy chống, sinh con đẻ cái, kiếm tiền và tiêu tiền, cuộc đời trôi qua như bóng câu qua cửa, nước chảy dưới cầu và rồi cũng bỏ lại hết để đi đến nầm mồ. Ai cũng như ai, cuối đời rồi vẫn cứ thấy khổ nhiều hơn vui, vẫn không hết thèm khát, không hết hy vọng, vẫn bám víu vào cuộc sống ấy để rồi lại tái sinh vào 1 kiếp sau vô định. Người tu chọn một cách sống khác, ly dục diệt phiền não, họ sử dụng cuộc sống làm người vô cùng quý báu và khó có được này để làm những việc quan trọng và ý nghĩa nhất: tu tập để có trí tuệ giải thoát, đọa diệt tham sân si để không bao giờ còn phải trở lại với đau khổ sinh tử luân hồi nữa. Được sống cuộc sống làm người là một điều cực kỳ khó mà hấu hết mọi người đều không ý thức được và không biết trân quý nó. Họ sống hoang phí quá. Đức Phật nói rằng giống như có 1 khúc gỗ có 1 lỗ nhỏ ở giữa, khúc gỗ ấy trôi dạt khắp đại dương, có 1 con rùa mù cứ 100 năm nổi lên một lần, cơ hội để con rùa mù ấy chui đầu vào được khúc gỗ kia còn lớn hơn cơ hội được tái sinh làm người. Được làm người khó thế đấy. Cõi người là nơi dễ tu tập nhất vì sướng khổ, thiện ác hòa trộn với nhau. Cõi Chư Thiên quá sung sướng, muốn gì được nấy nên người ta không có động cơ tu tập, 4 đường ác đạo quá nhiều đau khổ, chúng sinh ngu si, tăm tối càng không có cơ hội tu tập giải thoát – làm sao mình có thể dạy đạo cho con chó và bắt nó ngồi thiền được, phải không? Đức Phật nói rằng có 5 điều khó được để có được một kiếp sống hoàn hảo: 1 là được sinh làm người là một điều khó, được sanh làm người lành lặn là một điều khó thứ 2, được sinh vào thời có giáo pháp của một vị Phật còn lưu truyền trên thế gian (như bây giờ) là điều khó thứ 3, được gặp và học hỏi giáo pháp, ấy là điều khó thứ 4, và được xuất gia trong giáo phấp ấy để tu tập giải thoát là điều khó thứ 5. Con đã có được mấy điều rồi hả con? Con đã là một người may mắn trong hàng tỷ con người si mê ngoài kia, con có muốn mình sẽ tận dụng cơ hội cực kỳ hiếm hoi này để có được 1 kiếp sống hoàn hảo, để không bỏ phí cuộc sống làm người không con? Đi tu được đã là một điều khó. Tu đúng đường để đắc đạo quả là còn khó hơn gấp vạn lần con ạ. “Làm người mới biết thành người khó, Học đạo mới biết đắc đạo nan”. Trong bao nhiêu tu sỹ đầu tròn áo vuông, hỏi có mấy người đi tu vì muốn được giải thoát? Hỏi có mấy người hiểu được và sống được với lời dạy của Đức Thế Tôn? Nhất là ở Việt Nam, điều đó thật vô cùng hiếm lắm thay! Đức Phật nói rằng đi tu cũng có 7 loại tu: có loại đi tu vì thất tình (có người hỏi thầy: đẹp trai thế này, không có cô này yêu thì có cô khác, chớ việc gì mà phải cạo đầu đi tu cho khổ? Thầy nghĩ không lẽ trông mặt mình giống kẻ thất tình lắm sao). Có loại người đi tu vì trốn nợ, có loại đi tu vì trốn nghĩa vụ, có loại vì tham lợi lộc mà đi tu (loại này cũng không ít, thầy biết có trường hợp nhà 6 người đi tu vì ở đời nghèo quá, vào chùa vừa nhàn hạ, vừa dễ kiếm), có loại ham muốn sự cung kính của thế gian mà đi tu, có loại đi tu theo truyền thống vào chùa từ nhỏ chẳng có động cơ gì, rồi rống cả đời như vậy. Loại người đi tu chân chính và cao thượng nhất là đi tu vì đức tin. Xuất phát từ đức tin trong sách vào Phật – Pháp – Tăng, vào con đường giải thoát chân thiện mà Đức Phật và các vị Thánh Tăng đã từng đi, từ đức tin vào người cha, từ niềm tin rằng chính bản thân mình cũng có khả năng đạt tới giải thoát như Đức Thế Tôn và Chư Thánh Tăng mà người ấy xuất gia, từ bỏ gia đinh, sống không gia đình để dành trọn vẹn tâm sức và những năm tháng ngắn ngủi của cuộc sống làm người để hiện thực hóa lý tưởng cao đẹp ấy. Người ấy xuất gia vì lời kêu gọi của Đức Phật, những lời tha thiết nhiệt tâm mà ngày xưa thầy đã từng ôm ấp và học thuộc lòng trong những năm tháng đầy khó khăn, dứt bỏ cuộc đời cơm áo gạo tiền để làm một nhà sư không gia đình: “Cuộc sống gia đình đầy những trói buộc, con đường đầy những bụi đời, cuộc sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho những người sống ở trong gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc, vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sao, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình” Con ạ, với nhiệt tâm mong cầu giải thoát, với động cơ sống cuộc đời xuất gia cao thượng, con người có đức tin từ bỏ cuộc sống gia đình để khoác trên mình tấm y tu sỹ, tam y nhất bát, và bắt đầu một cuộc đời mới đầy khó khăn và thử thách. Tấm y không làm nên tu sỹ. Bước chân vào cuộc sống ấy con sẽ hiểu được rằng để xứng đáng với tấm y cao quý ấy không phải là chuyện dễ, để tìm được hạnh phúc đích thực của cuộc đời xuất gia không hề đơn giản đâu con ạ. Một trong những thử thách đầu tiên những con người xuất gia vì đức tin trong sách sẽ phải chạm trán là: con sẽ sớm nhận ra một sư thật đau lòng là cuộc sống trong chùa kia cũng đời chẳng kém gì đời. Nó cũng là một ảo ảnh, một bong bóng nước phù du, vỡ tan ra trước khi ta nắm được, bởi vì tất cả chúng ta đều ôm ấp trong lòng những ước mơ, những lý tưởng và mong sẽ tìm thấy chúng khi rũ sạch bụi đời ngoài kia để bước chân vào cổng chùa, nơi chốn thánh thiện, thanh cao mình hằng ngưỡng mộ. Đa phần con người ta bị ngã gục ngay ở trận mở màn này, nói chi đến đạo quả cao xa kia. Phần đồng thì vỡ mộng, kẻ lâu người chóng quay ra đời để chẳng bao giờ trở lại, thậm chí vĩnh biệt luôn con đường hướng thượng và tâm hồn trong sáng, chân thiện ngày nào bỡ ngỡ bước chân vào chùa. Thế nên có nhiều người đã từng tu trong chùa nhiều năm khi quay trở lại đời còn xấu xa tệ hại hơ cả người đời, bởi vì họ đã vứt là vứt hết, kể cả giới hạnh và thiện tâm vốn là cái neo để đời nương tựa. Số còn lại buông xuôi theo cuộc sống tầm thường quanh chữ lợi – danh, để bụi thời gian đống khuôn thành một kẻ đời tầm thường. vô vị trong bộ y tu sỹ nhật màu. Vì sao? Vì con người ta chỉ quen đứng nhìn xa xa, ngưỡng mộ sự thanh cao thánh thiện của những nhà sư kia mà không hiểu được rằng họ cũng là con người, màu y không thể nào bịt kín được ô nhiễm trong tâm. Và vì sao nữa? vì họ không gặp được chánh pháp, không biết nương tựa vào pháp. Khi đã đủ duyên lành để gặp được chánh pháp, gặp thầy chân tu và đủ nhiệt tâm để thực hành pháp, họ sẽ bám víu vào hình thức, vào lý tưởng mình tự vẽ ra trong tâm nữa. Đời hay đạo không phải ở nơi mình ở, không phải ở bộ quần áo mình mặc trên người hay cả việc mình đang làm nữa. ĐỜi hay đạo là do ở tâm mình, con ạ. Tu là đi ngược dòng đời, không chỉ là dòng đời xô bồ ngoài kia, mà cả là những dòng suy nghĩ, thói quen ô nhiễm, hạ liệt trong tâm mình đang từng ngày, từng giờ rình rập, dụ dỗ lôi mình đi xuống. Sống cuộc đời xuất gia chúng ta luôn phải lựa chọn, những sự lựa chọn đầy khó khăn: chọn giữ giới hay buông xuôi, chọn chánh niệm hay dễ duôi, chọn thức sớm hay dậy muộn, chọn ăn ngon nhàn hà hay chọn biết đủ, giản đơn, chọn theo đời hay theo Phật. và lựa chọn là đau khổ. “Đường này đến thế gian, đường kia đến Niết Bàn, Tỳ kheo, đệ tử Phật, phải ý thức rõ ràng” (Kinh Pháp cú) Đức Phật nói rằng ở đời chỉ có 2 loại đau khổ: thứ nhất là khổ dấn đến dứt khổ, và thứ hai là đau khổ dẫn đến đau khổ hơn. Nếu không chọn loại này, nhất định phải nhận lấy loại kia. Tại sao làm người lại tu được để thành Thánh nhân mà con chó lại không thể làm được? Bởi vì con người có quyền được lựa chọn, còn con chó thì không, nó bị nghiệp trói buộc quá nặng, chỉ biết sống theo bản năng sinh tồn. Tiếc rằng người đời thật mù quáng, họ không biết và không thèm sử dụng đến cái quyền lời quý hiếm này. “Gieo một suy nghĩ, ta sẽ gặt được 1 hành động; gieo một hành động, bạn sẽ gặt được 1 thói quen; gieo một thói quen, bạn sẽ gặt được một nhân cách; gieo một nhân cách, bạn sẽ gặt được 1 số phận”. Con thân mến, gieo cái gì đây hả con?? Mỗi khi có cơ hội, thầy luôn luôn chọn gieo chánh niệm, gieo suy nghĩ chân chính, gieo từ bi, gieo đức tin, gieo tinh tấn…gieo tất cả những thiện pháp gì có thể gieo được. Trừ khi do nghiệp trói buộc, do phiền não, nhiễm ô nổi lên quá mạnh tước mất của thầy quyền ấy thôi, và nó vẫn còn thường xuyên cướp quyền của thầy từng giờ, từng phút như vậy đấy con ạ. Và thầy thì hoàn toàn đơn độc, cũng như tât cả chúng ta đều luôn luôn phải đơn thương độc mã mà chiến đấu với phiền não trong tâm mình. Vũ khi duy nhất của thầy chỉ là sự kiên nhẫn, người đứng dậy cuối cùng mới thực sự là người chiến thắng. Đức Phật nói rằng: vũ khí của kẻ cướp là sức mạnh, vũ khí của ông vua là quyền lực, vũ khí của đứa trẻ là tiếng khóc, vũ khí của người đàn bà là mồm mép, vũ khí của người trí là kiến thức còn vũ khí của người tu hành là sự kiên nhẫn. Kiên nhẫn với khát, nóng, bức, với ruồi muỗi, với lời chê bai phỉ báng của thế gian, kiên nhẫn với mọi thứ không theo ý mình và quan trọng nhất là kiên nhẫn với chính mình, đưa tâm về với chánh niệm cả ngàn lần mỗi ngày, kiên nhẫn với thời gian, kiên nhẫn với ngay cả những phiền não và những trạng thái tâm bất thiện trong mình, có những lúc thầy chảng thể làm được gì cả ngoài việc kiên nhẫn ngồi chờ cho cơn bão đi qua. Và bão vẫn còn nhiều, còn dữ dội lắm con ạ. Thầy không chỉ là một nhà sư mà còn là một con người. Thầy không phải là hoàn toàn thánh thiện và thanh cao như con và nhiều người vẫn tưởng và hy vọng, dù rằng thầy vẫn đang ngày một thánh thiện thanh cao hơn thật! hãy nhìn thầy như con người thực sự của thầy chứ đừng như một tượng đài trên cao con nhé! Khổ lắm, thầy chẳng muốn làm xi măng vôi vữa đâu con… Với những người thiếu kiên nhẫn thì thời gian là kẻ thù, còn đối với người kiên nhẫn thì thời gian lại chính là đồng minh. Con đang rất cô đơn và bơ vơ, thầy biết, vậy thì hãy lấy thời gian làm bạn cho mình. Hãy kiên nhẫn con ạ, con còn cả một cuộc đời trước mặt. Hành trình tâm linh là một hành trình đầy gian khổ và lâu dài, càng chuẩn bị kỹ bao nhiêu thì càng an toàn bấy nhiêu. Đừng vì buồn chán cảnh gia đình, đừng vì mong cầu sớm thoát ly cuộc sống ấy mà vội vàng xuất gia kẻo sẽ làm hỏng cả động cơ trong sáng của mình con ạ. Nếu con xác định mình sẽ trọn đời đi theo con đường cao thượng này, thì những ngày tháng ngắn ngủi ở trong gia đình hiện nay thật là quý giá chứ con. Con hãy tranh thủ gần gũi mẹ cha, anh em, yêu thương họ và làm được điều gì tốt cho họ thì làm. Sau này khi xuất gia rồi con sẽ thấy muốn làm được điều đó không phải lúc nào cũng được đâu. Con nên bắt đầu chuẩn bị dần về tâm lý cho gia đình và cho chính con nữa. Cuộc đời xuất gia rất gian khổ và bất định, vô số điều trái ý nghịch lòng. Nếu không có động cơ xuất gia chân chánh, không có đức tin vững vàng vào con đường mình đã chọn lựa, không có nghị lực và quyết tâm thì chúng ta có thể gục ngã bất cứ lúc nào. Tất cả những điều đó đều ở trong tâm mình cả, chứ không phải ở bên ngoài, ở chùa chiền, bạn đạo hay thầy tổ. Con phải xác định rõ mình sẽ phải tự nương tựa vào chính mình, tất cả những điều kiện hỗ trợ bên ngoài là do tùy duyên và tùy phước đức của mình – nó có thể không như mình mong đợi đâu con. Con xin phép cha mẹ đi được rồi, chắc bây giờ đã có kết quả thi và phải xác định là mất một thời gian, có thể tương đối lâu thì mới được cha mẹ chấp nhận. Điều này còn phụ thuộc vào thành tâm và quyết tâm của con nữa, chỉ khi cha mẹ thấy con thực sự quyết tâm và vững vàng đức tin vào con đường con tự nguyện lựa chọn thì mới đồng ý con ạ. Xuất gia và tu tập cho thật tốt rồi sau này tùy duyên mà hóa độ cho cha mẹ, đó là cách báo hiếu cao thượng nhất mà chỉ những người trí đức mới làm được. Đừng mong sẽ thay đổi được bố mẹ hay thay đổi cách sống, lối suy nghĩ của bất cứ ai, họ bị trói buộc bởi sức mạnh của nghiệp lực, những gì ta làm được thật nhỏ nhoi – hãy thay đổi bản thân mình trước, đó là cách tốt nhất để độ đời, con ạ. Trong thời gian này, con hãy tranh thủ đọc Tạng kinh (Kinh Nguyên Thủy do HT Minh Châu dịch) gồm 5 bộ: Trung bộ, Trường bộ, Tương ưng bộ, Tăng chi bộ và Tiểu bộ, chắc phải 3-4 tháng mới xong. Lên chùa mượn sư Pháp Thông ấy. Phải đọc kinh điển nguyên thủy ấy, con mới có được nền tảng cơ bản để đi tiếp được – điều này rất quan trọng, con cố gắng làm nhé, có điều kiện thì học thêm tiếng Anh để sau này sang Miến Điện tu học, nhưng nếu thấy xô bồ quá thì thôi. Theo thầy, nếu được gia đình đồng ý, con có thể sang Miến Điện tu học lâu dài, tập thiền, học tiếng Miến và pháp học bằng tiếng Pali. Con còn trẻ, đang có sức học nên vừa học vừa hành cho thật vững rồi hãy về VN. Chuyện này khi nào thầy về sẽ bàn với con, nếu lúc đó con vẫn còn nhiệt tâm xuất gia tu tập. Còn bây giờ hãy tập hạnh nhẫn nại và từ bi ở ngay trong gia đình, mài chí xuất gia và chuẩn bị kiến thức Phật pháp cho thật kỹ đi đã. Đừng đọc lan man kinh điển, hãy nghiên cứu kỹ kinh điển và sách vở Nguyên Thủy con nhé. Cuối năm, có thể trước Tết, thầy về sẽ liên lạc với con. Thầy tin con sẽ là một người con xuất sắc của Đức Phật. Hãy can đảm, vững tin và nghị lực lên con nhé. Thầy chúc con được mọi sự bình an. Với rất nhiều tình thương của thầy. Thầy Tâm Pháp
    1 like
  20. Chị thì nghĩ em sinh giờ Thân. Người cao, khuôn mặt hơi đầy đặn, chân mày đậm, có phải là con một? Tay chân dài, tánh thì ít nói nghiêm nghị ,hay cô độc xa cách người thân ,bạn bè ít ,ngoài ra khó tính và kén chọn khi giao du khi kết bạn ...
    1 like
  21. Theo mình bạn sinh giờ Dậu :) [hì, mình mới học tử vi nên chỉ đoán được đến thế thui] Bạn chờ BÁc Haithienha, chị ntpt lên luận giải cho chính xác hihi
    1 like
  22. Nhà ngoại cảm: Giải nghệ hay không là việc của cá nhân Thứ Bảy, 30.10.2010 | 08:09 (GMT + 7) (LĐ) - Ngay sau khi báo chí đăng phát ngôn của nhà ngoại cảm (NNC) Phan Thị Bích Hằng: “Tôi chưa hề ngoại cảm tìm xe bị lũ cuốn”. Ngày hôm sau (28.10) cũng trên báo chí lại đăng bài: NNC Phan Thị Bích Hằng giải nghệ. Bạn đọc Trần Hoàng Châu Phố (Q3,TPHCM) gửi đến toà soạn bày tỏ: NNC giải nghệ đó là việc của cá nhân, tại sao báo chí lại phải đăng thông tin này? Thậm chí bài viết còn để NNC có cơ hội “phân trần” về nỗi khổ của nghề, mong dư luận chia sẻ. Việc tiếp nhận hồ sơ tìm mộ là mối quan hệ cá nhân của NNC với những người có nhu cầu, không phải là việc thuộc cơ quan nhà nước mà phải đăng công khai trên báo chí. Báo Lao Động ra ngày 29.10 đăng ý kiến của bạn đọc Phan Huy Vũ (Hà Tĩnh) bày tỏ sự bất bình trước lời tuyên bố trên báo chí của NNC Phan Thị Bích Hằng rằng: “Chưa hề ngoại cảm tìm xe bị lũ cuốn. Việc định vị toạ độ chiếc xe gặp nạn chỉ là cuộc điện thoại vu vơ hỏi thăm nhau. Đây chỉ là câu chuyện bâng quơ... Tôi thấy linh hồn họ chưa được siêu thoát, vất vưởng giữa dòng nước lớn...”, toà soạn đã nhận được nhiều ý kiến bạn đọc bày tỏ quan điểm đồng tình với ý kiến của bạn đọc Phan Huy Vũ, nhất là khi một vài tờ báo lại đăng bài về NNC Phan Thị Bích Hằng tuyên bố giải nghệ. Bạn đọc Trần Hoàng Châu Phố (TPHCM) đặt câu hỏi: “Tại sao báo chí lại đăng việc NNC ngừng nhận hồ sơ tìm mộ. Đây là việc riêng của cá nhân NNC. Báo chí đăng thông tin này sẽ “vô tình” tạo tâm lý đối với những người có nhu cầu tìm mộ và tìm đến NNC ngày một đông hơn. Đại loại lời tuyên bố “tạm ngừng” này cũng giống như một số ca sĩ, diễn viên, người mẫu hay có những lời “tuyên bố” gây sốc trong dư luận hoặc tạo những scandal để đánh bóng tên tuổi của mình”. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng. Bạn đọc Đoàn Minh viết: “Khoảng thời gian dăm năm gần đây, trong cuộc sống mới rộ lên phong trào NNC đi tìm mộ, nhất là nhu cầu tìm mộ liệt sĩ (LS), vì hàng chục năm qua ít khi thấy thông tin tìm mộ. Báo chí cũng đã từng đăng tải nhiều câu chuyện tìm mộ LS thông qua NNC với nhiều huyền thoại, cũng có nhiều trường hợp tìm thấy mộ nhưng khi giám định gene lại không phải. Có một phần mộ LS chưa biết tên nhưng có đến 4-5 gia đình đến nhận theo chỉ dẫn của NNC. Cũng có NNC đã nổi danh khi tìm thấy mộ LS - nhà thơ Xuân Quý - nhưng lại bị bắt vì khi đi tìm mộ LS thì trong balô của NNC này có cả túi nylon đựng xương động vật, đồng thời có cả những lọ pinixilin trong đó đã được ghi sẵn tên LS. Có những người bị quản trang phát hiện là hay đến ghi đặc điểm các phần mộ LS chưa biết tên, khi được hỏi thì lại trả lời có người “thuê” đến ghi hộ. Có gia đình LS đang sống trong tâm trạng day dứt khi đã cất bốc phần mộ LS về an táng tại quê nhà theo NNC, nay thông tin trên báo chí, việc tìm mộ LS qua NNC thì là một kênh thông tin để tham khảo, cần phải xác định xem đơn vị LS có chiến đấu tại vùng đó không, bởi không ít NNC đã phán “bừa” vào các phần mộ LS chưa biết tên tại các NTLS. Chắc chắn nhất là nên giám định gene”. Có thân nhân LS cũng đã day dứt khi gọi điện cho toà soạn: Cách đây 5 năm, theo chỉ dẫn của NNC, gia đình tôi đã vào Kon Tum để cất bốc phần mộ LS được NNC xác định. Thế nhưng khi được toà soạn hướng dẫn cách tìm đơn vị qua giấy báo tử thì gia đình tôi đã tìm được mộ LS có tên tại NTLS ở tỉnh Phú Yên. Tôi vẫn hương khói phần mộ LS bị nhận nhầm này, nhưng day dứt một điều là làm mất thông tin tìm kiếm của gia đình LS khác. Vậy tôi có nên trả lại phần mộ LS đã cất bốc nhầm về nơi cũ. Nhưng theo tập tục thì cứ “bốc lên, đặt xuống”, liệu có “động mồ, động mả”, tôi không biết phải làm thế nào cho tâm thanh thản”. Ý kiến bạn đọc gửi về toà soạn đều có chung quan điểm không phủ nhận khả năng của các NNC. Tin hay không là thuộc quyền của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, chỉ trong thời gian không đầy 10 ngày mà thông tin trái chiều về việc tìm kiếm xe khách gặp nạn của NNC Phan Thị Bích Hằng trên báo chí khiến bạn đọc “mất” niềm tin. Khi chiếc xe khách gặp nạn tìm được ở vị trí cách khá xa với nơi mà NNC Phan Thị Bích Hằng nhận định, thì trên báo chí lại bùng nổ “người nói có, người nói không” giữa NNC Phan Thị Bích Hằng và ông Nguyễn Nhật - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh. Cụ thể, ngày 22.10, NNC Phan Thị Bích Hằng khẳng định với PV Báo ĐS&PL: “Tôi không hề có một phát biểu cụ thể nào về vị trí của chiếc xe gặp nạn với ông Nhật. Tôi cũng không hiểu báo chí tại sao lại gán tên tôi vào những chuyện như vậy”. Còn ông Nguyễn Nhật – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh - vẫn tiếp tục khẳng định trên Báo ĐS&PL: “Trước đó, bà Hằng có nói với chúng tôi là xe đang nằm dưới chân núi Quyết (cách vị trí tai nạn khoảng 4km - PV). Sau đó, bà lại nói là cách hạ lưu cầu Bến Thuỷ khoảng 4km (cách vị trí tai nạn khoảng 8km). Việc xác định được vị trí là hoàn toàn bằng sự nỗ lực của các anh em cứu hộ, lực lượng công an, quân đội”. Tất cả thông tin trên đều đã được đăng tải công khai trên báo chí. Dư luận cũng đủ “cơ sở” để đưa ra lời phán quyết: Ai nói có, ai nói không nhờ NNC trong cuộc tìm kiếm xe gặp nạn. Nguồn: Laodong.vn
    1 like
  23. Câu chuyện có nhiều thành ngữ, tục ngữ nhất. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, đứng núi này trông núi nọ, già kén kẹn hom, ghét của nào trời trao của ấy. Chị nọ phận hẩm duyên ôi, kết tóc xe tơ với một anh chàng mặt nạc đóm dày, xấu ma chê quỷ hờn lại đần độn, ngốc nghếch, vô tâm vô tính, ruột để ngoài da, thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, mười tám cũng ừ mười tư cũng gật, học chẳng hay, cày chẳng biết, lúng túng như thợ vụng mất kim, chỉ được cái sáng tai họ điếc tai cày là giỏi! Trăm dâu đổ đầu tằm, giỗ tết cúng bái trong nhà, công to việc lớn ngoài xóm, hai sương một nắng, tất bật quanh năm, một tay chị lo toan định liệu. Anh chồng thì như gà què ăn quẩn cối xay, lừ đừ như ông từ vào đền, như cỗ máy không giật không động. Giàu vì bạn, sang vì vợ, hang xóm láng giềng kháo nhau: ”chàng ngốc thật tốt số, mả táng hàm rồng, như mèo mù vớ được cá rán”. Chị vợ mỏng mày hay hạt, tháo vát đảm đang, hay lam hay làm, vớ phải chàng ngốc đành nước mắt ngắn nước mắt dài, đèo sầu nuốt tủi, ngậm bồ hòn làm ngọt cho qua ngày đoạn tháng. Nhiều lúc tức bầm gan tím ruột, cực chẳng đã, chị định một liều ba bảy cũng liều, lành làm gáo vỡ làm muôi, rồi anh đi đường anh, tôi đi đường tôi cho thoát nợ. Nhưng gái có chồng như gông đeo cổ, chim vào lồng biết thuở nào ra, nên đành ngậm đắng nuốt cay, một điều nhịn chín điều lành, tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại, vợ chồng đóng cửa bảo nhau cho êm cửa êm nhà, sao nỡ vạch áo cho người xem lưng, xấu chàng hổ ai? Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa. Biết chồng tại gia không trot, liền trổ tài điều binh khiển tướng dạy chồng một phen, những mong mở mày mở mặt với bàn dân thiên hạ, không thua anh kém chị trong họ ngoài làng. Một hôm ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, giữa thanh thiên bạch nhật, chị vợ dỗ ngon dỗ ngọt bảo chồng đi chợ mua bò, không quên dặn đi dặn lại: đến chợ phải tuỳ cơ ứng biến, xem mặt đặt tên, liệu cơm gắp mắm, tiền trao cháo múc, đồng tiền phải liền khúc ruột kẻo lại mất cả chì lẫn chài. Được lời như cởi tấm lòng, ngốc ta mở cờ trong bụng, gật đầu như búa máy, vội khăn gói quả mướp lên đường quyết phen này lập công chuộc tội. Bụng bảo dạ, phải đi đến nơi về đến chốn, một sự bất tín vạn sự bất tin, ngốc quàng chân lên cổ đi như chạy đến chợ. Chợ giữa phiên, người đông như kiến, áo quần như nêm, biết bao của ngon vật lạ, thèm rỏ dãi mà đành nhắm mắt bước qua. Hai tay giữ bọc tiền khư khư như từ giữ oản, ngốc nuốt nước bọt bước đến bãi bán bò. Sau một hồi bới lông tìm vết, cò kè bớt một thêm hai, nài lên ép xuống, cuối cùng ngốc cũng mua được 6 con bò. Thấy mình cũng được việc, không đến nỗi ăn không ngồi rồi báo vợ hại con, ngốc mừng như được của. Hai năm rõ mười, ai dám bảo anh ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa. Nghĩ vậy, ngốc ung dung leo lên lưng con bò đi đầu, mồm hô miệng hét diễu võ dương oai, lùa đàn bò ra về mà lòng vui như hội. Giữa đường sực nhớ lời vợ dặn, suy đi tính lại, cẩn tắc vô áy náy, ngốc quyết định đếm lại đàn bò cho chắc ăn. Ngoảnh trước ngó sau, đếm đi đếm lại, đếm tái đếm hồi chỉ thấy có 5 con, còn một con không cánh mà bay đi mất. Toát mồ hôi, dựng tóc gáy, mặt cắt không còn giọt máu, ngốc vò đầu gãi tai, sợ về nhà vợ mắng cho mất mặn mất nhạt rồi lại bù lu bù loa kêu làng kêu nước mà than than trách phận, ngốc về nhà với bộ mặt buồn thiu như đưa đám. Thấy chồng về, chị vợ tươi như hoa ra đón, nhưng ngốc vẫn ngồi như bụt mọc trên lưng con bò đi đầu, chắp tay lạy vợ như tế sao: - Mình ơi, tôi đánh mất bò, xin mình tha tội cho tôi… Nhìn chồng mặt như chàm đổ mình dường giẽ run, chị vợ không khỏi lo vốn liếng đi đời nhà ma, liền rít lên như xé lụa: - Đồ ăn hại. Đàn ông con trai mà trói gà không chặt. Làm sao lại để bò sổng? Sợ thót tim vãi đái, nhưng ngốc vẫn lấy hết sức bình tĩnh để phân trần: - Tôi mua tất cả 6 con, họ giao đủ 6, bây giờ đếm mãi vẫn chỉ 5 con. Nhìn ngốc ta vẫn ngồi như đóng đinh trên lưng bò, chị vợ hiểu rõ đầu đuôi cơ sự, dở khóc dở cười bảo chồng: - Thôi xuống đi! Thiếu đâu mà thiếu, có mà thừa một con thì có! St.
    1 like
  24. Thiên hạ họ Hùng – Họ Ngô Trong số hơn 200 họ của Việt Nam thì họ Ngô cũng là một trong 13 họ có số dân đông, so với tỷ lệ dân số cả nước thì Nguyễn = 38,4%,Trần = 11% , Lê = 9,5%, Hoàng = 5,1%, Phạm = 5%, Phan = 4,5%, Vũ = 3,9%, Đặng = 2,1%, Bùi = 2,1%, Đỗ = 1,4%, Hồ = 1,3%, Ngô = 1,3%, Dương = 1%, Lý = 0,5%. Họ Ngô ở Trung Quốc đứng thứ 10 dân số các họ. Ngoài số ít dân số là các tộc thiểu số phương Bắc bị Hoa hóa lấy họ là Ngô như tộc Tích Bá 锡 伯, tộc TriềuTiên 朝 鲜, tộc Kha Nhĩ Khắc 柯 尔 克, tộc Hách Triết 赫 哲 v.v.Còn lại hầu hết họ Ngô là có cùng gốc dòng Việt tộc từ thời thượng cổ, chủ yếu tập trung ở miền nam, vùng Triết Giang, Giang Tô, Hồ Nam, Phúc Kiến, Quảng Đông, nguồn gốc chủ yếu là từ họ Cơ 姬 của nước Ngô 吳, là hậu duệ của Thái Bá 泰 伯 và Trọng Ung 仲 雍, hai người này là con của Chu Thái Vương 周泰 王 tức Cổ phụ 古 父( “Cổ phụ” tức “bố Cả”, chữ Cơ 姬 và chữ Cổ 古 đều là phiên âm của chữ Cả trong tiếng Việt cổ, nghĩa là con trai trưởng).Tương truyền Cổ Phụ 古 父 là cháu đời thứ 12 của Hoàng đế Hiên Viên thị 黄 帝 轩 辕 氏.Cổ Phụ lập nên nhà Chu 周, là vua đầu của nhà Chu, hiệu là Chu Thái Vương 周 泰 王. Chu Thái Vương có ba con trai là Thái Bá 泰 伯, Trọng Dung 仲 雍 và Cơ Xương 姬昌, trong đó Cơ Xương 姬 昌sinh ra trông có tướng thánh hơn cả nên Chu Thái Vương có ý truyền ngôi cho. Hai anh biết vậy nên cũng nhượng hiền, khi Cơ Xương 姬 昌lên làm vua hiệu là Chu Văn Vương 周 文 王thì Thái Bá 泰 伯 và Trọng Ung 仲 雍 rủ nhau đi đến vùng người Kinh 荊, Man 蠻 ven biển phía đông lập nghiệp, ở đó họ được dân tại chỗ tôn Thái Bá 泰 伯 lên làm vua, lập nên quốc gia họ Cơ 姬 (năm 1123 BC). Nước họ Cơ này sử viết là Câu Ngô 句 吳 ( do chữ Cơ 姬 này được phiên âm bằng hai âm tiết là Câu Ngô 句吳, chứ thực ra chữ Câu 句 đầu này không có ý nghĩa gì cả), thế là hình thành nước Câu Ngô 句 吳. Khi Thái Bá chết, vì Thái Bá không có con, nên Trọng Ung 仲 雍 thừa kế ngôi vua, là vua đời thứ hai của nước Câu Ngô. Nhà Chu thì đến đời con trai Cơ Xương 姬昌 là Cơ Phát 姬 發 lên ngôi hiệu là Chu Vũ Vương 周 武 王, sau khi diệt xong nhà Thương 商, Cơ Phát 姬 發 bèn phong cho cháu ba đời của Trọng Ung làm chư hầu, đổi quốc hiệu thành Ngô 吳, đồng thời truy phong Thái Bá 泰 伯 là Ngô bá, tức tước Bá ở nước Ngô (5 bậc “ tước” khi nhà Chu phong đất thời đó là: Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男 tức là: Chắc, Hai, Ba, Tư, Năm; sau tước “Hầu 侯” của “chư hầu” tức “thứ hai” thì đến tước “ Bá 伯” là “chư bá”, nghĩa là sau tước “thứ hai” thì đến tước “thứ ba”, đây hoàn toàn là sự phiên âm từ tiếng Việt cổ). Đến cháu đời thứ 19 của Trọng Ung 仲 雍 là Thọ Mộng 壽 夢 vẫn kế tục làm vua (năm 586 BC) của nước Ngô , đóng đô ở chỗ nay là Tô Châu 蘇 州 tỉnh Giang Tô 江 蘇. Con trai thứ 4 của Thọ Mộng 壽 夢 là Qúi Trát 季 札(576 BC – 485 BC, thọ 92 tuổi) đáng lý kế vị nhưng từ chối, bỏ đến Diên Lăng 延 陵 làm ruộng . Từ đó về sau hậu duệ của vua Ngô là Thọ Mộng壽 夢 chia thành hai chi, một chi phát triển về chính trị dẫn đến đời vua Hạp Lư 闔 閭và đời vua Phù Sai 夫 差v.v. Còn chi hậu duệ của Qúi Trát 季 札 phát triển độc lập ở Diên Lăng 延 陵, đông đúc con cháu thành bộ phận chủ yếu của họ Ngô 吴. Cuối thời Xuân Thu春 秋, nước Ngô 吳 dần dần lớn mạnh lên, vua Ngô là Hạp Lư 闔 閭chọn Ngũ Tử Tư 伍 子 胥 làm tướng văn, Tôn Vũ 孫 武 làm tướng võ, quyết đánh nước Việt 越. Con ông ta là Phù Sai 夫 差 (lên ngôi năm 496 BC) đánh phá nước Việt 越, đánh bại được quân Tề 齊, tiến lên phía bắc tranh bá với nước Tấn 晉 國, nước Ngô trở thành một nước lớn. Về sau Phù Sa i夫 差 kiêu ngạo tự đại không nghe Ngũ Tử Tư 伍 子 胥 khuyên can, kết quả bị Việt vương Câu Tiễn 越 王 勾 踐 đánh bại, nước mất thân vong (năm 473 BC). Con cháu Phù Sai 夫 差 lưu tán tứ phương, vẫn lấy tên nước làm họ, xưng là họ Ngô. Nước Ngô tồn tại 650 năm qua 25 đời vua, tạo dựng nên nền văn minh Giang Nam, cuối cùng bị diệt vào tay nước Việt, rất nhiều địa danh nước Ngô sau này dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên 司 馬遷 biến thành tên “Ngô hư 吳 墟”. Nhưng con cháu họ Ngô vẫn nêu cao tinh thần của Thái Bá 泰 伯 tiếp tụcphát triển, đời nào cũng có anh tài , cống hiến cho sự tiến bộ của dân tộc Trung Hoa. Sau khi nước Ngô bị Việt vương Câu Tiễn diệt, thái tử con Phù Sai là Ngô Hồng 吳 鴻 bị lưu phóng ở Giang Tây. Ngoài ra hậu duệ của Phù Sai phát triển ở Triết Giang, An Huy, Sơn Đông, Hà Nam và một số nơi khác. Đến thời Tùy, Đường họ Ngô đã phổ biến một vùng rộng lớn bắc Giang Nam. Thời Đường Cao Tông 唐 高 宗 có người họ Ngô làm tả tướng theo cha con Trần Chính 陳 政 và Trần Nguyên Quang 陳 元 光 vào đất Mân 閩 khai phá vùng Chương Châu 漳 州, đến đời Đường Hi Tông 唐 僖 宗 lại có tả tướng họ Ngô theo Vương Thẩm Tri 王 審 知 vào vùng Mân 閩 an cư lập nghiệp ở Phúc Kiến. Thời Tống, Minh về sau thì họ Ngô đã xưng hùng ở đất Đông Nam, trong đó có cháu đời thứ 53 của Qúi Trát 季 扎 là Ngô Tuyên 吳 宣 làm phò mã của nước Hậu Thục 後 蜀, gia tộc hiển hách một thời. Cháu 5 đời của Ngô Tuyên吳 宣 là Ngô Cát Bồ 吳 吉 甫 là thủy tổ của họ Ngô khi vào đất Việt Đông 粤 東. Thời Nguyên có viên ngoại lang bộ lễ là Ngô Quang Đẩu 吳 光 斗 phụng mệnh đem 6000 người từ lục địa lên thuyền sang Đài Loan năm 1291. Cuối thời Minh nhiều dân họ Ngô ven biển Phúc Kiến, Quảng Đông di cư sang Bành Hồ, Đài Bắc, Cao Hùng để mưu sinh lập nghiệp, phát triển đến tận ngày nay. Trong đó có một chi hiển hách nhất là gia tộc của Ngô Bá Hùng 吳 伯 雄, mệnh danh là “toàn Đài đệ nhất gia”. Người họ Ngô di cư sang Nhật Bản khoảng năm 450 BC ( sau khi nước Ngô đã bị diệt năm 473 BC ), trong đó có một chi sau thành hoàng thất của nước Nhật. Cũng khoảng thời gian đó, tức sau khi nước Ngô đã bị diệt , một dòng lớn người họ Ngô theo đường biển chạy xuống phương nam về lại đất Việt Nam ngày nay, trong hậu duệ số đó về sau xuất thế Ngô Quyền 吳 權 là cháu đời thứ 50 của Qúi Trát 季 扎 (điểm này chờ các nhà sử học Việt Nam xác minh). Vào năm 939 Ngô Quyền xưng vương kiến lập nhà nước độc lập đầu tiên của Việt Nam. Họ Ngô di cư sang Hàn Quốc là Ngô Phong 吳 風 thời Đông Hán, phát triển cho đến ngày nay dân số đứng thứ 20 trong tổng số 143 họ của Hàn Quốc. Sau thời Minh thì mới có người họ Ngô di cư sang các nước Đông Nam Á và phương Tây. Ngày nay dân số họ Ngô trên toàn thế giới là hơn 4 triệu người và có nhiều chi thuộc hàng vọng tộc.
    1 like
  25. Hiện nay trang web ebook4u.vn đnag cho download sách miễn phí với số lượng 50 quyển, thời gian đến hết ngày 31/10/2010. Mọi người nhanh tay nào! http://ebook4u.vn/home.htm
    1 like
  26. Thầy, trò thời Hùng Vương dạy học bằng chữ gì Trước Tết Mậu Tý, thầy giáo đã nghỉ hưu Đỗ Văn Xuyền bước đầu công bố công trình “giải mã chữ Việt cổ” tại Trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam, gây được sự chú ý của giới khoa học. Thầy giáo Đỗ Văn Xuyền nói về các ký tự cổ Từ câu chuyện về Thiên Cổ miếu... Gần ba mươi năm dạy học, thầy giáo Xuyền luôn gắn bó với vùng đất thiêng được bồi đắp bởi phù sa của cả ba con sông Hồng, sông Lô và sông Đà. Nhưng ông không phải người gốc ở đây, chỉ là chàng rể của cố đô xưa nhất nước Việt. Đầu đường vào làng Hương Lan có ngôi miếu nhỏ. Trước cửa miếu sừng sững hai cây táu đại thụ hơn ngàn tuổi, gốc năm sáu vòng tay người ôm không xuể. Thầy giáo Xuyền nghe ông từ kể: “Miếu đây có tên Thiên Cổ, thờ hai vợ chồng thầy giáo thời Hùng Vương, dạy học ở làng này”. Ngọc phả của miếu ghi rõ: Thiên Cổ miếu thờ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, ông quê Hải Dương, bà quê Bắc Ninh, đến kinh đô Văn Lang mở trường dạy học thời Hùng Vương thứ 18. Thầy giáo Lang tài đức vẹn toàn, đông người làng và quanh vùng theo học, danh tiếng vang xa. Vua Hùng nghe tin, gửi hai con gái đến thụ giáo, đấy là công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa. Về sau cả ông và bà cùng mất một ngày, ngôi miếu nhỏ chính là nơi song táng hai vợ chồng thầy giáo của làng... Thiên Cổ miếu Câu chuyện về thầy giáo Vũ Thê Lang thời Hùng Vương, chứng tích còn đó những ngôi miếu và phong tục thờ cúng, đã có sức cuốn hút đặc biệt với thầy giáo Xuyền. Phải chăng trước khi chìm đắm vào đêm dài Bắc thuộc, nước Văn Lang đã có một nền văn hiến rực rỡ? Không chỉ để lại cho hôm nay những chiếc trống đồng Đông Sơn tuyệt hảo, cha ông ta còn để lại (đâu đó, trong những di tích như Thiên Cổ miếu) bằng chứng về một nền giáo dục, một thể chế kén chọn người tài phát triển ngay từ thời dựng nước? Nhiều năm ròng rã, thầy Xuyền dày công sưu tầm trong các thư viện Hán - Nôm, trong ngọc phả đình miếu, và các câu chuyện dân gian, về sự học sự thi thời kỳ trước khi chữ Hán thâm nhập vào nước ta - gọi tắt là thời trước Hán. Công sức bỏ ra dần cho kết quả hết sức đáng tự hào: Hầu khắp các tỉnh lưu vực sông Đà, sông Lô, sông Hồng, xa hơn nữa mạn Thanh Hóa, Nghệ An, đều có các bằng chứng về các thầy giáo danh tiếng và các học trò giỏi thời Hai Bà Trưng, An Dương Vương, Hùng Vương! Thầy Xuyền bước đầu sưu tầm được 18 thầy giáo, và một con số nhiều hơn các học trò giỏi, còn ghi danh qua truyền thuyết và ngọc phả các đền miếu ngàn đời nay vẫn được nhân dân hương khói thờ phụng. Những sưu tầm còn cho thấy từ thời Hùng Vương, việc kén tìm người giúp nước trị dân thường được tuyển chọn trong những học trò giỏi, hoặc qua việc thi cử mà khẳng định, hoặc lập được chiến công chống ngoại xâm. Qua những kết quả trên, một câu hỏi logic lại thôi thúc thầy giáo Xuyền phải tìm câu trả lời: Thầy, trò thời Hùng Vương dạy và học bằng thứ chữ gì? Cha ông ta đã có chữ viết của riêng mình, từ thời trước Hán? Thế là thầy giáo Xuyền lại tiếp tục dấn thân vào một đề tài mà nhiều nhà nghiên cứu đi trước đã tốn bao công sức, song kết quả chưa được như mong muốn... Đến huyền thoại hay sự thật? Sách Tân Lĩnh Nam Chích quái của Vũ Quỳnh (đời Lê, thế kỷ 15) viết đại ý: Thời Lạc Long Quân có người hái củi, bắt được con rùa, lưng rộng khoảng ba thước, trên mai có khắc chữ như con nòng nọc gọi là chữ Khoa Đẩu. Hùng Quốc vương đã cử phái đoàn đem rùa thần đó cống cho vua Nghiêu. Về việc này, sách Thông Giám Cương Mục do Chu Hy đời Tống viết: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 trước Công nguyên) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”. Sách Thông Chí của Trịnh Tiểu cũng đời Tống nói rõ hơn: “Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”. Chữ Khoa Đẩu được nói tới trong các tài liệu trên là thứ chữ như thế nào? Vì sao đến nay không còn dấu tích gì về nó nữa? Vương Duy Trinh - Hiệp biện Đại học sỹ, Tổng đốc Thanh Hóa - trong cuốn Thanh Hóa quan phong viết năm 1903, đã giới thiệu một số chữ lạ mà ông sưu tập được, khẳng định đó là chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương, và đưa ra nhận xét: “Vì Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Trung Quốc”. Giáo sư Hà Văn Tấn đã công bố công trình nghiên cứu “Về một nền văn tự trước Hán và khác Hán”, Giáo sư Lê Trọng Khánh thì khẳng định “Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa Đẩu thời tiền sử để ghi tiếng dân tộc mình”. Giải mã bộ “chữ Thái (thổ tự)” Hướng đi đầu tiên của thầy Xuyền là tìm kiếm dấu tích của chữ Việt cổ. Năm này qua năm khác, nghe đâu có ký tự lạ lưu giữ qua các cổ vật, hang động, vách đá, thầy Xuyền bất chấp đường xa, không ngại tốn kém, lập tức tìm đến. Nhưng tất cả chỉ là những ký hiệu chưa giải mã được Mươi năm gần đây, thầy Xuyền chuyển hướng đi mới - nghiên cứu những ký hiệu đã mang hình hài của ký tự, được phát hiện rải rác từ Hà Giang, qua Bắc Ninh, Hòa Bình, vào tới Thanh Nghệ Tĩnh... Tập trung lên hướng Tây Bắc - vùng ổn định nhất của người Lạc Việt suốt nhiều nghìn năm - thầy Xuyền đã phát hiện ra suốt một vùng dọc theo triền sông Đà, nhân dân ta còn lưu giữ được nhiều văn bản mang trên mình loại ký tự mà mọi người vẫn nhầm là chữ Thái. Trong những tài liệu ấy, thầy Xuyền đặc biệt chú ý đến tài liệu do Thượng thư Phạm Thận Duật, một nhà trí thức uyên bác (Tri châu Điện Biên những năm 1855-1856) công bố. Bên cạnh những công trình nghiên cứu về phong tục, tập quán, Phạm Thận Duật đã có một số trang ghi lại một loại ký tự mà ông cho là “chữ Thái (thổ tự)” (CTTT - chữ Thái chỉ của một vùng người Thái). Những trang ghi chép này không được chú ý vì nội dung của nó mang nhiều điều vô lý. Sau một thời gian dài đi sâu vào sự “vô lý” ấy, thầy Xuyền đã phá bỏ lớp vỏ ngụy trang, dần dần giải mã được bộ ký tự này. Thầy Xuyền cũng khu biệt được bộ chữ mới được giải mã, từ đó rút ra kết luận: Bộ chữ này cũng không phải của hai dân tộc anh em Mường và Thái. Do nhiều lý do, các dân tộc anh em đã sử dụng chung bộ ký tự này (có chỉnh sửa đi chút ít), đúng như nhận định của Vương Duy Trinh “Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy”! Tiền thân của chữ Quốc Ngữ?! Chữ Quốc ngữ xuất hiện ở nước ta từ năm 1651. Nhiều cuốn sách cổ được in từ buổi đầu chữ Quốc ngữ xuất hiện, đến nay hầu như không ai đọc được. Khi đem bộ chữ Việt cổ đã được giải mã thử đọc một số cuốn sách cổ, như cuốn “Từ điển Việt Bồ La” của Alexandre de Rodes, hay cuốn “Sách sổ sang” của Philip Bỉnh (Giám mục người Việt, ở Thủ đô Bồ Đào Nha những năm 1790 - 1820), thầy giáo Xuyền đã rất thú vị khi dễ dàng đọc được những từ khó mà lâu nay nhiều người không đọc cũng không giải thích được. Chính từ việc này, thầy Xuyền đã đưa ra một giả thuyết: Chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là một công trình hoàn toàn mới của Alexandre de Rodes. Nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ?! Giả thuyết của thầy Xuyền không phải không có căn cứ. Bởi chữ Quốc ngữ và chữ Việt cổ do thầy Xuyền giải mã có cùng cấu trúc ghép vần tương tự nhau, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi! Chính trong cuốn “Từ điển Việt Bồ La”, Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, nó đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo thầy Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ! Đinh Anh Tuấn tienphong.vn
    1 like
  27. Ngôi đền thờ thầy giáo cổ nhất Việt Nam. Đó là một ngôi miếu cổ trên một quả đồi nhỏ thuộc thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, Thành phố Việt Trì (Phú Thọ) nằm trong địa phận của Kinh đô Văn Lang xưa, nơi tương truyền thờ hai vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, đời Hùng Vương thứ 18, dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Cho đến nay, qua những chứng tích còn lại, đấy là ngôi đền thờ thầy cô giáo, tôn vinh sự học cổ nhất ở Việt Nam. Thiên Cổ Miếu nằm trong một quần thể di tích: Đình Hương Lan, Lăng mộ ba đô sĩ thời Hùng Duệ Vương và đền Thiên Cổ, đã được UBND tỉnh Phú Thọ cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử. Xưa để bảo vệ ngôi đền khỏi sự tàn phá của các thế lực xâm lược ngoại bang đã ra sức thực hiện chính sách đồng hóa, tìm mọi cách khiến người Việt quên đi truyền thống, gốc tích và bản sắc văn hoá dân tộc và một thời ấu trĩ, nhân dân gọi chệch đi là Miếu Hai Cô. Ngôi miếu cổ nằm hiền hòa dưới bóng hai cây táu cổ thụ, gốc to bốn, năm người ôm không xuể, có tuổi hàng ngàn năm. Điều thú vị là một cây cho hoa mầu vàng, một cây cho hoa mầu bạc. Hè năm 1978, Ban lãnh đạo hợp tác xã Động Lực quyết định cho chặt hai cây táu làm củi nung gạch. Biết hung tin, các cụ già của thôn Hương Lan đồng lòng kéo nhau ra miếu. Cụ Nguyễn Hữu Bồng (bố đẻ của ông Nguyễn Hữu Yết, thủ từ hiện nay) thét lớn: “Không được phá nơi thờ thầy cô giáo. Nếu chúng mày định chặt cây thì hãy chặt xác tao luôn thể!”. Bấy giờ người ta mới biết đây là nơi thờ thầy giáo Vũ Thê Lang, vốn quê ở Mộ Trạch, Hải Dương cùng vợ là Nguyễn Thị Thục, quê ở Đông Ngàn, Kinh Bắc lên đây dậy học từ thời Hùng Vương thứ 18. Hai thầy cô tạ thế cùng một giờ, một ngày 2.2. năm Quí dậu ( 228 trước công nguyên). Đến nay, ngôi mộ của vợ chồng thầy cô giáo Vũ Thê Lang và Nguyễn Thị Thục vẫn còn ở trong điện và chưa bị dịch chuyển một lần nào. Ngôi miếu được nhân dân Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt gần 23 thế kỷ. Năm 1990 ngôi miếu bị cháy, trong lúc cố cứu những vật thờ, người dân Hương Lan đã phát hiện ra cuốn ngọc phả của miếu và cả sắc phong vua ban. Dù bị cháy lẹm một phần, nhưng nội dung ghi chép trong đó thì không bị mất. Hiện nay vẫn còn giữ được một bản ngọc phả quý được viết lần đầu vào năm Hồng Phúc thứ 2 (1573) đời vua Lê Anh Tông, do Đông Các học sĩ Nguyễn Bính biên soạn. Ngọc phả này đã ghi chép lại nguồn gốc của ngôi miếu cổ: “Vào thời Hùng Duệ Vương, ở đất Mộ Trạch có vợ chồng Vũ Công, thuộc gia đình có học. Cha mẹ mất sớm, cảnh nhà sa sút, hai người lần tìm về đô thành Phong Châu, tới thôn Hương Lan mở lớp dạy học. Dân làng đã cấp cho họ ruộng đất để trả công dạy dỗ. Vợ chồng Vũ Công sinh hạ được một người con trai là Vũ Thê Lang. Lớn lên, Vũ Thê Lang tìm về người bạn cũ của bố là Nguyễn Công ở đất Đông Ngàn – Kinh Bắc. Nguyễn Công đã gả cho Thê Lang người con gái của mình là Nguyễn Thị Thục – một cô gái nết na, thạo nghề tơ tằm canh cửi. Khi cha chết, Vũ Thê Lang tiếp tục thay cha dạy học, Thục Nương giúp dân nghề nông tang, canh cửi. Tiếng lành đồn xa, nhờ học vấn cao và tận tụy với nghề, sống giản dị và mẫu mực nên ông giáo Vũ Thê được vua Hùng thứ 18 giao cho chăm nom việc học hành của hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa”. Hoành phi và câu đối trong đền Thiên Cổ có từ thời Tự Đức năm thứ nhất (1848). Trong đền, ngoài ba lư hương cổ bằng gốm từ thời nhà Lý, nhà Lê, còn có một số đồ thờ bằng gỗ như ống hương, hai cây nến… Đặc biệt là các pho tượng: Phụ vương, Mẫu vương và hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa cùng hai thị nữ, đã có trên 70 năm. Trên bàn thờ có tượng của thầy cô và hai thị nữ theo hầu, đó là Tiên Dung và Ngọc Hoa (được dùng để ngụy trang). Ngoài ra còn có một bức Hoành phi nhỏ ghi: “Thiên Cổ Miếu” và hai câu đối bằng gỗ mộc dài chừng một mét, đều viết bằng chữ Hán: “Hùng Lĩnh trung chi thắng tích/ Nam thiên chích khí linh từ” nghĩa là: “Đền thiêng thờ người có chí khí mạnh mẽ, lớn lao của trời Nam”, Nay những hoành phi câu đối này đều được viết bằng chữ Việt cổ, tức là chữ “Khoa đẩu”, chữ của dân tộc ta có từ thời Hùng Vương và trưng bầy phiên bản trống đồng Lũng Cú -Lạng Sơn, trên trống có chữ khoa đẩu. Theo một cuộc điều tra của Pháp những năm 30 về hệ thống đền, đình ở nước ta – tài liệu vẫn còn lưu trữ ở Viện Hán – Nôm, thì toàn miền Bắc và miền Trung có hơn 40 đền thờ các thầy cô giáo và những học trò thời trước Hán, tức là thời Hùng Vương đến thời An Dương Vương. Chính từ những chứng tích của Thiên Cổ Miếu, các nhà nghiên cứu, mà tiên phong là ông Đỗ Văn Xuyền đã tìm được một danh sách 18 thầy giáo thời Hùng Vương, những người đã đào tạo ra hiền tài cho các Vua Hùng như: Thầy Lý Đường Hiên, thời Hùng Vương thứ 6, dạy ở Yên Vĩ, huyện Hoài Nam, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam (nay là Ứng Hòa, Hà Nội); thầy Lỗ Công, thời Hùng Vương thứ 9, là cháu ngoại vua Hùng Định Vương, dạy ở kinh thành Văn Lang… Đến nay vẫn còn đền thờ của các thầy giáo và học trò của họ ở khắp miền Bắc nước ta như đền thờ thầy Hải Đường tiên sinh ở huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu; đền thờ Trương Sơn Nhạc – học trò thầy Lỗ Đường tiên sinh, ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh… Thậm chí cả những vùng đất xa xôi, hiểm trở như ở Quỳnh Nhai, Sơn La, cũng có đền thờ thầy cô giáo và những học trò rạng danh thời đó. Dẫu có phải ngụy trang, thì những ngôi đền, những chứng tích quí báu ấy đã khẳng định sự cố gắng hết lòng của ông cha ta trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cố gắng bảo vệ những giá trị văn hoá của dân tộc cho muôn đời con cháu. Thiên Cổ Miếu cùng những chứng tích quí báu ấy đã minh chứng thêm bộ chữ “Khoa đẩu” của dân tộc ta có từ trước công nguyên, được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ thuộc thời kỳ Đông Sơn tìm được ở nhiều nơi thuộc lãnh thổ nước ta theo một sự phát triển logic từ thấp đến cao, khẳng định hệ thống giáo dục của nước ta đã phát triển từ thời Hùng Vương, khẳng định bộ chữ Quốc ngữ được các giáo sỹ phương tây cùng những trí thức Việt Nam La Tinh hóa tên cơ sở bộ chữ “Khoa đẩu”, mà công đầu là của hai giáo sỹ Bồ Đào Nha: Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa cùng đội ngũ những trí thức người Việt bằng những căn cứ khoa học không thể chối cãi đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước thừa nhận. Trên cơ sở công trình đó, sau này Alexandre de Rhodes hệ thống hóa và chỉnh lý hoàn thiện thêm. Cũng chính tại nơi đây, đúng 10g sáng ngày 29.3.2009, tức ngày 4.3 âm lịch đã long trọng khánh thành Thần Qui bằng đá nguyên khối, nặng 4 tấn, mô phỏng, Thần Qui xưa đời Nghiêu, người Việt ta tặng con rùa ngàn năm tuổi, trên mai có khắc chữ “Khoa đẩu” (chữ như con nòng nọc) chép việc từ thời khai thiên lập địa trở đi để giữ hòa hiếu giữa hai nước. Sự kiện này đã được chép trong Ngọc phả đền: “Tứ Lạc Long Quân chi tử” đời Trần Thái Tông, tại xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Trong sách “Thông giám cương mục” của Chu Hy, sách “Tân lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh… Ngày nay, Thiên Cổ Miếu không chỉ là điểm đến của những người “Tôn sư trọng đạo”, yêu kính cội nguồn dân tộc, mà còn là điểm đến của không biết bao nhà nghiên cứu và du khách trong và ngoài nước. Tất cả đều vô cùng khâm phục truyền thống văn hóa, truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Gần đây nhất, ngày 7.7.2009 âm, tức ngày 26.8.2009, một đoàn nghiên cứu tâm linh gồm 50 người từ Braxin, Chi Lê, Tây Ban Nha, Pháp, Hung Ga Ri, Ý, Ma Xê Đoan, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ đã đến thăm viếng Đền Hùng, họ dâng lên 18 cặp bánh chưng, bánh dầy, xôi, mâm ngũ quả tỏ ý tôn trọng cội nguồn văn hóa Việt Nam, sau đó đã đến thăm Thiên Cổ Miếu. Khi được ông Đỗ Văn Xuyền giới thiệu lịch sử ngôi đền, hệ thống giáo dục của nước ta từ thời Hùng Vương, chữ Việt cổ, sự hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ trên cơ sở chữ Việt cổ… tất cả đều không dấu được sự khâm phục. Thiên Cổ Miếu là ngôi đền thờ thầy cô giáo cổ nhất Việt Nam, đây là một minh chứng hùng hồn cho truyền thống giáo dục của dân tộc ta, một dân tộc có bốn nghìn năm văn hiến. Trần Vân Hạc. nguồn vanhac.org
    1 like
  28. Đàn chim hòa bình dịp Đại lễ đang chết dần chết mòn</H1>Cập nhật lúc 09:20, Thứ Sáu, 29/10/2010 (GMT+7) Đàn chim 1.000 con bồ câu hòa bình là điểm nhấn ấn tượng trong dịp Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Thế nhưng đàn chim đặc biệt này đang chết dần mòn. >> Toàn cảnh Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội Thời tiết miền Bắc những ngày này đột nhiên trở lạnh làm không khí có phần ảm đạm hơn. Đi vào khu vực hồ Bách Thảo, nơi “tổ” của đàn chim hòa bình đang được hoàn tất, chúng tôi bắt gặp rất nhiều con chim bồ câu đứng ủ rũ, con đậu trên cây, con dưới đất, con chui gầm ghế đá… xung quanh gạch, đá, sỏi đang thi công ngổn ngang. Ông Phạm Tài Thu, huấn luyện chim câu, là người ngày ngày chăm sóc đàn chim buồn bã cho biết, đã có chim chết và số lượng ngày càng trầm trọng. Hiện ông và các học trò đang cố gắng “còn nước còn tát” cứu chim bằng cách mỗi sáng nhỏ thuốc cho từng con một. Những chú chim đứng ủ rũ, có con đã chết từ lúc nào. (Ảnh: L.Sáng) Theo ông Thu, việc chim bồ câu thất thoát là do một số nguyên nhân như thời tiết miền Bắc thay đổi đột ngột làm đàn chim bị sốc, dẫn đến chim kém ăn, sức đề kháng kém, dễ nhiễm bệnh. Thứ hai là do bệnh đậu, đây là nguyên nhân chính khiến chim chết. Theo ông Thu do khu vực làm chuồng chim ở giữa hồ lại không được chuẩn bị từ trước, đến ngày mang chim ra mới vét bùn lên gò giữa hồ tạo mặt bằng. Khu vực này chim câu thường đậu, những ngày có mưa bùn bắn vào mắt, miệng chim làm nhiễm bệnh. Chim câu chỉ uống nước sạch mới khỏe mạnh, ở khu vực này lại không có máy nước nên ông Thu phải thuê một người xách nước vào cho chim uống. Nhưng do xách không xuể , hơn nữa lại có nhiều người ra người vào chim không dám uống nước ở máng mà uống nước hồ ô nhiễm nên bị bệnh. Thứ ba, do chim câu mới mang ra nên chưa quen địa hình dễ lạc không quay về được. Ngày khai mạc đã bị thất lạc nhiều chim, ngày bế mạc thả chim câu vào 20h lại có bắn pháo hoa ngay làm 200 con chim câu thả hầu như mất hết. Thứ tư, điều làm ông Thu “đau” nhất là việc chim câu bị bắt trộm giữa ban ngày. Ông kể đã nhiều lần thấy người dân bắt trộm chim câu, nhưng vì có một mình và cả vườn Bách thảo cũng chỉ có một bảo vệ chung nên bảo vệ không xuể. Để khôi phục đàn chim, ông Thu cho hay cần phải bổ sung một số lượng chim câu khoảng 200 - 300 con nữa, số còn lại sẽ tự sinh sản; phải hoàn thành nhanh nhất việc thi công tại khu vực tổ chim. Sau đó dùng thuốc sát khuẩn khử trùng chuồng trại cẩn thận, có máng ăn, máng uống hợp lý, có nước máy cho chim uống. Theo Lê Sáng Đất Việt
    1 like
  29. Lá sen chữa bệnh. Lá sen tính mát,vị cay, lợi về các kinh can, tỳ, vị. Ngoài ra, loại lá này còn giúp hạ nhiệt, làm tan những ứ tụ và cầm máu.Lá sen được dùng trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian với tên thuốc là liên diệp hoặc hà diệp, được thu hái quanh năm, thường dùng lá non (hoặc lá còn cuộn lại chưa mở) và lá bánh tẻ, bỏ cuống. Dùng tươi hoặc phơi, sấy khô, đôi khi sao thơm. Dược liệu là nguyên lá to, khô, màu lục, không bị sâu, không có vết thủng, có vị đắng, hơi chát, mùi thơm nhẹ, tính mát bình, không độc, vào ba kinh can, tỳ, thận, có tác dụng thanh nhiệt, cầm máu, tán ứ, an thần, lợi thấp. Sau đây là một số bài thuốc có dùng lá sen. Chữa máu hôi không ra hết sau khi sinh: Lá sen sao thơm 30g tán nhỏ, uống với nước hoặc sắc với 200ml nước còn 50ml, uống làm một lần trong ngày. Chữa mất ngủ: Lá sen loại bánh tẻ 30g rửa sạch,thái nhỏ, phơi khô sắc hoặc hãm uống. Chữa sốt xuất huyết: Lá sen 40g, ngó sen hoặc cỏ nhọ nồi 40g, rau má 30g, hạt mã đề 20g, sắc uống ngày một thang. Nếu xuất huyết nhiều có thể tăng liều của lá và ngó sen lên 60g. Chữa chảy máu não và các biến chứng kèm theo ở bệnh nhân tăng huyết áp: Lá sen 15g, cam thảo 15g, đỗ trọng 12g; sinh địa, mạch môn, tang ký sinh, bạch thược mỗi vị 10g. Sắc uống ngày một thang. Chữa băng huyết, chảy máu cam, tiêu chảy ra máu: Lá sen 40g để sống, rau má 12g sao vàng, thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày. Chữa di tinh: Lá sen nghiền bột mịn. Uống ngày 2 lần sớm, tối với nước sôi, mỗi lần 5g. Chữa tăng huyết áp: Đẳng sâm 6g, bán hạ 10g, tuyền phúc hoa 10g, thiên ma 6g, lá sen 10g, trần bì 6g, thạch quyết minh 10g, uống ngày 1 thang chia hai lần sớm, tối. Dùng cho người cao huyết áp, mắt hoa tai ù, mơ nhiều mất ngủ. Giảm béo: Bài 1: Lá sen 10g, gạo lức 60g. Sắc lá sen làm thang, cho gạo lức vào nấu cháo, cháo được đánh thêm ít đường phèn cho ngọt, chia hai lần sớm, tối. Dùng để tiêu phù, giảm mỡ, giải nhiệt, khoan trung, tăng nước bọt, giảm khát, giảm béo. Bài 2: Lá sen 60g, hạt ý dĩ 10g, sơn tra tươi 10g, vỏ quýt (trần bì) 5g. Nghiền chung thành bột, bỏ vào phích, rót nước sôi vào hãm, uống thay trà ngày 1 thang uống liền 100 ngày. Bài 3: Để lý khí, hành thuỷ, giảm béo. Vỏ quất (trần bì) 10g, mạch nha 15g, lá sen 15g, sơn tra 10g. Bài 4: Để bổ tỳ, tiêu ứ, giảm mỡ, giảm béo. Vỏ quất, lá sen thái sợi, cho nước vào sắc chung với mạch nha, sơn tra 30 phút, lọc lấy nước pha với đường trắng, uống nóng 1 thang. Chữa chảy máu cam: Lá sen 15g, hoàng liên 2g, thanh hao 6g, lá tre 10g, mộc thông 10g, đan bì 10g, liên kiều 5g, hoàng cầm 3g, sơn chi 6g, rễ cỏ tranh 10g. Sắc uống ngày 1 thang. Dùng cho người bị đổ máu cam, lượng nhiều, máu đỏ tươi hoặc sẫm, mũi khịt khô, miệng hôi, đại tiện táo, tiểu dắt. Chữa váng đầu: Hạch đào nhân 6g, lá sen 10g, đỗ trọng tươi 10g. Hạch đào nhân sao vàng giã nát, sắc chung với lá sen, đỗ trọng, bỏ bã lấy nước uống. Dùng cho người đầu váng, mắt hoa, tai ù, tai điếc. Những cấm kỵ khi dùng thuốc: Vị thuốc này có công dụng thăng tán tiêu hao, người hư nhược kiêng dùng. Theo Lương y Vũ Quốc Trung SKĐS
    1 like
  30. Hãy hành động trước khi mọi việc trở nên quá muộn! Tin về lũ hoành hành các tỉnh miền Trung mấy ngày này được đưa lên các trang nhất của hầu hết các tờ báo, ít nhiều ảnh hưởng đến niềm vui Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đang diễn ra tại thủ đô. Thiên nhiên nổi cơn thịnh nộ. Trong những ngày đầu tháng 10-2010 này, những hình ảnh mưa lũ hoành hành ở các tỉnh Bắc Trung Bộ làm lòng người xốn xang, lo lắng. Nhiều người chết và mất tích, hàng chục xã bị lũ cô lập, mùa màng bị hư hại, nhà cửa, của cải tích lũy được trong gian khó bị cuốn trôi… Cảnh đói, khó khăn chồng chất hiện ra trước mắt của nhiều hộ gia đình, của hàng ngàn con người. Tin về lũ hoành hành các tỉnh miền Trung mấy ngày này được đưa lên các trang nhất của hầu hết các tờ báo, ít nhiều ảnh hưởng đến niềm vui Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đang diễn ra tại thủ đô. Thế giới dường như ngày càng thu hẹp lại, con người ngày càng có ý thức hơn mối tương quan giữa các châu lục với nhau, ý thức rằng trái đất là ngôi nhà chung, một biến cố xảy ra ở một đất nước bên này bán cầu cũng liên quan đến vùng đất bên kia bán cầu. Nhớ cách đây chưa lâu, báo chí nước ta liên tục cập nhật những thông tin động đất - mà nếu như trước đây, có lẽ chẳng mấy ai quan tâm vì nghĩ đó là "chuyện tận đâu đâu": "Khoảng 10 giờ 20 phút tối 1-9, một vụ lở đất đã xảy ra tại làng Wama, quận Long Dương, phía Tây nam tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và chôn vùi 20 nhà cửa. Hiện đã có 4 người chết và 44 người mất tích. Chính quyền địa phương Vân Nam cho biết đến 10 giờ sáng 2-9, đội cứu hộ đã giải thoát cho 23 người nhưng vẫn còn khoảng 44 người mất tích. Các chuyên gia cho rằng hạn hán kéo dài từ tháng 9 năm ngoái đến nay kèm theo mưa trong hè 2010 làm tăng nguy cơ lở đất trong khu vực. Trong khi đó, theo báo cáo hôm 1-9 của Cơ quan Cứu nạn Trung Quốc, số người chết trong trận lở đất lớn hôm 8-8 ở Châu Khúc, tỉnh Cam Túc đã lên đến 1.471 người, 294 người khác vẫn còn mất tích". …"Bộ Tình trạng khẩn cấp Nga cho hay những trận cháy lớn xuất hiện trở lại ở vùng Volgagrad và Saratov tối 2-9 đến 3-9 làm 8 người chết, 14 người bị thương. Cơ quan này thông báo hơn 500 tòa nhà đã bị phá hủy ở hai khu vực nói trên, khoảng 750 người đã được sơ tán khỏi vùng nguy hiểm. Gió mạnh là tác nhân khiến cháy rừng lan rộng và nhanh chóng. Tuy nhiên, Bộ Tình trạng khẩn cấp cũng cho rằng một số người bất cẩn khi dùng lửa nhóm bếp, thói quen vứt rác bừa bãi, cộng thêm nhiệt độ đang ở mức 40 độ C đã góp phần làm các đám cháy lớn bùng phát trở lại" … Thảm họa tồi tệ Chúng ta không thể quên ba thảm họa tồi tệ nhất được báo chí ghi nhận là sự biến đổi khí hậu làm Nga trở thành chảo lửa với nhiệt độ cao chưa từng thấy, Trung Quốc thì lụt lội, lở đất và Pakistan thì bị nhấn chìm trong biển nước do lũ! "Lý giải về hiện tượng thời tiết nóng bất thường ở Nga, các nhà khoa học về biến đổi khí hậu cho rằng thủ phạm là do hiện tượng El Nino vào năm ngoái. Theo nhà khoa học người Anh Andrew Watson, mỗi khi xuất hiện El Nino, dòng hải lưu chảy trên Thái Bình Dương, thì năm tiếp theo sẽ là một năm nóng kỷ lục trên toàn cầu. Nhiệt độ trái đất trong sáu tháng đầu năm 2010 đã đạt mức kỷ lục chưa từng thấy, theo báo cáo của Cơ quan Khí quyển và Đại dương quốc gia Mỹ. Ngược lại dòng hải lưu La Nina, theo sau El Nino và mang đặc tính trái ngược, được cho là nguyên nhân gây nên hiện tượng lũ lụt nghiêm trọng chưa từng thấy ở Pakistan. Chuyên gia Omar Baddour thuộc Tổ chức Khí tượng Thủy văn thế giới cho biết La Nina khiến nhiệt độ vùng biển trung Thái Bình Dương mát mẻ hơn và gây mưa lũ". Trong một bài phân tích trên Tuổi Trẻ cuối tuần, nhà báo Danh Đức đã đặt vấn đề "Lở đất ở Trung Quốc: Thiên tai hay nhân họa?" và câu trả lời nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thảm họa trên chính là nạn phá rừng và làm thủy điện một cách tùy tiện, xâm phạm thiên nhiên một cách thô bạo và trầm trọng. Vậy là, qua những hiện tượng cùng những lý giải như trên cho chúng ta nhận diện một sự thật rằng: thiên nhiên đang "phẫn nộ" bởi sự quá tay của con người. Do tham lam, do ích kỷ và bất chấp mà con người đã tác động quá thô bạo lên thế giới tự nhiên. Điều đó cũng không nằm ngoài quy luật nhân quả, bởi một khi chúng ta dùng một lực bất thiện tác động vào thiên nhiên để thỏa mãn những nhu cầu hiện tại và ngày một lớn của mình thì chắc chắn sẽ bị một phản lực bất thiện từ thiên nhiên. Có lẽ nhận ra được điều này nên trong hơn một thập niên qua, những hoạt động vì môi trường, hội thảo về tự nhiên, giảm khí thải nhà kính… được các nước và cộng đồng quan tâm. Việc kêu gọi ăn chay, sống xanh, bảo vệ môi trường… được các nhà hoạt động nhân đạo, xã hội và môi trường đề cập thường xuyên! Những giá trị ấy đã được lan đi trong khuôn khổ toàn thế giới, nhất là khi mạng internet đã trở thành công cụ đắc lực cho cuộc sống con người. Từ những thảm họa của các nước, hẳn Việt Nam cũng rùng mình và rút ra được nhiều điều? Nhất là đất nước chúng ta vốn là nước nông nghiệp, sống hài hòa với thiên nhiên và dựa vào tự nhiên thì việc bảo vệ tự nhiên là việc cần kíp. Hành động ấy chính là bảo vệ bản thân và chung tay bảo vệ màu xanh của nhân loại. Thế nhưng, đọc báo mỗi ngày chúng ta dễ dàng thấy rằng đâu đó hiện tượng phá rừng vẫn còn, rồi hàng loạt các công ty liên doanh như Vedan, Vinamit, VietStar… đã xả nước thải công nghiệp làm ô nhiễm môi sinh, giết chết những dòng sông hiền hòa trên quê hương. Bão lũ đi vào miền Trung ngày càng dữ dội hơn và mùa bão năm nay cũng đến với các với cơn bão số 1, 2, 3… đổ bộ vào Nghệ An, Hà Tĩnh, Huế… Một tiếng chuông nữa lại được gióng lên, khiến người viết liên tưởng đến những thảm họa đau lòng ở Nga, Pakistan và Trung Quốc! Mong rằng những người có trách nhiệm hãy nghiêm khắc hơn với những hành động phá hoại, xâm phạm thô bạo đến hệ sinh thái, đến môi trường tự nhiên. Và mong mỗi người hãy làm một việc thật ích lợi, dù nhỏ và bình thường, trong đời sống hàng ngày. Đó là hành động tích cực trước khi mọi việc đã quá muộn màng. Lưu Đình Long. nguồn giacngovn Qua nhiều nhà hảo tâm đóng góp Quỹ Từ Thiện Diễn Đàn sẽ dành tặng đến đồng bào Quảng Bình 10,000,000 đ (mười triệu đồng) vào thứ hai.
    1 like
  31. Theo tôi được biết thì cô Hằng và những nhà ngoại cảm tìm mộ cho tất cả những ai đã chết và mất tích trong chiến tranh. Bởi vậy, chúc mừng cô Hằng nghỉ thì thật buồn cho những ngôi mộ vô danh nói chung.
    1 like
  32. Tính cho đến nay, Chú Thiên Sứ đã có điều kiện ra Miền Trung để trao tận tay tổng số tiền 26,000,000 đ(hai mươi sáu triệu đồng) chúng ta hãy chờ tường thuật sau chuyến đi. ================================================================================ == Về thăm vùng lũ đi qua thấy thương tâm dâng trào nước mắt! Giác Ngộ - Trong những ngày miền Trung lũ lụt, người dân cả nước như đã “đứt từng khúc ruột” và đỏ mắt trông ngóng về bà con ruột thịt đang quằn quại trong nỗi đau xé lòng. Chỉ cầu mong sao cho nước chóng rút để sớm trở về chia sẻ... Và đúng, chỉ một ngày sau nước rút, lập tức mọi sự cảm thông chia sẻ sâu sắc nhất của người dân trong mọi miền đất nước đã đổ dồn về vùng lũ. Chúng tôi, đoàn từ thiện của Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên Huế là một trong những đoàn đến với bà con rất sớm. Càng vui hơn khi đi trên đường thấy có rất nhiều đoàn xe của nhiều tổ chức xã hội, và nhất là nhiều đoàn xe có dán cờ Phật giáo từ Bắc vào, Nam ra có treo băng rôn “Cứu trợ đồng bào miền Trung”, “Chia sẻ tình thương với đồng bào lũ lụt”... mà mừng cho bà con vùng lũ. Tan nát sau lũ tại Quảng Trạch (Quảng Bình) Một ngôi nhà đã bị sập hoàn toàn tại Sơn Bằng (Hà Tĩnh) Chị Hoa và các con tại mái lều tạm bợ Anh Lâm ở Sơn Bình trước cảnh tan nát của ngôi nhà mà mình đã sống Nơi cơn lũ đi qua Khi chúng tôi đến, các vùng lũ nước đã rút gần như hoàn toàn, ruộng vườn, đường sá chỉ còn lại dấu vết bùn bám trên lá, trên tường nhà và bốc lên một mùi hôi hăng hắc. Mọi người đang tất bật khắc phục lũ lụt; các quán sửa chữa ô tô, xe máy xếp đầy những xe hơi, xe gắn máy hỏng. Trên các hàng giậu, áo quần chăn màn người dân đem ra phơi như ngày hội. Hai bên lề đường và trong sân nhà dân, củi mục, gỗ to gỗ nhỏ chất thành từng đống cao, thi thoảng một vài ngôi nhà xiêu vẹo, có cái thì sập chỉ còn trơ lại cái nền… cảnh vật còn rất ngổn ngang. Trên nét mặt của mọi người dân biểu hiện những sự chán chường, mệt mỏi. Bác Hoài, một nông dân năm nay đã hơn 60 tuổi ở xã Quảng Tân (Quảng Bình) cho chúng tôi biết “làng này chết thì không có ai chết, nhưng mà tan nát hết cả rồi, quý vị thấy đó, còn chi mô, nhà cửa, lúa gạo ướt sạch, bốc mùi hôi thối hết cả rồi, còn chi mà ăn”. Trong những căn nhà lụp xụp, đơn sơ, tạm bợ giờ đã không còn nguyên vẹn, cái thì xiêu ngã ngược cái thì sập ngã xuôi, nhiều người đang chèn chống lại nhưng cứ chống cái này thì cái kia sập, ai nấy đều đã mệt lả người. Nhiều bà con nói như than với trời "lụt lội kiểu chi lạ, vừa rút ra, chưa hoàn hồn thì nước lại ập vô, hết sức chịu đựng rồi”. Anh Lâm ở xã Sơn Bình (Hà Tĩnh) trong bộ dạng buồn rười rượi vừa dẫn chúng tôi đi thăm những ngôi nhà sập và xiêu vẹo vừa nói trỏng: “Hết lụt rồi, nước rút hết rồi, nỗi lo người chết và mất tích đã qua rồi nhưng trời cũng đã “rút” hết sức lực của bà con rồi, chừ thì còn lại sự tan nát như ri đây”. Nghe bà con “kể chuyện lũ lụt”, ai cũng rươm rướm nước mắt mà thấy nao lòng... Nơi đây đang cần lắm những tấm lòng của mọi người Các huyện Hương Sơn, Hương Khê là những huyện của tỉnh Hà Tĩnh được xem là "rốn" của cơn lũ lịch sử vừa qua, đời sống của người dân từ già cho đến trẻ em, ai ai cũng trông mệt lả người. Mọi người chưa hết bàng hoàng kể lại: khi dòng nước lũ ập đến, khắp nơi trong làng ngõ xóm tiếng kêu cứu của dân làng cùng với tiếng gia súc, gia cầm và tiếng nước chảy lùa trôi cây cối, nhà cửa rất rợn người. Chúng tôi được bà con dẫn đến một khu vườn chuối đã nằm rạp sát đất, nhìn quanh chẳng thấy nhà cửa đâu, chỉ có một túp lều che bằng tấm bạt xanh, trống tuênh, chị Hoa và các con ngồi nhìn chúng tôi buồn rười rượi mà không nói nổi một lời chào. Nhà cửa chị đã nát tan, sạch trơn chẳng còn gì để ăn, các con đang học thì sách vở cũng đã trôi hết rồi, chị nghẹn ngào nói với chúng tôi “một đời phấn đấu đấy thầy, giờ thế này đây", nói xong chị chụi chụi nước mắt... Cần lắm tình thương Thường ngày thì một hai gói mì tôm có thấm vào đâu, thế nhưng trong khi biển nước mênh mông, trong những ngôi nhà, những mái ngói được tháo đi vài tấm để làm cửa liên lạc với bên ngoài, khi chúng tôi cập thuyền đến và đôi vào hai gói mì tôm thôi thế nhưng bà con mừng ríu rít, các cháu nhỏ mừng đến chảy nước mắt, vì đã gần 2 ngày không có cái chi cho vào bụng, bọn chúng đói lả người. Anh chủ tịch xã Quảng Tân kể chuyện tình người trong lũ lụt với chúng tôi mà vẫn còn đượm nét buồn. Cụ Thiện, ở xã Sơn Bình (Hương Sơn) cho chúng tôi biết, “chừ thì hết lụt rồi, phải tập trung sức lực khắc phục thôi, nhưng nhà cửa trôi, sập thì từ từ che chắn ở tạm còn cái đói thì đang rất cấp thiết, bà con ở đây đã bị trôi hết rồi, các đoàn đến cho đồng bào con gạo, mì, chăn màn là mừng hơn chi hết, thiết thực hơn hết". Và khi chúng tôi thông báo đang có rất nhiều đoàn từ thiện của các tổ chức xã hội, của các tôn giáo và nhất là Phật giáo đang trên đường về với bà con. Trước mắt đoàn Phật giáo Thừa Thiên Huế sẽ tặng bà con mỗi người mỗi phần quà gồm 1 cái chăn, mấy bộ áo quần, 1 thùng mì ăn liền và 100.000đ thì có nhiều bà con vui mừng lắm. Các cụ các bà tay run run nhận những phần quà từ quý Ni trưởng, Ni sư... mà mắt như ngấn lệ, hồn nhiên nói "đồng bào cám ơn nhiều lắm và đồng bào cần lắm những tấm lòng của các nhà hảo tâm, các đoàn từ thiện…". Với tâm niệm có thì cho nhiều, không thì cho ít, và thậm chí chỉ cần đến với bà con thôi, hỏi thăm động viên bà con sau khi cơn lũ cũng đã thấy bà con mừng lắm. Bởi hơn khi nào hết, tình nhân ái đang rất cần cho bà con nơi vùng lũ lụt. “Hãy về với bà con, thương bà con với”, cụ Ba tại xã Hương Trà (Hà Tĩnh) nói vọng theo khi đoàn xe của chúng tôi lăn bánh trở vào Huế… Bài, ảnh Trí Năngnguồn giacngo.vn
    1 like
  33. 1 like
  34. Có một lần tôi gặp cụ Vũ Tuyên Hoàng ở cơ quan Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam 54 hay 53 gì đó phố Nguyễn Du. Cụ Hoàng nói với tôi: Đã chi khoảng 700 triệu cho Trung Tâm nghiên cứu tiềm năng con người để tìm cơ chế ngoại cảm của các nhà ngoại cảm như Phan thị Bích Hằng. Nhưng họ chẳng làm được gì ngoài việc thống kê hiện tương và một cuộc hội thảo rất chung chung". Đại ý vậy. Tôi nghĩ đây chính là cơ hội khám phá của tri thức khoa học hiện đại với những hiện tượng khách quan còn chưa có lời giải đáp. Sự chưa thành công của các nhà khoa học Việt Nam trong việc khám phá hiện tượng ngoại cảm chính là vì mặt bằng tri thức khoa học chưa thể tổng hợp để đưa ra một giả thuyết hợp lý, có tính lý thuyết giải thích hiện tượng này. Cái éo le ở chỗ - xét về mặt tâm lý - khi không giải thích được hiện tượng và không thể phủ nhận tri kiến tích lũy, không thể tự phủ nhận chính mình được thì phản ứng đầu tiên là ....chê bai và phủ nhận hiện tượng. Đó cũng là phản ứng tự nhiên thôi. Rất bản năng, nhưng nó được phủ lên bằng những ngôn từ. Nhưng đấy chỉ dành cho những người thiếu bản lĩnh. Tôi tin rằng thày Đào Vọng Đức - giám đốc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người hiện nay - sẽ giải mã được hiện tượng này.Tuy nhiên, cá nhân tôi cho rằng: Những phương tiện kỹ thuật của nền khoa học hiện nay chưa thể xác định được cơ chế tương tác thực tại nào để kiểm chứng giả thuyết. Bởi vậy, một giải thích hợp lý mang tính lý thuyết chỉ có thể kiểm chứng theo tiêu chí khoa học cho một lý thuyết được coi là khoa học.
    1 like
  35. Theo quan điểm em nghĩ, Từ "Dừng" ở đây không hẳn sẽ là từ bỏ, Như lời chú Thiên Sứ nói trường hợp cô Hằng là hằng trăm năm mới có 1, đôi khi em lại nghĩ cô Hằng là được các vị Thánh Nhân của đất Việt tác động để giúp người đời thôi. Trong tương lai có thể những việc cô ấy "Không" muốn làm nhưng cô khó có thể "cưỡng" lại được..... Dù gì đi nữa em luôn chúc cô ấy sức khỏe và hạnh phúc với Trần Đời.
    1 like
  36. Cuộc đời lắm lúc cũng buồn. Những nam nhi từng trải tầm cỡ như Doccocauthang mà cũng còn bỏ cuộc đi tu, huống chi là nữ nhi như cô Bích Hằng. Tuy nhiên, cũng có những cái không thể buông bỏ một cách dễ dàng. Nếu không có những người ngoại cảm như cô Hằng thì "Nỗi buồn chiến tranh" (Tựa một cuốn sách nổi tiếng của Bảo Ninh) chắc cũng còn dài hơn một chút.Vài lời chia sẻ.
    1 like
  37. Đây là dự báo cho cơn bão Megi, hth gom vào đây để tiện khảo cứu. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...1266&st=100 Và đây là tổng kết đường đi của bão Megi
    1 like
  38. Đố Trà. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi khi cụ tôi cùng các bạn đồng niên uống trà, tôi chỉ dám đứng xa nhìn với một sự tò mò lạ lẫm. Cái cách pha trà, thưởng trà toát lên vẻ cao sang lịch lãm đến mức thánh thiện. Bên bàn trà các cụ luận về cách thưởng trà, bàn bạc về thế sự… Có một lần cụ đồ Hân trong lúc cao hứng đã kể một câu chuyện về nghệ thuật thưởng trà, khiến các cụ cứ gật gù tán thưởng mãi. Cụ đồ Hân nhấp một chén trà, khoan thai vuốt chòm râu dài trắng như cước rồi nói: - Hôm nay đầu xuân năm mới, tôi xin kể hầu các cụ một chuyện vui mà tôi có duyên may là người trong cuộc. Mùa xuân năm ấy, khi đến thăm người bạn cố tri ở Sơn Tây, bạn tôi là người sành trà có tiếng. Nhưng có cái lạ là ông chỉ uống trà ta chứ không dùng trà tàu như mọi người lúc ấy. Ông cụ lại có biệt tài ướp hương cho trà. Trong nhà ông lúc nào cũng có trà ướp hương sen, nhài, cúc, ngâu… Ông cho rằng thưởng trà ướp hương chính là được thưởng thức cái tinh túy của trà và hương hoa làm cho tinh thần nhẹ nhàng thư thái, gần với sự thoát tục hơn. Hôm ấy ông cụ mời hai người bạn nữa tới cùng chúng tôi thưởng trà và đàm đạo. Sau khi tự tay quạt than, đun nước, pha trà, cụ chủ nhà hóm hỉnh nói: Thưa các cụ, ngày xuân, lại may mắn có bạn cố tri đến chơi, kẻ hèn này xin mời các cụ thưởng thức chén trà do tự tay tôi chọn lựa và sao ướp. Vẫn biết các cụ là những người sành trà, nhưng cho phép tôi được đố vui một chút. Xin các cụ cho biết trà được ướp bằng hương hoa nào vậy. Chúng tôi nhìn nhau ngỡ ngàng rồi cúi đầu lĩnh ý chủ nhà, Đến lúc ấy cụ chủ nhà mới nhẹ nhàng lật từng chiếc chén cổ men rạn vẫn úp trên đĩa rồi nhẹ tay rót trà, một mùi hương nhẹ nhàng lan tỏa khắp phòng. Chờ mọi người cạn tuần trà đầu tiên, cụ chủ nhà mời tôi cho ý kiến. Không ngần ngại tôi nói ngay: - Thưa các cụ, trà này được ướp hương sen, chỉ có điều hương sen này tinh diệu chưa từng thấy. Tôi vừa dứt lời, cụ thứ hai đã mỉm cười nói: - Thưa các cụ, theo ngu ý của tôi thì đây đích thị là hương ngâu, cái thứ hương hoa dân dã mà không kém phần cao sang ấy thực không thể nào lầm được. Cụ thứ ba lắc đầu: - Xin lỗi các cụ, theo thiển ý của tôi thì đây là hương cúc, tôi đã được thưởng thức nhiều lần nên quyết không lầm được, Xưa vua chúa cũng hay dùng loại này, tỉnh thần và sáng mắt lắm các cụ ạ. Chúng tôi bối rối nhìn nhau, cả đời thưởng trà mà chỉ một ấm trà mà mỗi người một ý. Lúc ấy cụ chủ nhà mới vui vẻ gỡ rối: - Thưa các cụ, các cụ đều là những người sành trà cả. Chỉ có điều kẻ hèn này đã dùng một mẹo nhỏ khác với cách ướp hương thông thường, nên nhất thời làm cho các cụ bối rối, ngàn lần xin được tạ lỗi cùng các cụ. Từ chiều hôm qua tôi đã cho người nhà lấy hoa sen, ngâu, cúc đặt vào đĩa, úp chén lên rồi hâm nóng đĩa. Hương hoa tỏa ra và được chiếc chén giam hãm. Hôm nay rót trà vào là đã có mùi hương như ý đấy ạ. Chúng tôi cùng ồ lên thán phục. St.
    1 like
  39. 12 con giáp gốc Việt Xưa nay như người ta vẫn lầm lẫn lần tương rằng 12 con giáp có xuất xứ từ Trung Hoa. Tuy nhiên, mới đây trong một công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Việt cổ- nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Nguyễn Cung Thông phát hiện ra nguồn gốc 12 con giáp có xuất xứ từ Việt Nam. Ngôn ngữ là “lá bùa” tổ tiên để lại Theo văn hóa Phương Đông, lịch được xác lập theo chu kỳ thay đổi đều đặn của Mặt trăng . Do đó 12 con giáp ứng với 12 giờ trong ngày, 12 tháng trong năm, 12 năm trong một giáp - đó là những nền tảng quan trọng để tính lịch và là dấu hiệu để nhận đoán về số mệnh của từng người theo cung Hoàng Đạo. Trong lịch sử, Việt Nam và Trung Hoa có một thời kỳ giao lưu văn hoá ít nhất 2000 năm. Những đợt giao lưu văn hóa cứ tiếp biến và chồng chất lên nhau khiến cho dấu hiệu nhận biết nét riêng của từng dân tộc rất khó khăn. Thêm vào đó, các tài liệu xưa không còn nhiều, nếu còn cũng chỉ trong kho thư tịch Hán cổ khiến cho việc nghiên cứu hết sức rắc rối và phức tạp. Chính điều này đã đốc thúc nhà nghiên cứu ngôn ngữ Nguyễn Cung Thông cố công đi tìm cho bằng được những bí ẩn ngôn ngữ của tổ tiên mà theo ông đó là những “lá bùa” con cháu cần tìm lời giải. Ông Thông cho biết, ông bắt đầu việc nghiên cứu tiếng Việt của mình vào những năm đầu thập niên 1970 tại nước Australia. Trong một lần nghiên cứu về nguồn gốc 12 con giáp để lần tìm cội nguồn tiếng Việt ông đã phát hiện ra một số từ Việt cổ mà người Việt đã dùng để chỉ về 12 con giáp có nguồn gốc lâu đời trước khi 12 con giáp xuất hiện ở Trung Hoa. Vào những ngày cuối năm con trâu, tại Viện Việt học ở thành phố Westminster (Califomia, Mỹ) ông đã có một buổi thuyết trình những khám phá thú vị của mình với chủ đề “Vết tích của tiếng Việt cổ trong tiếng Hán”. “Tìm hiểu về gốc của tên mười hai con giáp là một cơ hội để ta tìm về cội nguồn tiếng Việt. Tên 12 con giáp là Tý/ Tử, Sửu, Dần, Mão/ Mẹo, Thìn/ thần, Tỵ, Ngọ, Mùi/ Vị, Thân/ khôi, Dậu, Tuất, Hợi. Thoạt nhìn thì thập nhị chi trên có vẻ bắt nguồn từ Trung Quốc vì là những từ Hán Việt, nhưng khi phân tách các tiếng Việt, và thấy có những khác lạ, tôi đem so sánh trong hệ thống ngôn ngữ vay mượn thì sự thật không phải vậy” - ông Thông nói. Theo ông Thông thì tên 12 con giáp nếu đọc theo tiếng Bắc Kinh và bằng cách ghi theo phiên âm (pinyin): zi, chou, yín, mào, chén, sì, wè, wèi shèn, yòu, xù, hài … hoàn toàn không liên hệ đến cách ghi tên 12 con giáp trong tiếng Trung Quốc hiện nay. Ngay cả khi phục hồi âm Trung Quốc thời Thượng Cổ thì vẫn không tương đồng với các cách gọi tên thú vị thời trước. Như vậy nếu có một dân tộc nào đó dùng tên 12 con thú tương tự như tên 12 con giáp ngày nay thì dân tộc đó phải có liên hệ rất khăng khít với nguồn gốc tên 12 con giáp này. Từ điều này, khởi đầu cho việc nghiên cứu ông đi tìm nguyên do vì sao trong 12 con giáp của Trung Quốc, con Mèo bị thay bởi Thỏ. “Người Trung Quốc dùng thỏ thay cho mèo (biểu tượng của chi Mão/mẹo) vì trong văn hóa người Trung Quốc thỏ là một loài vật rất quan trọng và thường được ghi bằng chữ tượng hình là Thố, giọng Bắc Kinh, là từ viết bằng bộ nhân không có từ để chỉ mèo. Hầu như chỉ có dân Việt mới dùng mèo cho chi Mão: nguyên âm e hay iê là các dạng cổ hơn của a như kẻ/giả, vẽ/hoạ, xe/xa, khoe/khoa, hè/hạ, chè/trà, keo/giao, beo/ báo... Vì thế mà mèo cũng là loài vật hiện diện trong đời sống dân Việt thường xuyên hơn” - ông Thông lý giải. Thời tiền Hán, tiếng Việt không có nhiều thanh điệu như bây giờ, nên sự khác biệt về thanh điệu không có gì lạ. Trong khẩu ngữ người Việt có cách dùng “chờ một tý” hay “chờ một chút”, “đưa chút tiền”, “đưa tý tiền”... vào thời tiền Hán, các câu trên đọc như giọng Huế (ít thanh điệu hơn so với giọng Hà Nội) thì thấy chút hay chụt /chuột chính là các cách đọc của Tý sau này. Vì sao Việt Nam không giữ được “thương hiệu”? Thực tế, đã từng có nhiều công trình của nhiều tác giả cố gắng chứng minh văn hóa Trung Quốc có xuất phát từ văn hóa Việt Nam như tác giả Lê Mạnh Thát qua cuốn “Lịch sử âm nhạc Việt nam từ thời Hùng Vương đến thời kỳ Lý Nam Đế” hay tác giả Nguyễn Thiếu Dũng với cuốn “Nguồn gốc Kinh Dịch”... Hầu hết các cuốn sách này đều cho thấy chiều vay mượn văn hóa là từ phương Nam vào thời thượng cổ, chứ không phải là từ Bắc xuống Nam (cũng như các nước chung quanh) vào các đời Hán, Đường lúc văn hoá Trung Quốc cực thịnh. Tuy nhiên không tác giả nào đề cập đến nguồn gốc tên 12 con giáp, và rất ít dùng, cấu trúc của chữ Hán, Hán cô cùng các biến âm trong cách lý giải. Theo ông Thông, ngoài hai chi Tý/ Tử/ chuột, Mão/ Mẹo/mèo là dễ nhận thấy nhất thì những chi còn lại khi so sánh trong tương quan ngữ âm, ngữ nghĩa cũng đều cho ra những kết quả khá bất ngờ. Ví dụ với trường hợp của Thân là chi thứ 9 trong bản đồ Hoàng Đạo. Nếu xem cách viết chữ Thân bằng bộ điền với nét giữa dài hơn với cách viết chữ Khôn (một căn bản của Kinh Dịch có từ thời Thượng cổ) thì ta thấy bộ thổ hợp vài chữ Thân hài thanh. Đây là liên hệ trực tiếp giữa Thân và Khôn, tuy nhiên tiếng Việt cổ có chữ khôn là con khỉ (người Huế hay người xứ Nghệ hiện nay một số chỗ vẫn còn những câu cửa miệng “tuồng mặt cọp khọn” để ám chỉ những người vô tích sự, chẳng làm chẳng nên trò trống gì). Thành ra, Thân chính là khỉ, tiếng Việt cổ dù biến âm th-kh rất hiếm gặp trong tiếng Việt ngày nay nhưng nó vẫn còn dấu tích của những từ cặp đôi như thân- cận- gần, thận- cẩn (thận trọng, cẩn trọng). Tương tự với trường hợp của con Rồng. Xưa nay nhiều người vẫn cho rằng rồng là một con vật tiêu biểu cho vương quyền của phương Bắc và sau đó nó được chọn làm một trong 12 con vật có mặt trong 12 con giáp của cung Hoàng Đạo. Nhưng ít ai biết được rằng rồng thực sự là con vật chủ của người Việt cổ và ngày xưa người Việt đã có những từ ngữ riêng để nói đến rồng hay thìn. Thìn/Thần dấu tích còn lại trong giọng Bắc Kinh hiện nay chỉ còn chén - âm này có thể tương ứng với các âm trần, trầm, thần của Hán Việt. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông thì nếu phục hồi âm cổ của Thìn/ Thần là tlan (Tiếng Việt cổ - âm r chuyển thành l) và trăn, lươn (âm ts- mất đi), rắn, trình (loài cá giống con lươn), rồng/1ong (nguyên âm o thay cho a như nôm/nam, vốn bản...) và khuynh hướng đơn âm hoá để cho ra các dạng từ ghép như tlăn - thằn lằn, tlian- thuồng luồng... cho thấy vết tích của rồng trong các ngôn ngữ phương Nam. Lý giải về nguyên nhân dẫn đến việc bị “lẫn lộn” về nguồn gốc 12 con giáp, ông Thông cho rằng “Với ảnh hưởng quan trọng của nền văn hoá Trung Quốc, từ đời Hán và sau đó là Đường, Tống... với sức ép của giai cấp thống trị từ phương Bắc tên 12 con vật tổ đã từ từ được thay thế bằng hình ảnh con người, mang nặng màu sắc văn hoá Trung Hoa hơn. Từ tính chất cụ thể của các loài vật láng giềng, 12 con giáp đã trở nên trừu tượng và còn ảnh hưởng đến vận mạng con người nữa (bói toán) Tuy nhiên, cái vỏ hào nhoáng của chữ Hán, Hán Việt không thể thay đổi được nền văn hoá bình dân (khẩu ngữ) trong đời sống người Việt” Sự phát hiện mới mẻ này đã chứng minh cho sự phát triển của người Việt xưa trong cách tính lịch và làm nên một nền văn minh lúa nước rực rỡ ở phía Nam Đông Nam Á. Nguồn: gia dinh va xa hoi
    1 like
  40. Tôi thì không phản bác cái gì và không công nhận ngay. Cứ phải xem đã.
    1 like
  41. Quá trình Hán hóa tiếng Việt Khu tam giác châu Chu giang vùng Lĩnh Nam 嶺 南 tồn tại ngôn ngữ hệ Quảng Phủ (tức tiếng Quảng Đông) , xưa nó là vùng tiếng Việt cổ, gọi là Nam Việt ngữ 南 越 語. Sau đó Nam Việt ngữ diễn biến thành tiếng Choang 壯 ngày nay, người Choang chính là người Việt cổ. Sách cổ “Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư 天 下 郡 國 利 病 書” của ông Cố Viêm Vũ 顧 炎 武 có nói: “ Quảng Đông có hai tộc người là người Choang 壯 và người Dao 瑤, người Dao 瑤 là người Kinh 荊, Man 蠻 (chữ “kinh 荊” này = “canh” = “cây lanh” cho sợi lanh dệt vải chứ không phải chữ “kinh 京” là kinh đô như đang dùng để phiên âm chỉ dân tộc Kinh hiện nay), còn người Choang là người Việt cũ”. Những “ người Việt cũ” này chính là một bộ phận tiên nhân của người hệ ngữ Quảng Phủ 廣 府 系. Họ sử dụng Nam Việt ngữ 南 越語, mà âm, nghĩa , từ vựng và kết cấu ngữ pháp không thể lý giải được bằng Hán ngữ, như “nà” là ruộng nước( tiếng Tày), “nặm” là nước (tiếng Tày), “bản”, “xư”(xóm), “đô” (đồn”), “vân” (vạn chài) đều nghĩa là thôn lạc 村落 (村落 đọc là “xun lua” tiếng Hán = “phum sóc” tiếng Khơ Me. Do dân du mục đồng cỏ phương bắc thời cổ đại không sống theo làng như dân nông nghiệp định cư phương nam, nên trong ngôn ngữ của họ không có khái niệm phum sóc, họ mượn chữ nho phiên âm từ “ phum sóc” thành “xun lua”. Ai bảo từ “thôn” là “từ Hán – Việt " ? Nó là do “phum” = “chùm” = “chòm” = “xóm” = “xúm” = “xun” tiếng Hán = “thôn” tiếng Việt. “Thôn” qua mấy ngàn năm lại quay về với “phum” như cháu đích tôn quay về với ông nội của nó vậy. “Cá nhà mình nhảy sang ao nhà người ta - đương nhiên là nó lớn lên ở đó một thời gian dài - , người ta bắt được bán lại cho mình, mình lại gọi là cá của người ta sao?” - Lời Bác Hồ nhắc chiến sĩ cận vệ của Bác năm 1947 ở chiến khu Việt Bắc, khi Bác tập võ quật ngã được anh chiến sĩ, anh ta liền khen “ Bác đánh võ Tàu giỏi thật !”), từ “khách nhân” họ gọi là “nhân khách” (= người khách, kết cấu ngữ pháp Việt), “công kê” họ gọi là “kê công” (= gà trống, kết cấu ngữ pháp Việt) v. v. đó là nền tảng văn hóa cho việc hình thành Việt ngữ 粵 語 tức tiếng Quảng Đông ngày nay. Thời Đường ,Tống người Hán xuống vùng Lĩnh Nam 嶺 南 ngày càng nhiều, trở thành chủ thể cư dân ở đó. Họ đem từ Trung Nguyên xuống qui phạm ngữ pháp và âm đọc, bắt buộc những người học chữ phải theo. Nhưng đến thời Nam Hán vì chính quyền cát cứ nên phương ngữ Việt粵 方 言( tức tiếng Quảng Đông) có cơ hội phát triển ổn định không bị chèn ép, hấp thụ nguồn rất lớn thành phần của Việt ngữ 越 語 cổ (tức tiếng Việt), phát triển theo hướng ngược với hướng phát triển của Hán ngữ, hình thành một ngôn ngữ độc lập, chấm dứt giữa chừng sự đồng hóa của Hán ngữ. Đến thời Tống lại thực hiện chính sách mềm nắn rắn buông nên quan hệ địa phương với trung ương lỏng lẻo, Việt ngữ 粵 語 lại càng có cơ hội phát triển độc lập. Thời đó một dịch giả người Hán là thư lại bộ Lễ khi so sánh Hán ngữ với Việt ngữ粵 語 ( tức tiếng Quảng Đông), nói rằng: “Âm vận của họ toàn là theo âm Giao Chỉ ngữ 交 趾 語 ( họ có là con đẻ của dân Giao Chỉ thì âm vận mới theo âm vận của “Giao Chỉ ngữ” chứ chẳng lẽ người Việt đẻ ra lại nói theo âm vận của tiếng Anh ?), chữ thì từng chữ của họ đều khác chữ Hán” (vì họ dùng chữ Nôm Quảng Đông ! ) chứng tỏ rằng thời Tống âm vận của phương ngữ Việt 粵 ( tức tiếng Quảng Đông) khác xa âm vận tiếng Hán ở Trung Nguyên, nó đã định hình thành một ngôn ngữ riêng. Sau thời Tống ngôn ngữ Việt 粵 語 (tức tiếng Quảng Đông) ấy vẫn tiếp tục phát triển theo qui luật riêng của nó, tuy có không ít biến dị nhưng cơ bản vẫn như lúc nó đã được định hình thời Đường, Tống. Ngày nay ngôn ngữ ấy là một phương ngữ lưu hành ở vùng tam giác châu Chu giang 珠 江, vùng lưu vực Tây giang 西 江 và khu vực Đông giang 東 江 thuộc Quảng Đông và Quảng Tây. Riêng về tiếng Khách Gia thì vào thời Đường, tiên nhân người Khách Gia ở Lĩnh Nam số lượng mới chỉ có hạn nên chưa hình thành được một hệ ngữ riêng, phương ngữ Khách Gia cũng chưa hoàn thành quá trình phân hóa khỏi Hán ngữ Trung Nguyên. Đến cuối thời Đường hàng loạt tiên nhân người Khách Gia đổ xuống định cư vùng Lĩnh Nam, chủ yếu tập trung ở đông và đông bắc đất Việt 粵 (đông Quảng Đông và nam Phúc Kiến ngày nay), có đất để ổn định phát triển, dần dần hình thành một hệ ngữ độc lập, hoàn thành quá trình phân hóa khỏi Hán ngữ Trung Nguyên, phát triển theo một hướng độc lập. Đến thời Tống, Nguyên lại có số lượng lớn người Khách Gia chạy khỏi Trung Nguyên xuống Lĩnh Nam nhập vào số đến trước, hình thànhquần thể lớn cư dân có hệ ngữ hoàn chỉnh, thoát ly hẳn Hán ngữ, chín mùi thành một phương ngữ độc lập là tiếng Khách Gia. Nguồn trích: http://www.chinareviewnews.com
    1 like
  42. Hải đoán chính xác lắm. Thế là giỏi rồi. Hầu hết những áp thấp ở Đông Phi luật Tân đều đổ bộ vào đất liền và vào biển Đông Việt Nam. Vậy mà đoán nó đi ngược lên trên thì thật là táo bạo, mà lại đúng mới hay chứ. Cà Phi lẫn Việt đều trải qua hai cơn lũ, bão khủng khiếp. Nếu bão vào nữa thì rất phiền. Cảm ơn Hải có sáng kiến mở topic này. Mong quí vị và anh chị em quan tâm ủng hộ tham gia cung cấp thông tin và dự báo.
    1 like
  43. Tây Sa và Nam Sa chưa từng được ghi nhận trong lịch sử phương chí Trung Hoa Thứ Hai, 25/10/2010, 20:43 (GMT+7) TTCT - Phương chí, với nghĩa “chép rõ về một nơi”, là thuật ngữ để gọi chung cho loại sách địa lý đặc thù của Trung Quốc, trong đó gồm các loại: tổng chí (chép về cả nước), thông chí (chép về một tỉnh) và địa phương chí (chép về phủ, châu, huyện...).Hầu hết các loại phương chí đều được thực hiện dưới sự chỉ đạo của hoàng đế và do chính quyền các cấp chủ trương tiến hành. Vậy các loại phương chí Trung Quốc chép gì về đơn vị hành chính cực nam của Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử nước này? Trong Tổng chí nói gì? Tổng chí khá hoàn chỉnh đầu tiên được biên soạn vào đời Đường Hiến Tông, do đại học sĩ giám tu quốc sử Lý Cát Phủ làm xong năm Nguyên Hòa thứ 8 (năm 813), có tên là “Nguyên Hòa quận huyện đồ chí” (1). Bộ tổng chí được liệt vào hạng xưa nhất này gồm 40 quyển (nay chỉ còn 34 quyển), phản ánh cơ cấu hành chính 10 đạo đã thiết lập năm 639 và ghi chép thực trạng 47 trấn đương thời, phân cấp đến phủ, châu, huyện và một số hương lớn. Phần viết về vùng đất cuối cùng phía biển nam nằm trong số quyển đã mất. Vài học giả đời Thanh đã tham khảo các tài liệu cùng thời để viết thêm bộ “Nguyên Hòa quận huyện bổ chí” (2). Bộ này cho thấy tỉnh/đảo Hải Nam ngày nay vào đời Đường là bốn châu Nhai, Đam, Vạn An và Chấn, thuộc đạo Lĩnh Nam, ở phía cực nam là hai huyện Ninh Viễn và Lâm Xuyên thuộc châu Chấn (nay là huyện Nhai, Hải Nam). “Nguyên Phong cửu vực chí” (3) thời Tống làm xong năm Nguyên Phong thứ 3 (1080), do Nghị lang đồng tu quốc sử quán Vương Tồn nhận sắc chỉ biên soạn. Sách này cho thấy đơn vị hành chính cực nam là huyện/trấn Mại Viễn thuộc quận Chu Nhai, châu Nhai, lộ Tây Quảng Nam (nay là huyện Nhai, Hải Nam). “Đại Minh nhất thống chí” là tên do Chu Kỳ Trấn (Anh Tông) đặt cho bộ tổng chí có tên gốc là “Thiên hạ nhất thống chí” (4), do thượng thư bộ lại, đại học sĩ Lý Hiền làm tổng tài (chủ biên), làm xong năm 1461, gồm 91 quyển. Quyển đầu của bộ tổng chí này có 16 bức địa đồ (1 bức toàn quốc, 1 bức Bắc Kinh, 1 bức Nam Kinh và 13 bức của 13 Ty Bố chánh). Bức địa đồ toàn quốc mang tên “Thiên hạ nhất thống chi đồ” và địa đồ Ty Bố chánh Quảng Đông với tên “Quảng Đông địa lý chi đồ” đều cho thấy cực nam lãnh thổ Trung Quốc chỉ đến hết phủ Quỳnh Châu. Ghi chép về phủ Quỳnh Châu ở quyển 82 cho thấy sự nhất quán với cương giới mà phần địa đồ mô tả, cực nam dừng ở địa phận châu Nhai. Các mục “Kiến trí diên cách” (Dựng đặt dời đổi), “Hình thắng” (Địa hình/Cảnh quan) và “Sơn xuyên” (Núi sông) không ghi chép gì về phía biển nam. Tổng chí đời Thanh có ba bộ, soạn lần đầu với tên “Đại Thanh nhất thống chí” (342 quyển, làm xong năm 1743), lần hai với tên “Khâm định Đại Thanh nhất thống chí” (5) do đại học sĩ Hòa Thân nhận sắc soạn thêm (gồm 424 quyển, làm xong năm 1784), lần ba với tên “Gia Khánh trùng tu Đại Thanh nhất thống chí” (6) do Hàn lâm viện biên tu Lý Tá Hiền soạn thêm theo sắc chỉ của vua Gia Khánh (650 quyển, làm xong năm 1842). “Khâm định Đại Thanh nhất thống chí” chép về cương giới phía nam cũng chỉ đến châu Nhai, thuộc phủ Quỳnh Châu như địa đồ “Quảng Đông toàn đồ” ở tờ 2, quyển 350 minh họa [hình 1]. Mặt khác, có một chi tiết giúp xác định vùng Thất Châu Dương mà mấy chục năm nay học giả Trung Quốc cứ cho rằng nó là Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam). Ở quyển 350, mục “Sơn xuyên”, tờ 11 có đoạn: (dịch) “Thất Tinh sơn ở phía bắc huyện Văn Xương, Minh nhất thống chí viết rằng núi này có bảy ngọn, còn có tên là Thất Châu Dương sơn, thông chí Quảng Đông viết là nó cách huyện lỵ Văn Xương về phía bắc 150 dặm (khoảng 75km), ở ngoài biển khơi...”. Ghi chép này cho thấy nó kế thừa tổng chí đời Minh và tiếp thu kết quả khảo sát của thông chí địa phương, đồng xác định Thất Châu Dương tương ứng với Thất Châu liệt đảo ở khoảng vĩ độ 20, phía đông tỉnh Hải Nam ngày nay, mà không phải là Hoàng Sa của Việt Nam. Trong Thông chí nói gì? Thông chí liên quan trực tiếp đến vùng biển phía nam Trung Hoa là các bộ thông chí tỉnh Quảng Đông, trước sau có năm bộ, đều do các quan chức cấp cao ở tỉnh chủ trì biên soạn. Sớm nhất là “Quảng Đông thông chí” của Đới Cảnh thời Minh, làm xong năm 1535, kế đến là bộ do Hoàng Tá chủ biên, 72 quyển, làm xong năm 1602. Đời Thanh gồm ba bộ của Kim Quang Tổ (1675); Hách Ngọc Lân, 64 quyển (1731); Nguyễn Nguyên, 334 quyển (1882). Trong “Quảng Đông thông chí” của Hách Ngọc Lân, “Quảng Đông toàn tỉnh tổng đồ” ở quyển 3, trang 3 [hình 2] cho thấy về cương vực, tức phạm vi quản lý hành chính của chính quyền cấp tỉnh, dừng ở phủ Quỳnh Châu. Địa đồ “Quỳnh Châu phủ toàn đồ” ở quyển 3, trang 22 [hình 3] lại có dòng chú thích “Quỳnh, bốn mặt là biển, không khảo được tám nơi tiếp giáp”. Trong “Quảng Đông thông chí” của Nguyễn Nguyên, “Quảng Đông dư địa tổng đồ” được vẽ theo kỹ thuật phương Tây, phân hệ thống kinh vĩ, giới hạn về phía nam chỉ thấy đến khoảng 18,5 độ vĩ bắc (7). Và trong Địa phương chí nói gì? Địa phương chí cấp cơ sở liên quan trực tiếp đến vùng biển nam Trung Hoa là các phủ chí Quỳnh Châu, theo bộ “Quỳnh Châu phủ chí”, biên soạn sau cùng trong đời Thanh (1891), có tính kế thừa và bổ sung hoàn thiện từ bốn bộ trước đó. Các ghi chép về phạm vi cương giới cho thấy tương đồng với tổng chí và thông chí đã đề cập, sách này cũng dẫn lời quận thú (quận trưởng) Tiêu Ứng Thực viết trong phủ chí năm 1774 về các nơi tiếp giáp, quyển 3, phần Dư địa chí, mục Cương vực chép: “Quỳnh Châu là nơi giữa biển, nam là Chiêm Thành; tây là Chân Lạp, Giao Chỉ; đông là Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường; bắc tiếp giáp huyện Từ Văn, phủ Lôi Châu” (8). Trong nguyên tác của đoạn văn này, cách dùng chữ đối với hai trường hợp tiếp giáp cho thấy có sự phân biệt rõ ràng, các nơi ngoài Trung Quốc dùng chữ “tắc” (nghĩa “là”), còn nơi thuộc Trung Quốc thì dùng chữ “tiếp” (nghĩa “tiếp giáp, tiếp cận”), điều này cho thấy chính quyền nhà Thanh tuy biết có nơi là Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường nhưng những nơi đó không thuộc sự quản lý hành chính của chính quyền đương thời. Phương chí là một loại tư liệu lịch sử mang giá trị pháp quy, gắn liền với sự ổn định hoặc những biến động cương vực của một nước trong suốt quá trình cai trị của một triều đại và nhiều triều đại trong lịch sử. Các học giả Trung Quốc thường né tránh việc dẫn dụng sách phương chí, hoặc nếu có thì chỉ trích dẫn các tiểu mục nói về sự tích nhân vật đạo sĩ, sư sãi hoặc các tiểu mục viết về quan hệ giao thương với nước ngoài. Những trích dẫn loại này phải xem là sử dụng sai mục đích..., còn những phần đề cập trực tiếp đến địa lý hành chính không được nhắc đến. Phương chí cổ Trung Quốc chứa đựng nhiều sử liệu quý, có giá trị nhiều mặt trong việc tìm hiểu lịch sử các hoạt động xã hội Trung Quốc và các nước có biên giới lân cận. Riêng việc xác định chủ quyền trong lịch sử đối với các nơi trên biển Đông, phương chí các loại từ đời Đường cho đến đời Thanh cho thấy không có ghi nhận nào thể hiện sự quản lý hành chính đối với Tây Sa và Nam Sa, là những nơi mà trong các loại thư tịch đồng dạng, Việt Nam đã ghi nhận bằng tên Hoàng Sa và Trường Sa. PHẠM HOÀNG QUÂN (nhà nghiên cứu độc lập về cổ sử và cổ địa dư) __________ (1) Nguyên Hòa quận huyện đồ chí, bản in chụp theo bản Văn Uyên Các (thuộc Tứ Khố Toàn Thư), Đài Loan thương vụ ấn thư quán, 1983. (2) Nguyên Hòa quận huyện bổ chí, bản in khắc Kim Lăng thư cục, năm Quang Tự thứ 8 (1882), quyển 8, tờ 17-22. (3) Nguyên Phong cửu vực chí, 10 quyển, bản in khắc Kim Lăng thư cục, năm Quang Tự thứ 8 (1882), quyển 10, tờ 3-4. (4) Thiên Hạ nhất thống chí, bản in khắc Vạn Thọ Đường, năm Thiên Thuận thứ 5 (1461). Quảng Đông Bố chánh ty, quyển 79-82, Quỳnh Châu phủ, quyển 82, tờ 15-28. (5) Khâm định Đại Thanh nhất thống chí, bản khắc in Hồng Bảo Trai trong niên hiệu Quang Tự (1875-1908) theo bản Võ Anh Điện. Quảng Đông tỉnh quyển 338-353, Quỳnh Châu phủ quyển 350. (6) Bộ thứ nhất và bộ thứ ba chúng tôi chưa được coi, sẽ đề cập trong dịp khác. (7) Trung Hoa tùng thư Quảng Đông thông chí (4 tập), Trung Hoa Tùng thư Biên thẩm ủy viên hội xuất bản, in chụp từ bản Nguyễn Nguyên Quảng Đông thông chí 334 quyển, Đài Bắc, 1959. Địa đồ “Quảng Đông dư địa tổng đồ”, quyển 83, dư địa lược 1, trang 1434-1435. (8) Quỳnh Châu phủ chí, bản in chụp do Lữ Đài Hải Nam Đồng Hương Hội, không ghi năm, 5 cuốn, từ bản Long Bân, 44 quyển. Đoạn văn trích dịch ở trang 125, cuốn 1.
    1 like
  44. TIẾNG VIỆT, DỄ MÀ KHÓ Tiếng Việt vừa dễ vừa khó, đúng hơn, dễ mà lại khó. Dễ đến độ rất hiếm người Việt Nam nào cảm thấy có nhu cầu phải sắm một cuốn Từ Ðiển Tiếng Việt trong nhà. Dễ đến độ bất cứ người nào trưởng thành ở Việt Nam cũng đều có thể tưởng là mình... thông thái, và nếu muốn, đều có thể trở thành... nhà văn được. Thế nhưng, chỉ cần, một lúc thảnh thơi nào đó, ngẫm nghĩ một chút về tiếng Việt, chúng ta bỗng thấy hình như không phải cái gì chúng ta cũng hiểu và có thể giải thích được. Trước đây, có lần, đọc cuốn Trong Cõi của Trần Quốc Vượng, một nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học và văn hoá dân gian nổi tiếng ở trong nước, tới đoạn ông bàn về hai chữ "làm thinh", tôi ngỡ đã tìm thấy một phát hiện quan trọng. Theo Trần Quốc Vượng, "thinh" là thanh, âm thanh, hay là tiếng ồn. "Nín thinh" là kiềm giữ tiếng động lại, là im lặng. Thế nhưng "làm thinh" lại không có nghĩa là gây nên tiếng động mà lại có nghĩa là... im lặng. Cũng giống như chữ "nín thinh". Trần Quốc Vượng xem đó như là một trong những biểu hiện của Phật tính trong ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam: "nín" và "làm" y như nhau; có và không y như nhau; ấm và lạnh cũng y như nhau (áo ấm và áo lạnh là một!); "đánh bại" và "đánh thắng" y như nhau. Quả là một thứ tiếng "sắc sắc không không", nói theo ngôn ngữ Phật giáo, hay "huyền đồng", nói theo ngôn ngữ của Trang Tử. (1) Thú thực, đọc những đoạn phân tích như thế, tôi cảm thấy mừng rỡ và thích thú vô hạn. Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, đọc bài viết "Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm" của Lê Trung Hoa, tôi lại bàng hoàng khám phá ra là chữ "làm thinh" thực chất chỉ là biến âm của chữ "hàm thinh" trong chữ Hán. "Hàm" có nghĩa là ngậm (như trong các từ: hàm ân, hàm oan, hàm tiếu, hàm huyết phún nhân...). "Hàm thinh" là ngậm âm thanh lại, không cho chúng phát ra, tức là không nói, tức là... im lặng. (2) Y như chữ "nín thinh". Nhưng sự giống nhau ở đây chỉ là sự giống nhau của hai từ đồng nghĩa, chứ chả có chút Phật tính hay Trang Tử tính gì trong đó cả. Tôi mới biết là mình mừng hụt. Một ví dụ khác: về hai chữ "vợ chồng". Trước đây, đã lâu lắm, đọc cuốn Ngôn Ngữ và Thân Xác của Nguyễn Văn Trung, tôi thấy tác giả giải thích hai chữ "vợ chồng" đại khái như sau: "Chồng" là chồng lên nhau, nằm lên nhau. Còn chữ "vợ"? Nguyễn Văn Trung chỉ viết bâng quơ, trong câu chú thích in cuối trang: "chữ vợ phải chăng là vơ, vớ, đọc trại đi, theo giọng nặng; nếu thế, chữ vợ chỉ thị việc quơ lấy quàng lên, vơ vào, phù hợp với việc chồng lên trong hành động luyến ái?" (tr. 40) Ðọc đoạn ấy, tôi hơi ngờ ngờ, nhưng rồi cũng bỏ qua, không chú ý mấy. Gần đây, tôi sực nhớ lại vấn đề ấy khi đọc cuốn Phương Ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang. Tôi được biết là ở Bình Trị Thiên, thay vì nói cái "vai", người ta lại nói cái "bai"; thay vì nói đôi "vú", người ta lại nói đôi "bụ"; thay vì nói "vải", người ta lại nói "bải"; thay vì nói "vá" áo, người ta nói "bá" áo; thay vì nói "vả" (vào miệng), người ta lại nói "bả" (vào miệng), v.v... Qua những sự hoán chuyển giữa hai phụ âm V và B như thế, tự dưng tôi nảy ra ý nghĩ: phải chăng nguyên thuỷ của chữ "vợ" là... bợ? "Vợ chồng" thực ra là "bợ chồng"? Tôi càng tin vào giả thuyết trên khi nhớ lại, trong tiếng Việt hiện nay, có cả hàng trăm từ nguyên thuỷ khởi đầu bằng phụ âm B đã biến thành V như thế. Nhiều nhất là từ âm Hán Việt chuyển sang âm Việt. Ví dụ: trong chữ Hán, chữ "bái" sang tiếng Việt thành "vái"; chữ "bản" sang tiếng Việt thành "vốn" và "ván"; chữ "bích" sang tiếng Việt thành "vách"; chữ "biên" sang tiếng Việt thành "viền"; chữ "bố" sang tiếng Việt thành "vải"; chữ "bút" sang tiếng Việt thành "viết"; chữ "bà phạn" sang tiếng Việt thành "và cơm", v.v... Theo Nguyễn Tài Cẩn, trong cuốn Giáo Trình Lịch Sử Ngữ Âm Tiếng Việt (sơ thảo), quá trình hoán chuyển từ B đến V kéo dài khá lâu cho nên hiện nay thỉnh thoảng cả hai biến thể B/V vẫn còn tồn tại song song với nhau, như: băm và vằm (thịt); be và ve (rượu hay thuốc); béo và véo; bíu và víu, v.v... Chúng ta biết là hiện tượng tồn tại song song của hai biến thể như thế không phải chỉ giới hạn trong hai phụ âm B và V. Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, ngày xưa, từ khoảng thế kỷ 17 trở về trước, trong tiếng Việt có một số phụ âm đôi như BL (blăng, blời...), ML (mlầm) hay TL (tlánh). Ðến khoảng thế kỷ 18, các phụ âm đôi ấy dần dần rụng mất. Ðiều đáng chú ý là khi những phụ âm đôi ấy rụng đi thì chúng lại tái sinh thành một số phụ âm khác nhau. Ví dụ phụ âm đôi TL sẽ biến thành TR hoặc L, do đó, hiện nay, chúng ta có một số chữ có hai cách phát âm và hai cách viết khác hẳn nhau, cùng tồn tại song song bên nhau, đó là các chữ tránh và lánh; trộ và lộ, trồi và lồi, trêu và lêu, trũng và lũng, trộn và lộn, trọn và lọn, trệch và lệch, trèo và leo, tràn và lan, v.v... Trong khi đó phụ âm đôi ML sẽ biến thành L hoặc NH, bởi vậy, chúng ta cũng có một số từ tương tự, như lầm và nhầm, lời và nhời, lẽ và nhẽ, lát và nhát, lạt và nhạt, lớn và nhớn.(3) Trong những cặp từ tương tự vừa kể, có một số chữ dần dần bị xem là phương ngữ hoặc là cách nói cổ, càng ngày càng ít nghe, như các chữ Nhớn, Nhời, và Nhẽ. Thay vào đó, chúng ta sẽ nói là lớn, lời và lẽ. Tuy nhiên, những chữ khác thì cho đến nay cũng vẫn còn tồn tại khá phổ biến, ví dụ chúng ta có thể nói là rượu lạt hoặc rượu nhạt; nói lầm lẫn hoặc nhầm lẫn; nói một lát dao hay một nhát dao đều được cả. Ðặt trong toàn cảnh mối quan hệ giữa hai phụ âm B và V cũng như quá trình biến đổi phụ âm đầu như thế, chúng ta sẽ thấy ngay giả thuyết cho nguồn gốc của chữ "vợ" trong "vợ chồng" là "bợ" rất có khả năng gần với sự thật. "Vợ chồng" như thế, thực chất là "bợ chồng". "Bợ": từ dưới nâng lên; "chồng": từ trên úp xuống. Danh từ "bợ chồng" diễn tả tư thế thân mật giữa hai người nam nữ khi ăn ở với nhau. Cách gọi tên khá thật thà như thế kể cũng thú vị đấy chứ? Qua các trường hợp biến đổi từ "hàm thinh" thành "làm thinh" và từ "bợ chồng" thành "vợ chồng", chúng ta tiếp cận được một hiện tượng rất phổ biến trong tiếng Việt: hiện tượng biến âm. Biến âm không phải chỉ vì nói ngọng, kiểu "long lanh" thành "nong nanh" hay "nôn nao" thành "lôn lao" như một số người ở một số địa phương nào đó. Biến âm cũng không phải chỉ vì phương ngữ, kiểu "về" thành "dề" như ở miền Nam, hay "nhà" thành "dà" như ở một số làng huyện ở miền Trung, "trung trinh" thành "chung chinh" như ở miền Bắc. Ðiều đáng nói hơn là những hiện tượng biến âm xuất phát từ những quy luật nội tại của ngôn ngữ, những sự biến âm có mặt ở mọi vùng đất nước và nếu không tự giác và tốn công truy lục, chúng ta sẽ không thể nào tái hiện được nguyên dạng của nó. Chúng ta dễ ngỡ biến âm là chính âm. Dễ ngỡ nó tự nhiên là thế. Ví dụ, để diễn tả tâm sự buồn nào đó dần dần giảm nhẹ đi, chúng ta hay dùng chữ "nguôi ngoai". Ðúng ra là "nguôi hoai". Trong các từ điển cổ, "hoai" có nghĩa là phai nhạt. Nghĩa ấy, cho đến bây giờ chúng ta vẫn dùng trong chữ "phân đã hoai". "Nguôi hoai" là từ ghép chỉ sự phai dần của một nỗi buồn, một niềm đau. Tương tự như vậy, chữ "yếu ớt" chúng ta hay dùng ngày nay là do chữ "yếu nớt". "Ớt" thì không có nghĩa gì cả. Trong khi "nớt" có nghĩa là sinh thiếu tháng, vẫn còn dùng trong từ "non nớt". "Yếu nớt", do đó, có nghĩa là yếu đuối, là non nớt. Chữ "nói mớ" thật ra là biến âm của chữ "nói mơ", nói trong giấc mơ. "Nước miếng" thật ra là biến âm của "nước miệng", nước chảy ra từ miệng, cùng cách kết cấu với các chữ nước mắt hay nước mũi. Chữ "to tát" hiện nay tất cả các từ điển đều viết với chữ T ở cuối, TÁT; nhưng trong Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì lại viết chữ TÁC kết thúc bằng C: "to tác", kèm theo lời định nghĩa là: thô kệch, lớn tác. Mà chúng ta đều biết chữ TÁC có nghĩa là tuổi hay vóc dáng, như trong các từ tuổi tác, tuổi cao tác lớn, hay ngày xưa người ta nói bạn tác, tức bạn hữu; trang tác, tức cùng lứa, cùng tuổi với nhau. (4) Các con số đếm, nơi rất cần sự chính xác, cũng không thoát khỏi luật biến âm. Như số 1, chẳng hạn. Ðứng một mình là một. Ðứng trước các con số khác cũng là một. Nhưng khi đứng sau các con số khác, trừ số 10, nó lại biến thành "mốt": hai mươi mốt; ba mươi mốt, bốn mươi mốt. Những chữ "mốt" ấy chính là biến âm của "một". Nhưng không phải lúc nào "mốt" cũng có nghĩa là một: "Mốt" trong một trăm mốt hay trong một ngàn mốt, một triệu mốt... không phải là một. Con số 5 cũng vậy. Ðứng một mình là năm. Ðứng trước các số khác cũng là năm. Nhưng khi đứng sau các số, từ 1 đến 9, nó lại biến thành "lăm": mười lăm, hai mươi lăm... Con số hai mươi lăm ấy lại được biến âm thêm một lần nữa, thành hăm nhăm. Số ba mươi lăm cũng thường được biến âm thành băm nhăm. Từ số bốn mươi lăm trở lên thì chỉ có một cách rút gọn là bốn lăm; năm lăm, sáu lăm, bảy lăm, tám lăm, và chín lăm chứ không có kiểu biến âm như hăm nhăm và băm nhăm. Con số 10, cũng vậy. 10 là mười. Nhưng từ 20 trở lên thì "mười" biến thành "mươi”: hai mươi, ba mươi, bốn mươi... Dấu huyền bị biến mất. Có điều, "mươi" không phải lúc nào cũng có nghĩa là mười. Trong nhóm từ "mươi cái áo", chẳng hạn, "mươi" lớn hơn hoặc nhỏ hơn mười: một con số phỏng định, ước chừng, bâng quơ. Con số còn thay đổi được, huống gì những từ khác. Như từ "không", chẳng hạn. Phủ định điều gì, người ta có thể nói "không", mà cũng có thể nói "hông", nói "khổng", nói "hổng". Xuất hiện trong câu nghi vấn, chữ "không" ấy có thể có thêm một biến âm khác là "hôn": "nghe hôn?" Chưa hết. Một số âm vị trong cụm "nghe hôn" ấy bị nuốt đi; "nghe hôn" biến thành "nghen", rồi đến lượt nó, "nghen" lại biến thành "nghén" hay bị rút gọn lần nữa, thành "nhen", rồi "hen", rồi "hén", rồi "nhe", v.v... Như vậy, biện pháp biến âm trở thành một biện pháp tạo từ. Ðã có từ "vậy", chỉ cần thay dấu nặng bằng dấu huyền, chúng ta có từ mới: "vầy" (như vầy này!). Ðã có từ "lui hui", người ta tạo thêm các chữ "lúi húi" rồi "lụi hụi". Ðã có từ "chừ bự", người ta tạo thêm các từ mới: chư bư, chừ bư, chừ bử, chử bử, chứ bứ, chự bự. Ðã có "trật lất", người ta tạo thêm: trết lết, trét lét, trớt lớt, trớt huớt... (5) Ðã có từ "ngoại" vay mượn từ chữ Hán, chúng ta tạo thêm hay từ khác: "ngoài" để các quan hệ không gian cũng như thời gian và "ngoái" để chỉ quan hệ về thời gian: "năm ngoái". Biện pháp biến âm như vậy đã dẫn đến một hiện tượng khá thú vị trong tiếng Việt: hiện tượng từ tương tự, tức những từ hao hao gần nhau về cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa, chẳng hạn: các chữ bớt và ngớt; đớp, tợp, hớp và đợp; bẹp, xẹp, lép, khép, nép và nẹp; khan, khàn và khản; xẻ, chẻ, bẻ và xé; xoăn, xoắn, quăn và quắn; tụt, rụt và thụt; véo, nhéo, và béo; v.v... Các từ tương tự ấy có khi khác nhau về từ loại nhưng lại tương thông tương ứng với nhau về ý nghĩa, chẳng hạn: chúng ta có cái nẹp để kẹp, cái nêm để chêm, cái nan để đan, cái mõ để gõ, cái nệm để đệm, cái vú để bú; hoặc chúng ta cưa thì thành khứa, rung thì rụng, phân thì có từng phần, dựng thì đứng, thắt thì chặt, đập thì giập, dìm thì chìm, ép thì ẹp, dứt thì đứt, chia thì lìa, gạn thì cạn, v.v.... Mới đây, đọc báo, không hiểu tại sao, tình cờ tôi lại chú ý đến chữ "đút" trong một câu văn không có gì đặc biệt: "Chị ấy đút vội lá thư vào túi quần..." Từ chữ "đút" ấy, tôi chợt liên tưởng đến chữ "rút": cả hai từ làm thành một cặp phản nghĩa: đút (vào) / rút (ra). Ðiều làm tôi ngạc nhiên là cả hai từ đều có phần vần giống nhau: "-ÚT". Chúng chỉ khác nhau ở phụ âm đầu mà thôi: một chữ bắt đầu bằng phụ âm "đ-" (đút) và một chữ bằng phụ âm "r-" (rút). Hơn nữa, cả từ "đút" lẫn từ "rút", tuy phản nghĩa, nhưng lại có một điểm giống nhau: cả hai đều ám chỉ sự di chuyển từ không gian này sang không gian khác. "Ðút" cái gì vào túi hay "rút" cái gì từ túi ra cũng đều là sự chuyển động từ không gian trong túi đến không gian ngoài túi hoặc ngược lại. Tôi nghĩ ngay đến những động từ có vần "-ÚT" khác trong tiếng Việt và thấy có khá nhiều từ cũng có nghĩa tương tự. "Sút" là động tác đưa bóng vào lưới. "Hút" là động tác đưa nước hoặc không khí vào miệng. "Mút" cũng là động tác đưa cái gì vào miệng, nhưng khác "hút" ở chỗ vật thể được "mút" thường là cái gì đặc. "Trút" là đổ cái gì xuống. "Vút" là bay từ dưới lên trên. "Cút" là đi từ nơi này đến nơi khác do bị xua đuổi. "Nút" hay "gút" là cái gì chặn lại, phân làm hai không gian khác nhau. Thay dấu sắc (ÚT) bằng dấu nặng (ỤT), ý nghĩa chung ở trên vẫn không thay đổi. "Trụt" hay "tụt" là di chuyển từ trên xuống dưới. "Vụt" là di chuyển thật nhanh, thường là theo chiều ngang. "Lụt" là nước dâng lên quá một giới hạn không gian nào đó. "Cụt" là bị cắt ngang, không cho phát triển trong không gian. "Ðụt" (mưa) là núp ở một không gian nào đó, nhỏ hơn, để tránh mưa ngoài trời. Vân vân. Nếu những động từ có vần "-ÚT" thường ám chỉ việc di chuyển (hoặc việc ngăn chận quá trình di chuyển ấy) giữa hai không gian thì những động từ có vần "-UN" lại ám chỉ việc dồn ứ lại thành cục trong một không gian nhất định nào đó, thường là có giới hạn. "Ùn", "chùn", "dùn", hay "đùn" đều có nghĩa như thế. "Thun" hay "chun" cũng như thế, đều chỉ cái gì bị rút, bị co. "Cùn" là bẹt ra. "Hùn" là góp lại. "Vun" là gom vào. "Lún" hay "lụn" là bẹp xuống. Cả những chữ như "lùn" hay (cụt) "lủn", (ngắn) "ngủn", "lũn cũn"... cũng đều ám chỉ cái gì bị dồn nhỏ hay thu ngắn lại. Với cách phân tích như vậy, nếu đọc thật kỹ và thật chậm các cuốn từ điển tiếng Việt, chúng ta sẽ dễ thấy có khá nhiều khuôn vần hình như có một ý nghĩa chung. Chẳng hạn, phần lớn các động từ hay tính từ kết thúc bằng âm ÉT hay ẸT đều chỉ những động tác hay những vật thể hẹp, thấp, phẳng. "Kẹt" là mắc vào giữa hai vật gì; "chẹt" là bị cái gì ép lại. "Dẹt" là mỏng và phẳng; "tẹt" là dẹp xuống (kiểu mũi tẹt); "bét" là nát, dí sát xuống đất; "đét" là gầy, mỏng và lép. Những dộng từ kết thúc bằng âm EN thường chỉ các động tác đi qua một chỗ hẹp, một cách khó khăn, như: "chen", "chẹn", "chèn", "len", "men", "nghẽn", "nghẹn", "nén". Những từ láy có khuôn vần ỨC – ÔI thì chỉ những trạng thái khó chịu, như "tức tối", "bức bối", "bực bội", "nực nội", "nhức nhối", v.v... Những ví dụ vừa nêu cho thấy hai điều quan trọng: Thứ nhất, nếu chịu khó quan sát, chúng ta sẽ phát hiện trong những chữ quen thuộc chúng ta thường sử dụng hàng ngày ẩn giấu những quy luật bí ẩn lạ lùng. Tính chất bí ẩn ấy có thể nói là vô cùng vô tận, dẫu tìm kiếm cả đời cũng không hết được. Ðiều này khiến cho không ai có thể an tâm là mình am tường tiếng Việt. Ngay cả những nhà văn hay nhà thơ thuộc loại lừng lẫy nhất vẫn luôn luôn có cảm tưởng ngôn ngữ là một cái gì lạ lùng vô hạn. Thứ hai, vì có những quy luật, những điểm chung tiềm tàng giữa các chữ như vậy cho nên việc học tiếng Việt không quá khó khăn. Nói chung, người Việt Nam đều có khả năng đoán được ý nghĩa của phần lớn các chữ mới lạ họ gặp lần đầu. Lần đầu gặp chữ "thun lủn", chúng ta cũng hiểu ngay nó ám chỉ cái gì rất ngắn. Lý do là vì chúng ta liên tưởng ngay đến những chữ có vần "UN" vừa kể ở trên: cụt ngủn, ngắn ngủn, v.v... Lần đầu gặp chữ "dập dềnh", chúng ta cũng có thể đoán là nó ám chỉ một cái gì trồi lên trụt xuống do sự liên tưởng đến những chữ có khuôn vần tương tự: bấp bênh, gập ghềnh, khấp khểnh, tập tễnh, v.v... Nói tiếng Việt vừa dễ vừa khó là vì thế. ****************** Chú thích : 1. Trần Quốc Vượng (1993), Trong Cõi, Garden Grove: Trăm Hoa, tr. 169. 2. Lê Trung Hoa, “Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm”, in trong cuốn Những vấn đề văn hoá, văn học và ngôn ngữ học (nhiều tác giả), nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1999: 211-225. 3. Xem bài "Vài chuyển biến trong phụ âm đầu tiếng Việt và các hiện tượng láy từ liên hệ" của Nguyễn Phú Phong trên Tập san Khoa Học Xã Hội (Paris) số 3 năm 1977, tr. 73-80. 4. Một số ví dụ trong đoạn này lấy từ bài viết của Lê Trung Hoa theo sách dẫn trên. 5. Biện pháp biến âm này đặc biệt thông dụng trong phương ngữ miền Nam. Có thể xem thêm cuốn Từ Ðiển Phương Ngữ Nam Bộ của Nguyễn Văn Ái, Lê Văn Ðức và Nguyễn Công Khai, nxb Thành Phố ****, 1994. Nguyễn Hưng Quốc Theo Văn Học, số 193, tháng 5.2002
    1 like