• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 29/10/2010 in Bài viết

  1. Phan Thị Bích Hằng sẽ dừng công việc “ngoại cảm”? Thứ Năm, 28/10/2010 - 10:15 Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng tuyên bố, chị đã quyết định dừng công việc ngoại cảm, không tiếp nhận hồ sơ những cá nhân đề nghị chị tìm giúp phần mộ của người thân. Phan Thị Bích Hằng: Nghề phán không phải nghề của tôi Nhà ngoại cảm Bích Hằng đề nghị làm rõ các tin đồn ác ý Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng Theo nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, ý định này chị đã nghĩ đến từ đầu năm 2010 và chị cũng đã công bố trên một vài diễn đàn dưới dạng thông tin không chính thức. Tuy nhiên, dừng lại công việc “áp dụng khả năng ngoại cảm” đối với Phan Thị Bích Hằng không đồng nghĩa với “đoạn tuyệt” công việc tìm mộ. “Hiện nay, tôi mới giải quyết xong phần tìm mộ của các hồ sơ nhận từ năm 2008. Tôi dừng lại để có thể hoàn thành công việc tìm mộ của hơn 5.000 hồ sơ mà bà con đã tin tưởng gửi gắm. Dừng lại nghĩa là tôi sẽ không nhận thêm hồ sơ do các cá nhân nhờ giúp còn trong đời sống sau này, trên những bước đường tôi qua, nếu có duyên “gặp gỡ”, tôi vẫn sẽ “chỉ đường” để những người bị “mất mộ” người thân biết mà nhận lại”, nhà ngoại cảm Bích Hằng chia sẻ. Áp lực lớn nhất là dư luận xã hội Mở lòng trong cuộc trao đổi, chị Phan Thị Bích Hằng cho biết, áp lực lớn nhất trong suốt 21 năm là một nhà ngoại cảm với chị và với các nhà ngoại cảm có lẽ là cách nhìn nhận của dư luận xã hội. “Người ta thường đòi hỏi nhà ngoại cảm phải chính xác tuyệt đối nhưng trên thực tế thì không có gì tuyệt đối cả. Không riêng gì tôi mà rất nhiều các nhà ngoại cảm khác đã bị chỉ trích nếu chẳng may có sai sót. Chính điều đó khiến chúng tôi mất hết nhiệt huyết. Có lẽ là do họ chỉ nhìn thấy chúng tôi, gặp chúng tôi những lúc chúng tôi sạch sẽ, ăn mặc đẹp còn những khi chúng tôi khoác ba lô lên đường, lội sông, lội suối, những lúc nguy hiểm như lần tôi tìm thấy ngôi mộ liệt sĩ mà chỉ cách bẫy lợn rừng có 1m, những lần vào rừng tìm kiếm hài cốt liệt sĩ bị ong đốt suýt chết… thì dường như chẳng ai nhớ đến. Nhưng chỉ một lời nói bâng quơ trong cuộc điện thoại hỏi thăm giữa hai người bạn với nhau trong vụ xe khách bị lũ cuốn vừa qua cũng bị “nghiêm trọng hóa vấn đề”. Rồi những tin đồn về cầu Bãi Cháy, cầu Thăng Long, cầu Long Biên, tôi không nói, không phát ngôn mà cũng bị đồn thổi ầm ĩ. Trong tất cả mọi công việc đều phải có xác suất. Tôi mong rằng độc giả nên mở lòng hơn với các nhà ngoại cảm”, chị Bích Hằng tâm sự. Rất mừng nếu hết “khả năng” “Trước đây, thứ 7 nào tôi cũng tiếp dân nhưng bắt đầu từ năm 2010, tôi đã bỏ lệ đấy. Bạn thử nghĩ xem, ngày nào cũng như ngày nào, cứ 5 - 6h sáng, vừa mở mắt đã có người xếp hàng chờ ngoài cửa, chiều 16h30 - 17h về, người cũng lại xếp hàng đầy cửa. Đến 23h30 mới hết khách là chuyện bình thường. Nhiều lần tôi mệt quá đã nói người nhà ra bảo với mọi người rằng Bích Hằng hết khả năng rồi. Hồi năm 1997 khi mang thai đứa con đầu lòng, tôi đã phải viết là Phan Thị Bích Hằng hết khả năng và còn nhắn mọi người sang chỗ anh Liên (Thầy Liên - PV) nếu cần. Thực ra hết hay còn khả năng chỉ có mình tôi biết. Tôi rất thấm nhuần điều mà Khổng Tử đã rút ra: Biết bắt đầu công việc là người giỏi, biết làm việc là người tài, biết dừng lại đúng lúc là vĩ nhân. Trong lĩnh vực ngoại cảm tôi đã cống hiến hơn 20 năm rồi, chính xác là 21 năm từ khi tôi mới có 18 tuổi, cả một quãng đường dài và với một công việc luôn rất căng thẳng, phải hao tâm tổn trí rồi những áp lực... Là người có khả năng đặc biệt nhưng ngoài ra tôi cũng chỉ là một phụ nữ hoàn toàn bình thường, có bổn phận làm con, có trách nhiệm làm vợ, làm mẹ. Tôi đã từng rất thương với “ông xã”, khi ngày này qua tháng khác, tôi thì cứ ba lô lên đường đi tìm mộ liệt sĩ đến nỗi thấy 3 bố con chiều thứ 7 nào cũng đi chơi ở Công viên Thủ Lệ, một cô bán nước gần đấy đã hỏi ông xã tôi, anh bị vợ bỏ à? Hồi bố chồng tôi bị ốm, phải nằm liệt giường, vì công việc, tôi vẫn phải đi tối ngày, lúc đó chồng tôi đã nói với tôi rằng: “Anh có 2 ước mơ, thứ nhất đó là khi ngủ dậy thì bố đứng lên đi lại được. Và ước mơ thứ hai là bỗng một sáng thức dậy, em nói với anh: anh ơi, hình như em hết khả năng rồi? Đấy là ước mơ rất dung dị nhưng tôi nghĩ đã đến lúc phải sống cho giấc mơ đấy, cho bản thân mình và cho những người thân của mình nữa”, chị Bích Hằng tâm sự. Nói về lý do dẫn đến quyết định “dừng” công việc tìm mộ, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cho biết có 3 lý do khiến chị muốn dừng lại. Thứ nhất, chị muốn dừng lại để có thời gian tập trung vào công việc học hành và hoàn thành đề tài nghiên cứu về tâm linh trong tâm lý kinh doanh. Chị dự định sẽ viết một cuốn sách về những việc đã làm trong hơn 20 năm. Thứ hai nữa là do căn bệnh cột sống khiến Bích Hằng không thể suốt ngày ngồi trên ô tô để đi tìm mộ: “Hiện nay, các bác sĩ không cho phép tôi ngồi quá 45 phút và theo bác sĩ ở Viện Dân tộc Quân đội thì khí âm trong tôi quá nhiều, ngồi đâu cũng thấy lạnh mà nguyên nhân theo bác sĩ cho biết là vì tôi tiếp xúc với hài cốt nhiều”. Và lý do thứ 3 nữa theo Bích Hằng là chị muốn dừng lại để có thời gian gần gũi, chăm sóc cho chồng con nhiều hơn, thực hiện ước mơ dung dị mà chồng chị đã từng “ngỏ”. Theo Thu Hiền VTC News ====================================== Nhời bàn của Thiên Sứ: Để có một thiên tài như cô Bích Hằng hàng trăm năm mới có một người trên hàng triệu người sinh ra và chết đi ở trái Đất này. Nhưng người ta có thể cần đến cô và không cần đến cô. Không có cô, sự mất mộ là chuyện rủi ro, chuyện không may của một gia đình, một dòng tộc Đông phương có truyền thống tôn trọng tổ tiên và người đã khuất. Có cô, thì người ta tìm được mộ, người ta gặp may. Chuyện chỉ đơn giản thế thôi. Nhưng cô đã phải tự hủy diệt khả năng của mình, phải chối bỏ. Bởi vì người đời không hiểu được tại sao lại có hiện tượng như cô. Họ đặt vấn đề sai vì thiếu hiểu biết. Lần đầu tiên tôi biết sự gian khổ của cô: Cô đừng buồn. Đời là thế! Một bác sĩ giỏi, trị bệnh cứu người. Cứu xong bệnh nhân thoát chết thì cùng lắm là câu chuyện được kể cho hàng xóm và con cháu nghe với lời kính trọng. Và nếu vị bác sĩ có đến cửa hàng cháu nội của người được cứu sống thì may ra được mua giảm giá một lần. Vâng! Thế thôi. Đấy còn là may. Chưa kể những lời xầm xì nói xấu của đồng nghiệp. Cô có lúc sai. Bởi vì Thượng Đế không cho cái thế gian này tuyệt đối cô ah. Đó không phải lỗi của cô, mà là - nói một cách hình tượng: do "ý muốn của Thượng Đế". Vì chỉ có Ngài là tuyệt đối - Nhưng thế nhân muốn cái tuyệt đối. Họ muốn phán xét như Thượng Đế cô ah, mặc dù họ không có ý thưc về điều này. Xét về cá nhân thì là một sai lầm khi họ rất muốn sự tuyệt đối trong cái nhìn của họ. Nhưng xét về tổng quan thì chính vì thế mà trí tuệ con người tiến lên đi tìm chân lý. Cô quá nổi tiếng vì tài năng xuất chúng. Tất nhiên để tỏ ra hiểu biết, để khoe khoang, những kẻ tầm thường sẽ kể cái sai của cô cho người khác biết, để chứng tỏ họ hiểu được những khiếm khuyết của một thiên tài. Tối thiểu là như vậy cô ah. Họ cần đề cao họ trước những người khác bằng cách chê bai một người như cô. Vì họ chẳng có gì để khoe, nên phải chê một người như cô mới gây được sự chú ý của những người xung quanh họ cô ah. Đời nó thế! Đầy ra cả đấy cô ah. Cô hơi đâu mà buồn. Nếu cô cảm nhận được đây là cảm hứng của cô, là trách nhiệm của cô trước cuộc đời, cô cứ làm. Còn thế nhân nói ra nói vào thì đó là "chuyện thường ngày ở Huyện" mà. Cô quên đi cô ah. Mặc dù chỉ gặp cô một lần và cũng không nói gì được nhiều. Nhưng tôi rất quý cô. Với tôi cô là một thiên tài thể hiện tài năng của mình bằng những thực tại khách quan. Cô nói vậy, chứ tôi tin rằng cô vẫn sẽ giúp đỡ mọi người. Không cần đến 70% đâu cô ah. Chỉ cần 1 trong 10 cũng đủ để những nhà khoa học thật sự và nghiêm túc phải suy ngẫm về khả năng con người. Ở đây không phải là phép tính xác xuất. Mà là một chuỗi những hiện tượng chứng tỏ một khả năng của con người của 1 lần trong 10 lần đó. Đức Phật nói: "Nguyên nhân của sự khổ trên thế gian chính là Tham Sân Si". Vài lời tâm sự với cô.
    4 likes
  2. Thầy, trò thời Hùng Vương dạy học bằng chữ gì Trước Tết Mậu Tý, thầy giáo đã nghỉ hưu Đỗ Văn Xuyền bước đầu công bố công trình “giải mã chữ Việt cổ” tại Trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam, gây được sự chú ý của giới khoa học. Thầy giáo Đỗ Văn Xuyền nói về các ký tự cổ Từ câu chuyện về Thiên Cổ miếu... Gần ba mươi năm dạy học, thầy giáo Xuyền luôn gắn bó với vùng đất thiêng được bồi đắp bởi phù sa của cả ba con sông Hồng, sông Lô và sông Đà. Nhưng ông không phải người gốc ở đây, chỉ là chàng rể của cố đô xưa nhất nước Việt. Đầu đường vào làng Hương Lan có ngôi miếu nhỏ. Trước cửa miếu sừng sững hai cây táu đại thụ hơn ngàn tuổi, gốc năm sáu vòng tay người ôm không xuể. Thầy giáo Xuyền nghe ông từ kể: “Miếu đây có tên Thiên Cổ, thờ hai vợ chồng thầy giáo thời Hùng Vương, dạy học ở làng này”. Ngọc phả của miếu ghi rõ: Thiên Cổ miếu thờ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, ông quê Hải Dương, bà quê Bắc Ninh, đến kinh đô Văn Lang mở trường dạy học thời Hùng Vương thứ 18. Thầy giáo Lang tài đức vẹn toàn, đông người làng và quanh vùng theo học, danh tiếng vang xa. Vua Hùng nghe tin, gửi hai con gái đến thụ giáo, đấy là công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa. Về sau cả ông và bà cùng mất một ngày, ngôi miếu nhỏ chính là nơi song táng hai vợ chồng thầy giáo của làng... Thiên Cổ miếu Câu chuyện về thầy giáo Vũ Thê Lang thời Hùng Vương, chứng tích còn đó những ngôi miếu và phong tục thờ cúng, đã có sức cuốn hút đặc biệt với thầy giáo Xuyền. Phải chăng trước khi chìm đắm vào đêm dài Bắc thuộc, nước Văn Lang đã có một nền văn hiến rực rỡ? Không chỉ để lại cho hôm nay những chiếc trống đồng Đông Sơn tuyệt hảo, cha ông ta còn để lại (đâu đó, trong những di tích như Thiên Cổ miếu) bằng chứng về một nền giáo dục, một thể chế kén chọn người tài phát triển ngay từ thời dựng nước? Nhiều năm ròng rã, thầy Xuyền dày công sưu tầm trong các thư viện Hán - Nôm, trong ngọc phả đình miếu, và các câu chuyện dân gian, về sự học sự thi thời kỳ trước khi chữ Hán thâm nhập vào nước ta - gọi tắt là thời trước Hán. Công sức bỏ ra dần cho kết quả hết sức đáng tự hào: Hầu khắp các tỉnh lưu vực sông Đà, sông Lô, sông Hồng, xa hơn nữa mạn Thanh Hóa, Nghệ An, đều có các bằng chứng về các thầy giáo danh tiếng và các học trò giỏi thời Hai Bà Trưng, An Dương Vương, Hùng Vương! Thầy Xuyền bước đầu sưu tầm được 18 thầy giáo, và một con số nhiều hơn các học trò giỏi, còn ghi danh qua truyền thuyết và ngọc phả các đền miếu ngàn đời nay vẫn được nhân dân hương khói thờ phụng. Những sưu tầm còn cho thấy từ thời Hùng Vương, việc kén tìm người giúp nước trị dân thường được tuyển chọn trong những học trò giỏi, hoặc qua việc thi cử mà khẳng định, hoặc lập được chiến công chống ngoại xâm. Qua những kết quả trên, một câu hỏi logic lại thôi thúc thầy giáo Xuyền phải tìm câu trả lời: Thầy, trò thời Hùng Vương dạy và học bằng thứ chữ gì? Cha ông ta đã có chữ viết của riêng mình, từ thời trước Hán? Thế là thầy giáo Xuyền lại tiếp tục dấn thân vào một đề tài mà nhiều nhà nghiên cứu đi trước đã tốn bao công sức, song kết quả chưa được như mong muốn... Đến huyền thoại hay sự thật? Sách Tân Lĩnh Nam Chích quái của Vũ Quỳnh (đời Lê, thế kỷ 15) viết đại ý: Thời Lạc Long Quân có người hái củi, bắt được con rùa, lưng rộng khoảng ba thước, trên mai có khắc chữ như con nòng nọc gọi là chữ Khoa Đẩu. Hùng Quốc vương đã cử phái đoàn đem rùa thần đó cống cho vua Nghiêu. Về việc này, sách Thông Giám Cương Mục do Chu Hy đời Tống viết: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 trước Công nguyên) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”. Sách Thông Chí của Trịnh Tiểu cũng đời Tống nói rõ hơn: “Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”. Chữ Khoa Đẩu được nói tới trong các tài liệu trên là thứ chữ như thế nào? Vì sao đến nay không còn dấu tích gì về nó nữa? Vương Duy Trinh - Hiệp biện Đại học sỹ, Tổng đốc Thanh Hóa - trong cuốn Thanh Hóa quan phong viết năm 1903, đã giới thiệu một số chữ lạ mà ông sưu tập được, khẳng định đó là chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương, và đưa ra nhận xét: “Vì Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Trung Quốc”. Giáo sư Hà Văn Tấn đã công bố công trình nghiên cứu “Về một nền văn tự trước Hán và khác Hán”, Giáo sư Lê Trọng Khánh thì khẳng định “Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa Đẩu thời tiền sử để ghi tiếng dân tộc mình”. Giải mã bộ “chữ Thái (thổ tự)” Hướng đi đầu tiên của thầy Xuyền là tìm kiếm dấu tích của chữ Việt cổ. Năm này qua năm khác, nghe đâu có ký tự lạ lưu giữ qua các cổ vật, hang động, vách đá, thầy Xuyền bất chấp đường xa, không ngại tốn kém, lập tức tìm đến. Nhưng tất cả chỉ là những ký hiệu chưa giải mã được Mươi năm gần đây, thầy Xuyền chuyển hướng đi mới - nghiên cứu những ký hiệu đã mang hình hài của ký tự, được phát hiện rải rác từ Hà Giang, qua Bắc Ninh, Hòa Bình, vào tới Thanh Nghệ Tĩnh... Tập trung lên hướng Tây Bắc - vùng ổn định nhất của người Lạc Việt suốt nhiều nghìn năm - thầy Xuyền đã phát hiện ra suốt một vùng dọc theo triền sông Đà, nhân dân ta còn lưu giữ được nhiều văn bản mang trên mình loại ký tự mà mọi người vẫn nhầm là chữ Thái. Trong những tài liệu ấy, thầy Xuyền đặc biệt chú ý đến tài liệu do Thượng thư Phạm Thận Duật, một nhà trí thức uyên bác (Tri châu Điện Biên những năm 1855-1856) công bố. Bên cạnh những công trình nghiên cứu về phong tục, tập quán, Phạm Thận Duật đã có một số trang ghi lại một loại ký tự mà ông cho là “chữ Thái (thổ tự)” (CTTT - chữ Thái chỉ của một vùng người Thái). Những trang ghi chép này không được chú ý vì nội dung của nó mang nhiều điều vô lý. Sau một thời gian dài đi sâu vào sự “vô lý” ấy, thầy Xuyền đã phá bỏ lớp vỏ ngụy trang, dần dần giải mã được bộ ký tự này. Thầy Xuyền cũng khu biệt được bộ chữ mới được giải mã, từ đó rút ra kết luận: Bộ chữ này cũng không phải của hai dân tộc anh em Mường và Thái. Do nhiều lý do, các dân tộc anh em đã sử dụng chung bộ ký tự này (có chỉnh sửa đi chút ít), đúng như nhận định của Vương Duy Trinh “Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy”! Tiền thân của chữ Quốc Ngữ?! Chữ Quốc ngữ xuất hiện ở nước ta từ năm 1651. Nhiều cuốn sách cổ được in từ buổi đầu chữ Quốc ngữ xuất hiện, đến nay hầu như không ai đọc được. Khi đem bộ chữ Việt cổ đã được giải mã thử đọc một số cuốn sách cổ, như cuốn “Từ điển Việt Bồ La” của Alexandre de Rodes, hay cuốn “Sách sổ sang” của Philip Bỉnh (Giám mục người Việt, ở Thủ đô Bồ Đào Nha những năm 1790 - 1820), thầy giáo Xuyền đã rất thú vị khi dễ dàng đọc được những từ khó mà lâu nay nhiều người không đọc cũng không giải thích được. Chính từ việc này, thầy Xuyền đã đưa ra một giả thuyết: Chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là một công trình hoàn toàn mới của Alexandre de Rodes. Nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ?! Giả thuyết của thầy Xuyền không phải không có căn cứ. Bởi chữ Quốc ngữ và chữ Việt cổ do thầy Xuyền giải mã có cùng cấu trúc ghép vần tương tự nhau, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi! Chính trong cuốn “Từ điển Việt Bồ La”, Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, nó đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo thầy Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ! Đinh Anh Tuấn tienphong.vn
    2 likes
  3. 2 likes
  4. Trân trọng cảm ơn! Xin thống báo lại và TĐN cũng rất buồn. Trưa hôm sau TĐN đưa xe để đón cụ xuống chùa nhưng khi đó cụ trả lời là không đi nữa. Sau khi tìm hiểu cụ nói "sáng ngày có mấy bác qua chơi bảo tôi đừn đi vì đã có mấy cụ từng vào chùa (ko rõ chùa nào) nhưng 3 năm lại quay ra". Mấy kẻ độc mồm độc miệng đó còn nói Mỗi ngày cụ thu nhập được mấy chục ngàn thì đi làm gì. Ko hiểu cụ nghĩ gì về mấy suy nghĩ nông cạn đó của bọn họ? Họ có nghĩ được lúc mưa gió, giá lạnh và lúc ốm đau ko? Tiền ko fải là tất cả, trụ trì chùa còn nói "vào đây có cả 1 phòng đông y chữa trị cho cụ. Đến nay là ngày thứ 3 TĐN thuyết phục nhưng cụ vẫn chưa đồng ý. Rất buồn nhưng ko biết thế nào. ACE nào ở HN cố gắng ghé qua, mỗi người nói 1 câu chắc cụ siêu lòng. TĐN vẫn chờ cụ đồng ý để giúp cụ 1 nơi nương tựa lúc yếu đau, tuổi cao. Xin chân thành các bạn đã chia sẻ!
    2 likes
  5. Chúc Giaback sinh nhật vui vẻ. Chúc cho anh luôn bình an và hạnh phúc
    1 like
  6. Thiên hạ họ Hùng – Họ Ngô Trong số hơn 200 họ của Việt Nam thì họ Ngô cũng là một trong 13 họ có số dân đông, so với tỷ lệ dân số cả nước thì Nguyễn = 38,4%,Trần = 11% , Lê = 9,5%, Hoàng = 5,1%, Phạm = 5%, Phan = 4,5%, Vũ = 3,9%, Đặng = 2,1%, Bùi = 2,1%, Đỗ = 1,4%, Hồ = 1,3%, Ngô = 1,3%, Dương = 1%, Lý = 0,5%. Họ Ngô ở Trung Quốc đứng thứ 10 dân số các họ. Ngoài số ít dân số là các tộc thiểu số phương Bắc bị Hoa hóa lấy họ là Ngô như tộc Tích Bá 锡 伯, tộc TriềuTiên 朝 鲜, tộc Kha Nhĩ Khắc 柯 尔 克, tộc Hách Triết 赫 哲 v.v.Còn lại hầu hết họ Ngô là có cùng gốc dòng Việt tộc từ thời thượng cổ, chủ yếu tập trung ở miền nam, vùng Triết Giang, Giang Tô, Hồ Nam, Phúc Kiến, Quảng Đông, nguồn gốc chủ yếu là từ họ Cơ 姬 của nước Ngô 吳, là hậu duệ của Thái Bá 泰 伯 và Trọng Ung 仲 雍, hai người này là con của Chu Thái Vương 周泰 王 tức Cổ phụ 古 父( “Cổ phụ” tức “bố Cả”, chữ Cơ 姬 và chữ Cổ 古 đều là phiên âm của chữ Cả trong tiếng Việt cổ, nghĩa là con trai trưởng).Tương truyền Cổ Phụ 古 父 là cháu đời thứ 12 của Hoàng đế Hiên Viên thị 黄 帝 轩 辕 氏.Cổ Phụ lập nên nhà Chu 周, là vua đầu của nhà Chu, hiệu là Chu Thái Vương 周 泰 王. Chu Thái Vương có ba con trai là Thái Bá 泰 伯, Trọng Dung 仲 雍 và Cơ Xương 姬昌, trong đó Cơ Xương 姬 昌sinh ra trông có tướng thánh hơn cả nên Chu Thái Vương có ý truyền ngôi cho. Hai anh biết vậy nên cũng nhượng hiền, khi Cơ Xương 姬 昌lên làm vua hiệu là Chu Văn Vương 周 文 王thì Thái Bá 泰 伯 và Trọng Ung 仲 雍 rủ nhau đi đến vùng người Kinh 荊, Man 蠻 ven biển phía đông lập nghiệp, ở đó họ được dân tại chỗ tôn Thái Bá 泰 伯 lên làm vua, lập nên quốc gia họ Cơ 姬 (năm 1123 BC). Nước họ Cơ này sử viết là Câu Ngô 句 吳 ( do chữ Cơ 姬 này được phiên âm bằng hai âm tiết là Câu Ngô 句吳, chứ thực ra chữ Câu 句 đầu này không có ý nghĩa gì cả), thế là hình thành nước Câu Ngô 句 吳. Khi Thái Bá chết, vì Thái Bá không có con, nên Trọng Ung 仲 雍 thừa kế ngôi vua, là vua đời thứ hai của nước Câu Ngô. Nhà Chu thì đến đời con trai Cơ Xương 姬昌 là Cơ Phát 姬 發 lên ngôi hiệu là Chu Vũ Vương 周 武 王, sau khi diệt xong nhà Thương 商, Cơ Phát 姬 發 bèn phong cho cháu ba đời của Trọng Ung làm chư hầu, đổi quốc hiệu thành Ngô 吳, đồng thời truy phong Thái Bá 泰 伯 là Ngô bá, tức tước Bá ở nước Ngô (5 bậc “ tước” khi nhà Chu phong đất thời đó là: Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男 tức là: Chắc, Hai, Ba, Tư, Năm; sau tước “Hầu 侯” của “chư hầu” tức “thứ hai” thì đến tước “ Bá 伯” là “chư bá”, nghĩa là sau tước “thứ hai” thì đến tước “thứ ba”, đây hoàn toàn là sự phiên âm từ tiếng Việt cổ). Đến cháu đời thứ 19 của Trọng Ung 仲 雍 là Thọ Mộng 壽 夢 vẫn kế tục làm vua (năm 586 BC) của nước Ngô , đóng đô ở chỗ nay là Tô Châu 蘇 州 tỉnh Giang Tô 江 蘇. Con trai thứ 4 của Thọ Mộng 壽 夢 là Qúi Trát 季 札(576 BC – 485 BC, thọ 92 tuổi) đáng lý kế vị nhưng từ chối, bỏ đến Diên Lăng 延 陵 làm ruộng . Từ đó về sau hậu duệ của vua Ngô là Thọ Mộng壽 夢 chia thành hai chi, một chi phát triển về chính trị dẫn đến đời vua Hạp Lư 闔 閭và đời vua Phù Sai 夫 差v.v. Còn chi hậu duệ của Qúi Trát 季 札 phát triển độc lập ở Diên Lăng 延 陵, đông đúc con cháu thành bộ phận chủ yếu của họ Ngô 吴. Cuối thời Xuân Thu春 秋, nước Ngô 吳 dần dần lớn mạnh lên, vua Ngô là Hạp Lư 闔 閭chọn Ngũ Tử Tư 伍 子 胥 làm tướng văn, Tôn Vũ 孫 武 làm tướng võ, quyết đánh nước Việt 越. Con ông ta là Phù Sai 夫 差 (lên ngôi năm 496 BC) đánh phá nước Việt 越, đánh bại được quân Tề 齊, tiến lên phía bắc tranh bá với nước Tấn 晉 國, nước Ngô trở thành một nước lớn. Về sau Phù Sa i夫 差 kiêu ngạo tự đại không nghe Ngũ Tử Tư 伍 子 胥 khuyên can, kết quả bị Việt vương Câu Tiễn 越 王 勾 踐 đánh bại, nước mất thân vong (năm 473 BC). Con cháu Phù Sai 夫 差 lưu tán tứ phương, vẫn lấy tên nước làm họ, xưng là họ Ngô. Nước Ngô tồn tại 650 năm qua 25 đời vua, tạo dựng nên nền văn minh Giang Nam, cuối cùng bị diệt vào tay nước Việt, rất nhiều địa danh nước Ngô sau này dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên 司 馬遷 biến thành tên “Ngô hư 吳 墟”. Nhưng con cháu họ Ngô vẫn nêu cao tinh thần của Thái Bá 泰 伯 tiếp tụcphát triển, đời nào cũng có anh tài , cống hiến cho sự tiến bộ của dân tộc Trung Hoa. Sau khi nước Ngô bị Việt vương Câu Tiễn diệt, thái tử con Phù Sai là Ngô Hồng 吳 鴻 bị lưu phóng ở Giang Tây. Ngoài ra hậu duệ của Phù Sai phát triển ở Triết Giang, An Huy, Sơn Đông, Hà Nam và một số nơi khác. Đến thời Tùy, Đường họ Ngô đã phổ biến một vùng rộng lớn bắc Giang Nam. Thời Đường Cao Tông 唐 高 宗 có người họ Ngô làm tả tướng theo cha con Trần Chính 陳 政 và Trần Nguyên Quang 陳 元 光 vào đất Mân 閩 khai phá vùng Chương Châu 漳 州, đến đời Đường Hi Tông 唐 僖 宗 lại có tả tướng họ Ngô theo Vương Thẩm Tri 王 審 知 vào vùng Mân 閩 an cư lập nghiệp ở Phúc Kiến. Thời Tống, Minh về sau thì họ Ngô đã xưng hùng ở đất Đông Nam, trong đó có cháu đời thứ 53 của Qúi Trát 季 扎 là Ngô Tuyên 吳 宣 làm phò mã của nước Hậu Thục 後 蜀, gia tộc hiển hách một thời. Cháu 5 đời của Ngô Tuyên吳 宣 là Ngô Cát Bồ 吳 吉 甫 là thủy tổ của họ Ngô khi vào đất Việt Đông 粤 東. Thời Nguyên có viên ngoại lang bộ lễ là Ngô Quang Đẩu 吳 光 斗 phụng mệnh đem 6000 người từ lục địa lên thuyền sang Đài Loan năm 1291. Cuối thời Minh nhiều dân họ Ngô ven biển Phúc Kiến, Quảng Đông di cư sang Bành Hồ, Đài Bắc, Cao Hùng để mưu sinh lập nghiệp, phát triển đến tận ngày nay. Trong đó có một chi hiển hách nhất là gia tộc của Ngô Bá Hùng 吳 伯 雄, mệnh danh là “toàn Đài đệ nhất gia”. Người họ Ngô di cư sang Nhật Bản khoảng năm 450 BC ( sau khi nước Ngô đã bị diệt năm 473 BC ), trong đó có một chi sau thành hoàng thất của nước Nhật. Cũng khoảng thời gian đó, tức sau khi nước Ngô đã bị diệt , một dòng lớn người họ Ngô theo đường biển chạy xuống phương nam về lại đất Việt Nam ngày nay, trong hậu duệ số đó về sau xuất thế Ngô Quyền 吳 權 là cháu đời thứ 50 của Qúi Trát 季 扎 (điểm này chờ các nhà sử học Việt Nam xác minh). Vào năm 939 Ngô Quyền xưng vương kiến lập nhà nước độc lập đầu tiên của Việt Nam. Họ Ngô di cư sang Hàn Quốc là Ngô Phong 吳 風 thời Đông Hán, phát triển cho đến ngày nay dân số đứng thứ 20 trong tổng số 143 họ của Hàn Quốc. Sau thời Minh thì mới có người họ Ngô di cư sang các nước Đông Nam Á và phương Tây. Ngày nay dân số họ Ngô trên toàn thế giới là hơn 4 triệu người và có nhiều chi thuộc hàng vọng tộc.
    1 like
  7. Mừng sinh nhật Bác Giaback và thamlang Chúc mừng sinh nhật người ta Chớ buồn vì những cách xa bây giờ! Ngày mai giáp mộng đôi bờ... Niềm vui bù lại trăm chờ vạn mong, Hôm nay thắp ngọn nến hồng, Chúc mừng sinh nhật hiệp lòng nhất tâm! Chúc qua bão gió thăng trầm Bằng an vạn sự trăm năm quân hoà, Lời thơ chấp bút thăng hoa, Thay quà sinh nhật của ta tặng người! Chúc mai một giấc mộng đời, Luôn luôn như ý như lời thơ ca./. Kính!
    1 like
  8. nhà tôi cũng đã từng xảy ra chuyện tương tự. cháu gái 8 tuổi một hôm kêu đau bụng dữ dội 2 chân phát ban đỏ tấy. đưa đi viện nhi khám thì họ bảo là bệnh dị ứng... (tiếng latin tôi không nhớ lắm) sau đó bệnh phát triển sang dạ dày và thận... chụp, nội soi dạ dày thấy vết loét đỏ... sau khi chạy chữa 20 ngày không khỏi bác sỹ viện nhi nói rằng cháu phải sống chung với bệnh và cứ thỉnh thoảng bệnh sẽ phát tác tôi không tin...tôi có đi xem họ nói là không phải do bệnh ... sau đó tôi quyết định chuyển nhà và đến giờ cháu đã 11 tuổi không thấy bệnh đó quay lại. Như vậy bạn có thể chuyển giường ngủ và kê kích lại một số đồ vật chính tránh giường , bếp và bàn thờ chồng chéo lên nhau sau đó chuyển người bệnh sang phòng khác hoặc hẳn nhà khác . Xem lại trong nhà mộ phần và hướng nhà xem sao
    1 like
  9. chúc mừng sinh nhật chú Giaback. Chúc chú và gia đình hạnh phúc bình an!
    1 like
  10. Nếu là duyên nợ thì cưới còn không duyên không nợ thì không cưới.Cung phu thê của cả 2 người không tốt nếu có lấy nhau e chẳng được dài lâu. Bạn trai của bạn là người nóng tính, hay có sự thay đổi ,tính hay cố chấp , ghen tuông... nếu đúng thì xem tiếp
    1 like
  11. Ngôi đền thờ thầy giáo cổ nhất Việt Nam. Đó là một ngôi miếu cổ trên một quả đồi nhỏ thuộc thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, Thành phố Việt Trì (Phú Thọ) nằm trong địa phận của Kinh đô Văn Lang xưa, nơi tương truyền thờ hai vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, đời Hùng Vương thứ 18, dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Cho đến nay, qua những chứng tích còn lại, đấy là ngôi đền thờ thầy cô giáo, tôn vinh sự học cổ nhất ở Việt Nam. Thiên Cổ Miếu nằm trong một quần thể di tích: Đình Hương Lan, Lăng mộ ba đô sĩ thời Hùng Duệ Vương và đền Thiên Cổ, đã được UBND tỉnh Phú Thọ cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử. Xưa để bảo vệ ngôi đền khỏi sự tàn phá của các thế lực xâm lược ngoại bang đã ra sức thực hiện chính sách đồng hóa, tìm mọi cách khiến người Việt quên đi truyền thống, gốc tích và bản sắc văn hoá dân tộc và một thời ấu trĩ, nhân dân gọi chệch đi là Miếu Hai Cô. Ngôi miếu cổ nằm hiền hòa dưới bóng hai cây táu cổ thụ, gốc to bốn, năm người ôm không xuể, có tuổi hàng ngàn năm. Điều thú vị là một cây cho hoa mầu vàng, một cây cho hoa mầu bạc. Hè năm 1978, Ban lãnh đạo hợp tác xã Động Lực quyết định cho chặt hai cây táu làm củi nung gạch. Biết hung tin, các cụ già của thôn Hương Lan đồng lòng kéo nhau ra miếu. Cụ Nguyễn Hữu Bồng (bố đẻ của ông Nguyễn Hữu Yết, thủ từ hiện nay) thét lớn: “Không được phá nơi thờ thầy cô giáo. Nếu chúng mày định chặt cây thì hãy chặt xác tao luôn thể!”. Bấy giờ người ta mới biết đây là nơi thờ thầy giáo Vũ Thê Lang, vốn quê ở Mộ Trạch, Hải Dương cùng vợ là Nguyễn Thị Thục, quê ở Đông Ngàn, Kinh Bắc lên đây dậy học từ thời Hùng Vương thứ 18. Hai thầy cô tạ thế cùng một giờ, một ngày 2.2. năm Quí dậu ( 228 trước công nguyên). Đến nay, ngôi mộ của vợ chồng thầy cô giáo Vũ Thê Lang và Nguyễn Thị Thục vẫn còn ở trong điện và chưa bị dịch chuyển một lần nào. Ngôi miếu được nhân dân Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt gần 23 thế kỷ. Năm 1990 ngôi miếu bị cháy, trong lúc cố cứu những vật thờ, người dân Hương Lan đã phát hiện ra cuốn ngọc phả của miếu và cả sắc phong vua ban. Dù bị cháy lẹm một phần, nhưng nội dung ghi chép trong đó thì không bị mất. Hiện nay vẫn còn giữ được một bản ngọc phả quý được viết lần đầu vào năm Hồng Phúc thứ 2 (1573) đời vua Lê Anh Tông, do Đông Các học sĩ Nguyễn Bính biên soạn. Ngọc phả này đã ghi chép lại nguồn gốc của ngôi miếu cổ: “Vào thời Hùng Duệ Vương, ở đất Mộ Trạch có vợ chồng Vũ Công, thuộc gia đình có học. Cha mẹ mất sớm, cảnh nhà sa sút, hai người lần tìm về đô thành Phong Châu, tới thôn Hương Lan mở lớp dạy học. Dân làng đã cấp cho họ ruộng đất để trả công dạy dỗ. Vợ chồng Vũ Công sinh hạ được một người con trai là Vũ Thê Lang. Lớn lên, Vũ Thê Lang tìm về người bạn cũ của bố là Nguyễn Công ở đất Đông Ngàn – Kinh Bắc. Nguyễn Công đã gả cho Thê Lang người con gái của mình là Nguyễn Thị Thục – một cô gái nết na, thạo nghề tơ tằm canh cửi. Khi cha chết, Vũ Thê Lang tiếp tục thay cha dạy học, Thục Nương giúp dân nghề nông tang, canh cửi. Tiếng lành đồn xa, nhờ học vấn cao và tận tụy với nghề, sống giản dị và mẫu mực nên ông giáo Vũ Thê được vua Hùng thứ 18 giao cho chăm nom việc học hành của hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa”. Hoành phi và câu đối trong đền Thiên Cổ có từ thời Tự Đức năm thứ nhất (1848). Trong đền, ngoài ba lư hương cổ bằng gốm từ thời nhà Lý, nhà Lê, còn có một số đồ thờ bằng gỗ như ống hương, hai cây nến… Đặc biệt là các pho tượng: Phụ vương, Mẫu vương và hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa cùng hai thị nữ, đã có trên 70 năm. Trên bàn thờ có tượng của thầy cô và hai thị nữ theo hầu, đó là Tiên Dung và Ngọc Hoa (được dùng để ngụy trang). Ngoài ra còn có một bức Hoành phi nhỏ ghi: “Thiên Cổ Miếu” và hai câu đối bằng gỗ mộc dài chừng một mét, đều viết bằng chữ Hán: “Hùng Lĩnh trung chi thắng tích/ Nam thiên chích khí linh từ” nghĩa là: “Đền thiêng thờ người có chí khí mạnh mẽ, lớn lao của trời Nam”, Nay những hoành phi câu đối này đều được viết bằng chữ Việt cổ, tức là chữ “Khoa đẩu”, chữ của dân tộc ta có từ thời Hùng Vương và trưng bầy phiên bản trống đồng Lũng Cú -Lạng Sơn, trên trống có chữ khoa đẩu. Theo một cuộc điều tra của Pháp những năm 30 về hệ thống đền, đình ở nước ta – tài liệu vẫn còn lưu trữ ở Viện Hán – Nôm, thì toàn miền Bắc và miền Trung có hơn 40 đền thờ các thầy cô giáo và những học trò thời trước Hán, tức là thời Hùng Vương đến thời An Dương Vương. Chính từ những chứng tích của Thiên Cổ Miếu, các nhà nghiên cứu, mà tiên phong là ông Đỗ Văn Xuyền đã tìm được một danh sách 18 thầy giáo thời Hùng Vương, những người đã đào tạo ra hiền tài cho các Vua Hùng như: Thầy Lý Đường Hiên, thời Hùng Vương thứ 6, dạy ở Yên Vĩ, huyện Hoài Nam, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam (nay là Ứng Hòa, Hà Nội); thầy Lỗ Công, thời Hùng Vương thứ 9, là cháu ngoại vua Hùng Định Vương, dạy ở kinh thành Văn Lang… Đến nay vẫn còn đền thờ của các thầy giáo và học trò của họ ở khắp miền Bắc nước ta như đền thờ thầy Hải Đường tiên sinh ở huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu; đền thờ Trương Sơn Nhạc – học trò thầy Lỗ Đường tiên sinh, ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh… Thậm chí cả những vùng đất xa xôi, hiểm trở như ở Quỳnh Nhai, Sơn La, cũng có đền thờ thầy cô giáo và những học trò rạng danh thời đó. Dẫu có phải ngụy trang, thì những ngôi đền, những chứng tích quí báu ấy đã khẳng định sự cố gắng hết lòng của ông cha ta trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cố gắng bảo vệ những giá trị văn hoá của dân tộc cho muôn đời con cháu. Thiên Cổ Miếu cùng những chứng tích quí báu ấy đã minh chứng thêm bộ chữ “Khoa đẩu” của dân tộc ta có từ trước công nguyên, được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ thuộc thời kỳ Đông Sơn tìm được ở nhiều nơi thuộc lãnh thổ nước ta theo một sự phát triển logic từ thấp đến cao, khẳng định hệ thống giáo dục của nước ta đã phát triển từ thời Hùng Vương, khẳng định bộ chữ Quốc ngữ được các giáo sỹ phương tây cùng những trí thức Việt Nam La Tinh hóa tên cơ sở bộ chữ “Khoa đẩu”, mà công đầu là của hai giáo sỹ Bồ Đào Nha: Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa cùng đội ngũ những trí thức người Việt bằng những căn cứ khoa học không thể chối cãi đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước thừa nhận. Trên cơ sở công trình đó, sau này Alexandre de Rhodes hệ thống hóa và chỉnh lý hoàn thiện thêm. Cũng chính tại nơi đây, đúng 10g sáng ngày 29.3.2009, tức ngày 4.3 âm lịch đã long trọng khánh thành Thần Qui bằng đá nguyên khối, nặng 4 tấn, mô phỏng, Thần Qui xưa đời Nghiêu, người Việt ta tặng con rùa ngàn năm tuổi, trên mai có khắc chữ “Khoa đẩu” (chữ như con nòng nọc) chép việc từ thời khai thiên lập địa trở đi để giữ hòa hiếu giữa hai nước. Sự kiện này đã được chép trong Ngọc phả đền: “Tứ Lạc Long Quân chi tử” đời Trần Thái Tông, tại xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Trong sách “Thông giám cương mục” của Chu Hy, sách “Tân lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh… Ngày nay, Thiên Cổ Miếu không chỉ là điểm đến của những người “Tôn sư trọng đạo”, yêu kính cội nguồn dân tộc, mà còn là điểm đến của không biết bao nhà nghiên cứu và du khách trong và ngoài nước. Tất cả đều vô cùng khâm phục truyền thống văn hóa, truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Gần đây nhất, ngày 7.7.2009 âm, tức ngày 26.8.2009, một đoàn nghiên cứu tâm linh gồm 50 người từ Braxin, Chi Lê, Tây Ban Nha, Pháp, Hung Ga Ri, Ý, Ma Xê Đoan, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ đã đến thăm viếng Đền Hùng, họ dâng lên 18 cặp bánh chưng, bánh dầy, xôi, mâm ngũ quả tỏ ý tôn trọng cội nguồn văn hóa Việt Nam, sau đó đã đến thăm Thiên Cổ Miếu. Khi được ông Đỗ Văn Xuyền giới thiệu lịch sử ngôi đền, hệ thống giáo dục của nước ta từ thời Hùng Vương, chữ Việt cổ, sự hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ trên cơ sở chữ Việt cổ… tất cả đều không dấu được sự khâm phục. Thiên Cổ Miếu là ngôi đền thờ thầy cô giáo cổ nhất Việt Nam, đây là một minh chứng hùng hồn cho truyền thống giáo dục của dân tộc ta, một dân tộc có bốn nghìn năm văn hiến. Trần Vân Hạc. nguồn vanhac.org
    1 like
  12. tuyetminhnguyen cho kích thước cụ thể của sơ đồ nhà đi. Hướng bao nhiêu độ? PM vô hộp thư của Thiên Đồng.
    1 like
  13. Ahhh, Chúc mừng sinh nhật anh nhá, Chúc anh nhiều niềm vui và hạnh phúc. Đọc loáng thoáng, cứ ngỡ anh vừa mới tròn đôi mươi :) :D :D
    1 like
  14. CHÚC MỪNG SINH NHẬT GIABACK CHÚC MỘT CUỘC ĐỜI AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC.
    1 like
  15. Quả đúng thật ạ. Nhưng hiếm khi con người ta nhận được ra và bỏ qua được nó. Dù tóc có điểm bạc đi chăng nữa, khối người vẫn không thoát được "THAM SÂN SI". Có lẽ chị Hằng đã cảm nhận được điều đó sớm hơn. Chúc mừng chị ấy.
    1 like
  16. Chào cô Haiphuong. Chúc cô và gia đình vạn sự an lành. Hôm nay tôi mới thấy lại topic này. Rất vui vì chồng cô có tiến triển tốt. Cô hãy yên tâm, theo quẻ của tôi - nhnh thì ngay tháng này. Chậm thì giữa tháng năm, âm lịch , chồng cô sẽ phục hồi. Cô nên làm hai việc sau đây: 1 - Tìm một thày giỏi về nhân điện (Hình như tôi có giới thiệu) để phụ giúp chồng cô. 2 - Thả chim phóng sinh, ngay tai căn nhà vợ chồng cô thuê. Phương pháp như sau: Ra chợ bán chim. Chọn lồng chim có nhiều chim nhất (Nếu không đủ tiền mua hết tất cả chim ở đó) - có quyền trả giá sát nhíp - nói họ chở về nhà, hoặc tự mình chở về và thả ở đó. Con nào yếu không bay được thì nuôi cho đến khi nó khỏe bay đi. Chết thì chôn. Sinh khí và sự giải thoát của chúng sẽ giúp cho chồng cô chóng khỏi. Cái này khó giải thích (Chứ không phải không giải thích được). Nhưng đây là điều có thật Tôi cũng thường xuyên thả chim.
    1 like