-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 28/10/2010 in Bài viết
-
Đức Phật là một nhà khoa học đích thực đối tượng nghiên cứu của Ngài là bản chất của ý thức, của đau khổ và hạnh phúc, tất nhiên đó cũng là bản chất của vũ trụ do đó Ngài phải lấy bản thân của chính mình làm đối tượng thực nghiệm, dùng trí tuệ sáng suốt để phân tích vấn đề. Ngài xuất gia không phải để thoát khỏi đau khổ hay trở thành siêu nhân... mà chỉ là để thấu hiểu chân lý vô số đệ tử của Ngài cũng đã thấu hiểu như Ngài Ngài đã mô tả sơ lược bản chất của vũ trụ trong kinh Bát nhã và kinh Lăng nghiêm, nhưng đa số chúng ta nghe như vịt nghe sấm Vô thường hay Nhân quả chỉ là những biểu hiện của quy luật vũ trụ chứ không phải là Bản chất của vũ trụ Một đứa trẻ có thể biết cách dùng lửa làm cho nước sôi lên, nhưng hiểu được bản chất của hiện tượng là chuyện khác Không còn phiền não chỉ là cái kết quả tất yếu chứ không phải là cứu cánh của Đạo Phât Vì chân lý khó giải bày nên đa phần lời Phật dạy là đưa chúng ta vào con đường tăng trưởng trí tuệ mà thôi Vài lời cạn nghĩ mong quý vị minh xét4 likes
-
Ngôi đền thờ thầy giáo cổ nhất Việt Nam. Đó là một ngôi miếu cổ trên một quả đồi nhỏ thuộc thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, Thành phố Việt Trì (Phú Thọ) nằm trong địa phận của Kinh đô Văn Lang xưa, nơi tương truyền thờ hai vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, đời Hùng Vương thứ 18, dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Cho đến nay, qua những chứng tích còn lại, đấy là ngôi đền thờ thầy cô giáo, tôn vinh sự học cổ nhất ở Việt Nam. Thiên Cổ Miếu nằm trong một quần thể di tích: Đình Hương Lan, Lăng mộ ba đô sĩ thời Hùng Duệ Vương và đền Thiên Cổ, đã được UBND tỉnh Phú Thọ cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử. Xưa để bảo vệ ngôi đền khỏi sự tàn phá của các thế lực xâm lược ngoại bang đã ra sức thực hiện chính sách đồng hóa, tìm mọi cách khiến người Việt quên đi truyền thống, gốc tích và bản sắc văn hoá dân tộc và một thời ấu trĩ, nhân dân gọi chệch đi là Miếu Hai Cô. Ngôi miếu cổ nằm hiền hòa dưới bóng hai cây táu cổ thụ, gốc to bốn, năm người ôm không xuể, có tuổi hàng ngàn năm. Điều thú vị là một cây cho hoa mầu vàng, một cây cho hoa mầu bạc. Hè năm 1978, Ban lãnh đạo hợp tác xã Động Lực quyết định cho chặt hai cây táu làm củi nung gạch. Biết hung tin, các cụ già của thôn Hương Lan đồng lòng kéo nhau ra miếu. Cụ Nguyễn Hữu Bồng (bố đẻ của ông Nguyễn Hữu Yết, thủ từ hiện nay) thét lớn: “Không được phá nơi thờ thầy cô giáo. Nếu chúng mày định chặt cây thì hãy chặt xác tao luôn thể!”. Bấy giờ người ta mới biết đây là nơi thờ thầy giáo Vũ Thê Lang, vốn quê ở Mộ Trạch, Hải Dương cùng vợ là Nguyễn Thị Thục, quê ở Đông Ngàn, Kinh Bắc lên đây dậy học từ thời Hùng Vương thứ 18. Hai thầy cô tạ thế cùng một giờ, một ngày 2.2. năm Quí dậu ( 228 trước công nguyên). Đến nay, ngôi mộ của vợ chồng thầy cô giáo Vũ Thê Lang và Nguyễn Thị Thục vẫn còn ở trong điện và chưa bị dịch chuyển một lần nào. Ngôi miếu được nhân dân Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt gần 23 thế kỷ. Năm 1990 ngôi miếu bị cháy, trong lúc cố cứu những vật thờ, người dân Hương Lan đã phát hiện ra cuốn ngọc phả của miếu và cả sắc phong vua ban. Dù bị cháy lẹm một phần, nhưng nội dung ghi chép trong đó thì không bị mất. Hiện nay vẫn còn giữ được một bản ngọc phả quý được viết lần đầu vào năm Hồng Phúc thứ 2 (1573) đời vua Lê Anh Tông, do Đông Các học sĩ Nguyễn Bính biên soạn. Ngọc phả này đã ghi chép lại nguồn gốc của ngôi miếu cổ: “Vào thời Hùng Duệ Vương, ở đất Mộ Trạch có vợ chồng Vũ Công, thuộc gia đình có học. Cha mẹ mất sớm, cảnh nhà sa sút, hai người lần tìm về đô thành Phong Châu, tới thôn Hương Lan mở lớp dạy học. Dân làng đã cấp cho họ ruộng đất để trả công dạy dỗ. Vợ chồng Vũ Công sinh hạ được một người con trai là Vũ Thê Lang. Lớn lên, Vũ Thê Lang tìm về người bạn cũ của bố là Nguyễn Công ở đất Đông Ngàn – Kinh Bắc. Nguyễn Công đã gả cho Thê Lang người con gái của mình là Nguyễn Thị Thục – một cô gái nết na, thạo nghề tơ tằm canh cửi. Khi cha chết, Vũ Thê Lang tiếp tục thay cha dạy học, Thục Nương giúp dân nghề nông tang, canh cửi. Tiếng lành đồn xa, nhờ học vấn cao và tận tụy với nghề, sống giản dị và mẫu mực nên ông giáo Vũ Thê được vua Hùng thứ 18 giao cho chăm nom việc học hành của hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa”. Hoành phi và câu đối trong đền Thiên Cổ có từ thời Tự Đức năm thứ nhất (1848). Trong đền, ngoài ba lư hương cổ bằng gốm từ thời nhà Lý, nhà Lê, còn có một số đồ thờ bằng gỗ như ống hương, hai cây nến… Đặc biệt là các pho tượng: Phụ vương, Mẫu vương và hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa cùng hai thị nữ, đã có trên 70 năm. Trên bàn thờ có tượng của thầy cô và hai thị nữ theo hầu, đó là Tiên Dung và Ngọc Hoa (được dùng để ngụy trang). Ngoài ra còn có một bức Hoành phi nhỏ ghi: “Thiên Cổ Miếu” và hai câu đối bằng gỗ mộc dài chừng một mét, đều viết bằng chữ Hán: “Hùng Lĩnh trung chi thắng tích/ Nam thiên chích khí linh từ” nghĩa là: “Đền thiêng thờ người có chí khí mạnh mẽ, lớn lao của trời Nam”, Nay những hoành phi câu đối này đều được viết bằng chữ Việt cổ, tức là chữ “Khoa đẩu”, chữ của dân tộc ta có từ thời Hùng Vương và trưng bầy phiên bản trống đồng Lũng Cú -Lạng Sơn, trên trống có chữ khoa đẩu. Theo một cuộc điều tra của Pháp những năm 30 về hệ thống đền, đình ở nước ta – tài liệu vẫn còn lưu trữ ở Viện Hán – Nôm, thì toàn miền Bắc và miền Trung có hơn 40 đền thờ các thầy cô giáo và những học trò thời trước Hán, tức là thời Hùng Vương đến thời An Dương Vương. Chính từ những chứng tích của Thiên Cổ Miếu, các nhà nghiên cứu, mà tiên phong là ông Đỗ Văn Xuyền đã tìm được một danh sách 18 thầy giáo thời Hùng Vương, những người đã đào tạo ra hiền tài cho các Vua Hùng như: Thầy Lý Đường Hiên, thời Hùng Vương thứ 6, dạy ở Yên Vĩ, huyện Hoài Nam, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam (nay là Ứng Hòa, Hà Nội); thầy Lỗ Công, thời Hùng Vương thứ 9, là cháu ngoại vua Hùng Định Vương, dạy ở kinh thành Văn Lang… Đến nay vẫn còn đền thờ của các thầy giáo và học trò của họ ở khắp miền Bắc nước ta như đền thờ thầy Hải Đường tiên sinh ở huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu; đền thờ Trương Sơn Nhạc – học trò thầy Lỗ Đường tiên sinh, ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh… Thậm chí cả những vùng đất xa xôi, hiểm trở như ở Quỳnh Nhai, Sơn La, cũng có đền thờ thầy cô giáo và những học trò rạng danh thời đó. Dẫu có phải ngụy trang, thì những ngôi đền, những chứng tích quí báu ấy đã khẳng định sự cố gắng hết lòng của ông cha ta trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cố gắng bảo vệ những giá trị văn hoá của dân tộc cho muôn đời con cháu. Thiên Cổ Miếu cùng những chứng tích quí báu ấy đã minh chứng thêm bộ chữ “Khoa đẩu” của dân tộc ta có từ trước công nguyên, được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ thuộc thời kỳ Đông Sơn tìm được ở nhiều nơi thuộc lãnh thổ nước ta theo một sự phát triển logic từ thấp đến cao, khẳng định hệ thống giáo dục của nước ta đã phát triển từ thời Hùng Vương, khẳng định bộ chữ Quốc ngữ được các giáo sỹ phương tây cùng những trí thức Việt Nam La Tinh hóa tên cơ sở bộ chữ “Khoa đẩu”, mà công đầu là của hai giáo sỹ Bồ Đào Nha: Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa cùng đội ngũ những trí thức người Việt bằng những căn cứ khoa học không thể chối cãi đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước thừa nhận. Trên cơ sở công trình đó, sau này Alexandre de Rhodes hệ thống hóa và chỉnh lý hoàn thiện thêm. Cũng chính tại nơi đây, đúng 10g sáng ngày 29.3.2009, tức ngày 4.3 âm lịch đã long trọng khánh thành Thần Qui bằng đá nguyên khối, nặng 4 tấn, mô phỏng, Thần Qui xưa đời Nghiêu, người Việt ta tặng con rùa ngàn năm tuổi, trên mai có khắc chữ “Khoa đẩu” (chữ như con nòng nọc) chép việc từ thời khai thiên lập địa trở đi để giữ hòa hiếu giữa hai nước. Sự kiện này đã được chép trong Ngọc phả đền: “Tứ Lạc Long Quân chi tử” đời Trần Thái Tông, tại xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Trong sách “Thông giám cương mục” của Chu Hy, sách “Tân lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh… Ngày nay, Thiên Cổ Miếu không chỉ là điểm đến của những người “Tôn sư trọng đạo”, yêu kính cội nguồn dân tộc, mà còn là điểm đến của không biết bao nhà nghiên cứu và du khách trong và ngoài nước. Tất cả đều vô cùng khâm phục truyền thống văn hóa, truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Gần đây nhất, ngày 7.7.2009 âm, tức ngày 26.8.2009, một đoàn nghiên cứu tâm linh gồm 50 người từ Braxin, Chi Lê, Tây Ban Nha, Pháp, Hung Ga Ri, Ý, Ma Xê Đoan, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ đã đến thăm viếng Đền Hùng, họ dâng lên 18 cặp bánh chưng, bánh dầy, xôi, mâm ngũ quả tỏ ý tôn trọng cội nguồn văn hóa Việt Nam, sau đó đã đến thăm Thiên Cổ Miếu. Khi được ông Đỗ Văn Xuyền giới thiệu lịch sử ngôi đền, hệ thống giáo dục của nước ta từ thời Hùng Vương, chữ Việt cổ, sự hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ trên cơ sở chữ Việt cổ… tất cả đều không dấu được sự khâm phục. Thiên Cổ Miếu là ngôi đền thờ thầy cô giáo cổ nhất Việt Nam, đây là một minh chứng hùng hồn cho truyền thống giáo dục của dân tộc ta, một dân tộc có bốn nghìn năm văn hiến. Trần Vân Hạc. nguồn vanhac.org2 likes
-
12 con giáp gốc Việt Xưa nay như người ta vẫn lầm lẫn lần tương rằng 12 con giáp có xuất xứ từ Trung Hoa. Tuy nhiên, mới đây trong một công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Việt cổ- nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Nguyễn Cung Thông phát hiện ra nguồn gốc 12 con giáp có xuất xứ từ Việt Nam. Ngôn ngữ là “lá bùa” tổ tiên để lại Theo văn hóa Phương Đông, lịch được xác lập theo chu kỳ thay đổi đều đặn của Mặt trăng . Do đó 12 con giáp ứng với 12 giờ trong ngày, 12 tháng trong năm, 12 năm trong một giáp - đó là những nền tảng quan trọng để tính lịch và là dấu hiệu để nhận đoán về số mệnh của từng người theo cung Hoàng Đạo. Trong lịch sử, Việt Nam và Trung Hoa có một thời kỳ giao lưu văn hoá ít nhất 2000 năm. Những đợt giao lưu văn hóa cứ tiếp biến và chồng chất lên nhau khiến cho dấu hiệu nhận biết nét riêng của từng dân tộc rất khó khăn. Thêm vào đó, các tài liệu xưa không còn nhiều, nếu còn cũng chỉ trong kho thư tịch Hán cổ khiến cho việc nghiên cứu hết sức rắc rối và phức tạp. Chính điều này đã đốc thúc nhà nghiên cứu ngôn ngữ Nguyễn Cung Thông cố công đi tìm cho bằng được những bí ẩn ngôn ngữ của tổ tiên mà theo ông đó là những “lá bùa” con cháu cần tìm lời giải. Ông Thông cho biết, ông bắt đầu việc nghiên cứu tiếng Việt của mình vào những năm đầu thập niên 1970 tại nước Australia. Trong một lần nghiên cứu về nguồn gốc 12 con giáp để lần tìm cội nguồn tiếng Việt ông đã phát hiện ra một số từ Việt cổ mà người Việt đã dùng để chỉ về 12 con giáp có nguồn gốc lâu đời trước khi 12 con giáp xuất hiện ở Trung Hoa. Vào những ngày cuối năm con trâu, tại Viện Việt học ở thành phố Westminster (Califomia, Mỹ) ông đã có một buổi thuyết trình những khám phá thú vị của mình với chủ đề “Vết tích của tiếng Việt cổ trong tiếng Hán”. “Tìm hiểu về gốc của tên mười hai con giáp là một cơ hội để ta tìm về cội nguồn tiếng Việt. Tên 12 con giáp là Tý/ Tử, Sửu, Dần, Mão/ Mẹo, Thìn/ thần, Tỵ, Ngọ, Mùi/ Vị, Thân/ khôi, Dậu, Tuất, Hợi. Thoạt nhìn thì thập nhị chi trên có vẻ bắt nguồn từ Trung Quốc vì là những từ Hán Việt, nhưng khi phân tách các tiếng Việt, và thấy có những khác lạ, tôi đem so sánh trong hệ thống ngôn ngữ vay mượn thì sự thật không phải vậy” - ông Thông nói. Theo ông Thông thì tên 12 con giáp nếu đọc theo tiếng Bắc Kinh và bằng cách ghi theo phiên âm (pinyin): zi, chou, yín, mào, chén, sì, wè, wèi shèn, yòu, xù, hài … hoàn toàn không liên hệ đến cách ghi tên 12 con giáp trong tiếng Trung Quốc hiện nay. Ngay cả khi phục hồi âm Trung Quốc thời Thượng Cổ thì vẫn không tương đồng với các cách gọi tên thú vị thời trước. Như vậy nếu có một dân tộc nào đó dùng tên 12 con thú tương tự như tên 12 con giáp ngày nay thì dân tộc đó phải có liên hệ rất khăng khít với nguồn gốc tên 12 con giáp này. Từ điều này, khởi đầu cho việc nghiên cứu ông đi tìm nguyên do vì sao trong 12 con giáp của Trung Quốc, con Mèo bị thay bởi Thỏ. “Người Trung Quốc dùng thỏ thay cho mèo (biểu tượng của chi Mão/mẹo) vì trong văn hóa người Trung Quốc thỏ là một loài vật rất quan trọng và thường được ghi bằng chữ tượng hình là Thố, giọng Bắc Kinh, là từ viết bằng bộ nhân không có từ để chỉ mèo. Hầu như chỉ có dân Việt mới dùng mèo cho chi Mão: nguyên âm e hay iê là các dạng cổ hơn của a như kẻ/giả, vẽ/hoạ, xe/xa, khoe/khoa, hè/hạ, chè/trà, keo/giao, beo/ báo... Vì thế mà mèo cũng là loài vật hiện diện trong đời sống dân Việt thường xuyên hơn” - ông Thông lý giải. Thời tiền Hán, tiếng Việt không có nhiều thanh điệu như bây giờ, nên sự khác biệt về thanh điệu không có gì lạ. Trong khẩu ngữ người Việt có cách dùng “chờ một tý” hay “chờ một chút”, “đưa chút tiền”, “đưa tý tiền”... vào thời tiền Hán, các câu trên đọc như giọng Huế (ít thanh điệu hơn so với giọng Hà Nội) thì thấy chút hay chụt /chuột chính là các cách đọc của Tý sau này. Vì sao Việt Nam không giữ được “thương hiệu”? Thực tế, đã từng có nhiều công trình của nhiều tác giả cố gắng chứng minh văn hóa Trung Quốc có xuất phát từ văn hóa Việt Nam như tác giả Lê Mạnh Thát qua cuốn “Lịch sử âm nhạc Việt nam từ thời Hùng Vương đến thời kỳ Lý Nam Đế” hay tác giả Nguyễn Thiếu Dũng với cuốn “Nguồn gốc Kinh Dịch”... Hầu hết các cuốn sách này đều cho thấy chiều vay mượn văn hóa là từ phương Nam vào thời thượng cổ, chứ không phải là từ Bắc xuống Nam (cũng như các nước chung quanh) vào các đời Hán, Đường lúc văn hoá Trung Quốc cực thịnh. Tuy nhiên không tác giả nào đề cập đến nguồn gốc tên 12 con giáp, và rất ít dùng, cấu trúc của chữ Hán, Hán cô cùng các biến âm trong cách lý giải. Theo ông Thông, ngoài hai chi Tý/ Tử/ chuột, Mão/ Mẹo/mèo là dễ nhận thấy nhất thì những chi còn lại khi so sánh trong tương quan ngữ âm, ngữ nghĩa cũng đều cho ra những kết quả khá bất ngờ. Ví dụ với trường hợp của Thân là chi thứ 9 trong bản đồ Hoàng Đạo. Nếu xem cách viết chữ Thân bằng bộ điền với nét giữa dài hơn với cách viết chữ Khôn (một căn bản của Kinh Dịch có từ thời Thượng cổ) thì ta thấy bộ thổ hợp vài chữ Thân hài thanh. Đây là liên hệ trực tiếp giữa Thân và Khôn, tuy nhiên tiếng Việt cổ có chữ khôn là con khỉ (người Huế hay người xứ Nghệ hiện nay một số chỗ vẫn còn những câu cửa miệng “tuồng mặt cọp khọn” để ám chỉ những người vô tích sự, chẳng làm chẳng nên trò trống gì). Thành ra, Thân chính là khỉ, tiếng Việt cổ dù biến âm th-kh rất hiếm gặp trong tiếng Việt ngày nay nhưng nó vẫn còn dấu tích của những từ cặp đôi như thân- cận- gần, thận- cẩn (thận trọng, cẩn trọng). Tương tự với trường hợp của con Rồng. Xưa nay nhiều người vẫn cho rằng rồng là một con vật tiêu biểu cho vương quyền của phương Bắc và sau đó nó được chọn làm một trong 12 con vật có mặt trong 12 con giáp của cung Hoàng Đạo. Nhưng ít ai biết được rằng rồng thực sự là con vật chủ của người Việt cổ và ngày xưa người Việt đã có những từ ngữ riêng để nói đến rồng hay thìn. Thìn/Thần dấu tích còn lại trong giọng Bắc Kinh hiện nay chỉ còn chén - âm này có thể tương ứng với các âm trần, trầm, thần của Hán Việt. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông thì nếu phục hồi âm cổ của Thìn/ Thần là tlan (Tiếng Việt cổ - âm r chuyển thành l) và trăn, lươn (âm ts- mất đi), rắn, trình (loài cá giống con lươn), rồng/1ong (nguyên âm o thay cho a như nôm/nam, vốn bản...) và khuynh hướng đơn âm hoá để cho ra các dạng từ ghép như tlăn - thằn lằn, tlian- thuồng luồng... cho thấy vết tích của rồng trong các ngôn ngữ phương Nam. Lý giải về nguyên nhân dẫn đến việc bị “lẫn lộn” về nguồn gốc 12 con giáp, ông Thông cho rằng “Với ảnh hưởng quan trọng của nền văn hoá Trung Quốc, từ đời Hán và sau đó là Đường, Tống... với sức ép của giai cấp thống trị từ phương Bắc tên 12 con vật tổ đã từ từ được thay thế bằng hình ảnh con người, mang nặng màu sắc văn hoá Trung Hoa hơn. Từ tính chất cụ thể của các loài vật láng giềng, 12 con giáp đã trở nên trừu tượng và còn ảnh hưởng đến vận mạng con người nữa (bói toán) Tuy nhiên, cái vỏ hào nhoáng của chữ Hán, Hán Việt không thể thay đổi được nền văn hoá bình dân (khẩu ngữ) trong đời sống người Việt” Sự phát hiện mới mẻ này đã chứng minh cho sự phát triển của người Việt xưa trong cách tính lịch và làm nên một nền văn minh lúa nước rực rỡ ở phía Nam Đông Nam Á. Nguồn: gia dinh va xa hoi2 likes
-
Phan Thị Bích Hằng sẽ dừng công việc “ngoại cảm”? Thứ Năm, 28/10/2010 - 10:15 Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng tuyên bố, chị đã quyết định dừng công việc ngoại cảm, không tiếp nhận hồ sơ những cá nhân đề nghị chị tìm giúp phần mộ của người thân. Phan Thị Bích Hằng: Nghề phán không phải nghề của tôi Nhà ngoại cảm Bích Hằng đề nghị làm rõ các tin đồn ác ý Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng Theo nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, ý định này chị đã nghĩ đến từ đầu năm 2010 và chị cũng đã công bố trên một vài diễn đàn dưới dạng thông tin không chính thức. Tuy nhiên, dừng lại công việc “áp dụng khả năng ngoại cảm” đối với Phan Thị Bích Hằng không đồng nghĩa với “đoạn tuyệt” công việc tìm mộ. “Hiện nay, tôi mới giải quyết xong phần tìm mộ của các hồ sơ nhận từ năm 2008. Tôi dừng lại để có thể hoàn thành công việc tìm mộ của hơn 5.000 hồ sơ mà bà con đã tin tưởng gửi gắm. Dừng lại nghĩa là tôi sẽ không nhận thêm hồ sơ do các cá nhân nhờ giúp còn trong đời sống sau này, trên những bước đường tôi qua, nếu có duyên “gặp gỡ”, tôi vẫn sẽ “chỉ đường” để những người bị “mất mộ” người thân biết mà nhận lại”, nhà ngoại cảm Bích Hằng chia sẻ. Áp lực lớn nhất là dư luận xã hội Mở lòng trong cuộc trao đổi, chị Phan Thị Bích Hằng cho biết, áp lực lớn nhất trong suốt 21 năm là một nhà ngoại cảm với chị và với các nhà ngoại cảm có lẽ là cách nhìn nhận của dư luận xã hội. “Người ta thường đòi hỏi nhà ngoại cảm phải chính xác tuyệt đối nhưng trên thực tế thì không có gì tuyệt đối cả. Không riêng gì tôi mà rất nhiều các nhà ngoại cảm khác đã bị chỉ trích nếu chẳng may có sai sót. Chính điều đó khiến chúng tôi mất hết nhiệt huyết. Có lẽ là do họ chỉ nhìn thấy chúng tôi, gặp chúng tôi những lúc chúng tôi sạch sẽ, ăn mặc đẹp còn những khi chúng tôi khoác ba lô lên đường, lội sông, lội suối, những lúc nguy hiểm như lần tôi tìm thấy ngôi mộ liệt sĩ mà chỉ cách bẫy lợn rừng có 1m, những lần vào rừng tìm kiếm hài cốt liệt sĩ bị ong đốt suýt chết… thì dường như chẳng ai nhớ đến. Nhưng chỉ một lời nói bâng quơ trong cuộc điện thoại hỏi thăm giữa hai người bạn với nhau trong vụ xe khách bị lũ cuốn vừa qua cũng bị “nghiêm trọng hóa vấn đề”. Rồi những tin đồn về cầu Bãi Cháy, cầu Thăng Long, cầu Long Biên, tôi không nói, không phát ngôn mà cũng bị đồn thổi ầm ĩ. Trong tất cả mọi công việc đều phải có xác suất. Tôi mong rằng độc giả nên mở lòng hơn với các nhà ngoại cảm”, chị Bích Hằng tâm sự. Rất mừng nếu hết “khả năng” “Trước đây, thứ 7 nào tôi cũng tiếp dân nhưng bắt đầu từ năm 2010, tôi đã bỏ lệ đấy. Bạn thử nghĩ xem, ngày nào cũng như ngày nào, cứ 5 - 6h sáng, vừa mở mắt đã có người xếp hàng chờ ngoài cửa, chiều 16h30 - 17h về, người cũng lại xếp hàng đầy cửa. Đến 23h30 mới hết khách là chuyện bình thường. Nhiều lần tôi mệt quá đã nói người nhà ra bảo với mọi người rằng Bích Hằng hết khả năng rồi. Hồi năm 1997 khi mang thai đứa con đầu lòng, tôi đã phải viết là Phan Thị Bích Hằng hết khả năng và còn nhắn mọi người sang chỗ anh Liên (Thầy Liên - PV) nếu cần. Thực ra hết hay còn khả năng chỉ có mình tôi biết. Tôi rất thấm nhuần điều mà Khổng Tử đã rút ra: Biết bắt đầu công việc là người giỏi, biết làm việc là người tài, biết dừng lại đúng lúc là vĩ nhân. Trong lĩnh vực ngoại cảm tôi đã cống hiến hơn 20 năm rồi, chính xác là 21 năm từ khi tôi mới có 18 tuổi, cả một quãng đường dài và với một công việc luôn rất căng thẳng, phải hao tâm tổn trí rồi những áp lực... Là người có khả năng đặc biệt nhưng ngoài ra tôi cũng chỉ là một phụ nữ hoàn toàn bình thường, có bổn phận làm con, có trách nhiệm làm vợ, làm mẹ. Tôi đã từng rất thương với “ông xã”, khi ngày này qua tháng khác, tôi thì cứ ba lô lên đường đi tìm mộ liệt sĩ đến nỗi thấy 3 bố con chiều thứ 7 nào cũng đi chơi ở Công viên Thủ Lệ, một cô bán nước gần đấy đã hỏi ông xã tôi, anh bị vợ bỏ à? Hồi bố chồng tôi bị ốm, phải nằm liệt giường, vì công việc, tôi vẫn phải đi tối ngày, lúc đó chồng tôi đã nói với tôi rằng: “Anh có 2 ước mơ, thứ nhất đó là khi ngủ dậy thì bố đứng lên đi lại được. Và ước mơ thứ hai là bỗng một sáng thức dậy, em nói với anh: anh ơi, hình như em hết khả năng rồi? Đấy là ước mơ rất dung dị nhưng tôi nghĩ đã đến lúc phải sống cho giấc mơ đấy, cho bản thân mình và cho những người thân của mình nữa”, chị Bích Hằng tâm sự. Nói về lý do dẫn đến quyết định “dừng” công việc tìm mộ, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cho biết có 3 lý do khiến chị muốn dừng lại. Thứ nhất, chị muốn dừng lại để có thời gian tập trung vào công việc học hành và hoàn thành đề tài nghiên cứu về tâm linh trong tâm lý kinh doanh. Chị dự định sẽ viết một cuốn sách về những việc đã làm trong hơn 20 năm. Thứ hai nữa là do căn bệnh cột sống khiến Bích Hằng không thể suốt ngày ngồi trên ô tô để đi tìm mộ: “Hiện nay, các bác sĩ không cho phép tôi ngồi quá 45 phút và theo bác sĩ ở Viện Dân tộc Quân đội thì khí âm trong tôi quá nhiều, ngồi đâu cũng thấy lạnh mà nguyên nhân theo bác sĩ cho biết là vì tôi tiếp xúc với hài cốt nhiều”. Và lý do thứ 3 nữa theo Bích Hằng là chị muốn dừng lại để có thời gian gần gũi, chăm sóc cho chồng con nhiều hơn, thực hiện ước mơ dung dị mà chồng chị đã từng “ngỏ”. Theo Thu Hiền VTC News ====================================== Nhời bàn của Thiên Sứ: Để có một thiên tài như cô Bích Hằng hàng trăm năm mới có một người trên hàng triệu người sinh ra và chết đi ở trái Đất này. Nhưng người ta có thể cần đến cô và không cần đến cô. Không có cô, sự mất mộ là chuyện rủi ro, chuyện không may của một gia đình, một dòng tộc Đông phương có truyền thống tôn trọng tổ tiên và người đã khuất. Có cô, thì người ta tìm được mộ, người ta gặp may. Chuyện chỉ đơn giản thế thôi. Nhưng cô đã phải tự hủy diệt khả năng của mình, phải chối bỏ. Bởi vì người đời không hiểu được tại sao lại có hiện tượng như cô. Họ đặt vấn đề sai vì thiếu hiểu biết. Lần đầu tiên tôi biết sự gian khổ của cô: Cô đừng buồn. Đời là thế! Một bác sĩ giỏi, trị bệnh cứu người. Cứu xong bệnh nhân thoát chết thì cùng lắm là câu chuyện được kể cho hàng xóm và con cháu nghe với lời kính trọng. Và nếu vị bác sĩ có đến cửa hàng cháu nội của người được cứu sống thì may ra được mua giảm giá một lần. Vâng! Thế thôi. Đấy còn là may. Chưa kể những lời xầm xì nói xấu của đồng nghiệp. Cô có lúc sai. Bởi vì Thượng Đế không cho cái thế gian này tuyệt đối cô ah. Đó không phải lỗi của cô, mà là - nói một cách hình tượng: do "ý muốn của Thượng Đế". Vì chỉ có Ngài là tuyệt đối - Nhưng thế nhân muốn cái tuyệt đối. Họ muốn phán xét như Thượng Đế cô ah, mặc dù họ không có ý thưc về điều này. Xét về cá nhân thì là một sai lầm khi họ rất muốn sự tuyệt đối trong cái nhìn của họ. Nhưng xét về tổng quan thì chính vì thế mà trí tuệ con người tiến lên đi tìm chân lý. Cô quá nổi tiếng vì tài năng xuất chúng. Tất nhiên để tỏ ra hiểu biết, để khoe khoang, những kẻ tầm thường sẽ kể cái sai của cô cho người khác biết, để chứng tỏ họ hiểu được những khiếm khuyết của một thiên tài. Tối thiểu là như vậy cô ah. Họ cần đề cao họ trước những người khác bằng cách chê bai một người như cô. Vì họ chẳng có gì để khoe, nên phải chê một người như cô mới gây được sự chú ý của những người xung quanh họ cô ah. Đời nó thế! Đầy ra cả đấy cô ah. Cô hơi đâu mà buồn. Nếu cô cảm nhận được đây là cảm hứng của cô, là trách nhiệm của cô trước cuộc đời, cô cứ làm. Còn thế nhân nói ra nói vào thì đó là "chuyện thường ngày ở Huyện" mà. Cô quên đi cô ah. Mặc dù chỉ gặp cô một lần và cũng không nói gì được nhiều. Nhưng tôi rất quý cô. Với tôi cô là một thiên tài thể hiện tài năng của mình bằng những thực tại khách quan. Cô nói vậy, chứ tôi tin rằng cô vẫn sẽ giúp đỡ mọi người. Không cần đến 70% đâu cô ah. Chỉ cần 1 trong 10 cũng đủ để những nhà khoa học thật sự và nghiêm túc phải suy ngẫm về khả năng con người. Ở đây không phải là phép tính xác xuất. Mà là một chuỗi những hiện tượng chứng tỏ một khả năng của con người của 1 lần trong 10 lần đó. Đức Phật nói: "Nguyên nhân của sự khổ trên thế gian chính là Tham Sân Si". Vài lời tâm sự với cô.1 like
-
Mỗi người trong chúng ta là một vị y sĩ : Đức Phật Dược Sư và Nghiệp chữa bệnh Trong truyền thống Phật giáo, vị thầy chữa bệnh nguyên thủy và đầu tiên là đức Phật. Thường được gọi là Đức Phật Dược Sư, chính đức Phật Dược Sư đã tiết lộ các bài pháp thiêng liêng được gói ghém trong những bài kinh được gọi là Tứ Mật Y Kinh (Four Medical Tantras). Một nhà cố vấn về thời trang thẩm mỹ bị bệnh ung thư. Đây là cách mà bà ta sử dụng để làm giảm nỗi đau : Bà ta gửi một tin nhắn đến người bạn đang là học viên ở Viện Vajrapani ở California, để hỏi về cách thực tập chữa bệnh. Bà được người bạn chỉ dẫn nên mua lại các sinh vật sắp sửa bị giết và phóng sanh chúng ở một nơi an toàn, giúp cho chúng có thể sống lâu hơn. Người phụ nữ dễ thương nầy đã cứu rất nhiều súc vật sắp sửa bị giết. Bà đã phóng sanh hai hoặc ba ngàn con vật, đa số là gà, cá, và giun trùng. Bà đem gà đến một nông trại gia súc, và thả cá xuống sông. Bà mua hai ngàn con trùng vì chúng rẻ và dễ tìm, và bà thả trùng trong khu vườn của bà. Phóng sanh trùng là một ý rất hay vì trùng khi được thả ra sẽ lẹ làng chui xuống đất. Chúng sống trong khu vườn nhà thì không bị sát hại bởi các sinh vật khác và như vậy chúng sẽ sống lâu hơn. Các con vật khác được phóng sanh trong rừng, hồ, hoặc biển không chắc sẽ sống lâu hơn vì chúng luôn có những kẻ thù trong thiên nhiên. Nghe nói rằng sau khi đã thực tập phóng sanh, bà ấy vào nhà thương để chẩn đoán lại, và các bác sĩ đã không tìm thấy dấu vết nào của căn bệnh ung thư . Thật hay giả, chuyện nầy cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với những ai tin tưởng thuyết nghiệp quả. Đây là những lời của ông Deepak Chopra : « Không có món nợ nào trong vũ trụ mà không phải trả. Vũ trụ có một hệ thống tính toán sổ sách rất hoàn hảo, và tất cả mọi thứ là sự trao đổi tới lui. » Như vậy, nhờ giúp đỡ sinh mạng các con vật yếu đuối, người phụ nữ đã xác định niềm tin của bà trong tính xác thật của luật nhân quả, gọi là « nghiệp vừa là hành động vưà là kết quả của hành động đó. » Hành động của bà không phải là ảo thuật hay phép lạ mà là gieo trồng những hạt giống thích hợp để chúng đơm hoa kết trái thành sức khỏe và niềm hạnh phúc. Thật vậy, nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc trong cuộc sống, chúng ta phải học gieo trồng các hạt giống hạnh phúc cho người khác. Cũng như với các thực tập của người Phật tử thông thường, kết quả mà một người đang nhận lãnh là nghiệp của quá khứ. Tất cả mọi thứ đang xảy ra vào lúc nầy là kết quả của những hành động mà ta đã làm trước đó. Đây là một minh họa cho thành ngữ « gieo nhân nào gặt quả nấy » . Nếu chúng ta có lòng từ bi và tử tế, chúng ta sẽ luôn luôn không có ý gây tổn hại đến người khác, và việc nầy chính nó đã là một phương pháp chữa bệnh. Theo niềm tin Phật giáo, một người có từ tâm là vị thầy chữa bệnh thần kỳ nhất, không những chỉ chữa lành bệnh hay giải quyết được các nan đề cho chính họ, mà còn là vị thầy chữa bệnh cho những người khác. Đa số chúng ta đều xác nhận rằng trong nhà thương, nơi căn bệnh đang hoành hành và bệnh nhân đang chịu đựng nỗi đau, với nụ cười thân thiện và lời khích lệ của vị y sĩ, bệnh nhân sẽ đỡ đau và mau khỏe hơn. Thật ra chính là do tình thương mà bệnh được chữa lành. Một khi tình thương được lan tỏa ra từ nơi sâu thẳm của một người, chính tình thương yêu đã tạo nên sức khỏe tốt. Trong truyền thống Phật giáo, vị thầy chữa bệnh nguyên thủy và đầu tiên là đức Phật. Thường được gọi là Đức Phật Dược Sư, chính đức Phật Dược Sư đã tiết lộ các bài pháp thiêng liêng được gói ghém trong những bài kinh được gọi là Tứ Mật Y Kinh (Four Medical Tantras). Tất cả y thuật của Phật giáo đều bắt nguồn từ bộ kinh thiêng liêng nầy. Như đã giải thích trong bài đầu tiên của các bài kinh nầy, đức Phật Dược Sư một lần đã ngồi thiền định, và xung quanh các vị đệ tử gồm có các vị y sĩ, các vị thông thái, thiên vương và các vị Bố Tát, tất cả đều ước muốn học hỏi về phương pháp chữa bệnh. Tất cả đều lặng người bởi hào quang sáng rỡ trang nghiêm của đức Phật, mà không dám mở lời. Biết được nguyện vọng của họ, đức Phật Dược Sư đã phát ra hai ánh hào quang, ánh hào quang thứ nhất là lời thỉnh cầu học pháp, và ánh hào quang thứ hai giảng giải về pháp nầy. Nhờ vậy, bài kinh nầy được nói ra, và đức Phật Dược Sư giải thích những chứng bệnh khác nhau về thân cũng như tâm, giảng về nguyên nhân của chúng, sự chẩn đoán bệnh tình, và cách chữa trị. Mặt khác, đức Phật hiểu rõ nguyện vọng của các đệ tử mà không cần họ phải nói ra, việc nầy cho thấy lòng từ bi vô hạn của đức Phật đối với các đệ tử. Thật vậy, các thầy chữa bệnh như đức Phật được gọi là những vị đại y sĩ không những chỉ vì khả năng chữa lành bệnh – mà còn là vì lòng từ bi và trí tuệ để chẩn đoán và chữa trị tận gốc rễ của căn bệnh, dù là thân bệnh hay tâm bệnh. Trong nghệ thuật tranh ảnh, hình đức Phật Dược Sư được vẽ với màu vàng hoàng kim, dù các đặc điểm khác vẫn là màu xanh dương. Trong bất cứ hình ảnh nào, bàn tay trái của đức Phật Dược Sư đều để trên đùi trong tư thế bắt ấn của thiền định, với một cái bát bằng sắt. Tay phải ngửa lên, như đang ban phát, một cử chỉ thể hiện sự rộng lượng, một nhánh myrobalan (một loại thảo dược trong y học Tây Tạng). Đây là một loại trái cây có thể chữa bệnh rất phổ biến trong y học Tây Tạng và ở đây là biểu tượng của sự phục hồi mạnh mẽ của thế giới thực vật, nhắc nhở chúng ta là trái đất cung cấp miễn phí cho chúng ta, và không đòi hỏi gì hơn là gìn giữ sự mầu mỡ của nó với sự chăm sóc nhẹ nhàng, nâng niu. Tuy nhiên, y học Phật giáo chỉ áp dụng thuốc men một cách có giới hạn. Việc sử dụng thuốc chỉ được áp dụng vừa phải để chữa các triệu chứng ngoại tại của căn bệnh. Việc chữa trị căn bệnh cho con người tận gốc rễ cần phải nương vào sự chứng ngộ tâm linh, mỗi người chúng ta đều có thể tự chữa trị bằng cách nầy. Đức Phật Dược sư thường được vẽ với đủ loại dược thảo thơm tho bao quanh, trong y dược Tây Tạng, với vô số thiên vương, và Bố Tát. Hình vẽ như thế nầy được gọi là « Thiên đàng của đức Dược Sư » . Thiên đàng nầy tượng trưng cho một vũ trụ lý tưởng, nơi tất cả các thuốc giải cho mỗi chứng bệnh đều hiện hữu. Đức Phật Dược Sư cũng đã nói như sau, « Bao nhiêu chúng sinh hiện hữu trong hệ thống thế giới, đều có một con đường giải thoát. » Theo lời Romio Shrestha « « Đức Phật Dược Sư là nhà bào chế thuốc tâm linh. Để khám phá ra sức mạnh chữa bệnh tiềm tàng ngay trong con người chúng ta, là lối vào thiên đàng của « Bậc thầy về thuốc giải. » . Cũng có nghĩa là thiên đàng nầy nằm ngay trong lòng mỗi chúng ta, chỉ cần tâm thức sáng suốt để nhận diện và sử dụng nó. Romio Shrestha còn nói thêm, « Thân thể chúng ta có khả năng tự chữa bất cứ căn bệnh nào. Mỗi một cây, mỗi một dược thảo, mỗi thuốc giải đều có vật bổ sung của nó nằm trong cốt lõi tinh tế của thân thể con người. » Chúng ta không những có khả năng chữa trị cho chính bản thân, mà còn có thể chữa bệnh cho những người xung quanh chúng ta như câu chuyện sau đây : Ngày xưa đó, có một tăng sĩ sống trong một làng nhỏ ở Tây Tạng. Ông ta rất là tầm thường, và hằng ngày chăm lo nhiệm vụ tu sĩ của mình. Năm đó làng xảy ra một cơn dịch đậu mùa, giết chết vô số người trong vùng, vị tăng sĩ cũng bị đậu mùa và chết đi. Đó là vào giữa mùa đông, mặt đất bị đóng băng và củi thì khan hiếm, vì vậy xác của vị ấy được khiêng thả xuống một cái hồ đang đóng băng. Một thời gian sau đó, cơn dịch đậu mùa chấm dứt. Vào mùa xuân, mặt băng tan đi, và người ta nhận thấy một cầu vòng phía trên mặt hồ nơi họ thả xuống xác của vị tu sĩ. Người ta liền đến nơi đó và thấy xác của vị tu sĩ đang nổi lên, hoàn toàn nguyên vẹn. Xác của ông được đưa về tu viện và được làm lễ hỏa táng theo nghi thức tăng sĩ. Khi xác thân của ông biến mất trong ngọn lửa, nơi dàn hỏa xuất hiện nhiều cầu vồng bay thẳng lên bầu trời, sau đó người ta tìm được các xá lợi trong đống tro tàn. Lúc ấy, mọi người đồng công nhận vị tăng sĩ là một người xuất chúng trong cái vỏ ngoài rất « tầm thường », và người ta khen tặng ông đã nhận lãnh căn bệnh hiểm nguy để thanh tịnh hóa các nghiệp xấu tạo nên cơn dịch. Trong Phật giáo Tây Tạng, bệnh hoạn có thể là một biểu hiện của sự thành công về mặt tâm linh, và sự hy sinh chính mình để cứu những người khác. Một người mẹ có thể hiểu được điều nầy, bà mẹ có thể cho đi sự sống của mình để nuôi nấng các con. Thật như vậy có thể chứng minh sự ép xác, khổ hạnh là đúng, xem bệnh hoạn như một cây chổi quét sạch hết nghiệp xấu, và như vậy chứng tỏ con đường tâm linh cao nhất để thanh tịnh hóa bản thân là sự chịu đựng khổ hạnh. Một người tầm thường có khả năng trị bệnh xuất phàm. Khả năng nầy chỉ đạt được khi chúng ta chấp nhận về mình sự đau khổ của kẻ khác, chịu đau khổ như kẻ khác, bằng cảm nhận lấy nỗi khổ của họ. Trau dồi những cảm giác tương thông nầy sẽ làm tăng trưởng lòng từ bi, sự xót thương. Chỉ có như vậy mới có thể huy động được năng lực chữa bệnh không giới hạn đã tìm tàng sâu thẳm trong tâm thức vô biên của chúng ta. Thật sự bệnh tật và đau khổ được xem là cách giải thoát đặc thù, cho ta cơ hội để trải nghiệm sự liên hệ chặt chẽ giữa ta và những chúng sinh khác, và cho ta thấy rõ bản chất tử vong của kiếp con người. Có một câu chuyện về một vị trụ trì thiền viện đã đạt được năng lực chữa bệnh bằng lòng từ bi. Một ngày trong khi ông ta đang dạy dỗ đệ tử, bất thần ông ta la đau. Khi các đại sư hỏi ông bị gì, ông nói rằng có một con chó đang bị đánh đập bên ngoài. Khi họ ra ngoài, họ nhìn thấy một người đàn ông đang giận dữ và dùng gậy để đánh một con chó. Khi người đàn ông được gọi vào bên trong thiền viện, vị trù trì kéo áo xuống cho ông ta thấy những vết bầm và cắt trên lưng đúng ngay chỗ con chó bị đánh đập. Đây là tính chất hợp nhất mà một vị thầy chữa bệnh lý tưởng cần phải có. Truyền thống Phật giáo nhận diện Đức Dược Sư là vị thầy chữa bệnh lý tưởng, và nhấn mạnh rằng năng lực chữa bệnh mạnh mẽ nhất nằm trong lòng chúng ta. Theo ông Deepak Chopra "Chúng ta có một dược phòng nội tại thật sự thanh nhã. Dược phòng nầy chế tạo thuốc có hiệu quả trong thời gian với mục tiêu chính xác về bộ phận được chữa trị, và không bị ảnh hưởng phụ của thuốc.." Như vậy, chúng ta hiểu rằng đức Phật Dược Sư đang ở trong lòng mỗi chúng ta. Con đường đi đến giải thoát phải xuyên qua việc thiền định, đặc biệt là thiền định mường tượng. Bằng cách thiền về đức Dược Sư và mường tượng về Ngài trước mặt chúng ta, chúng ta có thể đối diện với đức Phật Dược Sư, và trông thấy được nụ cười từ bi sáng rỡ đối với vũ trụ, và cặp mắt hiền dịu đầy ắp tình thương yêu đối với tất cả chúng sinh. Kế đó, từ nơi trái tim đức Phật phóng ra một luồng hào quang sáng chói và làn ánh sáng nầy ngấm dần vào trái tim của chúng ta một cách dịu dàng. (Trái tim ở đây có nghĩa là « trung tâm » - cốt lõi của bản chất nằm ngay trọng tâm ngực của chúng ta, không phải chỉ là một cơ cấu máy móc vật chất chỉ để bơm máu). Trọng tâm nầy được định nghĩa như sau : "Ngay trong bản thân anh, đã có sự tĩnh lặng và một ngôi đền thiêng liêng mà anh có thể lui vào bất cứ lúc nào để nghỉ ngơi và yên tịnh một mình. Ngôi đền thiêng liêng nầy chính là nhận thức đơn giản về sự tiện nghi không bị bất cứ rối loạn nào có thể xâm phạm được. Nơi đây không có sự sợ hãi và không có đau thương. Một thiền sinh cần phải tìm ra không gian tâm thức nầy để có thể chữa được các bệnh." --- Deepak Chopra Chứng nghiệm nầy đến với chúng ta như một ánh chớp sáng suốt, và đây không phải bằng lời nói, hoặc bằng ngôn ngữ học. Đây là cảm giác thật bất ngờ, một sự hiểu biết tự do, khi mà chúng ta trải nghiệm chân lý không cần từ ngữ. Chân lý lọc qua từ ngữ sẽ bị gò bó, bởi vì chúng ta cần một thời gian nhất định để chuyên chú về ý nghĩa của nó. Xuyên qua trải nghiệm biểu tượng và sáng tạo tâm linh mà những chúng sinh « tầm thường » được chuyển hóa để trở thành những vị thầy chữa bệnh xuất chúng. Đây là cách giao tiếp với đức Phật Dược Sư, vị y sĩ chữa bệnh vĩ đại nhất. Cũng vì vậy các y sĩ tin tưởng vào những lý tưởng nói trên sẽ thực tập thiền định và cầu khẩn đức Phật Dược Sư trước khi ra toa xắt thuốc, và trước khi đưa cho bệnh nhân sử dụng. Khi bắt đầu làm những công việc nầy, họ đọc thần chú của đức Dược Sư. Câu thần chú ấy là OM BEKANDZE BEKHANDZE MAHA BEKANDZE RANDZE SAUNGATE SOHA. Khi đọc thần chú thiêng liêng nầy, họ tưởng tượng đến hình ảnh mật hoa rơi xuống, từ những âm tiết của thần chú, rớt vào chén thuốc. Những âm tiết nầy hoàn toàn tan hòa vào chén thuốc và làm cho thuốc ấy trở nên có hiệu lực và có khả năng trị bệnh. Biểu tượng hành động nầy nhắm vào sự thực hành và các âm tiết thiêng liêng đã tạo nên câu thần chú, làm cho chén thuốc có khả năng trị bệnh, cũng như vậy, do ý thức được việc bước đi trên con đường nghiệp đúng đắn, chúng ta có thể thấm nhuần cuộc sống của chúng ta với mật hoa chảy ra từ những hành động tốt đẹp xuyên qua việc trau dồi phẩm hạnh1 like
-
1 like
-
Đố Trà
Thiên Phú liked a post in a topic by wildlavender
Đố Trà. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi khi cụ tôi cùng các bạn đồng niên uống trà, tôi chỉ dám đứng xa nhìn với một sự tò mò lạ lẫm. Cái cách pha trà, thưởng trà toát lên vẻ cao sang lịch lãm đến mức thánh thiện. Bên bàn trà các cụ luận về cách thưởng trà, bàn bạc về thế sự… Có một lần cụ đồ Hân trong lúc cao hứng đã kể một câu chuyện về nghệ thuật thưởng trà, khiến các cụ cứ gật gù tán thưởng mãi. Cụ đồ Hân nhấp một chén trà, khoan thai vuốt chòm râu dài trắng như cước rồi nói: - Hôm nay đầu xuân năm mới, tôi xin kể hầu các cụ một chuyện vui mà tôi có duyên may là người trong cuộc. Mùa xuân năm ấy, khi đến thăm người bạn cố tri ở Sơn Tây, bạn tôi là người sành trà có tiếng. Nhưng có cái lạ là ông chỉ uống trà ta chứ không dùng trà tàu như mọi người lúc ấy. Ông cụ lại có biệt tài ướp hương cho trà. Trong nhà ông lúc nào cũng có trà ướp hương sen, nhài, cúc, ngâu… Ông cho rằng thưởng trà ướp hương chính là được thưởng thức cái tinh túy của trà và hương hoa làm cho tinh thần nhẹ nhàng thư thái, gần với sự thoát tục hơn. Hôm ấy ông cụ mời hai người bạn nữa tới cùng chúng tôi thưởng trà và đàm đạo. Sau khi tự tay quạt than, đun nước, pha trà, cụ chủ nhà hóm hỉnh nói: Thưa các cụ, ngày xuân, lại may mắn có bạn cố tri đến chơi, kẻ hèn này xin mời các cụ thưởng thức chén trà do tự tay tôi chọn lựa và sao ướp. Vẫn biết các cụ là những người sành trà, nhưng cho phép tôi được đố vui một chút. Xin các cụ cho biết trà được ướp bằng hương hoa nào vậy. Chúng tôi nhìn nhau ngỡ ngàng rồi cúi đầu lĩnh ý chủ nhà, Đến lúc ấy cụ chủ nhà mới nhẹ nhàng lật từng chiếc chén cổ men rạn vẫn úp trên đĩa rồi nhẹ tay rót trà, một mùi hương nhẹ nhàng lan tỏa khắp phòng. Chờ mọi người cạn tuần trà đầu tiên, cụ chủ nhà mời tôi cho ý kiến. Không ngần ngại tôi nói ngay: - Thưa các cụ, trà này được ướp hương sen, chỉ có điều hương sen này tinh diệu chưa từng thấy. Tôi vừa dứt lời, cụ thứ hai đã mỉm cười nói: - Thưa các cụ, theo ngu ý của tôi thì đây đích thị là hương ngâu, cái thứ hương hoa dân dã mà không kém phần cao sang ấy thực không thể nào lầm được. Cụ thứ ba lắc đầu: - Xin lỗi các cụ, theo thiển ý của tôi thì đây là hương cúc, tôi đã được thưởng thức nhiều lần nên quyết không lầm được, Xưa vua chúa cũng hay dùng loại này, tỉnh thần và sáng mắt lắm các cụ ạ. Chúng tôi bối rối nhìn nhau, cả đời thưởng trà mà chỉ một ấm trà mà mỗi người một ý. Lúc ấy cụ chủ nhà mới vui vẻ gỡ rối: - Thưa các cụ, các cụ đều là những người sành trà cả. Chỉ có điều kẻ hèn này đã dùng một mẹo nhỏ khác với cách ướp hương thông thường, nên nhất thời làm cho các cụ bối rối, ngàn lần xin được tạ lỗi cùng các cụ. Từ chiều hôm qua tôi đã cho người nhà lấy hoa sen, ngâu, cúc đặt vào đĩa, úp chén lên rồi hâm nóng đĩa. Hương hoa tỏa ra và được chiếc chén giam hãm. Hôm nay rót trà vào là đã có mùi hương như ý đấy ạ. Chúng tôi cùng ồ lên thán phục. St.1 like -
Quí vị và anh chị em thân mến. Theo chương trình thì sáng 31. 10 Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương sẽ đi Hà Tĩnh để góp phần phụ giúp đồng bào miến Trung đang gặp thiên tai. Dự kiến: - Cty An phát góp hơn 100 bộ quần áo cũ và 4. 000. 000 đ. - Cty An Phát tài trợ xe tải chở hàng và xe con chở đoàn. - VPDD Trung tâm nghiên cứu Văn Hóa Lạc Việt góp khoảng 100 kg sách giáo khoa cũ. ============================= Hôm nay - Trần Anh đóng góp 1.000. 000 đ cho quỹ từ thiện có mục đích cho bà mẹ nuôi 10 đưa con điên. Tôi đã nhận trực tiếp. Tổng số quỹ hiện có là 26. 000. 000 đ.1 like
-
1 like
-
Tai nạn: Sập, cháy, nổ...... ====================================== 65 người chết tại đám cưới Afghanistan Thứ Năm, 28/10/2010, 09:20 (GMT+7) TTO - Khi đang chúc mừng cô dâu chú rể, 65 người ở huyện Jelga, thuộc tỉnh Baghlan hẻo lánh tại Afghanistan, đã thiệt mạng vì trần nhà đổ ụp xuống, trong đó có 12 trẻ em, một người đàn ông và đa số còn lại là phụ nữ. Ngoài ra còn có 40 người khác bị thương. Theo nghi thức truyền thống, đàn ông và đàn bà có những phần việc riêng biệt trong một đám cưới và do đó họ không đứng xen nhau. Ngôi nhà bằng gạch đất ở vùng nông thôn Afghanistan - Ảnh minh họa: Thewe. Hãng tin AP cho hay những vị khách này đang tụ tập ở tầng trên cùng của ngôi nhà xây bằng gạch đất và giằng bằng xà gỗ. “Trong các vùng nông thôn, do điều kiện kinh tế khó khăn, người dân không xây được những ngôi nhà vững chãi”, tỉnh trưởng Abdul Majid cho biết. Bác sĩ Salim Rasouli phụ trách y tế ở địa phương cho hay tai nạn xảy ra vào buổi chiều tối nhưng vì đường sá xa xôi và nguy hiểm, việc cấp cứu gặp rất nhiều khó khăn. Cảnh sát đã cử vài ô tô đến để trợ giúp. Tuy nhiên, để đi đến bệnh viện, họ phải mất vài tiếng đồng hồ và hành trình trên đường gian khổ như một cuộc hành xác. PHAN ANH1 like
-
Hải đoán chính xác lắm. Thế là giỏi rồi. Hầu hết những áp thấp ở Đông Phi luật Tân đều đổ bộ vào đất liền và vào biển Đông Việt Nam. Vậy mà đoán nó đi ngược lên trên thì thật là táo bạo, mà lại đúng mới hay chứ. Cà Phi lẫn Việt đều trải qua hai cơn lũ, bão khủng khiếp. Nếu bão vào nữa thì rất phiền. Cảm ơn Hải có sáng kiến mở topic này. Mong quí vị và anh chị em quan tâm ủng hộ tham gia cung cấp thông tin và dự báo.1 like
-
Như vậy là ông thày này không nhất quán rồi! Luận tuổi là luận tuổi, còn xem tướng lại là một hệ quy chiếu khác với phương pháp luận đặc thù của nó.Nếu nói như ông ta cũng được. Vậy thì nên nói với mẹ chủ rể yêu cầu ông ta phân tích tướng pháp 5 cặp Quí Hợi - Ất Sửu lấy nhau chết so với con trai bà ấy và người yêu của nó. Nói với ông ta là Thiên Sứ nhắn lại: Ông cha ta có câu: "Kẻ nào chửi gió, mắng mưa. Thác xuống Âm Phủ lấy cưa xẻ đầu". "Kẻ nào rẽ thúy chia uyên. Thác xuống Cửu Tuyền móc ruột chim ăn".1 like
-
Trong lá số nói nên theo ngành nào có tính di chuyển, nghĩ ngành vận tải biển rất thích hợp với em. Sau lấy chồng xa xứ, chồng có thể là người nước ngoài hoặc 2 dòng máu. Vợ chồng thường li cách nhau do công việc. Vợ chồng tài giỏi. Năm nay sức khỏe cha mẹ có phần giảm sút, bản thân cũng vậy, có thể dính líu đến hình luật. Hạn năm sau thì nhờ Bác Haithenha xem đi nhé. Nếu chưa có người iu thi 2năm sau sẽ có người iu1 like
-
Một Vài Ý Kiến
thanhdc liked a post in a topic by Vo Truoc
Nhật Tâm thân mến! Nhật Tâm quá lời rồi. Nhưng nếu Nhật Tâm có hứng thú, tôi xin có đôi lời vì sao tôi thấy buồn. Trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, một người còn trẻ tuổi, được đào tạo tốt, có hoài bão và nhiệt tình với học thuật cũng như với văn hóa dân tộc, và bước đầu cũng có những kết quả nghiên cứu độc lập (chưa bàn đúng sai) như Nhật Tâm thật không nhiều. Tiếc rằng, hỏa hầu chưa đủ nên có những suy nghĩ thoái bộ, giảm đi chí khí một cách quá dễ dàng. Tôi buồn vì lý do đó. Nhật Tâm nên đọc “Phật học tinh hoa” của Nguyễn Duy Cần, chương thứ II - Những điều kiện tinh thần của người học Phật (Nhà xuất bản Tp Hồ Chí Minh). Tôi cho rằng sẽ bổ ích nhiều cho Nhật Tâm. Có một vài câu trong đó, tôi xin trích để nhật tâm suy ngẫm: - “ Theo nhà Phật thì không nên núp theo bóng ai để cầu Đạo là vì “chỉ có những hiểu biết do chính mình tìm ra mới thật là hiểu biết mà thôi”. Theo ý kiến kẻ khác mà làm chỉ là núp theo bóng kẻ khác mà sống thì không sao giải thoát được mình” - “ Người học Phật phải có tinh thần tự do, không nên lệ thuộc nơi một kinh sách nào, là vì sự giải thoát phải do nơi mình, chứ không do ân huệ của ai ban cho mình được cả, dù là những bậc Thần thánh, Tiên phật … Và muốn được vậy phải có óc hoài nghi”. - “ Phật học đầu tiên là một cái học phá trừ Kiến chấp”. - “ Thật ra, đi tìm để biết cái ý kiến này hay ý kiến kia do ai viết ra hay nói ra không phải là điều quan trọng đối với kẻ tìm chân lý. Quan tâm đến người nói sẽ là một chướng ngại cho sự hiểu biết khách quan vì cái tên tuổi của người nói dễ ám thị óc phán đoán của mình thành thiên lệch”. - “ Đức tin chỉ có là sau khi đã tự mình nhận thức rõ ràng” -“ Người học Phật cũng không nên để mình bị “ràng buộc”, “ bị mắc” vào đâu cả, dù là đối với chân lý”. Huống chi ngày nay, không mấy người hiểu được học thuyết ADNH cho rõ ràng, còn có ai vỗ ngực cho là mình biết thì cũng mới chỉ dừng ở mức … vỗ ngực! Một học thuyết hàng mấy ngàn năm bao lớp người tài trí cần mẫn, bền bỉ nghiên cứu mà vẫn … tù mù như thế thì phải có lý do nào đó. Có thể giải thích như thế nào đây? Có người cho rằng vì nó quá tinh tế, quá khó thì thật vô lý, bỏi vì, nó do con người nghĩ ra từ hàng ngàn năm trước trong điều kiện vô cùng hạn chế. Không lẽ con người càng về sau càng ngu đần đi ư? Chúng ta chắc chắn phải được di truyền trí thông minh của Tổ tiên chứ, hơn nữa, điều kiện vật chất, xã hội của chúng ta thuận lợi hơn rất nhiều mà (xin nói rõ, học thuyết ADNH không phải là lĩnh vực tâm linh). Cách đây không lâu, số người hiểu được thuyết tương đối trên thế giới chỉ đếm trên đầu ngón tay, mà nay, nó là môn bắt buộc cho sinh viên các trường đại học KH tự nhiên. Thực ra học thuyết ADNH không có gì là cao siêu khó hiểu hay thâm trầm huyền ảo cả. Nó cũng như mọi môn học khác do con người nghĩ ra và lĩnh hội được, tuy có những đặc điểm riêng. Chỉ tiếc rằng nó không được viết ra một cách tường minh như thuyết tương đối, nếu không, nó sẽ là môn học mà mọi học sinh trung học bắt buộc phải nắm vững. Vì sao lại có tình trạng này? Đó là vì lý do lịch sử. Trong xã hội Việt cổ, chủ nhân học thuyết ADNH xưa kia, do tầm cao của học thuyết và cuộc sống vật chất còn ít ỏi bấy giờ, học thuyết ADNH chỉ được giới trí thức và quí tộc nắm vững lý thuyết căn đế một cách hệ thống (cũng như ngày nay, những thuyết tương đối, lượng tử, siêu dây, … chỉ được hiểu rõ trong giới khoa học bậc cao). Người dân thường chỉ nắm được những ứng dụng thiết thực của học thuyết ADNH trong cuộc sống hàng ngày (giống như ta xài máy vi tính vậy). Khi người du mục Hán tộc, có trình độ văn minh xã hội kém hơn nhưng khả năng chiến đấu cao hơn do sinh ra và lớn lên trên mình ngựa, với sự thèm khát cuộc sống sung túc trên cơ sở văn minh lúa nước của Việt tộc thúc đẩy, họ xâm lăng và dần dần chiếm hầu hết đất của người Việt. Trên vùng đất bị xâm lăng, những người trí thức bất hợp tác với quân xâm lược rút về ở ẩn. Không muốn tri thức vô giá của Tổ tiên rơi vào tay kẻ xâm lược, họ chỉ truyền dạy cho các đệ tử thân tín và trong gia tộc. Tuy nhiên, quá trình thẩm thấu những tri thức đó tới kẻ thù vẫn diễn ra làm cho phạm vi truyền dạy dần dần thu hẹp đến mức bí truyền. Sách vở ngày càng ít ỏi hiếm hoi. Về phía quân xâm lược, sau thời gian kiêu ngạo trên chiến thắng, phải quản lý một xã hội rộng lớn, chúng dần hiểu rằng, sức mạnh bạo tàn không đủ điều hành xã hội mà phải cần có tri thức. Sống chung lâu ngày với người Việt, ban đầu khinh khi, nhưng dần dần chúng thấy kiến thức của họ thật đáng kinh ngạc và chính là cái chúng cần. Chúng bắt đầu tìm hiểu, thu nhặt, cầu những người ẩn dật chia sẻ kiến thức của mình. Tiếc rằng quá muộn rồi. Bí truyền đã dẫn tới thất truyền! Tuy thất truyền những nguyên lý căn đế, nhưng những ứng dụng của học thuyết ADNH vẫn đầy rẫy trong dân gian. Các nhà trí thức mới Hán tộc bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu, viết sách trên cơ sở những ứng dụng và những mảnh vụn lý thuyết ADNH rơi vãi đó và tự nhận rằng, đó là văn minh Hán tộc. Tuy nhiên, do thất truyền, họ không sao sở đắc được những nguyên lý căn đế của học thuyết ADNH chân chính nên không thể nào phát triển được học thuyết này, dù hàng mấy ngàn năm, những bộ óc thông minh nhất của họ bền bỉ hết đời này đến đời kia miệt mài nghiên cứu. Thay vào đó, họ viết ra hàng núi sách theo cách hiểu chủ quan của mình. Nhưng do sai lầm về những nguyên lý căn đế nên càng viết nhiều bao nhiêu, học thuyết ADNH càng tù mù bấy nhiêu! Chỉ lâu lâu, một vài quyển sách của các cao nhân Việt còn sót lại phát lộ, lập tức phát huy hiệu quả, đưa một vài người may mắn có được sách đó vào hàng vĩ nhân (Trương Lương, Trần Đoàn, Thiệu Khang Tiết,…) và một trào lưu nghiên cứu ADNH mới ra đời. Nhưng những sách đó cũng chưa phải viết là sách viết về những nguyên lý căn đế, cho nên, sau một thời rầm rộ, tù mù vẫn hoàn tù mù!!! Để thanh minh cho sự kém cỏi, nghèo nàn sau hàng thiên nhiên kỷ nghiên cứu, có tình che dấu sự thực lịch sử ăn cướp và tráo đổi văn minh, những luận điệu bào chữa, ngụy biện được đưa ra về sự cao siêu, thần bí của học thuyết ADNH. Tuy được không ít những người có đầu óc nô lệ tin theo, nhưng những người sáng suốt, biện chứng, tôn trọng sự thực khách quan không dễ tin vào điều đó. Tôi cũng như Nhật Tâm vốn được đào tạo Tây học. Trước kia, tôi không quan tâm nhiều tới học thuyết ADNH vì thấy nó lộn xộn, tù mù, không thuyết phục qua đống sách mà người Hán viết ra. Tôi chỉ quan tâm đến phần triết của nó qua những chiêm nghiệm của mình với sự giúp sức của Phật học. Nhưng tình cờ, tôi được đọc những trước tác của anh Thiên Sứ và sau đó của nhiều người khác nữa, tôi mới hiểu ra rằng, học thuyết ADNH là di sản của Tổ tiên mình và đã bị tàn phá, tráo đổi như thế nào. Những trước tác của cổ nhân Hán tộc về học thuyết ADNH tuy ghi nhận được nhiều những mảnh vỡ học thuyết ADNH nhưng chứa những sai lầm căn đế chứ không phải khuôn vàng thước ngọc, dù hàng núi sách cũng thế mà thôi. Chúng ta ai cũng có thể độc lập nghiên cứu học thuyết ADNH và sách cổ chỉ nên dùng tham khảo, đối chiếu, gợi mở tư duy chứ không thể là kim chỉ nam, dù cho tác giả là ông nào cũng vậy. Cái gì mâu thuẫn với logic khách quan hoàn toàn có thể vứt bỏ. Cái gì giúp cho sáng tỏ học thuyết ADNH cứ việc đưa vào một cách tự nhiên. Chìa khóa cho những khúc mắc khi nghiên cứu nằm trong di sản văn hóa Việt. Bắt đầu nghiên cứu phải bằng một ý tưởng có tính đột phá, tổng quát. Những nguyên tắc đó rất thuận lợi đối với những ai đã thấm nhuần Tây học. Thật kỳ lạ, việc nghiên cứu thuận lợi như thế chẻ tre và tôi đang tiếp tục một cách vô cùng hứng thú. Tôi tuy tin tưởng vào những nghiên cứu của mình, nhưng cũng có thể tôi chưa đúng. Phục hưng văn hóa Việt thông qua phục hồi học thuyết ADNH là sự nghiệp khó khăn, lâu dài, bền bỉ của tất cả những đứa con Lạc cháu Hồng. Mỗi người một tay, mỗi ngày một tý, tôi tin rằng, chúng ta sẽ thành công. Vì vậy, khi Nhật Tâm thối chí nản lòng vì những lý do vớ vẩn như thế, tôi rất buồn! Thân ái!1 like -
Công danh: Sau có danh chức cũng lớn tiền bạc thừa thãi nhưng phải ngoài 36t mới phát cả về danh và tài, vài năm sau cho tới đó còn nhiều đua chen vất vả Gia đạo: vợ chồng thường gặp nhau nơi xa mà nên duyên chồng vợ, nếu có thời gian xa cách hay khi cưới chạy tang hay có nhiều cản trở thì rất bền duyên, thường cưới nhau bất ngờ không định trước. Con cái: ít con, sau con cái cũng hiển đạt nhưng không hợp với cha mẹ và cũng không ở gần Góp ý với bạn 1 chút về những câu hỏi bạn đưa ra, chờ bác haithienha lên tư vấn thêm cho chính xác nhé, thân chào!1 like
-
cái ông này sinh năm 1986 mà nhìn già thế như là: trên 30T vậy, có cái mụn ruồi nhìn xấu nhỉ, đi tẩy đi, ở bên tử vi bác HaiThienHa đã luận giải rất kỹ rồi mà, tướng mạo thì có thể thay đổi, cố gắng tin vào bản thân mình, có thể hôm nay hình dạng này, nhưng mai kia giàu có hình dạng khác thì sao nhỉ Như bác haithienha đã nói, bạn nên đi xa gia đình lập nghiệp mới khá được, chúc bạn thành công1 like
-
Các bạn cứ nghiên cứu kỷ lý thuyết Lạc Việt Độn Toán cho kỷ và Lạc Thư Hoa Giáp, sau sẽ vở ra nhiều vấn đề. Ở đây vẫn đang nghiên cứu để hoàn thiện thêm hơn trong luận đoán. Nạp âm là hành khí, hành khí của năm là niên vận, tuỳ theo việc mà xét. Thiên Đồng1 like
-
Vừa nhận được điện thoại của Haiphuong báo tin vui,Haiphuong không có điều kiện lên diễn đàn nhưng không thể đợi lâu hơn được nữa Bờm muốn viết vài dòng chia sẻ niềm vui này cùng các bác,các cô chú và anh chị em trên diễn đàn. Thời gian gần đây chồng Haiphuong đã có những phản ứng mang dấu hiệu tích cực của sự hồi phục _Từ 2 tuần nay chồng Haiphuong đã có những phản ứng với những lời nói xung quanh: ví dụ khi Haiphuong nói:” Anh ơi! Anh quay sang trái đi” thì chồng Haiphuong có phản xạ nhẹ quay sang trái,tương tự như vậy khi Haiphuong nói quay sang phải hay nâng đầu lên chồng Haiphuong đều có phản ứng theo lời nói. _Ngày hôm qua,tức ngày 13/10/2010,chồng Haiphuong bắt đầu tập ăn trực tiếp bằng miệng ( từ trước đến giờ chồng Haiphuong vẫn phải ăn qua ống xông) và đến hôm nay là được 2 ngày chồng của Haiphuong đã không cần đến sự hỗ trợ của ống xông mà mỗi lần ăn được gần 1 bát cháo Trong suốt thời gian vừa qua gia đình Haiphuong đã nhận được sự giúp đỡ hết mình của chú Thiên Sứ cũng như sự quan tâm chân thành từ các bác,các cô chú cùng các anh chị em trên diên đàn,nhờ những tình cảm ấm áp đó mà gia đình Haiphuong cũng như bản thân Haiphuong dã có niềm tin và hi vọng một ngày không xa nữa chồng của Haiphuong sẽ hồi phục. Dù cho gia đình Haiphuong không tha thiết gửi lời cảm ơn tới chú Thiên Sứ cùng toàn thể anh chị em trên diễn đàn thì bản thân Bờm cũng muốn gửi tới tất cả mọi người lòng biết ơn sâu sắc nhất vì đã cho Bờm cũng như rất nhiều bạn bè được biết và tin vào tình Người ấm áp trên thế gian này. Nhân đây,Bờm cũng muốn kể với mọi người một chuyện thay cho lời cảm ơn sâu sắc nhất của Bờm cùng gia đình Haiphuong tới chú Thiên Sứ: Cách đây hơn 1 tháng,trong giờ làm việc Bờm có nhận được điện thoại của Haiphuong: Vói giọng như nghẹn lại,Haiphuong nói những câu rời rạc trong điện thoại:” Chú ý từ chối mày ạ,chú ý nói không thể giúp được gì cho anh Hải trong lúc này,nếu như anh Hải tỉnh táo hơn,sức khỏe tốt hơn chú ý sẽ thử,chú ý rất lấy làm tiếc…Tao đã khóc,khóc nhiều lắm,chú nhìn tao ái ngại rồi bỏ ra khỏi phong…Tao không hiểu….”(suốt thời gian từ lúc tai nạn ập đến Haiphuong luôn tìm mọi cách,chỉ nghe nói ở đâu có ai,có thuốc gì,có cách nào… có thể giúp cho chồng Haiphuong tỉnh dậy là Haiphuong sẽ nhờ người tìm và đến năn nỉ nhờ giúp đỡ,và hôm nay Haiphuong đi gặp 1 vị bác sĩ rất có tiếng trong giới y học sau 3,4 lần hẹn)…Cuối cùng Haiphuong chỉ hỏi mình 1 câu rồi cúp điện thoại:” Tại sao cả 1 bác sĩ nổi tiếng như vậy cũng từ chối chữa trị cho anh Hải mà biết là có thể thất bại mà chú Sành ( là cái tên mà Bờm và Haiphuong lén gọi sau lưng chú Thiên Sứ) vần nhận lời giúp không có đến 1 giây do dự?”. Bờm cũng đem thắc mắc đó hỏi chú và nhận được câu trả lời: ‘ Đó là vì sự Nhân Đạo”. Sự Nhân Đạo đó đã đem đến cho những người đau khổ và đang tuyệt vọng kia 1 tia sáng hi vọng. Và đem đến cho chúng ta 1 tình Người ấm áp. Cháu xin cảm ơn chú Thiên Sứ cùng các bác,các cô chú và anh chị em trên diễn đàn. Xin kính chúc mọi người sức khỏe và an lành!1 like
-
Khách ngoại khen hủy bắn pháo hoa là 'cử chỉ đẹp' Cập nhật lúc 08:31, Thứ Hai, 11/10/2010 (GMT+7) - Những khoảnh khắc cuối cùng của đại lễ 1.000 năm Thăng Long tại Hà Nội rồi cũng qua đi. Chỉ còn đọng lại những xúc cảm bâng khuâng trong lòng người Phóng viên cả trong nước và quốc tế ghi lại không khí buổi lễ ngàn năm có một. Ảnh LAD. “Chính quyền thành phố đã tổ chức rất chu đáo cho sự kiện này, đã nâng cấp các cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất. Đường phố được trang trí thật đẹp mắt với cờ và đèn lồng hoa giấy rực rỡ. Nhiều chương trình biểu diễn, triển lãm nghệ thuật được tổ chức. Tôi cho rằng Việt Nam đã tổ chức sự kiện này với kế hoạch chu đáo và để lại ấn tượng tốt”, Anh Pankaj - Giám đốc kinh doanh và tiếp thị của công ty du lịch Bufallow tours nhận xét. “Tuy nhiên vẫn cần sáng tạo thêm các hoạt động thu hút du khách”, Pankaj nói thêm. “Hà Nội là một thành phố đẹp và cổ kính. Nét đặc sắc của Hà Nội dù là một thành phố đông đúc nhưng vẫn tìm thấy những địa điểm tĩnh lặng để ngắm nhìn nét cổ kính của thành phố, đây là điểm khác biệt”, Anh Lee Jun Ho - Trợ lí kinh doanh Công ty cổ phần Mobase Việt Nam bày tỏ. Có rất nhiều người nước ngoài hoà mình vào dòng người tham gia vào các sự kiện rất vui vẻ và hào hứng, đây là dịp đặc biệt để họ thưởng thức các hoạt động văn hoá Việt Nam. “Tuy nhiên, nếu có thể hạn chế nạn tắc đường thì lễ hội sẽ vui hơn rất nhiều”, Lee nói. Xiao Hua, du học sinh Trung Quốc, cũng ái ngại với tắc đường như Lee. “Tôi thích không khí này lắm, tôi thấy gần gũi cứ như mình đang ở nhà vậy. Đường ở Hà Nội cũng đông như Trung Quốc, nhiều người như Trung Quốc nhưng mà bên mình không hay bị tắc đường thế này đâu”, Hua cười. Anh Benjamin Giroux - Giám đốc kinh doanh và tiếp thị công ty City Pass tại Việt Nam thì cảm nhận rằng, Hà Nội là một thành phố đẹp và có nhiều điều để hấp dẫn du khách và khách với nhiều hồ nước rộng và đẹp trong lòng thành phố, nhiều di sản văn hoá và kiến trúc cổ xưa. “Tuy nhiên, tôi không có cảm giác đặc biệt và khác lạ như tôi đã từng có với ngày Tết cổ truyền Việt Nam. Chương trình lễ hội được thông báo chưa đầy đủ thực sự cho những công dân nước ngoài đang sống và làm việc tại Việt Nam”, Benjamin nói. Có điều đáng lưu ý, đa số các du khách hiểu biết về Việt Nam đều đánh giá cao việc Hà Nội giảm bắn pháo hoa ở hầu hết các địa điểm để dành tiền cứu trợ đồng bào lũ lụt ở miền Trung. “Đó là cử chỉ đẹp. Là bông hoa đẹp nhất cho một sự kiện ý nghĩa lớn”, Pankaj nói. “Sự thiết thực là điều ít được thể hiện trong những lễ hội trước nay. Tuy nhiên, hành động cao đẹp của Hà Nội với người dân vùng lũ là hành động thiết thực rõ ràng”, Lee chia sẻ. “Rõ ràng, một cử chỉ đi vào lòng người như vậy luôn nhận được những chia sẻ tích cực, dù du khách sẽ lỡ dịp ngắm pháo hoa ở đâu đó. Pháo hoa có thể xem bớt đi, nhưng người dân không phải nhịn đói trong lạnh lẽo”, Benjamin bày tỏ sự ủng hộ với quyết định huỷ bắn pháo hoa ở 29 địa điểm của Hà Nội. Có lẽ, dù không có trong kịch bản, song hành động thiết thực kể trên của Hà Nội cũng là một điểm ghi dấu trong trái tim những người đến với đại lễ ngàn năm lần này. Một lễ kỷ niệm đầy ý nghĩa. Thanh Vân ======================================= Vâng! Đúng như vậy! Mọi chuyện rồi cũng qua đi! Hiện tượng là như vậy, nhưng cách giải thích thi khác nhau. Thôi thì mọi chuyện đã xong. Mỗi người sẽ có cách giải thích khác nhau. Sao cũng được. Riêng cá nhân tôi bày tỏ lòng cảm ơn với anh chị em các lớp Phong thủy Lạc Việt đã tâm nguyện ủng hộ tôi, cảm ơn nhưng quí vị và anh chị em đã chia sẻ. Tôi đã đem tất cả công trình nghiên cứu nhiều năm về nền văn hiến Việt với sự xác định trải gần 5000 năm - một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương tử - bảo đảm cho việc này. Nhưng qua việc này, tôi tin tưởng chắc chắn rằng: Nền văn hiến trải 5000 năm của dân tộc Việt mãi mãi là một chân lý và sẽ tỏa sáng trong lịch sử văn minh nhân loại. Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm.1 like
-
Chào hung303. Ý kíên hung303 đưa ra, về mặt khách quan là hết sức nghiêm túc, về việc này chưa có thống kê một cách chính thức và bài bản, nhưng có thể thao tác như sau: - Bút thử máu dùng cho b/n tiểu đường, hay bút thử máu của bệnh viện, bấm trực tiếp vào 10 đầu ngón tay, nặn ra 2 -3 giọt máu. Trong 35 giờ kể từ khi tai biến vẫn có thể thao tác. - Người thầy thuốc kiểm tra mạch đập của từng ngón tay trên hai bàn tay, ngón tay cái và ngón tay trỏ của thầy thuốc đặt dọc theo lóng thứ 3 của mỗi ngón tay (đốt ngón sát bàn tay), thấy ngón nào mạch đạp mạnh nhất, thì thầy thuốc kéo rút ngón tay đó 5 -7 lần, trong thao tác lâm sàng thường kéo cả 10 ngón tay. Nhưng kéo ngón tay nào có mạch đập mạnh nhất thì hiệu quả sẽ cao hơn. Kinh nghiệm cho thấy, thường thì ngón giữa (tâm hoả) ngón trỏ (can môc), ngón đeo nhẫn (phế kim), ngón út (thận thuỷ), ngón cái (tỳ thổ) theo thứ tự mạch đạp sẽ giảm dần. (Đối với người có hội chứng huyết áp cao) Thao tác này, rất có giá trị trong cuộc sống đời thường, cũng như khi thao tác cận lâm sàng, giúp cho b/n cơn huyết áp giảm đi một cách nhanh chóng. Hội chứng "văn phòng" về vùng đầu - cổ - gáy - vai, cũng nên áp dụng. Mỗi chúng ta có thể thử nghiệm cho bản thân. (khi có máy đo huyết áp).1 like