• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 26/10/2010 in all areas

  1. Chào các bạn. Nhân Tướng, kể cả Chỉ Tay theo tôi chúng thực sự chứa đựng thông tin về Thân Phận của con người. Có một Nguyên Lý khoa học cơ bản hết sức sâu sắc đứng đằng sau đó. Tuy vậy, đó không phải là một dạng hàm quan hệ tường minh, vì vậy để minh giải ít nhất người ta phải sử dụng phương pháp phân tích tương tự như kỹ thuật xử lý kết hợp logic mờ và mạng neuron. Nhưng nếu vậy thì thật lạ lùng...! Tôi vẫn thường thắc mắc tại sao người xưa lại thông thái đến như thế? Càng ngày tôi càng nhận thấy các cơ sở lý luận có vẻ như ngây ngô của tri thức cổ phương đông thì lại hết sức sâu sắc và mang tính chặt chẽ của toán học, trong khi tương phản với nó, các bậc thâm nho hay các nhà nghiên cứu trong các thế kỷ gần đây bằng sự uyên thâm của mình thì lại ưa thich phủ lấp lên nó sự nghi hoặc vô cùng của sự tư biện thuần túy. Vì sao vây? Tôi hiểu đây là một vấn đề rất nhạy cảm nên tôi không dám trình bày rõ ràng hơn, nhưng tôi thành thật hy vọng mọi người hãy dành cho nền học thuật cổ phương đông một sự trân trọng và giữ gìn sự trong sáng như tính khoa học vốn có của nó Thân mến
    4 likes
  2. Tây Sa và Nam Sa chưa từng được ghi nhận trong lịch sử phương chí Trung Hoa Thứ Hai, 25/10/2010, 20:43 (GMT+7) TTCT - Phương chí, với nghĩa “chép rõ về một nơi”, là thuật ngữ để gọi chung cho loại sách địa lý đặc thù của Trung Quốc, trong đó gồm các loại: tổng chí (chép về cả nước), thông chí (chép về một tỉnh) và địa phương chí (chép về phủ, châu, huyện...).Hầu hết các loại phương chí đều được thực hiện dưới sự chỉ đạo của hoàng đế và do chính quyền các cấp chủ trương tiến hành. Vậy các loại phương chí Trung Quốc chép gì về đơn vị hành chính cực nam của Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử nước này? Trong Tổng chí nói gì? Tổng chí khá hoàn chỉnh đầu tiên được biên soạn vào đời Đường Hiến Tông, do đại học sĩ giám tu quốc sử Lý Cát Phủ làm xong năm Nguyên Hòa thứ 8 (năm 813), có tên là “Nguyên Hòa quận huyện đồ chí” (1). Bộ tổng chí được liệt vào hạng xưa nhất này gồm 40 quyển (nay chỉ còn 34 quyển), phản ánh cơ cấu hành chính 10 đạo đã thiết lập năm 639 và ghi chép thực trạng 47 trấn đương thời, phân cấp đến phủ, châu, huyện và một số hương lớn. Phần viết về vùng đất cuối cùng phía biển nam nằm trong số quyển đã mất. Vài học giả đời Thanh đã tham khảo các tài liệu cùng thời để viết thêm bộ “Nguyên Hòa quận huyện bổ chí” (2). Bộ này cho thấy tỉnh/đảo Hải Nam ngày nay vào đời Đường là bốn châu Nhai, Đam, Vạn An và Chấn, thuộc đạo Lĩnh Nam, ở phía cực nam là hai huyện Ninh Viễn và Lâm Xuyên thuộc châu Chấn (nay là huyện Nhai, Hải Nam). “Nguyên Phong cửu vực chí” (3) thời Tống làm xong năm Nguyên Phong thứ 3 (1080), do Nghị lang đồng tu quốc sử quán Vương Tồn nhận sắc chỉ biên soạn. Sách này cho thấy đơn vị hành chính cực nam là huyện/trấn Mại Viễn thuộc quận Chu Nhai, châu Nhai, lộ Tây Quảng Nam (nay là huyện Nhai, Hải Nam). “Đại Minh nhất thống chí” là tên do Chu Kỳ Trấn (Anh Tông) đặt cho bộ tổng chí có tên gốc là “Thiên hạ nhất thống chí” (4), do thượng thư bộ lại, đại học sĩ Lý Hiền làm tổng tài (chủ biên), làm xong năm 1461, gồm 91 quyển. Quyển đầu của bộ tổng chí này có 16 bức địa đồ (1 bức toàn quốc, 1 bức Bắc Kinh, 1 bức Nam Kinh và 13 bức của 13 Ty Bố chánh). Bức địa đồ toàn quốc mang tên “Thiên hạ nhất thống chi đồ” và địa đồ Ty Bố chánh Quảng Đông với tên “Quảng Đông địa lý chi đồ” đều cho thấy cực nam lãnh thổ Trung Quốc chỉ đến hết phủ Quỳnh Châu. Ghi chép về phủ Quỳnh Châu ở quyển 82 cho thấy sự nhất quán với cương giới mà phần địa đồ mô tả, cực nam dừng ở địa phận châu Nhai. Các mục “Kiến trí diên cách” (Dựng đặt dời đổi), “Hình thắng” (Địa hình/Cảnh quan) và “Sơn xuyên” (Núi sông) không ghi chép gì về phía biển nam. Tổng chí đời Thanh có ba bộ, soạn lần đầu với tên “Đại Thanh nhất thống chí” (342 quyển, làm xong năm 1743), lần hai với tên “Khâm định Đại Thanh nhất thống chí” (5) do đại học sĩ Hòa Thân nhận sắc soạn thêm (gồm 424 quyển, làm xong năm 1784), lần ba với tên “Gia Khánh trùng tu Đại Thanh nhất thống chí” (6) do Hàn lâm viện biên tu Lý Tá Hiền soạn thêm theo sắc chỉ của vua Gia Khánh (650 quyển, làm xong năm 1842). “Khâm định Đại Thanh nhất thống chí” chép về cương giới phía nam cũng chỉ đến châu Nhai, thuộc phủ Quỳnh Châu như địa đồ “Quảng Đông toàn đồ” ở tờ 2, quyển 350 minh họa [hình 1]. Mặt khác, có một chi tiết giúp xác định vùng Thất Châu Dương mà mấy chục năm nay học giả Trung Quốc cứ cho rằng nó là Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam). Ở quyển 350, mục “Sơn xuyên”, tờ 11 có đoạn: (dịch) “Thất Tinh sơn ở phía bắc huyện Văn Xương, Minh nhất thống chí viết rằng núi này có bảy ngọn, còn có tên là Thất Châu Dương sơn, thông chí Quảng Đông viết là nó cách huyện lỵ Văn Xương về phía bắc 150 dặm (khoảng 75km), ở ngoài biển khơi...”. Ghi chép này cho thấy nó kế thừa tổng chí đời Minh và tiếp thu kết quả khảo sát của thông chí địa phương, đồng xác định Thất Châu Dương tương ứng với Thất Châu liệt đảo ở khoảng vĩ độ 20, phía đông tỉnh Hải Nam ngày nay, mà không phải là Hoàng Sa của Việt Nam. Trong Thông chí nói gì? Thông chí liên quan trực tiếp đến vùng biển phía nam Trung Hoa là các bộ thông chí tỉnh Quảng Đông, trước sau có năm bộ, đều do các quan chức cấp cao ở tỉnh chủ trì biên soạn. Sớm nhất là “Quảng Đông thông chí” của Đới Cảnh thời Minh, làm xong năm 1535, kế đến là bộ do Hoàng Tá chủ biên, 72 quyển, làm xong năm 1602. Đời Thanh gồm ba bộ của Kim Quang Tổ (1675); Hách Ngọc Lân, 64 quyển (1731); Nguyễn Nguyên, 334 quyển (1882). Trong “Quảng Đông thông chí” của Hách Ngọc Lân, “Quảng Đông toàn tỉnh tổng đồ” ở quyển 3, trang 3 [hình 2] cho thấy về cương vực, tức phạm vi quản lý hành chính của chính quyền cấp tỉnh, dừng ở phủ Quỳnh Châu. Địa đồ “Quỳnh Châu phủ toàn đồ” ở quyển 3, trang 22 [hình 3] lại có dòng chú thích “Quỳnh, bốn mặt là biển, không khảo được tám nơi tiếp giáp”. Trong “Quảng Đông thông chí” của Nguyễn Nguyên, “Quảng Đông dư địa tổng đồ” được vẽ theo kỹ thuật phương Tây, phân hệ thống kinh vĩ, giới hạn về phía nam chỉ thấy đến khoảng 18,5 độ vĩ bắc (7). Và trong Địa phương chí nói gì? Địa phương chí cấp cơ sở liên quan trực tiếp đến vùng biển nam Trung Hoa là các phủ chí Quỳnh Châu, theo bộ “Quỳnh Châu phủ chí”, biên soạn sau cùng trong đời Thanh (1891), có tính kế thừa và bổ sung hoàn thiện từ bốn bộ trước đó. Các ghi chép về phạm vi cương giới cho thấy tương đồng với tổng chí và thông chí đã đề cập, sách này cũng dẫn lời quận thú (quận trưởng) Tiêu Ứng Thực viết trong phủ chí năm 1774 về các nơi tiếp giáp, quyển 3, phần Dư địa chí, mục Cương vực chép: “Quỳnh Châu là nơi giữa biển, nam là Chiêm Thành; tây là Chân Lạp, Giao Chỉ; đông là Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường; bắc tiếp giáp huyện Từ Văn, phủ Lôi Châu” (8). Trong nguyên tác của đoạn văn này, cách dùng chữ đối với hai trường hợp tiếp giáp cho thấy có sự phân biệt rõ ràng, các nơi ngoài Trung Quốc dùng chữ “tắc” (nghĩa “là”), còn nơi thuộc Trung Quốc thì dùng chữ “tiếp” (nghĩa “tiếp giáp, tiếp cận”), điều này cho thấy chính quyền nhà Thanh tuy biết có nơi là Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường nhưng những nơi đó không thuộc sự quản lý hành chính của chính quyền đương thời. Phương chí là một loại tư liệu lịch sử mang giá trị pháp quy, gắn liền với sự ổn định hoặc những biến động cương vực của một nước trong suốt quá trình cai trị của một triều đại và nhiều triều đại trong lịch sử. Các học giả Trung Quốc thường né tránh việc dẫn dụng sách phương chí, hoặc nếu có thì chỉ trích dẫn các tiểu mục nói về sự tích nhân vật đạo sĩ, sư sãi hoặc các tiểu mục viết về quan hệ giao thương với nước ngoài. Những trích dẫn loại này phải xem là sử dụng sai mục đích..., còn những phần đề cập trực tiếp đến địa lý hành chính không được nhắc đến. Phương chí cổ Trung Quốc chứa đựng nhiều sử liệu quý, có giá trị nhiều mặt trong việc tìm hiểu lịch sử các hoạt động xã hội Trung Quốc và các nước có biên giới lân cận. Riêng việc xác định chủ quyền trong lịch sử đối với các nơi trên biển Đông, phương chí các loại từ đời Đường cho đến đời Thanh cho thấy không có ghi nhận nào thể hiện sự quản lý hành chính đối với Tây Sa và Nam Sa, là những nơi mà trong các loại thư tịch đồng dạng, Việt Nam đã ghi nhận bằng tên Hoàng Sa và Trường Sa. PHẠM HOÀNG QUÂN (nhà nghiên cứu độc lập về cổ sử và cổ địa dư) __________ (1) Nguyên Hòa quận huyện đồ chí, bản in chụp theo bản Văn Uyên Các (thuộc Tứ Khố Toàn Thư), Đài Loan thương vụ ấn thư quán, 1983. (2) Nguyên Hòa quận huyện bổ chí, bản in khắc Kim Lăng thư cục, năm Quang Tự thứ 8 (1882), quyển 8, tờ 17-22. (3) Nguyên Phong cửu vực chí, 10 quyển, bản in khắc Kim Lăng thư cục, năm Quang Tự thứ 8 (1882), quyển 10, tờ 3-4. (4) Thiên Hạ nhất thống chí, bản in khắc Vạn Thọ Đường, năm Thiên Thuận thứ 5 (1461). Quảng Đông Bố chánh ty, quyển 79-82, Quỳnh Châu phủ, quyển 82, tờ 15-28. (5) Khâm định Đại Thanh nhất thống chí, bản khắc in Hồng Bảo Trai trong niên hiệu Quang Tự (1875-1908) theo bản Võ Anh Điện. Quảng Đông tỉnh quyển 338-353, Quỳnh Châu phủ quyển 350. (6) Bộ thứ nhất và bộ thứ ba chúng tôi chưa được coi, sẽ đề cập trong dịp khác. (7) Trung Hoa tùng thư Quảng Đông thông chí (4 tập), Trung Hoa Tùng thư Biên thẩm ủy viên hội xuất bản, in chụp từ bản Nguyễn Nguyên Quảng Đông thông chí 334 quyển, Đài Bắc, 1959. Địa đồ “Quảng Đông dư địa tổng đồ”, quyển 83, dư địa lược 1, trang 1434-1435. (8) Quỳnh Châu phủ chí, bản in chụp do Lữ Đài Hải Nam Đồng Hương Hội, không ghi năm, 5 cuốn, từ bản Long Bân, 44 quyển. Đoạn văn trích dịch ở trang 125, cuốn 1.
    3 likes
  3. Chào Dự, hiếu học là tốt rồi,lưu ý,khi người ta có nhã ý nhờ mình thì tốt hơn đó Dự a. Tôi tham khảo với bạn đây về lá số cô ất sửu xem có đúng gi kg nhé. Đây là người thủy chung chính kiến rõ ràng.đường cha mẹ khó song toàn,tuổi thơ đễ găp cảnh ở với nội hoặc ngoại do cha me kg thuận lợi trong cuộc sống. . .. Cô nầy vừa giỏi vừa siêng năng,trách nhiệm trong công việc,là người đáng tin cậy.Có chồng tuổi nào cũng vây thôi: cũng phải tự lo toan gánh vác vừa làm vợ vừa kiêm làm chồng. . .Số người nầy như hiện thân của 1 vị bồ tát nho nhỏ để hy sinh gánh vác. . .giúp người phản ngay sau khi xong việc(dể tin người,giúp ngươi nên cũng dễ bị gạt tinh như thường mặc dù là người có phẩm hạnh đáng trọng.Theo tôi năm canh dần là hợp hôn nhân nhất đối với số nầy,nam sau chắc gì bên kia họ giử ý định. . ."lấy chồng thì lấy liền tay,dừng để lâu ngày lắm kẽ dèm pha". số nây nhà cao của rộng từ năm 36 trở đi sẽ may măn về vật chât,danh dự. . . trừ về tình cảm,con cai, ca 2 đều phải gánh vác khó cậy nương. Người nầy có chân tu, thưc hành từ thiên. Số nầy khó có con hoăc con 2 dòng là đương nhiên . Kết luận: Có chồng, chồng nhờ.Có con, con nhờ,hiếu thảo cha mẹ và người thân,đối với bản thân thì xài đạm bạc dù tiền tỷ đôla>Tạo hóa dền bù số nầy cũng rất xứng đáng, từ sau 36 trở đi cho đến già vẫn kg bận sinh nhai. . .Số nầy thuận lợi ở những tháng lẽ â.l. năm lẽ càng có sự cố thay đổi bất lợi.Tư vi rất đơn giãn, đừng quan trọng quá sẽ thấy lạc lỏng . . .bởi" cái bị biết" "hay biết" cũng vậy thôi bạn a.Mọi thứ tinh toán,caq6n đo đong đếm đều lấy toán mà tính nhưng nó cũng chỉ tương đối thôi mà.Muôn sự bói (các môn dự đoán) nó đã có quá lâu... ta có thể cho nó đã chết trong lạc hậu,dĩ vãng. . .nếu thế hệ nầy vẫn còn "mò" sao nầy "chiếu"sao kia mà cổ nhân đã làm rồi, có sẳn và vẫn còn lập lại sáo rổng thì chúng ta lùi lại hàng ngàn năm rồi phải kg bạn. Theo thiển ý của tôi chắcc chắn mổi người đều có số, nó như luật định vậy. Ông trời già là nhà đạo diển kiêm viết kịch bản đầy đỏng đảnh..,quả đất nầy là sân khâu để nhân gian diển tuồng hỉ ,nộ,ái ố ,Ai may được đóng vai vua , ai may vừa thì vai quan, ai may ít thì đóng vai quân hầu, xui xẻo thì ông ccho đóng vai khuân vác ,kéo màn. . . nếu vai diển tốt cứ đóng cho hết vai (hỉ) khi xem kịch bản đến vai"bi" thì đưng đóng quá đúng kịch bản(đó gọi là cải số) cải số có nghĩa là cải cách cho đở khổ thôi chứ kg có chuyện "hóa họa thanh phúc "đâu nhé . vấn đề mọi người học tử vi để hiểu kich bản mà ông trời đã sắp nhưng lai kg hiểu ai được ông trời cho có khả năng đọc kịch bản của ông.Muốn học cho có bổ ích thật sự thì chỉ có số bạn làm nghề "bói .Làm nghề bói có 4 yếu tố cần và đủ. 1/ có số,2/ có khiếu,3/ đam mê, 4/ có tâm. yếu tố 1 là đầu tàu, cac yếu tố sau là đẳng cấp,nhân cách của người hành nghề. . Xem dùm mà sai ,làm lung lay ý chí thân chủ cũng là tội ,tác động xấu tâm lý người nghe cũng là tội đồ. . . Các bạn dự đoán cho bất cứ ai,kg nên nhân danh hay mượn sách nầy thuyết nọ để dẩn dụ. . .vì đó nó tố cáo bạn chẳn tự tin chút nào khi dự đoán và còn hàm chứa đổ lổi cho sách nếu sai, đây là thực trạng đa số trong dự đoán. Ông Tuấn Anh rất giỏi gọi là thực tài chân giá trị dám nói to chử" tôi" là đáng trọng,tôi chỉ tiếc ông kg may trong giai đoạn nầy, tôi trọng ông tuấn anh về tài năng và cả nhân cách nhưng tài năng và nhân cách kg qua kịch bản ông trời(cho đóng vai gì trong giai đoạn nầy) bởi trời già có nể ai đâu, đỏng đảnh mà hi hi hi . Đọc sách tối kỵ là sách viết sao ta nghe vậy ,tổ là làm trò hề cho thiên hạ mà thôi " THÂN NHƯ ÁNH CHỚP CHIỀU TÀ,XUÂN SANG TƯƠI TỐT,THU QUA RỤNG RỜI. XÁ CHI SUY THỊNH CUỘC ĐỜI,THỊNH SUY NHƯ HẠT SƯƠNG PHƠI ĐẦU CÀNH"
    2 likes
  4. THĂNG LONG - ĐỊA LINH NHÂN KIỆT Tiếp theo BÀI THAM LUẬN CỦA NGUYỄN VŨ TUÂN ANH TRONG BUỔI GẶP MẶT. ==================================== HÀ NỘI XƯA VÀ NAY THEO GÓC NHÌN CỦA PHONG THỦY. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Kính thưa ban tổ chức. Kính thưa các vị khách quý. Trước hết tôi xin bày tỏ long cảm ơn với ban tổ chức đã tạo điều kiện để tôi có dịp trình bày với quí vị có mặt nơi đây về nhận xét của tôi với những vấn đề có tính thời sự đang được đặt ra với Hanoi trong tương lai với cái nhìn của khoa phong thủy theo sự hiểu biết của tôi. Kính thưa quí vị. Tôi nghĩ, chúng ta có thể nói rằng ngay khi xác định dời đô về vùng hữu ngạn sông Hồng , lập nên kinh đô Thăng Long thì Đức vua Lý Thái tổ đã nói đến địa thế Hanoi theo cái nhìn của khoa Phong thủy. Chiếu dời đô viết: Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? Qua nội dung của Chiếu Dời Đô thì có thể nhận thấy ngay rằng: Cái nhìn của khoa phong thủy về thế đất Hanoi chính là một trong những nguyên nhân quan yếu của sự dời đô và thành lập kinh đô Thăng Long. Sự đồng thuận của quân dân Đại Việt dưới thời Lý Thái Tổ đã chứng tỏ rằng những tri thức về phong thủy đã rất phổ biến trong văn hóa Việt Nam từ hàng ngàn năm trước. Hình minh họa dưới đây trên bản đồ Bắc Việt Nam cho chúng ta thấy rõ tính chất của “Rồng chầu , hổ phục” hay còn có cách diễn đạt khác là “Núi chầu sông tụ”: Hình ảnh này, tất cả các phong thủy gia đều biết. Nếu xét về đại cục thì khí mạch của vùng núi này bắt nguồn từ dãy núi Hy Mã Lạp sơn ở cao nguyên Tây Tạng, còn gọi là Tổ long. Và đây là Kim Long, con rồng trắng. Sở dĩ tôi nhận xét như vậy vì theo dãy núi Hi Mã Lạp sơn nằm ở phía Tây đồng bằng Nam Dương tử. Phương Tây thuộc Kim, nên xác định là rồng trắng. Ở vịnh Bắc bộ của chúng ta còn có đảo Bạch Long Vĩ – Đuôi rồng trắng – chứng tỏ điều này. Nhưng tôi cũng xác định rằng: Mặc dù nguyên khí xuất phát từ địa mạch tổ long ở Tây Tạng, nhưng cấu trúc phần núi sông tạo nên linh khí của đất Thăng Long hoàn toàn độc lập khí mạch của địa mạch Tổ Long này. Có thể ví Khí mạch sông núi Việt Nam như một con rồng con và có một sự tương tác một cách độc lập với môi trường thiên nhiên nơi đây. Thế núi của vùng miền Bắc Việt Nam hoàn toàn không liền mạch với khí mạch của dãy Hi mã lạp sơn. Vịnh Bái Tử Long với truyền thuyết về một con rồng con bay đi đã gợi cảm hứng cho tôi về cách nhìn này. Núi sông bờ cõi đã chia. Phong tục Bắc Nam cũng khác. Như cũng nhắc nhở điều này. TỔNG QUAN VỀ VỊ TRÍ HANOI TRONG ĐỊA THẾ ĐỒNG BẮNG BẮC BỘ Nếu ta xét một cách tổng quan toàn bộ vùng Bắc bộ Việt Nam theo cái nhìn của khoa phong thủy thì có thể xác định rằng: Chính đồng bằng Bắc Bộ là nơi tụ khí của cà Bắc Bộ Việt Nam. Cổ thư viết: “Ở nơi cao thì chỗ trũng thấp chính là nơi tụ khí”. Xét những dải núi non trùng điệp bao quanh đồng bằng Bắc Bộ thì vùng đồng bằng Bắc Bộ chính là nơi tụ khí của long mạch núi sông đất Việt Sông Hồng – tức sông Cả - là con sông lớn nhất chảy qua đồng bằng Bắc bộ. Nếu như dòng sông chảy xuôi và thẳng ra biển thì có lẽ chúng ta – với cái nhìn của khoa phong thủy – sẽ khó có thể định được nơi tụ khí để tạo ra kinh đô ngàn năm tuổi đầy tự hào của người Việt. Nhưng thiên nhiên như khéo tạo ra những giá trị của nó để đem lại phồn vinh cho con người. Đúng vị trí của Hanoi – Thăng Long xưa, sông Cả gấp khúc hơi xuối về Nam. Khí đã tụ lại nơi đây. Đây chính là chỗ lắng đọng của khí đất trời hội tụ. Có thể diễn tả điều này qua hình tượng của một câu trong bài hát “Người Hanoi” – “Đây! Lắng hồn núi sông ngàn năm”. Cổ thư đã nói: “Khí tụ thì thành hình”. Tất nhiên, khi khí đã bắt đầu tụ nơi đây thì cuộc sống cũng bắt đầu nơi đây. Khí càng mạnh mẽ thì cuộc sống càng hưng vượng. Và nơi đây đã hình thành nên kinh đô Thăng Long của Đại Việt XÉT KHÍ MẠCH HANOI. Cổ thư viết: “Khí theo nước mà đi” . Khí mạch Hanoi theo cái nhìn của tôi theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Lý do là dòng sông Hồng chảy theo hướng này. Đây là hướng Phúc Đức trạch theo cái nhìn từ Phong Thủy Lạc Việt với quan điểm đổi chỗ Khôn về vị trí Đông Nam và Tốn về vị trí Tây Nam. Càn Tây Bắc phối Khôn là Phúc Đức trạch. Như vậy, minh đường của Hanoi chính là toàn bộ vùng đồng bằng Bắc Bộ và cả biển Đông của Việt Nam nhìn theo hướng này. Tọa sơn chính là dãy Hoàng Liên Sơn với đinh cao nhất là Phăng si phăng. Dãy Ba Vì là Bạch Hổ và sông Hồng chính là Thanh Long của Hanoi. Đây chính là thế sơn tọa nhô cao, minh đường rộng rãi sáng sủa với sự tụ thủy của cả biến Đông bao la. Thanh Long – tức sông Hồng Hà, uốn khúc mềm mại và hùng vĩ, Bạch hổ vững chắc , mạnh mẽ và hiên ngang. Đây chính là điều mà chiếu dời đô của Đức Lý Thái tổ nói tới: trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Bản dịch là: ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, Vào thế kỷ thứ VIII AC, Cao Biền - một danh sư phong thủy xây thành Đại La ở nơi đây với mục đích làm thủ phủ của chế độ cai tri Hán tộc. Vào thời điểm này, hình tuy đã hiện, nhưng khí lực chưa đủ. Xét về Âm khí do dãy núi Ba Vì là Bạch Hổ và dãy Hoàng Liên Sơn đưa lại thời gian này khá mạnh mẽ, thể hiện ở chỗ rừng núi hoang sơ vẫn bao phủ khắp nơi, ngòi đầm chi chít. Vùng Đại La cũng vậy. Đây là nguyên nhân Cao Biền phải dùng biện pháp trấn yểm để tụ khí. Nhưng độ số chưa đủ, nên đã thất bại trong sự nghiệp của chính ông ta. Trong văn hóa dân gian Việt còn lưu truyền câu thành ngữ “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” chính là để nói đến điều này. Nhưng thành tựu của ông ta là đã xây dựng được Thành Đại La, nơi tập trung dân cư đông nhất vùng đồng bằng Bắc bộ với tư cách là thủ phủ của chế độ cai trị của Hán tộc trong thời Bắc thuộc. Chính những hoạt động của con người trải nhiều thế kỷ đã mạng lại sinh khí cho vùng đất này, để 200 năm sau, sự phát triển đầy đủ về khí lực dẫn đến hình thành một kinh đô muôn đời của đất Việt. Từ đó đến nay trải 1000 năm đã trôi qua. Vật đổi sao dời, hình thế cũng có nhiều đổi thay. Dương khí khu vực Hanoi ngày càng mạnh mẽ, sinh khí tụ ngày càng nhiều, khiến nhu cầu quy hoạch lại và phát triển Hanoi nảy sinh. Chúng ta thấy ngay rằng: Vào năm 1954, khi giải phóng thủ đô, dân số Hanoi chỉ có khoảng 20 0. 000 người. Sự phát triển sau đó lên đến 2 triệu vào khoảng cuối những năm 60. Bây giờ dân số gần gấp bốn chưa tính người vãng lai. Sư tương tác của hàng triệu người như vậy theo cái nhìn của khoa Phong Thủy thì sẽ tạo ra Dương khí rất mạnh. Càng về sau, Dương khí ngày càng vượng, cộng hưởng với sự phát triển của xã hội, nên Dương khí lan tỏa ra các vùng xung quanh (thể hiện bằng các mũi tên màu đỏ). Cùng với sự phát triển của xã hội, khi những cây cầu xuất hiện, sự tương tác giữa hai bờ càng trở nên mạnh hơn. Một phần Dương khí được chuyển sang phía bờ tả sông Hồng, do sự tương tác trong sinh hoạt của cộng đồng dân cư, khiến Dương khí vùng bờ tả cũng vượng lên. Dương khí càng có điều kiện lan tỏa hơn sang khu vực bờ tả sông Hồng (thể hiện bằng các mũi tên màu cam). Cân bằng Âm Dương - theo quan niệm của Lý học Đông phương ứng dụng trong khoa Phong thủy - là yếu tố quyết định quan trọng đến sự phát triển của xã hội. Khi vùng trung tâm (thể hiên bằng vòng tròn đỏ) Dương khí quá vượng, Âm khí suy thoái. Theo cái nhìn Lý học thì “Dương thịnh, Âm suy tắc bế”. Trên cơ sở này, chúng ta thấy xuất hiện các hiện tượng kẹt xe, suy kiệt nguồn nước, ô nhiễm môi trường……vv….gây tác động tiêu cực lên cuộc sống. Bởi vậy, sự phát triển và nhu cầu quy hoạch lại Thủ Đô là điều tất yếu. Tuy nhiên, theo quan điểm của Lý học Đông phương, một sự phát triển hài hòa, quen gọi là cân bằng Âm Dương, phù hợp với tư nhiên và làm nền tảng vững chắc cho xu hướng phát triển trong tương lai là điều cần phải suy xét. Trên cơ sở lấy Âm nhô cao thì phía Tây Bắc, Tây Nam nên đặt trọng tâm phát triển các cơ sở sản xuất, kinh tế. Vì sự phát triển kinh tế thuộc phạm trù Âm trong Lý học Đông Phương. Các cơ quan chính phủ theo tôi nên duy trì ở vùng Hanoi cũ, nơi Dương khí cực vượng. Bởi vì theo Lý học “Dương trước , Âm sau”; “Âm thuận tùng Dương” thì các cơ quan chính phủ cần đặt ở nơi Dương vượng và không cần thiết phải di chuyển. Mà chỉ cần quy hoạch lại khu vực Hanoi cũ, như là một khu vực hành chính , văn hóa làm chủ đạo. Bất đắc dĩ thì có thể mở rộng thêm ở vùng Quốc Oai. Khu Mỹ Đình không phải nơi đắc địa theo cái nhìn của khoa Phong Thủy. Nến nếu cơ quan chính phủ đặt ở đây thì tôi e rằng sẽ không phát huy được tác dụng quyền lực. Cũng trên cơ sở này, tôi cho rằng việc xây dựng trục đường lộ Thăng Long là một sai lầm ít nhất theo cái nhìn của khoa phong thủy. Trên báo mạng chính thống, đã có nhà khoa học phân tích thấy rằng con đường theo trục Đông Tây sẽ bị ánh sáng mặt trời chiếu thẳng gây lóa mắt và rất dễ gây tai nạn. Khoa Phong thủy cho rằng đây chính là trục Tuyệt Mạng. Vì Tây và Đông là hai điểm đối đầu thuộc Đông Tây trạch. Còn những ý kiến khác từ cái nhìn của khoa phong thủy về tướng địa, hình lý khí - đã được nhiều phong thủy gia góp ý rất xác đáng: Nên bỏ quy hoạch trục Đại lộ Đông Tây. Hoặc tìm một giải pháp khác có thể thay thế. Các khu vực phia Nam, Đông Nam nên phát triển quy hoạch các cơ quan nghiên cứu, kinh tế và văn hóa. Kính thưa quí vị. Trên đây là những ý kiến của chúng tôi lạm bàn về Phong Thủy liên quan đến quy hoạch Hanoi, như là một tham vọng đóng góp về một khia cạnh của một cái nhìn riêng vào Hanoi trong tương lai. Ngõ hầu góp phần them nhiều chiều ý kiến cho các nhà qui hoạch tham khảo và có quyết định cuối cùng, để cuộc sống và thủ đô Hanoi ngày một phát triên tốt đẹp. Xin cảm ơn sự quan tâm của quý vị. Nguyễn Vũ Tuấn Anh
    2 likes
  5. Người này đôi mắt có chữ DỮ, khuôn mặt toát lên chữ NGÔNG và để hóa giải cần 2 chữ BẢO TRỌNG
    1 like
  6. Thấy em chẳng hợp với ai hết hỉ?! Ai cũng khắc khẩu. Có câu này chị muốn tăng em "Tiên trách kỷ, hậu trách nhân" :D Tham khảo thêm ý kiến mọi người nhé!
    1 like
  7. Tò mò Diễn giả & đi nghe Nhân tướng học (*) 10:03 PM Sunday October 24,2010 Posted by FLI Club Under Sharing | Commments (0) Facebook Twitter Email Print Tối qua ghé Fahasa tham dự buổi nói chuyện với những người nổi tiếng (gọi như thế có đúng không nhỉ) của FLI (FPT Leader Institute) . Nghe bác Nguyễn Vũ Tuấn Anh bàn về nhân trắc học trong quản trị nhân sự. Sáng nay ghi vội mấy dòng coi như là bài thu hoạch. 1/ Tò mò về diễn giả. Thú thật mình đến vì tò mò về diễn giả nhiều hơn là vì chủ đề mà ông đề cập. Và mình chắc không ít cử tọa phía dưới cũng có cùng mục đích đó. Bác Nguyễn Vũ Tuấn Anh vừa rồi nổi tiếng về vụ "thề thốt" có khả năng ngăn mây đuổi mưa cho đại lễ 1000 năm Thăng Long Hà Nội. Còn nhớ tờ điện tử vietnamnet.vn có tổ chức một buổi tọa đàm trực tuyến với bác. Mình đọc những câu trả lời của bác nhưng thấy không "phục" lắm. Đọc tới đọc lui cũng không hiểu là bác NVTA có khả năng gì, "ngăn mây đuổi mưa" hay chỉ là khả năng dự báo (ôi sao mình ngu thế không biết !). Bác nói là bác đuổi được, nhưng khi yêu cầu dẫn chứng thì chỉ dẫn chứng những lần bác ấy dự báo đúng thế này thế nọ ??? Mà khả năng dự báo cũng còn thòng thêm cái ...xác suất. Mà xác suất thì ... mình dự đoán anh Nam sẽ còn làm tổng giám đốc FPT trong 5 năm nữa, xác suất 90%, mọi người nghĩ sao, he he. Bác NVTA mà một trong số ít người tin rằng (và quả quyết tin rằng) Kinh Dịch là một phần của nền văn hóa Đông Phương - nền văn hóa của người Lạc Việt - tổ tiên của người Việt Nam ta. Bạn nào quan tâm có thể tìm đọc cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Bác ý còn là người sáng tạo ra Lạc Việt độn toán (mà bác khiêm tốn chỉ nhận là khôi phục lại từ những di sản còn lưu truyền trong văn hóa phương Đông) - một phương pháp dự đoán ...đủ thứ. Cá nhân mình rất thích những người có niềm tin mạnh mẽ và sẵn sàng sống chết để bảo vệ niềm tin đó. Dĩ nhiên niềm tin đó phải dựa trên những cơ sở chấp nhận được, nói nôm na là phải "có lý" một chút và đừng quá ảo tưởng (kiểu như Marx ???, he he). 2/ Về buổi nói chuyện Nhận xét đầu tiên là có vẻ như buổi nói chuyện chưa bám sát chủ đề lắm. Tại sao ? Vì chủ đề đưa ra là "Nhân trắc học trong quản trị nhân sự" nhưng diễn biến thực tế không đúng như vậy. Trước hết hãy xem định nghĩa về nhân trắc học: Anthropometry (Greek άνθρωπος, man, and μέτρον, measure, literally meaning "measurement of humans"), in physical anthropology, refers to the measurement of the human individual for the purposes of understanding human physical variation. Nguồn: wikipedia Nói nôm na nhân trắc học là "phép đo người" hay là bộ môn khoa học nghiên cứu về hình thể con người và phép đo đạt trên thân thể con người với mục đích tìm hiểu những biến đổi trên đó. Đây là một khái niệm khá mới (1883) nếu so với lịch sử lâu đời của nhân tướng học trong văn hóa Phương Đông. Nếu so sánh đối tượng và tiêu chí nghiên cứu thì giữa nhân trắc học và nhân tướng học có nhiều điểm chung. Tuy nhiên trong khi "tiêu chí đo lường" của nhân tướng học rất phong phú thì nhân trắc học truyền thống chỉ dựa trên 10 số đo căn bản trên cơ thể con người. Ở một góc độ nào đó thì Nhân tướng học chính là nhân trắc học của người phương Đông. Quay lại chủ đề, mình cho rằng buổi nói chuyện chưa bám sát chủ đề là vì 2 lý do:a. Diễn giả là người có kinh nghiệm về nhân tướng học (và có thể là các kiến thức khác liên quan đến khoa học huyền bí phương đông), chứ chưa hẳn là chuyên gia nhân trắc học (theo nghĩa rộng) và càng không phải là chuyên gia nhân trắc học trong quản trị nhân sự. Dẫn đến lan man, không đúng chủ đề cần thảo luận. b. Thính giả, vì không có những hiểu biết căn bản về nhân trắc/nhân tướng học và vì những quan tâm "ngoài luồng" của mình (về các vấn đề liên quan đến diễn giả, về "hậu vận" của bản thân) đã liên tục đưa buổi nói chuyện đi chệnh hướng. Chẳng hạn có bạn "bổng dưng lại ... hỏi" về Người Maya, ngày tận thế. Lại có bạn hỏi về chuyện đuổi mưa đại lễ...Đồng ý rằng có nhiều bạn tham dự chỉ để "mục kích sở thị" bác NVTA, xem thử bác có phải là người thế nào mà lại có những phát biểu ghê gớm như vậy (như mình chẳng hạn, he he), lại có người tới với hy vọng có duyên được Thiên sứ đuổi mưa xem cho 1 quẻ hậu vận .v.v. Với thời gian hạn hữu hơn 1 tiếng đồng hồ, cho dù là ...bố của thiên sứ cũng khó lòng mà đáp ứng hết được chứ huống hồ là thiên sứ. Nói chung buổi nói chuyện tối qua chỉ mới dừng lại ở mức "Nhân tướng học for newbie" hay chính xác là buổi nói chuyện phiếm về nhân tướng học chứ chưa thực sự là buổi nói chuyện nghiêm túc về "Nhân trắc học trong quản trị nhân sự" (vốn cần nhiều thời gian và cũng cần nhiều diễn giả hơn, thậm chí phải có cả những chuyên gia về nhân sự có am hiểu về nhân trắc chứ không phải chỉ một chuyên gia về nhân tướng không am hiểu nhiều về quản trị nhân sự). Ở một góc nhìn lạc quan hơn, dù sao buổi nói chuyện cũng thỏa mãn được không ít người, những người có ý định gặp gỡ trực tiếp phù thủy đuổi gió ngăn mưa ( hay chém gió ngăn mưa) , những người đang ganh tỵ và muốn tranh đua với nữ hoàng dao kéo Phi Thanh Vân, mong muốn tìm một lời khuyên trước khi quyết định 1 lần sửa mũi vạn bước lên mây. Hay kể cả những người có ý định relax cuối tuần... :D ). ( mình thấy có nhiều người hỏi về vấn đề "nhân tướng và dao kéo", thực ra không cần phải tới bác Tuấn Anh đâu, ai cũng biết muốn nổi tiếng thì không cần sửa mũi, thay vào đó cứ việc độn Silicon vô ngực, càng nhiều càng tốt :D ) 3 Thay lời kết. a. Về Nhân tướng học nói riêng và khoa học huyền bí phương Đông nói chung. Là dân tự nhiên, bạn nghĩ thế nào về nhân tướng học ? Nói như bác NVTA, nó không có 1 cơ sở khoa học nào, nhưng nó đã tồn tại, và vì nó tồn tại đến mấy ngàn năm không bị đào thải cho nên chắc chắn nó phải dựa vào một lý thuyết nào đó, một siêu lý thuyết đã bị đánh mất ở một nền văn minh cực thịnh mà tới bây giờ các nhà khoa học vẫn đang tìm kiếm trở lại. Siêu lý thuyết đó (mà NVTA tạm gọi là lý thuyết Âm dương Ngũ Hành trước khi tìm ra nó) phải chăng cũng chính là lý thuyết mà mấy chục năm cuối đời Einstein vẫn mãi miết đi tìm (và đã thất bại) - thuyết trường thống nhất. NVTA cho rằng nhân tướng học (cũng như các khoa học huyền bí khác) hoàn toàn có thể được xem là một lý thuyết khoa học vì nó có đầy đủ các yếu tố cấu thành của một lý thuyết khoa học: tính nhất quán, tính hoàn chỉnh, tính hợp lý.... kể cả tính tiên tri. Mình thì nghi ngờ ở tính tiên tri này, nó có thật sự có tính tiên tri hay chỉ là một sự ám thị tri giác, kiểu như 10 lần thầy phán sai thì không ai nhớ nhưng chỉ cần 1 lần phán đúng là khen thầy giỏi, đồn đoán lung tung. Dĩ nhiên mình không hồ đồ tới mức phủ định cả một đặc trưng văn hóa đã tồn tại mấy ngàn năm, nhưng điều quan trọng của người làm khoa học, và cả người đam mê khoa học là "phải biết đặt câu hỏi" như Einsteins từng nói. Mình có thể tin vào một vài điều huyền bí, nhưng dù sao vẫn thiếu một xác tín. b. Về vấn đề quản trị con người hiện đại. Cổ nhân dạy: Dụng nhân như dụng mộc. Quản lý con người là cả một nghệ thuật, nó bao gồm nhiều thứ hơn là việc phát hiện năng lực của mỗi cá nhân hay níu giữ cho công ty những người tài giỏi. Trong nghệ thuật quản trị nhân sự hiện đại, người quản lý giỏi không hẳn chỉ là người tìm ra và sở hữu được nhiều người giỏi. Người quản lý giỏi còn phải là người giải quyết bài toán tối ưu hóa một cách xuất sắc, sắp xếp đúng người đúng việc, đồng thời có sức ảnh hưởng đến nhân viên của mình, giúp họ trở nên hoàn thiện hơn, giỏi hơn, nhận thức rõ về khả năng của mình hơn sau mỗi công việc. Nhân trắc học (chứ không phải nhân tướng học) nếu tồn tại như một phương pháp đánh giá trong quản trị nhân sự thì theo mình, nó chỉ có giá trị tham khảo bước đầu, bởi vì tính khách quan của nó (tướng mạo trời sinh mà). Cuối cùng, vấn đề cốt tử trong quản trị con người vẫn là cái tâm, cái tầm của người lãnh đạo mà thôi. --------- (*) Bài viết chia sẻ trên Blog cá nhân của một CBQL sau khi tham gia FLI Club TpHCM #06 , Ban chủ nhiệm xin giới thiệu cùng các Anh, Chị để cùng chia sẻ/ thảo luận. Quan điểm của người viết không nhất thiết là quan điểm của Ban Chủ Nhiệm FLI Club. Trích dẫn: http://fli.com.vn/blogs/viewpost/66758.html
    1 like
  8. TIẾNG VIỆT, DỄ MÀ KHÓ Tiếng Việt vừa dễ vừa khó, đúng hơn, dễ mà lại khó. Dễ đến độ rất hiếm người Việt Nam nào cảm thấy có nhu cầu phải sắm một cuốn Từ Ðiển Tiếng Việt trong nhà. Dễ đến độ bất cứ người nào trưởng thành ở Việt Nam cũng đều có thể tưởng là mình... thông thái, và nếu muốn, đều có thể trở thành... nhà văn được. Thế nhưng, chỉ cần, một lúc thảnh thơi nào đó, ngẫm nghĩ một chút về tiếng Việt, chúng ta bỗng thấy hình như không phải cái gì chúng ta cũng hiểu và có thể giải thích được. Trước đây, có lần, đọc cuốn Trong Cõi của Trần Quốc Vượng, một nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học và văn hoá dân gian nổi tiếng ở trong nước, tới đoạn ông bàn về hai chữ "làm thinh", tôi ngỡ đã tìm thấy một phát hiện quan trọng. Theo Trần Quốc Vượng, "thinh" là thanh, âm thanh, hay là tiếng ồn. "Nín thinh" là kiềm giữ tiếng động lại, là im lặng. Thế nhưng "làm thinh" lại không có nghĩa là gây nên tiếng động mà lại có nghĩa là... im lặng. Cũng giống như chữ "nín thinh". Trần Quốc Vượng xem đó như là một trong những biểu hiện của Phật tính trong ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam: "nín" và "làm" y như nhau; có và không y như nhau; ấm và lạnh cũng y như nhau (áo ấm và áo lạnh là một!); "đánh bại" và "đánh thắng" y như nhau. Quả là một thứ tiếng "sắc sắc không không", nói theo ngôn ngữ Phật giáo, hay "huyền đồng", nói theo ngôn ngữ của Trang Tử. (1) Thú thực, đọc những đoạn phân tích như thế, tôi cảm thấy mừng rỡ và thích thú vô hạn. Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, đọc bài viết "Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm" của Lê Trung Hoa, tôi lại bàng hoàng khám phá ra là chữ "làm thinh" thực chất chỉ là biến âm của chữ "hàm thinh" trong chữ Hán. "Hàm" có nghĩa là ngậm (như trong các từ: hàm ân, hàm oan, hàm tiếu, hàm huyết phún nhân...). "Hàm thinh" là ngậm âm thanh lại, không cho chúng phát ra, tức là không nói, tức là... im lặng. (2) Y như chữ "nín thinh". Nhưng sự giống nhau ở đây chỉ là sự giống nhau của hai từ đồng nghĩa, chứ chả có chút Phật tính hay Trang Tử tính gì trong đó cả. Tôi mới biết là mình mừng hụt. Một ví dụ khác: về hai chữ "vợ chồng". Trước đây, đã lâu lắm, đọc cuốn Ngôn Ngữ và Thân Xác của Nguyễn Văn Trung, tôi thấy tác giả giải thích hai chữ "vợ chồng" đại khái như sau: "Chồng" là chồng lên nhau, nằm lên nhau. Còn chữ "vợ"? Nguyễn Văn Trung chỉ viết bâng quơ, trong câu chú thích in cuối trang: "chữ vợ phải chăng là vơ, vớ, đọc trại đi, theo giọng nặng; nếu thế, chữ vợ chỉ thị việc quơ lấy quàng lên, vơ vào, phù hợp với việc chồng lên trong hành động luyến ái?" (tr. 40) Ðọc đoạn ấy, tôi hơi ngờ ngờ, nhưng rồi cũng bỏ qua, không chú ý mấy. Gần đây, tôi sực nhớ lại vấn đề ấy khi đọc cuốn Phương Ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang. Tôi được biết là ở Bình Trị Thiên, thay vì nói cái "vai", người ta lại nói cái "bai"; thay vì nói đôi "vú", người ta lại nói đôi "bụ"; thay vì nói "vải", người ta lại nói "bải"; thay vì nói "vá" áo, người ta nói "bá" áo; thay vì nói "vả" (vào miệng), người ta lại nói "bả" (vào miệng), v.v... Qua những sự hoán chuyển giữa hai phụ âm V và B như thế, tự dưng tôi nảy ra ý nghĩ: phải chăng nguyên thuỷ của chữ "vợ" là... bợ? "Vợ chồng" thực ra là "bợ chồng"? Tôi càng tin vào giả thuyết trên khi nhớ lại, trong tiếng Việt hiện nay, có cả hàng trăm từ nguyên thuỷ khởi đầu bằng phụ âm B đã biến thành V như thế. Nhiều nhất là từ âm Hán Việt chuyển sang âm Việt. Ví dụ: trong chữ Hán, chữ "bái" sang tiếng Việt thành "vái"; chữ "bản" sang tiếng Việt thành "vốn" và "ván"; chữ "bích" sang tiếng Việt thành "vách"; chữ "biên" sang tiếng Việt thành "viền"; chữ "bố" sang tiếng Việt thành "vải"; chữ "bút" sang tiếng Việt thành "viết"; chữ "bà phạn" sang tiếng Việt thành "và cơm", v.v... Theo Nguyễn Tài Cẩn, trong cuốn Giáo Trình Lịch Sử Ngữ Âm Tiếng Việt (sơ thảo), quá trình hoán chuyển từ B đến V kéo dài khá lâu cho nên hiện nay thỉnh thoảng cả hai biến thể B/V vẫn còn tồn tại song song với nhau, như: băm và vằm (thịt); be và ve (rượu hay thuốc); béo và véo; bíu và víu, v.v... Chúng ta biết là hiện tượng tồn tại song song của hai biến thể như thế không phải chỉ giới hạn trong hai phụ âm B và V. Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, ngày xưa, từ khoảng thế kỷ 17 trở về trước, trong tiếng Việt có một số phụ âm đôi như BL (blăng, blời...), ML (mlầm) hay TL (tlánh). Ðến khoảng thế kỷ 18, các phụ âm đôi ấy dần dần rụng mất. Ðiều đáng chú ý là khi những phụ âm đôi ấy rụng đi thì chúng lại tái sinh thành một số phụ âm khác nhau. Ví dụ phụ âm đôi TL sẽ biến thành TR hoặc L, do đó, hiện nay, chúng ta có một số chữ có hai cách phát âm và hai cách viết khác hẳn nhau, cùng tồn tại song song bên nhau, đó là các chữ tránh và lánh; trộ và lộ, trồi và lồi, trêu và lêu, trũng và lũng, trộn và lộn, trọn và lọn, trệch và lệch, trèo và leo, tràn và lan, v.v... Trong khi đó phụ âm đôi ML sẽ biến thành L hoặc NH, bởi vậy, chúng ta cũng có một số từ tương tự, như lầm và nhầm, lời và nhời, lẽ và nhẽ, lát và nhát, lạt và nhạt, lớn và nhớn.(3) Trong những cặp từ tương tự vừa kể, có một số chữ dần dần bị xem là phương ngữ hoặc là cách nói cổ, càng ngày càng ít nghe, như các chữ Nhớn, Nhời, và Nhẽ. Thay vào đó, chúng ta sẽ nói là lớn, lời và lẽ. Tuy nhiên, những chữ khác thì cho đến nay cũng vẫn còn tồn tại khá phổ biến, ví dụ chúng ta có thể nói là rượu lạt hoặc rượu nhạt; nói lầm lẫn hoặc nhầm lẫn; nói một lát dao hay một nhát dao đều được cả. Ðặt trong toàn cảnh mối quan hệ giữa hai phụ âm B và V cũng như quá trình biến đổi phụ âm đầu như thế, chúng ta sẽ thấy ngay giả thuyết cho nguồn gốc của chữ "vợ" trong "vợ chồng" là "bợ" rất có khả năng gần với sự thật. "Vợ chồng" như thế, thực chất là "bợ chồng". "Bợ": từ dưới nâng lên; "chồng": từ trên úp xuống. Danh từ "bợ chồng" diễn tả tư thế thân mật giữa hai người nam nữ khi ăn ở với nhau. Cách gọi tên khá thật thà như thế kể cũng thú vị đấy chứ? Qua các trường hợp biến đổi từ "hàm thinh" thành "làm thinh" và từ "bợ chồng" thành "vợ chồng", chúng ta tiếp cận được một hiện tượng rất phổ biến trong tiếng Việt: hiện tượng biến âm. Biến âm không phải chỉ vì nói ngọng, kiểu "long lanh" thành "nong nanh" hay "nôn nao" thành "lôn lao" như một số người ở một số địa phương nào đó. Biến âm cũng không phải chỉ vì phương ngữ, kiểu "về" thành "dề" như ở miền Nam, hay "nhà" thành "dà" như ở một số làng huyện ở miền Trung, "trung trinh" thành "chung chinh" như ở miền Bắc. Ðiều đáng nói hơn là những hiện tượng biến âm xuất phát từ những quy luật nội tại của ngôn ngữ, những sự biến âm có mặt ở mọi vùng đất nước và nếu không tự giác và tốn công truy lục, chúng ta sẽ không thể nào tái hiện được nguyên dạng của nó. Chúng ta dễ ngỡ biến âm là chính âm. Dễ ngỡ nó tự nhiên là thế. Ví dụ, để diễn tả tâm sự buồn nào đó dần dần giảm nhẹ đi, chúng ta hay dùng chữ "nguôi ngoai". Ðúng ra là "nguôi hoai". Trong các từ điển cổ, "hoai" có nghĩa là phai nhạt. Nghĩa ấy, cho đến bây giờ chúng ta vẫn dùng trong chữ "phân đã hoai". "Nguôi hoai" là từ ghép chỉ sự phai dần của một nỗi buồn, một niềm đau. Tương tự như vậy, chữ "yếu ớt" chúng ta hay dùng ngày nay là do chữ "yếu nớt". "Ớt" thì không có nghĩa gì cả. Trong khi "nớt" có nghĩa là sinh thiếu tháng, vẫn còn dùng trong từ "non nớt". "Yếu nớt", do đó, có nghĩa là yếu đuối, là non nớt. Chữ "nói mớ" thật ra là biến âm của chữ "nói mơ", nói trong giấc mơ. "Nước miếng" thật ra là biến âm của "nước miệng", nước chảy ra từ miệng, cùng cách kết cấu với các chữ nước mắt hay nước mũi. Chữ "to tát" hiện nay tất cả các từ điển đều viết với chữ T ở cuối, TÁT; nhưng trong Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì lại viết chữ TÁC kết thúc bằng C: "to tác", kèm theo lời định nghĩa là: thô kệch, lớn tác. Mà chúng ta đều biết chữ TÁC có nghĩa là tuổi hay vóc dáng, như trong các từ tuổi tác, tuổi cao tác lớn, hay ngày xưa người ta nói bạn tác, tức bạn hữu; trang tác, tức cùng lứa, cùng tuổi với nhau. (4) Các con số đếm, nơi rất cần sự chính xác, cũng không thoát khỏi luật biến âm. Như số 1, chẳng hạn. Ðứng một mình là một. Ðứng trước các con số khác cũng là một. Nhưng khi đứng sau các con số khác, trừ số 10, nó lại biến thành "mốt": hai mươi mốt; ba mươi mốt, bốn mươi mốt. Những chữ "mốt" ấy chính là biến âm của "một". Nhưng không phải lúc nào "mốt" cũng có nghĩa là một: "Mốt" trong một trăm mốt hay trong một ngàn mốt, một triệu mốt... không phải là một. Con số 5 cũng vậy. Ðứng một mình là năm. Ðứng trước các số khác cũng là năm. Nhưng khi đứng sau các số, từ 1 đến 9, nó lại biến thành "lăm": mười lăm, hai mươi lăm... Con số hai mươi lăm ấy lại được biến âm thêm một lần nữa, thành hăm nhăm. Số ba mươi lăm cũng thường được biến âm thành băm nhăm. Từ số bốn mươi lăm trở lên thì chỉ có một cách rút gọn là bốn lăm; năm lăm, sáu lăm, bảy lăm, tám lăm, và chín lăm chứ không có kiểu biến âm như hăm nhăm và băm nhăm. Con số 10, cũng vậy. 10 là mười. Nhưng từ 20 trở lên thì "mười" biến thành "mươi”: hai mươi, ba mươi, bốn mươi... Dấu huyền bị biến mất. Có điều, "mươi" không phải lúc nào cũng có nghĩa là mười. Trong nhóm từ "mươi cái áo", chẳng hạn, "mươi" lớn hơn hoặc nhỏ hơn mười: một con số phỏng định, ước chừng, bâng quơ. Con số còn thay đổi được, huống gì những từ khác. Như từ "không", chẳng hạn. Phủ định điều gì, người ta có thể nói "không", mà cũng có thể nói "hông", nói "khổng", nói "hổng". Xuất hiện trong câu nghi vấn, chữ "không" ấy có thể có thêm một biến âm khác là "hôn": "nghe hôn?" Chưa hết. Một số âm vị trong cụm "nghe hôn" ấy bị nuốt đi; "nghe hôn" biến thành "nghen", rồi đến lượt nó, "nghen" lại biến thành "nghén" hay bị rút gọn lần nữa, thành "nhen", rồi "hen", rồi "hén", rồi "nhe", v.v... Như vậy, biện pháp biến âm trở thành một biện pháp tạo từ. Ðã có từ "vậy", chỉ cần thay dấu nặng bằng dấu huyền, chúng ta có từ mới: "vầy" (như vầy này!). Ðã có từ "lui hui", người ta tạo thêm các chữ "lúi húi" rồi "lụi hụi". Ðã có từ "chừ bự", người ta tạo thêm các từ mới: chư bư, chừ bư, chừ bử, chử bử, chứ bứ, chự bự. Ðã có "trật lất", người ta tạo thêm: trết lết, trét lét, trớt lớt, trớt huớt... (5) Ðã có từ "ngoại" vay mượn từ chữ Hán, chúng ta tạo thêm hay từ khác: "ngoài" để các quan hệ không gian cũng như thời gian và "ngoái" để chỉ quan hệ về thời gian: "năm ngoái". Biện pháp biến âm như vậy đã dẫn đến một hiện tượng khá thú vị trong tiếng Việt: hiện tượng từ tương tự, tức những từ hao hao gần nhau về cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa, chẳng hạn: các chữ bớt và ngớt; đớp, tợp, hớp và đợp; bẹp, xẹp, lép, khép, nép và nẹp; khan, khàn và khản; xẻ, chẻ, bẻ và xé; xoăn, xoắn, quăn và quắn; tụt, rụt và thụt; véo, nhéo, và béo; v.v... Các từ tương tự ấy có khi khác nhau về từ loại nhưng lại tương thông tương ứng với nhau về ý nghĩa, chẳng hạn: chúng ta có cái nẹp để kẹp, cái nêm để chêm, cái nan để đan, cái mõ để gõ, cái nệm để đệm, cái vú để bú; hoặc chúng ta cưa thì thành khứa, rung thì rụng, phân thì có từng phần, dựng thì đứng, thắt thì chặt, đập thì giập, dìm thì chìm, ép thì ẹp, dứt thì đứt, chia thì lìa, gạn thì cạn, v.v.... Mới đây, đọc báo, không hiểu tại sao, tình cờ tôi lại chú ý đến chữ "đút" trong một câu văn không có gì đặc biệt: "Chị ấy đút vội lá thư vào túi quần..." Từ chữ "đút" ấy, tôi chợt liên tưởng đến chữ "rút": cả hai từ làm thành một cặp phản nghĩa: đút (vào) / rút (ra). Ðiều làm tôi ngạc nhiên là cả hai từ đều có phần vần giống nhau: "-ÚT". Chúng chỉ khác nhau ở phụ âm đầu mà thôi: một chữ bắt đầu bằng phụ âm "đ-" (đút) và một chữ bằng phụ âm "r-" (rút). Hơn nữa, cả từ "đút" lẫn từ "rút", tuy phản nghĩa, nhưng lại có một điểm giống nhau: cả hai đều ám chỉ sự di chuyển từ không gian này sang không gian khác. "Ðút" cái gì vào túi hay "rút" cái gì từ túi ra cũng đều là sự chuyển động từ không gian trong túi đến không gian ngoài túi hoặc ngược lại. Tôi nghĩ ngay đến những động từ có vần "-ÚT" khác trong tiếng Việt và thấy có khá nhiều từ cũng có nghĩa tương tự. "Sút" là động tác đưa bóng vào lưới. "Hút" là động tác đưa nước hoặc không khí vào miệng. "Mút" cũng là động tác đưa cái gì vào miệng, nhưng khác "hút" ở chỗ vật thể được "mút" thường là cái gì đặc. "Trút" là đổ cái gì xuống. "Vút" là bay từ dưới lên trên. "Cút" là đi từ nơi này đến nơi khác do bị xua đuổi. "Nút" hay "gút" là cái gì chặn lại, phân làm hai không gian khác nhau. Thay dấu sắc (ÚT) bằng dấu nặng (ỤT), ý nghĩa chung ở trên vẫn không thay đổi. "Trụt" hay "tụt" là di chuyển từ trên xuống dưới. "Vụt" là di chuyển thật nhanh, thường là theo chiều ngang. "Lụt" là nước dâng lên quá một giới hạn không gian nào đó. "Cụt" là bị cắt ngang, không cho phát triển trong không gian. "Ðụt" (mưa) là núp ở một không gian nào đó, nhỏ hơn, để tránh mưa ngoài trời. Vân vân. Nếu những động từ có vần "-ÚT" thường ám chỉ việc di chuyển (hoặc việc ngăn chận quá trình di chuyển ấy) giữa hai không gian thì những động từ có vần "-UN" lại ám chỉ việc dồn ứ lại thành cục trong một không gian nhất định nào đó, thường là có giới hạn. "Ùn", "chùn", "dùn", hay "đùn" đều có nghĩa như thế. "Thun" hay "chun" cũng như thế, đều chỉ cái gì bị rút, bị co. "Cùn" là bẹt ra. "Hùn" là góp lại. "Vun" là gom vào. "Lún" hay "lụn" là bẹp xuống. Cả những chữ như "lùn" hay (cụt) "lủn", (ngắn) "ngủn", "lũn cũn"... cũng đều ám chỉ cái gì bị dồn nhỏ hay thu ngắn lại. Với cách phân tích như vậy, nếu đọc thật kỹ và thật chậm các cuốn từ điển tiếng Việt, chúng ta sẽ dễ thấy có khá nhiều khuôn vần hình như có một ý nghĩa chung. Chẳng hạn, phần lớn các động từ hay tính từ kết thúc bằng âm ÉT hay ẸT đều chỉ những động tác hay những vật thể hẹp, thấp, phẳng. "Kẹt" là mắc vào giữa hai vật gì; "chẹt" là bị cái gì ép lại. "Dẹt" là mỏng và phẳng; "tẹt" là dẹp xuống (kiểu mũi tẹt); "bét" là nát, dí sát xuống đất; "đét" là gầy, mỏng và lép. Những dộng từ kết thúc bằng âm EN thường chỉ các động tác đi qua một chỗ hẹp, một cách khó khăn, như: "chen", "chẹn", "chèn", "len", "men", "nghẽn", "nghẹn", "nén". Những từ láy có khuôn vần ỨC – ÔI thì chỉ những trạng thái khó chịu, như "tức tối", "bức bối", "bực bội", "nực nội", "nhức nhối", v.v... Những ví dụ vừa nêu cho thấy hai điều quan trọng: Thứ nhất, nếu chịu khó quan sát, chúng ta sẽ phát hiện trong những chữ quen thuộc chúng ta thường sử dụng hàng ngày ẩn giấu những quy luật bí ẩn lạ lùng. Tính chất bí ẩn ấy có thể nói là vô cùng vô tận, dẫu tìm kiếm cả đời cũng không hết được. Ðiều này khiến cho không ai có thể an tâm là mình am tường tiếng Việt. Ngay cả những nhà văn hay nhà thơ thuộc loại lừng lẫy nhất vẫn luôn luôn có cảm tưởng ngôn ngữ là một cái gì lạ lùng vô hạn. Thứ hai, vì có những quy luật, những điểm chung tiềm tàng giữa các chữ như vậy cho nên việc học tiếng Việt không quá khó khăn. Nói chung, người Việt Nam đều có khả năng đoán được ý nghĩa của phần lớn các chữ mới lạ họ gặp lần đầu. Lần đầu gặp chữ "thun lủn", chúng ta cũng hiểu ngay nó ám chỉ cái gì rất ngắn. Lý do là vì chúng ta liên tưởng ngay đến những chữ có vần "UN" vừa kể ở trên: cụt ngủn, ngắn ngủn, v.v... Lần đầu gặp chữ "dập dềnh", chúng ta cũng có thể đoán là nó ám chỉ một cái gì trồi lên trụt xuống do sự liên tưởng đến những chữ có khuôn vần tương tự: bấp bênh, gập ghềnh, khấp khểnh, tập tễnh, v.v... Nói tiếng Việt vừa dễ vừa khó là vì thế. ****************** Chú thích : 1. Trần Quốc Vượng (1993), Trong Cõi, Garden Grove: Trăm Hoa, tr. 169. 2. Lê Trung Hoa, “Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm”, in trong cuốn Những vấn đề văn hoá, văn học và ngôn ngữ học (nhiều tác giả), nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1999: 211-225. 3. Xem bài "Vài chuyển biến trong phụ âm đầu tiếng Việt và các hiện tượng láy từ liên hệ" của Nguyễn Phú Phong trên Tập san Khoa Học Xã Hội (Paris) số 3 năm 1977, tr. 73-80. 4. Một số ví dụ trong đoạn này lấy từ bài viết của Lê Trung Hoa theo sách dẫn trên. 5. Biện pháp biến âm này đặc biệt thông dụng trong phương ngữ miền Nam. Có thể xem thêm cuốn Từ Ðiển Phương Ngữ Nam Bộ của Nguyễn Văn Ái, Lê Văn Ðức và Nguyễn Công Khai, nxb Thành Phố ****, 1994. Nguyễn Hưng Quốc Theo Văn Học, số 193, tháng 5.2002
    1 like
  9. Tôi không nhầm đâu ,những điều tôi giải đó là dựa vào lá số trên của bạn ,vì tôi lá số của bạn ghi 9h 15 ,mà 9 giờ là giao giờ giữa Thìn vÀ tỴ ,với đồng hồ lên giây hạy chạy bằng quả lắc ngày xưa thì không có cái nào là đúng cả chỉ cần vài tháng mà không chỉnh lại thì cũng có cái đi sớm hay đi muộn 1/2 giờ ;lý do đó ,khi lá số trên của anh trong cung phu thê không thấy có hiện tượng dang dỡ 2 -3 lần vợ , nếu bạn là người thấp mà tròn người mặt tròn ,tay chân ngắn ,xương nhỏ cha mẹ còn đầy đủ ,thì chắc bạn có lá số của giờ khác ,nếu bạn là con trưởng hay đoạt trưởng ,trong khoảng thời gian ngoài 14 >24 tuổi có lần xa nhà khá lâu hay là cha hay mẹ bạn cũng có thời gian xa cách bạn không ở gần /anh chị em thì có khuyết 1-2 người có thể chết non hay chết còn trong bụng mẹ ; nếu lời nầy đúng bạn lấy lá số trước 9h ,5.10 phút ,tôi sẽ xem lại .
    1 like
  10. 1 like
  11. Suy ngẫm về câu nói của Duca, tôi kịp nhận ra rằng:Ngay cả một con tàu chìm, chỉ cần một phần nhỏ, rất nhỏ thôi bị hỏng. Vâng. Đó chính là lỗ thủng ở đáy tàu đủ làm nước tràn vào. Đấy chỉ là một bộ phận của con tàu chứ không phải tất cả. Vâng. Một bộ phận của con tàu chứ không phải tất cả. Con tàu vẫn hoàn hảo ít nhất khi nó được đóng bởi những hãng nổi tiếng.
    1 like
  12. Không có bữa ăn nào miễn phí Tác giả: Alan Phan Tuanvietnam.net Bài đã được xuất bản.: 3 giờ trước Người Mỹ có câu, "trong một sòng bài "phé" (poker) bịp bợm luôn có một nạn nhân. Nếu bạn không biết ai là nạn nhân, thì người đó chính là bạn". Chuyện ngày xưa kể rằng có một vị vua Hi Lạp được tiếng là thông minh đức độ cai quản một xứ sở thanh bình an khang. Ông có một thư viện thu thập cả chục ngàn cuốn sách suốt lịch sử văn minh loài người và có ước muốn là chia sẻ những kiến thức khôn ngoan này cho trăm họ. Ông triệu 500 nhà thông thái nhất của quốc gia và yêu cầu họ cùng nhau ngồi xuống tóm lược mọi "tinh túy văn hóa" nhất của nhân loại vào một vài lời dễ hiểu (thay vì một thư viện sách) để mọi người dân cùng thấm thía đạo của trời và của người. Sau hơn một tháng, 500 nhà thông thái đưa lên một văn bản 5 trang là công trình tóm lược. Vị vua thấy vẫn còn quá phức tạp, dân thường không ai có thể thấm nhuần được tư tưởng kiểu này. Sau đó là một tóm lược còn 3 trang, rồi 1 trang rồi 1 phân đoạn. Nhưng vị vua vẫn không vừa ý. Cuối cùng ông cười hả hê khi vị đại diện trao cho ông cái túi khôn ngoan của nhân loại trong một câu văn độc nhất, "Không có bữa ăn nào miễn phí cả" (there is no free meal). Đây là một thực tế hiển nhiên mà con người thời đồ đá cách đây 10 ngàn năm hiểu rất rõ. Ngày nào mà không săn được con mồi nào đem về hang động, là ngày đó gia đình phải đói. Rồi loài người tiến hóa thành cộng đồng văn minh hơn, tổ chức những xã hội có tầng lớp và phân chia công tác theo khả năng của từng người. Xã hội mới đẻ ra một tầng lớp lãnh đạo có đầu óc và tham vọng. Từ đế chế Trung Quốc đến Ai cập và sau đó La Mã, Anh, Mỹ... giới quý tộc và chính trị gia giàu có luôn luôn bận rộn suy nghĩ tìm những thủ thuật và phù phép để có "những bữa ăn miễn phí" dâng lên từ tầng lớp nghèo hèn. Nếu nhìn vào cốt lõi, đây là một hình thái "ăn cắp", nhưng được che đậy bằng những mỹ từ cao đẹp và văn hoa, giống như một bộ quần áo thời trang đắt tiền của Louis Vuitton sẽ che đậy những mục nát của thân thể béo phì, làm mờ mắt người qua lại. Xã hội ngày nay dù có tiến bộ cũng không dễ gạt bỏ nổi lòng tham "ăn free" vốn đã mọc rễ trong lòng người 10 ngàn năm qua. Chuyện kiếm tiền, càng nhanh càng nhiều càng tốt, là một đề tài thời thượng, hấp dẫn và lan tràn khắp mọi mạng truyền thông từ tin thời sự trên báo đến những câu chuyện ở quán cà phê, những bài giảng trong lớp học. Trong dư luận, không thiếu những chuyện thích bắt chước lẫn nhau không đóng góp một công sức gì cho xã hội nhưng tìm đủ mọi cách để bòn rút ăn cắp. Hiện tượng phổ biến đến nỗi không ai còn cảm giác ngạc nhiên hay phẫn nộ khi bị lộ diện. Năm 2008, các chính phủ Âu Mỹ (và sau đó toàn thế giới) phát động chương trình kích cầu chống suy thoái, nhưng thực sự đây chỉ là một hình thức ăn cắp tiền của dân để cứu các ngân hàng và các nhà đầu tư lớn, có thế lực chính trị. Khi khó lấy tiền thuế trực tiếp của dân, các chính phủ đã tìm những mánh khóe ly kỳ hơn... như đi vay bừa bãi để thế hệ sau phải gánh nợ chồng chất, hay in thêm tiền để gây lạm phát (anh có 10 đồng, tôi muốn lấy 2, tôi chỉ việc làm cho tiền mất giá 20% là anh đã bị mất tiền mà không hề hay biết). Chính phủ Trung Quốc còn hay hơn nữa, họ giữ lãi suất ngân hàng dưới 2% trong suốt 30 năm để lấy tiền tiết kiệm của dân cho các tập đoàn nhà nước vay kinh doanh (thực sự các quan làm ăn theo lối OPM (tiền người khác- other people's money; nên mất rất nhiều trong các lỗ lãi, thất thoát và nợ xấu mà không ai phải chịu trách nhiệm). Trò phù phép khác là giữ tỷ giá Yuan (nhân dân tệ) thật thấp để được xuất khẩu cao (nhằm lấy thuế, ngoại tệ và tài sản nhờ giá lao động rẻ mạt của nhân công và không cho họ hưởng thành quả đáng lẽ phải đến từ giá trị cao của đồng tiền). Các tầng lớp tư nhân giàu có thì lợi dụng những khe hở của pháp luật (ở Mỹ) hay lạm dụng mối quan hệ với các quan chức (ở Trung Quốc) để tìm những dự án "ăn free" như trưng dụng đất đai của nông dân nghèo, lấy hỗ trợ tài chính của chính phủ (tiền dân), chia chác các hợp đồng béo bở về xây dựng hạ tầng hay quân sự (không bị giám sát nhiều). Những vụ đầu cơ, làm giá hay lướt sóng trên các thị trường tiêu thụ hay tài chính chỉ là các hình thức thác của thủ thuật ăn cắp. Trong khi đó, nhóm bị lợi dụng (những con kiến làm việc chăm chỉ, âm thầm đóng góp cho kinh tế) thì hoa mắt với những đánh bóng hư ảo của các "nhân vật" xã hội, chỉ ước ao bắt chước mọi hành vi lố lăng của họ. Hình ảnh được truyền bá khắp nơi, như một trò ru ngủ khiến mọi người quên đi cái túi tiền của mình. Người Mỹ có câu, "trong một sòng bài "phé" (poker) bịp bợm luôn có một nạn nhân. Nếu bạn không biết ai là nạn nhân, thì người đó chính là bạn". Ngay cả những sinh viên với một đầu óc tương đối trong sạch, tiến bộ, cũng quan tâm đến chuyện "kiếm tiền" hơn là kiếm kiến thức (năm 2008, một thống kê 3.600 sinh viên năm thứ tư cho thấy 71% sinh viên Mỹ và 84% sinh viên Trung Quốc coi chuyện kiếm tiền sau khi tốt nghiệp là mục tiêu quan trọng nhất). Người bình dân Việt Nam có câu nói "coi dzậy mà không phải dzậy". Chỉ tiếc là dù nhiều người cũng cảm thấy bị lừa dối, nhưng việc bận rộn mưu sinh và sự đam mê các màn xiếc và trò giác đấu (thời La Mã) hay các giải bóng đá và những cuộc thi hoa hậu, lễ hội (thời nay)... đã làm phần lớn dân chúng quên đi cái giá sẽ phải trả này. Chuyện ngày xưa kết thúc bằng sự thất bại của vị vua khi truyền bá học thuyết "không có bữa ăn nào miễn phí". Người vi phạm luật đầu tiên là bà hoàng hậu rồi sau đó là các hoàng tử, công chúa, và quần thần. Ông vua thất vọng, bỏ đi tu trên núi xa. Có lẽ để nghiền ngẫm lời đức Phật về "tham, sân, si", ba vấn nạn lớn nhất cho sự giải thoát của tâm hồn. Còn bây giờ, chúng ta đang sống trong một thời đại mà phần lớn các dân tộc của chủ nghĩa toàn cầu đều chia sẽ quan điểm là... cái gì cũng có thể free cả, cứ việc dùng mọi thủ đoạn để gom góp, và việc duy nhất cần để ý là tránh đừng để bị tố giác. Danh từ thời thượng gọi là "hạ cánh an toàn". Tôi vừa coi xong cuốn phim mới nhất, Wall Street 2: Money never sleeps. Vai chính Gordon Gekko có một câu nói thú vị, "Ngày xưa, tham lam là một tật xấu cần thiết để tạo động lực cho kinh tế. Bây giờ, tham lam là một hành xử hợp pháp và hợp thời trang". Về tác giả:T/S Alan Phan là Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa tại Hong Kong và Shanghai. Du học Mỹ từ năm 1963, ông đã làm việc tại nhiều công ty đa quốc gia ở Wall Street và phát triển công ty Hartcourt của mình thành một tập đoàn niêm yết trên sàn Mỹ với thị giá hơn 700 triệu dollars. Ông sống và làm việc tại Trung Quốc từ 1999. T/S Phan tốt nghiệp BS tại Penn State (Mỹ), MBA tại American Intercontinental (Mỹ), Ph.D tại Sussex (Anh) và DBA tại Southern Cross (Úc).
    1 like
  13. Bắp cải giảm béo, chữa tiểu đường Loại rau này giúp làm giảm đường huyết, ngăn chuyển hóa chất bột thành mỡ nên rất tốt cho bệnh nhân tiểu đường, béo phì. Theo Đông y, bắp cải vị ngọt, tính hàn, có công dụng giải độc, lợi tiểu, thanh nhiệt, giải khát, mát dạ dày, trừ đờm, chống suy nhược thần kinh, giảm đau, phòng bệnh tim mạch. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu cho thấy việc ăn bắp cải thường xuyên có thể phòng bệnh ung thư dạ dày, ruột, thanh quản, thực quản, phổi, tiền liệt tuyến, bàng quang, hậu môn. Tuy vậy, trong bắp cải có chứa một lượng goitrin mặc dù có tác dụng chống oxy hóa nhưng lại gây bệnh bướu cổ, vì vậy những người bị rối loạn tuyến giáp hoặc bướu cổ không nên dùng. Những người suy thận nặng cũng không nên ăn bắp cải. Những người táo bón, tiểu ít không bắp cải sống, bắp cải muối mà phải nấu chín. Với bệnh nhân tiểu đường, bắp cải sẽ làm giảm quá trình đồng hóa gluxit và giảm đường huyết. Với người béo phì, bắp cải ngăn gluxit chuyển hóa thành lipit, một trong những nguyên nhân gây béo phì. Nước ép bắp cải có thể chữa viêm họng, viêm phế quản, khản tiếng. Đắp bắp cải ngoài da có thể chữa mụn nhọt và vết sâu bọ đốt. Với hệ tim mạch, bắp cải có tác dụng hạ nhanh cholesterol trong máu, giảm bệnh xơ vữa mạch máu, thiểu năng mạch vành, tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim. Khi bị thấp khớp, đay dây thần kinh tọa, gout, có thể lấy bắp cải ép nước uống, bã đắp vào chỗ đau cũng có tác dụng tốt. Hoặc khi đau nhức khớp, nhức tay chân, nổi hạch thì lấy lá bắp cải cán giập gân lá, hơ nóng rồi áp lên chỗ đau. BS Nguyễn Thị Nhân (Đất Việt)
    1 like
  14. Thiên hạ họ Hùng- nguồn gốc họ Nguyễn Người họ Nguyễn ở Trung Quốc có 81 vạn người, đông thứ 162 trong các họ, chiếm 0,065% dân số. Họ Nguyễn phân bố chủ yếu ở vùng ven biển đông nam và đông Trung Quốc, riêng bốn tỉnh Triết Giang, Hồ Bắc, Quảng Đông, Phúc Kiến chiếm 50% số người trong họ, trong đó nguyên Triết Giang chiếm 15% số người trong họ; thứ đến năm tỉnh Hà Nam, Thiểm Tây, Giang Tây, Sơn Đông, Giang Tô chiếm 26% người trong họ. Điều này cho thấy rằng người họ Nguyễn còn lại đông nhất là ở địa bàn các nước Bách Việt thời cổ đại, mà đông nhất là ở nước Việt xưa của Việt vương Câu Tiễn là vùng Triết Giang. Nhưng các nước Bách Việt chỉ là sự phục hồi vào giai đoạn Xuân Thu của tộc Họ Hùng dòng giống Việt thời thượng cổ, có không ít họ của dòng Hùng đã lui về phía nam khỏi lưu vực Hoàng Hà trước áp lực của các tộc du mục phương Bắc. Họ Nguyễn đông chỉ ở miền nam Trung Quốc . Ma kao phát âm là “Un”, Hồng Kông phát âm là “Yuén”, Đài Loan phát âm là “Chuen”, mà ở tiếng Mân Nam - Đài Loan “choen” còn có nghĩa là tiếng xưng hô “tôi” giống như từ “choa” trong tiếng Nghệ An, từ “Việt Nam” người Hoa phát âm là “Yue nán” cũng lướt thành “Yuén, người Căm Pu Chia gọi là “Yuôn” hay “Duôn”, tiếng phổ thông Trung Quốc phát âm là Roản.Tiếng phổ thông Trung Quốc mới chỉ xuất hiện 400 năm nay, do phát minh của người Mãn (về phát âm và về ngữ pháp, chỉ có chữ thì vẫn dùng chữ nho cổ truyền).Tại sao người phương Bắc lại phát âm là Roản, có mấy thuyết cho rằng: Hoặc do kết quả của việc chính phủ triều đình Mãn Thanh chèn ép triều Nguyễn của Việt Nam. Hoặc vào thời nhà Nguyên của các “Khan” Mông Cổ trước kia người họ Nguyễn phải kỵ húy chữ Nguyên. Hoặc do khi nhà Nguyên kết thúc, người Mông Cổ gặp phải sự tẩy chay của người Hoa nên người họ Nguyễn, để tránh vạ lây với người Nguyên, mà phát âm là Roản. (Theo http://www.baike.baidu.com/view/569974.htm) Theo sách sử Trung Hoa thì thời Chu cứ lấy đất phong hầu thành một nước chư hầu nhỏ của nhà Chu, nên số lượng các họ gia tăng. Trước thời Hạ, Thương, các bộ lạc là thị tộc thì “thị” vốn là “con cháu của rồng” vẫn cùng tồn tại sinh sôi nảy nở trên mảnh đất thiên hạ nhà Chu, các nước lớn nhỏ đều lấy tên nước làm họ. Những nước con con như vậy kỳ thực là những thị tộc bộ lạc. Có tất cả 64 nước. Phong nhiều nước chư hầu như vậy nhưng vị thế các nước ấy không như nhau, cũng có thứ bậc là “ Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男” ( theo ý chữ thì tương ứng thì là “Ông”, “Hầu”, “Bác”, “Con”, “Trai” , thật chẳng có nghĩa gì về cái “tước” được phong cả, mà cũng chẳng theo cái “chục con”= “thập can” như là đếm thứ tự gì cả, kỳ thực đấy chỉ là do người đời sau dùng chữ nho dịch lại những âm tiếng Việt là “Chắc”, “Hai”, “Ba”, “Tư”, “Năm” mà thôi, nó mới ra thứ bậc tương ứng là 1 – 2 – 3 – 4 – 5 ). Kẻ được phong nước có dân đông thì đều là môn đệ quyền thế ngoại thất của vua Chu hoặc là công thần của vua Chu, còn những tiểu bang tiểu quốc thì nhiếu như rừng. Chế độ phong 5 đẳng cấp ấy sản sinh ra 5 cấp “Hầu” là Quốc Hầu 國侯, Ấp Hầu 邑侯, Quan Hầu 闗侯, Hương Hầu 鄉侯 và Đình Hầu 亭侯. Lễ chế nhà Tây Chu 西周 qui định cứ 1250 hộ họp thành một hương 鄉, một hương quản 10 đình 亭, một đình quản 10 lý 里. Do vậy lại xảy ra khi dân số càng đông lên, lại lấy tên các đơn vị hành chính làm họ, số họ trong thiên hạ càng ngày càng nhiều. Có thuyết nói nguồn gốc họ Nguyễn là từ họ Cơ 姬. Theo “Xuân Thu công tử phổ 春秋公子譜” thời Xuân Thu 春秋 có công tử nước Trịnh 郑国 là một nước của họ Cơ 姬, tên là Phong Hựu Đại Phu 豐又大夫 tên tự là Thạch 石, con cháu về sau lấy tên tự làm họ gọi là họ Thạch 石氏. Đến đầu thời Đông Tấn 東晉 con cháu họ Thạch phải chạy loạn đến vùng Nguyễn Tích 阮厝 của nước Sở 楚国 (nay là Cụ Châu 衢州 tỉnh Triết Giang 浙江, cũng có thuyết nói nay là Hạ Môn 厦門 tỉnh Phúc Kiến 福建), rồi lấy tên nơi cư ngụ mới là vùng Nguyễn Tích 阮厝làm họ gọi là họ Nguyễn 阮. Sau đó họ chạy dần về nam là đất Giao Chỉ thành họ Nguyễn ở Việt Nam. Còn một họ Nguyễn khác ở Trung Quốc là hậu duệ dòng Thác Bạt. Thác Bạt là quí tộc của tộc Tiên Ti là một sắc dân du mục phía bắc Hoàng Hà, tới thời Hiếu Văn Đế họ Thác Bạt đổi thành họ Nguyên 元, về sau lại ghi là Nguyễn 阮. Lại nữa, thời thượng cổ có dân du mục Trung Á tiến nhập lưu vực Hoàng Hà, họ có cây đàn bốn dây giống cây đàn “nguyệt”, dân gọi là đàn “nguyễn 阮”. Về sau họ cũng thành người mang họ Nguyễn 阮. Họ Nguyễn ở Việt Nam là một trong 5 họ đông nhất trong dân số ( Nguyễn = 38,4%,Trần = 11% , Lê = 9,5%, Hoàng = 5,1%, Phạm = 5%, Phan = 4,5%, Vũ = 3,9%, Đặng = 2,1%, Bùi = 2,1%, Đỗ = 1,4%, Hồ = 1,3%, Ngô = 1,3%, Dương = 1%, Lý = 0,5%). Tại sao người họ Lý ở Việt Nam ít ? Có thuyết nói rằng khi nhà Trần thay nhà Lý thế kỷ 12, vua Trần viện cớ rằng họ Lý vốn xưa có gốc là họ Nguyễn nên lệnh cho người họ Lý toàn quốc đổi sang họ Nguyễn, làm gia tăng “cơ học” dân số họ Nguyễn. Điều này còn phải chờ ý kiến xác minh của các nhà sử học Việt Nam. Nhưng sau thời Lý không phải chỉ có Hoàng tử Lý Long Tường và bộ hạ vượt biển sang Hàn Quốc lập thành dòng họ Lý ở Hoa Sơn, mà còn một Hoàng tử nữa của họ Lý cũng vượt biển sang Hàn Quốc và lập nên một dòng họ Lý khác ở Hàn Quốc.( Họ tên người Hàn Quốc cũng là ba tiếng và kết cấu là họ trước tên sau như ngữ pháp tiếng Việt, chính trước phụ sau. Đó là vì người Hàn Quốc đã sử dụng chữ nho từ thời ông Tề Công ở nước Tề truyền bá sang cho họ. Thời nhà Đường ba lần sang bình định Hàn Quốc mà không được, nước Hàn Quốc vẫn là nước độc lập, dù dùng hoàn toàn chữ nho. Quân Nguyên Mông xâm lăng Hàn Quốc bị thua, trong đó cũng phải kể đến công lao kháng chiến của người họ Lý ở Hoa Sơn dưới sự lãnh đạo của Hoàng tử Lý Long Tường. Đến thế kỷ 13 một vị vua anh minh của Hàn Quốc mới sáng tạo ra chữ vuông chứa các ký tự ghi âm gom thành ô vuông là chữ Hàn Quốc ngày nay, nhưng bộ giáo dục Hàn Quốc đến nay vẫn bắt buộc trẻ em từ mẫu giáo phải học thuộc 1800 chữ nho nguyên thủy, Nhật Bản thì bắt buộc phải học thuộc 2500 chữ nho. Chứ tiếng Hàn Quốc là ngôn ngữ chắp dính đa âm tiết, ngữ pháp là phụ trước chính sau, thời thượng cổ họ vốn là dân du mục từ Trung Á sang, ngôn ngữ họ gần gũi với ngôn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ). Một lý do “cơ học” nữa là thời nhà Nguyễn nhiều người họ khác khi được làm quan thì đổi sang họ Nguyễn. Ví dụ một họ Nguyễn ở Sơn Tây có gia phả nói rằng họ vốn là họ Hà ở Quảng Yên Quảng Ninh đến định cư ở Sơn Tây, do triều Nguyễn tuyển người có học vào “biên chế” chức hương lại nên quan sở tại khuyên họ đổi sang họ Nguyển để dễ được xét tuyển, sau 1945 con cháu họ lại lấy lại là họ Hà. Kỳ thực thời thượng cổ họ Lý và họ Nguyễn đều có cùng gốc tổ là họ Cơ. Tiên tổ họ Nguyễn là Cao Đào 皋陶 được phong đất Yên 偃. Đất Yên thời thái cổ là đất vùng Ôn 温 nhiệt tức xứ nóng gần xích đạo, ở phía nóng “bức” hơn đất Giữa là Giao Châu, nay là vùng Trung Bộ Việt Nam và Lào, mà người Căm Pu Chia gọi đất Yên ấy là Yuôn hay Duôn. Sử sách Trung Hoa về sau gọi nước đó là Lâm Ấp hay Việt Thường tức ấp quốc ở phía “lam” tức phía “nam”, Lâm Ấp còn một biến âm là Chăm Pa hay nước Chàm, nước Chiêm Thành. Từ An Nam 安南 (an nan) có về sau như sử sách Trung Hoa gọi, cũng là do âm Yên 偃 (yan) thời thái cổ ra mà thôi. Vì tên nước là An Nam nên thế kỷ 15 các nhà truyền giáo phương Tây (sau khi đã đặt chân đến Philipin, Đài Loan, Ma Cao rồi mới biết đến nước An Nam) gọi người nước An Nam là “An Nam mít” theo nghĩa tiếng Tây là “người An Nam”, các cụ nho nghe từ “mít” đồng âm với “mít đặc” nên bảo là nó gọi thế để miệt thị dân mình, đó chỉ là sự suy diễn, có miệt thị chăng chỉ là ở chỗ bọn thực dân cướp mất chủ quyền quốc gia để độc quyền khai thác khoáng sản tài nguyên bóc lột thuộc địa. Nhưng từ An Nam vì thế mà chịu “ấn tượng ngôn ngữ” thành tiếng xấu . Về sau Nguyễn Phúc Ánh kiến lập triều Nguyễn đổi quốc hiệu “An Nam” thành “Việt Nam” là chữ có từ thời ông Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dùng, chữ Việt này người Hoa phát âm là Yuê, phiên âm Anh ngữ là Yuen, tương tự như Nguyễn. Hậu duệ họ Cơ 姬 tức là con cháu Họ Hùng được phong đất Yên lấy tên đất làm họ gọi là họ Nguyễn. Dùng chữ nho để ghi âm tên đất như tên Yên (Yan 偃) chẳng hạn chỉ là của sách sử về sau. Tuy vậy chữ nho “Nguyễn 阮” gồm bộ “ấp” và chữ “nguyên 元” tức đầu tiên nên nó có nghĩa là “ấp đầu tiên”, cũng giống chữ “Trần 陳” gồm bộ “ấp” và chữ “đông 東” có nghĩa là “ấp phía đông” tức ven biển, mà ta quen gọi Trần là Đông A tức ấp phía đông, hay chữ Lê thời cổ viết là gồm bộ hòa 禾 nghĩa là cây lúa + chữ hắc 黑 là màu đen tương ứng nước theo ngũ hành + nét của chữ "bao" trong có một nét của chữ "nhân" nghĩa là người bao dung hiền hòa, thành chữ 黧, về sau nhà nho thay chữ hắc 黑 màu đen theo ngũ hành tương ứng nước bằng chữ thủy 水 ở dưới + chữ nhân 人 ở giữa, thành chữ 黎, hai chữ đều có nghĩa biểu thị là “cư dân lúa nước hiền hòa”. Truy ngược lại, như phát âm của người Hoa, “yan” (Yên 偃) chỉ là âm lướt của “ yue nan” (Việt Nam 越南), mà “yue nan” (Việt Nam 越南) cũng còn lướt thành “yuan” (Nguyễn 阮). Bởi vì các qui tắc chủ đạo tạo ra từ đơn âm tiết trong ngôn ngữ Bách Việt là : Vo, Tách đôi Âm Dương (bao gồm cả Láy), Lướt, vẫn diễn ra rất tự nhiên trong ngôn ngữ dân gian ( từ “mấy dẩu” = "không” trong tiếng quan thoại, người Quảng Đông lướt thành “mẩu”= “không” vì họ còn nhớ từ “mô” = ”không” của tiếng Việt, nên họ hay bị người quan thoại nhạo vì cái từ “mẩu” này), còn qui tắc Ghép từ chỉ là có về sau khi ngôn ngữ đã thành hàn lâm. Ví dụ Vuông = Miếng = Mánh (Nghệ An) = Mảnh (Quảng Đông), nhưng từ “Mảnh” của từ mảnh ruộng vào cái thời thấy sự cần thiết phải “dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất” để có nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, đã xuất hiện một cách tự nhiên sự chia Âm Dương nó ra để có từ “Manh-Mún” và người dân cũng đã lấy ngay từ “Mún” để đặt tên tạm thời cho bé gái sơ sinh gọi là “con Mún” quả là tinh ý và nhạy bén cực kỳ. Qui luật chia Âm Dương để luôn tạo ra từ mới này không thể nào tìm thấy trong tiếng phổ thông Trung Quốc. Để tạo từ mới thời hiện đại, ngôn ngữ phổ thông Trung Quốc chỉ xoáy vào mỗi một qui tắc là Ghép từ, tất nhiên ghép hai chữ Hán từ kho tàng chữ Hán đồ sộ đã có sẵn cũng tạo ra được vô cùng nhiều khái niệm mới hoặc dùng để dịch khái niệm mới của phương Tây, nhưng nếu tiếng Việt cứ ăn sẵn từ “Hán-Việt” để bưng của họ về dùng thì sẽ làm loạn từ tiếng Việt mất, và sự hiểu sai do lẫn lộn vì từ đồng âm sẽ xảy ra càng nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
    1 like
  15. Trong lá số ngày 25/10 bạn vẫn có thể tròn người da trắng, nhưng da mặt sẽ bị nổi mụn nhọt nhiều, có mất ACE... ntpt chỉ biết kiểm tra giờ sinh thôi. Bạn đợi Bác Haithienha lên tư vấn chính xác nhé. Nếu đúng lá số này thì về đường tình duyên bạn lúc nào chân cũng vương vấn 2 người...
    1 like
  16. Hạn năm nay, tiền đến thì ai cũng thấy, tiền mất thì chỉ mình hay. Tai họa ngã xe, đâm ngựa khó mà tránh được. Nếu gãy xương, đứt gân, trật khớp, sẹo lớn thì cũng ko có gì làm lạ. Quý anh đã có mấy tờ hôn thú rồi? (2 hay 3 hay đã 4 rồi) Võ đoán, tầm này cũng cỡ 3 bà rồi mà vẫn chưa yên. Năm nay lại dính hạn hồng nhan, chưa chắc đã gây chân phụ mà có khi bị thương nặng ở chân chính. Con hiếm muộn, dẫu có thì cũng khắc khẩu với cha. Dục hơi nhiều, có thể nói là quá sức, nếu trở trời mà khớp chân khớp tay ko nhức mỏi mới lạ. Tầm anh phải sinh ra trong gia đình Phú Hộ để đốt tiền luộc Trứng cho Mỹ nhân mới đúng. Tiêu sài không tiết kiệm và kế oạch tương lai tới đây, sợ rằng sau này không đủ tiền mua "Y phục" lúc thăng Quan, tiến chức. + Ngũ Thập Chi THiên Mênh, quý anh chắc bắt đầu thấm thía đạo lý của Trời- Đất - Người. + Lục Thập Nhất Trí Khôn, quý anh không tu tỉnh, e rằng tới lúc này chưa kịp Khôn đã hết, chuyển khôn thành dại, cuộc sống khó nhọc, vất vả, có thể tầm này mới nhận ra mình là kẻ Lang bạt kỳ hồ để cưỡng lại số phận. + Thất Thập Cổ Lai Hi, ở cái tuổi xưa nay hiếm mới thấm thía rằng: Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt, v.v... Mong rằng ở tuổi 60, quý anh hiểu ra được cái chân lý "Đi đâu rồi cũng quay về lạy Phật" để sớm tìm cho mình 1 chốn yên thân, yên tâm, yên thần, yên sắc, yên không. Nếu được vậy, thiết nghĩ việc thọ tới Bát Thập không phải là chuyện khó nhọc. Sống lâu ko phải ăn hết phúc đức con cháu mà là đang tạo nghiệp phúc, quả thiện cho cháu chắt. Bọn con cái ko được hưởng nên a kay mà nói càn vậy thôi. 2011, tiền tài đến và có đọng, ko tất tay như năm nay. Mong rằng đừng đánh ai đó Sưng bụng mà danh ko chính, ngôn ko thuận. Tổng luận cả đời, làm nhiều thiện đức sẽ tốt hơn là nghĩ tới chuyện chiếm đoạt bở có người đẻ ra trên ngai vàng, có người phải dành dật mới có, nhiều người cố mà ko được. Đừng nghĩ mình là siêu nhân để đạt tới cái gì đó, hãy bình thường như 1 bức tường, có duyên ắt được. Sống thế cho thoải mái.
    1 like
  17. Bởi vậy, chỉ vì chúng ta không nghe được tiếng nói của muôn loài, không chia sẻ được tâm trạng của chúng. Thực sự chúng cũng đau đớn, vui mừng như chúng ta vậy. Bởi vậy, tàn sat chúng sẽ mang nghiệp chướng rất nặng nề. Đây cũng là một trong những nguyên nhân để tôi thường thả chim là vậy.
    1 like
  18. Nhân dịp đi chơi Ba Vì,tôi đã soạn bài này và kể trong buổi trò chuyện quanh lửa trại Cảm ơn Lý Học diễn đàn Cho tôi tư liệu để làm bài văn Biết đường kể chuyện cháu con Nuôi hồn dân tộc, vững lòng mai sau Tục thờ Vua Bà-Hai Bà Trưng, tục thờ anh hùng cứu nước của nhân dân Bách Việt “Kể năm hơn bốn nghìn năm Tổ tiên rực rỡ ,anh em thuận hòa Hồng Bàng là tổ nước ta Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang”— Hồ Chí Minh Từ thời Lạc Long Quân,lãnh thổ đã chia rõ Bắc và Nam,phía Bắc sông Dương Tử là dân của Khan nên gọi là người Hán,phía Nam sông Dương Tử là dân của Lang đó là người Bách Việt. Sự kiện Lạc Long Quân lên làm vua và phân định Bắc-Nam còn để lại đến ngày nay di tích là ngôi đền thờ trên núi Thiên Đài cao 179m gần sông Tương thuộc thành phố Trường Sa tỉnh Hồ Nam,với đôi câu đối: 天台代代分南北 靈地年年與越常 THIÊN ĐÀI ĐẠI ĐẠI PHÂN NAM BẮC LINH ĐỊA NIÊN NIÊN DỮ VIỆT THƯỜNG (Thiên Đài Nam-Bắc chia đôi Đất thiêng mãi mãi là nơi Việt Thường) Nước Văn Lang của người Lạc Việt (tức Nác Việt—Nước Việt) của người Bách Việt,là các dân tộc anh em ,cùng gen Mongoloit-phương Nam,cùng hệ ngữ Nam Á, bắc giáp hồ Động Đình(vùng Hồ Nam),đông giáp Đông Hải,tây giáp Ba Thục(vùng Tứ Xuyên,lúc đó là nước của người Ba,là dân tộc cổ đại nay đã tuyệt diệt),nam giáp Hồ Tôn(vùng Nam Bộ Việt Nam ngày nay).Đây là điều mà trong cổ thư chữ Hán bên Trung Quốc và trong Đại Việt sử ký toàn thư của Việt Nam đều có nói. Cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng chống cuộc xâm lăng của Hán Vũ Đế đã được sự hưởng ứng của toàn dân Bách Việt,trong đó có 162 nữ tướng ở 65 châu đã đứng lên cầm quân đánh đuổi Tô Định và Mã Viện của nhà Hán.Sự oanh liệt của cuộc khởi nghĩa và sự hy sinh trác liệt trong chiến trận của Hai Bà đã lưu lại tục thờ Vua Bà ở năm tỉnh phía nam sông Trường Giang và ở Việt Nam ,còn lại trong tín ngưỡng dân gian của người Việt Nam ở Việt Nam và của người Hoa ở vùng Hoa Nam cho đến ngày nay. Ở Hồ Nam có đền thờ Vua Bà có đôi câu đối như sau: 一劍南湖惊武帝 千刀北岭鎮劉龍 NHẤT KIẾM NAM HỒ KINH VŨ ĐẾ THIÊN ĐAO BẮC LĨNH TRẤN LƯU LONG (Hồ Nam Vũ Đế kinh hồn Gươm đao Bắc Lĩnh đuổi dồn Lưu Long) Ở một đền thờ khác cũng thuộc tỉnh Hồ Nam có đôi câu đối như sau: 積稠洞庭威鎮漢 芳流名史力扶征 TÍCH TRÙ ĐỘNG ĐÌNH UY TRẤN HÁN PHƯƠNG LƯU DANH SỬ LỰC PHÙ TRƯNG (Quân đông bạt Hán Động Đình Lưu thơm danh sử dốc lòng phù Trưng) Miếu thờ ba nữ tướng do Trần Thiếu Lan cầm đầu hưởng ứng khởi nghĩa Hai Bà Trưng đánh Tô Định ở Hồ Nam có đôi câu đối như sau: 慷慨扶征時不利 短長逐定節肝云 KHẢNG KHÁI PHÙ TRƯNG THỜI BẤT LỢI ĐOẠN TRƯỜNG TRỤC ĐỊNH TIẾT CAN VÂN (Gian nan vẫn với Bà Trưng Đánh đuổi Tô Định một lòng tâm can) Ở bến Bồ Lãng ngã ba sông ,vùng thượng du sông Trường Giang, nơi giáp Tứ Xuyên có đền thờ ba danh tướng đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng,có đôi câu đối như sau: 江上三英扶女主 浦浪百族哭神征 GIANG THƯỢNG TAM ANH PHÙ NỮ CHÚA BỒ LÃNG BÁCH TỘC KHỐC THẦN TRƯNG (Phò Bà ,miền thượng theo chân Trăm họ Bồ Lãng khóc thần Vua Trưng) Nhắc lại trận chiến oanh liệt ở miền thượng, giáp Tứ Xuyên,đền thờ Hai Bà Trưng ở Ngọc Động Gia Lâm Hà Nội cũng có đôi câu đối như sau: 载北息征塵功劳逐定 浦浪揚怒浪義重扶征 TÁI BẮC TỨC CHINH TRẦN CÔNG LAO TRỤC ĐỊNH BỒ LÃNG DƯƠNG NỘ LÃNG NGHĨA TRỌNG PHÙ TRƯNG (Đuổi Tô Định,bụi Bắc chinh Sóng hờn Bồ Lãng nhớ tình phò Trưng) Hai Bà Trưng quyết lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân xâm lược để “dựng lại nghiệp xưa họ Hùng”.Mười tám thời đại Hùng Vương nối tiếp nhau trải gần 3000 năm của nước Văn Lang,ở mỗi thời đại đó, ai được dân bầu lên làm vua cũng đều gọi là Vua Hùng,một thời kỳ lịch sử của nền văn minh Lạc Việt rực rỡ.Hãy nghe kể chuyện xưa… Nghe kể chuyện xưa Tôi nghe kể chuyện mấy ngàn năm Dân Việt cần cù vượt khó khăn Đắp đập, ngăn đê khi lũ lụt Khơi sông, tát suối lúc khô cằn Ghe thuyền ra biển tôm cá bắt Cung nỏ lên rừng thú vật săn Đo nắng, ngắm trăng nên lịch pháp Muôn đời truyền mãi sách kinh văn. Minh Xuân Họa lại bài Nghe kể chuyện xưa 適應自然,興旺農林魚商,鴻庬氏已千年越困 明知日月,創造陰陽五運,越洛書得萬世流傳 THÍCH ỨNG TỰ NHIÊN,HƯNG VƯỢNG NÔNG LÂM NGƯ THƯƠNG, HỒNG BÀNG THỊ DĨ THIÊN NIÊN VIỆT KHỐN. MINH TRI NHẬT NGUYỆT,SÁNG TẠO ÂM DƯƠNG NGŨ VẬN, VIỆT LẠC THƯ ĐẮC VẠN THẾ LƯU TRUYỀN. Ngàn năm thích ứng thiên nhiên Hồng Bàng con cháu vươn lên cần cù. Vạn năm sách Việt không mờ Âm Dương Bát Quái bây giờ còn soi Chuyện trầu cau Tôi nghe kể chuyện miếng trầu cau Tình cảm gia đình mãi đậm màu Tân Lang,Lưu thị đều trọng nghĩa Anh em chồng vợ chết vì nhau. Dưới trời cao vút ngọn cây cau Quấn quít xanh xanh cánh lá trầu Đá vôi nồng vị do lòng đất Trầu nhai cho nước đỏ lên màu. Nước hồng có phải nước Hồng Bang? Xích Quỉ—Quẻ Ly đất của Lang Câu chuyện trầu cau lưu truyền mãi Ngàn năm têm đậm nghĩa xóm làng. Minh Xuân Họa lại bài Chuyện trầu cau Quẻ Ly có phải tấm lòng? Giữa sàn nhà, bếp lửa hồng lung linh (*) Ba chân kiềng,một vòng cong Muôn năm vững chãi một lòng chữ Tâm.(**) (*)Loại nhà sàn có bếp đặt ở giữa sàn nhà,đồng bào ta vẫn gọi là “nhà quẻ ly”. (**)Chuyện ba người chung tình cùng nhảy vào đống lửa chết là hình ảnh của chữ Tâm có bốn nét là ba chân kiềng một vòng cong,nhưng bốn nét của chữ Tâm lại là từ bốn nét của quẻ Ly.Người Việt thường nói “lửa lòng”mà ít nói “nhiệt huyết”. Hiếu với trời đất Tôi nghe kể chuyện nước Văn Lang Lang Liêu dâng bố chẳng bạc vàng Mà tấm lòng thành gom trời đất Vuông tròn đúc đủ nghĩa thế gian. Âm Dương một đạo để ngàn đời Rọi sáng đường đi cả tộc người Bánh chưng, bánh dầy vui ngày tết Tưởng nhớ Lang xưa với sách trời. Minh Xuân Họa lại bài Hiếu với trời đất Nghìn năm Dương ở trong Âm Vạn năm Âm vẫn cứ nằm trong Dương Viên văn với lại chữ vuông (*) Bánh cúng nhắn gửi cháu con Lạc Hồng Trê còn cãi nổi Cóc không? (**) Vạn năm khoa học tỏ lòng thế gian.(***) (*)Viên văn là văn tự bằng những hình tròn trong Lạc thư và Hà đồ,nó có trước,như gợi nhắc của cái bánh dầy. Chữ vuông là gợi nhắc của cái bánh chưng,là loại văn tự có sau của Việt. (**)Chuyện Trê và Cóc.Mất nước một nghìn năm.Chữ Nòng-Nọc đã bị hủy diệt,nhưng tổ tiên vẫn nhắn gửi cháu con hãy nhớ lấy văn hóa dân tộc qua chuyện Trê Cóc,qua tranh Thầy đồ Cóc,qua câu “Con Cóc là cậu ông trời” Thiên thư vốn tự sách trời Qua tay kẻ khác vẫn đòi về ta. (***)Các ngành khoa học hiện đại đang chứng minh cho thế giới thấy rõ nguồn gốc của văn minh Đông phương chính là văn minh Lạc Việt.
    1 like
  19. Hồ Nguyên Trừng (1374 – 1446) là con trai cả của Hồ Quý Ly. Tháng 11.1394 lần đầu tiên sử sách nhắc đến Hồ Nguyên Trừng với việc bổ nhiệm ông làm Phán tư sự dưới triều Trần Nghệ Tông. Tháng 2 năm 1400 Hồ Quý Ly tiếm ngôi nhà Trần, đến tháng 12 thì tự xưng Thái thượng hoàng và nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương. Hồ Nguyên Trừng lãnh chức Tả tướng quốc. Cuối năm 1405, nguy cơ xâm lăng của nhà Minh ngày càng rõ rệt. Khi nghị bàn quốc sự các quan trong triều chia thành hai phái đánh và hòa. Khi ấy Hồ Nguyên Trừng nói: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo thôi”. Giữa năm 1406 Hồ Nguyên Trừng thống lĩnh binh mã cự 10 vạn quân Minh từ Quảng Tây đánh sang. Trận đầu ông thất bại ở khu vực Đáp Cầu - Bắc Ninh ngày nay, vì khinh quân địch ít. Sau đó ông cũng đuổi được chúng ra khỏi bờ cõi. Cuối năm 1406, đợt xâm lược mới của nhà Minh có quân số lên tới 80 vạn. Tả tướng quốc Nguyên Trừng chỉ huy một cánh quân tiên phong dọc sông Cái. Thất bại này nối thất bại kia vì giặc mạnh lại biết dùng kế ly gián, chia rẽ họ Hồ với quân tướng và dân chúng. Giữa năm 1407, toàn bộ gia tộc họ Hồ, từ Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Hồ Nguyên Trừng đến con cháu đều bị bắt sống và giải về Kim Lăng, Trung Quốc. Vì có tài, nên sau khi bị bắt về Trung Quốc, Nguyên Trừng được tha bổng và nhậm một chức quan thuộc Công bộ, chịu trách nhiệm chế tạo hỏa súng, hỏa tiễn và thuốc súng trong Binh tượng cục (Cục chế tạo vũ khí) Tháng sáu, năm Chính Thống thứ 10 (1445) Hồ Nguyên Trừng được thăng làm thượng thư bộ công, giữ việc nội phủ, tháng 7 năm sau mất, hưởng thọ 73 tuổi, an táng tại vùng núi phía tây Bắc Kinh, sườn núi Ngọc Đài, thôn Nam An Hà. Theo một số sách vở Trung Hoa (Minh sử cảo), triều Minh khi tế thần súng cũng thường hiến cúng Hồ Nguyên Trừng. Hiện ở Việt Nam văn chương của Hồ Nguyên Trừng mới được biết đến qua cuốn “Nam Ông Mộng Lục” là tác phẩm ông viết trong thời gian ở Trung Quốc, với bút hiệu Nam Ông (ông già nước Nam). Trước tác gồm 31 thiên, do Hồ Huỳnh, Thượng thư bộ Lễ Minh triều đề từ năm 1440, có cả hậu tự năm 1442 của Tống Chương - cũng người gốc Việt. Hồ Huỳnh từng nhận định: "Văn họ Hồ ngắn gọn mà nghiêm trang, cẩn mật, cao nhã mà uyên bác, theo tình kể lại, theo nghĩa đặt lời... Ca ngợi sự tiết nghĩa thì bừng bừng cảm khái, có thể uốn nắn phong tục, biểu dương trước thuật thì siêu thoát, thanh tân, có thể nuôi dưỡng tính tình...". (Trong Thơ Văn Lý Trần tập III - 1978, có in toàn bộ Nam Ông Mộng Lục, tuy nhiên thiếu mấy một số thiên) Nhưng tại chùa Tú Phong - một ngôi chùa do người Việt dựng tại Trung Quốc từ đời Minh ở phía Tây Bắc Kinh hiện còn một tấm bia do Hồ Nguyên Trừng soạn văn bia. Đó là tấm bia: “Sắc tứ Tú Phong tự bi”. </IMG> (Một góc chùa Tú Phong và Bia) Chùa Tú Phong nằm trên núi Tú Phong thuộc thôn Nam An Hà, xã Bắc An Hà, khu Hải Điện, Bắc Kinh. Chùa do thái giám Cao Nhượng và nhà sư trụ trì người gốc Việt Nam là Trí Thâm khởi công xây dựng năm Tuyên Đức thứ 8 đời Minh (1433) đến năm Chính Thống thứ 2 đời Minh (1437) thì hoàn thành, được hoàng đế nhà Minh ban tên là Tú Phong Tự. Ngôi chùa được dây dựng theo hướng đông, gồm ba lớp điện chính. Cuối đời Thanh chùa Tú Phong bị để hoang tàn. Đầu năm Dân quốc (1911) nhóm Lưu Trọng Lỗ, Bảo Thuỵ Thần mượn chùa và sửa chưa thêm lập toà báo Hạc Quần. Mùa xuân năm Dân quốc 14 (1925) đạo sĩ Vương Tú Chân bỏ tiền ra mua lại chùa, năm 1926 lại mua thêm các núi xung quang chùa, sau đó đổi tên chùa thành Tu Chân quán, bái Trương Nghĩa Cung làm thầy trụ trì quán này. Năm 1928, Trương Nghĩa Cung chết, Tu Chân đạo sĩ bỏ đi, Lâm Hành Quy lấy núi Tú Phong làm biệt thự đã mua chùa viện và các khu xung quanh, và lại bỏ tên quán, đổi lại thành chùa, Bảo Thuỵ Thần đề một biển cho chùa là “Tú Phong Cổ Sát”. Năm 1937 nổ ra sự kiện Mùng 7/7 ở cầu Lư Câu chùa Tú Phong trở thành căn cứ địa cho đội quân du kích Trung Quốc. Năm 1944 lập trạm tình báo Bình Tây ở chùa Tú Phong, trạm trưởng là Lương Ba. Năm 1945, lập ra Tân Văn Yếu Báo ở chùa Tú Phong, trong vòng 3 tháng phát hành khoảng 30 số, tổng biên tập là Triệu Phàm. Có thể nói, chùa Tú Phong là một trong những ngôi chùa Việt đầu tiên của người Việt tại Hải Ngoại, và hiện còn lưu một bài văn bia do Hồ Nguyên Trừng một người Việt tài năng soạn. Xin giới thiệu nội dung bài văn bia “Sắc tứ Tú Phong tự bi” của Hồ Nguyên Trừng: </IMG> (Bia "Sắc tứ Tú Phong tự bi") SẮC TỨ TÚ PHONG TỰ BI Chính nghị Đại phu, Tư trị doãn Công bộ Tả thị lang, Giao Nam – Lê Trừng soạn. Tướng sĩ lang, Hồng Lô tự Tự ban, Quát quận – Quý Thuần thư. Văn lâm lang, Đại Lý tự Hữu tự Hữu bình sự Thanh Nguyên – Trang Sâm triện ngạch. Kinh đô chi tây khứ thành lục thập dư lý hữu tự viết Tú Phong, nãi thái giám Cao công Nhượng dữ trụ trì tăng Trí Thâm sở sáng dã. Thâm – Giao Nam danh tăng, tính Ngô thị, tự ấu xuất gia, khắc khổ tham học. Dĩ Tuyên Đức mậu thân lai đáo bắc kinh, ngẫu ngộ đại quốc sư ngô công thân tăng lục ti giảng kinh, Nguyệt Công, Luật Thiếp công định giác, Nghĩa Ô công, Hiển Toản công, Thắng Nạp công, Lý Thiền công, Nhẫn Tam công phổ hữu đồng hương chi nghị đắc lễ. Quán đỉnh Quảng thiện tây thiên phật tử đại pháp sư toại thụ tâm ấn, trú tích vu Dương Đài sơn Đại Giác tự. Nhật thường biến duyệt Đại tạng, cửu bất hạ sơn, giới hạnh tinh nghiêm, nhân đa khâm ngưỡng. Nhất nhật, tán sách tự bắc khả tam lý hứa, chí vu Tú Phong sơn lộc, kiến kỳ cảnh trí thanh thắng, long hổ bàn toàn, thạch bích sàm nham hoàn ủng vu kỳ hậu, tả hữu song giản giao lưu vu kỳ tiền, thảo mộc ông uý, hoa quả mậu thịnh, ý phi phàm địa. Nãi tuần vu dã lão, viết: Kỳ củ tương truyền thử cổ bảo sát chi địa dã. Thâm bi hỉ giao tịnh, thệ dĩ khôi phục thánh cảnh. Cao công văn nhi hỷ chi, nãi dũng mãnh phát tâm, khuynh kiệt tài lực vi công đức chủ, cập dữ thái giám Trần công Ngang, trung quý Hoàng công Hùng, Nguyễn Phúc Thâm, Phạm Giác Thọ, Bùi Hỉ, Kim Toả (Đáo?), Nguyễn Giác Mục, Trịnh Trí Quảng, Châu Phổ Minh, Trương Phúc Sơn đẳng đồng xả kỷ tư, trợ sư kiến lập đạo trường, dĩ thượng chúc thánh cung vạn tuế, thiên hạ thái bình. Sư nãi vận dụng tâm tượng, bố trí quy mô, thân tự phục cần dĩ tiên đồ lữ, phong kỳ dung thực dĩ lai chúng công. Việt tự Tuyên Đức quý sửu xuân khởi tạo, chí Chính Thống đinh tỵ đông tất công, bất ngũ lục niên nhi sơn môn trác lạc, điện vũ nguy nga, đan hoạch tinh huỳnh, kim bích hoán lạn, viên tường liêu nhiễu, lang vũ huy phi, phàm thường trụ chi du ti, các hữu kỳ sở. Thái giám Trần công Ngang, Nguyễn công Tông hựu quyên gia tư ấn tạo Đại Tạng kinh văn, trang nghiêm quỹ hạp, lưu vu bản tự dĩ vĩnh kỳ truyền. Sư giai vãng phản duyệt độc lệ chúng hiệu cần, chung cổ hương đăng, thần hôn tán vịnh, dĩ bảo hộ quốc thổ, phổ tế quần sinh. Chí Chính Thống lục niên, tam nguyệt nhị thập nhất nhật, thái giám Cao công Nhượng thực cụ tấu, khâm mông thánh ân sắc tứ danh ngạch viết: “Tú Phong Tự”, lâm lộc sinh quang, tăng tục cải quan. Trí Thâm phần hương, khể thủ ngôn viết: “Hạnh ngộ hải nội thanh bình, nhân dân phú ấp, hựu nhân chư công đồng phát thiện tâm, trợ thành Phật sát, trí mông ân tứ, vạn đại thuỳ quang, khả bất khắc thạch dĩ thị vĩnh viễn?” Nãi mệnh kỳ đồ, yết dư trưng văn. Dư viết: “Thâm sư cần lao dĩ thành phật sự, chư công tác phúc dĩ báo thượng ân, quan kỳ dụng tâm, đồng quy chí thiện, thị nghi minh minh viết: Thần châu đoài dã; Sơn đĩnh Tú Phong; Bàn long cứ hổ; Hấp cảnh tàng phong; Hàm hoằng sảng lãng; Tú khí sở chung; Giản tuyền lãnh liệt; Thảo mộc phong nhung; Ái nhiên phúc địa; Nghiễm nhược phạn cung. Phạn cung y hà? Hữu quy hữu chế; Điện vũ nguy nga; Sơn môn tráng lệ; Tượng thiết tôn nghiêm; Long thiên dực vệ. Sáng giả y thuỳ? Trí Thâm trụ trì; Viên kinh viên thuỷ; Tải cấu tải ky (cơ) Đại thiện đàn việt; Trợ dĩ thành chi. Thượng chúc thánh thọ; Hạ hựu sinh dân; Phúc điền quảng đại; U hiển triêm ân. Tự ký thành chỉ; Danh diệc chính chỉ; Tứ ngạch kim thư; Sủng quang vĩ vĩ. Duy ngã Thâm sư; Phúc tuệ kiêm bị; Đệ nhất khai sơn; Lưu truyền hậu duệ; Thuỳ phạm tương lai; Thuật sự kế chí; Bách thế vu tư; Hữu long vô thế; Tự dĩ vĩnh tồn; Minh đồng đới lệ. Đại Minh Chính Thống bát niên, tuế thứ Quý Hợi mạnh hạ Phật đản nhật khai sơn. Trụ trì sa môn Trí Thâm lập thạch. Cẩm y xá nhân Chu Hưng thuyên. Dịch: Bài văn bia ghi lại việc sắc ban biển đề Tú Phong Tự Chính nghị Đại phu, Tư trị doãn Công bộ Tả thị lang, Lê Trừng người Giao Nam soạn. Tướng sĩ lang, Hồng Lô tự Tự ban, Quý Thuần người Quát quận viết chữ. Văn lâm lang, Đại Lý tự Hữu tự Hữu bình sự – Trang Sâm ở Thanh Nguyên viết chữ triện trán bia. Từ kinh đô đi về phía tây thành hơn sáu mươi dặm, có ngôi chùa tên gọi Tú Phong, vốn do quan thái giám Cao Nhượng cùng với nhà sư trụ trì là Trí Thâm sáng lập lên. Trí Thâm là bậc danh tăng ở Giao Nam vốn người họ Ngô, từ nhỏ đã xuất gia, khắc khổ học hỏi. Năm Mậu thân niên hiệu Tuyên Đức (1428) sư đến Bắc Kinh, ngẫu nhiên gặp đại quốc sư giảng kinh ở ti Tăng lục, có các ngài Nguyệt Công, Luật Thiếp biết đến. Lại nhân các ông Nghĩa Ô, Hiển Toản, Thắng Nạp, Lý Thiền, Nhẫn Tam đều là những người có tình đồng hương mà đắc lễ. Đại pháp sư là bậc Tây thiên Phật tử có lòng quảng thiện bao trùm bèn truyền cho tâm ấn và trụ trì ở chùa Đại Giác trên núi Dương Đài. Thường ngày sư đọc hết kinh Đại Tạng, suốt thời gian dài không xuống núi, giới hạnh rất tinh nghiêm, mọi người đều kính ngưỡng. Một hôm, sư chống gậy dạo bước lên phía bắc chùa chừng 3 dặm đến sườn núi Tú Phong, trông thấy cảnh trí đẹp đẽ, hình thế như rồng cuộn hổ nằm, vách đá chon von vây bọc quanh phía sau, bên phải bên trái hai dòng suối nối dòng ở trước mặt, cỏ cây mươn mướt, hoa quả tốt tươi, ý chẳng phải nơi phàm địa. Sư bèn hỏi thăm các bậc già lão, thì thấy bảo: các cụ già truyền lại đất này vốn là nơi chùa thiêng ngày xưa. Trí Thâm vui sướng nghẹn ngào nguyền sẽ khôi phục lại nơi đất thánh. Cao công nghe được mừng lắm, bèn ra sức phát tâm, dốc hết tiền của đứng ra làm chủ công đức, cùng với thái giám Trần Ngang, trung quý Hoàng Hùng, Nguyễn Phúc Thâm, Phạm Giác Thọ, Bùi Hỉ, Kim Toả (Đáo?), Nguyễn Giác Mục, Trịnh Trí Quảng, Châu Phổ Minh, Trương Phúc Sơn, …cùng bỏ tiền riêng giúp sư xây dựng đạo trường để cầu chúc thiên hạ thái bình, đức vua muôn tuổi. Sư bèn dụng tâm sắp đặt, bố trí quy mô, tự mình chăm chỉ tân cần để làm gương cho môn đồ, sắp đặt tiền gạo dồi dào để thợ thuyền kéo đến. Thế là từ mùa xuân năm Quý sửu niên hiệu Tuyên Đức (1433) bắt đầu khởi tạo, đến mùa đông năm Đinh tỵ niên hiệu Chính Thống (1437) thì xong, chưa tới năm sáu năm mà sơn môn chất ngất, điện vũ nguy nga, màu son chói lọi, kim bích lung linh, tường hoa quanh co, toà ngang dãy dọc, phàm những nơi thường phải có thì chỗ nào chỗ ấy đều đầy đủ. Thái giám Trần Ngang, Nguyễn Tông lại quyên góp gia tư, để in ấn Đại Tạng kinh, đầy đủ hộp tủ nghiêm trang lưu giữ ở trong chùa để lưu truyền mãi mãi. Sư (Trí Thâm) vẫn thường qua lại xem đọc luôn luôn để khuyến khích mọi người cùng chăm chỉ học tập, chuông trống hương đèn, sớm hôm tán vịnh những mong bảo hộ quốc thổ, phổ tế quần sinh. Đến ngày 21 tháng Ba năm Chính Thống thứ 6 (1441), thái giám Cao Nhượng thực tình dâng tấu lên hoàng đế, kính đội ơn vua ban cho biển ngạch đề tên “Tú Phong Tự”, khiến cho rừng núi cũng rạng rỡ, tăng tục đều mở mắt. Trí Thâm đốt hương dập đầu bảo: “May được gặp khi trong nước thái bình, nhân dân no ấm, lại nhân các ngài cùng phát thiện tâm mà giúp thành chùa phật, nên được ơn vua ân tứ, soi sáng muôn đời, há chẳng nên khắc bia mà lưu truyền mãi về sau ư?” Bèn sai đệ tử đến chỗ tôi nhờ viết văn bia. Tôi nói: “Sư Trí Thâm khó nhọc mong nên Phật sự, các ngài lại làm việc phúc để báo ơn vua, coi chỗ dụng tâm đều cùng đến nơi cực thiện, vậy xin viết bài minh rằng: Đồng tây Thần Châu; Núi dựng Tú Phong Hổ ngồi rồng cuộn; Cảnh đẹp ẩn trong; Rộng cao sáng láng; Tú khí đúc hun; Suối khe mát rượi; Cây cỏ tươi hồng Thực nơi phúc địa; Tựa chốn Phạn cung; Phạn cung thế nào? Có quy có chế; Điện vũ nguy nga; Cổng tường tráng lệ; Tượng phật tôn nghiêm; Thiên thần bảo vệ; Dựng cảnh là ai? Trí Thâm trụ trì; Nào sau nào trước; Xây đắp đủ bề; Đàn việt lòng thiện; Giúp việc chẳng nề. Cầu chúc thánh thọ; Phù trợ nhân dân; Ruộng phúc to lớn; Linh hiển ra ân! Chùa đã dựng được; Danh đã lập được; Vua ban chữ vàng; Sủng ân chói rực; Sư Trí Thâm ta: Kiêm gồm phúc tuệ; Đứng đầu dựng chùa; Lưu truyền hậu duệ; Làm gương đời sau; Thuật chuyện nối chí; Trăm đời ở đây; Thịnh hưng vẫn để; Còn mãi chùa này; Viết minh cổ lệ Ngày Phật đản tháng đầu mùa hạ năm Quý Hợi niên hiệu Chính Thống năm thứ 8 (1443) triều Đại Minh. Sa môn trụ trì Trí Thâm lập bia. Cẩm y xá nhân Chu Hưng khắc. (Tết Trung Thu năm Mậu Tí) http://www.facebook.com/note.php?note_id=1...p;id=1844191559
    1 like
  20. Từ Hán - Việt (?) Từ "Hán Việt" mà ta thường quen gọi thực ra nó là từ Việt,trừ những từ mới thời hiện đại do người Trung Quốc hay người Nhật Bản dùng chữ Hán dịch các khái niệm xã hội,khoa học kỹ thuật từ tiếng phương Tây,rồi người Việt Nam dịch lại từ những từ bằng chữ Hán đó như "xã hội","cộng hòa"v.v.Ví dụ từ "quản lý"là ta lấy từ Trung Quốc,nhưng từ ấy không phải do người Trung Quốc đặt ra mà là lấy từ Nhật Bản,do người Nhật dùng hai chữ Kanji là 管理(”quản lý”-mà họ đọc là “kanri”gọi là nói theo “gô ôn” tức “ Ngô âm”)để dịch khái niệm management.Hai chữ Kanji (Hán tự)ấy ghép như vậy là đúng cú pháp tiếng Nhật,có nghĩa là "dùng lý mà quản"(vì người Nhật nói ngược ta,"ăn cơm” thì họ nói là "cơm ăn"),người Trung Quốc và người Việt Nam mượn nguyên si từ "Quản Lý" đó về dùng để khỏi phải mất công dịch từ management đều bị sai cú pháp cả ,bởi "quản lý"theo cú pháp Hán hay cú pháp Việt đều cho nghĩa là "quản cái lý".Dùng lý mà quản thì mọi việc đều sẽ vào đúng,chứ còn quản cái lý thì làm sao mà quản được?Cho nên trong xí nghiệp của Trung Quốc và của Việt Nam vấn đề management vẫn kém xa xí nghiệp của Nhật Bản là vì vậy. Còn cây lúa và con lợn thì xuất xứ đầu tiên của nó là từ nền văn minh Văn Lang.Hạt cây lúa người Việt gọi là hạt lúa,hạt lúa phơi khô rồi cất kho gọi là hạt thóc,lúa giống là nói về các giống lúa khác nhau,chứ hạt lúa để làm giống thì gọi là hạt thóc giống."Thóc” ấy sau người Hán có được từ người Việt nên họ gọi là "cốc".Thóc xay ra thành "gạo",gạo nấu chín thành thứ mềm dẻo gọi là"cơm gạo"và người Việt nói tắt từ “cơm gạo”là “cơm”.Từ “kơm”trong tiếng Việt nghĩa nguyên thủy là “thứ ăn được”,gốc do từ “kin” của tiếng Tày –Thái nghĩa là “ăn”,bởi vậy người Việt có khi bữa ăn chỉ có khoai sắn hay bo bo nhưng vẫn gọi là ăn bữa cơm.Từ “cơm gạo” người Tày gọi là “kin khảu",người Thái Lan gọi là "kin khao"đều nghĩa là ăn cơm.Người Hán ăn sản phẩm gạo ấy từVăn Lang phía nam bán lên nên gọi cây lúa cho ra “gạo”là "đạo"và phải ghép với từ thủy là "thủy đạo"để chỉ cây lúa nước,bởi họ lạ lùng là thứ cây lương thực ấy phải trồng dưới ruộng nước chứ không như lúa mì của họ trồng trên đất khô của thảo nguyên.Người Nhật lại lấy từ "cơm"của tiếng Việt để gọi gạo là "cômê",truyền lên Trung Nguyên phía bắc, người Hán lại gọi “cômê” là "mễ"hay “đạo mễ”nghĩa là gạo(phát âm là “mỉ”hay “tạo mỉ”).Chữ “mễ”mà xuất xứ là từ chữ “cơm” của tiếng Việt như vậy thì chữ “miến”cũng là xuất xứ từ tiếng Việt mà thôi,do người Việt chế biến ra miến từ bột dong và bột đậu xanh.Đến thời mà nghề trồng lúa nước phổ biến khắp vùng nam Trường Giang,lúc ấy xứ các nước Ngô, Sở, Việt đều giàu có và đông dân hơn Trung Nguyên nhiều,và thời ấy dân Ngô,Sở, Việt đều nói các thứ tiếng thuộc hệ ngữ Nam Á-người Ôn Châu ngày nay ở Triết Giang mà nói tiếng Ôn Châu thì người Trung Quốc phía bắc nghe chỉ hiểu được 3%).Giống lúa loài người trồng đầu tiên là lúa nếp,sau dân số đông lên,có đồng bằng rộng lớn mới tìm ra giống lúa tẻ có năng suất cao hơn ,đó là giống thứ hai sau lúa nếp,gọi là lúa “tẻ”(do gen từ “tê”là 2 trong tiếng Khơ Me-Tiếng Việt thuộc hệ ngữ Nam Á ,nhóm ngữ Môn-Khơ Me,người Môn ở bên Mianma).Vì vậy người Văn Lang thường ăn cơm gạo tẻ,còn gạo nếp chỉ dùng khi cúng giỗ nhớ tổ tiên.Người Hán phiên âm chữ “nếp”là “nua”và gọi gạo nếp là “nua mỉ” Con lợn người Việt gọi là "Lợn",người Tày gọi là "Đồn",người Hán phiên âm thành "Thún",chữ ấy lại gọi là tiếng Hán cổ,nay không dùng,người Hán gọi là "Tru"tức "chư".Lợn , gà và vịt thả đồng gắn liền với nông nghiệp lúa nước.Những loài chim thuần dưỡng rồi nuôi ở nhà để lấy thịt và trứng,người Hán gọi là “gia cầm”,nhưng chữ “cầm” thì lại do người Hán phiên âm chữ “chim”của tiếng Việt và họ đọc là “xín”(vì họ không phát âm được âm ngậm có “m”cuối).Điều náy chứng tỏ nghề nuôi chim nhà lấy thịt là xuất xứ từ Đông Nam Á.Người Hán dòng giống Mông Cổ là dân du mục đồng cỏ.Họ có nuôi chim thì chỉ là nuôi vài con chim ưng để giúp săn thỏ trên thảo nguyên chứ không có nền nông nghiệp nuôi chim nhà để lấy thịt và trứng.Người Hán gọi chim là “niẻo”tức “điểu”.Người Thái chắc là thuần dưỡng gà đầu tiên.Nhà ở của người Thái có biểu tượng con gà ở hai chái nóc nhà.Người Việt có tục cưới xong thì chú rể lại mặt nhà gái bằng một con gà trống.Tục cưới của người Tày nhất định phải có một đôi gà,nếu vì lý do ví dụ chiến tranh chú rể đi xa không có mặt trong lễ cưới được thì trong lễ cưới cô dâu bế một con gà trống.
    1 like
  21. Bài này có lý ghê. Ngày mai tôi đề nghị đưa ra ngoài trang chủ.
    1 like
  22. 1 like
  23. Thử tìm lại biên giới cổ của Việt-Nam: Bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống ADN Giáo-sư Trần Đại-Sỹ. Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ Chúng tôi xin giới thiệu với độc giả Việt-Nam bài diễn văn của Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á (Institut Franco-Asiatique viết tắt là IFA). Nguyên văn bằng tiếng Pháp, đây là bản dịch tiếng Việt của chính tác giả và cô Tăng Hồng Minh chú giải. Trong dịp khai giảng niên học này, IFA đã mời một số đông các học giả, trí thức và ký giả tham dự. Sau bài diễn văn, có cuộc trao đổi rất thú vị.Nội dung trích dẫnXin nhắc lại, trong khoảng thời gian 1977-1992, tác giả làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique, viết tắt là CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), nên đã được các đồng nghiệp giúp đỡ, dùng hệ thống ADN để tìm lại nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Chính với công trình nghiên cứu của tác giả trong thời gian 1977-1991, dùng hệ thống ADN phân biệt dân-tộc Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đã kết thúc cuộc tranh cãi 90 năm qua biên giới cổ của Việt-Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược lại với tất cả các thuyết từ trước đến giờ. Các thuyết này khẳng định người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người ở vùng Đông Nam Á đã đi lên phương Bắc thành người Hoa. Sau khi bài diễn văn này phổ biến (1991), có một số "học giả" vì không theo kịp đà tiến hóa của khoa học, đã lên tiếng chỉ trích chúng tôi. Biết rằng họ dốt nát quá, muốn giải thích cho họ, họ phải có một trình độ nào đó... vì vậy chúng tôi không trả lời. Phần nghiên cứu của chúng tôi quá dài, quá chuyên môn. Độc giả muốn tìm hiểu thêm có thể đọc công trình nghiên cứu dưới đây: J.Y.CHU, cùng 13 nhà bác học Trung-quốc cũng nghiên cứu Di-truyền học ADN (DNA), công bố năm 1998: The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 năm 1998. Tài liệu khẳng định rằng nguồn gốc người Trung-hoa, Đông Á, do người Đông-Nam-á đi lên, chứ không phải do người Trung-hoa di cư xuống. ALBERTO-PIAZZA (đại học Torino, Ý): Human Evolution: Towards a genetic history of China, Proc.of Natl. Acad. Sci, USA, Vol 395, No 6707-1998. LI YIN, Distribution of halotypes from a chrosmosomes 21 Region - distinguishes multiple prehistotic human migrations - Proc.of Natl. Acad. Sci - USA, Vol.96 , 1999. Về bài diễn văn này, từ năm 1991, có rất nhiều bản dịch sang nhiều thứ tiếng, đăng trên nhiều báo khác nhau. Mỗi dịch giả lại tự ý lược đi, đôi khi cắt mất nhiều đoạn. Nay chúng tôi xin dịch nguyên bản, đầy đủ. Vì vậy độc giả thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn, xin lướt qua. Trong khi diễn giả trình bầy, ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả thảo luận. Các bài trích đăng trước không ghi phần này. Để độc giả dễ theo dõi, cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép, chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ, thay vì ghi ở cuối bài. Khi xuất bản lần thứ nhất, bộ Anh-hùng Bắc-cương của giáo-sư Trần, chúng tôi có cho trích một phần bài này in vào cuối quyển 4. Nay chúng tôi công bố toàn bộ tài liệu, lấy làm tài liệu chính thức và phủ nhận tất cả những bản do nhiều nơi phổ biến trước đây? Paris ngày 10-10-2001 Sở tu thư, viện Pháp-Á Kính thưa ông Viện trưởng, Kính thưa quý đồng nghiệp, Kính thưa quý vị quan khách. Các bạn sinh viên rất thân mến, Tôi không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà khảo cổ, hay nhà chủng tộc học. Tôi chỉ là một thầy thuốc. Nhưng những may mắn đến tiếp diễn trong suốt cuộc đời, vô tình đã đưa tôi đến đây trình bày cùng quý vị về nguồn gốc, biên giới cổ của tộc Việt. Ở cuối giảng đường này tôi thấy có nhiều bạn trẻ bật cười. Tôi biết bạn bật cười vì đa số người ta đều than đời bất hạnh, toàn rủi ro. Còn tôi, tôi lại nói rằng suốt cuộc đời toàn may mắn. Tôi có thể nói thực với Quý-vị rằng, về phương diện nghiên cứu học hành, suốt đời tôi, tôi có cảm tưởng tổ tiên đã trải thảm cho tôi đi trên con đường vô tận đầy hoa. Nếu bạn chịu khó đọc bộ Sexologie médicale chinoise của tôi, phần bài tựa tôi có viết : « Trong lịch sử cổ kim nhân lọai, nếu có người may mắn về phương diện nghiên cứu học hành, tôi đứng đầu. Nhưng nếu có người bất hạnh nhất trong tình trường tôi cũng đứng đầu ». Hôm nay tôi trình bày với Quý-vị về công cuộc đi tìm biên giới cổ của nước Việt-Nam và nguồn gốc tộc Việt, Quý-vị sẽ thấy tôi may mắn biết chừng nào, và Quý-vị sẽ thấy tộc Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Nhưng gần đây, vì chiến tranh tiếp diễn trong hơn 30 năm, khiến cho đất nước chúng tôi điêu-tàn, và... hiện nước tôi là một trong bốn nước nghèo nhất trên thế giới. I. SƠ TÂM VỀ TỘC VIỆT Năm lên năm, tôi học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng chung cho hầu hết các nước vùng Á-châu Thái-bình dương (ACTBD). Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông tôi là một đại thần của triều đình Đại-Nam (tức Việt-Nam). Chế độ phong kiến của nước tôi đã chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị Hoàng-đế cuối cùng của Đại-Nam là Bảo Đại. Ngài vẫn còn sống ở quận 16 Paris. Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho. Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học chữ Nho, tôi có một kho tàng văn hóa vĩ đại để đọc, để thỏa mãn trí thức của tuổi thơ. Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nơi đây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đã thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thi. Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Đại-học. Chương trình giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh ; không bằng một phần trăm những gì tôi học ở nhà. Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như : Đại-Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), An-Nam chí lược (ANCL), Đại-Việt thông-sử (ĐVTS), Khâm-định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), Đại-Nam nhất thống chí(ĐNNTC). Đại cương mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam sau : « Vua Minh cháu bốn đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũlĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng : « Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hoà mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn ». Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây lịch, đến đây thì chia làm hai : 1. Thần-Nông Bắc. Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch) Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch) Vua Ly (2795-2751 trưước Tây-lịch) Vua Du-Võng (2752-2696 trước Tây-lịch). Đến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng-đế từ năm giáp Tý (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng-đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tư-mã Thiên khởi chép quyển một là Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại Thần-Nông. 2. Triều đại Thần-Nông Nam. Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh- Dương, lúc mười tuổi. Sau người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho đến nay (1991) là 4870 năm, vì vậy người Việt tự hào rằng đã có năm nghìn năm văn hiến. (1) Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lý của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. Còn như đi xa hơn về những thời tiền cổ, thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận đến ở đây. Xét về cương giới cổ sử chép « Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương(2), đặt tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tây. Vua Kinh-Dương lấy con gái vua Động-đình là Long-nữ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lãm. Thái-tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai(3). Khi vua Kinh-Dương băng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-Lang. Nước Văn-Lang Bắc tới hồ Động-đình, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, đông giáp biển Đông-hải.) Cổ sử đến đây, không có gì nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép : «Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nối. Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Động-đình.(Nay là Hồ-Nam, Quý-châu, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận.(Nay là Vân-Nam và một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng Chiêm-thành.(Nay thuộc Việt-Nam, từ Thanh-hóa đến Đồng-nai.) Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi lập ra vùng Lão-qua.(Nay là nước Lào và một phần Bắc Thái-lan.) Hoàng-tử thứ năm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng Nam-hải. (Nay là Quảng-đông, và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm.(Nay thuộc Quảng-tây, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam.(Nay thuộc Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-bình.) Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân.(Nay thuộc Việt-Nam từ Ninh-bình tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh) Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trăm lập ra vùng Giao-chỉ.(Nay là Bắc Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam thuộc Trung-quốc.) Ngài hẹn rằng : Mỗi năm các hoàng-tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết, để chầu hầu phụ mẫu ». Một huyền sử khác lại thuật : Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng : « Ta là Rồng, nàng là loài Tiên ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần » Các sử gia người Việt lấy năm vua Kinh-Dương lên làm vua là năm Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua Kinh-Dương với Công-chúa con vua Động-đình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cơ làm Quốcmẫu. Cho đến nay Quý-vị hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào : « Chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên. Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ». Chủ đạo của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin này. Ghi chú của Tăng Hồng Minh, Ký giả chuyên về Văn-minh Đông-á Jean Marc Decourtenet hỏi về đoạn này như sau: « Thưa Giáo-sư, hiện Việt-Nam là nước theo chế độ Cộng-sản, liệu người Việt trong nước họ có cùng một niềm tin như người Việt hồi 1945 về trước cũng như người Việt hải ngoại hay không ? » Trả lời : « Những nhà lãnh đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam suốt từ năm 1930 đến giờ, không một người nào muốn dùng triết lý Marxisme, Léninisme để xóa bỏ niềm tin con Rồng cháu Tiên. Trái lại họ còn dùng niềm tin này để quy phục nhân tâm. Vì niềm tin này đã ăn sâu vào tâm não người Việt. Những người lãnh đạo chính trị Việt cả hai miền Nam-Bắc trong thời gian nội chiến 1945-1975 cũng không ai dám, không ai muốn, không ai đủ khả năng xóa bỏ niềm tin này. Người Việt có niềm tin vào Chủ-đạo của mình. Họ xây đền thờ các vua Hùng ở Phú-thọ dường như đã hơn nghìn năm. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch là người người đều tụ tập về đây để tưởng nhớ công ơn các vua Hùng đã dựng nước. Trong thời gian chiến tranh (1945-1975) vì tình hình an ninh di chuyển khó khăn, vì tình hình kinh tế không cho phép, số người hành hương có giảm thiểu. Nhưng từ sau 1987, số người hành hương tăng vọt. Ngay ở ngoại quốc, người Việt lưu lạc khắp nơi, nhưng hằng năm đến ngày 10 tháng 3, lịch Á-châu, nơi nào họ cũng tổ chức giỗ tổ rất thành kính. Các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam như Chủ-tịch Hồ Chí Minh, Chủ-tịch Trường Chinh; Tổng bí thư Lê Duẩn, Đỗ Mười; Thủ-tướng Phạm Văn Đồng v.v. đều hành hương đền thờ vua Hùng, và đọc diễn văn ca ngợi công đức Quốc-tổ như một hành động thu phục nhân tâm. Kết lại dù ở trong nước hay ngoại quốc, hiện người Việt vẫn cùng một niềm tin như nhau." Ghi của Tăng Hồng Minh dành cho người Việt. Theo sự tìm hiểu của Tăng Hồng Minh tôi, các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam, đã viếng đền Hùng là : - Chủ-tịch Hồ Chí Minh, ngày 19-9-1954. 19-8-1962. - Tổng bí thư Lê Duẩn, 5-5-1977. - Chủ tịch nhà nước Trường Chinh 6-2-1959. 5-2-1978. - Thủ tướng Phạm Văn Đồng 6-2-1969. 27-8-1978. - Tổng bí thư Đỗ Mười 27-4-1993. Tôi xin trở lại với đầu đề, 3. Triều đình, dân tộc. Tôi đã trình bầy với Quý-vị về hai triều đại đầu tiên cai trị vùng Á-châu Thái-bình dương : Phía Bắc sông Trường-giang sau thành Trung-quốc. Phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan, sau thành Đại-Việt. Hai triều đại Thần-Nông Nam-Bắc cai trị dân chúng : - Không có nghĩa là dân chúng cùng một chủng tộc ; - Không có nghĩa là tộc Hoa, tộc Việt là một; - Cũng không có nghĩa tất cả dân chúng tộc Hoa, tộc Việt đều là huyết tộc của vua Thần-Nông. - Trung-quốc, Đại-Việt là anh em về phương diện chính trị. Giòng Thần-Nông cai trị vùng đất Trung-quốc, Đại-Việt là anh em, nhưng dân chúng không hoàn toàn là anh em. Dân chúng hai nước bao gồm nhiều tộc khác nhau như Mongoloid, Malanésien, Indonésien, Australoid, và cả Négro-Australoid...v.v. - Người Hoa, người Việt nhân triều đại Nam-Bắc Thần-Nông tổ chức cai trị, lập thành nước, mà tôn làm tổ mà thôi. Chứ hai vùng hồi đó hang nghìn, hàng vạn bộ tộc khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, văn hóa khác nhau. Sau này các văn nhân người Hoa ở vùng lưu vực Hoàng-hà, lưu vực sông Hán, nhân có chữ viết, lại không đi ra ngoài, rồi tưởng tượng mà viết thành sách, tự cho mình là con trời, tự trời mà xuống; sau đó đem văn minh, truyền bá ra khắp thế giới (Thiên-hạ), người sau lấy làm chủ đạo của họ. Tôi sẽ bàn đến ở dưới. Tôi xin cử một tỷ dụ, để Quý-vị nhìn rõ hơn. Ông Washington là vị Tổng-thống đầu tiên lập ra nước Hoa-kỳ, chứ ông không phải là tổ của các sắc dân đến từ châu Phi, châu Âu, cũng như dân bản xứ. Hai vị vua Nghi, vua Kinh Dương không phải là tổ huyết tộc của người Hoa, người Việt. Hai ngài chỉ là tổ về chính trị mà thôi. II. CHỦ ĐẠO TRUNG QUỐC, VIỆT-NAM. Như Quý-vị đã thấy, mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệu. Người Pháp cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật tượng trưng là con gà trống. Người Anh lấy biểu hiệu là con sư-tử. Người Hoa-kỳ lấy biểu hiệu là con chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con Rồng. Người Việt lấy biểu hiệu là con Rồng và con chim Âu. Gốc biểu hiệu này lấy từ huyền sử vua Lạc-Long là loài rồng, công-chúa Âu-Cơ là loài chim. Người Do-thái họ tự tin rằng họ là giống dân linh, được Chúa chọn. Vì vậy, sau hai nghìn năm mất nước, họ vẫn không bị đồng hóa. Khi tái lập quốc, với dân số bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với bao cuộc tấn công để tồn tại. Đó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân được Chúa chọn. Tôi xin nói rõ về chủ đạo của Trung-quốc và Việt-Nam. Như Quý-vị đều biết, hiện Trung-quốc, Việt-Nam đều là những nước theo chủ nghĩa Cộng-sản, đặt căn bản trên thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels. Chủ thuyết này đến Trung-quốc, Chủ-tịch Mao Trạch Đông biến thể đi thành Maoisme. Tại Việt-Nam, người mang chủ thuyết Marx, Engels vào là Chủtịch Hồ Chí Minh ; ông được đào tạo tại Liên-sô, vì vậy chủ thuyết của ông phảng phất Léninisme, pha thêm Việt-tính do ông tạo ra. Dường như hiện nay trên khắp thế giới, kể cả Liên-bang Sô-viết chỉ Việt-Nam là quốc gia duy nhất còn duy trì tượng Lénine tại một công viên lớn của Thủ-đô (Hà-nội). Theo như dự đoán của chúng tôi thì Trung-quốc, cũng như Việt-Nam cùng nhận thấy thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels không còn hợp thời, không còn ích lợi nữa. Cả hai đang từng bước, từng bước trở lại với chủ đạo của mình. Xin các vị cứ chờ, không lâu đâu cả hai sẽ hoàn toàn trở về với kho tàng quý báu của nước mình! Tôi thấy Trung-quốc trở lại quá mau, quá mạnh. Con rồng Trung-quốc mà Hoàng-đế Napoléon bảo rằng hãy để nguyên cho nó ngủ. Bằng như nó thức dậy, nó sẽ làm rung chuyển thế giới. Thưa Quý-vị, con rồng Trung-quốc đã thức dậy rồi, nhưng nó chưa làm rung động thế giới! Ghi chú của Tăng Hồng Minh (ngày 19-8-2000, nhân đọc lại bài này). IFA trao cho tôi dịch hầu hết những bài diễn văn của các nhà lãnh đạo Việt-Nam từ 1992 đến nay. Tôi thấy ông Tổng-bí-thư Đỗ Mười trong các diễn văn kỷ niệm 19-8 cũng như ngày Quốc-khánh, những từ ngữ ông dùng cũng như nội dung, ngày một xa Marx, Engels, Lénine. Nếu thời kỳ ông Lê Duẩn cầm quyền, khắp Việt-Nam đều thi nhau phá bỏ hết phong tục, truyền thống, nhất là phá các di tích tôn giáo bao nhiêu; thì bây giờ hầu hết các truyền thống dân tộc đều được phục hồi ở cấp xã. Niềm tin (chủ đạo) của hạ tầng hầu như trở lại thời kỳ trước 1945. 1.- Chủ đạo của Trung-quốc. Người Hoa thì tin rằng mình là con trời. Cho nên trong các sách cổ của họ,vị vua được gọi là Thiên-tử, còn các quan thì luôn là người nhà trời xuống thế phò tá cho vua. Chính niềm tin đó cùng với văn minh Hoa-hạ, văn minh Nho-giáo đã kết thành chủ-đạo của họ. Cho nên người Hoa dù ở đâu, họ cũng có một tổ chức xã hội riêng, sống với nhau trong niềm kiêu hãnh con trời. Cho dù họ lưu vong đến nghìn năm họ cũng không bị đồng hóa, không quên nguồn gốc. Cũng chính vì vậy, mà từ một tộc Hoa nhỏ bé ở lưu vực sông Hoàng-hà, họ đánh chiếm, đồng hóa hàng nghìn nước xung quanh, và nước của họ rộng lớn như ngày nay. Hầu hết những nước khác đến cai trị họ, đều bị họ đồng hóa. Mông-cổ, Mãn-thanh bị đồng hóa, bị mất hầu hết lãnh thổ. Nhưng chủ-đạo và sức mạnh của người Trung-quốc phải ngừng lại ở biên giới Hoa-Việt. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Giáo sư Nhân chủng học Van Gotensbert (Hòa-lan) hỏi : « Tôi thấy người Hoa, kiều ngụ ở các nước Á-châu, châu Phi cũng như tại Hoa-kỳ, Canada, Úc cùng một số các nước Âu-châu, dù trải qua mấy trăm năm, họ vẫn duy trì được dòng giống và không bị đồng hóa, đó là nhờ chủ đạo tự tin là con trời của họ. Thế nhưng tại sao, họ mới tới Pháp từ sau 1975, dưới danh nghĩa tỵ nạn Việt, họ bị đồng hóa rất mau. Không lẽ chủ đạo của Trung-quốc lại bị chủ đạo của Gaulois xóa bỏ mau chóng như vậy sao ? ». Đáp : « Thưa Giáo-sư, điều Giáo-sư hỏi, cũng là điều tôi chú tâm nghiên cứu từ 1975 đến giờ. Khi người Hoa tới bất cứ nước nào, họ cũng bị kỳ thị không ít thì nhiều, họ phải sống quần tụ với nhau, giúp đỡ nhau, bảo vệ nhau. Bên cạnh đó họ có niềm tin là con trời, tự hào về nền văn minh cổ của họ. Do đó họ tổ chức thành xã hội riêng : Giáo dục con em, thương mại, sinh hoạt văn hóa, tương trợ. Vì vậy họ giữ được bản sắc Trung-quốc của họ. Còn khi người Hoa tới Pháp, thì người Pháp với tinh thần cởi mở, với tính hiếu hòa, không kỳ thị, lại tận tình giúp đỡ kẻ tha hương hơn chính người Hoa giúp nhau, thành ra người Hoa không cần sống quần tụ. Họ sống lẫn với người Pháp. Con em người Hoa ngày ngày tới trường được bạn học, được thầy yêu thương, chúng thu nhập văn hóa Pháp rất mau. Trong khi cha mẹ chúng phải làm việc không có thời giờ dạy con cái về văn hóa Trung-quốc. Do vậy chỉ trong vòng mấy năm là trẻ Hoa thành trẻ Pháp: Tiếng nói, cách suy tư, nếp sống, trừ...ẩm thực. Tôi xin nói một câu thẳng thắn, mong các vị đừng buồn: trên khắp thế giới, khi người Việt tỵ nạn đến định cư bất cứ nơi nào, đều gặp nạn kỳ thị. Nước Pháp là nước duy nhất dân chúng không kỳ thị mà lại còn tận tình giúp đỡ. Do vậy nhiều người tỵ nạn đến các nước khác của châu Âu, rồi cũng tìm định cư ở Pháp, dù ở Pháp khó kiếm việc làm.Chính phủ và nhân dân Pháp biết thế, nên cánh cửa tự do không hề đóng lại. Tôi xin trở lại với đầu đề. Chủ đạo của Trung-quốc bắt nguồn từ thời nào ? Từ sách nào ? Do ai khởi xướng ? Đầu tiên là Kinh-thư, không rõ tác giả là ai, xuất hiện trước Khổng-tử, thiên Vũ-cống gọi thế giới chúng ta ở là Thiên-hạ (Dưới trời). Thời cổ, các văn nhân Trung-quốc không đi xa hơn vùng sông Hán, sông Hoàng-hà, họ tưởng đâu thế giới chỉ có Trung-quốc, nên gọi Trungquốc là Thiên-hạ. Thiên-hạ là Trung-quốc, tức là nước ở giữa. Bốn phía Trung-quốc là biển, nên gọi Trung-quốc là hải-nội, các nước khác là hải-ngoại. Kinh-thư thiên Vũ-cống chia Thiên-hạ thành 9 châu : Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Lại dùng khoảng cách, chia làm năm cõi, gọi là Ngũ-phục, mỗi cõi cách nhau năm trăm dặm (250 km). Ngũ-phục là Điện-phục, Hầu-phục, Tuy-phục, Yêu-phục, Hoang-phục. Trung-ương là kinh đô của nhà vua. - Điện-phục ở ngoài kinh đô năm trăm dặm. - Hầu-phục ở ngoài cõi Điện-phục năm trăm dăm : trong năm trăm dặm cõi Hầu thì khoảng cách một trăm dặm để phong thái ấp cho các quan khanh, đại phu. Hai trăm dặm nữa phong cho các tước Nam. Hai trăm dặm nữa phong cho các chư Hầu. - Kế tiếp Hầu-phục là Tuy-phục. Trong năm trăm dặm cõi Tuy thì ba trăm dặm là nơi truyền bá văn chương, giáo hóa quần chúng ; còn hai trăm dặm để hưng thịnh võ bị, bảo vệ quốc gia. - Sau cõi Tuy là cõi Yêu. Trong ba trăm dặm cõi Yêu là nơi cho rợ phương Đông ở. Hai trăm dặm còn lại là nơi để đầy tội nhân. - Cõi cuối cùng là cõi Hoang, năm trăm dặm. trong ba trăm dặm gần dành cho mọi phương Nam ở, hai trăm dặm cuối cùng để đầy người có tội nặng. - Ra khỏi cõi Hoang là... biển. Với lối phân chia lẫm cẩm, hài hước ấy, năm nghìn năm qua, dân Trung-quốc coi là Kinh, tức những gì không thể thay đổi, rồi trở thành chủ đạo của tộc Hoa. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Giáo-sư khoa Chính-trị học J.Fr Longanacre (USA) Hỏi : - Thế cái chủ đạo mà người Trung-quốc tự thị là con trời phát xuất từ đâu ? Vào thời nào ? Đáp : - Thưa Giáo-sư, cũng phát xuất từ Kinh-thư, thiên Thái-thệ : Trời sinh ra dân, Đặt ra vua, ra thầy, Đều để giúp Thượng-đế, Vỗ về dân bốn phương. Giáo-sư Mohamed Khalid (Nhân chủng học Iran) hỏi: - Tôi nghiên cứu hầu hết các thuyết nói về nguồn gốc tộc Hoa. Tôi thấy dường như người ta đều cho rằng tộc Hoa tự sinh ra, rồi di chuyển đi các nơi: Ra biển thành người Nhật, Namdương, Phi-luật-tân. Xuống Nam thành người Việt, Miên, Lào, Thái, Miến. Lên Bắc thành Đạihàn, Mông-cổ, sang phía Đông-Bắc thành người Trung Đông. Có đúng thế không? Đáp: - Thưa Giáo-sư họ suy nghĩ như vậy là sai hoàn toàn. Họ căn cứ vào truyền thuyết mà nói như vậy. Truyền thuyết căn cứ vào thư tịch cổ, nên sai, hoàn toàn sai. Vì thư tịch cổ do những văn nhân không đi ra ngoài, ngồi ở vùng lưu vực Hoàng-hà, tưởng tượng mà viết ra. Cả hội trường cùng im lặng. - Nếu nói rằng người Trung-hoa nhờ có tinh thần thực dụng, nhờ có chữ viết, nhờ văn hóa Nho-giáo, rồi trở thành hùng mạnh, rồi đem quân đánh chiếm các nước nhỏ xung quanh, tạo thành một nước vĩ đại như ngày nay là đúng. Còn như bảo rằng họ là con trời hoặc họ tự sinh ra, rồi di chuyển đinh sinh sống các nơi... thì sai. Tôi sẽ dẫn chứng ở dưới bằng ADN: tộc Hoa, do giống người từ Đông Nam-á đi lên. Mà những người Đông Nam-á có gốc từ Phi-châu. Họ đến Nam-á từ lâu. Rồi tộc đó lại kết hợp với những người cũng từ châu Phi đi lên châu Âu, vào Bắc Trung-quốc khoảng 15.000 năm trước. Chúng ta trở lại với đầu đề. Tiếp theo Kinh Thư, sách Tả-truyện, Tả Khâu Minh cũng viết : Trời làm chủ Thiên-hạ, Vua nối trời mà cai trị. Kẻ chịu mệnh trời mà cai trị là Thiên-tử. Đến Mạnh-tử, thiên Ly-lâu viết: Thiên hạ là quốc gia, Gốc của thiên hạ là quốc, Gốc ở quốc là gia. Vì ảnh hưởng của sách cổ nên người Hoa mới nảy sinh ra tư tưởng « Nội Hoa hạ, ngoại Di, Địch ». Nghĩa là trong Ngũ-phục thì là chốn văn minh, còn ngoài ra thì là mọi rợ. Kinh-lễ, thiên Vương-chế nói : Đông phương viết Di, Tây phương viết Nhung, Nam phương viết Man, Bắc phương viết Địch. Nghĩa là : Người ở Đông phương gọi là Di, Tây-phương là Nhung, Nam phương là Man, Bắc phương là Địch. Di, Nhung, Man, Địch là những từ để chỉ mọi rợ. Bốn chữ đó khi viết thì có bộ trùng, bộ thú, bộ khuyển ở cạnh. Có nghĩa các sắc dân đó là cầm thú, côn trùng, chó mèo ! Ngay đối với người Âu, Mỹ hồi thế kỷ thứ 20 về trước, người Hoa gọi là Bạch-quỷ ! (Thính giả cười ồ lên !) . Họ còn phân ra người Âu là Tây-dương Quỷ. Người Mỹ là Mỹ-lan-tây Quỷ. Người Anh là Hồng-mao Quỷ . Người Nga là La-sát Quỷ. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Sinh viên Marta Maria Fernandes Hỏi : « Thưa Giáo-sư, về Trung-quốc, tiếng Pháp gọi là La Chine, người Trung-quốc là Chinois. Còn sách của Chinois ở lục địa thì họ xưng là Trung-quốc ; của người ở Hương-cảng, Đài-loan thì họ xưng là Trung-hoa. Đôi khi họ xưng là Trung-nguyên, rồi Hoa-hạ. Tôi đọc một số sách bằng Việt ngữ thì người Việt gọi là chữ Hán chứ không gọi là chữ Hoa, hay chữ Trungquốc; và người Việt khi thì gọi Chinois là người Hoa, khi thì gọi là người Tầu. Như trên Giáo-sư đã giải thích từ Trung-quốc. Còn từ Hoa ở đâu mà có ? Tại sao lại có những từ phức tạp như vậy ? » Đáp : « Như tôi đã trình bầy : Với lối phân chia Cửu-châu, Ngũ-phục ; trong năm cõi trên thì cõi Điện là vùng bao quanh Thiên-hạ. Phía trong cõi Điện là Giao. Trong Giao một trăm dặm là Quốc. Trong Quốc có thành gọi là Đô. Đô là nơi vua ở. Vì vậy họ mới xưng là Trung-quốc, tức nước ở giữa Thiên-hạ. Chữ Trung-quốc ở đây có tính chất chính trị, và địa lý. Còn từ Trungnguyên có nghĩa là vùng đất ở giữa. Trung-nguyên chỉ có nghĩa địa lý mà thôi. Sau cuộc cách mạng Tân-Hợi (1911), Bác-sĩ Tôn Văn và Quốc-dân đảng lên nắm quyền, lấy quốc danh là Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc, gọi tắt là Trung-Hoa Dân-quốc từ ngày 1-1-1912. Hiện chính phủ Đài-loan vẫn duy trì quốc danh này. Hồng-quân tiến chiếm được Bắc-kinh, lập nền cai trị Trung-nguyên, họ xưng là Cộnghòa nhân dân Trung-quốc gọi tắt là Trung-quốc kể từ ngày 1-10-1949. Còn nguồn gốc từ Hoa thì lúc đầu Trung-quốc chỉ là mấy bộ tộc ở vùng Ung-châu, Lương-châu (Ghi chú xin đừng lầm Ung này với Ung-châu thời Tống, nay là Nam-ninh thuộc Quảng Tây). Phía Đông Nam là Hoa-âm, Đông Bắc là Hoa-dương, giới hạn bởi Hoa-sơn. Vì vậy họ mới xưng nước là Hoa. Sau vì có văn minh, họ chiếm, đồng hóa các vùng xung quanh, mà có 9 châu như trong Kinh-thư. Hoa là tên nước chứ không phải là tên chủng tộc. Còn từ Hoa Hạ thì do con sông Hạ-thủy khởi nguồn từ Ung-Lương, nên lấy từ Hạ-thủy làm tên tộc. Hạ là tên tộc, không phải là tên nước. Sau này người ta ghép chữ Hoa là nước với chữ Hạ là tộc thành từ Hoa-Hạ vừa để biểu tượng cho nước, vừa biểu tượng cho tộc. Cao-tổ nhà Hán là Lưu Bang, khởi nghiệp từ sông Hán-thủy, nên xưng là triều Hán (207 trước Tây-lịch). Năm 179 trước Tây-lịch, Triệu Đà chiếm Âu-lạc (tên cũ của Việt-Nam). Y là thần tử triều Hán, cấm dân Việt học chữ Khoa-đẩu của tộc Việt, bắt học chữ Hoa. Do vậy người Việt gọi chữ Hoa là chữ Hán. Người Việt gọi người Chinois là người Hoa, người Trung-quốc là lẽ thường. Còn danh tự người Tầu thì bắt nguồn từ những triều đại Trung-quốc bị sụp đổ, các di thần dùng tầu vượt biển sang Việt Nam xin kiều ngụ, nên người Việt gọi họ là người Tầu ». Chúng ta trở lại với đầu đề. Từ nguồn gốc kinh điển cổ, người Hoa tự cho mình là con trời (Thiên-tử), cho nên hầu hết các tiểu thuyết của họ thì vua luôn có tướng tinh là con rồng vàng, là Thanh-y đồng tử trên thượng giơí giáng sinh. Các quan võ thì luôn là Vũ-khúc tinh quân, các quan văn là Văn-khúc tinh quân. Quần thần thì là Nhị-thập bát tú giáng hạ. Với chủ đạo này, họ đã đánh chiếm mấy trăm nước tạo thành một Trung-quốc vĩ đại. 2.- Chủ đạo của Việt-Nam. Như trên đã trình bầy, với nguồn gốc lập quốc, người Việt có niềm tin mình là con của Rồng, cháu của Tiên, cho nên người Việt có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Truyền thống sang thế kỷ thứ 2 trước Tây-lịch lại thêm vào tinh thần của vua An-Dương. Sang đầu thế kỷ thứ nhất, nổ ra cuộc khởi nghĩa của một phụ nữ, và 162 anh hùng, trong đó có hơn trăm là nữ. Cuộc khởi nghĩa đuổi ngoại xâm Trung-hoa, lập lên triều đại Lĩnh-Nam. Phụ nữ đó là vua Trưng. Nối tiếp mỗi thời đại đều có tinh thần riêng, tạo thành niềm tin vững chắc. Tộc Việt đã chiến đấu không ngừng để chống lại cuộc Nam tiến liên miên trong hai nghìn năm của người Hoa. Bất cứ thời nào, người Việt dù bị phân hóa đến đâu, nhưng khi bị ngoại xâm, họ lập tức ngồi lại với nhau để bảo vệ quốc gia. Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt, hễ ai dựa theo chủ đạo tộc Việt, đều thành công trong việc giữ được quyền cai trị dân. Gần đây nhất, người Việt bị các thế lực Quốc-tế, gây ra cuộc chiến tranh tương tàn khủng khiếp (1945-1975). Nhưng nay, Việt-Nam đang trên đà phục hưng chủ đạo. Ý tôi muốn nói sự cố gắng phi thường của hơn hai triệu người Việt ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam, đã là bó đước sáng chuyển chủ đạo trở về nước mình. Trong thời gian 1954-1975, miền Bắc theo chế độ Cộng-sản, theo chủ thuyết Quốc-tế. Nhưng họ biết khai thác cái chủ đạo của Việt-Nam, họ huy động được tinh thần yêu nước của dân tộc, nên cuối cùng họ chiến thắng. Cũng tiếc thay, những người cầm quyền miền Nam từ 1963-1975, không biết khai thác lòng yêu nước của dân tộc, lại chấp nhận cho quân đội Hoa-kỳ và đồng minh nhảy vào vòng chiến, việc này có khác gì quỳ gối, trao ngọn cờ chính nghĩa cho miền Bắc! Tôi nghĩ những người lãnh đạo miền Nam như ông Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, cho đến giờ này (1992) chưa từng biết gì về kho tàng lòng yêu nước của người Việt, lại cũng chưa từng nghe, từng nói đến chữ chủ đạo tộc Việt bao giờ. Trước họ, cố Tổng-thống Ngô Đình Diệm (1954-1963), vì biết rõ chủ đạo tộc Việt. Ngài từ chối không cho Hoa-kỳ đổ quân vào Việt Nam, mà đang là một đồng minh của Hoakỳ, Ngài đã trở thành kẻ thù của Hoa-kỳ, bị Hoa-kỳ giết hết sức thảm khốc. III. ĐI TÌM LẠI NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT. Năm trước đồng nghiệp của tôi đã giảng cho các bạn sinh viên hiện diện các giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, bao gồm : 1.- Thuyết của giáo sư Léonard Aurousseau về cuộc di cư của người Ư-Việt hay Ngô-Việt sang Âu-Lạc. 2.- Thuyết của Claude Madroll về cuộc di cư của người Mân-Việt sang Âu-Lạc. 3.- Thuyết của học giả Đào Duy-Anh, Hồ Hữu-Tường về cuộc di cư do thời tiết của người Việt từ Bắc xuống Nam. Tất cả các thuyết này đều căn cứ vào những thư tịch cổ Trung-quốc, Việt-Nam. Mà những thư tịch này không có một biện chứng khoa học nào cả. Cuối cùng các giáo sư đồng nghiệp đã nhận định rằng : Nhờ vào khoa khảo cổ, nhờ¨ vào hệ thống khoa học DNA, từ nay không còn những giả thuyết về nguồn gốc tộc Việt nữa, mà chỉ còn lại công cuộc nghiên cứu của tôi, rồi kết luận : « Thoạt kỳ thủy, trên vùng đất thuộc lãnh thổ Trung-quốc, Việt-Nam hiện tại: Giống người đã từ châu Phi đến bằng hai đường. Một là đường Nam-á, đến Đông Nam-á, ngược lên vùng Hoa Nam. Hai là từ châu Phi, tới châu Âu, rồi sang Bắc Trung-quốc. Cuối cùng cả hai giống người hòa lẫn với nhau trên lãnh thổ Trungquốc. Còn trong vòng 5000 năm trước Tây lịch cho đến nay, thì tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía nam sông Trường-giang, Đông tới biển, Tây tới Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-lan. Người Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam. Người Mân-Việt đi xuống Giao-chỉ. Người Việt di cư từ nam sông Trườnggiang tránh lạnh xuống Bắc-Việt đều đúng. Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lãnh thổ của họ, như cuộc di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 ; chứ không phải họ là người Trung-quốc di cư xuống Nam, lập ra nước Việt. » Chính vì lý do dùng hệ thống ADN biện biệt tộc Hoa, tộc Việt, nên tôi được mời đến đây đọc bài diễn văn khai mạc niên khóa này. Sau đây tôi trình bầy sơ lược về công trình nghiên cứu đó. Tôi xin nhắc lại, tôi chỉ là một bác sĩ y-khoa, cho nên những nghiên cứu của tôi đặt trên lý luận thực nghiệm, cùng lý luận y-khoa, nó hơi khác với những gì mà các bạn đã học. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Sinh viên Vũ-thị Thu-Dung Hỏi: - Thưa Thầy, con có đọc một bộ sách của nhà văn Bình Nguyên Lộc nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trong bộ sách đó, ông khẳng định rằng người Việt gốc từ Mã-lai. Xin Thầy cho biết ý kiến? Trả lời: - Tôi chưa đọc bộ sách đó, vả có đọc tôi cũng không thể đem ra bàn luận ở đây. Giáo-sư Viện-trưởng: - Tôi xin bổ túc lời diễn giả. Ban tu thư của IFA sưu tầm tất cả những thư tịch nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trước sau có 34 người đã trình bầy. Nhưng chỉ những tác giả sau đây được ghi vào album nghiên cứu: - Edouard Chavannes trong bản dịch bộ Sử-ký của Tư Mã Thiên. - Leonard Aurousseau trong bài nghiên cứu "La première conquête chinoise des pays anamites" đăng trong tạp chí của trường Viễn-đông bác cổ của chúng tôi tại Hà-nội (ý chỉ nước Pháp), ký hiệu BEFEO XXIII. 138-244. - Claude Madrolle, trong bài Le Tonkin Ancien đăng trong BEFEO XXXVII 264-332. - Lê Chí Thiệp, trong Văn-hóa nguyệt san (VNCH) số tháng 3-4 năm 1959. - Đào Duy Anh, trong Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, được ông Hồ Hữu Tường cổ võ trong bộ Tương lai văn hóa Việt-Nam. - Gần đây, giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ trong bộ Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, xb năm 1985 ở Canada. - Một số các bài của giáo sư Lương Kim Định, Nguyễn Đăng-Thục và Tiến-sĩ Thái Văn Kiểm, hội viên Hàn-lâm-viện Hải-ngoại của Pháp-quốc.. Một số tác giả viết chỉ với mục đích khoa trương, lập dị, hoặc không có căn cứ, hoặc thiếu kiến thức, chúng tôi không ghi vào thư mục nghiên cứu, nên Giáo-sư Trần Đại-Sỹ không tham khảo, và dĩ nhiên không đem ra bàn ở đây: - Paul Francastel trong Origine du Việt-Nam, France Asie xb. - Nguyễn Phương trong Tiến trình hình thành dân tộc Việt-Nam, tạp chí Đại-học Huế tháng 4 năm 1963. - Bình Nguyên Lộc trong tác phẩm mà em đã đọc. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong việc đi tìm nguồn gốc tộc Việt, tôi đã dùng phương pháp y-khoa nhiều nhất, và phương pháp khoa học mới đây. Tôi đã được giáo sư Tarentino về khoa Anatomie của Ý và giáo sư sinh vật Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp đỡ. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng trong khoảng 5000 trước Tây-lịch, lãnh thổ tộc Việt nằm từ phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan. Phía Tây tới tỉnh Tứ-xuyên Trung-quốc , phía Đông tới biển Nam-hải. Nghĩa là bao gồm toàn bộ Hoa-Nam, và Đông-dương. 1. Dùng biện chứng y-khoa vào khảo cổ. Biện chứng căn bản của người nghiên cứu y-khoa là : « Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do » Biện chứng này đã giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng. Như tôi đã trình bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân đều theo đó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn phổ kể sự tích các ngài. Vì theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học giả đi tiên phong, nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ qua. Tôi lại suy nghĩ khác : « Không có nguyên do , sao có chứng trạng ? ». Vì vậy tôi đã tìm ra rất nhiều điều lý thú. Tỷ dụ : Bất cứ một nhà nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An-Dương cũng cho rằng chuyện thần Kim-quy do vua móng làm nỏ bắn một lúc hàng nghìn mũi tên khiến Triệu-Đà bị bại là hoang đường, là ma trâu đầu rắn. Nhưng tôi lại tin và cuối cùng tôi tìm ra sự thật. Hồi ấy Cao Cảnh hầu Cao Nỗ đã chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày nay. Tôi cũng tìm ra kích thước của ba mũi tên đồng của nỏ này.(4) Trước tôi đã có các nhà khảo cổ căn cứ vào xương sọ tìm được tại Trung và Bắc-phần (70 cái). Trong đó có 38 cái do người Pháp sưu tầm thuộc thời đại Đồ-đá, thì 29/38 cái được kết luận là thuộc chủng loại Malanésien, Indonésien, Australoide hay Nam-á. Với 29 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể. Gần đây các học giả Việt-Nam lại tìm ra 32 xương sọ, thuộc thời đại Đồ-sắt (1000 năm trước Tây-lịch đến 300 sau Tây-lịch), thì 22/27 thuộc chủng loại Mongoide. Với 32 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể tộc Việt thuộc chủng loại Mongoide. Những tác giả trên đã căn cứ vào chỉ số xương sọ mà kết luận. Nhưng y học đã tiến bộ, căn cứ vào chỉ số xương sọ để định nguồn gốc đã bị đánh đổ. Nguyên do : Khi con người di cư đến vùng khác, bị khí hậu, bị nước uống, bị thực phẩm làm thay đổi xương sọ. Chúng tôi dùng hệ thống ADN, hệ thống sinh học mới nhất thử nghiệm ngay những người đang sống của 35 dòng họ tại Hoa Nam với Việt-Nam, rồi với những dòng họ khác tại Hoa Bắc. Lại cũng thử nghiệm những bộ xương của ba vùng trên, không phân biệt thời gian. Cuối cùng chúng tôi tìm ra sự khác biệt của những tộc Hoa Nam, Việt Nam với những tộc Hoa Bắc, và đi đến kết luận : lãnh thổ Văn-lang, tới hồ Động-đêình. (5) Ghi chú của Tăng Hồng Minh Một quan khách, nữ giáo sư khoa Thiên-văn học tên Madeleine Chevalier hỏi: - ADN là gì? Tôi nghe nói, cũng như đọc trên báo hoài, mà không biết rõ chi tiết cái hệ thống này? Trần Đại-Sỹ: - Tôi xin nhường lời cho Giáo-sư Vareilla Pascale chuyên khoa về vấn đề này trả lời. Vareilla Pascale: - Cảm ơn Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đã cho tôi danh dự trả lời Giáo-sư Chevalier. ADN viết tắt của từ Acide désoxyribonucléique, tiếng Anh là Deoxyribosenucleic acide, viết tắt là DNA. ( Phần này khá dài, khoảng 20 trang A4, chúng tôi không dịch hết, vì quá chuyên môn, chỉ dành cho sinh viên y khoa.) 2. Những vấn đề. Ranh giới phía Nam của nước Văn-lang tới nước Hồ-tôn đã quá rõ ràng. Ranh giới phía Tây với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới phía Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc qủa tới hồ Động-đình, thì ranh giới phía Tây chắc phải giáp Ba-thục và phía Đông phải giáp Đông-hải. Có thực như thế không? Vì vậy tôi đi tìm ranh giới phía Bắc. Dưới đây là huyền thọai, huyền sử mà tôi đã bấu víu vào để đi nghiên cứu. Tôi cần tra cứu cho ra: Vấn đề thứ nhất, Cổ sử Việt đều nói rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Động-đình. Có thực như vậy không? Truyền thuyết nói Đế-Minh lập đàn tế cáo trời đất, rồi chia thiên hạ làm hai. Từ Ngũlĩnh về Bắc cho Đế-Nghi, sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam truyền cho vua Kinh- Dương sau thành Văn-lang. Núi Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình nay vẫn còn. Nhưng liệu có di tích gì chứng minh chăng? Tôi phải đi tìm Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình. Vấn đề thứ nhì, Truyền thuyết nói : Sau khi vua Kinh-Dương, vua Lạc-Long kết hôn, đều lên núi Tamsơn trên hồ Động-đình hưởng thanh phúc ba năm. Lúc ngài lên núi có chín vạn hoa tầm xuân nở. Tôi phải đi tìm núi Tam-sơn ở hồ Động-đình. Liệu trên núi này có di tích gì về cuộc tình năm nghìn năm trước chăng? Vấn đề thứ ba, Truyền sử nói : Sau khi Quốc-tổ Lạc-Long, Quốc-mẫu Âu-Cơ cho các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, dặn rằng : Mỗi năm về Tương-đài chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần. Cổ sử nói : Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, hẹn mỗi năm một lần gặp nhau ở cánh đồng Tương. Cánh đồng Tương ở đâu? Nếu có cánh đồng Tương thì cũng có thể kết luận rằng biên giới nước Văn-lang tới hồ Động-đình. Tôi phải đi tìm. Vấn đề thứ tư, chứng tích thứ nhất xác định: Bộ Sử-ký của Tư-mã, Nam-Việt liệt truyện có thuật việc: vua nước Nam-Việt là TriệuĐà thường đem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán là Nam-quận, Trường-sa (Mậu-Ngọ 183 trước Tây-lịch). Như vậy biên giới Nam-Việt (Tức Việt-Nam) với Hán ( Tức Trung-quốc) ở vùng này. Ngày nay Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam, nằm ngay Nam ngạn sông Trườnggiang. Vấn đề thứ năm, Huyền sử nói rằng : trong cuộc khởi nghĩa của vua Trưng: - Khi Trưng Nhị, Trần Năng, Phật Nguyệt, Lại Thế-Cường, Trần Thiếu-Lan đem quân đánh Trường-sa (39 sauTây-lịch), thì nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang (sự thật đó là Tương-giang thông với hồ Động-đình). - Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam và Hán (42 sau Tây-lịch). Tướng Lĩnh- Nam tổng trấn hồ Động-đình là Phật Nguyệt, tướng Hán là Mã Viện, Lưu Long (40 sau Tâylịch). Có thực thế không? Có hai trận Trường-sa, hồ Động-đình không? Nếu có thì ranh giới thời Lĩnh-Nam (40-43 sau Tây-lịch) quả tới hồ Động-đình. Vấn đề thứ sáu, Năm 42, sau Tây-lịch, ba tướng thống lĩnh Kỵ-binh thời vua Trưng là Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang, đánh nhau với quân Hán tại Bồ-lăng thuộc Tượng-quận, vì quân ít, thế cô, ba ông tự tử. Vậy Bồ-lăng ở đâu? Có trận này không? Nếu có trận này thì ranh giới Lĩnh-Nam phía Tây quả tới Ba-thục (Tứ-xuyên.) Thưa Quý-vị, Nhưng các sử gia gần đây (1900-1975) đều đặt nghi vấn rằng : Làm gì biên giới thời Văn-Lang rộng như vậy? Nếu có chỉ ở vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện nay trăm cây số là cùng. Lại cũng có những người dốt nát (1975-1991), không đủ sách đọc, không theo kịp sự tiến triển của y học, họ chỉ đọc những tài liệu sai lầm, rồi họ như con ngựa kéo xe, chỉ biết có vậy, chúng tôi thấy họ ngu dốt quá, nên không trả lời, cũng như giải thích. Tôi căn cứ vào những chứng trạng trên mà đi tìm nguồn gốc. V. ĐI TÌM BIÊN GIỚI NƯỚC VĂN-LANG 1. Núi Ngũ-lĩnh. Cuối năm Canh-Thân (1980) tôi lấy máy bay đi Bắc-kinh, rồi đổi máy bay ở Bắc-kinh đi Trường-sa. Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam. Tất cả di tích của tộc Việt như hồ Độngđình, núi Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương, Thiên-đài, Tương-đài, cánh đồng Tương đều nằm ở tỉnh này. Tôi đi nghiên cứu với một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học Pháp-Hoa (CMFC). Có một sự hiểu lầm lớn, vì trong thư giới thiệu các giới chức y-khoa chỉ xin được giúp đỡ cho tôi, nên khi tôi muốn tiếp xúc với sở du-lịch, ty văn hóa địa phương, họ đều tưởng tôi tới Trường-sa để nghiên cứu sự cấu tạo hình thể cùng bệnh tật dân chúng tại đây. Thành ra tôi bị mất khá nhiều thì giờ nghe thuyết trình của các đồng nghiệp về vấn đề này. Tôi cư ngụ trong khách sạn Trường-sa tân điếm nằm trên đại lộ Nhân-dân. Tôi mua cuốn địa phương chí mới nhất của tỉnh, rồi mò vào thư viện ty văn hóa, sở bảo vệ cổ-tích, đại-học văn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà ngay những sinh viên văn khoa cũng ít ai ghé mắt tới. Đầu tiên tôi đêi tìm núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay đó là năm dãy núi gần như ngăn đôi Nam, Bắc Trung-quốc : - Một là Đại-dữu lĩnh. - Hai là Quế-dương, Kỳ-điền lĩnh. - Ba là Cửu-chân, Đô-lung lĩnh. - Bốn là Lâm gia, Minh-chữ lĩnh. - Năm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh. Về vị trí : - Ngọn Thủy-an, Việt-thành chạy từ tỉnh Phúc-kiến, đến huyện Tuần-mai tỉnh Quảngđông. - Ngọn Đại-dữu chạy từ huyện Đại-dữu (Nam-an), tỉnh Giang-Tây đến huyện Namhùng tỉnh Quảng-đông. - Ngọn Cửu-chân, Đô-lung chạy từ Đạo-huyện tỉnh Hồ-nam tới Gia- huyện tỉnh Quảngtây. - Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam đến Liên-huyện tỉnh Quảng-Đông. - Ngọn Quế-dương từ Toàn-huyện tỉnh Hồ-nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-tây . Lập tức tôi thuê xe đi một vòng thăm các núi này. Tôi đi mất mười ngày, trải gần 15.000 cây số. Như vậy là Ngũ-lĩnh có thật, nay có núi đã đổi tên, có núi vẫn giữ tên cũ. Một câu hỏi đặt ra : Tại sao khi vua Minh phân chia từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Lộc-Tục mà lĩnh địa Việt tới hồ Động-đình, mà hồ ở phía Bắc núi đến mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này : - Một là vua Minh tế trời ở trên núi Ngũ-lĩnh là nơi người gặp tiên rồi chia địa giới. Nhưng bấy giờ dân chưa đông, mà sông Trường-giang rộng mênh mông, sóng lớn quanh năm nên vua Nghi chỉ giữ từ Bắc ngạn mà thôi. Còn vua Kinh-Dương thì sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Động-đình (một tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc gia. - Hai là dân chúng Nam-ngạn Trường-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một khí hậu, phong tục, nên họ theo về Nam không theo về Bắc, thành thử hồ Động-đình mới thuộc lãnh địa Việt. Kết luận : « Quả có núi Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể núi này đúng là nơi phân chia lãnh thổ Văn-Lang và Trung-Quốc khi xưa ». Ánh sáng đã soi vào nghi vấn huyền thọai. 2. Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh. Tương truyền vua Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế-dương, phân chia lãnh thổ Lĩnh-Bắc tức Trung-Quốc, Lĩnh-Nam tức Đại-Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên-đài. Nhưng dãy núi Quế-dương có mấy chục ngọn núi nhỏ không biết ngọn Thiên-đài là ngọn nào ? Trên bản đồ không ghi. Sau tôi hỏi thăm dân chúng thì họ chỉ cho tôi thấy núi Thiên-đài nằm gần bên bờ Tương-giang. Điều này dễ hiểu, tỷ như ngày nay, du khách nhìn bản đồ sẽ không thấy địa điểm Sài-gòn. Nhưng trong dân chúng, họ vẫn nhớ tên cũ. Tôi đi thăm Thiên-đài. Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn nhưng không có người trụ trì. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói. Lâu ngày chùa không được tu bổ, nhiều chỗ ngói bị lở, bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị mòn nhiều chỗ gần như lún sâu. Duy nền với cổng bằøng đêá là còn nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong ra. Bên trong cột kèo bằng gỗ đã nứt nẻ khá nhiều. Những câu đối , chữ còn, chữ mất. Tại thư viện Hồ-nam tôi tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi : Thiên-đài di sự lục Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn sọan. Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-Tông, từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh- Mùi (647) nhưng không biết Chu đỗ tiến-sĩ năm nào ? Tuy sách do Chu Minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh-Văn sọan, phần chép tiếp theo Chu Minh-Văn, của một sư ni tên Đàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang- Hy (1662-1772). Chu Minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loaị văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố cùng thành ngữ lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh cùng kinh Phật. Nhân viên quản thủ thư viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông ấy biết rằng, tôi chỉ được học lọai văn đó vào hồi sáu, bảy tuổi thì ông sẽ hết phục. Tài liệu Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc-Tục.Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, vì vậy đài cũng mang tên Thiên-đài núi cũng mang tên Thiên-đài sơn, Minh-Văn còn kể thêm : « Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Đương. Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-dương ông cùng nghìn quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm đươc núi. Về đời Đường để xóa vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây chùa tại đây ». Tôi biết vua Bà là vua Trưng, còn tướng Đào Hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-bình vương Đào Kỳ. Ngài Đào Kỳ lĩnh chức Đại Tư-mã thời vua Trưng. Còn tướng Đào Hiển-Hiệu tước phong quốc công, giữ chức Hổ-nha đại tướng quân. Nữ tướng Hoàng Thiều-Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi Trường-sa, hồ Động-đình, đã sai Hiển-Hiệu đi cản hậu, đóng nút chặn ở Thiên-đài, đợi quân Lĩnh-Nam rút hết, sẽ rút sau. Nhưng Hiển-Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thời Quốc-tổ, Quốc-mẫu, đã không chịu lui quân, tử chiến, khiến quân Hán chết không biết bao nhiêu mà kể tại đây. Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối : Thoát thân Nam thành xưng sư tổ, Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật- kinh. Hai câu này ngụ ý ca tụng Thái-tử Tất-Đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi tìm lẽ giải thoát sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh. Tam bảo linh ứng, phong điều vũ thuận, Phật công hiển hách quốc thái an dân. Hai câu này là ngụ ý nói : Tam bảo linh thiêng, khiến cho mưa thuận, gió hòa đó là công lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an . Nơi có dấu vết Thiên- đài, còn đôi câu đối khắc vào đá : Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc. Lĩnh địa niên niên dữ Việt-thường. Nghĩa là: Từ sau vụ vua Minh tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao đời phân ra Nam, Bắc. Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với giòng giống Việt-thường. Chỗ miếu thờ của Đào Hiển-Hiệu có đôi câu đối : Nhất kiếm Nam-hồ kinh Vũ-đế, Thiên đao Bắc-lĩnh trấn Lưu Long. Nghĩa là : Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đình làm kinh tâm vua Quang-Vũ nhà Hán. Ý chỉ nữ tướng Phật-Nguyệt đánh bại Mã Viện ở phía Nam hồ Động-đình. Một nghìn tay đao do Hiển-Hiệu thủ ở Bắc núi Ngũ-lĩnh trấn Lưu Long. Kết luận : « Như vậy việc vua Minh tế cáo trời đất là có thật. Vì có Thiên-đài nên thời Lĩnh-Nam mới có trận hồ Động-đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ lãnh địa thời vua Trưng cũng như Văn-Lang xưa qủa tới Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình ». 3. Cánh đồng Tương, Nhắc lại: Có hai huyền sử nói về cánh đồng Tương : - Một là Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, mỗi năm tái hội nhau trên cánh đồng Tương một lần. - Hai là Quốc-tổ, Quốc-mẫu truyền các hoàng tử đi khắp bốn phương quy dân lập ấp, mỗi năm hội tại cánh đồng Tương một lần. Tôi đoán : Cả hai vị Quốc-tổ Kinh-Dương, Lạc-Long sau khi kết hôn đều đem Quốc-mẫu lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đình hưởng thanh phúc ba năm.Vậy thì cánh đồng Tương sẽ gần đâu đó trên hồ Động-đình. Phía Nam hồ Động-đình là sông Tương-giang, chảy theo hướng Nam-Bắc dài 811 km, lưu vực tới 92500km2, chẻ đôi tỉnh Hồ-nam với Quảng-tây. Vậy cánh đồng Tương sẽ nằm trong lưu vực Tương giang. Tôi thuê thuyền đi từ cảng Dương-lâm nơi xuất phát ra Tương-giang là hồ Động-đình, xuống Nam, qua Tương-âm, tôi dừng lại, nghiên cứu địa thế cùng thăm chùa Bạch-mã. Đây là địa phận quận Ích-dương.Vô tình tôi tìm ra một nhánh sông Âu-giang và một cái hồ rất lớn, vào mùa nước lớn rộng tới 4-5 mẫu, vào mùa nước cạn chỉ còn 2-3 mẫu mà thôi. Suốt lộ trình từ hồ Động-đình trở xuống, trên cửa sông Tương cũng như hai bên bờ chim Âu bay lượn khắp nơi. Đặc biệt trên Âu-giang, Âu-hồ, giống chim này càng nhiều vô kể. Từ Âu-giang, tôi trở lại sông Tương, xuôi tới Trường-sa thủ phủ của Hồ-nam rồi tới các quận lỵ Tương-đàm, Chu-châu, Hành-dương, Quế-dương. Không khó nhọc tôi tìm ra : « Cánh đồng Tương, tức là vùng trũng phía Tây-ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động-đình, Nguyên-giang. Phía Nam là Linh-lăng, Hành-giang. Phía Tây là vùng Chiêu-dương, Lãnh-thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác : Tương-giang, Nguyên-giang, Liên-thủy, Thạch-khê-thủy ». Sau khi tìm ra cánh đồng Tương, Thiên-đài, cùng những đàn chim âu , tôi giải đoán như thế này : « Quốc-tổ Lạc Long kết hôn với công chúa con Đế-Lai, hẳn công chúa cũng có tên. Nhưng vì lâu ngày người ta không nhớ được tên ngài, nên đã lấy con chim Âu, rất hiền hòa, xinh đẹp ở vùng hồ Động-đình, Tương-giang mà gọi là Âu-Cơ (Cơ là vợ vua). Vì người ta gọi Quốcmẫu là Âu-Cơ, thì họ nghĩ ngay đến Quốc-mẫu sinh đẻ. Khi chim Âu đẻ thì phải đẻ ra trứng. Còn con số một trăm, là con số triết học Việt-Hoa dùng để chỉ tất cả. Như trăm bệnh là tất cả các bệnh, trăm họ là toàn dân. Trăm con có nghĩa là tất cả dân ttrong nước đều là con Quốc-mẫu » Kết luận : « Đã có cánh đồng Tương, thì chuyện Quốc-tổ, Quốc-mẫu hẹn mỗi năm hội tại đây một lần là có. Khi sự kiện có núi Ngũ-lĩnh, có Thiên-đài. Nay chứng cớ được kiểm điểm, thì lãnh địa của tộc Việt xưa quả tới hồ Động-đình ». 4. Hồ Động-đình và Tam-sơn Hồ Động-đình nằm ở phía Nam sông Trường-giang. Hồ được coi như nơi phát tích ra tộc Việt. Địa khu Bắc sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-bắc, tức đất Kinh-châu thuở xưa. Địa khu phía Nam sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-nam. Hồ Động-đình nằm trong tỉnh Hồ-nam. Hồ thông với sông Trường-giang bằng hai con sông. Cho nên người ta coi hồ như nơi chứa nước sông Trường-giang, rồi đổ vào Tương-giang. Trên Bắc-ngạn hồ có núi Tam-sơn. Tôi đã lên đây ba lần. Tương truyền các các nữ tướng thời vua Trưng như Trưng-Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan đánh chiếm Trường-sa vào ngày đầu năm, vì vậy tôi cũng tới đây vào dịp này để thấy rõ phong cảnh, rồi tả trận đánh trong bộ Cẩm-khê-di-hận(6). Hồ rộng 3915 cây số vuông, độ sâu về mùa cạn là 38,5 mét, về mùa nước lớn là 39,20 mét. Tra trong chính sử thì quả hồ Động-đình thuộc lãnh địa Văn-Lang. Như trên đã nói, triều đại Thần-Nông Bắc đến đời vua Du-Võng thì mất vào năm 2696 trước Tây-lịch, chuyển sang thời đại Hoàng-Đế. Sử gia Trung-Quốc cho rằng Hoàng-Đế là tổ lập quốc. Nói theo triết học Tây phương thì vua Du-Võng gốc từ Thần-Nông thuộc nông nghiệp cư trú trong vùng đồng bằng ở phương Nam lấy hỏa làm biểu hiệu nên còn gọi là Viêm-đế. Còn vua Hoàng-đế gốc ở dân du mục, săn bắn, từ phương Bắc xuống. Dân du mục nghèo, nhưng giỏi chinh chiến. Dân nông nhiệp giàu nhưng không giỏi võ bị nên bị thua. Bộ Sử-ký của Tư-mã-Thiên, quyển 1, Ngũ-đế bản kỷ chép rằng : «...Thời vua Hoàng-đế, họ Thần-Nông (Bắc) đã suy, chư hầu chém giết lẫn nhau, khiến trăm họ khốn khổ vô cùng. Triều Thần-Nông không đủ khả năng chinh phục. Vua Hiên-Viên Hoàng-Đế thao luyện can qua, chinh phục những chư hầu hung ác. Vì vậy các nơi theo về rất đông. Trong các chư hầu thì Suy-Vưu mạnh nhất. Vua Du-Võng triều Thần-Nông định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu chỉ tuân lệnh Hoàng-Đế. Vua Hoàng-Đế tu sửa đức độ, luyện tập binh mã, vỗ về trăm họ, giúp đỡ bốn phương, luyện tập thú dữ rồi đại chiến với vua Du-Võng ở Bản-tuyền, thành công. Suy-Vưu làm lọan, không tuân đế hiệu. Hoàng-Đế triệu tập chư hầu cùng Suy-Vưu đại chiến ở Trác-lộc, bắt sống Suy Vưu. Chư hầu tôn ngài làm Thiên-tử thay họ Thần-Nông. Trong thiên hạ nơi nào không thuận vua Hoàng-Đế đem quân chinh phục. Lãnh thổ của Hoàng-Đế, Đông tới biển, vùng núi Hoàn-sơn, Đại-tông. Phía Tây tới núi Không-động, Kê-đầu. Nam tới Giang, Hùng, Tương... »(7) Sông Giang đây tức là sông Trường-giang, Hùng đây tức là Hùng-nhĩ-sơn, Tương là Tương-sơn. Bùi Nhân đời Tống lập giải Sử-ký nói rằng Tương-sơn thuộc Trường-sa. Kết luận : « Từ chính sử, huyền-sử đều cho biết lĩnh địa Văn-lang tới hồ Độngđình. Khi vua Hoàng-Đế dứt triều Thần-Nông Bắc, thì triều Thần-Nông Nam tức họ Hồng-bàng còn kéo dài đến 2439 năm nữa. Lãnh thổ Trung-quốc thời HoàngĐế cũng chỉ tới sông Trường-giang. Phía Nam bao gồm Trường-sa, hồ Động-đình vẫn thuộc Văn-lang. Khi chính sử ghi chép như vậy thì việc Quốc-tổ, Quốc-mẫõu với hồ Động-đình, núi Tamsơn không còn là huyền thoại nữa. Vậy chuyện các ngài lên núi hưởng thanh phúc nên ghi vào chính sử. 5. Biên giới lĩnh địa tộc Việt thế kỷ 2 trước Tây lịch. Sử Hán là bộ Sử-ký của Tư-mã Thiên. Sử Việt như bộ Đại-Việt sử ký toàn thư, Khâmđịnh Việt-sử thông giám cương mục, đều ghi rằng vào thế kỷ thứ nhì trước Tây-lịch, thời Triệu Đà cai trị lĩnh địa tộc Việt, biên giới vẫn còn ở vùng Trường-sa, hồ Động-đình. Sử Hán, sử Việt đều chép chi tiết giống nhau về vụ Triệu Đà lập quốc ở lãnh thổ Lĩnh- Nam. Tần Thủy- Hoàng sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu-lạc, chiếm được vùng đất phía Bắc, lập làm ba quận : - Nam-hải (Quảng-đông và một phần Phúc-kiến), - Quế-lâm (Quảng-tây, Hồ-nam và một phần Quí châu), - Tượng-quận (Vân-nam và một phần Quý-châu). Vua An-Dương sai Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung và Cao-cảnh hầu Cao Nỗ đem quân chống, giết được Đồ Thư và tiêu diệt nữa triệu quân Tần. Tuy vậy vua An-Dương cũng không chiếm lại vùng đất đã mất. Sau nhân thời thế loạn lạc, một viên quan Tần là Triệu Đà trấn vùng Nam-hải, đem quân chiếm vùng Tượng-quận, Quế-lâm, rồi dùng gián điệp trong vụ án Mỵ-Châu, Trọng- Thủy mà chiếm được Âu-lạc lập ra nước Nam-Việt. Lãnh thổ nước Nam-Việt bao gồm những vùng nào ? Không một sử gia nào chép rõ ràng. Nhưng cứ những sự kiện lẻ tẻ, ta cũng có thể biết rằng lãnh địa Nam-Việt là lãnh địa thời Văn-lang. Trong khi Triệu Đà lập nghiệp ở phương Nam, thì cuộc nội chiến ở phương Bắc chấm dứt. Hạng Vũ, Lưu Bang diệt Tần, rồi Lưu Bang thắng Hạng Vũ lập ra nhà Hán. Lưu Bang lên ngôi vua sai Lục Giả sang phong chức tước cho Triệu Đà. Đúng ra Triệu Đà cũng không chịu thần phục nhà Hán, nhưng họ hàng thân thuộc, mồ mả của Triệu Đà đều ở vùng Chân-định. Đà sợ nhà Hán tru diệt họ hàng, cùng đào mồ cuốc mả tổ tiên lên mà phải lùi bước. Năm 183 trước Tây-lịch, Cao-tổ nhà hán là Lưu Bang chết, Lã-hậu chuyên quuyền cấm bán hạt giống, thú vật cái, kim khí sang Nam-Việt. Triệu Đà không thần phục nhà Hán, rồi đem quân đánh Trường-sa, Nam-quận. Kết luận : « Trường-sa là quận biên cương của Hán. Vậy ít nhất lãnh thổ Nam- Việt, Bắc tới Trường-sa. Nam quận là quận ở phía Bắc sông Trường-giang. Mà Nam-quận là quận biên cương Hán, thì biên giới Nam-Việt ít nhất tới Nam-ngạn sông Trường-giang ». 6. Lĩnh địa thời vua Trưng 6.1. Vua Bà của Trung-quốc là vua Trưng, Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn Ủy-ban y học Pháp-Hoa (CMFC) đi trao đổi tại các tỉnh cực Nam Trung-Quốc như Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam, Quý-châu và Tứ-xuyên... tôi thấy khắp các tỉnh này, không ít thì nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp năm tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà. Bấy giờ tôi lại tìm thấy ở Hồ-nam, nhiều di tích về đạo thơ øvua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ, tôi tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật Nguyệt như sau : « Ngày xưa, Ngọc-hoàng Thượng-đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầu.Vì sơ ý hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-hoàng Thượng-đế nổi giận đầy hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày thì Tiên-lại giữ sổ tiên-giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa. Ngọc-hoàng Thượng-đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-y đồng tử đầu thai để theo dẹp loạn. Thanh-y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đi. Ngọc-hoàng Thượng-đế truyền Nhị thập bát tú đầu thai theo. Thanh-y đồng tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán. Nhị thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng đời Đông-Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, thông minh quán chúng, có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả cho Đặng Thi-Sách. Thi-Sách làm phản, bị Thái-thú Tô Định giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung-quốc ở phía Nam sông Trường-giang : Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải. Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà. Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mã Viện. Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Động-đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại.Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, mộït tay nhổ núi Tháisơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường-giang, hồ Động-đình, oán khí bốc lên tới trời. Ngọc-hoàng Thượng-đế sai thiên-binh, thiên-tướng trợ chiến cũng bị bại. Ngài phải sai thần Du Liệt sang Tây phương cầu cứu Phật Như Lai. Đức Phật sai mười tám vị Kim-cương, ba ngàn La-hán trợ chiến cũng bị bại. Cuối cùng ngài truyền Quán Thế Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quán Thế Âm thuyết pháp nữ vương Phật Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu. Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối : Tích trù Động-đình uy trấn Hán, Phương lưu thanh sử lực phù Trưng (Một trận Động-đình uy trấn Hán Tên còn trong sử sức phù Trưng). Bỏ ra ngoài những huyền hoặc về Nữ-vương Phật-Nguyệt, tài liệu chứng minh : Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của lòng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lãnh thổ cũ của người Việt còn sót lại. Vua Bà mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng. Kết luận : « Khi đã có nữ tướng Phật Nguyệt đánh trận Trường-sa, hồ Động-đình. Mà có trận hồ Động-đình thì lãnh thổ thời Lĩnh-Nam, phía Bắc quả tới phía Nam sông Trường-giang ». 6.2. Quả có trận Trường-sa, hồ Động-đình năm 39 sau Tây-lịch, Huyền sử (những cuốn phổ) nói rằng : Khi bà Trưng Nhị cùng các tướng Trần Năng, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch). Trong trận đánh này, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang(8). Thẩm-giang chính là đọan sông ngắn ở Bắc, tiếp nối với hồ Động-đình. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng : Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu-Lan. Năm 1980 tôi đến đây tìm hiểu. Không khó nhọc tôi tìm ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cấp, một đọan chép : « Miếu thờ liệt nữ Trần Thiếu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá ». Tôi tìm tới nơi, thì miếu chỉ còn lại cái nền bằng đá ong, mộ vẫn còn.(9). Kết luận : « Thời Lĩnh-Nam qủa có việc Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh trận Trường-sa. Trong trận, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tuẫn quốc. Khi có trận đánh này, thì lãnh địa thời Lĩnh-Nam quả gồm có hồ Trường-sa , hồ Động- đình ». 6.3. Quả có trận Bồ-lăng, năm 42 sau Tây-lịch, Huyền sử kể rằng: ba tướng họ Đào là Chiêu-Hiển, Đô Thống và Tam-Lang được vua Trưng trao cho trấn tại Tượng-quận (Vân-nam) . Nhưng vì quân ít, thế cô, ba ông không chống lại với quân Hán, do Vương Bá chỉ huy. Ba ông đã tự tận. Hiện tại đền thờ của ba ông có đôi câu đối: Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược, Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung. Nghĩa là: trận Tượng-quận dương oai, rõ tài tướng giỏi. Bến Bồ-lăng tuẫn tiết, tỏ ra thần trung. Hầu hết các sử gia đều cho rằng: Bồ-lăng tức là bến Bồ-đề, ngoại ô Thăng-long. Vả lãnh thổ Việt-Nam hồi đó đâu có rộng vậy? Tôi không tin lý luận này. Tôi quyết có trận Tượng-quận. Vì sao? Vì ba ngài chiến đấu tại Tượng-quận, khi Tượng-quận thất thủ, tuẫn tiết thì tuẫn tiết tại chỗ, có đâu rút từ Tượngquận về tới Long-biên (Hà-nội) trải mấy nghìn cây số, rồi mới tự tử? Vả cái tên bến Bồ-đề mới xuất hiện vào năm 1427-1428 khi vua Lê Thái-tổ vây Đông-đô (Thăng-long). Vì vậy, trong dịp hè năm 1982, tôi cầm đầu phái đoàn CMFC sang Vân-Nam, Trungquốc, để nghiên cứu về một giống trà có khả năng trị tuyệt chứng Cholestérol, Triglycéride... Lợi dụng dịp nhầy, tôi quyết tìm cho ra sự thực. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Phái đoàn gồm: Trưởng-đoàn: Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ, Thành viên: Bác-sĩ Pascale Vareilla (Biologie), Claude Tarentino (Anatomie), Antonio Fernandes (Cardiologie.) Các dược sĩ: Valérie Cordinante, Jean Marie Limager. Kỹ sư canh nông Antoine Reynault, và một diễn viên điện ảnh Hương-cảng. Trong chương trình phái đoàn chỉ công tác tại các vùng thuộc Vân-Nam như: Chiêudương, Đông-xuyên, Khâu-bắc, Nguyên-dương, Bảo-sơn, Điền-Bắc, Côn-minh; rồi dùng phi cơ từ Côn-minh trở về Paris. Nhưng khi tới Đông-xuyên, giáo sư Trần Đại-Sỹ tìm ra dấu vết cuộc chiến giữa quân vua Trưng và quân Hán, mà không rõ ràng cho lắm. Ông dẫn phái đoàn trở lại Côn-minh, sau khi thảo luận với giáo-sư sử học Đoàn Dương của đại học Văn-sử, được giáo sư Đoàn cho biết: "Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ-lăng. Nay Bồ-lăng nằm trên lãnh thổ Tứ-xuyên, chỗ ngã ba sông Trường-giang và Ô-giang." Thế là giáo sư Trần Đại-Sỹ đề nghị phái đoàn dùng đường thủy về Hồ-Nam, sau đó đáp phi cơ từ Hồ-Nam ra Hương-cảng, rồi đi Paris. Trên đường từ Độ-khẩu (Vân-Nam) đi Hồ-Nam, sẽ qua... Bồ-lăng. Được đi chơi, dĩ nhiên phái đoàn mừng không sao tả siết!!!. Dĩ nhiên túi tiền của CMFC vơi đi 53.074 dollars nữa để chi cho phái đoàn. Theo tôi, với số tiền ấy, mà kết quả tìm được Tây-biên của Lĩnh-Nam, cũng rẻ chán. Thế nhưng khi trở về Paris, vụ này đồn đại ra ngoài, một Bác-sĩ Việt-Nam tên Trần L.(từng là bộ trưởng Y-tế hồi VNCH), viết thư cho ông bộ trưởng Văn-hóa Pháp, tố cáo Giáo-sư Trần Đại-Sỹ lợi dụng chức vụ trưởng đoàn công tác y khoa, để tìm di tích cổ sử viết sách. Ông Bộ-trưởng trả lời đại ý: "Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ không dùng một xu (centimes) nào của chính phủ Pháp, nên bộ không có thẩm quyền." Cuối thư ông Bộ-trưởng hạ một câu: " Ví dù Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ có lợi dụng chức vụ, có dùng tiền của bộ Văn-hóa, mà tìm tư liệu làm giầu cho thư viện Pháp thì là điều đáng khuyến khích. Hơn nữa tài liệu đó làm lợi cho Việt-Nam, Ông (Trần L.) phải vui mừng mới phải chứ." Tăng Hồng Minh tôi là người Việt gốc Hoa, tôi xin tiết lộ một chi tiết này, để các vị độc giả Việt-Nam suy nghĩ!!! Thế là phái đoàn dùng tầu đi từ Độ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang) qua Namkhê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngã ba sông Ô-giang, Trường-giang thì gặp bến Bồ-lăng. Tại đây tôi được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba vị thần, tướng của vua Bà. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị tướng. Cả vùng này có đạo thờ vua Bà (lên đồng). Hồi trước 1949 rất thịnh. Sau cách mạng Văn-hóa (1965-1967) miếu được cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán. Tôi đến thăm miếu. Miếu khá lớn, chủ hộ ở trong miếu trước đây là cán bộ Văn-hóa Bồ-lăng. Trước miếu có nhiều câu đối, nay chỉ còn lại có ba. Ông chủ hộ khoe rằng để bảo tồn di tích văn hóa, hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất: Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi, Đoạn trường, trục Định, tiết can vân. Nghĩa là: Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu. Đuổi được Tô Định, nhưng đau lòng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây. Tôi xin vào trong miếu xem, thì bệ thờ nay là nơi vợ chồng ông nằm ngủ. Hai bên bệ cũng có đôi câu đối. Giang-thượng tam anh phù nữ chúa, Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung. Nghĩa là: Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa. Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành. Ông chủ hộ thì cho rằng bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Vì vậy chữ bách tộc đây để chỉ người Việt. Ông thích lắm. Ông chỉ vào khoảng trống của hai cái cột thuật rằng trước kia cũng có đôi câu đối, nhưng bị vạc mất. Ông đề nghị tôi làm một đôi khác thay thế. Tôi nhờ hướng dẫn viên du lịch mua giùm hai hộp sơn. Một hộp sơn đỏ loại láng và một hộp loại thiếp vàng. Ông với tôi sơn cột mầu đỏ. Chiều hôm đó sơn đỏ khô, tôi trở lại viết bằng sơn thiếp vàng đôi câu đối có sẵn tại đền thờ ba ngài ở thôn Ngọc-động, huyện Gia-lâm, Hà-nội: Tái Bắc tức chinh trần, công cao trục Định, Bồ-lăng dương nộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng. Nghĩa là: Ải Bắc yêu gió bụi can qua, công cao đuổi Tô Định. Bồ-lăng nổi bao đào, nghĩa nặng phù vua Trưng. Kết luận: «Như vậy thì quả có trận Tượng-quận. Mà có trận Tượng-quận thì biên giới Lĩnh-Nam hồi ấy giáp Ba-Thục, tức Tứ-xuyên ngày nay». 7. Nghiên cứu những khai quật Vào những năm 1964-1965, giáo sư luật khoa Vũ Văn Mẫu đang sọan thảo tài liệu về cổ luật Việt-Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ- Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ, nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu. Tôi đã giúp giáo sư Mẫu đọc, soạn các thư tịch liên quan đến cổ luật. Chính vì vậy tập tài liệu « Cổ-luật Việt Nam và tư pháp sử » có chương mở đầu «Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ luật Việt-Nam » (10). Bấy giờ tôi còn trẻ, không đủ tài liệu khai quật của Trung-Quốc, của Bắc Việt-Nam, và bấy giờ những lý thuyết về ADN chưa có hệ thống, nên có nhiều chi tiết sai lầm. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ Văn-Mẫu. Tôi xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các sinh-viên về những sai lầm đó. Triều đại Hồng-Bàng thành lập từ năm 2879 năm trước Tây-lịch, tương đương với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn-hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc-Việt, Đông Vân-Nam, Quảng-Đông, Hồ-Nam, người ta đều tìm được những chiếc rìu thiết diện hình trái soan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang chỉ tìm được lọai rìu thiết diện hình chữ nhậït, chứng tỏ vào thời đó có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau. Sang thời đại văn-hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (âge de bronze). Trong thời gian này đã tìm được trống đồng Đông-sơn trên bờ sông Mã (Thanh hóa). Sự thật trống đồng đã tìm thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-nam, Quý-châu,Vân-nam, Quảng-đông, Quảng-tây, Nam-dương, Lào (13) , Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-dương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc-Việt, rồi tới Vân-nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần gần như giống nhau. Đồng 53%, Thíếc 15-16%, Chì 17-19%, Sắt 4%. Một ít vàng bạc. Khảo về y-phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường giang cho đến Trung Bắc- Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Bây giờ dùng hệ thống ADN kiểm những bộ xương, kiểm máu người sống, chúng tôi đã biện biệt được sự khác biệt vào thời Việt, Hoa lập quốc. Kết luận:, « Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động-đình, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói ». 8. Tổng kết, Sáu vấn đề tôi nêu ra ở trên, rồi đi tìm, tất cả đều còn đầy đủ di tích. Như vậy: Biên giới cổ của nước Việt-Nam, với các triều đại Hồng-bàng, Âu-lạc, Lĩnh-Nam phía Bắc quả tới hồ Động-đình, phía Tây giáp Tứ-xuyên. V. KẾT LUẬN Thưa Quý-vị Quý-vị đã cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, cho tới tin học, y học để tìm về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, về biên giới cổ của tộc Việt. Trong chính sử Trung-quốc, Việt-Nam đều ghi rõ ràng nguồn gốc tộc Việt, nhưng cái nguồn gốc đó căn cứ vào cổ thư của người Trung-hoa, nên hoàn toàn sai lạc. Bởi cổ thư cho rằng người Trung-hoa tự sinh ra, rằng người Việt chẳng qua do những người Trung-hoa di chuyển xuống lưu ngụ. Sự thực nhờ hệ thống ADN, chúng ta biết rằng chính những người ở châu Phi đến Đông Nam-á trước, rồi di chuyển lên Hoa-Nam. Tại Hoa-Nam giống người này lại hợp với giống người từ châu Phi sang châu Âu, rồi từ châu Âu vào Trung-á, hợp với người ở Hoa-Nam mà thành tộc Hán. Nhưng ngược lại, do cổ thư Trung, Việt, hay do ADN, chúng ta cũng biết rất rõ biên cương nước Việt thời mới lập quốc. Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà Nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên Âu-Việt, Lạc-Việt, Đông-Việt, Nam-Việt, Việt-Thường đều thuộc Bách-Việt cả. Cái tên trăm họ hay trăm Việt (Bách-Việt) phát xuất từ huyền thọai vua Lạc- Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14). Các vị cổ học, học cổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trườnggiang lấy mốc là hồ Động-đình với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 13-14 tuổi, tôi chỉ được học vài trang ngắn ngủi về nguồn gốc tộc Việt, trong khi đó gia đình cho tôi đọc mấy bộ sử dài hàng mấy chục nghìn trang của Hoa, của Việt (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn số trang gấp năm sáu). Chính tôi cũng nhìn nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học. Nay tôi mới chứng minh được. Phải chờ cho đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ Văn-Mẫu thạc-sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến-sỹ Nguyễn Sỹ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học theo lối cổ, không biết những phương pháp quy nạp, tổng hợp nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôi. Ngay từ lần đầu gặp nhau, mà một già, một trẻ đã có hai cái nhìn khác biệt. Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi mà lại có một cái nhìn rất trẻ, tôi mới có 25 tuổi lại có cái nhìn rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa-Việt đưa ra. Vì vậy tôi đã sưu tầm tất cả những gì trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Mẫu đem viết thành tài liệu giảng dạy. Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, vì chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay tôi mới biết có quá nhiều sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi Quý-vị. Hồi bấy giờ tôi sống ở Sài-gòn, thuộc Việt-Nam cộng-hòa đang là nước chống Cộng, nên tôi không thể sang Trung-Quốc, cũng như về Bắc tìm kiếm thêm tài liệu. Phải chờ đến năm 1976 làm việc cho CMFC, hàng năm dẫn các đồng nghiệp sang Trung-Quốc nghiên cứu, trao đổi y học, tôi mới có dịp tìm kiếm lại di tích xưa trong thư viện, trong bảo tàng viện, trên bia đá cùng miếu mạo, đền chùa và nhất là đến tại chỗ nghiên cứu. Gần đây nhờ các đồng nghiệp dùng hệ thống ADN, tôi mới biện biệt được nguồn gốc tộc Việt, biên cương thời lập quốc của tộc Việt. Hôm nay tôi xin kết luận với các bạn rằng : - Người Trung-hoa không phải là con trời như những văn gia cổ của họ viết, dù ngày nay họ còn nghĩ như vậy. - Họ cũng không tự sinh ra, rồi tản đi tứ phương. - Không hề có việc người Trung-hoa trốn lạnh hay vì lý do chính trị di cư xuống vùng đất hoang, tạo thành nước Việt. Trong lịch sử quả có một số người Trunghoa di cư sang Việt-Nam sau những biến cố chính trị. Như ngày nay người Việt di cư đi sống khắp thế giới. - Lại càng không có việc người Việt gốc từ dòng giống Mã-lai như một vài người ngố ngếch đưa ra. - Theo sự nghiên cứu bắng hệ thống ADN, từ cổ, giống người Trung-hoa, do giống người từ Đông Nam-á di lên. Những người Đông Nam-á lại đến từ châu Phi qua ngả Nam-á vào thời gian hơn 20.000 năm trước. - Người châu Phi đến Bắc Trung-hoa do ngả Âu-châu rồi vào Trung-á, khoảng 15.000 năm. Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoa. - Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống mãi vịnh Thái-lan. - Biên giới nước Việt thủa lập quốc gồm từ Nam sông Trường giang đến vịnh Tháilan, Đông tới biển. Tây tới Tứ-xuyên của Trung-quốc ngày nay. Đến đây tôi xin phép các vị giáo sư, quý khách, các sinh viên cho tôi ngừng lời. Xin hẹn lại quý vị đến tháng 11-92 tôi sẽ trình bày trước qúy vị về nguồn gốc triết Việt. Trân trọng kính chào quý vị. Giáo-sư Trần Đại-Sỹ, Chú giải của Tăng Hồng Minh,(1) Tiêu biểu mới nhất là một nhóm thức giả do nhà văn Vương Kỳ Sơn đứng chủ biên, đã xuất bản cuốn Việt-Nam đệ ngũ thiên niên kỷ vào năm 1994 tại Hoa-kỳ. (2) Sau này được tôn thụy hiệu là Lục-Dương. (3). Như vậy vua Lạc-Long lấy con gái của anh con bác. (4) Độc giả có thể tìm đọc tài liệu nghiên cứu này bạt quyển 1. Anh- hùng Lĩnh-nam do Nam- Á Paris xuất bản 1987 mang tên « bản phụ chú nghiên cứu về nỏ thần ». (5). Phương pháp mà các giáo sư Tarentino, Vareilla Pascale dùng để biện biệt những bộ xương khai quật trong cổ mộ vùng Hồ-nam, Vân-nam, Quảng-châu, Quý-châu không khác các chuyên viên Hoa-kỳ trong ủy ban tìm kiếm tử sĩ Hoa-kỳ tại Việt-nam đã xử dụng. Có điều, các chuyên viên Hoa-kỳ gặp nhiều khó khăn hơn, vì phải đi vào chi tiết từng cá nhân, còn IFA chỉ phân chủng loại. (6). Xin xem Cẩm-khê-di-hận do Nam-Á Paris xuất bản 1992, để biết hai trận hồ Động-đình. Một trận do Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Phật-Nguyệt, Đinh Bạch- Nương, Đinh Tĩnh- Nương, Quách-Lãng đánh với Lưu-Long, Mã-Viện. Một trận do Hoàng Thiều-Hoa cùng với các tướng trên đánh với mười hai đại tướng quân Hán . (7) Tư-mã Thiên, Sử-ký, quyển 1, Ngũ-đế bản-kỷ, Trung-hoa thư cục xuất bản 1959 trang 3-6. (8) Độc giả muốn biết chi tiết trận đánh lịch sử này, xin đọc Động-đình hồ ngoại-sử, cùng tác giả, do Nam-Á Paris xuất bản (1990). (9) Xin đọc « Mùa xuân trên hồ Động-đình tưởng nhớ Trưng-Vương » trong phần bạt Anhhùng Lĩnh-nam, do Nam-Á xuất bản 1987. (10) Vũ Văn- Mẫu, Cổ luật Việt-nam và tư- pháp sử, quyển thứ nhất, tập thứ nhất, trang 9-51. (11) Chữ văn hóa Bắc-sơn ở đây chỉ có ý nghĩa rằng cuộc khai quật ở núi Bắc-sơn (Lạng-sơn), đã tìm thấy những cổ vật đồ đá.(thời kỳ đồ đá) (12) Chữ văn hóa Đông-sơn chỉ cuộc khai quật ở Đông-sơn, đã tìm thấy đồ đồng (thời đồ đồng). (13) Hè 1992 sau khi cùng phái đoàn IFA du khảo về loại cây trị cholestérol ở Vân-nam, thời gian còn lại, Giáo-sư Trab Đại-Sỹ đi khảo cứu xương người cùng các khai quật ở Vân-nam, Quảng Đông (Trung-quốc), các tỉnh Bắc-thái như Nùng-khai, Thanon, U-bon, U-don Tha-ni. Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đã tìm lại được hai trống đồng thời vua Trưng, ở Quảng-đông, để trong bảo tàng viện địa phương. Ông đã mất rất nhiều tiền, cùng trăm ngàn khó khăn mới mua và đưa lọt về Paris. (14) Chữ trăm trong ngôn ngữ Việt có nhiều nghĩa. - Có nghĩa là đời người như : Trăm năm trong cõi người.ta. Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau (Kiều) Trăm năm xe sợi chỉ hồng, Bắt người tài sắc buộc trong khung trời. Trăm năm, trăm tuổi ,trăm chồng, Hễ ai có bạc tôi bồng trên tay. (ca dao) - Có nghĩa là chết: Khi nào cụ tôi trăm năm đi rồi. Nhân sinh bách tuế vi kỳ ( Người ta sinh ra lấy trăm năm làm hẹn) Trăm năm như cõi trời chung, Có nghề cũng phải có công mới thành. (ca dao) - Có nghĩa là tất cả : Trăm họ, hay trăm bệnh, Trăm hoa đua nở mùa xuân, Cớ sao cúc lại muộn buồn thế kia ? (ca dao) Trăm dâu đổ đầu tằm. (Tục ngữ) Trăm con trong huyền sử Việt hay Bách-Việt có nghĩa này. Tài liệu nghiên cứu chính SÁCH CHỮ HÁN Tư Mã-Thiên, Sử ký, Trung-hoa thư cục Thượng-hải xuất bản 1959 Ban-Cố, Tiền Hán thư, Trung- hoa thư cục xuất bản1959. Phạm Việp, Hậu Hán thư, Trung hoa thư cục xuất bản 1959. Hoài Nam Tử, quyển 18, Trùng Hoa thư cục Đài Bắc xuất bản, 1959. Cố Dã-Vương, Địa- dư chí, Cẩm-chương thư cục xuất bản 1920. Trần Luân-Quýnh, Hải quốc kiến văn lục, cổ bản , thư viện Paris. Lê Quý-Đôn, Phu-biên tạp lục, cổ bản của thư viện Paris. Lê Quý-Đôn, Đại-Việt thông sử, cổ bản của thư viện Paris. Phan huy-Ích, Lịch triều biến chương lọai chí, cổ bản của thư viện Paris. Quốc - sử quán, Hoàng-Việt địa dư chí, bản của thư viện Paris. Quốc-sử quán, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản của thư viện Paris. Địa đồ xuất bản xã, Trung-hoa nhân dân cộng hòa quốc phâõn tỉnh địa đồ tập, Bắc-kinh 1974. Đại học văn khoa Hồ-nam, Hồ-nam lịch đại khảo chứng 1980. Cùng rất nhiều tài liệu không tác giả, lưu trữ tại thư viện, bảo tàng viện Hồ-nam, Quý-châu, Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-Nam. SÁCH CHỮ PHÁP Léonard Aurouseau, La première conquête chinoise des pays anamites, BEFEO XXIII. Claude Madrolle, Le Tonkin Ancien, BEFEO, XXXVII. SÁCH CHỮ VIỆT Đào Duy-Anh, Nguồn gốc dân tộc Việt-nam, Hà-nội 1946.
    1 like