• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 10/10/2010 in all areas

  1. Anh chị em thân mến. Xin cảm ơn anh chị em đã chia sẻ và ủng hộ tôi bằng những ý niệm cộng hưởng. Chúng ta còn hết ngày hôm nay để mọi chuyện trở nên hoàn mỹ về thời tiết của Đại Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hanoi. Mọi chuyện vẫn còn ở phía trước cho dù đã gần tới đích. "Thiên đia mang mang" - không mưa , nhưng chỉ một cơn lốc xoáy cũng rất phiền. Bởi vậy, chúng ta còn phải tiếp tục cẩn trọng. Xin trân trọng cảm ơn.
    8 likes
  2. Chúng tôi đã có buổi gặp gỡ cùng nhau tại BUD'S Caphê vào lúc 19,30, trên bàn ăn trước mặt mỗi người vẫn có những mặt trời nhỏ như nắng HàNoi của 7 ngày Đại Lễ. Dù chẳng có Sp ngồi đây nhưng ACE vẫn một lòng hướng về nghìn năm Thăng Long cho ngày kết thúc. Những chỉ trích cay độc mang tính đố kỵ hay hơn thế nữa thì điều chúng tôi mong mỏi là điều của toàn dân mong mỏi vẫn được đáp lại. Chúng tôi tự cho phép mình cái quyền thư giãn để đi tiếp hành trình tìm kiếm sự sáng tỏ của nền văn minh Đông Phương nước Việt.
    6 likes
  3. Chân thành cảm ơn anh Vuivui, có ý kiến. Trước hết như anh Vuivui đã đề nghị về điểm "cận biến hóa" để minh xác một cách khoa học cho việc tác động của "ý thức" lên thời tiết và tôi đã thừa nhận điều này. Nhưng nếu yêu cầu cụ thể như anh Vuivui đặt ra gồm: tóm lại là những thông số cụ thể thì chúng tôi không thực hiện được. Bởi vì không có phương tiện thực hiện điều này. Tuy nhiên chúng tôi có thể căn cứ vào dự báo của KTTV trong nước và quốc tế để xác định "hiệu ứng cận biến hóa" - khi họ dự báo mưa, hoặc nắng. Bởi vì khi họ dự báo mưa thì tức là họ đã có quan trắc và xác định qua "mật độ mây, độ ẩm...." để đưa ra thông báo đó. Bởi vậy thông báo của KTTV chính là yếu tố mà tôi gọi là "Hiệu ứng cận biến hóa", chứ không phải điểm "cận biến hóa". Và những hiện tượng xác định điểm cận biến hóa cụ thể với chúng tôi chỉ có thể thực hiện bằng trực quan và chụp ảnh, chứ không đo đạc được (Không có nhân lực và phương tiện). Ở đấy tôi chưa nói đến phương pháp tương tác của Lý học có tương thích với phương pháp kiểm chứng của khoa học hiện đại hay không.Nhân đây tôi cũng lưu ý quí vị là: Tôi xác định bảy ngày không mưa, chứ không xác định rõ là từ mùng 1 đến mùng 7. Tôi chưa bao giờ xác định từ ngày đầu đến hết mùng 7. Bởi vậy, thông tin bài báo trên là không chính xác. Nhưng đấy là xác định lúc đầu. Tôi có nói rõ: Nếu 20 ngày từ mùng 1. 8 Việt lịch đến hết 20. 8 Việt lịch không có bão hoặc mưa giông lớn đánh vào biển Đông Việt Nam thì sự xác định thời tiết Đại lễ sẽ mở rộng. Tức là gồm cả 10 ngày tiến hành Đại Lễ. Ở đây, tôi chỉ xin được lưu ý mọi người là: Tất cả các đài khí tượng thủy văn trong nước và quốc tế đều xác định có mưa lớn, có dông. Thâm chí có người còn cho rằng có bão lớn trong các ngày đại lễ qua KTTV Hoa Kỳ và việc tôi thất bại gần như chắc chắn. Nhưng thực tế đã không xảy ra như vậy. Cho đến nay, tất cả các chương trình biểu diễn trong Đại Lễ đều ở ngoài trời đã thành công - duy nhất có một sân khấu văn nghệ bị bỏ nửa chừng tối hôm mùng 4. 10 do mưa cục bộ có tính khu vực cấp phường lớn, nên bị bỏ nửa chừng. Nếu đây là một tương tác thì quá thành công. Nếu bị coi là dự báo thì quả là có sai số. Nhưng chính xác hơn nhiều so với các dự báo của tất cả các cơ quan khí tượng bởi tính dự báo dài ngày của nó. Mọi việc còn đang ở phía trước: Ngày mai là ngày lễ hội chính 10. 10. 2010 - bởi vậy, chúng tôi muốn cho xong công việc này đã rồi sẽ quyết định giải quyết nó như thế nào. Anh Vuivui thân mến. Ngày xưa anh có coi cho tôi, nhưng qua PM của diễn đàn tuvilyso.com, tôi thừa nhận anh đã nói trước nhiều điều đang xảy ra và có thể khả năng đúng rất cao trong tương lai. Tôi làm việc này - cũng chỉ là chuyện "thường ngày ở Huyện" - Trang web Lý số nào mà chẳng có mục bói toán tất cả mọi chuyện trên trời, dưới biển - Báo chí làm ầm ĩ, tôi thì không có kinh nghiệm nói chuyện với báo chí truyền thông (Bàn đầy bia, có chụp ảnh chứng minh :D ). Bởi vậy nó thành chuyện - nghe thiên hạ chửi các kiểu. Lúc sự kiện chưa xảy ra - khả năng tôi thất bại 100% thì là tôi là ba xạo, đánh bóng tên tuổi. Lúc mọi việc có vẻ như tôi đúng thì tôi cũng có sai, nhưng tự cho là đúng..... Bởi vậy, tôi cũng buồn. Bao nhiêu ngày nay tôi không kiếm ra một xu, sống một mình cơm niêu, nước lọ, lang thang khắp Hanoi để bảo đảm tối đa những lời xác định của mình và nghe thiên hạ.....chửi. Nếu không có sự chia sẻ và an ủi của những anh chị em gần gũi chắc tôi thất bại lâu rồi. Vài lời chia sẻ. Cảm ơn anh nhiều.
    5 likes
  4. Kính gửi chú Thiên sứ Chúc mừng chú thành công ,có thể họ sợ chú chứ không ai dám chê bai được,họ không làm được cái mà họ không biết gì ,cái mà đồng tiền họ hưởng cho công việc đó nhưng họ sợ có người sẽ hơn mình.Làm cán bộ có lương ,nên cháu biết điều này.nhờ phúc tổ tiên nên cháu không như họ và sống với trách nhiệm với công việc được giao cho.Mấy ngày tham gia tranh cãi về chú trên các diễn đàn khác cuối cùng cháu lại thành công vì chứng minh được chân lý là chú đã thành công.Một lần nữa chú lại là thần tượng của của cháu.
    4 likes
  5. CHÚC MỪNG ANH NGUYỄN VŨ TUẤN ANH - ĐÃ THÀNH CÔNG RỰC RỠ. MỌI MONG MỎI, TÂM HUYẾT CỦA ANH GIÀNH CHO 10 NGÀY ĐẠI LỄ 1000 NĂM THĂNG LONG HÀ NỘI ĐÃ HOÀN TOÀN TOẠI NGUYỆN. ĐÂY CŨNG LÀ LẦN TRẢI NGHIỆM THỨ 3 MÀ KHAIPHAMKHAC VÀ NHÂN DÂN THỦ ĐÔ ĐÃ ĐƯỢC TRẢI NGHIỆM. MONG ANH TIẾP TỤC THÀNH CÔNG NHIỀU HƠN TRONG LĨNH VỰC DỰ BÁO SỚM VỀ CÁC LĨNH VỰC THỜI TIẾT ĐỂ GIÚP NGƯỜI DÂN LÀNH TRÁNH KHỎI NHỮNG HIỂM HỌA ĐÁNG TIẾC SẢY RA.
    3 likes
  6. Anh chị em thân mến.Chúng ta có thể thông cảm với tác giả - họ bị thông tin của "hầu hết các nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học thế giới" làm sai lệch ý tưởng. Việc cho rằng "Nhà nước Văn Lang xuất hiện vào thời kỳ Đông Sơn" chỉ là một suy luận rất không có căn cứ và không phù hợp với các tiêu chí khoa học cho một giả thiết được coi là khoa học. Đây chính là luận điểm phủ nhận lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Bài viết này không nhằm mục đích xác định lịch sử thời Hùng Vương. Nhưng sau này anh chị em hãy cảnh giác với những luận điểm này.
    3 likes
  7. THÔNG TIN THAM KHẢO. Nguồn: http://www.nchmf.gov.vn/ ======================= Bão - Áp thấp nhiệt đới TIN ÁP THẤP NHIỆT ĐỚI TRÊN BIỂN ĐÔNG Chủ nhật,10/10/2010 Đường đi của Áp thấp giống hình chim Lạc cách điệu. Hay đây là "Vũ điệu trong bóng mờ" của Áp thấp. Áp thấp này xuất hiện ngày mùng 5 tháng 10 - tức là đúng vào giữa thời gian Đại Lễ. Chút xíu nữa Thiên Sứ tàn đời. Đài truyền hình TW VTV1 & VTV2 đã xác định rằng: Thời tiết trong lễ hội rất đẹp. Chúng tôi đã quay phim lại chương trình này của THTW. Bây giờ là 17g 30. 10. 10. 2010 Chỉ còn 6 tiếng nữa.
    3 likes
  8. Sao Tam bích mà tôi nói đến chỉ là ví dụ thôi. Còn suy luận là: Ngũ hành phải đủ tương sinh và tương khắc, nên lá cờ không thê chỉ vuông là áp dụng một cách máy móc nguyên lý vào trường hợp ứng dụng cụ thể. Ah. Tôi cũng nói lại cho rõ: Màu trắng thuộc Kim, nhưng trên cờ ngũ sắc thì dùng chỉ bạc, hoặc vàng thay thế.
    3 likes
  9. Mời các bạn xem, ngoài ra bài báo và địa chỉ này cũng được đăng trên báo Dân Trí, thời gian này Wild cũng nhận được lời đề nghị từ một thành viên luôn đóng góp trên Diễn đàn "Cô hãy đến thăm địa chỉ này" http://giacngo.vn/xahoi/2010/10/01/5FF419/ và đây là lý do, Wild thường ngần ngại khi xem qua những gì báo chí đưa tin, Wild chẳng muốn tấm lòng của ACE của ít lòng nhiều được trao nhầm chỗ. http://giacngo.vn/xahoi/2010/10/08/5A765B/ Hy vọng các ACE đã có tâm chia sẽ hãy hổ trợ Wild trong việc trao tặng những mãnh đời khốn khó mà họ bị xã hội bỏ quên và chúng ta là người tìm đến.
    2 likes
  10. Hãy hành động trước khi mọi việc trở nên quá muộn! Tin về lũ hoành hành các tỉnh miền Trung mấy ngày này được đưa lên các trang nhất của hầu hết các tờ báo, ít nhiều ảnh hưởng đến niềm vui Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đang diễn ra tại thủ đô. Thiên nhiên nổi cơn thịnh nộ. Trong những ngày đầu tháng 10-2010 này, những hình ảnh mưa lũ hoành hành ở các tỉnh Bắc Trung Bộ làm lòng người xốn xang, lo lắng. Nhiều người chết và mất tích, hàng chục xã bị lũ cô lập, mùa màng bị hư hại, nhà cửa, của cải tích lũy được trong gian khó bị cuốn trôi… Cảnh đói, khó khăn chồng chất hiện ra trước mắt của nhiều hộ gia đình, của hàng ngàn con người. Tin về lũ hoành hành các tỉnh miền Trung mấy ngày này được đưa lên các trang nhất của hầu hết các tờ báo, ít nhiều ảnh hưởng đến niềm vui Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đang diễn ra tại thủ đô. Thế giới dường như ngày càng thu hẹp lại, con người ngày càng có ý thức hơn mối tương quan giữa các châu lục với nhau, ý thức rằng trái đất là ngôi nhà chung, một biến cố xảy ra ở một đất nước bên này bán cầu cũng liên quan đến vùng đất bên kia bán cầu. Nhớ cách đây chưa lâu, báo chí nước ta liên tục cập nhật những thông tin động đất - mà nếu như trước đây, có lẽ chẳng mấy ai quan tâm vì nghĩ đó là "chuyện tận đâu đâu": "Khoảng 10 giờ 20 phút tối 1-9, một vụ lở đất đã xảy ra tại làng Wama, quận Long Dương, phía Tây nam tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và chôn vùi 20 nhà cửa. Hiện đã có 4 người chết và 44 người mất tích. Chính quyền địa phương Vân Nam cho biết đến 10 giờ sáng 2-9, đội cứu hộ đã giải thoát cho 23 người nhưng vẫn còn khoảng 44 người mất tích. Các chuyên gia cho rằng hạn hán kéo dài từ tháng 9 năm ngoái đến nay kèm theo mưa trong hè 2010 làm tăng nguy cơ lở đất trong khu vực. Trong khi đó, theo báo cáo hôm 1-9 của Cơ quan Cứu nạn Trung Quốc, số người chết trong trận lở đất lớn hôm 8-8 ở Châu Khúc, tỉnh Cam Túc đã lên đến 1.471 người, 294 người khác vẫn còn mất tích". …"Bộ Tình trạng khẩn cấp Nga cho hay những trận cháy lớn xuất hiện trở lại ở vùng Volgagrad và Saratov tối 2-9 đến 3-9 làm 8 người chết, 14 người bị thương. Cơ quan này thông báo hơn 500 tòa nhà đã bị phá hủy ở hai khu vực nói trên, khoảng 750 người đã được sơ tán khỏi vùng nguy hiểm. Gió mạnh là tác nhân khiến cháy rừng lan rộng và nhanh chóng. Tuy nhiên, Bộ Tình trạng khẩn cấp cũng cho rằng một số người bất cẩn khi dùng lửa nhóm bếp, thói quen vứt rác bừa bãi, cộng thêm nhiệt độ đang ở mức 40 độ C đã góp phần làm các đám cháy lớn bùng phát trở lại" … Thảm họa tồi tệ Chúng ta không thể quên ba thảm họa tồi tệ nhất được báo chí ghi nhận là sự biến đổi khí hậu làm Nga trở thành chảo lửa với nhiệt độ cao chưa từng thấy, Trung Quốc thì lụt lội, lở đất và Pakistan thì bị nhấn chìm trong biển nước do lũ! "Lý giải về hiện tượng thời tiết nóng bất thường ở Nga, các nhà khoa học về biến đổi khí hậu cho rằng thủ phạm là do hiện tượng El Nino vào năm ngoái. Theo nhà khoa học người Anh Andrew Watson, mỗi khi xuất hiện El Nino, dòng hải lưu chảy trên Thái Bình Dương, thì năm tiếp theo sẽ là một năm nóng kỷ lục trên toàn cầu. Nhiệt độ trái đất trong sáu tháng đầu năm 2010 đã đạt mức kỷ lục chưa từng thấy, theo báo cáo của Cơ quan Khí quyển và Đại dương quốc gia Mỹ. Ngược lại dòng hải lưu La Nina, theo sau El Nino và mang đặc tính trái ngược, được cho là nguyên nhân gây nên hiện tượng lũ lụt nghiêm trọng chưa từng thấy ở Pakistan. Chuyên gia Omar Baddour thuộc Tổ chức Khí tượng Thủy văn thế giới cho biết La Nina khiến nhiệt độ vùng biển trung Thái Bình Dương mát mẻ hơn và gây mưa lũ". Trong một bài phân tích trên Tuổi Trẻ cuối tuần, nhà báo Danh Đức đã đặt vấn đề "Lở đất ở Trung Quốc: Thiên tai hay nhân họa?" và câu trả lời nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thảm họa trên chính là nạn phá rừng và làm thủy điện một cách tùy tiện, xâm phạm thiên nhiên một cách thô bạo và trầm trọng. Vậy là, qua những hiện tượng cùng những lý giải như trên cho chúng ta nhận diện một sự thật rằng: thiên nhiên đang "phẫn nộ" bởi sự quá tay của con người. Do tham lam, do ích kỷ và bất chấp mà con người đã tác động quá thô bạo lên thế giới tự nhiên. Điều đó cũng không nằm ngoài quy luật nhân quả, bởi một khi chúng ta dùng một lực bất thiện tác động vào thiên nhiên để thỏa mãn những nhu cầu hiện tại và ngày một lớn của mình thì chắc chắn sẽ bị một phản lực bất thiện từ thiên nhiên. Có lẽ nhận ra được điều này nên trong hơn một thập niên qua, những hoạt động vì môi trường, hội thảo về tự nhiên, giảm khí thải nhà kính… được các nước và cộng đồng quan tâm. Việc kêu gọi ăn chay, sống xanh, bảo vệ môi trường… được các nhà hoạt động nhân đạo, xã hội và môi trường đề cập thường xuyên! Những giá trị ấy đã được lan đi trong khuôn khổ toàn thế giới, nhất là khi mạng internet đã trở thành công cụ đắc lực cho cuộc sống con người. Từ những thảm họa của các nước, hẳn Việt Nam cũng rùng mình và rút ra được nhiều điều? Nhất là đất nước chúng ta vốn là nước nông nghiệp, sống hài hòa với thiên nhiên và dựa vào tự nhiên thì việc bảo vệ tự nhiên là việc cần kíp. Hành động ấy chính là bảo vệ bản thân và chung tay bảo vệ màu xanh của nhân loại. Thế nhưng, đọc báo mỗi ngày chúng ta dễ dàng thấy rằng đâu đó hiện tượng phá rừng vẫn còn, rồi hàng loạt các công ty liên doanh như Vedan, Vinamit, VietStar… đã xả nước thải công nghiệp làm ô nhiễm môi sinh, giết chết những dòng sông hiền hòa trên quê hương. Bão lũ đi vào miền Trung ngày càng dữ dội hơn và mùa bão năm nay cũng đến với các với cơn bão số 1, 2, 3… đổ bộ vào Nghệ An, Hà Tĩnh, Huế… Một tiếng chuông nữa lại được gióng lên, khiến người viết liên tưởng đến những thảm họa đau lòng ở Nga, Pakistan và Trung Quốc! Mong rằng những người có trách nhiệm hãy nghiêm khắc hơn với những hành động phá hoại, xâm phạm thô bạo đến hệ sinh thái, đến môi trường tự nhiên. Và mong mỗi người hãy làm một việc thật ích lợi, dù nhỏ và bình thường, trong đời sống hàng ngày. Đó là hành động tích cực trước khi mọi việc đã quá muộn màng. Lưu Đình Long. nguồn giacngovn Qua nhiều nhà hảo tâm đóng góp Quỹ Từ Thiện Diễn Đàn sẽ dành tặng đến đồng bào Quảng Bình 10,000,000 đ (mười triệu đồng) vào thứ hai.
    2 likes
  11. Kiếp con người Khi Chúa tạo ra con lừa, Người phán: “Ngươi sẽ làm một con lừa có trí tuệ khiêm tốn, làm việc quần quật từ sáng sớm tới tối mịt, thồ những gánh nặng oằn lưng mà chỉ được ăn cỏ. Bù lại những vất vả đó, ngươi sẽ được sống tới 50 năm”. Con lừa trả lời: - Sống như vậy 50 năm thì thật là khốn khổ. Xin Người cho con sống không quá 20 năm thôi. Chúa chấp thuận ước nguyện của con lừa. Người tiếp tục tạo ra con chó và nói với nó: - Ngươi sẽ trông coi nơi ở, bảo vệ tài sản của con người, kẻ sẽ coi ngươi là bạn hữu thân thiết nhất. Ngươi sẽ ăn cơm thừa canh cặn của hắn và sống 25 năm. Con chó đáp: - Cảm ơn Người! Nhưng sống kiếp con chó trong 25 năm là một hình phạt quá nặng. Xin Chúa cho cuộc đời con chỉ kéo dài dưới 10 năm thôi! Lời thỉnh nguyện của con chó được chấp nhận. Thế rồi, Chúa tạo ra con khỉ và bảo nó: - Ngươi sinh ra làm kiếp con khỉ. Ngươi sẽ đánh đu từ cây nọ qua cây kia, hành động như một gã ngốc. Ngươi sẽ có bộ dạng tức cười, chuyên làm trò cười cho thiên hạ. Tuổi thọ của ngươi là 20 năm. Con khỉ tạ ơn Chúa rồi than thở: - Cuộc sống như thế kéo dài tới 20 năm thật là một cực hình. Xin người cho con sống 10 năm thôi. Chúa nhân từ chấp nhận lời thỉnh cầu. Người tiếp tục tạo ra con người rồi phán: - Ngươi là con người, sinh vật cao cấp duy nhất biết đi trên đôi chân ở trái đất này. Ngươi sẽ sử dụng trí tuệ để làm chủ mọi sinh vật trên thế giới. Ngươi sẽ thống trị địa cầu và thọ 20 năm. Con người cầu xin: - Thưa Chúa! Kiếp người 20 năm thật quá ngắn ngủi. Xin Người hãy ban cho con 20 năm mà con lừa đã từ chối, 15 năm mà con chó không chịu nhận và 10 năm con khỉ vứt bỏ. Thế là, Chúa cho người đàn ông sống 20 năm làm kiếp con người. Kế đó, anh ta lấy vợ và sống 20 năm kiếp con lừa, làm việc quần quật với những gánh nặng trên lưng. Tiếp theo, khi có con, anh phải sống 15 năm kiếp con chó, trông coi nhà cửa và xơi những đồ ăn thừa mà lũ con để lại. 10 năm cuối đời, anh ta sống kiếp con khỉ, hành động như một gã ngốc để mua vui cho lũ cháu.
    2 likes
  12. Chào Chú, Cháu là người thứ 2 xin chúc mừng Chú, Chúc mừng Đại Lễ đã diễn ra tốt đẹp,hơn nữa Thời tiết cũng không phụ lòng người dân đổ về Thủ Đô để xem đại lễ. Tạm gác qua những lời dèm pha "có chủ ý" về cá nhân Chú trong thời gian qua, những hiện thực đã được diễn ra trong 10 ngày là minh chứng hùng hồn cho những ai có "thiển ý" về 1 bộ môn khoa học đó là Lý Học Đông Phương. Vâng!! xin cảm ơn. Xin cho "Đồng Chí" Chú 9,5 điểm ...... :D với những công sức của "Đồng Chí" Chú cho Thủ Đô nói riêng và Đất Nước Nói chung. :D Kính Chú!
    2 likes
  13. Một hệ quả của báo chí ? mất niềm tin! http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...ic=16683&hl=
    2 likes
  14. MỪNG 7 NGÀY ĐẠI LỄ NẮNG ĐẸP TẠI HÀ NỘI Tối qua, ngày 8/10/2010, 19h00, nhóm học viên 02 lớp Phong thuỷ Lạc Việt đã cùng nhau họp mặt trong một buổi tiệc nhẹ thân mật, vui vẽ, dưới sự chủ trì của cô Wildlavender, đại diện Trung tâm Nghiên cứu Lý Học Đông Phương, chúc mừng Đại Lễ 1000 năm Thăng Long Hà Nội đã diễn ra tốt đẹp suốt 7 ngày ở Thủ Đô trong điều kiện trời nắng đẹp như những tuyên bố cách đây 01 tháng của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh - Thiên Sứ -. Thiên Đồng
    2 likes
  15. Nhân bài báo của VTC, tôi xin kể lại 1 chuyện như sau: Năm 2004 tôi cùng 1 số bạn bè tốt nghiệp khóa K44 Bách khoa vào quán bia Hải xồm để uống mừng bằng tốt nghiệp và cũng là để chia tay vì sau đó mỗi người 1 phương chưa biết bao giờ gặp lại. Một nhóm quay phim đến xin ghi hình nói là để giúp chủ quán làm clip quảng cáo, chỉ cần chúng tôi cứ tự nhiên cụng ly để họ tác nghiệp. Kết quả là tối hôm đó trên TV có phóng sự " Tệ nạn nhậu nhẹt say xỉn trong học sinh sinh viên cùng với những hậu quả đáng tiếc..." mà nhân vật chính trong clip minh họa chính là nhóm bạn chúng tôi. Điều đáng nói là nhóm quay phim thời sự đó đã nói dối và khiến chúng tôi cảm thấy mình bị gài bẫy, lợi dụng để bịa đặt ra đoạn phim đó. Chúng tôi lúc đó thậm chí không dám uống đến say vì không đủ tiền và cũng không có ý định đó vì còn phải mang bằng tốt nghiệp về nhà với bao lo toan cho quãng thời gian tự lập sắp tới sau khi ra trường. Suốt mấy ngày sau đó chúng tôi nhận được rất nhiều câu hỏi từ gia đình, bạn bè... không phải để chúc mừng tấm bằng kỹ sư mới nhận mà để hỏi thăm có bị bắt không, sao lại bị lên TV như thế, la cà hàng quán, say xỉn, đánh nhau phải không mà bị báo chí làm hẳn phóng sự đưa mặt chình ình lên vô tuyến như vậy.... Thế đấy, khi cái tâm người làm báo không sáng, khi suy nghĩ của họ chỉ nhằm viết ra 1 bài giật gân, thu hút người đọc thì không ai dám đảm bảo những điều họ viết, họ nói là thật sự đáng tin.
    2 likes
  16. Cờ truyền thống của dân tộc Việt có từ thời Hùng Vương dựng nước hoàn toàn chính xác. Trong dân gian cách đây chỉ vài chục năm (Thế hệ cha ông tôi) còn gọi là cờ Ngũ sắc - hoàn toàn không liên quan gì đến cở Phật Giáo (Mới có từ giữa thế kỷ trước do Đại hội Phật giáo Quốc tế họp ở Hoa Kỳ quyết định). Ý nghĩa của lá cờ truyền thống này như sau: Trước đây thời Hùng Vương, nước Văn Lang là một quốc gia liên bang. Mỗi liên bang đứng đầu là Lạc Hầu, phụ tá Lạc Hầu là Lạc tướng phụ trách quân sự. Các Lạc Hầu bầu ra một bang làm minh chủ và quyết định mọi việc chung của quốc gia - đây chính là nguyên do có các thời Hùng Vương. Mỗi bang có nền kinh tế và quân sự gần như độc lập do điều kiện địa lý và phương tiện vận chuyển thời bấy giờ. Những lá cờ của các bang, tùy theo phương vị mà chọn màu ở trung tâm và sao xác định phương vị của bang đó. Thí dụ: Bang phương Bắc có sao Huyền Vũ ở trung tâm lá cờ có sắc màu xanh dương chẳng hạn. Bởi vậy, cờ truyền thống cách đây 100 năm còn vẽ, hoặc thêu các chòm sao trên đó. Nguyên lý tạo cờ như sau: Thí dụ: Bang ở Đông Phương lấy sắc xanh lá cây làm nền ở giữa, Mộc sinh hỏa - sau đó là viền đỏ, hỏa sinh thổ, ngoài viền đỏ là viền vàng, Thổ sinh Kim, ngoài vàng là trắng, Kim sinh thủy, ngoài trắng là Xanh lam, THủy sinh mộc - diềm ngoài cùng lá cờ chính là hình tượng vây rồng đồng mầu với màu giữa lá cờ - biểu tượng của sự phát triển, biến hóa. Giữa lá cờ vẽ, hoặc thêu sao Tam bích. Tất cả các lá cờ đều hình vuông thuộc Thổ và biểu tượng của Âm. Sau này do thất truyền, người ta dùng màu chẳng theo quy luật nào, miễn na ná giống là được. Đại để vậy. Như lá cờ này, về hình thức thì giống, nhưng thiếu một hành Kim. Vị trí màu ở giữa đỏ, chủ phương Nam, thiếu biểu tượng sao định phương vị.
    2 likes
  17. Nhật Tâm có một số thắc mắc về cờ lễ hội (cờ thần) của Việt Nam bác Vô Trước, anh Hoangnt hay quý vị nào có thông tin xin chia xẻ. 1- Cờ lễ hội VN có từ bao giờ? (Liệu có phải có từ thời Hùng Vương?) 2- Trên thế giới có nước nào, dân tộc nào dùng cờ này nữa không? 3- Tại sao cờ lễ hội lại gắn liền với phật giáo? 4- Quy định màu sắc trên cờ thế nào mới là chuẩn? (Nhật Tâm thấy có một số cờ có thứ tự các màu không giống trong ảnh. Một nghi vấn của Nhật Tâm là liệu có phải màu đỏ ở giữa là màu đỏ sẫm của gạch - màu thổ còn màu bên ngoài là đỏ tươi - hành hỏa?) 5- Ý nghĩa của cờ lễ hội. Trân trọng, Nhật Tâm
    1 like
  18. Sau cả hành trình dài dặc vạn năm, đến Thời dựng nước, cộng đồng người Việt đã tích lũy và chứng tỏ các tố chất thông minh, cần cù, dũng cảm, sáng tạo. Để trên cái tầng nền các tố chất nhân bản có tính phổ quát nhân loại ấy, mà nẩy nở và phát triển nét riêng đặc sắc bản lĩnh, trí tuệ, tài năng, làm nên lịch sử của mình. Từ "Người thông minh" đến đỉnh cao thời kim khí Người nguyên thủy (người thông minh-Homosapien) có mặt trên lãnh thổ Việt Nam ngay từ thời đại đồ đá cũ mông muội, và trên hành trình dài dặc lần hồi sinh sống, tiến triển, đã lần lượt làm nên ba cuộc cách mạng kỹ thuật làm chuyển ngoặt thời đại, tương tự như nhân loại trên mọi vùng trái đất. Cách mạng đá mới gắn liền với khai sinh nông nghiệp. Việt Nam có nét độc đáo là phát minh trồng trọt ngay từ buổi sơ khai của thời đá mới, với Văn hóa Hòa Bình nổi tiếng, được quốc tế công nhận, và đánh giá là một trong những cái nôi khai sinh nông nghiệp sớm nhất ở Đông-Nam Á. Cách mạng kim khí, mà khởi đầu là luyện, đúc đồng, quãng trên dưới 4000 năm cách ngày nay, ở miền Bắc (tiêu biểu là các Văn hóa Phùng Nguyên, Hậu Lộc...), miền Trung (Văn hóa Sa Huỳnh), miền Đông Nam Bộ. Thời cực thịnh (chừng 2500-3000 năm trước), trống đồng Đông Sơn - kết tinh trí tuệ và năng lực sáng tạo của người Việt cổ, được thế giới đánh giá là tuyệt phẩm không tìm thấy được trong khu vực và thế giới, đạt tới đỉnh cao cả về kỹ thuật, công nghệ lẫn nghệ thuật tạo hình, trang trí đương thời, và có sức lan tỏa rộng, lan xa ra toàn khu vực. Trống đồng Đông SơnThời cực thịnh Văn minh Đông Sơn lại đưa đến bước ngoặt cách mạng về xã hội: Đó là sự ra đời nhà nước Văn Lang, với các Vua Hùng làm thủ lĩnh, để từ đó từ giã Thời đại nguyên thủy, bước vào Thời đại văn minh. Vậy là Thời tiền sử đã hun đúc và chứng tỏ người Việt Nam có đủ các tố chất thông minh, cần cù, dũng cảm, sáng tạo. Để trên cái tầng nền các tố chất nhân bản có tính phổ quát nhân loại ấy, mà nẩy nở và phát triển nét đặc sắc Việt là khả năng thích ứng dẻo bền vô hạn trước mọi tai họa thiên nhiên và tai ương xã hội, để sinh tồn và phát triển trường kỳ. Khi trí thông minh Việt được tích hợp Trí tuệ lãnh tụ là tiêu biểu, là sự tích hợp trí thông minh, tri thức, tài năng của cộng đồng, của nền văn minh xứ sở và thời đại trong từng hoàn cảnh lịch sử. Khi trí tuệ người chèo lái cơ đồ đất nước ngày thường là sung mãn; thời cơ (hoặc nguy cơ tồn vong) đến, thì "xuất thần" với quyết định táo bạo mà số đông chưa kịp hiểu, thì thường là vận nước chuyển ngoặt phi thường. Lịch sử dân tộc ta liên tiếp làm sáng lên chân lý ấy. Khúc Thừa Dụ, Hào trưởng Hồng Châu (vùng Ninh Giang, Hải Dương nay), nhạy cảm và sáng suốt chớp thời cơ chính quyền đô hộ nhà Đường gần như tan rã, đã phất cờ cứu nước, được dân chúng trong vùng hưởng ứng, tiến quân ra đánh chiếm phủ thành Tống Bình (Hà Nội), năm 905. Ông tự xưng là Tiết độ sứ, xóa bỏ về thực chất chính quyền đô hộ, nắm lấy quyền cai quản, thiết lập thể chế chính trị tự chủ, giữ vững nền độc lập dân tộc, thực thi những chính sách mới mẻ của quốc gia. Khúc Thừa Dụ trở thành người mở đầu Kỷ nguyên độc lập và phát triển lâu dài của đất nước. Với trí tuệ kiệt xuất của mình, họ Khúc đã sáng tạo tư tưởng chính trị riêng cho xứ sở, phi Phật, phi Nho - đó là nền chính trị có gốc rễ nhân văn. Chính sự họ Khúc "cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui" (Quốc sử quán triều Nguyễn-Cương mục). Khi trí tuệ người chèo lái cơ đồ đất nước ngày thường là sung mãn; thời cơ (hoặc nguy cơ tồn vong) đến, thì "xuất thần" với quyết định táo bạo mà số đông chưa kịp hiểu, thì thường là vận nước chuyển ngoặt phi thường. Lịch sử dân tộc ta liên tiếp làm sáng lên chân lý ấy. Bằng vào những thăng trầm lịch sử nước nhà, có thể gọi tên nền chính trị nhân văn là kiểu loại trị nước lấy động lực từ lòng thiết tha yêu nước, thương dân. Thực sự coi "Dân là nước, dân có thể đẩy thuyền cũng có thể lật thuyền"; chứ không coi dân là "thứ dân", "con đen", "con đỏ"- một phương tiện để lừa mị và lợi dụng vào mục đích tranh giành quyền lực, vơ vét tài lực, châu báu làm của riêng gia tộc. "Bảo bối trị quốc" này được mọi thời kế thừa và phát triển, làm nên những võ công và thành tựu văn minh rực rỡ. Những buổi mạt triều, vua chúa vứt bỏ "phép thiêng" ấy, bỏ bễ triều chính và bỏ rơi dân chúng, chỉ chăm chăm vơ vét và hưởng lạc, nên vương triều sụp đổ. Đinh Bộ Lĩnh, một hào trưởng lớn (sứ quân) ở Hoa Lư, thấy rõ nguy cơ loạn ly do 12 sứ quân tranh đoạt quyền lực, tất đẩy dân chúng vào thảm cảnh điêu linh, đẩy xứ sở đến bờ vực thẳm mất nước. Ông đã hô hào dân chúng thuận theo và đem quân bản bộ dẹp yên cơn loạn lạc, lập nhà Đinh, thu chính sự và đất nước về một mối. Ông là người đầu tiên nêu tiền lệ và bài học trí tuệ cốt tử cho mọi thời, rằng phân ly là chết; thống nhất giang san, cố kết cộng đồng là trường tồn và phát triển. Lý Công Uẩn đã sáng suột nhận lãnh ngôi vua do quần thần tiến cử và suy tôn, khi nhà Tiền Lê đã suy vong tột đỉnh và đất nước đã kiệt quệ. Trên ngôi vị đứng đầu xã tắc, ông ra ngay quyết định sáng láng chuyển ngoặt thế địa- chính trị, từ thiên về thu mình, phòng giữ với kinh đô Hoa Lư của một thời, ra Đại La (và đổi gọi Thăng Long) là trung tâm và là vùng giầu có của đất nước, xứng đáng là đế đô của mở mang, hưng thịnh muôn đời. Ông cũng là trí tuệ kiệt xuất thiết kế và vận hành bộ máy hành chính và chính sách qui mô, toàn diện, do kế thừa và phát triển nền chính trị nhân văn di sản từ triều Khúc. Các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông do bản lĩnh phi thường và trí tuệ trác việt, đã quyết chí và quyết đoán "sát Thát" theo ý chí của dân Đại Việt. Tổ chức tài giỏi và cùng các Vương hầu thao lược, quân đội thiện chiến, nhân dân quả cảm, đã 2 lần liên tiếp bôn tẩu bỏ lại kinh đô cho giặc phá, để 2 lần phản công toàn thắng trong 2 cuộc kháng chiến chống đế quốc Nguyên-Mông hùng mạnh từng chinh phục một nửa thế giới (1285, 1288). Hai cha con, hai vị vua Anh hùng giữ nước. Trần Nhân Tông còn là một trí tuệ bác học, Anh hùng văn hóa trên cương vị Phật Hoàng. Tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Ảnh: Hoàng Tuấn Lê Lợi, một hào trưởng vùng bán sơn địa Lam Sơn, do yêu nước, thương nòi, căm ghét bạo tàn, đầy lòng quả cảm, đã thật sáng suốt khi đặt niềm tin vào sức quật khởi của nhân dân, vào sự nghiệp đại nghĩa cứu dân, cứu nước, đã phất cao cờ nghĩa với lực lượng buổi đầu quá nhỏ nhoi. Với bản lĩnh người thủ lĩnh và tài năng quân sự, và với trí tuệ trác việt của Bộ chỉ huy quân nghĩa mà nổi bật là quân sư Nguyễn Trãi, trải "mười năm nếm mật nằm gai", bao phen điêu đứng, hiểm nguy, thoát chết trong gang tấc, sự nghiệp đại nghĩa, chí nhân của Lê Lợi đã thắng hung tàn, ách đô hộ và đồng hóa tàn bạo của nhà Minh sụp đổ, "trăm họ cùng ca khúc thái bình''. Nguyễn Huệ, nhà chính trị, nhà ngoại giao lỗi lạc, thiên tài quân sự, thương gia buôn chuyến đường dài hàng trầu cau Bình Định cùng lâm thổ sản Tây Nguyên, giong thuyền đi bán cho khách buôn trong nước, nước ngoài tại cảng Qui Nhơn. Thấy rõ bi kịch, hậu quả thê thảm và nguy cơ mất nước bởi nội chiến, tranh đoạt quyền lực triền miên 2 thế kỷ Trịnh (Đàng Ngoài)-Nguyễn (Đàng Trong), đã cùng anh Nguyễn Nhạc, em Nguyễn Lữ giương cờ nghĩa Tây Sơn, nhanh chóng trở thành lãnh tụ kiệt xuất của sự nghiệp nhân dân. 17 năm (1771-1787) Nam chinh Bắc chiến, Nguyễn Huệ lãnh tụ luôn luôn làm tướng tiên phong, chưa từng đánh thua một trận. Hết phá bỏ thế lực nhà Nguyễn lại diệt nhà Trịnh, thu lại giang sơn về một mối. Và trên thế thắng, quân Tây Sơn liên tiếp đánh bại 2 cuộc xâm lăng ở cả 2 đầu đất nước: Diệt 2 vạn quân Xiêm trên dòng Rạch Gầm-Xoài Mút (Tiền Giang) năm 1785. Quét sạch gần 30 vạn quân Thanh chiếm đóng Thăng Long, mùa xuân 1789. Nguyễn Huệ quả là trí tuệ và tài năng kiệt xuất và công lao độc đáo. Một đời làm tướng chiến chinh luôn luôn thắng; Anh hùng dẹp nội chiến, thống nhất đất nước. Người là 2 lần Anh hùng thắng ngoại xâm. Và Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, một con người Việt Nam yêu nước, đã rất sáng suốt nhận ra sự khủng hoảng đường hướng cứu nước, sau thất bại của hàng loạt khởi nghĩa vũ trang trước và trong Phong trào Cần Vương. Cũng như sự vô vọng của các xu hướng cải lương của Phan Chu Trinh, xu hướng dựa vào tư bản nước ngoài của Phan Bội Châu với Phong trào Đông Du... Người xuất dương để học hỏi, chiêm nghiệm và tìm kiếm đường hướng cứu nước có triển vọng hơn. Người đã lựa chọn đường lối giải phóng các dân tộc thuộc địa toàn cầu theo xu hướng cộng sản, do Quốc tế III tổ chức, chỉ đạo, dựa trên học thuyết Mác-Lênin. Với vai trò và trí tuệ Lãnh tụ kiệt xuất, Hồ Chi Minh dẫn dắt toàn dân tộc làm nên những bước ngoặt lịch sử: Cách mạng tháng Tám 1945 xóa bỏ xích xiềng nô lệ, giành lại độc lập, thống nhất đất nước, lập nền Dân chủ Cộng hòa. Chiến thắng "'hai đế quốc to là Pháp và Mỹ", giành trọn vẹn độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Lãnh tụ kiệt xuất Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa lớn. Những thành tựu vĩ đại trên mỗi chặng đường lịch sử gắn liền với tên tuổi các lãnh tụ- những con "Người thông minh" như thế, đã minh chứng bằng thành quả rực rỡ, và tạo ra xung lực mới của sự thăng hoa trí thông minh, sức quật khởi phi thường và sức sáng tạo, làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc. Kỳ sau: Lực cản phát triển và trí thông minh một dân tộc (II) Thế Văn tuanvietnamnet.
    1 like
  19. Hàng chục người chết do tai nạn giao thông 10/10/2010 17:51 (TNO) Hôm nay 10.10, tại tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) đã xảy ra một vụ tai nạn xe cộ khiến 8 người thiệt mạng và hàng chục trường hợp khác bị thương, theo AFP. Sương mù kèm khói ô nhiễm bao phủ nhiều nơi ở Trung Quốc trong vài ngày qua - Ảnh: AFP Sự cố giao thông trên đã làm cho 30 xe ô tô đâm nhau liên hoàn trên đường. Trước đó, sáng 9.10, tại tỉnh Giang Tô (Trung Quốc), ít nhất có 17 người chết và 6 nạn nhân khác bị thương sau vụ va chạm giữa một xe khách và xe tải chở xi măng, theo Tân Hoa Xã. Tai nạn trên xảy ra trên quốc lộ nối giữa TP Hợp Phì (thủ phủ tỉnh An Huy) và TP Nam Kinh (thủ phủ tỉnh Giang Tô). Nguyên nhân có thể là do sương mù kèm khói ở khu vực trên quá dày đặc che khuất tầm nhìn. Vụ va chạm nói trên đã làm chiếc xe tải bốc cháy và lộn nhào rồi đổ sầm xuống chiếc xe khách đang chở 53 người. Cục Khí tượng học quốc gia Trung Quốc đã đưa ra lời cảnh báo về sức khỏe cho người dân trước tình trạng sương mù kèm khói ô nhiễm bao phủ nhiều địa phương ở nước này trong những ngày qua. Trí Quang
    1 like
  20. Diễu binh, diễu hành mừng đại lễ (10/10) (TNO) Lúc 7 giờ 45 phút sáng nay (10.10), Lễ mít tinh, diễu binh, diễu hành mừng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đã diễn ra tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Phần 1 Phần 2
    1 like
  21. Bây giờ đúng 23h30' ngày 10.10.2010. Không thể chờ nổi 30 phút nữa cho đúng 24 giờ. Tuy nhiên còn 30 phút nữa với bầu trời này có lấy "Sào" chọc cũng không thể mưa nổi. Cách mạng đã thành công. Chúc mừng anh TS, chúc mừng LHĐP. Chúc cho nền văn Hiến Việt huyền vĩ gần 5000 năm phía nam sông Dương Tử bất diệt. Hỡi đồng bào tổ quốc, vì non sông gấm vóc vì tổ tiên đã bao năm gây dựng và gìn giữ. Chúng ta hãy cùng nhau gìn giữ cùng nhau phục dựng những gì đã mất. Hỡi các nhà khoa học hãy đọc, hãy nghĩ, hãy xem, hãy chiêm nghiệm những gì mà các nhà n.c trong và ngoài nước đã và đang nghiên cứu về nền văn hiến và lịch sử của dân tộc rồi hãy công nhận hoặc bác bỏ cũng chưa muộn. Vinh danh nền văn hiến Viết gần 5000 năm! Tôi xin post thêm mấy tấm hình ngày 7-10/10/2010 này để chứng minh thêm cho chân lý của LHĐP và nền văn hiến Việt. 17h19' ngày 7.10.2010 bầu trời phía Tây HN. Chụp tại Thanh Xuân 16h25' bầu trời phía Tây HN. Chụp tại Thanh Xuân 17h05' bầu trời phía Tây HN. Chụp tại Thanh Xuân
    1 like
  22. Đại Lễ đã kết thúc với thời tiết tuyệt vời hơn cả mong đợi. Xin chúc mừng chú Thiên Sứ và các thành viên Trung tâm nghiên cứu Lý Học Phương Đông. Chúc mừng nền văn minh Lạc Việt gần 5000 năm của dân tộc:)
    1 like
  23. 1 like
  24. 10 ngày đại lễ đã xong. Người người vui hội trời trong nắng hồng Xin chúc mừng sư phụ Thiên Sứ ! Chúc thầy mạnh khỏe, tráng kiện để tiếp tục bước tiếp theo. Đã hơn 7 trong số 10 ngày đại lễ thời tiết vô cùng thuận lợi. Cảm xúc đêm nay thật giống như đêm 30 vậy, giao thừa đang điểm. Lý Học Đông Phương - Việt Sử 5000 năm sắp được tôn vinh rồi !!!
    1 like
  25. Đại lễ đã kết thúc. Cháu xin được chúc mừng bác Thiên Sứ Cháu luôn ủng hộ bác vì cháu biết là bác đúng mà :D
    1 like
  26. Coi nhiều chỗ thì sẽ tin ai? Còn nếu không tin ai hết thì hỏi làm gì? Nếu coi xong để đó thì miễn bàn.
    1 like
  27. 1 like
  28. Xin lỗi Như Thông nhé! Bài của bạn không được chấp nhận. Chúng ta là diễn đàn về văn hóa và lịch sử. Có thể có những người truy cập vào diễn đàn này nhưng sang diễn đàn khác chửi bới nhưng đừng chấp bạn ạ, chúng ta là những người có văn hóa cơ mà. Tôi xóa bài của bạn. Thân mến
    1 like
  29. Còn khoảng 4 giờ nữa là hết ngày 10/10. Chúc mừng thành công của chú Thiên sứ, Chúc mừng thành công của trung tâm nghiên cứu Lý học đông phương. Có những lúc tưởng như tim thót lại Nhưng giờ đây niềm vui đã vỡ òa P/S Phen này ông nào "tắt điện", ông nào "vỡ Alo" đây .. hi.hi
    1 like
  30. Thiên sứ đuổi mưa” lại giấu mặt! Thứ Bẩy, 09/10/2010-12:49 PM Với ý định muốn thực hiện một đợt “sơ kết” với các dự đoán thời tiết trong dịp Đại lễ nhưng chúng tôi đã không thể liên lạc được với ông “thiên sứ đuổi mưa” Nguyễn Vũ Tuấn Anh. “Đệ tử” của ông cho biết “thiên sứ” đang giấu mặt để đảm bảo ngày 10/10 không có mưa. “Đệ tử” Hoàng Triệu Hải của “Thiên Sứ” "Thiên Sứ" phân tâm nên...trời có mưa?! Trao đổi với PV báo Đời sống T & Pháp luật, ông Hoàng Triệu Hải, Trưởng Văn phòng đại diện của Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương tại Hà Nội phấn chấn ra mặt: "Tính cho đến thời điểm này, sư phụ em dự đoán chuẩn đến 99%. Duy chỉ có trận mưa tối 4/10 là ngoại lệ. Hôm đó sư phụ bị phân tâm do nghe tin lũ lụt miền Trung. Vì hiệu quả công việc phải hội đủ các yếu tố cần và đủ, không phải muốn là làm được". Khi chúng tôi có nhã ý muốn gặp lại "thiên sứ" Nguyễn Vũ Tuấn Anh", Triệu Hải từ chối với lý do: "Những ngày này sư phụ phải tuyệt đối tập trung cho công việc Đại lễ. ông phải giấu mặt, đi thị sát một số điểm trên địa bàn Thủ đô, điều hành các đệ tử... Nói chung là rất bận, rất cần sự yên tĩnh để công việc đạt hiệu quả". “10/10 không mưa” "Thiên sứ" Nguyễn Vũ Anh Tuấn đã dự báo thời tiết Hà Nội trong ngày lễ chính 10" /10 sẽ nắng đẹp, không có mưa. Có thể ngày đó sẽ là một trong những hôm có hiệu ứng quang học kỳ ảo trên bầu trời Hà Nội. Tuy nhiên, một số dự báo khác lại cho rằng 10/10 Hà Nội sẽ mưa rất to. Đem vấn đề ra trao đổi với ông Triệu Hải - người phát ngôn của "thiên sứ" trong thời điểm này, ông Hải khẳng định như đinh đóng cột: "10/10 Hà Nội có nắng đẹp, không mưa". ông Hải lý giải: "Hôm đó là ngày Quý Tỵ. Theo Lạc thư hoa giáp của Thiên sứ hiệu chỉnh thì là ngày Quý Thuỷ, nhưng hành khí lại thuộc Hoả. Ngày Tỵ lại âm hoả, chính vị khôn (Thổ) theo Hậu thiên Lạc Việt. Còn theo Hậu thiên Văn Vương đó là quẻ Tốn. Môi trường quanh Hà Nội có khả năng mưa rất cao nhưng trên thực tế hôm đó Hà Nội sẽ không mưa do "thiên sứ" tác động! Do vậy, 10/10 các vùng lân cận, cách Hà Nội trong vòng khoảng 35 km có thể vẫn có mưa. Còn Hà Nội, nơi diễn ra các hoạt động quan trọng của Đại lễ thì thời tiết lại rất đẹp, trời nắng, quang đãng, mát mẻ". NGÂN GIANG
    1 like
  31. Kính chào bác Thiên Sứ và tất cả quý vị quan tâm, Nếu cờ ngũ sắc đúng là quốc kỳ của nước Văn Lang thì thật là đại hỷ sự. Như vậy nước ta vẫn giữ được những biểu tượng quan trọng nhất của nhà nước Văn Lang. Quốc bảo (trống đồng), quốc lễ (trong văn hóa VN có lẽ cả trên trống đồng cũng ghi), quốc kỳ (cờ ngũ sắc) & linh vật quốc gia (chim Lạc). Nhật Tâm chưa hiểu chòm sao thêu ở giữa của phương Đông- Mộc lại là sao Tam bích (hình như sao này là sao xấu)? Tại sao không phải là sao Thanh Long như trong câu thơ: Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ Tiền Chu Tước, hậu Huyền vũ (Hướng quy ước là tọa Bắc hướng Nam) Nhật Tâm thường quan niệm màu vàng nhạt là hành kim nên đã nhĩ màu vàng trong lá cờ trên tượng trưng hành Kim. Như vậy đúng là thiếu màu trắng của Kim. Tuy nhiên nếu ý nghĩa lá cờ chỉ là ngũ hành và mối tương quan tương sinh + hình vuông là tượng âm thì chỉ thể hiện được khoảng một nửa đặc trưng của Âm - Dương và ngũ hành. Nói cách khác, nếu là Nhật Tâm thiết kế cờ thì sẽ ưu tiên thể hiện đủ âm dương, tiếp đó đến ngũ hành tương sinh và sau đó là tương khắc. Phải chăng việc thiết kế cờ như vậy ẩn chứa quan niệm đặc biệt quan trọng của thuyết ngũ hành hoặc triết lý lập quốc thời Hùng Vương? Mong bác Thiên Sứ và quý vị quan tâm cho ý kiến tham khảo. Chân thành cảm ơn bác Thiên Sứ đã cung cấp tư liệu quý giá. Trân trọng, Nhật Tâm
    1 like
  32. @ truckservice, ngày 3/9/ canh dần, giờ tị, được quẻ Cổ Mông. Em muốn thỉnh giáo bác công việc của em từ giờ đến cuối năm sẽ như thế nào và em có cần phải thay đổi j ko? - Từ đây đến cuối năm, rối rắm và phiền lòng thường trực, ngồi không cũng xao động bất an, việc gì chẳng ra việc gì, như con cóc trên đĩa nóng nhảy loạn xạ. Lời lộc tham cầu cũng bỏ, công việc thay đổi cũng bỏ. mà thật ra chẳng thay đổi công việc gì cả, cứ trở lại công việc đang làm. Em chưa có gia đình,cuôi năm nay mới lấy vợ,ko biết bác có cần thêm thông tin j nữa ko? Tốt. Tính chuyện này lại đầu xuôi đuôi lọt. Vợ tương lai tuổi nào? Xem chừng cưới vợ xong thì đỡ xui cũng nên? Chúc thành công. Thiên Đồng
    1 like
  33. Cháu Sin lỗi các bác các chú Cháu Xin post lại 1 bài vừa viết mấy hôm trước bên TGVH qua đây để làm rõ vấn đề Cháu xin lỗi chú Hà Uyên vì nhắc đi rồi lại nhắc lại vì chẳng mấy ai đi các diễn đàn khác Chú Hà Uyên post bài như sau Đây là AE trả lời tất nhiên thêm 1 vài chú thích cho nó mới mẻ-Nếu bảo ko có cách giải quyết thì ko phải nhưng nếu giải quyết cái duôi mà cải đầu vẫn để thì cũng bằng ko -Cháu dẫn chứng nếu chỉ giải quyết cơn bão thì sẽ có cơn bão khác nếu tình trạng thứ nhất chặt phá rừng thứ 2 khí thải quá nhiều như hiện này thì giải quyết thế nào đc chuyện này(cái này là ko có ý thức 1 ng làm 1000 ng phá, có mà công cốc ) -Còn nữa hiện nay Ngũ hành hiện tại hành thổ đang yếu theo chú thì nên giải quyết việc nào trước việc nào sau (cháu muốn tham khảo ý của chú Hà Uyên về vân đề này đây ) -Chú TS bên diễn đàn lý học đông phương có nói phải tổ chức hội nghị các nhà khoa học thế giới để giải quyết cháu có góp ý là ko phải là các nhà khoa học mà là Các học giả thế giới theo quan điểm của cháu các nhà khoa học đến 2/3 ko quan tâm đến Ngũ Hành( quan điểm của cháu) -Nói chung thế này chú à vụ 10 ngày 1000 năm này ko chỉ là bước đầu cho việc giải quyết biến đổi khí hậu tất nhiên sẽ ngẫu nhiên chứng minh 5000 năm văn hiến -Tất nhiên sẽ còn nhiều việc khác còn phải làm và còn nhiều việc khó tin hơn là 10 ngày ko mưa này theo chú thì sao -Cháu rất mong có ý kiến của chú.
    1 like
  34. HÀ NỘI SÁNG 9. 10. 2010 Tiếp Những hàng chiếu còn lại trên phố Hàng Chiếu Góc chợ Đồng Xuân. Vườn hoa Hàng Đậu. Di sản thời Pháp thuộc. Tháp nươc Hàng Đậu. Hoàng Triều Hải vừa báo về ở Quảng Ninh nắng chang chang. Nhưng bầu trời phía Tây Bắc không mấy thân thiện. trên hình ảnh là mây xám giăng đầy. Anh chị em Phong Thủy Lạc Việt thân mến. Chúng ta còn một ngày nữa và là ngày quan trọng nhất của lễ hôi. Rất hy vọng anh chị em tập trung một lần nữa vào tối hôm nay. Trân trọng cảm ơn anh chị em.
    1 like
  35. Mục tiêu của anh Thiên Sứ là sự phục hưng của văn hiến Việt. Xá gì một bọn người ô trọc không hiểu, lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử. Dầu sao anh cũng bước đầu đạt được một phần thành công. Chúc mừng anh!
    1 like
  36. Kính gửi bác Thiên Sứ! Việc dự báo thời tiết của Khí tượng Thủy văn Trung ương đúng sai thế nào thì đã thành bài hát "đài dự báo láo làm tăng lãi cho siêu thị, tưởng trời còn mưa nên thiên hạ tích thêm đồ ăn....." của VTV phát ra rả dịp tết năm rồi và giờ còn nhan nhản trên mạng :D Thời nay, VTC nói riêng hay nhiều báo mạng khác nói chung thường khai thác thông tin theo cách chúng ta đang thấy, tít phải thật giật gân, và chẳng từ "thủ đoạn" để tiếp thị cho báo nhà. Công bằng mà nói cũng vì phần lớn cộng đồng quá "khát" thông tin kiểu này, nối giáo cho giặc báo mạng hoành hành. Cháu nghĩ chúng ta không nên bình phẩm về VTC nữa vì như thế là tiếp tay cho bọn họ nổi tiếng! Cháu muốn nói rằng, còn rất nhiều người như cháu đang âm thầm dõi theo và ủng hộ bác. Dù cháu không có kiến thức Lý học Đông Phương nhưng thời gian ở diễn đàn cũng giúp cháu hiểu rằng Đại lễ 1000 năm Thăng Long không phải là đích cuối. Đại lễ sắp kết thúc và kết quả đang tốt, nhưng cháu xin lỗi bác, đứng dưới góc độ của cháu, dù kết quả tốt xấu thế nào thì điều cháu quan tâm là sức khỏe của bác! Cháu kính chúc bác sức khỏe dồi dào.
    1 like
  37. Kính chào các bạn quan tâm. Đáng lẽ ra bài này phải được viết từ ngay sau khi tôi phát hiện có hiện tượng sử dụng sai khái niệm Cận Biến Hóa. Tôi phát hiện ra điều này vào ngày mồng 1 hay mồng 2 gì đó của tháng 10. Nhưng vì quá bận rộn, cũng không quan tâm được liên tục sự kiện này nên để đến bây giờ mới viết. Có thể nói, về tính thời sự và những yêu cầu ký thuật của nó phục vụ cho sự kiện thì đã quá muộn. Có lẽ cũng không cần thiết phải nêu ra đây làm gì nữa. Nhưng về mặt học thuật thì nó vẫn giữ nguyên giá trị, ý nghĩa. Vì vậy hôm nay tôi vẫn viết ra đây, như một sự lưu ý cần thiết, mà nếu, trong học thuật, với những ai muốn sử dụng, đòi hỏi phải hiểu cho đúng ý nghĩa khoa học của nó. Lược lại những bài tôi đã viết trong chủ đề này, trước thời điểm 30/9. Có nghĩa là những bài viết đó của tôi, một khi hiểu đúng và áp dụng đúng đắn, nó có ý nghĩa phần nào, như một phương pháp giúp đỡ việc chứng minh Năng lực dị thường của anh Thiên sứ đến được với công chúng. Nhưng đáng tiếc, nó đã hoàn toàn không hiệu dụng. Chủ yếu là do nó đã không được hiểu chính xác của những người nên thực hiện nó, một khi đã công nhận nó. Như tôi đã nói, nếu những Thông báo về thời tiết trong suốt 7 ngày đầu tiên của đại lễ chỉ là Dự báo thì sẽ chẳng có việc dư luận phải ồn ào và có vẻ như rất bức xúc. Bởi lẽ, dự báo chỉ là dự báo, sẽ có đúng có sai. Một lần dự báo, dẫu có đúng tới 100% cũng không có ý nghĩa khẳng định về học thuật. Có nghĩa là, không thể chỉ bằng vào kết quả đó mà có thể chứng minh đầy đủ cho sự đúng đắn của một lý thuyết – theo đánh giá đầy đủ gọi là khoa học. Và dẫu có sai, dù là sai 100%, cũng chẳng có gì đáng để bị chê cười cả. Và suốt thời gian dự báo, dư luận sẽ không ồn ào, kiên nhẫn chờ đợi một kết quả thống kê suốt thời gian 7 ngày. Thế nhưng, sau khi bài viết yêu cầu làm rõ dự báo hay là ngăn mây đuổi mưa, độc giả đã nhận được câu trả lời minh bạch của anh Thiên sứ cũng như của các đồng nghiệp của anh. Rằng đó chỉ là những thông báo về thời tiết trong suốt 7 ngày đầu tiên của đại lễ. Nếu như thời tiết "hỗn", nghĩa là sẽ biến đổi không ứng với những thông báo trước đó, thì anh Thiên sứ sẽ sử dụng công năng đặc dị để buộc thời tiết phải thể hiện đúng như những gì anh Thiên sứ đã thông báo. Nên nhớ, Thông báo chứ không phải là Dự báo. Vì thế, khi không thấy sự thể hiện Phát công năng, thì đương nhiên, thông báo trên, dù có đúng với diễn biến thời tiết, cũng sẽ không có giá trị gì cả. Bởi vì, nó vốn không phải là dự báo. Và với tính chất của Thông báo, thì nội dung thông báo chỉ có giá trị khi mà chính anh Thiên sứ đã thực hiện công năng đặc dị ngăn mây đuổi mưa. Vì để đảm bảo thuận lợi cho anh Thiên sứ cùng đồng nghiệp, cũng như cho công luận, như tôi đã phân tích, anh Thiên sứ chỉ có thể phát công khi mà thời tiết có dấu hiểu chuyển biến không như nội dung thông báo cuả anh Thiên sứ. Thời điểm mà thời tiết có dấu hiệu chuyển biến không đúng như thông báo tôi gọi đó là Điểm Cận Biến Hóa. Việc tôi đề nghị sử dụng điểm cận biến có ý nghĩa về mặt khoa học thực nghiệm. Hay nói cách khác, nó có giá trị thực nghiệm, một giá trị khi mà thông qua nó, bản thân anh, đồng nghiệp cùng với công luận hoàn toàn có thể kiểm tra được độ tin cậy những gì mà anh thông báo và thực hiện. Nhưng đáng tiếc, nội dung của khái niệm điểm cận biến không có gì phức tập và khó hiểu, đã bị sử dụng không chính xác. Thể hiện rõ nhất khi có người đã gọi Nó là Hiệu Ứng Cận Biến Hóa. Cách gọi như thế hoàn toàn sai lạc bản chất của nó, vì thế sẽ không thể có được những sử dụng đúng đắn. Chúng ta đều biết cái gọi là hiệu ứng. Có rất nhiều loại hiệu ứng, như hiệu ứng trong vật lý chẳng hạn trong lý thuyết tán xạ thì có hiệu ứng Compton, trong quang điện thì có hiệu ứng quang điện – Einstein đã được giải Nobel vật lý khi giải thích bản chất của hiện tượng này, ... Cái gọi là hiệu ứng, đó là hiện tượng xảy ra có tính quy luật của một quá trình nào đó. Như ở trên, hiệu ứng quang điện là hiện tượng phát xạ electron từ bề mặt của kim loại nhất định khi có một chùm ánh sáng đủ mạnh chiếu lên nó. Hiệu ứng Compton xem như là bài toán ngược của bài toán hiệu ứng quang điện. Nêu ví dụ như thế để ta hiểu được cái gọi là hiệu ứng, từ đó có thể dễ dàng thấy rằng, điểm cận biến thời tiết hoàn toàn không có ý nghĩa của một hiệu ứng về thời tiết, mà nó chỉ là cái Thời điểm mà Thời tiết có dấu hiệu sẽ biến hóa bất thường. Vì thế, ở thời điểm này – điểm cận biến – thì thời tiết có trạng thái đặc trưng. Những đặc trưng này có những thể hiện, mà theo kinh nghiệm cha ông ta bao nhiêu đời cũng đã có những tích lũy phong phú. Chẳng hạn dấu hiệu: Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống – một dấu hiệu của thời tiết chuyển thành bão. Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm. Kiến hay Mối không chịu ở trong tổ, bay ra hàng đàn là thời tiết động, báo hiệu có mưa lớn hay dông tố. ... còn rất nhiều nữa. Về mặt quan trắc khí tượng, ở những thời điểm này, những thông số về thời tiết như mật độ mây, độ ẩm, khí áp, hướng gió và tốc độ gió đều có những biến đổi bất thường mà nếu xét theo topo thì ở đó xuất hiện những đứt gãy, hay là biến đổi phi tuyến. Điều này, những người làm công tác khí tượng đều hiểu rất rõ. Làm lâu năm thì càng có kinh nghiệm dự báo tìm được những điểm này. Một khi những điểm này được phát hiện sớm và chính xác thì dự báo thời tiết càng chính xác. Về lý thuyết, cho dù dự báo bằng bất cứ phương pháp nào, tâm linh, cảm ứng, hay đo đạc hiện đại, cũng như qua quan sát cảm ứng của động thực vật thì muốn dự báo được, bắt buộc phải thấy được điểm cận biến. Vâng, điểm cận biến chứ không phải là hiệu ứng cận biến hóa. Nếu không thấy được những điểm cận biến thì không thể nào có được một dự báo đáng tin. Điều này là lẽ tự nhiên, mặc nhiên đúng. Bởi vì thế, như đã nói, anh Thiên sứ chỉ có thể phát công ở thời điểm cận biến, chứ không thể phát công liên tục từ đêm 30/9 rạng ngày 1/10 cho đến hết ngày 7/10 để bảo đảm thời tiết đúng như anh thông báo, vì lý do năng lượng, cũng như do như cầu sinh hoạt – ăn uống, vân vân và vân vân. Nhưng muốn phát công ở điểm cận biến, bắt buộc anh phải thấy được điểm cận biến. Như anh đã thừa nhận điều này, và có để nghị sử dụng ngay cả những dự báo của các nguồn dự báo khác. Về lý thuyết, tôi hoàn toàn không phản đối việc tham khảo thêm các nguồn dự báo khác để nhận biết cái điểm này. Nhưng khi đã nói tới Hiệu ứng cận biến hóa thì tôi hiểu rằng không thể có sự áp dụng đúng đắn theo tiêu chuẩn khoa học được. Bởi vì,đó là hiểu sai và như đã nói, đúng theo tiêu chuẩn khoa học buộc anh phải có những miêu tả cụ thể trạng thái điểm cận biến của thời tiết. Theo đó những thông số anh phải có: Tọa độ và hướng xảy ra điểm cận biến, mật độ mây tại vị trí đó, khí áp và độ ẩm cũng như tốc độ gió. Từ những điều kiện này, anh sẽ phải thông báo hướng biến hóa như mật độ mây sẽ tăng trưởng thế nào, tốc độ gió biến đổi ra sao để trở thành mây mưa ở cấp độ bao nhiêu. Và khi anh phát công ngăn chặn thì sau bao lâu thời tiết phải trở lại bình thường đúng như với thông báo. Khi đó có hiện tượng, mây bị xua đi thì mây sẽ đi đâu. Một người có năng lực điều hành thời tiết, tất yếu phải hiểu và biết được những điều căn bản đó. Khi tiến hành công tác đó. Để đảm bảo tính khoa học, bắt buộc phải có những ghi chép thành biểu bảng để có thể theo dõi, quan trắc và trên cơ sở đó, bất cứ ai cũng có thể thấy rõ, tự quan trắc cũng như tự dự báo được biến chuyển của thời tiết ở vùng gần khi anh phát công năng. Điều này làm tôi nhớ lại, dù chuyên ngành tôi không phải là khí tượng học. Nhưng hơn 30 năm trước, khi tôi cộng tác với nha khí tượng trong công tác nghiên cứu. Bản thân tôi, trong một thời gian ngắn – cớ 6 tháng – đã phải ghi chép số liệu quan trắc với một số lượng rất lớn, để mà khi thống kê lập thành biểu bảng thì đã có số lượng số liệu dày tới mấy ngàn trang giấy khổ A4. Vậy mà khi báo cáo kết quả, cũng chỉ khiêm tốn cho ra những kết luận vẻn vẹn trong vài câu chữ mà thôi. Quan trắc khí tượng vất vả lắm. Nhưng dự báo thời tiết mà theo các phương pháp đông phương thì đơn giản, mộc mạc và cũng chính xác. Có điều thay vào đó là những kinh nghiệm hàng bao đời. Nếu dùng lý học thì có thể ngắn gọn hơn, song việc mô tả điểm cận biến thì không thể đơn giản hơn, vì vẫn phải dự báo về điểm cận biến, do đó mà phải có số liệu về nó. Không thể tránh được. Do đó, tập các số liệu này, khi lập thành hệ thống, để có thể dùng chúng như là những minh chứng khoa học, thì dung lượng của chúng cũng rất đồ sộ. Nói như thế để thấy rằng, dù vừa qua anh đã cố gắng tìm điểm cận biến, nhưng thực thì cũng chưa chứng minh được điều gì. Bởi vì bản chất của điểm cận biện là tường minh, trong khi những thông báo của anh về điểm cận biến hoàn toàn mơ hồ. Không thỏa được các tiêu chí về thông số để có thể quan trắc được. Do vậy, chúng ta có thể thấy rõ rằng, như đã nói, nếu là dự báo thì dự báo không có giá trị, khi anh nói rằng anh sẽ có can thiệp đuổi mây mưa. Còn như thông báo, thì vì anh không có những thể hiện rõ ràng về điểm cận biến, có nghĩa là anh đã chưa thể chứng minh được anh có sử dụng công năng để hô phong hoán vũ. Vì thế, thông báo của anh cũng mất đi ý nghĩa và giá trị của nó. Vụ việc đã qua. Thực tế nó cũng chẳng có gì đáng phải ồn ào, giật gân. Nhưng theo tôi, nó có một giá trị vô giá, đó là việc chúng ta rút ra kinh nghiệm. Chúng ta có một phương pháp khoa học để chứng minh Công năng của anh, một khi có thực, để mọi người buộc phải thừa nhận. Tương lai, anh có vô vàn cơ hội để minh chứng điều này. Vì nắng mưa là chuyện thường ngày ở huyện. Điểm cận biến xảy ra liên tục, nhất là hiện nay, khí hậu toàn cầu biến đổi mạnh. Ghi nhận của tất cả các đài khí tượng cũng như thiên văn đều cho thấy những biểu hiện bất thường của thời tiết rất đáng lo ngại và thường xuyên. Trong hoàn cảnh ấy, đối với cuộc sống yên bình thì nó là nỗi lo của hàng tỷ người trên trái đất. Nhưng sẽ vô cùng thuận lợi đối với anh trong việc chứng minh rõ ràng năng lực của mình. Một khi anh làm được điều này, thì không quan trọng là anh có công năng thực hay không, nguyên công việc chứng minh tính thực tiễn đó, xét về mặt khoa học, công trình đó đã xứng đáng tầm vóc lớn lắm đó anh (bởi vì khi xử lý số liệu, đã phải dùng đến nhữung công cụ toán cao cấp lắm đó anh). Bỏ lại những chuyện đã qua đằng sau lưng đi anh. Hãy hướng tới tương lai và tiến lên phía trước. Một khi anh còn lòng tin ở chính mình và còn muốn chứng minh rằng việc hô phong hoán vũ là sự thật. Tôi nhớ mang máng rằng, cách đây mấy năm khi anh có đưa lá số của anh ra nhờ mọi người luận giải. Khi ấy, diễn đàn LHDP của anh chưa ra đời, anh cũng chưa bước vào đại vận hiện hành. Ngày đó anh còn đang vật lộn với những ý tưởng mới, những nghiên cứu mới. Tôi có đoán cho anh rằng sau vài ba năm anh sẽ có những thành tựu nhất định. Nhưng khi ấy, tôi có thấy mệnh có lộc, nên lo ngại rằng, ở mức độ vừa phải thì có tiếng tăm, có những thành công. Nhưng Cự Lộc vốn là cách gì thì anh biết rôi "như ném kiếm lên sao đẩu, sao ngưu vậy". Mà Cự môn của anh vốn là hãm địa, khi bất thành, đó là tai tiếng đó anh. Tôi không nhớ kỹ lắm, cũng không tìm lại được những lời đoán đó nó nằm ở đâu. Nhưng tôi vẫn nhớ là tôi có đoán, và lời đoán có nội dung khái lược như vậy. Anh có thể tìm lại xem như là một lời để tham khảo và với phương pháp cận biến như tôi đã trình bày với anh, anh có thể bổ túc cho các nghiên cứu của mình để cho năng lực của anh được thể hiện một cách tường minh và chắc chắn. Chứ không như ném kiếm lên sao ngưu sao đẩu !. Chúc anh thành tựu. Thân ái.
    1 like
  38. Hi Hi Hi, Bạn Gia Huy và Hoàng Yến này có vẻ "vui tính" nhỉ! Di lặc tôi xin có đôi lời đóng góp: Vấn đề lũ lụt mấy hôm nay tại khu vực Bắc Trung Bộ là 1 đề tài khác, nó không liên qua gì đến đề tài này, chắc chắn rằng mấy ngày hôm nay 2 bạn VTC này thường xuyên vào chủ đề này. Đây là 1 trong hàng trăm đề tài của diễn đàn, nếu 2 bạn muốn nói đễn những mất mát của nhân dân các khu vực bị lũ lụt thì nên lập 1 topic mới để chúng ta có thể cùng nhau " Lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rất nhiều" đóng góp để ủng hộ các đồng bào bị nạn, chứ cái kiểu chuyện nọ xọ chuyện kia để tạo tâm lý không tốt cho người đọc đến với chủ nhân đề tài là Chú Thiên Sứ. Riêng về cách bình luận và đánh giá theo lối hành văn của 2 bạn tôi thấy không ổn rồi,có người nói nếu những điều ta chưa biết thì nên tự tìm tòi để hiểu biết về nó chứ đừng đứng ngoài nói theo cái kiểu......." Nguyễn Vũ Tuấn Anh cùng nhiều đệ tử của ông vẫn hăng say... "tự hát tự khen....." chẳng ai tự hát và tự khen cả, Sự thật đã nói lên tất cả. nghĩa là " Cây Ngay Không Sợ Chết Đứng" "Trăm Năm Trước Thì Ta Chưa Gặp Trăm Năm Sau Biết Gặp Được Không Cuộc Đời Sâu Sắc Không Không Thôi Thì Hãy Sống Thật Lòng Với Nhau..."
    1 like
  39. Thông minh ư ? cần cù ư không biết bây giờ thu nhập bình quân của Việt Nam đứng thứ bao nhiêu của thế giới ?
    1 like
  40. như một lời đề nghị Lịch sử của phong thủy Trung Hoa, thường dẫn nhiều danh sư lỗi lạc như Quách Phác, Dương Quân Tùng, Lưu Bá Ôn, Tưởng Đại Hồng,Cao Biền, Triệu Cửu Phong …do cái tài của họ và do đã để lại nhiều trước tác kinh điển về Phong thủy cho hậu thế. Nước Việt ta xưa nay, danh sư cổ về lý học, địa lý chỉ xoay quanh mấy cụ như trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Qúi Đôn; Tả Ao – Nguyễn Văn Huyên. Cận đại có một số danh sư nhưng chưa phải thuộc dạng “kinh điển” Có phải nước Việt thiếu vắng nhân tài không ? Thật ra là không phải. Chính sử ghi rằng, trong các thời kỳ người phương bắc đô hộ nước ta, ngoài các sản vật qúi hiếm bắt cống nạp, họ còn bắt triều cống các thầy thuốc, thầy y bốc giỏi sang phục vụ, điển hình là Thần y Nguyễn Bá Tĩnh - Sư Tuệ Tĩnh (TK14) và Nguyễn An ( người được vinh danh là “kiến trúc sư” xây dựng Tử Cấm Thành) Tử Cấm Thành – Hoàng cung của triều đại họ, ở một nước có truyền thống về phong thủy như vậy, nhiều tác gia như vậy, chả nhẽ không có lấy một ai đứng ra là công trình sư cho một công trình quan trọng. Lý do gì ? Liêu có phải Nguyễn An giỏi hơn tất cả lúc bấy giờ ? Câu trả lời : Tất nhiên không phải không có lý. Theo Wikipedia : “ Hiện nay ( thời bây giờ) có rất nhiều trường phái tranh luận về nguồn gốc của phong thủy, có trường phái thì cho rằng phong thủy xuất phát từ Trung Hoa, trường phái thì cho rằng phong thủy là của nền văn minh người Việt cổ với đường biên giới từ phía nam sông Dương Tử (Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) người Hán đã Hán hóa các văn thư cổ và tự nhận là của họ... Nhưng cho đến nay thì chính những nhà phong thủy lỗi lạc của Trung Quốc như Thiệu Vĩ Hoa cũng không thể giải thích được thuật phong thủy xuất phát từ nơi đâu mặc dù họ vẫn cho là của người Hán.” Gần đây có nhiều nhà nghiên cứ cho rằng được du nhập từ thời Cao Biền sang Giao Châu (Việt Nam) làm tiết độ sứ từ năm 866 đến năm 875. Điều này thật thiếu sót. ========== Sử cũ ghi lại Miền Siêu Loại, Cổ Pháp xưa là các hương Thổ Lỗi, Diên Uẩn ở hai bờ sông Đuống, có trung tâm Phật Giáo Luy Lâu (Từ thế kỷ thứ 2 sau CN, Phật giáo đã được truyền từ Ấn Độ vào nước ta tại khu vực Luy Lâu ( Siêu Loại) nay là vùng Thiên Đức, Thuận Thành của tỉnh Bắc Ninh.), trung tâm đào tạo tăng tài Tiêu Sơn, đã phát triển hằng trăm năm với nhiều ngôi chùa cổ, với các vị sư tầm cỡ như Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An, Thiền Ông, Vạn Hạnh... Theo THIỀN UYỂN TẬP ANH Khắc in năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) - Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch và chú thích Thiền Sư Định Không (730 - 808)-(Đời thứ 8, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi) Chùa Thiện Chúng, hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Thiền sư người hương Cổ Pháp, họ Nguyễn, thuộc dòng vọng tộc. Ông là người am hiểu sâu sắc vận số thế cuộc, khi xảy ra việc gì người trong hương thường suy tôn phục tùng, ai nấy đều tôn gọi ông là Trưởng lão. Khi đã nhiều tuổi, nhân đi dự hội ở chùa Long Tuyền, nghe thiền sư Nam Dương giảng kinh, ông lĩnh ngộ tôn chỉ, từ đó quy tâm theo đạo Thích. Khoảng niên hiệu Đường Trinh Nguyên (785-805) sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở bản hương. Khi xây chùa, thợ làm móng được một bình hương và mười chiếc khánh đồng. Sư sai người đem ra sông rửa sạch, một chiếc rơi xuống sông trôi liệng mãi đến khi chạm đất (thổ) mới nằm im. Sư giải rằng: - “Thập khẩu” là chữ Cổ; “Thủy khứ” (xuống sông) là chữ Pháp. Còn “thổ” (đất) là chỉ vào hương ta. Nhân đó đổi tên là hương Cổ Pháp (trước tên là hương Diên Uốn). Sư có làm bài Tụng như sau: Địa trình pháp khí Nhất phẩm trinh đồng Tri Phật pháp chi long hưng Lập hương danh chi Cổ Pháp. Dịch: Đất dâng pháp khí Hạng nhất đồng ròng Gặp thời Phật pháp thịnh hưng. Đặt tên làng Cổ Pháp. Lại có một bài thơ khác: Pháp lại xuất hiện Thập khẩu đồng chung Lý thị hưng vương Tam phẩm thành công. Dịch: Pháp khí hiện ra Khánh đồng mười tấm Họ Lý làm vua Công đầu Tam phẩm Lại một bài khác: Thập khẩu thủy thổ khứ Cổ Pháp danh hương hiệu Kê cư loan nguyệt hậu Chính thị hưng tam bảo. Dịch: Mười cái xuống nước đất Cổ Pháp tên làng ta Gà ngồi lưng loan phượng Tam bảo đến lúc hưng. Trước khi quy tịch, sư nói với đệ tử Thông Thiện: - Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành. Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi, nhằm đời Đường niên hiệu Nguyên Hòa thứ ba (808) năm Bính Tý. Thông Thiện dựng tháp ở chùa Lục Tổ và ghi nhớ lời di chúc của sư lúc lâm chung. Trưởng Lão LA QUÍ ( ĐINH LA QÚI AN) (852 - 936)-(Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi) Chùa Long Lâm, hương Phù Ninh, phủ Thiên Đức. Chân nhân họ Đinh, từ nhỏ đã nhiều năm đi khắp nơi tham thiền học đạo nhưng pháp duyên chưa gặp nên sắp thoái chí. Sau nghe một lời thuyết pháp của thiền sư Thông Thiện ở chùa Thiện Chúng mà mở tâm lĩnh ngộ. Từ đó sư thờ Thông Thiện làm thầy. Trước khi viên tịch, Thông Thiện bảo sư: - Trước đây thầy ta là Định Không dặn ta giữ gìn đạo pháp của thầy, khi gặp người họ Đinh thì truyền lại. Ngươi hãy nhận lấy sự uỷ thác ấy. Nay đã đến lúc ta phải ra đi rồi. Sư đắc pháp, bèn đi diễn hóa các nơi, chọn đất dựng chùa. Những lời sư nói ra phần nhiều đều hợp với lời sấm ngữ. Sư từng đúc tượng Lục Tổ Huệ Năng bằng vàng đặt ở chùa Lục Tổ. Sau vì sợ cướp, sư đem chôn tượng ở chùa, dặn đệ tử: - Gặp minh chúa đào lên, gặp hôn quân thì cất giấu. Trước khi thị tịch, sư gọi đệ tử là Thiền Ông đến bảo rằng: - Trước đây Cao Biền đắp thành ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điềm Giang, đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả mười chín nơi. Ta đã khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở chùa Minh Châu để trấn chỗ đất bị cắt long mạch, đời sau tất có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng chính pháp của ta. Sau khi ta mất, ngươi nên cho đắp đất, dựng nhiều bảo tháp, dùng pháp thuật mà yểm tàng, không để cho người ngoài biết. Nói xong sư qua đời, thọ 85 tuổi. nhằm niên hiệu Thanh Thái thứ ba nhà Hậu Đường (936). Tương truyền lúc sinh thời Sư tùy phương diễn hóa, biết phong thủy, giỏi Thái ất., *** Nếu so sánh tuổi tác với Thiền Sư Định Không (730 – 808 ) thì Cao Biền (821–887) thuộc hàng cháu chắt. Trước vài chục năm Cao Biền sinh ra, sư Định Không đã tiên đoán được việc Cao Biền trấm yểm long mạch, nên đã có lời nhắn cho đệ tử truyền pháp cho trưởng lão họ Đinh để hóa giải phép của Biền. Vậy có phải thuật Địa Lý ở nước ta do Cao Biền truyền qua không ? Tất nhiên là không thể như vậy. Phàm ở đời việc gì cũng vậy, phá thì dễ mà làm lại như cũ mới khó. Vì vậy việc Cao Biền phá long, trấn trấn huyệt thì đơn giản và dưới cơ việc các thiền sư hoàn long, bồi huyệt có lẽ rất nhiều. Như vậy có thể nói : các bậc tổ Thiền nước ta rất cao thủ về địa lý âm dương trạch. Ngài Định Không thâm hiểu về thế số, như vậy thì thầy lý học của ngài là ai và ai trước đó nữa? . Câu trả lời có thể từ thời An Dương Vương xây thành Cổ Loa và thời kỳ trước trước nữa. Phải chăng thuật địa lý đã có và rất phát triển ở nước ta.? Cũng có thể do tư tưởng nhà Phật là buông xả các ràng buộc, tìm đến sự giải thoát thanh cao nên các vị tổ không chấp bút, để lưu truyền cho hậu thế các trước tác về địa lý. Hoặc do nhiều năm bị phương bắc đô hộ, họ đã cướp phá , hủy hoại tác phẩm của các ngài, nên ngày nay hậu thế chúng ta không có những cuốn sách cụ thể như : “ Thái Ất Thần kinh “ của Trạng Trình hay “Địa lý Tả Ao bí truyền” của Nguyễn Văn Huyên… để mà con cháu vinh danh các tiền bối. Vậy nên chăng hậu thế đời sau, khi dẫn đến các bậc tiền nhân tinh thông lý số, địa lý trong lịch sử nước nhà hãy nhớ đến Thiền Sư Định Không, Trưởng Lão Đinh La Qúi An; Thiền Ông ; Thiền Sư Vạn Hạnh và vua Lý Thái Tổ. So với các phong thủy gia Trung Hoa, số đông chỉ làm “thầy” có vài vị ra làm quan, làm quan lớn nhất có lẽ là Lưu Bá Ôn thời nhà Minh (Chu Nguyên Chương) lên tới chức thừa tướng. Trong khi, Lý Thái Tổ là một vị vua, trí tuệ anh minh, văn võ toàn tài, am tường địa lý thì chỉ cần với Thiên Đô Chiếu một trước tác ngoài giá trị về mặt văn chương, chính trị, kinh tế, lịch sử mà thực tế còn là một bản hùng ca của địa lý Địa lý Đại Việt. Há thường hậu thế chẳng vinh danh ? Lý Hóa Phong
    1 like
  41. Ôi Bác Học Trò là một trong những người mình rất ngưỡng mộ thế mà bạn nói vậy...
    1 like
  42. mình nghĩ đó là do thối quen của bạn vì đã làm nó trong một thời gian . giờ bạn muốn sữa phải thật nghiêm khắc với bản thân mình phải ghi thời khóa biểu ra và thực hiện đúng giờ giấc đồng thời bạn đến bác sĩ tham khỏa thêm ý kiến nữa . chúc bạn thành công ...................................
    1 like
  43. Văn hóa Thăng Long từ điểm nhìn Hà Nội 2010 Bài kết Phong thủy tầm nhìn chiến lược cho tương lai Hà Nội TS.KTS Phó Đức Tùng (TT&VH Cuối tuần) - Một ngàn năm trước, Lý Công Uẩn đã chọn Thăng Long, vùng đất phong thủy thuận lợi, với thế tựa núi nhìn sông, rồng chầu hổ phục làm nơi đế đô muôn đời. Từ đó tới nay, tính đắc địa của mảnh đất này đã nhiều lần được phân tích và ca tụng. Tuy nhiên, phong thủy là tiềm năng, phát huy được hay không lại do con người. Đức năng thắng số, một vùng đất không thuận lợi mà biết cách phát triển vẫn có thể vươn lên, trong khi nhiều nơi thuận lợi đủ đường mà chủ quan vẫn cứ là trì trệ, lạc hậu. Tri nan hành dị, lịch sử loài người đã có quá nhiều minh chứng cho những con người, những vùng đất, quốc gia vươn lên từ việc ý thức được khó khăn, trong khi những điều kiện mỹ mãn lại dẫn tới suy vong. Vì vậy, dù đúng hay sai thì bản thân việc ca tụng phong thủy Hà Nội đẹp đẽ, trân quý thế nào thực tế có hại nhiều hơn lợi. Điều quan trọng là làm gì để phát huy được tiềm năng của thiên nhiên, hòa quyện được văn hóa, truyền thống vào đó để trở thành thế mạnh cho tương lai. Đất - Nước; Sơn - Thủy Dù là hình thế gì thì trong phong thủy nói chung và truyền thống văn hóa Việt Nam nói riêng cũng luôn tồn tại cặp khái niệm Đất - Nước hay Sơn - Thủy. Ở vùng cao thường hay nói là sơn thủy, ở đồng bằng thì quan niệm đất nước. Tuy nhiên, phong thủy có nói tại bình địa cao một tấc cũng là sơn, vì vậy hai cặp khái niệm này có thể coi là một. Phong thủy tốt ắt phải có một sự cân bằng và hài hòa giữa hai yếu tố này. Cân bằng tất nhiên không có nghĩa là diện tích bề mặt phải bằng nhau, mà là sự tương quan lực lượng. Châu thổ sông Hồng nói chung và vùng đồng bằng Hà Nội nói riêng dù sao vẫn là một vùng đất thấp, với sự hiện diện thường trực của nước. Cư dân vùng này có văn hóa sống rất gần nước, nhưng lại không hẳn là hòa đồng như những người dân Nam bộ sống theo mùa nước nổi, mà luôn có nỗ lực trị thủy. Câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh thể hiện rõ thiên hướng phù Sơn lấn Thủy trong một ngàn năm qua. Tuy nhiên, khi nước bị lấn át quá đáng thì thế cân bằng sẽ bị phá vỡ. Dù một thế phong thủy ban đầu có đẹp mấy cũng cạn nguồn sinh lực. Vả lại, rồng vốn gốc từ nước, làm chủ hành Thủy. Bởi vậy, câu chuyện của ngàn năm tới có lẽ phải bắt đầu từ một truyền thuyết cứu hộ Thủy Tinh chăng? Sơn chầu thủy tụ Phong thủy Thăng Long có thế sơn chầu thủy tụ rất rõ ràng, điều này ai cũng đã biết. Như vậy, thế đất này vốn không phải chỉ loanh quanh một vùng hành chính thủ đô, mà có những mạch lạc cơn cớ từ rất xa. Vượng khí của thủ đô do đó cũng rất phụ thuộc vào việc gìn giữ được tiềm lực thiên nhiên từ đầu nguồn, đó chính là gìn giữ long mạch, giống như cây muốn ra trái ngọt không thể chặt phá cội rễ. Những năm gần đây, vùng cao phía bắc bị tàn phá nhiều, trên thì san núi chặt rừng, dưới thì ngăn sông đào mỏ, chắc hẳn không thể không có ảnh hưởng tới phong thủy của thủ đô. Trong các nguồn sơn thủy tụ về Thăng Long thì mạch chính là dãy Hoàng Liên Sơn và sông Hồng lại có khởi nguồn ít nhất từ Vân Nam, có nghĩa là vượt khỏi địa phận hành chính của nước ta. Muốn bảo vệ đầu nguồn ắt phải có những thỏa thuận liên quốc gia dưới dạng một tiểu vùng sinh thái, tương tự như tiểu vùng sông Mê Kông. Dù sao đi nữa thì một chủ đề quan trọng của Thăng Long ngàn năm sau ắt sẽ phải là bảo vệ đầu nguồn. Không làm được điều này thì thế đất có đẹp mấy cũng chỉ còn là một cái xác không hồn mà thôi. Thăng Long Nước ta trước đó lấy Hoa Lư làm kinh đô, chủ yếu vì lý do dễ thủ khó công. Từ đó mà ra chỗ đất rộng phẳng định đô, lấy sự hội tụ tinh hoa bốn phương làm ý tưởng chủ đạo là một bước trưởng thành vượt bậc, từ một tư duy phiên quốc núi rừng thành một tư duy thiết lập đại quốc, có thể nói ứng với con rồng từ dưới khe núi bay lên giữa trời vậy. Dù cho ý tưởng này có thể được gợi ý bởi địa thế phong thủy có dáng rồng bay nào đó, nhưng rõ ràng cái ý chí lập quốc này mới thực là Thăng Long. Trở lại vấn đề phong thủy, Thăng Long là địa thế hội tụ văn minh, nhưng chưa chắc là linh địa có thể phát sinh nhân kiệt. Lịch sử ngàn năm qua đã chứng tỏ điều đó tương đối rõ. Mặc dù điều kiện kinh tế, văn hóa ở kinh đô đứng đầu nước nhưng nhân tài xuất chúng đa số có xuất xứ từ những vùng khác chứ không phải trực tiếp từ kinh thành. Sự thịnh suy của Thăng Long rất phụ thuộc vào việc nhân tài có được thu hút về đây hay không. Kinh Dịch, sau quẻ Bĩ là khó khăn, khốn đốn tiếp đến quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân, đó chính là đạo lý về sự hội tụ tinh hoa, đại đồng thế giới, cũng là cái đạo của văn minh Thăng Long. Thế nào là Đồng Nhân, Đồng Nhân có phải là tập thể, là cào bằng không? Tất cả những chi tiết, lời Kinh Dịch chú giải rất rõ. Ở đây, chỉ xin nhấn mạnh một lần nữa: Đạo lý lập quốc của Lý Công Uẩn trong Chiếu dời đô, cũng sẽ là đạo lý sống còn của Thăng Long ngàn năm sau chính là hai chữ Đồng Nhân. Hậu Thăng Long Ý tưởng Thăng Long tuy là một tầm nhìn rất hào sảng, khí phách của Lý Công Uẩn, nhưng dù sao cũng là một quan niệm rất đặc trưng phong kiến. Trong hình ảnh đó, thủ đô là đầu rồng của cả nước, nhà vua lại là đầu của thủ đô. Vai trò của thủ lĩnh là hết sức chủ chốt, bởi vậy hào quẻ Càn ứng với hình ảnh này là Phi long tại thiên có thêm Lợi kiến đại nhân. Về mặt không gian đô thị, đầu rồng này ứng với hoàng thành, địa điểm, hướng của các cổng thành, đại điện, ngai vàng... Ngày nay, với cùng một quan điểm tương tự, người ta bỏ rất nhiều tâm huyết vào việc xác định vị trí phong thủy cho một trung tâm hành chính quốc gia, nhà quốc hội, phủ thủ tướng, trục thần đạo... trong quy hoạch thủ đô. Tuy nhiên, thời thế đã thay đổi nhiều. Từ thể chế quân chủ, toàn thế giới đã chuyển sang thể chế dân chủ. Nếu vẫn cố chấp bám lấy hình tượng Thăng Long thì khó tránh khỏi rơi vào thế Kháng Long hữu hối. Đạo lý của thời dân chủ ứng với hình tượng “Kiến quần long vô thủ” trong hào Dụng cửu quẻ Càn. Tương ứng với đạo lý đó, đô thị hậu Thăng Long sẽ là một tổng thể rất phức tạp, đa chiều, đa tâm, đa năng, đa phương tiện, đan xen với nhau tầng tầng lớp lớp như một bầy rồng uốn lượn trong mây chứ không phải là một cấu trúc hắc bạch phân minh, lấy trung tâm hành chính làm lõi thay cho hoàng cung ngày xưa. Từ (TT&VH Cuối tuần)
    1 like
  44. Văn hóa Thăng Long từ điểm nhìn Hà Nội 2010 (Bài 2): Mỹ thuật Lý & cuộc hội nhập khu vực và quốc tế "lần thứ nhất" Thứ Ba, 05/10/2010 07:22 (TT&VH Cuối tuần) -1. Quá trình Phật giáo hóa Đông Á và Đông Nam Á diễn ra muộn nhất ở Đại Việt với vai trò quốc giáo của Phật giáo trong thời nhà Lý và nhà Trần. Mỹ thuật Lý là giai đoạn mỹ thuật vương quyền và mỹ thuật Phật giáo cực thịnh, hoàn chỉnh nhất. Tính chất vương quyền thể hiện ở kết cấu, quy hoạch và quy mô kiến trúc hoàng thành Thăng Long cũng như các không gian cung đình khác ở Bắc Ninh và các địa phương. Một hệ thống dày đặc các chùa Phật được xây dựng với quy mô lớn nhất, lớn hơn mọi thời kỳ sau. Kết cấu kiến trúc và phong cách mỹ thuật hoàn toàn thống nhất đến mức hiếm có. (Năm 973 Đinh Liễn khắc 100 cột kinh Phật ở Ninh Bình, năm 1007 Minh Đề và Hoàng Thành Nhã sang Tống xin sách Nho và kinh đại tạng, năm 1040 triều đình làm tượng Phật, tranh Phật, đại phan mỗi thứ 1000 bản, năm 1075 dựng chùa Phật Tích, năm 1087 dựng chùa Dạm, ngoài ra còn có tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền - chùa Một Cột..., tất cả đều quy mô nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam). Mô hình hòa nhập vương quyền và thần quyền (các vua đều đi tu, thậm chí Lý Thánh Tông còn khai minh phái Thảo Đường, phát triển Phật học, tăng lữ tham gia triều chính, làm quốc sư, chăm lo giáo dục đào tạo. Theo Lê Văn Hưu thì thời Lý “nhân dân quá nửa là sư, sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa”. Mô hình này sẽ dẫn tới đồng nhất thần - vua như “Phật Hoàng” Trần Nhân Tông ở ta hay gương mặt Jayavarman VII và mặt Phật Bayon ở Cambodia sau này. Các ngôi chùa thời Lý chắc chắn từng là những trung tâm đào tạo và trung tâm văn hóa quan trọng nhất của đời sống Đại Việt. 2. Trong quá trình củng cố vương quyền và khuếch trương đạo Phật, mỹ thuật tất nhiên đã đóng vai trò quan trọng nhất, hơn mọi ngành văn nghệ khác. Cũng tất nhiên là nền mỹ thuật có vẻ là non trẻ nhất trong thế giới Đông Á và Đông Nam Á sẽ giao hòa mọi ảnh hưởng từ các nền mỹ thuật lân cận, đậm nét nhất là với mỹ thuật Trung Hoa và mỹ thuật Chăm. Tuy nhiên trực tiếp hơn, gần gũi hơn, sâu nặng hơn là với mỹ thuật Chăm bởi có sự tham gia cụ thể trực tiếp của các thầy và thợ Chăm từ phía Nam ra định cư ở đất Bắc. Mỹ thuật ở Hoàng thành Thăng Long, chùa Dạm, chùa Phật Tích và các di tích Lý khác nói lên điều đó. Cột biểu chùa Dạm với kết hợp kỳ lạ có một không hai Linga-Yoni-Rồng là biểu trưng sáng rõ của sự giao hòa máu thịt này. Sự giao hòa văn hóa Bắc - Nam không chỉ trong mỹ thuật mà còn rộng rãi ở mọi lĩnh vực: ca, múa, nhạc, diễn xướng… (Năm 1060 triều đình dịch nhạc khúc và đánh điệu trống Chiêm Thành, sai nhạc công ca hát. Sự giao hòa có lúc “quá đà” đến mức năm 1374 triều đình Trần phải cấm quân dân mặc áo kiểu người phương Bắc - dân Tống sang lánh nạn mang theo hàng hóa phong tục của họ - cấm bắt chước tiếng nói của các nước Chiêm, Lào!…). Giao lưu hàng hóa, thương mại với các nước Indonesia, Malaysia, Xiêm La…cũng làm cho cuộc giao hòa thêm sặc sỡ. Thiết tưởng mỹ thuật Lý nói riêng và văn hóa Đại Việt thời Lý nói chung từng là kết quả của một cuộc hội nhập khu vực và quốc tế “lần thứ nhất” khá sâu rộng. Mỹ thuật Lý đặc sắc chính bởi những kết quả hội nhập đó. 3. Nhà Lý mở đầu và kết thúc bằng hai lần nhường ngôi “êm ả”. Hai thế kỷ Lý cũng là thời kỳ thanh bình, khoan hòa, an lạc nhất trong lịch sử Việt Nam. Mỹ thuật Lý thấm đậm lý tưởng Phật giáo nhu hòa, bao dung, hỷ xả. Tính tinh tế, kỳ bí, mềm mại, uyển chuyển và dày đặc của nghệ thuật trang trí kiến trúc cũng như các thành phần điêu khắc giàu chất trang trí trên hai chất liệu chính là đá và gạch nung là sự đối lập hữu cơ với tính hoành tráng, đồ sộ uy nghi của các công trình. Đường cong họa tiết, các đồ án hình tròn, bán viên và hoa dây lên ngôi, làm mẫu mực cho các thời kỳ sau. Nghệ thuật gốm đạt đỉnh cao chưa từng có với gốm men ngọc, men lam và men nâu của các “lò quan” cung đình cũng như “lò chợ” dân gian. Điêu khắc - tháp Chăm, gốm Lý Trần Mạc và tượng gỗ - đình chùa Bắc bộ thế kỷ 16-18 chắc chắn là những ba đóng góp đáng kể nhất của văn hóa Việt Nam vào văn hóa nhân loại. 4. Nói đến mỹ thuật Việt Nam nói chung và mỹ thuật Lý nói riêng chúng ta thường nêu ra chủ đề tranh luận về ảnh hưởng của mỹ thuật Trung Hoa và mỹ thuật Chăm tới mỹ thuật Việt như là ảnh hưởng hay tiếp biến văn hóa từ Bắc xuống và từ Nam lên. Điều đó cũng có nghĩa là ta đã đánh đồng mỹ thuật của người Việt - Kinh với mỹ thuật Việt Nam. Đó là một khía cạnh bất công và sai lầm bởi mỹ thuật Việt Nam bao gồm các thành phần khác quan trọng và rực rỡ như mỹ thuật Chăm, mỹ thuật Hoa, mỹ thuật K’me, mỹ thuật của các dân tộc Tây Nguyên - Miền Trung và mỹ thuật của các dân tộc thiểu số miền Bắc. Trong khi mỹ thuật của người Kinh trong thiên niên kỷ thứ nhất còn là một dải băng trắng thì mỹ thuật Việt Nam chúng ta có mỹ thuật Chăm làm xương sống, phát triển rực rỡ đến tầm nhân loại ở một vương quốc độc lập duy nhất trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Một trong những giá trị nổi bật, tiêu biểu của mỹ thuật thời Lý chính là Hoàng thành Thăng Long, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Trong thiên niên kỷ thứ hai mà mở đầu là nhà Lý, mỹ thuật của người Chăm giao hòa với mỹ thuật của người Kinh để phát triển mỹ thuật Việt Nam tới thế kỷ 19. Cộng đồng người Chăm ở miền Trung và cả ở miền Bắc đã giao hòa với người Việt góp phần phát triển tộc người Việt cận hiện đại. Mặt khác cộng đồng người Chăm còn tồn tại độc lập như một tộc thiểu số vẫn có mỹ thuật riêng của mình. Quá trình giao hòa văn hóa và dòng tộc này gắn với quá trình mở đất về phương Nam. Có thể nói không quá rằng đoạn kết của giai đoạn “Tam Quốc” Chúa Trịnh - Chúa Nguyễn - và các Vua Chăm là sự hình thành quốc gia và dân tộc Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Tôi từng cảm thấy có lỗi và xấu hổ khi nhiều sinh viên hỏi tôi vì sao họ không được học lịch sử các vương quốc Chăm và lịch sử mỹ thuật Chăm (trong cả phần lịch sử mỹ thuật Việt Nam cũng như lịch sử mỹ thuật thế giới). Họ “lý luận” rằng nếu Tần Thủy Hoàng hay Hán Cao Tổ thống nhất Trung Quốc và chữ Hán được dùng cho tất cả các tộc người trên đất Trung Hoa thì mỹ thuật Trung Hoa cũng vẫn là thống nhất bao gồm cả mỹ thuật Tây Vực, Tần, Hán, Sở, Việt, Ngô…và cả Nguyên-Mông, Kim-Thanh…sau này nữa. Tôi ước mong các nhà giáo dục lịch sử Việt Nam và các nhà lịch sử mỹ thuật trong tương lai gần sẽ trả lời và đáp ứng được nhu cầu của họ. Họa sĩ, nhà phê bình Nguyễn Quân (Theo VH& TT ) đón đọc Bài kết: Phong thủy & tầm nhìn chiến lược cho tương lai Hà Nội http://thethaovanhoa.vn/133N20101004151235895T0/van-hoa-thang-long-tu-diem-nhin-ha-noi-2010-bai-2-my-thuat-ly-cuoc-hoi-nhap-khu-vuc-va-quoc-te-lan-thu-nhat.htm
    1 like
  45. Bài tham khảo : Văn hóa Thăng Long từ điểm nhìn Hà Nội 2010 (Bài 1): “Ngọn đèn không tắt” Thứ Hai, 04/10/2010 07:35 Văn hóa Thăng Long từ điểm nhìn Hà Nội 2010 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội được tính từ tháng Bảy Âm lịch năm Thuận Thiên thứ nhất, tức năm 1010. Khi ấy, Lý Thái Tổ, sau 9 năm lên ngôi, thấy Hoa Lư chật hẹp, thưa dân, hiểm trở, không có thế mở mang ra làm chỗ đô hội được, quyết định dời đô về thành Đại La (hay La Thành). Theo truyền thuyết, khi ra đến La Thành, ông trông thấy rồng vàng bay lên trời nên đổi tên Đại La thành sang Thăng Long thành. Cái tên Thăng Long có từ lúc ấy, mở đầu cho một thời kỳ thịnh vượng mới của dân tộc Đại Việt. Nhưng không phải chỉ có Chiếu dời đô với tầm nhìn thiên niên kỷ, Lý Thái Tổ và nhà Lý, vương triều lần đầu tiên giữ vững được chính quyền lâu dài đến hơn hai trăm năm (khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm), bảo toàn và mở rộng lãnh thổ của Đền Đô thờ các vị vua triều Lý mình, ngoài còn có nhiều đóng góp to lớn, đặt nền móng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam, một đặc sắc văn hóa ở Nam Á và Đông Nam Á. 1.000 năm đã đi qua, tinh thần, văn hóa ấy như ngọn đèn không tắt. Chuyên đề tuần này lấy “điểm nhìn” từ Hà Nội năm 2010 và từ những góc nhìn riêng của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, của họa sĩ - nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân và của tiến sĩ - kiến trúc sư trẻ Phó Đức Tùng, với hy vọng không chỉ hiểu được những giá trị lớn lao được gieo mầm từ văn hóa Thăng Long mà còn nhìn thấy cả những thách thức cho văn hóa Hà Nội sau ngàn năm và ngàn năm sau nữa... Tổ chức chuyên đề PHẠM THỊ THU THỦY (TT&VH Cuối tuần) - Trong cuốn băng tôi xem mấy năm trước, ghi hình buổi nói chuyện của một thiền sư người Việt nổi tiếng thế giới. Thiền sư kể ông đã giảng pháp rất nhiều lần cho người ngoại quốc, nhưng nhớ mãi buổi ở Đức, giảng cho người Việt Nam, đa phần là dân lao động bình thường, sang đây buôn bán hoặc làm thuê… Kết thúc buổi giảng, một đệ tử phương Tây đi theo đoàn, thắc mắc rằng thầy giảng vẫn như mọi khi, vậy mà thấy bầu không khí ở đây khác, nhưng nghĩ mãi vẫn không biết cái khác đó là gì. Thiền sư trả lời: Có lẽ đối với tôi, nói chuyện với người Việt cảm thấy như mình trở về nhà. Còn về phía người nghe, có lẽ vì người dân Việt Nam là một dân tộc theo Phật giáo. Ngày nay, có nhiều người không phải là Phật tử, nhưng cha mẹ, ông bà họ vốn là Phật tử. Những chủng tử Phật giáo của cha ông vẫn truyền tới cho họ. Vì thế, khi nghe tôi nói, họ thấy không xa lạ. Vấn đề này ta phải truy nguyên từ thời dân Việt dựng nước. 1. Phật giáo vào Việt Nam đã 2.000 năm (phía Nam từ Ấn Độ, phía Bắc từ Trung Hoa) chủ yếu do hai dòng thiền Tì ni đa lưu chi và Vô ngôn thông mà tổ đình là chùa Dâu (Thuận Thành) và chùa Kiến Sơ (Phù Đổng). Hai dòng thiền này, khác hẳn các dòng thiền Trung Hoa, quan niệm thuyết địa linh cho mảnh đất Đại Việt là đất linh thiêng tất sẽ sinh minh chúa. Rồi “Phật ở mọi nơi”, “Tây Thiên cõi này, cõi này Tây Thiên” tức là các thiền phái đều quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam này thành một cõi Tây Thiên, đất Phật. Trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi, phong trào đấu tranh giành độc lập rất sôi nổi. Các triều đại ngắn ngủi ra đời. Những anh hùng dân tộc xuất hiện. Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành. Những trí thức cũng tham gia, nhất là các trí thức Phật giáo. Như sư Khuông Việt phò vua Đinh Tiên Hoàng, sư Pháp Thuận phò vua Lê Đại Hành, sư Vạn Hạnh phò Lý Công Uẩn. Không thấy những trí thức Nho giáo. Có lẽ từ thời Sĩ Nhiếp, người Tàu dạy Nho học cho người Việt nhưng chỉ ở mức sơ đẳng, chỉ đủ sức làm thư lại, tức là làm tay sai cho ngoại bang. Còn những trí thức lớn thì phải là các nhà sư! Triết lý đạo Phật sâu sắc, phải có một học lực thâm sâu, thậm chí phải giỏi cả Khổng, Lão mới hiểu được Phật. Mà những thiền phái Việt Nam lại rất yêu nước. Người Phật tử hiểu rằng chỉ khi đất nước được độc lập thì Phật giáo mới phát triển được. Từ đó tôi hiểu tại sao thời Lý Trần, Phật giáo lại là quốc giáo và tại sao nói dân tộc Việt là dân tộc Phật giáo. Thiền sư Vạn Hạnh là một con người uyên thâm, hết lòng vì đạo, hết lòng vì đời, ở ngay giữa đời mà tu đạo, không câu nệ, không chấp trước điều gì, miễn là làm cho đất nước được hòa bình, cường thịnh. Ông phò ba triều đại Đinh, Lê, Lý. Ông tham dự vào việc Lê Hoàn phá Tống. Ông dạy dỗ, đào tạo Lý Công Uẩn. Ông đưa Lý Công Uẩn vào làm quan cho Lê Đại Hành. Ông tham dự vào việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Ông quân sư cho Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long. Có thể nói như vậy vì sư Vạn Hạnh là người giỏi sấm ký, phong thủy. Không có Vạn Hạnh thì không có việc Lý Công Uẩn lên ngôi, như vậy cũng không có triều Lý, không có Thăng Long. Đọc bài kệ lúc sắp thị tịch của người, lòng rung lên niềm cảm phục: Thân như bóng chớp có rồi không/Cây cối xuân tươi, thu não nùng/Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi/Thịnh suy, ngọn cỏ giọt sương đông. Hai câu đầu nói về thân phận cá nhân, hai câu sau nói về xã hội. Đó là triết lý của con người hành động, hết lòng với đời, nắm vững quy luật sống chết thịnh suy, điềm nhiên, hết lòng vì cuộc sống. Tôi thích bài thơ của sư Vạn Hạnh, nên một nhân vật thiền sư trong cuốn sách mới của tôi có tên là Vô Úy. 2. Đầu năm nay, ngày mùng Một chúng tôi đi lễ chùa. Đoàn có các vãi già, ông bạn thời nhỏ từng tham gia bảo vệ Thủ đô năm 46, ông giám đốc về hưu, ông đại tá về hưu. Thời trẻ, có thể chưa biết đạo Phật là gì, chúng tôi đã không có lòng tin. Nhưng bây giờ, các bạn tôi, vẻ mặt đều hớn hở và kính cẩn. Vả lại, đi lễ chùa vào ngày mồng Một Tết, nếu không phải là người kính Phật thì không thể đi. Chúng tôi đến chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh, nơi trụ trì của sư Vạn Hạnh và là nơi học tập của Lý Công Uẩn… Khác hẳn Tiêu Sơn hoang vu ngày xưa, mà có đôi lần tôi đã tới. Không áo nâu áo, không áo mớ ba mớ bảy, không đường đất đỏ, không cả cảm nghĩ và không khí lãng mạn của Tiêu Sơn tráng sĩ mà Khái Hưng tưởng tượng. Bây giờ đường vào chùa rộng rãi, có vỉa hè và cây trồng như đường phố. Chùa Tiêu Sơn đang hiện đại hóa. Cứ tưởng chúng tôi là người xông đất nhà chùa. Nào ngờ, trước đó đã có một xe ô tô đưa các cô giáo và các em học sinh đến dâng hương. Các cô giáo ăn mặc đẹp, hiện đại nghiêm trang kính cẩn trước ban thờ Phật. Các cháu học sinh chắp tay trước ngực trong khói hương mờ ảo. Tôi chợt nhớ lời vị thiền sư giảng pháp ở Đức kể trên kia: Mỗi người Việt Nam đều có những yếu tố Phật giáo trong người… Có hai nhân vật của triều Lý khiến tôi có nhiều suy nghĩ: vua Lý Thánh Tông và bà Ỷ Lan. Trong đám tù binh của nhà Lý có một thiền sư tên là Thảo Đường. Ông là người Trung Hoa sang Chiêm Thành truyền giáo mà bị bắt. Qua trò chuyện, Lý Thánh Tông khâm phục sự học và đạo đức của Thảo Đường bèn phong làm quốc sư và xin làm đệ tử! Phái Thảo Đường thành lập, tổ đình là chùa Khai quốc. Bia tiến sĩ Văn Miếu năm 1884 Lý Thánh Tông cũng chính là người mở cửa để Nho học chính thức xuất hiện ở Việt Nam. Trước kia, Phật giáo có công rất lớn trong nền giáo dục đào tạo nhân tài cho đất nước. Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàng, Lý Công Uẩn, Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt, thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh và nhiều quốc sư khác đều nhờ nhà chùa mà thành danh nhân đất nước. Ngoài ra nhà chùa còn đào tạo nhiều anh tài khác để làm việc ở các cấp chính quyền. Thời ấy nhà chùa ngoài chức năng tín ngưỡng còn là một trường học. Ở đấy người ta học chữ, học Phật pháp. Nhà chùa vốn bao dung cởi mở nên các vị thiền sư còn dạy cả Nho học và Lão trang. Tuy nhiên dần dần người ta thấy riêng Phật giáo rất khó điều khiển đất nước bởi Phật giáo quan tâm tới chính trị nhưng không nghiên cứu chính trị, lo đến giải thoát con người hơn là đến cai trị. Còn Nho giáo thì khác. Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ là mối quan tâm chủ yếu của Nho giáo, lại có cả một hệ thống để cai trị và mở mang bờ cõi. Thiền sư Thảo Đường chủ trương dung hợp giữa Phật giáo và Nho giáo. Trong khi ấy, nhà Lý đang thời kỳ cực thịnh và muốn phát triển xuống phương Nam... Nhà Lý muốn có một chính quyền tập trung mạnh mẽ. Từ yêu cầu lịch sử ấy, Lý Thánh Tông là người đầu tiên cho xây Văn Miếu. Và bà Ỷ Lan nhiếp chính đã thay con cho mở hội thi Nho học đầu tiên để kén chọn người tài. Ỷ Lan là một phụ nữ kiệt xuất, từ một nông dân bình thường trở thành một phụ nữ uyên thâm Phật giáo, rồi lại hai lần thay vua điều hành chính trị. Có thể do tự tay điều hành đất nước nên bà mới rõ tầm quan trọng của Nho giáo. Bà xây dựng 100 ngôi chùa nhưng lại là người cho mở khoa thi Nho giáo. Tôi nghĩ, trong văn hóa Việt, Phật giáo là phần âm, còn Nho giáo là phần dương. Phật giáo là cái phần mềm dẻo, tinh tế, chịu đựng, hiền hòa trong con người Việt. Nó là phần năng lượng tiềm ẩn. Mềm dẻo chịu đựng đấy, nhưng khi bùng nổ lên thì cũng ghê gớm. Còn Nho giáo là phần năng động, thực tế, kiên quyết. Nó là sức mạnh xẻ núi ngăn sông. Hai phần đó thiếu phần nào cũng không được. Một con người, một đất nước đều cần cả hai. Phải cảm ơn triều Lý đã tạo ra cho dân tộc ta tố chất ấy để phát triển đến ngày hôm nay. Một đặc điểm nổi bật nữa của Phật giáo Việt Nam là tính chất nhập thế. Tính chất ấy bộc lộ rõ từ triều Lý. Trần Nhân Tông đệ nhất tổ phái Trúc Lâm viết Cư trần lạc đạo thả tùy duyên. Phải tùy duyên, ở ngay chính cõi trần này mà vui với đạo. Tư tưởng ấy đã có sẵn từ Phật giáo thời Lý! Sư Khuông Việt là học trò sư Vân Phong. Vân Phong là học trò sư Thiện Hội. Sư Hội dạy sư Phong: Phải ở trong sống chết, biết nắm lấy cái không sống chết thì mới được (nghĩa là Phật tử phải ung ung tham dự vào mọi sinh hoạt của cuộc đời, coi hoàn thành việc đời là chứng minh cho sự hoàn thành việc đạo). Lý Thái Tông, người xây dựng chùa Một Cột vừa làm vua vừa làm cư sĩ thiền sư. Theo gương Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông cũng đều vừa làm vua vừa làm thiền sư. Sau này, nhà Lê, nhà Nguyễn lên ngôi. Nho giáo trở thành độc tôn ở triều đình. Phật giáo không tham dự triều chính nữa, nó rút lui về làng xã. Nhưng Phật giáo mãi mãi là một thành tố trong tâm hồn người Việt, trong văn hóa Việt. Trong văn hóa Việt, Phật giáo là phần âm, còn Nho giáo là phần dương. Phật giáo là cái phần mềm dẻo, tinh tế, chịu đựng, hiền hòa trong con người Việt. Nó là phần năng lượng tiềm ẩn. Mềm dẻo chịu đựng đấy, nhưng khi bùng nổ lên thì cũng ghê gớm. Còn Nho giáo là phần năng động, thực tế, kiên quyết. Nó là sức mạnh xẻ núi ngăn sông. Hai phần đó thiếu phần nào cũng không được. Một con người, một đất nước đều cần cả hai. Phải cám ơn triều Lý đã tạo ra cho dân tộc ta tố chất ấy để phát triển đến ngày hôm nay. Làng nào cũng có đình và có chùa. Đình tượng trưng cho Nho giáo, là nơi sinh hoạt của đàn ông. Chùa là Phật giáo, là nơi sinh hoạt của phụ nữ, cũng là nơi sinh hoạt văn hóa của thanh niên, trẻ nhỏ trong những ngày hội. Người phụ nữ khi có chồng con thường vào hội bà vãi. Người mẹ nào cũng đi lễ chùa và cũng có nhiệm vụ dạy dỗ con cái. Hầu như đứa trẻ Việt Nam nào cũng có lần theo mẹ đi lễ chùa. Đi lễ chùa, tuy không được hiểu những giáo lý Phật giáo một cách sâu sắc, nhưng ít nhất người ta cũng biết được những đạo lý, biết rằng làm việc thiện là tốt, biết rằng phải giúp đỡ những người đau khổ thiệt thòi và phải tránh xa điều hung bạo, điều ác Có lẽ những ngôi chùa làng là những ngọn đèn tiếp nối ánh sáng từ bi Phật giáo. Nó rực sáng vào thời Lý và kéo dài cho tới ngày nay. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh (Theo VH& TT )
    1 like
  46. Bài tham khảo : Tiến sĩ Nguyễn Việt làm “sống dậy” người Việt cổ Vũ Xuân Bân (TT&VH) - TS Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đã không còn xa lạ với công chúng khi những công trình “ứng dụng” các kết quả nghiên khảo cổ học của anh liên tiếp ra mắt với đầy sức lôi cuốn. Trong những ngày Đại lễ, anh đã cho ra mắt cuốn sách Hà Nội, thời tiền Thăng Long với những tìm tòi về cộng đồng cư dân Việt cổ trên vùng đất rồng cuộn hổ ngồi này. TS Nguyễn Việt chính là người đã phục dựng 5 khuôn mặt đầu tiên từ những hộp sọ thời Đông Sơn gây xôn xao dư luận cách đây chưa lâu. Mặc dù còn nhiều tranh cãi, nhưng công trình này ít nhiều đã khiến cho người ta rưng rưng xúc động như nhìn thấy gương mặt tổ tiên của mình bị ẩn khuất bởi lớp thời gian hơn 2.000 năm. Ông cũng là người đã phục dựng nỏ thần An Dương Vương, một huyền thoại sống động diệu kỳ trong tâm thức người Việt. Nét tài hoa của người Hà Nội Ấn tượng sâu sắc đối với người bạn học gốc “Hà Nội thứ thiệt” tại nơi sơ tán Trại Chuối, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên cách nay hơn 42 năm, khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang ở giai đoạn quyết liệt nhất, là bức họa Thảo mã thượng phi ngay trong buổi học đầu tiên mô tả vó ngựa trên thảo nguyên mênh mông... làm cho cánh sinh viên “nhà quê” chúng tôi thán phục. Chàng sinh viên có nét tài hoa đó chính là Nguyễn Việt. Nguyễn Việt sinh ra và lớn lên ở khu vực “36 phố phường” Hà Nội... Vào đại học, anh là sinh viên hệ Khảo cổ của Khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội cũ dưới sự chăm sóc giảng dạy của thế hệ giáo sư Lâm - Lê - Tấn - Vượng (Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng)... Kết thúc đại học, anh thuộc thế hệ những sinh viên tòng quân chống Mỹ trong những tháng năm rực lửa 1972 làm lính hải quân. Chiến tranh chấm dứt, cuối năm 1975, anh về công tác tại Viện Khảo cổ học. Ở cái tuổi tam thập nhi lập, anh đứng tên chủ biên, cùng hai bạn đồng môn là Vũ Minh Giang và Nguyễn Mạnh Hùng hoàn thành bản thảo cuốn sách đầu tay: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm dày trên dưới 500 trang, được NXB Quân đội Nhân dân phát hành năm 1983 với trên 11 ngàn bản. Năm 1984, anh được cơ quan cử đi nghiên cứu sinh tại CHDC Đức và nhận bằng tiến sĩ Khảo cổ tại Berlin với điểm ưu vào đầu năm 1989, đồng thời là đồng tác giả tham gia viết công trình Những nghiên cứu mới về tiền sử, sơ sử Việt Nam (dưới ánh sáng của Niên đại Carbon phóng xạ C14) xuất bản bằng tiếng Anh tại Berlin năm 1988. Sau khi về nước công tác một vài năm, anh trở lại nước Đức làm cộng tác viên cho các đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến tiền sử Việt Nam. Năm 1999, anh cùng một số nhà khoa học Việt Nam sáng lập Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á và trực tiếp làm giám đốc cho tới ngày hôm nay. Đến kỳ công phục dựng gương mặt tổ tiên Ngay từ thời còn sinh viên ở nơi sơ tán, không chỉ giỏi vẽ, Nguyễn Việt đã đam mê nặn tượng. Học đến chuyên đề khảo cổ học, khi GS Hà Văn Tấn giới thiệu về phục chế mặt người qua sọ theo trường phái Gerasimov (tên một nhà khoa học ở Liên Xô cũ), cánh sinh viên chúng tôi đã khuyên, động viên, hy vọng Nguyễn Việt là người “khéo tay” sau này sẽ thành công về lĩnh vực phục chế này. Hy vọng đó đến nay đã thành hiện thực. Sau nhiều năm nghiên cứu không chỉ phương pháp của Gerasimov mà cả của Anh, Mỹ, Đức, TS Nguyễn Việt và nhóm các nhà khoa học thuộc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đã phục chế thành công khuôn mặt người Việt buổi đầu Công nguyên. Những chiếc sọ được TS Nguyễn Việt chọn để phục chế khuôn mặt được tìm thấy trong khu mộ táng Động Xá (Kim Động - Hưng Yên) có niên đại từ 2.000 đến 2.500 năm. Đó là giai đoạn lịch sử quan trọng của thời kỳ dựng nước đang rất cần làm rõ. Công trình phục dựng mặt người Động Xá hơn 2.000 năm trước ngay lập tức đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học và công luận. Đề tài khoa học đã được Hội đồng Khoa học của Hội Nghiên cứu Đông Nam Á Việt Nam nghiệm thu và được trình bày tại Viện Goethe (Viện Phát triển văn hóa và ngôn ngữ Đức) tại Hà Nội năm 2005. 5 khuôn mặt đầu tiên của thời Đông Sơn từ hơn 2.000 năm trước đã được TS Nguyễn Việt giới thiệu. Họ được phục dựng từ năm chiếc sọ còn khá nguyên vẹn khai quật ở khu mộ táng Động Xá. Chân dung đầu tiên làm từ sọ một cô gái ở độ tuổi 17-18. Số còn lại gồm hai thanh niên (một nam, một nữ) và hai nữ trung niên khác nữa. Tuy cùng thời và cùng một làng nhưng họ đại diện cho ba kiểu dáng sọ khác nhau ít nhiều về đặc điểm nhân học. Họ đại diện cho những nhóm loại hình người khác nhau cùng tồn tại trong một thời kỳ văn hóa Đông Sơn muộn ở địa bàn đương thời thuộc huyện Chu Diên (nay thuộc Hưng Yên) và rất có thể họ đã cùng gia nhân hào trưởng nhà Thi Sách chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra chỉ mấy chục năm sau đó. Sẽ mở trung tâm phục chế mặt người cổ Việc Trung tâm tiền sử Đông Nam Á tiếp tục phục dựng cơ bắp thân thể người gắn với việc phục chế trang phục từ những miếng vải khai quật được và hình ảnh con người còn lưu giữ trên các đồ đồng cùng thời hé mở lần đầu tiên những hình ảnh chân thực, có giá trị khoa học về tổ tiên chúng ta thời dựng nước. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà khoa học trong việc tìm ra đặc trưng chủng tộc của từng khu vực qua chân dung người cổ đã được tái tạo. Từ thành công này, TS Nguyễn Việt kỳ vọng trong tương lai gần sẽ mở ra một trung tâm đầu tiên phục chế mặt người dựa trên hộp sọ khảo cổ phát hiện trong khu vực Nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Đến thăm Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á những ngày cận kề Đại Lễ 1.000 năm Thăng Long, chúng tôi chứng kiến những nỗ lực của TS Nguyễn Việt và các nhân viên đang gấp rút hoàn thành chân dung phục dựng từ một bộ xương đời Lý và hai loại vũ khí công thành cỡ lớn mà Lý Thường Kiệt đã sử dụng trong trận đánh chiếm thành Ung Châu trên đất Tống xưa kia. Tiếp tục tìm về với người Việt “thời tiền Thăng Long” Một thông tin đáng mừng là đúng dịp Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, trong tủ sách “Hà Nội ngàn năm văn hiến” do NXB Hà Nội ấn hành, có một cuốn sách dày hàng ngàn trang do TS Nguyễn Việt biên soạn nhan đề Hà Nội, thời tiền Thăng Long. Tuyến chủ đạo của cuốn sách là nhằm giới thiệu với người đọc cội nguồn của vùng đất có thế “rồng cuộn hổ ngồi” của thủ đô Hà Nội ngày nay, sự ra đời và phát triển mãnh liệt và trường tồn của các cộng đồng cư dân Việt cổ trên vùng đất này cho đến khi trở thành Thăng Long - Thủ đô của nhà nước Đại Việt vào thế kỷ 11. Nhiều nguồn sử liệu trước đây cũng như những tài liệu và tư liệu được đề cập trong cuốn sách này cho thấy vào những thời trước Thăng Long, vùng Hà Nội đã có vai trò là một đô thị, nơi tập trung dân cư đông đúc, nơi hội tụ đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội có tính trung tâm lớn, nhỏ khác nhau tuỳ trình độ phát triển mỗi thời. Anh vẫn như vậy, kiên trì, thầm lặng dâng hiến trí tuệ và tài hoa cho Thăng Long, Hà Nội với niềm tự hào giấu kín của một người “Hà thành thứ thiệt”. (Theo VH &TT )
    1 like
  47. Bài đọc thêm ( Trước khi bàn tiếp ) Ai khai sinh ra thành Đại La? Hoàng Hải Vân TNO . Lý Nam Đế là vị vua đầu tiên đóng đô ở nơi mà sau này Lý Thái Tổ dời đô đến, nơi trở thành Thăng Long - Hà Nội 1.000 năm. Lần theo những chi tiết ghi trong sử sách kết hợp với những tài liệu mới nhất về cổ địa chất, chúng ta có thể hình dung rõ hơn quá trình hình thành, phát triển và lý do bị chôn vùi của Hoàng thành Thăng Long (Hoàng thành); đồng thời cũng cung cấp thêm những căn cứ cho việc phát triển thủ đô... Trong Chiếu dời đô bất hủ, Lý Công Uẩn viết: “...Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời...”. Nghìn năm trôi qua thời gian đã khẳng định tầm nhìn của Lý Thái Tổ. Chi tiết “nhạy cảm” trong đoạn trích ở trên là ông đã nhắc đến Cao Biền mà ông trân trọng gọi là “Cao Vương”. Nhiều nhà nghiên cứu lấy làm tiếc rằng áng văn này chưa mạnh mẽ dứt khoát bằng Bình Ngô đại cáo hay Nam quốc sơn hà vì có chỗ “khuyết” đó. Bởi Cao Biền tuy được sử sách nước ta nhìn nhận theo nhiều cách khác nhau nhưng trước hết ông ta vẫn là một viên quan đô hộ. Người Việt Nam cho đến nay dù ít dù nhiều đều có nghe những câu chuyện huyền thoại hư hư thật thật về nhân vật này. Chúng đã được ghi lại trong Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh. Người ta bảo Cao Biền thường cưỡi diều giấy đi khắp nơi xem xét các hình thế đất đai sông núi, nơi nào có “long mạch” thì dùng bùa phép yểm đi. Ở nước ta hiện vẫn còn lưu truyền một số sách địa lý phong thủy được cho là do Cao Biền viết, như Cao Biền di cảo, Cao Biền địa cảo tập, An Nam địa cảo lục. “Đời Đường Ý Tông (860 - 873)... Nghĩ đến việc Triệu Đà xưng đế, vua bèn sai Thái sử Cao Biền làm đô hộ An Nam. Khi Biền sắp ra đi, vua triệu vào điện bảo: “Trẫm nghe An Nam có nhiều ngôi đất thiên tử, ngươi tinh thâm về địa lý, nên hết sức yểm đi và vẽ hình thế đất ấy đem về cho trẫm xem”. Biền đến An Nam, dạo qua sông núi nào tốt thì đều yểm cả. Biền có làm tờ tấu tâu rằng chỉ có núi Tản Viên là rất thiêng, yểm không được, nên không đụng đến” (trích lời tựa Cao Biền di cảo, dẫn theo Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo VN tập II). Có lẽ do bản năng chống ngoại xâm luôn luôn trỗi dậy mạnh mẽ trong dân gian, nên đi kèm từng chuyện “trấn yểm” của Cao Biền là những sự tích linh thiêng địa linh nhân kiệt làm cho họ Cao phải nể sợ, như chuyện thần núi Tản Viên, sự tích đền Bạch Mã, chuyện Cao Lỗ,sự tích núi Cánh Diều... Không thể xác minh những sách vở được lưu truyền trên có phải là của Cao Biền thật hay không, chỉ biết chắc rằng sử sách Trung Quốc hoàn toàn không ghi những chuyện đó. Nhưng truyền thuyết cũng đã bị đáp trả bằng truyền thuyết. Chuyện Cao Biền “trấn yểm” cũng gặp phải sự phản kháng quyết liệt của các cao tăng Phật giáo, điều này được ghi lại trong Thiền uyển tập anh, một trong 3 cuốn sách cổ nhất viết từ thời nhà Trần còn truyền bản đến ngày nay (2 cuốn kia là Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái). Thiền uyển tập anh đã ghi lại lời của một thiền sư - Trưởng lão La Quý (852 - 936) dặn đệ tử trước khi viên tịch: “Trước kia, Cao Biền xây thành ở Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt sông Điềm và những ao Phù Chẩn... đến 19 chỗ để trấn yểm. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa...”. Nhưng chính sử thì “án phải tự hồ sơ”, nên đã có cái nhìn hơi khác. Không giống như Sỹ Nhiếp (người có tổ tiên 6 đời ở nước ta, nên thực chất là một người Việt), Cao Biền chính hiệu là một viên quan phương bắc cử sang đô hộ. Họ Cao làm quan có công với nhà Đường, được thăng chức Tần Châu Phòng ngự sứ trước khi được sai đi “đánh dẹp” ở phương nam và cử làm “Tĩnh hải quân Tiết độ sứ” cai trị nước ta. Tuy nhiên, sau khi phá xong quân Nam Chiếu, Cao Biền đã có động thái rất không bình thường. Sử Trung Quốc không hề ghi Cao Biền được phong vương, nhưng chính sử nước ta lại viết: “Cao Biền giữ phủ xưng vương, đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ tường nhỏ trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đường bộ 34 sở. Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước, chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian” (Đại Việt sử ký toàn thư - ĐVSKTT, tập 1, tr.200, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004). Việc “giữ phủ xưng vương” này đương nhiên không phải do triều đình nhà Đường sai bảo, đây có khả năng là hành động tự ý cát cứ. ĐVSKTT còn chép rằng, sau khi xây xong thành Đại La, Cao Biền còn thực hiện một kỳ công là đục đá ngầm mở đường biển cho thuyền bè đi lại. “Nay khai đường biển để giúp dân sinh, nếu mình không theo lòng riêng thì có gì khó”, Cao Biền tuyên bố. Còn sử thần Ngô Sĩ Liên của nước ta thì bình luận: “Đó là vì việc làm hợp lẽ cho nên được trời giúp”. Do lo ngại về mưu đồ cát cứ của Cao Biền, nên đến năm 875 (đời Đường Hy Tông), Cao Biền bị triệu hồi về làm Tây Xuyên Tiết độ sứ. Đến cuối đời Đường, nhân loạn Hoàng Sào, Cao Biền kháng chỉ từ chối đem quân về cứu giá, sau đó tạo phản chiếm giữ Dương Châu. Cuối cùng thua quân triều đình, bị bắt và bị giết. Vì lẽ đó, cũng như công tâm ghi nhận trong khi cai trị nước ta Cao Biền đã có công xây thành đắp lũy, mở mang giao thông cũng như một số chính sách an dân, ngăn chặn sự nhũng lạm của đám quan lại thừa hành, nên Cao Biền được chính sử Việt Nam có một cái nhìn khá trân trọng. Lý Công Uẩn gọi Đại La là “đô cũ của Cao Vương”, ngoài lý do nói trên, có lẽ còn có lý do quan trọng khác mà ông muốn nhấn mạnh: Cao Biền là người rất giỏi về địa lý và phong thủy. Chúng ta có thể thấy điều đó đằng sau những chuyện “trấn yểm” mang tính huyền thoại kia. Nhưng thành Đại La có từ bao giờ? Dựa theo những ghi chép từ lịch sử, phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng nó bắt đầu được xây dựng từ năm 621 do Đại tổng quản Giao Châu của nhà Đường là Khâu Hòa thực hiện, gọi là Tử Thành, có chu vi 900 bộ. Kế đó, vào năm 767, Kinh lược sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi đã cho đắp thêm cao hơn, gọi là La Thành. Năm 791, một quan cai trị khác là Triệu Xương đắp lại kiên cố hơn. Năm 808, Trương Chu đắp thêm một lần nữa... Đến năm 866 Cao Biền đến đây “giữ phủ xưng vương” và đắp thành hoành tráng như đã nói. Như vậy là thành Đại La, tiền thân của Hoàng thành Thăng Long, chỉ là thành cũ do các quan cai trị phương bắc dựng lên và mở rộng, làm cho kiên cố dần. Có đúng như vậy không? Hãy lật lại những trang sử trước nữa. Vào năm 541, theo ĐVSKTT, Lý Bí “dấy binh đuổi giặc (nhà Lương), xưng là Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên”. Những người dịch ĐVSKTT ghi chú: “Vị trí của thành Long Biên đến nay vẫn chưa xác định được, có thể ở vùng gần thị xã Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc”. Ghi chú này có liên quan đến chương về Sỹ Nhiếp cũng trong ĐVSKTT, tại đây ghi Sỹ Nhiếp làm Thái thú Giao Châu, “đóng đô ở Liên Lâu (tức Long Biên)”, tuy nhiên những người dịch ĐVSKTT lại ghi chú: “Liên Lâu: cũng thường đọc là Luy Lâu, ở Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, nay còn di tích thành, theo nhiều nhà khoa học, thành Liên Lâu không phải là Long Biên”. Thế thì Long Biên ở đâu? Lần theo sử Trung Quốc thì sẽ thấy Lương thư ghi rằng: Lý Nam Đế “dựng thành lũy bằng tre gỗ ở cửa sông Tô Lịch” (dẫn theo Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo VN tập II). Đối chiếu với lời của nhà sư La Quý (chú ý: La Quý là người sống cùng thời với Cao Biền) ghi trong Thiền uyển tập anh đã dẫn ở trên “Trước kia, Cao Biền xây thành ở Tô Lịch...”, chúng ta có thể thấy nơi mà Lý Nam Đế đóng đô chính là nơi Cao Biền dựng thành. Thành Long Biên của Lý Nam Đế là tiền thân xưa nhất của thành Đại La. Thành này Lý Nam Đế đã dựng cung Vạn Thọ làm nơi triều hội và xây chùa Khai Quốc tồn tại đến ngày nay (nay là chùa Trấn Quốc). Mãi đến năm 602, Lý Phật Tử còn sai anh là Lý Đại Quyền giữ thành Long Biên, nghĩa là nó tồn tại suốt hơn 60 năm trước khi bị quân xâm lược phương bắc chiếm giữ. Có thể dẫn thêm một số chi tiết khác “ẩn” trong sử sách để minh chứng cho điều này, nhưng chừng ấy cũng đủ để khẳng định Lý Nam Đế là vị vua đầu tiên đóng đô ở nơi mà sau này Lý Thái Tổ dời đô đến, nơi trở thành Thăng Long - Hà Nội 1.000 năm. Nó do chính người Việt Nam ta phát hiện, chứ không phải do người Trung Quốc. (Theo TNO ) Ngói trang trí trên nóc nhà thời nhà Lý Cách địệu từ hình chiếc lá Bồ Đề, trong trang trí hoa văn hình rồng tinh xảo
    1 like
  48. Lối đếm theo hệ nhị phân của người Lạc Việt Kỹ thuật công nghệ cao của nhân loại ngày nay phát triển với tốc độ nhanh đến chóng mặt, tính từng ngày chứ không phải từng năm.Nhưng sự phát triển tư duy của loài người từ khi còn là người nguyên thủy chắc là phải rất chậm chạp.Thể hiện ở đứa trẻ sơ sinh khi bắt đầu tập nói đến khi hiểu và biết đếm từ một đến mười là phải mất dăm tháng.Người Lạc Việt cũng phải trải qua các hệ đếm từ ít con số đến nhiều con số,mà hệ đếm thập phân từ một đến mười là đã có từ rất xa xưa.Các từ chỉ con số trong hệ thập phân là không (nòng), một, hai,ba,bốn,năm,sáu, bảy, tám,chín, mười trong tiếng Việt là những từ thuần Việt.Ở mỗi hệ đếm đã trải qua, dù là ít con số đều để lại dấu ấn của con số nhiều nhất trong hệ đếm đó mang nghĩa là “nhiều”.Ví dụ nếu hệ đếm ban đầu chỉ có 2 con số thì “hai” đã để lại các từ: “bay”(ngôi thứ hai số nhiều), “hăng-hái”, “trống-trải”,bừa-bãi”…,rõ ràng người Việt ai cũng hiểu “hăng-hái”nhiều hơn hăng,”trống-trải”nhiều hơn trống, “bừa -bãi” nhiều hơn bừa.Nếu hệ đếm chỉ có 3 con số thì con số nhiều nhất trong hệ đó là “ba”đã để lại: “cả” là nhiều nhất, là tất cả,tất là hoàn tất tức hết vòng đếm; “đã” cũng là nhiều nhất (ăn “đã”quá rồi,sướng “đã”quá rồi), “chung-chạ”, “vật-vạ”, “la-cà”, “vất-vả”…đều là mang ý nhiều nhất. Nếu hệ đếm chỉ có 4 con số thì con số nhiếu nhất trong hệ đếm đó là “bốn” đã để lại “bọn”, “bộn”, “lổn nhổn”, “lộn-xộn”…đều ý là nhiều.Nếu hệ đếm chỉ có 5 con số thì số đếm nhiều nhất trong hệ đó là “năm” ( “prăm” trong hệ đếm ngũ phân của người Khơ Me) đã để lại “dăm”, “lắm”(Từ này trong Quan Thoại phát âm là “rán” nhưng những từ ghép với “rán” thì lại đều là ghép theo cú pháp Việt,tức chính trước phụ sau,như “dư rán”-tự nhiên,nghĩa là tự sinh ra lắm thứ,chỉ vũ trụ; “thian rán”-thiên nhiên,nghĩa là trời sinh ra lắm thứ,chỉ trái đất; “liẻo rán”-liễu nhiên,tức biết lắm; “hoang rán”-hoang nhiên,tức hoảng lắm; “xin xin rán”-hân hân nhiên tức hớn hở lắm…mà chúng chỉ có trong văn viết chứ không có trong khẩu ngữ.Cú pháp Quan Thoại thì phụ trước chính sau,như nói “hẩn hảo” là rất tốt chứ không nói “tốt lắm”như Việt.Người Hoa vẫn nói “théng xẻo tứa”là nghe hiểu được như cú pháp Việt chứ không nói “thing tứa tủng”là nghe được hiểu như Quan Thoại), “nạm”, “nắm”, “mắm”,chăm-chắm,băm-vằm…đều nghĩa là nhiều.Nếu hệ đếm chỉ có 6 con số thì số nhiều nhất trong hệ đó là “sáu”(người Hồ Nam đến nay vẫn nói là “lấu”) để lại: “sau”(cuối cùng tức hết vòng đếm), “nậu”(số nhiều ngôi thứ ba), “nẫu”, “lâu”, “máu”(ham nhiều), “đau-đáu”, “hau-háu”, “láu-táu”…đều ý là nhiều.Nếu hệ đếm là có 7 con số thì số nhiều nhất của hệ đó là “bẩy” để lại: “bầy”, “sây”, “bầy-hầy”, “lầy-nhầy”, “tung-tẩy”, chối “đây-đẩy”, “vung-vẩy”,run “lẩy-bẩy”…đều ý là nhiều(“Thời các nước Ngô,Sở,Việt,ở đó người ta đông dân và giàu có hơn Trung Nguyên nhiều vì họ lắm lúa gạo,và tiếng nói của họ thuộc hệ ngữ Nam Á khác xa tiếng Trung Nguyên,họ còn có cả hệ đếm thất phân có 7 con số”-theo nhà văn quá cố Nhật Bản Shiba Ryôtarô-trích tạp chí Xưa và Nay,hội sử học Việt Nam).Nếu hệ đếm có 8 con số thì số nhiều nhất của hệ đó là “tám” đã để lại “ham”, “hám”, “tham-lam”, “đẫm”, “thâm”, “thắm”, “thăm-thẳm”, “lảm-nhảm”…đều ý là nhiều.Nếu hệ đếm là 9 con số thì số nhiếu nhất của hệ đó là “chín” đã để lại: “chùm”, “trùm”, “chòm”, “túm- tụm”, “xỉn”, “bịn-rịn”…đều ý là nhiều(Thời Văn Lang đã có hệ đếm này nên Vua Hùng mới đòi “nhiều”nhất là “voi chín ngà,gà chín cựa,ngựa chín hồng mao”).Hệ thập phân chắc là xuất hiện sau cùng,nhưng cũng thời cổ đại rồi,lúc đó là hệ đếm từ số “chắc” đến số “chục”. “Chắc” là 1,là có,là biết( tiếng Tày “chắc”nghĩa là biết, cặp đối nghịch “bố/chắc” của tiếng Tày tức “không/biết”, tương ứng “0/1”,thì cũng như cặp “nỏ/có” của tiếng Việt hay “no/count” của tiếng Anh là “không/đếm”,có 1 rồi mới bắt đầu đếm được chứ). “Chắc” là hạng nhất,là “number one” nên được hơn cả gọi là “đắc”,đậm hơn cả gọi là “đậm-đặc”,nồng hơn cả gọi là “nồng-nặc”,dài hơn cả gọi là “dằng-dặc”,lâu hơn cả gọi là “lâu-lắc”,sáng vàng hơn cả gọi là “vằng-vặc”….Con số “chục”là con số nhiều nhất của hệ đếm này nên “chục” cũng để lại các từ mang ý nhiều như “lục- đục”, “cậy-cục”, “đông-đúc”, “nhung-nhúc”…Nhưng cổ xưa hơn,do người Lạc Việt đã lấy cái nôi là cái bọc tròn biểu tượng Âm Dương như một phương tiện kỹ thuật do mình sáng tạo ra để VO tròn mọi từ đa âm tiết vốn có từ xưa thành từ đơn âm tiết có kèm thanh điệu nảy sinh (đương nhiên),nên số đếm hệ thập phân của người Lạc Việt lúc đầu nó là từ MÔ đến MƯỜI.( “Mười” là nhiều nhất nên mới có “thời cơ đã chín muồi”, “ru con con ngủ cho muồi” đều là biểu thị ý nhiều cả).Bởi trong tiếng Khơ Me số 1 là “muôi”,là một thực thể,nó là từ “mỗi” trong tiếng Việt ,ở Quan Thoại nó là chữ 每 đọc là “mẩy” rõ ràng là từ mượn của Việt vì nó không đẻ ra các từ cùng gốc “m” trong nôi khái niệm Âm Dương theo cách sinh sản tự tách đôi của tế bào.Còn MỖI trong nôi khái niệm Âm Dương của người Lạc Việt đã đẻ ra MẬP-MỜ, “mập-mờ” là cái phôi đang tự tách đôi trong cái bọc Âm-Dương,nghĩa của nó là “chưa rõ hẳn,chưa biết là 0 hay là 1”,con MẬP là con Âm(như con Nòng của từ dính Nòng-Nọc) nhưng mang tính dương,lớn đủ trong nôi rồi nó tách hẳn ra độc lập là MỘT(là 1 tức Dương);con MỜ là con Dương( như con Nọc của từ dính Nòng-Nọc) nhưng mang tính âm,lớn đủ trong nôi rồi nó tách hẳn ra độc lập là MÔ (là 0 tức Âm,MÔ mới dẫn đến từ VÔ,âm tiết dân dã có trước,hàn lâm có sau nên mới có chữ vô無;viết là “nam vô A di đà Phật南無阿彌陀佛”nhưng lại tụng là “nam mô A di đà Phật”-tất nhiên đây chỉ là những chữ ký âm cho câu tiếng Phạn).Một thực thể MỖI mà trong tiếng Việt đã thành ra bốn khái niệm: “Mỗi”, “Mập-Mờ”, “Mô”, “Một”,nhưng tổng số âm tiết thì lại là có năm âm tiết:MỖI=MÔ…MẬP-MỜ…MỘT,nếu viết bằng chữ Hán thì được sẵn có một chữ MỖI每 (là âm tiết “mỗi” mà Quan Thoại đã mượn của Việt và phát âm là “mẩy”), còn lại bốn âm tiết kia là MÔ,MẬP,MỜ,MỘT rõ ràng là phải viết bằng chữ Nôm.Các nhà Hán-Nôm học nói là “chữ Nôm khó gấp năm lần chữ Hán”chắc chắn là do cái nguyên nhân này. (Về sự VO tròn-PROPRO nghĩa là lăn tròn- từ đa âm tiết để thành từ đơn âm tiết thì không chỉ ví dụ từ ngôn từ Khơ Me sang ngôn từ Việt,mà còn thấy rõ từ ngôn từ Nhật sang ngôn từ Việt,làm cho từ đa âm tiết bị vò rụng đầu rụng đuôi còn lại mỗi âm tiết lõi ở giữa.Ví dụ “Ô-NA-DI”nghĩa là “giống nhau”của tiếng Nhật,vò rụng mất đầu Ô và đuôi DI,còn lại mỗi NA là “na-ná” rồi thành “như”(ở đây cũng thấy rõ là dân dã “na-ná” có trước rồi mới đến hàn lâm “như” có sau,chữ “như” 如thì đã có sẵn chữ Hán lấy từ người Hoa,chứ “na”và “ná”thì phải bằng hai chữ Nôm thôi).Một câu tiếng Nhật như: “Ni-hôn-Gô Ga,Bê-tô-na mư-Gô Ga,Đê-wa Ô-na-di Đê-xư Nế!”( “Nhật ngữ và Việt ngữ, thế mà, giống nhau đấy nhé” ) dịch theo dân dã (chứ không phải giải thích theo ngữ pháp kiểu hàn lâm) mà đúng sát ý từng từ 100% thì câu đó là “Nhật-Bản Gọi Cả,Việt-Nam Gọi Cả,Thế-mà, Na-Ná Đấy Nhé”.Người Việt vẫn nói “tôi cả anh đi chơi nhé” tức là “tôi và anh đi chơi nhé”,từ “cả” là từ cổ hơn của “và”.Có “Na”(mà tiếng Đài Loan gọi là “la”, Đài-ngữ cũng còn gọi là Đài-la,tiếng Việt có từ “la-lối”, “la lối” om sòm nghĩa là “nói lời” om sòm) rồi mới có “Nói” rồi mới đến “Gọi”(đều là từ thuần Việt cả),mà hàn lâm viết âm tiết “gọi” bằng chữ “Ngữ” 語,Quan Thoại đọc là “ủy”,người Nhật đọc là “Gô”,người Đài Loan đọc là “Gí”, “Đài Gí” là “Đài gọi” , “Đài gọi” chẳng là “tiếng Đài Loan” thì là gì?cũng như Nôm Na nghĩa là người Nam nói hay gọi là tiếng Nam cũng vậy). Cái hình tròn biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt ,chỉ xét khía cạnh số, thì nó đúng là một “bit” thông tin,cho ra 2 giá trị là Âm tức 0 và Dương tức 1.Đó là xét trên một mặt phẳng,đã có được một “bit” thông tin.Nhưng vì nó là một cái bầu hình cầu như một giọt nước,trong đó có con Nòng và con Nọc,nên nếu cứ cắt đối xứng tâm theo đủ các hướng thì sẽ có ty tỷ mặt phẳng tức được ty tỷ “bit” thông tin.Trong tin học thì bit thông tin là đơn vị chuyển tải thông tin,8 bit thì bằng 1byte,rồi nhiều tới KB(ki-lô byte),MB(mê-ga byte),GB(ghi-ga byte).Số giá trị của bit là m=2.Lượng bit sử dụng tức độ dài của thông tin là: n bit. Lượng thông tin có thể chuyển tải là: N, lượng này được tính bằng công thức: N=mn . Như vậy khi người Lạc Việt cổ đại dùng 2 ký tự kẻ vạch như hai giá trị của một bit thông tin là (—) tức 1 và (——) tức 0 để đếm theo hệ nhị phân ,và lấy từ trong cái bầu Âm Dương Lạc Việt ra để sử dụng một lượng chưa nhiều bit thông tin,họ đã tạo ra được: Ở bộ Tứ Tượng thì lượng thông tin có thể chuyển tải là N=mn=22= =4 tổ hợp (chuyển tải được bốn tổ hợp thông tin,tức tứ cái tượng),ở đây độ dài thông tin là n=2 bit ,được ký hiệu bằng hai hàng kẻ vạch.Ở bộ Bát Quái thì lượng thông tin có thể chuyển tải là N=mn= 23=8 tổ hợp (chuyển tải được tám tổ hợp thông tin,tức tám cái quẻ), ở đây độ dài thông tin là n=3 bit ,được ký hiệu bằng ba hàng kẻ vạch.Nếu cứ như vậy đếm tiếp tất sẽ đến độ dài thông tin n=4 bit, ký hiệu bằng bốn hàng kẻ vạch,cho ra lượng thông tin có thể chuyển tải là N=mn=24=16 tổ hợp thông tin.Rồi đến độ dài thông tin n=5 bit,ký hiệu bằng 5 hàng kẻ vạch,cho ra lượng thông tin có thể chuyển tải là N=mn=25=32 tổ hợp thông tin.Nhưng cái sử dụng 4 hàng kẻ vạch và 5 hàng kẻ vạch bị mất tăm tích đâu trong lịch sử ,không còn truyền lại.Nên kế tiếp đến ta còn thấy ngày nay là sử dụng độ dài thông tin n=6 bit, ký hiệu bằng sáu hàng kẻ vạch cho ra lượng thông tin có thể chuyển tải là N=mn=26=64 tổ hợp (chuyển tải được 64 tổ hợp thông tin,tức 64 quẻ dịch).Về con số và hệ đếm nhị phân để chuyển tải thông tin thì chỉ đơn giản vậy thôi,mới dùng đến có 6 bit để chuyển tải được 64 thông điệp,mà thông điệp đầu tiên là 000000 đó là quẻ KHÔN (có 6 bit tức 6 hàng kẻ,mỗi bit ——tức mỗi hàng kẻ mang giá trị là 0 tức Âm) và thông điệp cuối cùng là 111111(có 6 bit tức 6 hàng kẻ,mỗi bit — tức mỗi hàng kẻ mang giá trị là 1 tức Dương).Ngày nay máy tính dùng tới 8 bit (là một byte) để mã hóa con chữ cái Latin,ví dụ chữ A là 01000001,chữ M là 01001101 (tương tự như số điện thoại của anh A và số điện thoại của mụ M,thành phố càng đông hộ dùng càng phải tăng số bit tức số điện thoại càng nhiều con chữ số hơn).Còn bộ nhớ để chứa dữ liệu thì có dung lượng đến hàng trăm GB (Ghigabyte). Dùng 6 bit để chuyển tải được 64 thông điệp (64 quẻ dịch) mới chỉ là dùnglượng bit rất ít,sơ khởi trong công nghệ thông tin (thập niên 60 của thế kỷ trước).Nhưng 64 quẻ dịch của người Lạc Việt lại là có từ thời tiền sử(tức chưa khi còn chưa có chữ viết) cách nay non chục ngàn năm, kể cũng thú vị,nhưng cái thú vị nhất và quan trọng nhất lại là ở ứng dụng từng mỗi thông điệp mà người ta gọi là mỗi quẻ trong 64 thông điệp đó ở khía cạnh triết lý.Về mặt này thì các học giả Trung Hoa hàng mấy nghìn năm qua dùi mài,viết hàng ngàn cuốn sách,thực đáng trân trọng và kính nể.Chứ còn sử dụng có 6 bit thông tin để có 64 thông điệp thì trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ người ta đã sử dụng rồi ( hồi đó tôi cứ ngờ ngợ là sao họ lại lấy 64 quẻ dịch của người Việt trong sách của Nguyễn Hiến Lê để làm phần mềm cho công nghệ mà đem wuýnh người Việt ),có điều là sử dụng công nghệ phần cứng của họ ,rồi vận dụng 64 thông điệp theo cách của họ ,chứ không đếm xỉa gì đến khía cạnh triết lý của từng “quẻ dịch” trong lượng 64 thông điệp đó,mới thành ra là lấy 64 quẻ dịch của người Việt để wuýnh người Việt nhưng lại không tư duy triết lý như người Việt tư duy, nên mới wuýnh không lợi người Việt. Cái nôi biểu tượng Âm Dương có con Âm và con Dương quấn quýt ôm tròn lấy nhau ở bên trong là của người Lạc Việt tạo ra như một công cụ để có nhiều ứng dụng trong nhiều lĩnh vực.Cũng lại người Lạc Việt tạo ra ký tự kẻ vạch để rồi có lối đếm nhị phân.Tên gọi các con số từ một đến mười để lại dấu ấn trong ngôn từ Việt đậm nét như thế nào thì như đã trình bày ở trên rồi.Tương tự như vậy,lối đếm nhị phân của người Lạc Việt cũng lại để lại dấu ấn của nó trong ngôn từ Việt.Ở trên ta đã thấy là 2 tổ hợp là nhị nguyên,gấp đôi lên có 4 tổ hợp là tứ tượng,lại gấp đôi lên có 8 tổ hợp là bát quái,gấp đôi lên nữa có 16 tổ hợp,gấp đôi nữa có 32 tổ hợp,gấp đôi nữa được 64 tổ hợp là những quẻ dịch.Nhị nguyên,tú tượng,bát quái và dịch thì còn đến ngày nay như ta thấy,thế còn tổ hợp 16 và tổ hợp 32 để cho nó liên tục trong phát triển đếm thì nó mất đâu mất rồi?Bụi lịch sử đã phủ chìm nó mất tăm tích hay nền văn minh đó đã bị tàn phá cho sụp đổ.Nhưng một chút xíu le lói của cái 16 tổ hợp (còn 32 tổ hợp vẫn chưa thấy đâu) tôi nhìn thấy trong cách đếm trái cây hay hột vịt lộn bán hàng của người dân miền Tây Nam Bộ ,đó là chục=16.Có người giải thích vì đó là do họ hào phóng (sao không lấy chục là 15? hoặc chục là 17 cho nó hào phóng hơn?).Nó ắt phải có nguyên do lịch sử từ trong tâm thức.Người Việt quen đếm từng đôi,ở miền núi phía Bắc dân bản đi chợ bán gà cứ một rọ nhỏ là nhốt hai con gà, trống mái bất kể,có thể nhiều rọ, nhưng một rọ cứ phải là hai con,để dễ gấp đôi gấp đôi số gà đếm bán.Cách đếm ấy chính là đếm lượng thông tin được chuyển tải,tức đếm N=mn,tức đếm theo lũy thừa của cơ số 2.Lối đếm mà số sau cứ gấp đôi số trước sát nó đã để dấu ấn trong ngôn từ Việt bằng nhiều cách nói khác nhau(nghe thì nó có vẻ như tiếng nói lóng của dân buôn lậu): 0=0=ỡm (ỡm=âm=0) 20=1=ờ (ờ=ừ=có=1 , nói “ỡm-ờ” tức nói không rõ là 0 hay1) 21=2=ơi (tiếng gọi ngôi nhân xưng thư hai) 22=4=ấy (tiếng gọi ngôi nhân xưng thứ tư, “tao,mày ,nó,thằng ấy) 23=8=ôm (một ôm bằng tám bó) 24=16=ắp (đầy ắp là đầy một chục của người miền Tây Nam Bộ) 0=0=ứ (ứ=không,không tin cứ hỏi trẻ sơ sinh mới tập nói coi ) 20=1=ừ (ừ =1=có) 21=2=u (ngôi nhân xưng đầu tiên của trẻ là mẹ nó,mẹ=u) 22=4=ấy (ngôi nhân xưng thứ tư, “tao,mày,nó,thằng ấy) 23=8=um (um=túm=tám) 24=16=úp (đủ chục miền Tây rồi) 0=0=bỏ (bỏ=không đếm cái đó,bỏ=0) 20=1=bênh (đứng về một phe gọi là bênh,bênh=1) 21=2=bè (có người thứ hai làm bạn là bắt đầu thành một bè,bè=2) 22=4=bốn 23=8=bản 24=16=bằng (bằng lòng rồi,đủ chục 16 rồi) 0=0=cóc (cóc có=không có , cóc=0) 20=1=cái (cái=một đơn vị để đếm,lượng từ đếm đồ vật) 21=2=cặp (cặp=đôi=2) 22=4=cụm 23=8=cỡm (cỡm=cớm=râm=tám) 24=16=cọc (đủ chục đồng tiền=16) 0=0=chăng (chăng=không=0) 20=1=chiếc (lượng từ,một đơn vị) 21=2=chẵn (có hai mới chẵn,chẵn=2) 22=4=chắt (ngôi thứ tư, “cha,con,cháu ,chắt”) 23=8=chòm 24=16=chục (chục miền Tây Nam Bộ) 0=0=dóc (nói dóc=nói không có thực,dóc=0) 20=1=dé ( lượng từ cấy lúa,đơn vị nhánh lúa) 21=2=duộc (hai đứa vào một duộc) 22=4=dúm 23=8=dỏ (thứ đựng nhỏ,đựng được 8 dé) 24=16=dành (thứ đựng lớn ,đựng được chục dé) 0=0=đếch (đếch có=không có) 20=1=đứa (lượng từ đếm động vật) 21=2=đôi (đôi=2) 22=4=đúm 23=8=đám (phường bát âm phục vụ các đám có 8 người) 24=16=đàn (đủ bầy,đủ chục) 0=0=gột (gột=sạch=0) 20=1=gút (lượng từ đếm thắt gút) 21=2=gánh (một gánh bằng hai thúng) 22=4=gây (bắt đầu nhân ra nhiều=bộn=4) 23=8=gom 24=16=gang (đủ vòng đếm=đủ chục) 0=0=hổng (hổng có=không có,hổng=0) 20=1=hệt (giống hệt=như có,hệt=có=1) 21=2=hai 22=4=ham (bắt đầu thích nhiều) 23=8=hum (số lớn,con hùm=con cọp lớn) 24=16=hàng (xong hàng=đủ chục) 0=0=không 20=1=khía (“nói về khía cạnh này”= “nói về một cạnh này”, khía=1) 21=2=khua (cầm hai đũa mà khoắng) 22=4=khắt (gò bốn thành bó) 23=8=khóm (khóm mía=8 cây mía) 24=16=khựng (đếm đủ chục rồi ,dừng lại) 0=0=láo (nói láo=nói không có sự thực,láo=0) 20=1=lẻ (lẻ=lẻ-loi=1) 21=2=lứa (“xứng đôi vừa lứa”,lứa=2) 22=4=lượm (bốn nắm được một lượm) 23=8=lẫm (để chứa nhiều) 24=16=lấp (đủ khỏa lấp vòng đếm=đủ chục) 0=0=mất (mất=mô=0) 20=1=một 21=2=mai (mai=ngày thứ hai,mày=ngôi nhân xưng thứ hai) 22=4=mang (bắt đầu sang nhiều=đa mang) 23=8=mường (nơi quần cư nhiều) 24=16=mập (đủ béo=đủ chục) 0=0=nỏ (nỏ=mô=không=0) 20=1=nẻ (nẻ=một kẻ) 21=2=nạnh (có hai người là bắt đầu tị nạnh,nạnh=2) 22=4=nửa (đã ở mức giữa) 23=8=nạm (nạm=nắm=nhiều) 24=16=nẫm (nầm-nẫm=tròn lẳn=hết vòng đếm=đủ chục) 0=0=nhẵn (nhẵn=hết nhẵn=0) 20=1=nhỏ 21=2=như (có cái thứ hai mới so sánh ,như cái trước vừa đếm) 22=4=nhớn (bắt đầu nhiều) 23=8=nhóm 24=16=nhận (đủ vòng đếm=đủ chục=giao hàng) 0=0=ngỏ (bỏ ngỏ=bỏ trống=bỏ không,ngỏ=0) 20=1=người (người=kẻ=1,lượng từ đếm người) 21=2=ngài (gọi ngôi nhân xưng thứ hai) 22=4=ngửa (bắt đầu lật sang phía nhiều) 23=8=ngòm (đen ngòm=đen nhiều,ngòm=nhiều,bát quẻ đến 8 là nhiều) 24=16=ngang (đã đủ=hết vòng đếm-chục) 0=0=phét (nói phét=nói điều không có,phét=0) 20=1=phọt (phọt-phẹt=trình độ còn kém,chưa rõ đâu 0 đâu 1, phọt=1) 21=2=phe (chia phe=chia 2 bên để chọi nhau,phe=2) 22=4=phum (bắt đầu nhiều) 23=8=phường (nhiều) 24=16=phải (đủ chục rồi,hài lòng) 0=0=quái (có quái gì đâu=không có gì đâu,quái=0) 20=1=que (que=kẻ=1) 21=2=quang (quang=hai chiếc gióng để gánh) 22=4=quây (bắt đầu nhiều) 23=8=quần (nhiều,8 quẻ là một quần thể của bát quẻ) 24=16=quả (quả=kết quả=trọn vòng đếm=chục) 0=0=rỗng (rỗng=không có=0) 20=1=rõ (rõ=rõ mồn-một=kẻ=1) 21=2=róng (sóng đôi,song song,róng=2) 22=4=rậm (bắt đầu sang nhiều) 23=8=rám (nhiều) 24=16=rạp (đã đầy nặng=đủ chục) 0=0=suông (nói suông=nói không kèm theo gì khác, suông=0) 20=1=sắt (sắt=chắc=1,son sắt=như đinh đóng cột=khẳng định=1) 21=2=song (song đôi=hai người,song=2) 22=4=son (bắt đầu đỏ nhiều) 23=8=sàng (“đi một đoạn đàng,học một sàng khôn”,sàng =nhiều) 24=16=sảy (công đoạn cuối cùng của xay lúa,sảy=đủ vòng đếm=chục) 0=0=tò (tò=toi=chết=hết=0) 20=1=te (“ngẩn tò te”=ngạc nhiên vì trước đó còn mập-mờ,te=1) 21=2=tí (tí=còn ít) 22=4=túm (bắt đầu nhiều) 23=8=tám 24=16=tá (tá=chục 16) 0=0=thín ( “nhãn thín”= “nhẵn không còn gì nữa”, thín=0) 20=1=thọt ( thọt=chỉ còn một,thọt=1) 21=2=thứ ( bắt đầu từ hai là con thứ) 22=4=thầy ( bắt đầu lên trên) 23=8=thắm ( nhiều) 24=16=thập ( đủ chục) 0=0=trống ( trống=không có gì,trống=0) 20=1=trọi ( trơ trọi=một mình,trọi=0) 21=2=trung ( trung=ở giữa,đếm từ 0 đến 24) 22=4=trưa ( trưa=tra=già=quá nửa) 2=3=8=trắm (đã nặng nhiều) 24=16=trúng (đủ chục,hài lòng) 0=0=vắng (vắng=không có mặt,vắng=0) 20=1=vẻ (tỏ vẻ=tỏ ra là một,vẻ=1) 21=2=vài 22=4=vừa (mức trung bình=4) 23=8=vốc 24=16=vặn (đủ chục) 0=0=xo (ngồi buồn xo=ngồi buồn không biết làm gì, xo=0) 20=1=xiên (cái xiên=cái que=kẻ=1) 21=2=xái (trà nước xái=trà nước thứ hai,xái=2) 22=4=xâu (một xâu bốn con cá) 23=8=xúm (nhiều) 24=16=xong (đã đủ chục) Gom lại để bạn đọc dễ theo dõi: 1. Ỡm-Ờ-Ơi-Ấy-Ôm-Ắp 2. Ứ-Ừ-U-Ấy-Um-Úp 3. Bỏ-Bênh-Bè-Bốn-Bản-Bằng 4. Cóc-Cái-Cặp- Cụm-Cỡm-Cọc 5. Chăng-Chiếc-Chẵn-Chắt-Chòm-Chục 6. Dóc-Dé-Duộc-Dúm-Dỏ- Dành 7. Đếch-Đứa-Đôi-Đúm-Đám-Đàn 8. Gột-Gút-Gánh-Gây-Gom-Gang 9. Hổng-Hệt-Hai-Ham-Hum-Hàng 10. Không-Khía-Khua-Khắt-Khóm-Khựng 11. Láo-Lẻ-Lứa-Lượm-Lẫm-Lấp 12. Mất-Một-Mai-Mang-Mường-Mập 13. Nỏ-Nẻ-Nạnh-Nửa-Nạm-Nẫm 14. Nhẵn –Nhỏ-Như-Nhớn-Nhóm-Nhận 15. Ngỏ-Người-Ngài-Ngửa-Ngòm-Ngang 16. Phét- Phọt-Phe-Phum-Phường-Phải 17. Quái-Que-Quang-Quây-Quần-Quả 18. Rỗng-Rõ-Róng-Rậm-Rám-Rạp 19. Suông-Sắt-Song-Son-Sàng-Sảy 20. Tò-Te-Tí-Túm-Tám-Tá 21. Thín-Thọt-Thứ-Thầy-Thắm-Thập 22. Trống-Trọi-Trung-Trưa-Trắm-Trúng 23. Vắng-Vẻ-Vài Vừa-Vốc-Vặn 24. Xo-Xiên-Xái-Xâu-Xúm-Xong Ta hãy xem những cặp từ đối nghịch tương ứng Âm/Dương,tương ứng biểu thị 0/1tức Không/Có trong tiếng Việt: Ỡm/Ờ (Ỡm=Âm=0 , Ờ=Ừ=1,ỠM/Ờ=0/1)) ; Ứ/Ừ ( Ứ/Ừ=0/1. Ở đây thấy rõ là cùng một âm tiết “ư”,chỉ cần thêm thanh điệu đối nghịch Âm/Dương là trắc/bằng tức sắc/huyền là có được hai khái niệm đối nghịch là Ứ/Ừ.Đây không phải là do nhà ngữ pháp học hàn lâm về sau này đặt ra mà là xuất hiện tự nhiên trong lối nói dân dã từ thời cổ đại,tôi quả quyết từ “Ứ”và từ “Ừ” cũng là những từ cổ,cụ thể đứa trẻ Việt sơ sinh khi bắt đầu biết nói những từ đầu tiên thì đó là những âm tiết lõi không có phụ âm đầu ,đó là những từ U (gọi mẹ) , Ứ (lắc đầu) , Ừ (gật đầu) , Ị (đòi ỉa) , Uống (đòi uống), Ăn (đòi ăn), Ẵm (đòi bồng) đều là những nhu cầu sát sườn nhất của nó cả. Ả/Ạ ( Ả là dấu hỏi,Hả?tức không biết,không biết thì mới hỏi,Ả=0, vâng ạ=vâng có, Ạ=có=1, Ả/Ạ=0/1)) BỎ/BÊNH ( BỎ là do gen của MÔ=NỎ=0 , BỎ là không coi tồn tại,không tính,không đếm, BỎ=0 ;tao bênh mày=tao có đồng ý với mày, BÊNH=CÓ=1, BỎ/BÊNH=0/1)). CÓC/CÁI (CÁI là lượng từ một cái khi đếm, CÓC/CÁI=CÓC/CÓ=0/1) DÓC/DÉ (,nói dóc=nói không, DÓC=O;DÉ là lượng từ đếm dé lúa , DÓC/DÉ=0/1) ĐẾCH/ĐỨA (đếch có=không có, ĐẾCH=0; ĐỨA là lượng từ đếm động vật, ĐẾCH/ĐỨA=0/1) GỘT/GÚT (Đây là khi đếm số thắt gút trên sợi dây thừng,GỘT về sau tồn tại ở nghĩa gột sạch tức xóa sạch không còn gì nữa, GỘT=0, GÚT là lượng từ đếm, GỘT/GÚT=0/1) HỔNG/HỆT (HỔNG là do gen của Nòng=0, lỗ hổng là cái lỗ không có gì vướng bên trong, hổng có=không có, HỔNG=0; HỆT là một sự tồn tại, giống hệt cái gì đó là giống một sự tồn tại của cái gì đó,về sau hàn lâm viết “hệt” bằng chữ “hoạt”活nghĩa là sống, có thì mới sống chứ không có lấy gì sống, HỆT=CÓ=1, HỔNG/HỆT=0/1) KHÔNG/KHÍA (KHÍA là lượng từ khi đếm khắc kẻ vạch,một khía=một kẻ, KHÍA=1, KHÔNG/KHÍA=0/1) LÁO/LẺ (nói láo=nói không, “nhược bằng nói láo nói không,ông lôi ra đánh trượng đồng chẳng tha”, LÁO=0, LẺ là lượng từ đếm khi đong lúa, LÁO/LẺ=0/1) MẤT/MỘT (MẤT là không còn, MẤT=0, MẤT/MỘT=0/1) NỎ/NẺ (NỎ=MÔ=0, nỏ có=mô có=không có, NỎ=0, NẺ=LẺ=0, NỎ/NẺ=0/1) NHẴN/NHỎ ( hết nhẵn=hết không còn gì nữa,NHẴN=0; NHỎ là lượng từ đếm trẻ con, NHẴN/NHỎ=0/1) NGỎ/NGƯỜI (bỏ ngỏ=bỏ không, NGỎ=0; NGƯỜI là lượng từ đếm người, NGỎ/NGƯỜI=0/1) PHÉT/PHỌT (nói phét=nói không, PHÉT=0, nước phọt ra=nước có ra, PHỌT=CÓ=1, PHÉT/PHỌT=0/1) QUÁI/QUE (có quái đâu=có mô mồ, QUÁI=MÔ=0; QUE là lượng từ đếm que trong trò chơi đánh chắt của trẻ em gai Việt, QUE=THẺ=KẺ=1, QUÁI/QUE=0/1) RỖNG/RÕ (RỖNG=TRỐNG=KHÔNG=0, hai năm rõ mười=hai năm có mười, RÕ=CÓ=1, RỖNG/RÕ=0/1) SUÔNG/SĂT (canh suông=canh không có thịt, suông=0; tấm lòng son sắt=tấm lòng trước sau như một, SẮT=1, SUÔNG/SẮT=0/1) TÒ/TE (tẽn tò=gặp cái không như mình ngầm đoán, TÒ=cái không=không=0; TE là lượng từ đếm gọng vó cất tép, TÒ/TE=0/1) THÍN/THỌT (nhẵn thín=nhãn không còn gì, THÍN=0; ông thọt=ông một chân, THỌT=1, THÍN/THỌT=0/1) TRỐNG/TRỌI ( nhà bỏ trống=nhà bỏ không, TRỐNG=KHÔNG=0; việc đồng có trọi em mần=việc đồng có một em mần, TRỌI=1, TRỐNG/TRỌI=0/1) VẮNG/VẺ (vắng mặt=không có mặt, VẮNG=0; tỏ ra vẻ anh hùng=tỏ ra một anh hùng, VẺ=1, VẮNG/VẺ=0/1) XO/XIÊN (nói xỏ xiên=nói không nói có, XO/XIÊN=0/1) Bạn sẽ thấy tại sao trong tiếng Việt lại tồn tại quá nhiều từ chỉ số 0 và quá nhiều từ chỉ số 1 như vậy?Và những từ cặp dính Âm-Dương như Mập-Mờ,Lấp-Lửng,Ỡm-Ờ…thì nhiều vô cùng?Điều này chứng tỏ người Lạc Việt là chủ nhân của thuyết Âm Dương và đã quá thuần thục lối đếm nhị phân từ thời cổ đại.
    1 like
  49. THÔNG BÁO Về việc thay đổi Trụ sở VPDD Hà Nội Từ tháng 6/2010, Văn Phòng Đại Diện TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG tại Hà Nội chuyển về Trụ sở mới, Địa chỉ : Số 1A- Phố Đặng Dung - Quận Ba Đình - Hà Nội. Tel: 04-37160606 Mobile: 0903420020 Kính báo
    1 like
  50. NHỮNG HIỂU BIẾT CẦN THIẾT VỀ BÀN THỜ THẦN TÀI - ÔNG ĐỊA . Tại các cửa hàng và gia đình hiện nay, chúng ta thường thấy có bàn thờ Ông Địa - Thần Tài . Việc thờ cúng đó có nguồn gốc như thế nào ? Cách thờ cúng và bài trí ra sao ? Trong mục này , dienbatn xin cùng các bạn tìm hiểu về vấn đề này nhé . Theo CAO ĐÀI TỪ ĐIỂN , có viết như sau : " Thần tài: 神財 A: The Genius of fortune. P: Le Génie de fortune Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. Tài: tiền bạc, của cải. Thần tài là vị Thần cai quản về tiền bạc và của cải. Theo tín ngưỡng dân gian, Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhứt là gia đình mua bán hay kinh doanh đều có bàn thờ Thần tài, đốt nhang nghi ngút để cầu xin Thần tài cho mua may bán đắt, trúng mối lời nhiều, đem lại nhiều tiền bạc sung túc. Người đời rất quí trọng tiền bạc nên rất quí trọng Thần tài. Những nhà kinh doanh đều có lập bàn thờ Thần tài rất long trọng, đặc biệt bàn thờ Thần tài không được đặt trên cao mà phải đặt ngay trên mặt gạch nền nhà. Tục thờ Thần tài được người Tàu truyền cho dân ta. Người Tàu sang nước VN làm nghề buôn bán trở nên giàu có, mỗi nhà người Hoa đều có thờ Thần tài nên người Việt thấy vậy bắt chuớc theo. Nhiều nhà không có thờ phượng Trời Phật chi hết mà lại thờ Thần tài. Sự tích của Thần tài: có nhiều sự tích nhưng dân gian thường nhắc hai sự tích sau đây: 1. Thần tài là một cô gái tên là: Như Nguyện. Ngày xưa, có một lái buôn tên là Âu Minh, khi đi thuyền qua hồ Thanh Thảo, được Thủy Thần tặng cho một cô hầu gái tên là Như Nguyện. Âu Minh đưa Như Nguyện về nuôi trong nhà. Sự buôn bán từ ngày đó trở đi càng ngày càng phát đạt, chỉ trong vòng vài năm mà Âu Minh trở thành một nhà giàu có lớn. Một hôm, vào Tết Nguyên đán, Âu Minh tức giận đánh Như Nguyện làm nó sợ hãi, chui vào đống rác trốn mất. Kể từ đó, việc buôn bán của Âu Minh bắt đầu thua lỗ sa sút, chẳng bao lâu thì sạt nghiệp, trở nên nghèo khổ. Người ta cho rằng, Như Nguyện là Thần tài. Lúc Âu Minh nuôi Như Nguyện trong nhà thì Thần tài ủng hộ nên làm ăn phát đạt. Tới khi Như Nguyện bị đánh rồi bỏ đi thì Thần tài không còn chiếu cố Âu Minh nữa nên làm ăn sa sút, thất bại. Do sự tích nầy, người ta có tục kiêng cử quét rác và hốt rác trong ba ngày Tết, sợ Thần tài không có chỗ ẩn trốn mà đi nơi khác thì việc làm ăn trong năm sẽ bị xui xẻo thất bại. Cũng do sự tích nầy mà người ta lập bàn thờ Thần tài sát nền đất hay nền gạch, không đặt cao như các bàn thờ khác, và đặt ở góc nhà hay nơi hàng hiên. Nhưng trong thực tế, người ta thường gọi là Ông Thần tài chớ không ai gọi là Bà Thần tài, nên sự tích Thần tài là cô gái Như Nguyện chưa hẳn là chính xác. 2. Thần tài là ông Triệu Công Minh: Ông Triệu Công Minh ở đây không phải là Triệu Công Minh trong truyện Phong Thần hay trong truyện Bắc Du Chơn Võ, mà là một người dân ở núi Võ Đang bên Tàu. Truyện dân gian Trung quốc kể rằng: ở vùng núi Võ Đang có một ông già tên là Triệu Công Minh nhà rất nghèo. Ngày ngày, ông xách giỏ đi khắp nơi xin quần áo cũ để mặc và xin cơm cặn canh thừa để ăn. Nghèo đến thế nhưng ông lão có nuôi một con chó đen già và một con vịt lông vằn không đẻ trứng. Gần đấy có một ông phú hộ, gọi là Tiền Viên Ngoại, tánh rất xa xỉ và bất nhân, cơm ăn không hết thì đem đổ xuống cống, áo mặc cũ rồi thì bỏ vào đống rác. Ông lão nghèo họ Triệu thấy vậy mới lượm gom hết các quần áo cũ đem phân phát cho những người nghèo, hốt các canh thừa cơm cặn ấy về nuôi chó và vịt. Bỗng một hôm, con vịt đẻ ra 10 quả trứng vàng, còn con chó già thì khạc ra 10 thoi bạc. Từ đó thành lệ, mỗi ngày vịt và chó đều đẻ và khạc ra vàng bạc cho lão Triệu. Lão Triệu trở nên rất giàu có, trong lúc Tiền Viên Ngoại thì càng lúc càng nghèo vì tánh xa xỉ. Một thời gian sau, Tiền Viên Ngoại phải đi ăn xin, khi gặp lại Triệu Công Minh, lão Viên cảm thấy rất xấu hổ. Họ Triệu thông cảm, giúp cho lão Viên một số tiền khá khá đủ làm vốn liếng làm ăn, nhưng Lão Viên quen tánh tiêu xài xa xỉ nên dần dần hết vốn, trở nên nghèo khổ. Lão Viên lại sanh ác tâm, thấy họ Triệu giàu lớn như vầy bèn tính giết Triệu Công Minh để chiếm đoạt tài sản. Lão Viên thừa lúc vắng vẻ, lén đốt nhà của Triệu cháy ra tro, nhưng họ Triệu không chết, con vịt biến thành chim Phụng bay vút lên trời, con chó già biến thành con cọp đen xông ra cắn chết lão Viên, tất cả vàng bạc của Triệu đều hóa thành đá, và Triệu Công Minh biến thành Thần Tài. Dân chúng lập miểu thờ Triệu Công Minh gọi là Thần tài miếu. Chúng ta không thể xác định được người VN thờ Thần tài vào lúc nào, bởi vì như trên đã nói, việc thờ Thần tài là do người VN bắt chước các Hoa kiều, như thế những người VN thờ Thần tài chắc chắn là những người thường làm ăn buôn bán với các Hoa kiều. Việc thờ Thần tài trong mỗi gia đình khiến cho người ta sáp nhập Thần tài vào các Thần bản gia như: Thổ địa, Ông Địa, Ông Táo. Do đó, người Tàu làm ra một tấm bài vị gộp chung các danh hiệu của các vị Thần bản gia để thờ, mà người ta thường gọi là "bài vị Thần tài", và chúng ta thấy bài vị nầy được thờ ở hầu hết trong các tiệm quán, nhà buôn, ở các văn phòng công ty và xí nghiệp. Bài vị Thần tài được vẽ trên một tấm kiếng, nền sơn đỏ, tất cả đều là chữ Hán màu nhũ vàng, vẽ một cái cổng mà hai trụ có rồng quấn, trên cổng có tấm bảng đề "TỤ BẢO ĐƯỜNG" nghĩa là ngôi nhà có tụ lại những thứ quí báu, phía dưới có vẽ một cái TỤ BẢO BỒN là cái chậu huyền diệu chứa của báu. Sau đây là một kiểu bài vị Thần tài và các Thần bản gia: 堂寶聚寶進 財招銀 樹 正 開 花 前 後 地 主 財 神 五 方 五 土 龍 神 金 枝 初 潑 腳 祥吉意如安平季四順風帆一 CHÚ THÍCH: (chữ Hán trên bài vị đọc từ phải qua trái và từ trên xuống dưới) 聚寶堂 : TỤ BẢO ĐƯỜNG: nhà chứa của quí báu. 招財 : Chiêu tài: mời gọi tiền của. 進寶 : Tiến bảo: dâng hiến bảo vật. 金枝初潑腳 : Kim chi sơ phát diệp: Cành vàng bắt đầu trổ lá. 銀樹正開花 : Ngân thụ chánh khai hoa: Cây bạc chánh thức nở hoa. Hai câu trên là đôi liễn đặt hai bên bài vị, như để chúc tụng. Trong một kiểu bài vị khác, đôi liễn trên được viết là: Thổ năng sanh bạch ngọc (Đất thường sanh ngọc trắng) Địa khả xuất hoàng kim (Đất khá xuất vàng ròng). 如意吉祥 : Như ý cát tường: tốt lành như ý muốn. 一帆風順 : Nhứt phàm phong thuận: thuận buồm xuôi gió. 四季平安 : Tứ quí bình an: bốn mùa bình an. Hai câu chữ lớn ở chính giữa là danh hiệu của các Thần bản gia để thờ phượng: 五方五土龍神 : NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỔ LONG THẦN 前後地主財神 : TIỀN HẬU ĐỊA CHỦ TÀI THẦN ■ Ngũ phương Ngũ thổ Long Thần: năm vị Thần trấn năm hướng và năm vị Thần đất đai long mạch sắp đặt theo Ngũ Hành gồm: bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, và Trung ương. ● Năm vị Thần Ngũ phương là: Hoàng đế (Trung ương), Bạch đế (hướng Tây), Hắc đế (hướng Bắc), Thanh đế (hướng Đông), Xích đế (hướng Nam). ● Năm vị Ngũ Thổ Long Thần là năm vị Thần long mạch coi về đất đai, bảo hộ cư dân làm ăn sinh sống, gồm: Thổ Công, làm chủ nền nhà. Thổ Thần, làm chủ khu đất. Thổ Địa, cũng gọi là Môn Khấu Thổ Địa Tiếp Dẫn Tài Thần: Thần Thổ Địa trực ở cổng để tiếp dẫn Thần Tài vào nhà. Thổ Phủ, bảo hộ các kho hàng. Thổ Kỳ, cai quản mặt đất nói chung. ■ Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần: gồm hai vị: Tiền Địa Chủ Tài Thần và Hậu Địa Chủ Tài Thần. ● Tiền Địa Chủ Tài Thần là Thần Tài của chủ đất trước. Thờ vị Thần nầy là có ý báo bổn tư nguyên, tức là báo đáp cái gốc, nhớ đến cái nguồn. ● Hậu Địa Chủ Tài Thần là Thần Tài của chủ đất sau, tức là thờ vị Thần Tài của chủ đất hiện nay. (Theo Huỳnh Ngọc Trảng - Nguyễn Đại Phúc: Thần Tài - Tín ngưỡng và Tranh tượng) Những cơ sở kinh doanh các ngành nghề đều có thờ Thần Tài. Họ lập bàn thờ Thần tài lớn và trang nghiêm rực rỡ, chưng cúng bông và trái cây thường xuyên, cúng nước mỗi sáng mỗi chiều đều đốt nhang khấn vái để Thần Tài luôn luôn phù hộ cho họ làm ăn phát tài. Trên bàn thờ, ngoài bài vị Thần Tài còn có đặt phía ngoài hai tượng: tượng Ông Địa và tượng Ông Thần Tài. Đạo Cao Đài không có chủ trương cấm đoán các hình thức tín ngưỡng dân gian như việc thờ cúng Thần Tài, Ông Địa, Ông Táo, Ông Độ Mạng, Bà Mẹ Sanh,... nhưng cũng không khuyến khích các việc ấy, vì các sự thờ cúng trên đều có tánh cách mê tín, vị kỷ, cầu lợi lộc, tiền bạc cá nhân, đi sâu vào sự ràng buộc con người vào vòng vật chất, khó thoát khỏi luân hồi, trái với lẽ đạo là tu để cầu giải thoát, chớ không phải tu để cầu hưởng sự giàu sang danh vọng. Giáo lý của Đạo Cao Đài cho thấy rõ rằng, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều là những bậc sáng suốt, công bình, vô tư, không biết ăn hối lộ của vật chất thế gian do người trần dâng cúng. Ai làm lành thì được thưởng, ai làm ác thì bị đọa, theo đúng Luật Nhân Quả là luật công bình thiêng liêng của Trời Đất. Sự giàu có không phải do van xin Thần Thánh, mà là do phước đức của mình tạo ra từ kiếp trước. Một người nghèo khổ là do kiếp trước gây nhiều việc ác, tạo nhiều nghiệp xấu nặng nề, thì dầu trong kiếp nầy có lạy cầu Thần Thánh đến dập trán chảy máu đầu cũng không thể khá hơn được. ● Thuở xưa, Đức Khổng Tử có dạy rằng: Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ phúc, Vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ họa.Nghĩa là: Làm điều lành thì Trời báo đáp cho điều phước, Làm điều chẳng lành thì Trời báo đáp điều tai họa.● Đông Nhạc Đế Quân cũng có nói rằng: Thiên Địa vô tư, Thần minh thời sát, Bất vị tế hưởng nhi giáng phúc, Bất vị thất lễ nhi giáng họa.Nghĩa là:Trời Đất không tư vị, các Thần sáng suốt thường soi xét, Không phải vì hưởng cúng tế mà xuống cho điều phước, Không phải vì thất lễ mà xuống cho điều tai họa.● Kinh Sám Hối cũng có câu: Thần minh chánh trực có đâu tư vì. ( Còn tiếp - dienbatn) .
    1 like