-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 26/09/2010 in all areas
-
Tôi xin được thẳng thắn mà nói rằng: Những tư duy được gọi là "khoa học" đã có nhứng ví von gây xúc phạm nặng nề. Từ những ngôn từ ban đầu so sánh phương pháp dự báo với súc vật và phương pháp nghiên cứu với những người tâm thần hoang tưởng. Khiến tôi rất thất vọng. Tuy nhiên, tôi vẫn cố gắng vào phút chót. Đây là dự báo của tôi vào ngày mai và không thay đổi ý kiến. Nếu dự báo này sai. tôi thừa nhận thất bại và trở về nhà. Tôi sẽ xin lỗi công luận đã chú ý từ nhiều ngày nay. Nếu dự báo này đúng, tôi có thể tự tin hơn và tiếp tục công việc của mình.11 likes
-
THỰC TẾ THỜI TIẾT NGÀY 26. 9 QUA HÌNH ẢNH Tiếp theo Phía bên kia Hồ Trúc bạch. 20g Chưa có ánh trăng thu tháng 8. Trời Hanoi có thể có mưa nhỏ. Nhưng không thể không có trăng, đặc trưng của mùa thu. Trấn Quốc đêm đêm. Vẫn vọng về từng hồi chuông....nghe thê lương Chiều Cát Bụi - Ngân Giang Nữ Sĩ. Đêm Hồ Tây Cuối cùng thì trăng tháng Tám vẫn xuất hiện trên bầu trời. Biểu tượng của mùa thu. Ai mua trăng? Tôi bán trăng cho. Chẳng bán tình duyên lỡ hẹn thề...... Hàn Mặc Tử6 likes
-
Thưa Bác Thiên Sứ! Đến lúc này không phải lúc phản biện hay chứng minh gì với ai cả, cứ xem như cuộc chơi tận tụy hết lòng vì Đại Lễ của Dân Tộc, được mất mình biết, bên cạnh đó còn tổ tiên anh linh chứng giám việc làm này vô vụ lợi, ngày đặt ra 1 cái giá để so sánh với cái tốn kém dự chi nhưng nay không còn mặc cả để được gì nữa. Nếu như mỗi ngày nhận sự châm chích của ai đó rồi bận tâm lại e rằng hao tổn năng lượng và trí tuệ. Đã bước vào cuộc chơi cần có công bằng nhưng đã không công bằng thì ta cứ tận tụy với khát vọng của mình. Có 1 lúc nào đó ta như thạch chịu đựng mọi sự va đập của thời gian, sẽ phát chân ngọc quý Bác ạ! Vài lời chia sẽ cùng tâm nguyện với Bác, mong Bác chớ vội vui với thiện tình ủng hộ và chớ buồn với những bài xích từ tứ phía bất đồng.4 likes
-
DỰ BÁO - CẬN BIẾN HÓA Bác Vuivui đưa ra một khái niệm gọi là "cận biến hóa". Chúng ta hiểu điều này như thế nào? I - DỰ BÁO. Trong trân chiến Ai Cập - Napoleon có một mệnh lệnh nổi tiếng: "Lừa ngựa và các nhà khoa học đi vào giữa". Tất nhiên ông ta không có ý coi thường các nhà bác học và đám lừa ngựa, khi gom chung cả hai nhóm này vào giữa đoàn hành quân. Nhưng mệnh lệnh quân sự cần ngắn gọn và qua đó cho thấy tầm quan trong của phương tiện vận chuyển hậu cần trong cuộc viễn chinh với tri thức khoa học cần được bảo vệ trên đường hành quân. Một trong những tiêu chí của tri thức khoa học cho một lý thuyết khoa học chính là khả năng dự báo. Ông ta không so sánh tri thức khoa học - thể hiện ở khả năng dự báo với những con lừa. Trong điều kiện bài này tôi chỉ trình bày về Phương pháp dự báo của nền Lý học Đông phương huyền vĩ và chưa bàn về sự dự báo theo cảm ứng. Có lẽ tôi không cần phải trình bày chi tiết phương pháp dự báo như Tử Vi, Bốc Dịch.....vv....Nhưng chúng ta đều thấy rõ rằng: Chúng có tính hệ thống, tính qui ước, tính nhất quán về phương pháp luận thể hiên một quy luật khách quan rất chặt chẽ và khả năng tiên tri. Hàng ngàn năm nay, khi tiếp xúc với nền văn minh Đông phương - tri thức khoa học có xuất xứ Tây Phương cho rằng: Nó mang tính huyền bì. Sở dĩ như vậy vì những khái niệm, tính quy ước...vv...của các phương pháp này phản ánh một thực tại vận động có tính quy luật nào của vật chất trong vũ trụ chưa được biết. Và đó chính là yếu tố căn bản làm nên sự huyền bí của khoa dự báo Đông Phương. Trong những tác phẩm của mình, tôi đã chứng minh rằng: Chúng phản ánh những quy luật vận động tương tác của Vũ trụ liên quan đến Địa Cầu. Trên cơ sở luận điểm này thì chúng ta xét đến tính quy ước của phương pháp dự báo theo Lý học Đông phương và so sánh với thực tế khách quan của sự vận động vũ trụ. Những quí ước đó phản ánh một nhận thức thực tại khách quan, nhưng không phải thực tại khách quan. Thí dụ: Một giờ trong Lý học Đông phương qui ước bằng hai giờ Tây. Trong một giờ quy ước đó - như giờ Tý chẳng hạn - thì sự vận động của vũ trụ - cụ thể là các hành tinh trong Thái Dương hệ - sẽ nằm ở những vị trí tương đối nào đó trên bầu trời. Sang giờ Sửu, nhưng vị trí này sẽ có một bố cục khác. Những bố cục khác nhau này sẽ gây những hiệu ứng tương tác khác nhau cùng tính chất trong khoảng một giờ của không gian vũ trụ qui ước đó. Chính tính quy luật về tính chất hiệu ứng tương tác trong khoảng một giờ qui ước này làm nên khả năng tiên tri cho tất cả mọi sự kiện trên thế gian chịu sự tương tác này. Nhưng chúng ta cũng biết rằng: Một giờ qui ước đó chính là sự phân loại tính chất hiệu ứng tương tác trong khoảng không gian đó một cách tổng quát. Sự vận động của vũ trụ trong một giờ qui ước đó không hoàn toàn giống nhau. Và không phải là một hiệu ứng tương tác cố định xuyên suốt từ đầu giờ đến cuối và khi chuyển sang giờ khác thì nó đột ngột thay đổi tính chất. Thực tế vận động vũ trụ xác định điều này. Đó là lý do có sai số trong tính quy ước và thực tế trong dự báo (Tôi không dùng từ "xác xuất" ngớ ngẩn. Phương pháp dự báo trong Lý học Đông phương không phải việc tung đồng xu, để kết luận 50/ 50). Nhưng không gian vũ trụ trong một giờ đó sẽ phản ánh bản chất của tính tương tác chi phối sự vận động có khả năng tiên tri. Thí dụ một quẻ Dịch - bốc trong một giờ nào đó - xác định được rằng sẽ không có mưa trong vòng bày ngày - trong trường hợp này tôi loại suy khả năng người coi bói , được giả thiết là tuyệt đối giỏi - thì điều đó chỉ có thể xác định một cách tổng quan rằng: "Sẽ không có mưa trong vòng bảy ngày". Nhưng chính vì sự sai lệch giữa tính quy ước của thời gian và thực tế vận động, nên vẫn có thể có khả năng mưa trong thời gian bảy ngày đó. Bởi đầu giờ, cuối giờ và giữa giờ thì tương quan vị trí các hànn tính khác nhau, nhưng qui ước vẫn chỉ trong một giờ đó. Mặc dù tổng quan chung là không có mưa. CẬN BIẾN HÓA Như vậy khả năng mưa vẫn có thể xảy ra và khi tương tác cụ thể tới Địa Cầu, hoặc từng khu vực trên Địa cầu được dự báo. Khả năng mưa này sẽ thể hiện bằng - thí dụ - "Mây đen", "chuồn chuồn bay thấp"...vv....hoặc dấu hiệu áp thấp trên biển, hay một cơn mưa xuất hiện ngay gần vùng dự báo nắng chẳng hạn, hoặc nặng hơn nữa là những dự báo khí tượng thủy văn quốc tế và khu vực, tức là những cái mà con người bằng phương tiện hoặc trực quan đã dự báo có tính xác định cao (Tuy vẫn sai. Híc!)......Đây có thể coi là dấu hiệu của "cận biến hóa" mà người ta có thể qua những dấu hiệu ấy để xác định khả năng dự báo ngược lại có thể sai. Trên cơ sở những điểm "Cận biến hóa" ngược với dự báo - trong bối cảnh tổng quan chung của dự báo thì sự tương tác có thể chứng tỏ khả năng thực hiện khi dấu hiệu của "cận biến hóa" không xảy ra. Bởi vậy - tôi nhắc lại một lần nữa rằng: Không phải ngẫu nhiên Thày Đức cho rằng "Về lý thuyết có thể thực hiện được". Còn cơ chế tương tác thế nào, chúng tôi đang thực nghiệm. Vâng! Có thể sai. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị. ------------------------------ TƯ LIỆU THAM KHẢO Thư gửi TGĐ Đường sắt về trách nhiệm Tiến sĩ 23/09/2010 07:08:05 - Đã đến lúc 300 Tiến sĩ ĐS hãy nhận lấy trách nhiệm khoa học của mình là phải mở rộng và hiện đại ĐS. Không làm được điều đó chúng ta không xứng đáng là Tiến sĩ ĐS. TIN LIÊN QUAN "Ông Tổng" đường sắt: Tôi tư duy "đi tắt đón đầu" "Ông Tổng" đường sắt nói về tàu chợ và ĐSCT LTS: Sau khi đọc bài trò chuyện với TGĐ Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam Nguyễn Hữu Bằng, Tiến sĩ Trần Đình Bá – tác giả luận án "Mở rộng và hiện đại ĐSVN bằng tà vẹt ba ray", công trình nghiên cứu khoa học đã được gửi đến tận tay Thủ tướng vào năm 2006 và đã được trao giải thưởng Quốc gia về hiến kế năm 2008, đã gửi thư cho Tiến sĩ Nguyễn Hữu Bằng nói về trách nghiệm của Tiến sĩ trước hiện trạng đường sắt lạc hậu! Để rộng đường dư luận, Bee xin trích đăng bức thư. Vũng Tàu, ngày 20 tháng 9 năm 2010 Kính thưa Tiến sĩ - TGĐ Nguyễn Hữu Bằng kính mến! Trước hết tôi xin kính chúc TS - TGĐ dồi dào sức khỏe, sáng suốt lãnh đạo Tổng Công ty ĐSVN giành nhiều thắng lợi mới! Tôi rất mừng cho Tổng Công ty ĐSVN vì vấn đề ĐS hiện nay đã và đang được công luận xã hội quan tâm một cách đặc biệt. Đại công trình ĐS đã được đặt nghiêm túc lên bàn Quốc hội và nó đã trở thành vấn đề thời sự hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng, bởi vì đường sắt Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện đại lại đang tụt hậu hơn so với thời kỳ trước 1945 (thời kỳ Pháp thuộc). Đường sắt VN được toàn xã hội kỳ vọng là huyết mạch chủ lực chỉ còn lại 7% thị phần, thấp nhất trong 5 loại hình vận tải (là ĐS, Hàng không, đường bộ, đường biển và đường sông)! Tai nạn lật tàu hiện nay liến tiếp xảy ra đang gây lo lắng cho toàn dân. Đường sắt lạc hậu khổ 1 mét có từ thời kỳ nô lệ đang trở thành nỗi đau lương tâm trách nhiệm và là niềm hổ thẹn cho 300 tiến sĩ ĐS nước ta! Tai nạn lật tàu hiện nay liến tiếp xảy ra đang gây lo lắng cho toàn dân. Ảnh: Vietnamnet Kính thưa Tiến sĩ - TGĐ Nguyễn Hữu Bằng kính mến! Với tư cách là một nhà khoa học, tôi xin chân thành báo để Tiến sĩ – TGĐ biết rằng: Sau khi lập trình để làm bài toán an toàn ĐS, tôi đã tính được Mô men kháng lật của khổ ĐS 1 mét kiên cố hóa bằng BTCT dự ứng lực như hiện nay đang thấp hơn khi chưa gia cố, Vì vậy nguy cơ gây lật còn cao hơn khi ở tốc độ 80 km/h, minh chứng là liên tiếp nhiều vụ lật tàu nghiêm trọng gần đây tại Miền Trung – nơi ĐS đã được gia cố. Như vậy, ý định gia cố để tăng tốc sẽ không thể nào thực hiện được và việc sử dụng 26.500 tỷ đồng để kiên cố hóa ĐS bằng tà vẹt BTCT dự ứng lực khổ 1 mét sẽ gây lãng phí lớn, vừa kìm hãm ĐS nước ta trong vòng lạc hậu vĩnh cữu. Tai nạn lật tàu và sự lạc hậu kéo dài đang đe dọa tính mạng nhân dân và nhân viên ĐS, sẽ tác động xấu đến nền kinh tế và các hoạt động xã hội, đặc biệt là trực tiếp đến đời sống của 4 vạn nhân viên ngành ĐS . Tôi cho rằng, học vị Tiến sĩ không phải là vinh dự khoa học mà là trách nhiệm khoa học nặng nề to lớn trước Nhà nước – trước cộng đồng . Chúng ta hiện đang có hàng chục trường Đại học, hàng chục Viện nghiên cứu về giao thông, về ĐS, có 300 Tiến sĩ mà để cho ĐS lạc hậu, rệu rã tụt hậu hơn so với ĐS thời nô lệ (trước 1945) là có lỗi lớn với nhân dân, là chưa xứng đáng với trách nhiệm Tiến sĩ . Tôi tự thấy rằng đội ngũ tiến sĩ ĐS chúng ta còn thiếu năng lực, thiếu bản lĩnh chưa dũng cảm chinh phục ĐS lạc hậu, thậm chí còn bao biện, kéo dài lạc hậu trên ĐS khổ 1 mét và gây đau thương cho nhân dân và nhân viên ĐS. Với 300 tiến sĩ ĐS mà không mở rộng để hiện đại được ĐS, mà phải đi nhờ chuyên gia nước ngoài “nghiên cứu khả thi“ thì thực sự không xứng đáng với non sông ngàn năm văn hiến. Nhân dân đang chết chóc đau thương trong đại họa tai nạn giao thông mà Tiến sĩ ĐS chúng ta thụ động ngồi chờ “Nhân dân Hiến kế …” thì quả là vô dụng! Tại sao với 300 Tiến sĩ ĐS hùng hậu lại để cho ĐS tụt hậu!?! Để cho ĐS lạc hậu kéo dài thì 300 luận án tiến sĩ ĐS sẽ không còn giá trị! Đã đến lúc 300 Tiến sĩ ĐS hãy nhận lấy trách nhiệm khoa học của mình là phải mở rộng và hiện đại ĐS. Không làm được điều đó chúng ta không xứng đáng là Tiến sĩ ĐS. Tôi cho rằng mỗi Tiến sĩ chúng ta phải bình đẳng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng – trước Nhân dân và mỗi Tiến sỹ ĐS phải chịu trách nhiệm về nội dung trong từng luận án tiến sĩ của mình, như thế mới thực sự có bản lĩnh! Kính thư Tiến sĩ Trần Đình Bá – Hội Kinh tế & vận tải ĐSVN3 likes
-
Cảm ơn Văn Lang có lời chia sẻ.Nếu đây chỉ là những lời chỉ trích ôn ào của những kẻ vô danh muốn thể hiện tri thức của họ thì chắc tôi cũng chẳng quan tâm. Nó đầy ra như hàng chợ bán son trên các diễn đàn. Nhưng đây lại là lãnh đạo cao cấp của một liên hiệp hội các nhà khoa học. Bởi vậy, tiếng nói của ông có tính hướng dẫn dư luận rất tích cực. Cho dù ông ta sai. Tôi đã hơn một lần nói trên diễn đàn này. Với người học hết lớp bẩy thì sẽ được những người học hết lớp ba cho là đúng. Nếu như ông ta phản biện trên cơ sở những luận cứ mang tính phương pháp luận để chỉ ra những sai lầm mang tính lý thuyết (Vì vụ việc chưa xảy ra) - Lễ Hội ít nhất trong lúc này còn cả 4 ngày nữa mới tiến hành - thì nó tương đối xứng tầm với một địa vị và học vị như ông ta. Nhưng đằng này, ông ta lại đưa những hiện tượng để so sánh kể cả với súc vật và bệnh tâm thần. Tôi biết rằng ý kiến của ông ta không ít người ủng hộ. Trong khí việc làm của tôi mang tính thử nghiệm một phương pháp cổ ngăn mưa trong điều kiện cần và đủ (Một trong những điều kiện đó mà bác Vuivui gọi là các điểm "cận biển hóa" có thể điều chỉnh). Chứ không phải ngăn mưa trong mọi điều kiện và dịch ra tiếng Hán Việt là "Hô phong hoán vũ". Đương nhiên trước khi xác định bảy ngày Đại Lễ không mưa thì đây là dự báo. Nhưng tính dự báo Đông phương đều mang tính xác xuất do sự chênh lệnh giữa tính quy ước của phương pháp và thực tế khách quan mà nó phản ánh, nhưng không phải thực tế. Như vậy, khi đã có một bảng tổng quan về khả năng xảy ra nắng thì việc khả năng xảy ra mưa sẽ xuất hiện những hiện tượng - mà bác Vuivui gọi là "cận biến hóa - là điều kiên có thể hiệu chỉnh bằng tương tác chủ quan - nếu nắm được quy luật. Bởi vậy, để chắc ăn 100% (Chứ không có 99%) tôi đã xác định rằng: Trong diều kiện cần và đủ thì sẽ phải không có bão trên biển Đông của Việt Nam trong vòng 20 ngày. Đây là một xác xuất cực kỳ thấp so với cục diện thời tiết đầu tháng 8 Việt lịch. Nhưng nếu nó xảy ra thì tính ứng dụng cục bộ sẽ rất khó khăn và khả năng thất bại rất cao. Và bằng chứng đã xuất hiện siêu bão ngay bên cạnh Việt Nam - Tỉnh Quảng Đông - trong thời gian này. Đến hôm nay, mọi việc như dự tính của tôi. Bởi vậy tôi ngày càng tự tin. Tuy nhiên vấn đề vẫn ở phía trước, tôi rất ý thức được rằng: Trái Đất bao la với con người, nhưng chỉ là một hạt cát của vũ trụ. Tôi chỉ còn tin rằng những quy luật vũ trụ đã được tổng kết và ứng dụng trong thuyết Âm Dương Ngũ hành sẽ không sai. Nên tôi vẫn rất thận trong từng chút. Nếu như, các phương tiện truyền thông không làm ầm ĩ, chắc bây giờ tôi vẫn ở nhà và đây sẽ được coi như là một dự báo như bao dự báo còn giật gân hơn của lý học trên trang web này. Nhưng vì mọi chuyện công khai, nên tôi phải cố gắng. Nhưng điều tôi đã nói ở trên, hoàn toàn có cơ sở lý thuyết và có thể thực nghiệm phương pháp để thực hiện. Mặc dù nó còn cần rất nhiều sự khám phá khác về bản chất vật chất của tri thức khoa học hiện đại như: Khái niệm "khí"...vv....Đây không phải là việc của kẻ tâm thần hoặc của một đám súc vật. Tôi đã thông báo về thời tiết ngày hôm nay 26 - 9. Tôi sẽ quyết định tôi làm gì tiếp theo sau khi chứng nghiệm dự báo này. Trách gì chăng ai? Thủy tiên triền miên nhan sắc ngủ. Đau gì chăng ai? Đào phai tràn lan, Trà Mi héo rũ.... Thơ Hoàng Cầm.3 likes
-
PHONG THUỶ LẠC VIỆT TẠI CẦN THƠ Ngày 12/9/2010, công ty xi măng HOLCIM tổ chức một hoạt động quảng bá về vĩnh vực xây dựng tại Cần Thơ. Trong khuôn khổ hoạt động tại Trung tâm hoạt động thiếu nhi, Nhà Thiếu Nhi Cần Thơ, từ 8g00 đến 20g00 cùng ngày, với những bàn tròn tư vấn miễn phí về địa chính, kiến trúc, xây dựng, xi măng và phong thuỷ nhà ở, công ty HOLCIM đã mời các thành viên của Trung Tâm Nghiên Cưu Lý Học Đông Phương cộng tác thực hiện buổi tư vấn miễn phí về phong thuỷ cho người dân ở tỉnh Cần Thơ. Chuyến đi thật suông sẻ và thành công tốt đẹp. Mỗi ca tư vấn gói gọn trong khoản 10 phút cho từng lĩnh vực địa chính, kiến trúc, xây dựng, xi măng và phong thuỷ. Tổng kết cuối buổi tư vấn thì bàn tròn tư vấn phong thuỷ đã tư vấn hết thảy hơn 100 ca, trong khi đó tư vấn kiến trúc chỉ vỏn vẹn gần 50 ca. Ban tổ chức sự kiện quản bá đánh giá tổng kết buổi tư vấn miễn phí tại Cần Thơ, thành công nhất vẫn là mãng Phong thuỷ. Chuẩn bị lên đường chiều 11/9/2010. Kỷ niệm một kiểu gần 20g00 mới tới Cần Thơ, cả 4 "tư vấn viên" đều..."đói như con chó sói" trong khi một thành viên định làm một kiểu "tự sướng" thì không ngờ sau lưng có người đang "đói meo như mèo", tự khổ! Ngon quá! Đại diện công ty trao đổi và cho biết chương trình ngày mai. Hehe sô hàng trước coi nè! :) Anh cũng sô luôn...mặc dù hong có sô! :) Chuẩn bị nhé, ngày mai lên...mâm. :(2 likes
-
Bảo Tàng Hà Nội Với 50.000 Hiện Vật
Tommy dang liked a post in a topic by Guest
XÃ HỘI Chủ nhật, 12/9/2010, 11:32 GMT+7 Sắp mở cửa Bảo tàng Hà Nội với 50.000 hiện vật Công trình từng là dự án lớn nhất do Hà Nội làm chủ đầu tư sẽ mở cửa vào ngày 6/10 với 50.000 hiện vật được trưng bày. Thành phố cũng vừa công bố chương trình các hoạt động 10 ngày đại lễ. Theo bà Ngô Thị Thanh Hằng, Phó chủ tịch UBND Hà Nội, đến nay, công trình Bảo tàng Hà Nội đã hoàn thành cơ bản việc xây dựng và đang chuẩn bị khâu trưng bày các hiện vật. Đúng sáng 6/10, bảo tàng sẽ làm lễ khánh thành và trưng bày 50.000 hiện vật. Đồng thời với việc mở cửa, festival cây cảnh nghệ thuật cũng sẽ được tổ chức tại đây trên diện tích 3 ha sân vườn trong khuôn viên bảo tàng. Với tổng kinh phí 2.300 tỷ đồng, đây là dự án lớn nhất do Hà Nội làm chủ đầu tư vào thời điểm khởi công, tháng 5/2008. Bảo tàng Hà Nội có kết cấu hình "kim tự tháp ngược", là nơi trưng bày hàng nghìn hiện vật của thủ đô. Ảnh: Đ.L. Theo thiết kế, Bảo tàng Hà Nội có tổng diện tích gần 54.000 m2, cao 30,7 mét. Công trình gồm 4 tầng nổi và 2 tầng hầm; diện tích xây dựng xấp xỉ 12.000 m2, diện tích sàn hơn 30.000m2 (kể cả tầng hầm và tầng mái). Bảo tàng Hà Nội có kết cấu hình "kim tự tháp ngược", trong đó tầng bốn có diện tích lớn nhất, các tầng dưới nhỏ dần. Bảo tàng có đầy đủ các công trình liên hoàn điện, nước, cảnh quan (cây xanh, hệ cống cấp điện, chiếu sáng, cấp thoát nước ngoài nhà...). Công trình được thiết kế 3 cầu thang máy, 4 thang bộ. Hai tầng hầm của bảo tàng được bố trí hai phòng họp và các phòng kỹ thuật phục vụ. Ở tầng một (cao 6 m) là tiền sảnh, các khu trưng bày tạm thời và khu giải khát. Từ tầng hai đến tầng bốn sẽ bố trí không gian trống linh hoạt cho việc thiết lập khu trưng bày triển lãm hiện vật của bảo tàng. Riêng tầng bốn còn bố trí thêm khu văn phòng hành chính cho đơn vị quản lý bảo tàng. Theo lãnh đạo Hà Nội, Bảo tàng Hà Nội sẽ cùng với Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình tạo nên một quần thể kiến trúc liên hoàn và có tính hỗ trợ nhau. Nếu xét về mặt thẩm mỹ thì cả hai công trình kiến trúc này sẽ làm nên một diện mạo tổng thể đẹp mắt, tạo điểm đến hấp dẫn cho người dân và du khách trong, ngoài nước. Cũng trong dip đại lễ, hàng loạt công trình sẽ được khánh thành như Công viên Hòa Bình tại Xuân Đỉnh - Từ Liêm, tượng đài Bác Hồ - Bác Tôn tại Công viên Thống Nhất (ngày 6/10); cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tu;, gắn biển Đại lộ Thăng Long tại ngã tư Phạm Hùng - Trần Duy Hưng (ngày 9/10)... Thành phố cũng vừa công bố chi tiết chương trình các hoạt động 10 ngày đại lễ. Nguyễn Hưng =================== Sự hoà quyện giữa thiên nhiên và con người laodong.com.vn - 09:21 28/08/2010 (LĐ) - Vào đúng dịp đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, Bảo tàng Hà Nội sẽ mở cửa để đón khách tham quan. Đây là bảo tàng có quy mô lớn nhất và cũng là bảo tàng hiện đại nhất của Việt Nam. PV Lao Động đã ghi lại những hình ảnh tại công trường Bảo tàng Hà Nội trong giai đoạn nước rút. Bảo tàng Hà Nội có tổng diện tích 53.963m2, chiều cao 30,7m, gồm 4 tầng nổi và 2 tầng hầm. Công trình độc đáo bởi có hình dáng kim tự tháp ngược, trong đó tầng 4 có diện tích lớn nhất, các tầng dưới nhỏ dần. Lần đầu tiên, một công trình xây dựng tại VN áp dụng công nghệ kết cấu treo, một kết cấu khá phức tạp. Cty liên doanh GMP International GmbH-Inros Lackner AG (CHLB Đức) là đơn vị chịu trách nhiệm thiết kế kiến trúc Bảo tàng Hà Nội. Một điều khá thú vị, đây cũng là đơn vị đã thiết kế Trung tâm Hội nghị quốc gia, một công trình ngay sát Bảo tàng Hà Nội. Khi hoàn thành, Bảo tàng Hà Nội sẽ trưng bày khoảng 50.000 hiện vật, phản ánh chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của thành phố rồng bay. Trong ảnh, các công nhân đang hoàn thiện phần khung bảo vệ gian trưng bày tại trung tâm bảo tàng. Bảo tàng Hà Nội sử dụng tối đa các yếu tố đa phương tiện, với một không gian đầy ắp âm thanh và ánh sáng. Hệ thống mái hiện đại có thể điều chỉnh tự động để đón ánh sáng tự nhiên. Với tổng vốn đầu tư ban đầu là 2.300 tỉ đồng (hiện phát sinh gần 3.000 tỉ đồng), ý tưởng chủ đạo của Bảo tàng Hà Nội là con người và thiên nhiên phải hoà quyện trong tổng thể kim tự tháp ngược. Ở trung tâm bảo tàng có một đường vòng cuốn dốc để giúp các du khách bình thường cũng như du khách khuyết tật có thể dễ dàng tiếp cận từ tầng 1 đến tầng 4. Giang Huy =================== Lời Bình: Kiến trúc thì rất đặc biệt, rất ấn tượng rất công phu và cũng rất tốn kém. Phân tích về mặt Phong Thủy, Kim Tự Tháp càng cao lên càng nhọn , thể hiện sự hòa hợp của Âm Dương. Kim tự tháp ngược: Âm cực thịnh và không đạt được sự hòa hợp Âm Dương - Mọi thứ gây ấn tượng rất mạnh lúc ban đầu nhưng càng ngày, mục đích chính của bảo tàng lại bị đảo ngược. - Hình thể lộ cốt, rồi cũng lại ế ẩm mất thôi. Vẫn có thể hóa giải nhưng liệu....1 like -
DỰ BÁO - CẬN BIẾN HÓA Bác Vuivui đưa ra một khái niệm gọi là "cận biến hóa". Chúng ta hiểu điều này như thế nào? I - DỰ BÁO. Trong trân chiến Ai Cập - Napoleon có một mệnh lệnh nổi tiếng: "Lừa ngựa và các nhà khoa học đi vào giữa". Tất nhiên ông ta không có ý coi thường các nhà bác học và đám lừa ngựa. Nhưng mệnh lệnh quân sự cần ngắn gọn và qua đó cho thấy tầm quan trong của phương tiện vận chuyển hậu cần trong cuộc viễn chinh với tri thức khoa học cần được bảo vệ trên đường hành quân. Một trong những tiêu chí của tri thức khoa học cho một lý thuyết khoa học chính là khả năng dự báo. Ông ta không so sánh tri thức khoa học - thể hiện ở khả năng dự báo với những con lừa. Trong điều kiện bài này tôi chỉ trình bày về Phương pháp dự báo của nền Lý học Đông phương huyền vĩ và chưa bàn về sự dự báo theo cảm ứng. Có lẽ tôi không cần phải trình bày chi tiết phương pháp dự báo như Tử Vi, Bốc Dịch.....vv....Nhưng chúng ta đều thấy rõ rằng: Chúng có tính hệ thống, tính qui ước, tính nhất quán về phương pháp luận thể hiên một quy luật khách quan rất chặt chẽ và khả năng tiên tri. Hàng ngàn năm nay, khi tiếp xúc với nền văn minh Đông phương - tri thức khoa học có xuất xứ Tây Phương cho rằng: Nó mang tính huyền bì. Sở dĩ như vậy vì những khái niệm, tính quy ước...vv...của các phương pháp này phản ánh một thực tại vận động có tính quy luật nào của vật chất trong vũ trụ chưa được biết. Và đó chính là yếu tố căn bản làm nên sự huyền bí của khoa dự báo Đông Phương. Trong những tác phẩm của mình, tôi đã chứng minh rằng: Chúng phản ánh những quy luật vận động tương tác của Vũ trụ liên quan đến Địa Cầu. Trên cơ sở luận điểm này thì chúng ta xét đến tính quy ước của phương pháp dự báo theo Lý học Đông phương và so sánh với thực tế khách quan của sự vận động vũ trụ. Những quí ước đó phản ánh một nhận thức thực tại khách quan, nhưng không phải thực tại khách quan. Thí dụ: Một giờ trong Lý học Đông phương qui ước bằng hai giờ Tây. Trong một giờ quy ước đó - như giờ Tý chẳng hạn - thì sự vận động của vũ trụ - cụ thể là các hành tinh trong Thái Dương hệ - sẽ nằm ở những vị trí tương đối nào đó trên bầu trời. Sang giờ Sửu, nhưng vị trí này sẽ có một bố cục khác. Những bố cục khác nhau này sẽ gây những hiệu ứng tương tác khác nhau cùng tính chất trong khoảng một giờ của không gian vũ trụ qui ước đó. Chính tính quy luật về tính chất hiệu ứng tương tác trong khoảng một giờ qui ước này làm nên khả năng tiên tri cho tất cả mọi sự kiện trên thế gian chịu sự tương tác này. Nhưng chúng ta cũng biết rằng: Một giờ qui ước đó chính là sự phân loại tính chất hiệu ứng tương tác trong khoảng không gian đó một cách tổng quát. Sự vận động của vũ trụ trong một giờ qui ước đó không hoàn toàn giống nhau. Và không phải là một hiệu ứng tương tác cố định xuyên suốt từ đầu giờ đến cuối và khi chuyển sang giờ khác thì nó đột ngột thay đổi tính chất. Thực tế vận động vũ trụ xác định điều này. Đó là lý do có sai số trong tính quy ước và thực tế trong dự báo (Tôi không dùng từ "xác xuất" ngớ ngẩn. Phương pháp dự báo trong Lý học Đông phương không phải việc tung đồng xu, để kết luận 50/ 50). Nhưng không gian vũ trụ trong một giờ đó sẽ phản ánh bản chất của tính tương tác chi phối sự vận động có khả năng tiên tri. Thí dụ một quẻ Dịch - bốc trong một giờ nào đó - xác định được rằng sẽ không có mưa trong vòng bày ngày - trong trường hợp này tôi loại suy khả năng người coi bói , được giả thiết là tuyệt đối giỏi - thì điều đó chỉ có thể xác định một cách tổng quan rằng: "Sẽ không có mưa trong vòng bảy ngày". Nhưng chính vì sự sai lệch giữa tính quy ước của thời gian và thực tế vận động, nên vẫn có thể có khả năng mưa trong thời gian bảy ngày đó. Bởi đầu giờ, cuối giờ và giữa giờ thì tương quan vị trí các hànn tính khác nhau, nhưng qui ước vẫn chỉ trong một giờ đó. Mặc dù tổng quan chung là không có mưa. CẬN BIẾN HÓA Như vậy khả năng mưa vẫn có thể xảy ra và khi tương tác cụ thể tới Địa Cầu, hoặc từng khu vực trên Địa cầu được dự báo. Khả năng mưa này sẽ thể hiện bằng - thí dụ - "Mây đen", "chuồn chuồn bay thấp"...vv....hoặc dấu hiệu áp thấp trên biển, hay một cơn mưa xuất hiện ngay gần vùng dự báo nắng chẳng hạn, hoặc nặng hơn nữa là những dự báo khí tượng thủy văn quốc tế và khu vực, tức là những cái mà con người bằng phương tiện hoặc trực quan đã dự báo có tính xác định cao (Tuy vẫn sai. Híc!)......Đây có thể coi là dấu hiệu của "cận biến hóa" mà người ta có thể qua những dấu hiệu ấy để xác định khả năng dự báo ngược lại có thể sai. Trên cơ sở những điểm "Cận biến hóa" ngược với dự báo - trong bối cảnh tổng quan chung của dự báo thì sự tương tác có thể chứng tỏ khả năng thực hiện khi dấu hiệu của "cận biến hóa" không xảy ra. Bởi vậy - tôi nhắc lại một lần nữa rằng: Không phải ngẫu nhiên Thày Đức cho rằng "Về lý thuyết có thể thực hiện được". Còn cơ chế tương tác thế nào, chúng tôi đang thực nghiệm. Vâng! Có thể sai. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị. ------------------------------ TƯ LIỆU THAM KHẢO Thư gửi TGĐ Đường sắt về trách nhiệm Tiến sĩ 23/09/2010 07:08:05 - Đã đến lúc 300 Tiến sĩ ĐS hãy nhận lấy trách nhiệm khoa học của mình là phải mở rộng và hiện đại ĐS. Không làm được điều đó chúng ta không xứng đáng là Tiến sĩ ĐS. TIN LIÊN QUAN "Ông Tổng" đường sắt: Tôi tư duy "đi tắt đón đầu" "Ông Tổng" đường sắt nói về tàu chợ và ĐSCT LTS: Sau khi đọc bài trò chuyện với TGĐ Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam Nguyễn Hữu Bằng, Tiến sĩ Trần Đình Bá – tác giả luận án "Mở rộng và hiện đại ĐSVN bằng tà vẹt ba ray", công trình nghiên cứu khoa học đã được gửi đến tận tay Thủ tướng vào năm 2006 và đã được trao giải thưởng Quốc gia về hiến kế năm 2008, đã gửi thư cho Tiến sĩ Nguyễn Hữu Bằng nói về trách nghiệm của Tiến sĩ trước hiện trạng đường sắt lạc hậu! Để rộng đường dư luận, Bee xin trích đăng bức thư. Vũng Tàu, ngày 20 tháng 9 năm 2010 Kính thưa Tiến sĩ - TGĐ Nguyễn Hữu Bằng kính mến! Trước hết tôi xin kính chúc TS - TGĐ dồi dào sức khỏe, sáng suốt lãnh đạo Tổng Công ty ĐSVN giành nhiều thắng lợi mới! Tôi rất mừng cho Tổng Công ty ĐSVN vì vấn đề ĐS hiện nay đã và đang được công luận xã hội quan tâm một cách đặc biệt. Đại công trình ĐS đã được đặt nghiêm túc lên bàn Quốc hội và nó đã trở thành vấn đề thời sự hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng, bởi vì đường sắt Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện đại lại đang tụt hậu hơn so với thời kỳ trước 1945 (thời kỳ Pháp thuộc). Đường sắt VN được toàn xã hội kỳ vọng là huyết mạch chủ lực chỉ còn lại 7% thị phần, thấp nhất trong 5 loại hình vận tải (là ĐS, Hàng không, đường bộ, đường biển và đường sông)! Tai nạn lật tàu hiện nay liến tiếp xảy ra đang gây lo lắng cho toàn dân. Đường sắt lạc hậu khổ 1 mét có từ thời kỳ nô lệ đang trở thành nỗi đau lương tâm trách nhiệm và là niềm hổ thẹn cho 300 tiến sĩ ĐS nước ta! Tai nạn lật tàu hiện nay liến tiếp xảy ra đang gây lo lắng cho toàn dân. Ảnh: Vietnamnet Kính thưa Tiến sĩ - TGĐ Nguyễn Hữu Bằng kính mến! Với tư cách là một nhà khoa học, tôi xin chân thành báo để Tiến sĩ – TGĐ biết rằng: Sau khi lập trình để làm bài toán an toàn ĐS, tôi đã tính được Mô men kháng lật của khổ ĐS 1 mét kiên cố hóa bằng BTCT dự ứng lực như hiện nay đang thấp hơn khi chưa gia cố, Vì vậy nguy cơ gây lật còn cao hơn khi ở tốc độ 80 km/h, minh chứng là liên tiếp nhiều vụ lật tàu nghiêm trọng gần đây tại Miền Trung – nơi ĐS đã được gia cố. Như vậy, ý định gia cố để tăng tốc sẽ không thể nào thực hiện được và việc sử dụng 26.500 tỷ đồng để kiên cố hóa ĐS bằng tà vẹt BTCT dự ứng lực khổ 1 mét sẽ gây lãng phí lớn, vừa kìm hãm ĐS nước ta trong vòng lạc hậu vĩnh cữu. Tai nạn lật tàu và sự lạc hậu kéo dài đang đe dọa tính mạng nhân dân và nhân viên ĐS, sẽ tác động xấu đến nền kinh tế và các hoạt động xã hội, đặc biệt là trực tiếp đến đời sống của 4 vạn nhân viên ngành ĐS . Tôi cho rằng, học vị Tiến sĩ không phải là vinh dự khoa học mà là trách nhiệm khoa học nặng nề to lớn trước Nhà nước – trước cộng đồng . Chúng ta hiện đang có hàng chục trường Đại học, hàng chục Viện nghiên cứu về giao thông, về ĐS, có 300 Tiến sĩ mà để cho ĐS lạc hậu, rệu rã tụt hậu hơn so với ĐS thời nô lệ (trước 1945) là có lỗi lớn với nhân dân, là chưa xứng đáng với trách nhiệm Tiến sĩ . Tôi tự thấy rằng đội ngũ tiến sĩ ĐS chúng ta còn thiếu năng lực, thiếu bản lĩnh chưa dũng cảm chinh phục ĐS lạc hậu, thậm chí còn bao biện, kéo dài lạc hậu trên ĐS khổ 1 mét và gây đau thương cho nhân dân và nhân viên ĐS. Với 300 tiến sĩ ĐS mà không mở rộng để hiện đại được ĐS, mà phải đi nhờ chuyên gia nước ngoài “nghiên cứu khả thi“ thì thực sự không xứng đáng với non sông ngàn năm văn hiến. Nhân dân đang chết chóc đau thương trong đại họa tai nạn giao thông mà Tiến sĩ ĐS chúng ta thụ động ngồi chờ “Nhân dân Hiến kế …” thì quả là vô dụng! Tại sao với 300 Tiến sĩ ĐS hùng hậu lại để cho ĐS tụt hậu!?! Để cho ĐS lạc hậu kéo dài thì 300 luận án tiến sĩ ĐS sẽ không còn giá trị! Đã đến lúc 300 Tiến sĩ ĐS hãy nhận lấy trách nhiệm khoa học của mình là phải mở rộng và hiện đại ĐS. Không làm được điều đó chúng ta không xứng đáng là Tiến sĩ ĐS. Tôi cho rằng mỗi Tiến sĩ chúng ta phải bình đẳng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng – trước Nhân dân và mỗi Tiến sỹ ĐS phải chịu trách nhiệm về nội dung trong từng luận án tiến sĩ của mình, như thế mới thực sự có bản lĩnh! Kính thư Tiến sĩ Trần Đình Bá – Hội Kinh tế & vận tải ĐSVN1 like
-
1 like
-
hèm, cái này chắc phải level cao cao chút mới luận được! Em thì level lè tè thôi nhưng thử chút chơi: Tương lai cũng .... như hiện tại nhưng sau sẽ có nhiều biến động, bác hãy tùy cơ mà ứng biến, cẩn trọng trong hành động; mọi việc chỉ ở mức trung bình. Phải khá lâu sau mới sáng sủa hơn được, tuy nhiên cũng chỉ tầm tầm. Tham khảo thôi bác nhé! :wacko:1 like
-
1 like
-
Đây là cách đổi vận nhà, còn tam tai, hoang ốc, kim lâu là vận hạn của người, hết kỳ hạn thì qua đi hoặc là hóa giải bàng cách khác.Thân.1 like
-
Chüa ra giüa nhà thì chüa bi dü't trach nhà Anh a! Còn v/d em düa ra là Càn cung dang bi pham a.1 like
-
Tháng 7 vừa rồi chú có đi đâu xa hay công việc chỗ ở có sự di chuyển nào? Năm nay tốt đẹp hơn vào những tháng cuối năm. Năm sau có sự chuyển việc hay đi xa theo chiều hướng thuận lợi tài lộc thu về cũng nhiều/ năm thìn tỵ gia đạo có nhiều biến động vợ chồng tình cảm không thuận-bên ngoài thì thị phi bị người ta thưa kiện, bản mệnh thì bệnh vặt liên miên, trong gia quyến nếu còn cha mẹ thì sức khỏe song thân yếu kém lâm bệnh nặng trong 2 năm này, nếu không họ hàng có tang, qua hết năm 2013 trở đi mọi chuyện tốt đẹp trở lại tài danh hưng vượng cho tới năm 53t/ Bước qua 53 tuổi cuộc đời tụt dốc tiền bạc hao tổn nhiều, bị dính dáng liên quan nhiều tới hình pháp. Về hậu vận ngoài 6x trở đi mới hưởng an nhàn phú túc/ Công danh nếu đi về công chức cũng có chức vị quyền hành đứng trên một số người nhưng không quá hiển hách, ngoài 49 cho tới 52 danh tài hưng vượng sau đó có 1 giai đoạn suy sụp mới phục hồi lại được. Góp ý với chú về lá số song sinh, chú chờ bác haithienha lên tư vấn chính xác cho nhé, kính chào! Mong được bác sửa bài giúp cháu...1 like
-
gặp đúng người, đúng số thì giải mới giá trị, chứ gặp mấy bé 19 tuổi cứ xừng xực hỏi chuyện tình ái, chồng con, giầu có thì trả lời cũng ngán. vẫn còn là ẩn số về con cái, thê thiếp của anh.bói là bói vậy, nếu anh ko nói ra thì khác nào cứ thách đố mãi những người bói. Nếu anh có lá số nguyên thủ quốc gia thì chắc sẽ bám đuổi giải đoán, nhưng đằng này ko phải, vậy chúng ta hãy hợp tác với nhau như anh là con bệnh, còn những người giải đoán là bác sĩ. Anh cần kể rõ bệnh tình thì mới khám và chữa được chứ.1 like
-
Chính vì khác mà tung lá số tùm lum khi cháu quá nhỏ -> chả còn gì là khác Hồi hộp đợi khi cháu lớn, sau 13 là tốt nhất, hãy xem cho cháu.1 like
-
Nếu ông Vũ Thế Khanh là một tiến sĩ bình thưởng thì chắc tôi cũng chẳng quan tâm lắm. Nhưng ông ta lại là: Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng UIA. Như vậy, chính ông đã xác nhận: Như vậy, nếu mưa thì cả tôi và ông Khanh cùng sai?! Như vậy tôi không hiểu ông Khanh phân biệt sự hoang tưởng và khả năng "Về xác xuất tự nhiên, cả tuần đó hoàn toàn có thể không mưa" . khác nhau ở chỗ nào?Tất nhiên ông sẽ lập luận rằng: Một hiện tượng tự nhiên với xác xuất không mưa khác với một khả năng ngăn mưa nếu sự kiện vẫn xảy ra. Vâng! Đây chính là chỗ "tắt điện" của ông Khanh. Như vậy, ông Vũ Thế Khanh vẫn phải thừa nhận rằng: Việc suốt bảy ngày không mưa chỉ mang tính khả năng xác xuất cao, chứ không thể xác định bảy ngày hoàn toàn không mưa và chắc chắn như vậy. Chỉ cần điều kiện đó thì phải thừa nhận một trong hai khả năng xảy ra: 1 - Khả năng dự báo của Lý học Đông phương cao hơn hẳn tri thức khoa học hiện đại - nếu coi đây là một dự báo. 2 - Nếu không coi là một dự báo thì nó phải có một tác động nào đó. Chưa nói đến sự phủ định chủ quan của ông Khanh hoàn toàn không có cơ sở khoa học - chính bởi tính chất của sự việc chưa xảy ra. Chỉ khi sự việc xảy ra - thực tại khách quan - mới thẩm định được tính khoa học hay không. Nhưng rất tiếc, ông ta lại nhân danh khoa học xác định một sự việc chưa xảy ra, khiến con người phải hoài nghi bản chất của khoa học qua sự phán xét chủ quan của ông ta. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên tôi đề nghị ông ta định nghĩa khái niệm khoa học là gì?! Tôi sẽ lấy ngay định nghĩa của ông - tức là hệ quy chiếu của ông ta để chứng minh ông ta đã sai về phương pháp nghiên cứu. Ông ta sẽ phải xem xét lại toàn bộ hệ thống tư duy của ông ta. Bây giờ chúng ta hãy xem ông ta phát biểu: "Dự đoán bừa cũng có thể đúng 50%". Vậy theo ông Khanh, Khí tượng thủy Văn Việt Nam và Hoa Kỳ - mà có bảng thống kê, đối chiếu trên đây sẽ phải đúng 100% chăng? Khi mà xác xuất đúng của họ cũng chỉ 50%. Hay là họ đoán bừa? Vậy nếu xác xuất đúng trên bao nhiêu % thì ông Khanh sẽ coi là không đoán bừa? Nếu thống kê như vậy thì xin lỗi ông. Lý học Đông phương thật sự là một khoa học.Tóm lại , tôi chưa rảnh để chứng minh ông sai. nhưng ông hãy suy nghĩ kỹ và phát biểu khiêm tốn khi ông chưa định nghĩa được khái niệm khoa học. Sau khi, ông công bố khái niệm này công vkhai, tôi sẽ lấy ngay chính khái niệm đó của ông để chứng minh rằng: Tất cả những lời khoa trương ồn ào của ông trên báo chí liên quan đến cái mà ông gọi là "dị nhân", "hoang tường", "tâm thân" đếu sai về phương pháp nghiên cứu khoa học. Cho dù họ tâm thần thật sự. Tôi thừa biết rằng khi tôi công bố sẽ xác định" Thời tiết nắng đẹp, trời se lạnh trong Đại Lễ 1000 Thăng Long" sẽ không ít người cho rằng tôi hoang tưởng, và họ có thể đoan chắc nó không xảy ra. Phần thắng thuộc về những người phản đối tôi gần như hiển nhiên. Bởi vậy, họ sẽ được góp mặt trong vinh quang chiến thắng - nếu tôi sai, trong đó có ông. Và nếu tôi có đúng thật thì sẽ lại bàn là xác xuất như ông. Nhưng vấn đề sẽ hạ hồi phân giải. Ông còn lớn tiếng cho rằng dự đoán của nhưng con vật chính xác hơn nhiều. Tôi rất tiếc điều này được phát biểu từ một địa vị như ông Khanh. Tôi thừa nhận với ông có nhưng con vật có những khả năng ưu việt - thí dụ như con chó đánh hơi giỏi hơn con người nhiều. Nó có thể tìm ra chất nổ, ma túy cất giầu của những kẻ tội phạm. Nhưng con chó đánh hơi được là khả năng tự nhiên. Còn đây là phương pháp dự báo. Một hội viên của trang web này đã nói rằng: Con chó không đem khả năng của nó trở thành lý thuyết đánh hơi ông Khanh ạh. Nó không thành tiến sĩ được. Sự so sánh khập khiễng của ông về những người đến nhờ ông kiểm chứng khả năng của họ với công bố của tôi hoàn toàn nhau. Họ hoàn toàn mang tính thực nghiêm có giới hạn. Còn của tôi là kết quả của một hệ thống lý thuyết cổ được thực nghiệm lại theo cách hiểu của tôi. Tôi có thể sai và cần hoàn thiện lại về phương pháp ứng dụng, nhưng nếu đúng thì có thể giải thích theo hệ thống phương pháp luận của nó theo tiêu chí khoa học hiện đại. Còn phương pháp của những người mà ông cho rằng "tâm thần" đó nếu đúng chỉ là một hiện tượng cần nghiên cứu. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà thày Đức cho rằng: "Về lý thuyết có thể xảy ra". Tạm vài lời chia sẻ với ông Khanh. Khi rảnh, tôi sẽ chứng minh sai lầm của ông Khanh từng chi tiết.1 like
-
khà khà khà, quả là đặc biệt khác người, chết vì vợ - Mắc nợ vì đàn bà - La cà vì gái.Quả là . . .1 like
-
Có chuyên hơi bực mình một tí. Sau đó lại có tin vui. Để nghiệm xem?1 like
-
Trước một vấn đề khi các tiến sỹ thực hành nói "không thể làm được" thì các cử nhân và kỹ sư nghiên cứu lại nói "có thể hãy cho tôi thời gian tiền bạc để tôi nghiên cứu thực nghiệm"-Đó chính là sự khác biệt của nhà khoa học với người ứng dụng, nhà khoa học là người biến cái không thể của đại đa số khẳng định thàng cái có thể cho mọi người sử dụng. Có một cái vấn đề thí nghiệm ngăn mây có Nguyễn vũ tuấn anh mà cứ nháo nhào cả lên.Các nước khác như Nga,Mỹ, Trung Quốc họ làm từ cái đời tám hoánh nào rồi ấy còn Việt Nam bây giời mới có ông thí nghiệm mà cứ gân cổ cãi.Các nước giầu họ lắm tiền thì chơi kiểu lắm tiền, Việt nam ngèo thì phải tìm cách nào làm đạt hiệu quả như thế mà rẻ nhất.Thí nghiệm không được thì cho cái quy trình ấy vào sọt rác, trên cơ sở thất bại ấy tìm ra một quy trình mới mà thí nghiệm tiếp.Vất hết các tư duy thánh nhân với dị nhân đi - đó là các thực nghiệm khoa học, còn cái tư duy động một tý không hiểu hay rốt không hiểu người khác làm thế nào thì quy kết đủ thứ thì khoa học Việt Nam đến bao giờ ngẩng đầu được. Làm khoa hoc muốn thành công thì vất ý nghĩ kiếm tiền bạc,lợi danh cho bản thân vào sọt rác.Làm Khoa học nhiều khi phải trả giá bằng mạng sống của mình vì các thí nghiệm của chính mình do chưa kiểm soát được các yếu tố của thí nghiệm (xem lịch sử khoa hoc có bao nhiêu nhà khoa học chết trong chính quá trình tìm tòi của mình rồi).Cái công ngồi suy diễn linh tinh rồi viết để moi móc thông tin,viết dọa xằng,viết thuê kiếm tiền thì để mà nghĩ cái bổ ích có một việc trả lời câu hỏi "tại sao như thế?"ở thực tiễn quan sát đươc mà còn không chịu nghĩ.1 like
-
1 like
-
Tư Vấn Phong Thủy - Thực Tế Và Online
thanhhuong_geo liked a post in a topic by Guest
Kính thưa SP cùng ACE thành viên diễn đàn. Đã lâu, HTH muốn nói đôi lời về việc tư vấn Phong Thủy online mà bản thân HTH rút ra được từ kinh nghiệm của mình. Diễn đàn Lý Học Đông Phương, mục tư vấn Phong Thủy giành cho tất cả các thành viên , hỏi và tư vấn cho các thành viên khác về Phong Thủy bao gồm những người tư vấn là các Học Viên của lớp Phong Thủy Lạc Việt, các Huynh Đệ của Ban Phong Thủy Lạc Việt cũng như các thành viên tư vấn theo Phong Thủy cổ thư Hán. Tuy nhiên, phần đông là các thành viên nhận được tư vấn theo Phong Thủy Lạc Việt. Điều HTH muốn nói ở đây chính là sự khác biệt giữa thực tế và sơ đồ cung cấp trên mạng. Mọi tư vấn của các Thành Viên Phong Thủy Lạc Việt đều rất chuẩn xác theo tiêu chí của PTLV, thế nhưng nó sẽ chỉ đúng với điều kiện đạt được mọi tiêu chí đúng khác của PTLV. Trên thực tế, có rất nhiều yếu tố nhỏ không được thể hiện trên bản vẽ, nhưng lại ảnh hưởng rất lớn tới toàn bộ các yếu tố đúng khác và làm cho lời tư vấn không có hiệu quả. Chỉ lấy một ví dụ nhỏ là cách đo hướng nhà, hay trên thực tế một lỗ thoát nước mưa ở sân, cửa , cổng ra vào thường không được thể hiện trên bản vẽ. Tuy nhỏ nhưng đó là một yếu tố rất rất quan trọng bởi cho dù mọi thứ khác đúng cũng sẽ trở thành vô nghĩa. Hay như hướng giao thông và lưu lượng giao thông trước cửa nhà, trong nhà.vv. Hay như với cách đo hướng, la bàn chịu tác động của các thiết bị điện, dây điện, bê tông..vv nên sai số dẫn tới sai lệch là rất hay thường xảy ra nếu không có kinh nghiệm khi sử dụng la bàn. Do vậy, các thành viên cần tư vấn bên cạnh việc đưa thiết kế sơ đồ nhà nên đưa hình ảnh chụp ngôi nhà, các vị trí kèm theo sơ đồ, càng chi tiết càng giảm thiểu sự sai lệch. HTH cũng muốn nhấn mạnh rằng, cho dù thế nào thì việc tư vấn online chỉ nên coi là sự tham khảo và thành viên được tư vấn, phương án cho dù đúng sai cũng là do bản thân mình tự quyết chứ không phải do người tư vấn. Vài điều tâm sự , mong ACE hiểu tâm ý của HTH. Trân trọng HTH1 like -
Các em thiếu nhi múa tưng bừng hoa lá khai mạc sự kiện Holcim. Tác nghiệp...tám vấn từ tám giờ sáng cho tới tám giờ tối. Ái chà chà! Ca này khó nhe. Để rờ cằm suy nghĩ coi. Hum...cái này không được. Hướng này xấu nhá!... B) Chị cần chi? Xây nhà rước chồng hay đập nhà...đuỗi chồng? :) Làm như thế này này...chồng mới yêu chìu hơn. :) PG: Anh kia tới số...để được "thầy" coi chưa? Hết giờ òi! Các em cứ tha hồ vẽ "Căn nhà mơ ước", nhưng nhớ chú thích là dùng xi măng Holcim nhé. Vì sẽ đi triễn lãm và bán đấu giá đấy! :( 2 ca tư vấn cuối cùng. Nhanh nhanh để thầy thăng! Cho chút nước coi, khát cháy cổ! Kỷ niệm cuối ngày Ai cũng đẹp zai. B) thưởng thức phở nổi tiếng ở Cần Thơ...quên tên quán òi! B) Bị xe bỏ ở dọc đường, nửa đêm, chơ vơ sợ...ma nữ. B) Có khi lại có ma thật đấy! Lại không có taxi nào. Hic Xe tới rùi kìa! Về thui!1 like
-
1 like
-
Cái nhà bán hàng của Trung Quốc và nhà bảo tàng của Hanoi, thoạt nhìn thì giống. Nhưng chức năng sử dụng khác nhau. Nhìn nhà bán hàng của Trung Quốc giống một cái mũ cổ, nhà cao. Còn bảo tàng Hanoi thì thấp, giống cái mũ đặt trên mặt đất. Nhà bảo tàng Hanoi Âm khí vượng, còn của Trung Quốc thì không. Do nhà bán hàng Trung Quốc đặt trên nền cao và có khoảng không gian trống ở giữa. Cấu trúc hình thức thanh thoát hơn.1 like
-
TƯ LIỆU THAM KHẢO ------------------------------- Hành trình tìm mộ Hồ Quý Ly Lá số tử vi của Hồ Quý Ly 12/08/2010 23:55 Việc lên đường tìm kiếm mộ Hồ Quý Ly (cùng những người trong gia tộc họ Hồ bị quân Minh bắt về Trung Quốc) không chỉ là công việc của riêng các nhà hoạt động văn hóa, khảo cổ, mà còn là ước nguyện của bà con các tông phái họ Hồ sinh sống khắp Việt Nam... Một trong những ngôi chùa ở Trung Quốc có thờ các thiền sư người Việt - Ảnh do đoàn tìm mộ Hồ Quý Ly chụp Cái chết của Hồ Quý Ly sau khi bị giam tại Nam Kinh ra sao đến nay chưa ai dám khẳng định rõ ràng. Sử nhà Minh và một số tài liệu tìm được tại các thư viện ở Bắc Kinh, Nam Kinh, Quảng Tây thì vẫn ghi chép chung chung, chứ không thông tin minh bạch về ngày giờ, năm tháng cũng như những chi tiết về phút lâm chung, nhất là mộ táng Hồ Quý Ly nằm ở nơi nào. Chúng tôi đem điều đó ra hỏi một số nhà nghiên cứu chuyên ngành sử học, văn học, và tình cờ trong một buổi chiều đầu thu năm nay - Canh Dần 2010 - chúng tôi được tiếp chuyện với một nhà chiêm tinh học, đồng thời là nhà nghiên cứu gia phả học (xin viết tắt tên vị ấy là H.T), để nghe ông nói về lá số tử vi của Hồ Quý Ly với đôi điều là lạ ghi dưới đây: - Này nhà báo, theo sử liệu để lại, thì Hồ Quý Ly sinh năm Bính Tý, tức năm 1336. Có tài liệu chép sinh trước đó một năm, vào 1335. Ở đây tôi chọn năm Bính Tý 1336 để đi ngược thời gian thử chấm lá số tử vi cho vua Hồ Quý Ly xem sao. Làm việc này thoạt đầu xem ra có vẻ hơi kỳ, vì mọi chuyện trong đời của ông vua đầu triều Hồ này ai cũng biết rồi, còn “chấm” làm chi nữa. Song thật ra, đứng về mặt nghiên cứu chiêm tinh học và trường sinh học - vốn đang được các nhà khoa học hiện đại quan tâm - thì tất cả những người đã chết, đang sống, đều có thể tìm hiểu lá số của họ để biết điều đúng, điều sai từ các kết luận so với thực tế xảy ra. Vì thế, chúng tôi đã tìm hiểu Hồ Quý Ly ở khía cạnh văn hóa tâm linh để “chấm” số và so sánh với những diễn biến trong đời ông. Chúng tôi xin phép được ghi lại đôi dòng “bên lề lịch sử” qua cuộc tiếp xúc ấy. Bấy giờ nhà chiêm tinh vui vẻ đồng ý, song không giải thích rõ, mà đọc mấy câu cho chúng tôi chép liên quan đến lá số của vua Hồ Quý Ly: Sống nhung lụa, chết tha hương. Mộ phần hai đóa Âm - Dương hai màu. Bên tả hình mèo tháng Mão. Bên hữu, hình ngựa chiêm bao Ngọ về... Rồi không nói chi thêm, nhà chiêm tinh hớp cạn ly trà, đứng dậy cáo từ đi mất. Về nhà, chúng tôi ngẫm nghĩ mấy chữ mở đầu của các câu trên là: “Sống nhung lụa”, thì ai cũng biết Hồ Quý Ly xuất thân từ cửa quý tộc, ông có hai người cô ruột được vua Trần Minh Tông tuyển vào cung, một người sinh ra vua Trần Nghệ Tông, người kia sinh vua Trần Duệ Tông. Riêng Hồ Quý Ly được vua Trần Nghệ Tông gả em gái là công chúa Huy Ninh cho. Với những mối quan hệ đậm đà ấy, ông được vua Nghệ Tông tin dùng từ năm 1371, lúc 35 tuổi, phong cho làm Khu mật đại sứ, lại gia tước Trung tuyên hầu. Đến năm 1372, khi Nghệ Tông truyền ngôi lại cho em là vua Duệ Tông, Duệ Tông đã lập em họ của Hồ Quý Ly là Lê thị làm hoàng hậu. Theo đà ấy, Hồ Quý Ly bước vào chính trường với tư thế là một trong những người có trọng trách của cơ quan tối cao nhà Trần, trở thành một trong các quý tộc ngoại thích có ảnh hưởng mạnh nhất đối với vua Trần, đã dần dần tập trung quyền hành để lên ngôi vào năm Canh Thìn 1400. Trước đó, nhà Minh đã lộ rõ nhiều dấu hiệu muốn gấp gáp thôn tính nước ta nên Hồ Quý Ly đã lệnh cho xây thành Tây Đô ở Thanh Hóa, mà sau này, khi nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật đi tìm mộ Hồ Quý Ly và đặt chân đến Lão Hổ Sơn đã sực nhớ đến thành Tây Đô ấy. Chúng tôi hỏi: “Vì sao trên đường sang Trung Quốc tìm mộ Hồ Quý Ly ông lại nhớ đến thành nhà Hồ, tức thành Tây Đô (còn gọi Tây Giai) ở Thanh Hóa, Việt Nam?”. Ông đáp: “Sao lại không nhớ được. Tôi đã liên tưởng ngay thành nhà Hồ khi vừa đến các bãi tha ma đầy mộ vô chủ trên ngọn Lão Hổ Sơn. Là vì cái chết tha phương trên đất Trung Quốc của Hồ Quý Ly có liên hệ nhân quả rất chặt chẽ với những chuỗi hoạt động của đời ông, mà một trong những việc làm quan trọng của ông là quyết định xây thành Tây Đô để ứng phó kịp thời với việc nhà Minh xua quân xâm lăng. Hẳn nhiên nhà Minh không thể để một bộ óc chiến lược như Hồ Quý Ly được sống sót dài ngày để tiếp tục suy tính chống lại họ. Rõ ràng cái chết chưa biết rõ ngày tháng lẫn nơi chôn của Hồ Quý Ly có duyên do rất sâu từ những hoạt động quân sự như xây thành đắp lũy để chống giặc của ông. Nói tới đó, ông Đỗ Đình Truật giở bản thảo cuốn hồi ức về hành trình tìm mộ Hồ Quý Ly để chỉ chúng tôi xem đoạn ông viết về việc thám sát thành nhà Hồ do Hồ Quý Ly ra lệnh xây như sau: “Ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt vào giai đoạn 1965 - 1967, đoàn điều tra khảo cổ học của chúng tôi vẫn đến Thanh Hóa, gần cầu Hàm Rồng, để bước đầu nghiên cứu thành nhà Hồ, bởi lẽ theo nhận định của nhà nước lúc bấy giờ, thành nhà Hồ là một di tích quân sự, di tích lịch sử, nói lên ý chí bảo vệ đất nước và chống ngoại xâm. Đầu tiên khi đến đó, chúng tôi đặt vấn đề tại sao Hồ Quý Ly lại chọn vùng núi non của động An Tôn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa để xây căn cứ chống quân Minh, và rồi chúng tôi có ngay câu trả lời khi tận mắt nhìn thấy địa thế hiểm yếu của vùng này, với bốn bề núi non bao bọc, mở ra mặt nam và đông nam rộng thoáng mà thôi, lại có dòng sông Mã, sông Chu hợp lưu nữa, thuận cho việc hoạt động của thủy binh. Cung đất mà Hồ Quý Ly chọn xây thành Tây Giai là cung Chấn - nghĩa là cung mạnh và phát địa nhất, cách thủ đô Thăng Long 150 km đường chim bay, và cách quốc lộ xuyên Đông Dương ngày nay khoảng 30 km, cách biển độ 40 km. Cuối đời, khi thế trận thất lợi, Hồ Quý Ly đã chạy về hướng đó, lên núi Thiên Cầm thuộc Kỳ La ở Hà Tĩnh cách thành Tây Đô không xa, rồi cũng tại đó, Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt, dẫn khỏi miền Trung để vĩnh viễn đày xa đất Việt...”. (Còn tiếp) Giao Hưởng1 like
-
Sáng mai, Quốc hội sẽ bàn thảo về Quy hoạch Hà Nội tại hội trường. Chương trình thảo luận này sẽ không được truyền hình trực tiếp trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam. Đành chờ nghe các PV thuật lại vậy! Ngày mai, chắc Quốc hội sẽ bàn chủ yếu về Trục Thăng Long và TTHCQG sẽ đưa lên Ba Vì vì đó là hai vấn đề cộm cán gây bức xúc trong dư luận nhất..Tôi được biết có một số đại biểu Quốc hội thường xuyên ghé đọc Blog này (trong đó có 3 vị nói trực tiếp với tôi điều này). May mắn đêm nay, có đại biểu nào lạc vào đây trong một đêm khó ngủ, đọc đến những dòng chữ này, thì là điều tôi mong đợi nhất. Trước đây, tôi đã phát biểu về việc làm ngược đời của Bộ Xây Dựng (mà chủ yếu là anh em ông Bộ trưởng Nguyễn Hồng Quân và Thứ trưởng Nguyễn Đình Toàn). Bộ này thay mặt Chính phủ VN thuê nhà tư vấn nước ngoài PPJ làm đồ án quy hoạch. Nhà tư vấn lại thuê lại 2 Viện của Việt Nam làm cho họ(1 của Bộ Xây dựng và 1 của UBND TP Hà Nội). Có lẽ vì thế mà anh em ông Bộ trưởng cứ xông lên Truyền hình và báo chí để bảo vệ quyết liệt cho đồ án này (?). Có lẽ vì đồ án quy hoạch do người Việt Nam làm, nên nhất định phải đưa vào một tí tâm linh cho nó đậm đà truyền thống, vì thời gian qua người ta nói về cái chiếu dời đô của Lý Công Uẩn rất nhiều (?). Trục Tâm linh (sau gọi tránh là Trục Thăng Long) vừa được bày ra tức thì đất hai bên trục này và cả vùng núi Ba Vì sôi lên ùng ục. GS. Trần Trọng Hanh gọi trục đường này là cái mũi tên đã được đặt lên cái cung để bắn vào TTHCQG Ba Vì. Cách nói rất hình ảnh của GS Trần Trọng Hanh làm tôi nhớ đến một câu chuyện đã xảy ra cách đây khoảng 1000 năm mà tôi có dịp đọc trong tài liệu và khảo sát trên thực địa. Đó là khi triều đình nhà Lý xây dựng chùa Dạm trên núi Lãm Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh), quy mô hoành tráng, là một trong những "chùa hoàng gia"(Chữ dùng của PGS. Chu Quang Trứ) nối tiếng trong lịch sử. . Cột đá Chùa Dạm hoành tráng vẫn đang thách thức hậu thế. Hiện nay không ai khẳng định được đây là cái gì. Khi chùa dựng xong, nhà vua nghe theo ai đó xui bậy, cho đào một con ngòi để tiện bề thuyền ngự của nhà vua và hoàng gia ghé vào bến nước tận chân núi trước cửa chùa. Nhưng, chỉ một thời gian ngắn, chùa Dạm trở thành phế tích. Nay chỉ còn một cột đá (có phiên bản đặt tại Bảo tàng Mỹ Thuật VN, Hà Nội), một tấm bia mờ hết chữ nghiêng ngả trong tàn hoang bụi rậm, và mấy chục tấm tảng kê chân cột. Còn con ngòi - tên gọi là NGÒI CON TÊN - tức Ngòi Mũi Tên) thì vẫn còn đó. Nay, lên núi Lãm Sơn, đứng ở nền phế tích chùa Dạm nhìn xuống, vẫn là ngòi CON TÊN, nước trắng xóa như chiếc mũi tên bằng thép đang lăm lăm bắn vào phế tích! Hoang tàn bia đá ngả nghiêng Chùa hoàng gia giờ chỉ còn những tảng kê chân cột Tôi cũng phân tích rằng: Trong lịch sử, xứ Đoài chính là nơi nhà Lý nhốt giữ tù binh; là nơi ẩn cư của các kẻ sĩ lánh đời, chán đời, bất đắc chí, bất lực và quay lưng với thời cuộc. Còn nay thì sao? Xứ Đoài hiện là nơi nhà nước xây dựng những trung tâm giáo dưỡng phục hồi nhân phẩm, trung tâm cai nghiện. Hơn thế Ba Vì còn là nơi người ta xây dựng siêu nghĩa trang có thể giải quyết việc an táng của thành phố chục triệu dân. .Xứ Đoài chưa bao giờ là vùng kinh tế năng động. Nơi này chỉ thích hợp để bảo tồn văn hóa, làm du lịch văn hóa và du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Đã 12 năm nay, Khu Công nghệ Cao Hòa Lạc đặt ở đây nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được bao nhiêu. Đại học Quốc gia cũng vậy. Hình như, tự vùng đất này đã có cơ chế tự bảo vệ rồi! Sấm Trạng Trình nói rằng: “Đoài phương tĩnh nhất khu”(xứ Đoài là một phương yên tĩnh”) là vì thế. Nếu đưa Trung tâm Hành chính Quốc gia về chân núi Ba Vì, tức là đặt Chính phủ và các cơ quan của chính phủ vào trạng thái nghỉ ngơi, không năng động, không linh hoạt… thì rất tai hại. .Ngoài ra, chúng ta đều biết vùng Sơn Tây là nơi Bộ Quốc Phòng đặt các trường đào tạo sỹ quan cho quân đội, cũng là nơi đóng quân của nhiều đơn vị quân đội, nhà máy quốc phòng. Ở đấy là vùng khí hậu khắc nghiệt (dân gian nói “Chó ăn đá, gà ăn sỏi”, và “nắng Sơn Tây, mây Ba Vì”) và địa hình địa vật tự nhiên phù hợp với việc thao diễn, luyện tập của quân đội. Vì thế, đưa Trung tâm Hành chính quốc gia về đây sẽ gây xáo trộn nơi này! Các bản đồ địa chất cũng cho thấy vùng núi Ba Vì có nhiều vết đứt gãy. Tại khu vực mà đồ án quy hoạch dự kiến đặt TTHCQG lại là vùng có hai đường đứt gãy giao nhau, càng tăng thêm lo ngại nếu đặt ở đây các công trình xây dựng lớn. Vì những lẽ trên, tôi rất mong các đại biểu Quốc hội nước ta không nên biểu quyết đưa TTHCQG lên vùng Ba Vì nói chung và lên xã Yên Bài nói riêng. Và chúng ta cần phải nói KHÔNG với cái Trục Tâm linh (Trục Thăng Long) đã được nhà tư vấn PPJ và Bộ Xây Dựng vẽ ra. Nguyễn Xuân Diện. Nguồn:nguyenxuandien.blogspot.com1 like
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Đối khi thân chủ đến xem một lá số Tử Vi thường hỏi người tư vấn:"Thầy xem giúp tôi nên chọn nghề gì thích hợp?". Còn bài viết dưới đây thì chứng tỏ thày thuốc cũng có chức năng tương tự thày bói. Phải chăng Tử Vi chính là bảng mã hóa những thành tựu trong y khoa liên quan đến những tương tác từ vũ trụ? ----------------------------------------- Chụp cắt lớp não giúp chọn nghề nghiệp phù hợp 28/07/2010 11:01 (GMT +7) Trong tương lai, kỹ thuật chụp cắt lớp có thể được sử dụng để xác định khối lượng chất xám ở những vùng khác nhau của não bộ, giúp con người có thể lựa chọn nghề nghiệp phù hợp nhất với năng lực của họ. v ảnh minh họa Tiến sĩ Richard Haier, trưởng nhóm nghiên cứu thuộc trường Đại học Y tại bang California của Mỹ đã tiến hành phân tích các dữ liệu não bộ của hơn 40 người ở độ tuổi từ 18-35, từng trải qua tám thử nghiệm về năng khiếu tại Quỹ Nghiên cứu Johnson O"Connor để hướng nghiệp. Những người tham gia nghiên cứu được chụp cắt lớp não để xác định khối lượng chất xám ở từng vùng khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy chụp cắt lớp có thể bổ trợ cho các thử nghiệm năng khiếu giúp mọi người tự tin hơn trong việc lựa chọn hoặc quyết định nghề nghiệp lý tưởng cho mình. Theo Tiến sĩ Richard Haier, mối liên hệ giữa não bộ và nghề nghiệp cho phép người này có ưu thế hơn hẳn người khác về một nghề nào đó. Mọi người đều có thể học lái xe, nhưng không phải ai cũng trở thành người lái xe đua vì điều đó cần có những nhận thức đặc biệt liên quan đến việc xử lý xe ở tốc độ cực cao Theo VietNamnet1 like
-
Thực ra thì tư vấn phong thủy trên mạng có kết quả trên những nét căn bản. Nếu như căn nhà không có những chi tiết xấu thì khi thay đổi những nét căn bản vẫn tốt hơn không sửa. Nhưng cần nói rõ rằng: Phong thủy là một phương pháp ứng dụng trên cơ sở hiểu biết những quy luật tương tác của môi trường lên ngôi gia và ảnh hưởng đến con người. Bởi vậy nó không phải là quyền năng của Thương Đế để có thể làm tất cả mọi thứ. Nó có thể nâng chất lượng của cuộc sống, chứ không thay đổi được định tính của số mệnh. Nó không thể biến ăn mày thành ông vua và ngược lại. Nó là sản phẩm của con người, nên có những giới hạn của nó. Cho dù nó là sản phẩm của một nền văn minh rất cao cấp. Tôi nói những điều này trên cơ sở nhận thức cá nhân của tôi. Tôi cũng xác định một lần nữa để tránh sự hiểu nhầm: Danh xưng Phong Thủy Lạc Việt chỉ là sự xác định cội nguồn của khoa phong thủy nói chung. Nó được phục hồi nhân danh cội nguồn của khoa phong thủy là nền văn minh Lạc Việt và là sự hiệu chỉnh trên nguyên lý căn để, và từ đó dẫn đến sự hiệu chỉnh một số (chứ không phải tất cả) những phương pháp ứng dụng cụ thể trong cổ thư chữ Hán, chứ không phải là sự bác bỏ hoàn toàn những di sản từ cổ thư chữ Hán. Những vị thày phong thủy theo cổ thư chữ Hán vẫn có thể có những phương pháp ứng dụng vượt trội trong ứng dụng cụ thể những trường hợp - khi họ tiếp thu được những kiến thức mà các thành viên ứng dụng Phong Thủy Lạc Việt không biết đến. Nhưng Phong Thủy Lạc Việt có khả năng tiếp thu tất cả nhưng tri thức được coi là từ cổ thư chữ Hán, hoặc còn lưu truyền qua kinh nghiệm dân gian.1 like
-
Cháu chào chú Thiensu và Anh chị em trên diễn đàn ! Cháu thấy Hoangtrieuhai nói vậy là rất rất chân thành , cháu thực tâm cung muốn mời chú và các chuyên gia của phong thủy Lạc Việt đến tận nhà xem xét ..... ; Nhưng không phải lúc nào và ai cũng có thể thực hiện được ngay vài nhiều lý do ,trong đó phải nói tới đầu tiên là lý do về mặt kinh tế . Bởi thời buổi kinh tế thị trường nên ai cũng bận công việc cả ,rồi thì khi các thầy chỉ dẫn xong lại lo lấy đâu tiền để cải tạo lại . Đành rằng sau khi cải tạo xong thì hoàn cảnh sống có thể sẽ thay đổi hoàn toàn mà niếu không thì tiền của chi phí cho việc chữa bệnh ..... chẳng hạn do ở trong hoàn cảnh sai về phong thủy còn lớn gấp nhiều lần chi phí cho việc làm phong thủy . Vì thế nên đôi khi rất kính trọng các thầy phong thủy nhưng không phải ai cũng dám tự tin để mời thầy . Như vanvatho chẳng hạn , khi trước thấy ông anh trai nói là thày phong thủy ( Anh này đúng là làm phong thủy theo cổ thư chữ Hán) khuyên là nên làm phong thủy đi anh ấy sẽ giúp ,nhưng tiền công cũng kha khá nên vanvatho thấy mình chưa lo được nên cứ để lời hẹn đó chưa thực hiện được . Nay biết đến phong thủy Lạc Việt rồi thì không tin phong thủy theo cổ thư chữ Hán nữa và định bụng khi nào thu xếp được sẽ mời các chuyên gia của phong thủy Lạc Việt đến thăm nhà và giúp đỡ . Còn việc nhờ tư vấn trên diễn đàn cũng là thật long chứ không phải thử thách hay diễu chơi , mà là khi chưa có đủ các điều kiện cần thiết thì hãn tạm thời nhờ tư vấn như vậy để biết tình hình đã . Trước kia , vanvatho mua mấy cuốn sách phong thủy ở hiệu sách về ( sách phong thủy theo cổ thư chữ Hán) đọc và thấy hướng Đông Nam là hướng Diên niên của mình , ôi tiện quá ! Mở cổng hướng đó rất tiện vì đường cái xóm đi qua chỗ đó (vanvatho ở ngoại thành Hà Nội ) . Sau này nghe anh trai nói lại là cổng hướng ấy đúng là Diên niên rồi nhưng bị phạm không vong .Giờ biết phong thủy Lạc Việt thì hóa ra đó là hại họa chứ không phai diên niên – Đúng thật là hại họa rồi ,vì từ ngày ở theo cổng này đến giờ thì sức khỏe các thành viên trong gia đình cùng không tốt ,đặc biệt là công việc không thuận lợi và tốn rất nhiều tiền ( ngèo hơn cả lúc mới ra ở riêng ) …… Qua đây cũng khuyên mọi người niếu không tin thì thôi ,còn niếu đã tin thì nên tin theo phong thủy Lạc Việt và nên thận trọng với phong thủy theo cổ thư chữ Hán . Mấy lời vậy để tâm sự thay những gia đình tin phong thủy nhưng còn chưa có điều kiện để làm phong thủy,niếu có điều gì làm chú Thiensu và anh chị em phong thủy Lạc Việt không hài long thì xin được đại xá . Vanvatho xin tạm biệt chú và mọi người !1 like
-
Đồng ý với ý kiến của Hoàng Triều Hải. Xem phong thủy phải đến tận nơi mới biết được. Vì những nguyên nhân như HTH đã nói. Có lần tôi đến xem cho một khu siêu thị cho thuê. Mặc dù đã phát hiện hết các cái xấu. Nhưng nó chưa đến mức xấu để hầu hết các Cty thuê gian hàng làm ăn không quá 1 năm thì lại ra đi vì lỗ. Cuối cùng - cũng do "may thày phúc chủ" - tôi nghi ngờ trên nóc nhà có vấn đề, bèn chịu khó đi bộ lên tận tầng mái. Thì ra ở đó có một hòn non bộ rất to, đặt chính ình chính giữa. Trước đây họ tận dụng sân thượng bán Cafe nên trang trí như vậy. Đó cũng là lý do mà tôi thường lưu ý anh chị em Phong Thủy Lạc Việt là tuyệt đối không có hòn non bộ trên các tầng lầu - dù là trong bể cá. Tề Thiên đại thánh bị trấn một hòn núi còn ngóc đầu không nổi http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/unsure.gif .Bởi vậy, đôi khi có những chi tiết nhỏ, làm hỏng đại cuộc trong phong thủy là vậy. Tư vấn trên mạng thường không thể rốt ráo. Nhưng hy vọng sẽ khắc phục được những nét cơ bản.1 like
-
THÁI ẤT DIỄN QUÁI YẾU GIẢI LỜI NÓI ĐẦU Theo quan niệm của người xưa, Thái Ất là thần của trời đất. Xét quan hệ giữa sao Thái Ất và 16 vị sao khác vận động trong không gian và thời gian x ba phạm trù thiên, địa, nhân (tam tài), phối hợp x x x thuyết âm dương ngũ hành, thập thiên can, x x x trong cấu trúc cửu cung và 12 phân dã, x x x và dự đoán được các việc gió, mưa, lụt, hạn trong x x, sự trị loạn, no đói trong nhân sự, sự thắng thua trong quân sự. Theo truyền thuyết, x x x Hoàng đế do mong muốn đem lại thái bình, x x x x nước, no ấm hạnh phúc cho muôn dân nên x x x x Thần Phong Hậu xem xét âm dương ngũ hành x x lịch số của trời đất, dựa vào các nguyên lý của Hà đồ Lạc thư, Thái cực Lưỡng nghi lập ra Thái ất thần số. Sau đó, x công, Lưu hầu phát triển thêm. Đến đời Tống, x x đóng góp thêm nhiều kinh nghiệm. Các nho sĩ đời Minh bổ sung, chú giải, nên môn học quý giá này càng thêm sáng tỏ. Tới Trương Hoa phối hợp Thái ất thần số với 64 quẻ dịch kinh thích ứng liên vận các thời đại, nội dung môn học càng thêm phong phú, cụ thể. Bảng nhỡn Lê Quý Đôn đánh giá cao môn Thái ất học. Ông nói: “ Thuyết Thái ất, phần nhiều nói về binh pháp. Địch ta, chủ khách, lợi hại, được mất, các cơ thịnh suy, trị loạn, cái thế thắng thua, yên nguy đều được diễn giải rõ ràng. Làm tướng mà không biết môn học Thái ất sẽ không biết rõ nên đánh hay giữ, tiến hay ngừng, khó quyết đoán các mưu kế khi ra trận địa. Trong triều đình nếu không biết môn Thái ất sẽ sai lầm ở sự động hay tĩnh, tiến công hay thoái thủ, khó quyết đoán những sách lược lớn.” Môn học thuyết cổ dù lớn bao nhiêu cũng không thể vượt qua những điều kiện lịch sử không nhất định. Đãi cát tìm vàng là mong muốn thiết tha của người cầu học Người viết Vũ Xuân Quang BÀI 1: SỐ CỦA 12 HỘI Cấu trúc thời gian (đồng thời cũng là cấu trúc không gian) của vũ trụ (thiên – địa – nhân) được thể hiện thành 12 Hội. Trước khi bàn về nội dung của 12 Hội, ta nên biết một số khái niệm thời gian có liên quan tới Hội. 1 đại nguyên = 30 nguyên (30 x 12 x 30 x 12 x 30) = 3.888.000 năm = 30 năm 1 nguyên = 12 hội (12 x 30 x 12 x 30) = 129.600 năm = 1 năm (360 ngày). 1 hội = 30 vận (30 x 12 x 30) = 10.800 năm = 30 ngày (1 tháng) 1 vận = 12 thế = 6 nguyên = 5 nguyên tý = 360 năm (12 x 30) = 12 giờ (1 ngày) 1 thế = 2 niên tiết = 30 năm = 30 phút 1 năm = (30 : 30) = 1 phút 1 tháng = 1phút / 12 = 1 giây 1 giây = 1 giây/ 30 = 1 giây Chú ý : Phép tính Thái ất lấy Hội làm cơ sở tính toán, đơn vị tính toán. Do đó, ta quy ước: Hội = N = 1 Cho nên ta có: N = 1 = 10.800 năm Cách tính của Thái ất lấy bội số ( và số chia ) 12; 30 làm cơ sở. Tính chất 1 phút và 1 năm, 1 ngày và 1 vận, 1 tháng và 1 hội về cơ bản là thống nhất. Số từng hội: Hội Tý = 10.800 năm = 129.600 tháng = 3.888.000 ngày = 46.656.000 giờ = 1.399.680 phân = 16.796.160.000 sao Hội Sửu = 21.600 năm = 259.200 tháng = 7.776.000 ngày (HTý x 2)= 93.312.000 giờ = 2.799.360.000 phân = 33.592.320.000 sao Hội Dần = 32.400 năm = 388.800 tháng = 11.654.000 ngày (HTý x 3)= 139.968.000 giờ = 419.904.000 phân = 5.038.848.000 sao Hội Mão = 43.200 năm = 518.400 tháng = 15.552.000 ngày (HTý x 4)= 186.624.000 giờ = 5.598.720.000 phân = 67.184.640.000 sao Hội Thìn = 54.000 năm = 648.000 tháng = 19.440.000 ngày (HTý x 5)= 233.280.000 giờ = 6.998.400.000 phân = 83.980.800.000 sao Hội Tị = 64.800 năm = 777.600 tháng = 23.327.000 ngày (HTý x 6)= 279.936.000 giờ = 3.398.080.000 phân = 100.776.960.000 sao Hội Ngọ = 75.600 năm = 907.200 tháng = 27.216.000 ngày (HTý x 7)= 326.592.000 giờ = 9.797.760.000 phân = 117.573.120.000 sao Hội Mùi = 86.400 năm = 1.036.800 tháng = 31.104.000 ngày (HTý x 8)= 373.248.000 giờ = 1.197.440.000 phân = 134.369.280.000 sao Hội Thân = 97.200 năm = 1.166.400 tháng = 34.992.000 ngày (HTý x 9)= 419.904.000 giờ = 12.597.120.000 phân = 151.165.440.000 sao Hội Dậu = 108.000 năm = 1.296.000 tháng = 38.880.000 ngày (HTý x 10)= 466.560.000 giờ = 1.399.680.000 phân = 167.961.600.000 sao Hội Tuất = 118.800 năm = 1.425.600 tháng = 42.768.000 ngày (HTý x 11)= 513.216.000 giờ = 15.396.480.000 phân = 18.475.760.000 sao Hội Hợi = 129.600 năm = 1.555.200 tháng = 46.656.000 ngày (HTý x 12)= 559.872.000 giờ = 16.796.160.000 phân = 201.553.920.000 sao CÔNG THỨC : 1x 12 x 30 x 12 x 30 x 12 Quan hệ tương đương: Hội Tý = 1 tháng – Hội Thìn = 5 tháng – Hội Thân = 9 tháng. Hội Sửu = 2 tháng – Hội Tị = 6 tháng – Hội Dậu = 10 tháng. Hội Dần = 3 tháng – Hội Ngọ = 7 tháng – Hội Tuất = 11 tháng. Hội Mão = 4 tháng – Hội Mùi = 8 tháng – Hội Hợi = 12 tháng Hình vẽ THÁI ẤT THIÊN BÀN CƠ SỞ cuối bài 1 BÀI 2 NGŨ NGUYÊN TÝ Mỗi vận (360 năm) chia ra năm phần. Mỗi phần gọi là 1 nguyên tý. Một nguyên tý có 72 năm (360 : 5). Năm phần này hợp thành ngũ nguyên tý. Tên của ngũ nguyên tý là tên của các thiên can, phối hợp với địa chi tý. (Chi đứng đầu trong hệ thống 12 địa chi), cụ thể là: Nguyên giáp tý Nguyên bính tý Nguyên mậu tý Nguyên canh tý Nguyên nhâm tý. TAM NGUYÊN THƯỢNG, TRUNG, HẠ Mỗi vận chia thành 6 phần là: Thượng nguyên ( 2 lần ) Trung nguyên ( 2 lần ) Hạ nguyên ( 2 lần ) Mỗi nguyên 60 năm ÂM CỤC VÀ DƯƠNG CỤC Theo quy định, từ năm 1324 đến năm 2403 (1.080) thuộc dương. Từ năm 2.404 đến năm 3.483 thuộc âm. Hiện nay, chúng ta đang sống trong thế kỷ thuộc dương. Bảng A Số nguyên tý từ năm 1.324 đến năm 2.403 (1080 năm) thuộc dương Nguyên giáp tý 1324 – 1395........1684 – 1755........2044 – 2115 Nguyên bính tý 1396 – 1467........1756 – 1827........2116 – 2187 Nguyên mậu tý 1468 – 1539........1828 – 1899........2188 – 2259 Nguyên canh tý 1540 – 1611........1900 – 1971........2260 – 2331 Nguyên nhâm tý 1612 – 1683.......1972 – 2043........2332 – 2463 ...............................I.......................II......................I II.......... Mỗi nguyên tý 72 năm [(72 x 15) = 18 nguyên] Bảng B Số nguyên tý từ năm 2404 đến năm 3483 (1080 năm) thuộc âm Nguyên giáp tý 2404 – 2475.........2764 – 2835..........3124 – 3195 Nguyên bính tý 2476 – 2547.........2836 – 2907..........3196 – 3267 Nguyên mậu tý 2548 – 2619.........2908 – 2979..........3268 – 3339 Nguyên canh tý 2620 – 2691.........2980 – 3051..........3340 – 3411 Nguyên nhâm tý 2692 – 2763.........3052 – 3123..........3412 – 3483 ...............................I.........................II..................... ...III............ Như vậy, ta có 3 ngũ nguyên tý (1080) thuộc dương, và 3 ngũ nguyên tý thuộc âm. Theo nguyên lý “ Nhất âm nhất dương chi vị đạo ”. Do đó, 1080 năm tiếp theo ngũ nguyên tý là 2404 – 3483 thuộc âm. Niên cục thuộc các nguyên tý dương gọi là niên cục dương, thuộc các nguyên tý âm gọi là niên cục âm. Ba ngũ nguyên tý bao gồm 18 nguyên (60 x 18 = 1080). Các thượng, trung, hạ nguyên từ năm 1684 đến năm 2403, gồm 12 nguyên (720 năm) = 2 vận Thượng nguyên 1684 – 1743.........1864 – 1923..........2044 – 2103..........2224 – 2283 Trung nguyên...1744 – 1803..........1924 – 1983..........2104 – 2163..........2284 – 2343 Hạ nguyên.......1804 – 1863..........1984 – 2043..........2164 – 2223..........2344 – 2403 .............................I..........................II...................... ..III.......................IV THÁI DƯƠNG THẬP NHỊ CUNG XÁ Thái dương thập nhị cung xá tức là 12 cung thuộc vòng hoàng đạo trong chiêm tinh học cổ đại phương Tây. Thập nhị địa chi phối hợp với 12 cung hoàng đạo như sau: Tý phối hợp với.......11 Bảo Bình....Năm 1684 Bắc ...................................................................1743 Sửu phối hợp với.....10 Ma kiệt..............1744 ........................................................1803 Đông Bắc Dần phối hợp với......9 Nhân mã............1804 ...................................................................1863 Mão phối hợp với......8 Thiên yết...........1864 Đông ...................................................................1923 Thìn phối hợp với......7 Thiên xứng........1924 ...................................................................1983 Đông Nam Tị phối hợp với.........6 Song nữ.............1984 ....................................................................2043 Ngọ phối hợp với......5 Sư tử.................2044 Nam ....................................................................2103 Mùi phối hợp với.......4 Cự giải...............2104 ....................................................................2163 Tây Nam Thân phối hợp với.....3 Âm dương...........2164 ....................................................................2223 Dậu phối hợp với......2 Kim ngưu............2224 Tây ....................................................................2283 Tuất phối hợp với.....1 Bạch dương.........2284 ....................................................................2343 Tây Bắc Hợi phối hợp với.....12 Song ngư............2344 ....................................................................2403 Tý phối hợp với.........Bảo bình...............2404 Bắc ....................................................................2463 Mỗi cung tương ứng với 60 năm (1 nguyên) Từ năm 2404 đến năm 3483 thuộc các nguyên tý âm. Từ đó ta suy ra từ năm 1323 lùi lại 1080 năm tức là từ năm 244 đến năm 1523 thuộc các nguyên tý âm. Từ năm 1324 lại bắt đầu phối hợp với Bảo bình trong “Thái dương thập nhị cung xá” với dương niên cục thuộc nguyên giáp tý dương. Bảng C Số nguyên tý từ năm 244 đến năm 1323 thuộc các nguyên tý âm Nguyên giáp tý.....244 – 315..........604 – 675............964 – 1035 Nguyên bính tý.....316 – 387..........676 – 747............1036 – 1107 Nguyên mậu tý.....388 – 459..........748 – 819............1108 – 1179 Nguyên canh tý....460 – 531...........820 – 891............1180 – 1251 Nguyên nhâm tý...532 – 603...........892 – 963............1252 – 1323 ...............................I.......................II....................... ..III............. Thượng nguyên..244 – 303......424 – 483......604 – 663......784 – 863......964 – 1023.......1144 - 1203 Trung nguyên....304 – 363......484 – 543......664 – 723......844 – 923......1024 – 1083......1204 – 1263 Hạ nguyên........364 – 423......544 – 603......724 – 783......904 – 983......1084 – 1143......1264 – 1323 ............................I...................II................III........... ......IV...................V.....................VI............. 18 nguyên (60 x 18 = 1080) SỐ NIÊN CỤC Mỗi nguyên tý có 72 năm. Niên cục được đánh số từ 1 đến 72 trong mỗi nguyên tý. Niên cục được tính theo chu kỳ của mỗi vận 360 năm. Ví dụ: - Năm 1570, theo bảng A ở trên, thuộc nguyên Canh tý dương. Nguyên Canh tý dương bắt đầu từ năm 1540. Ta coi: 1540 = 1 Vậy 1541 = 2 ; 1542 = 3 ; 1543 = 4 ; 1544 = 5…… Cứ thế ta tính tiếp, sẽ có : 1550 = 11 ; 1560 = 21 ; 1570 = 31 Do đó, năm 1570 thuộc nguyên Canh tý dương, dương niên cục 31. - Năm 1644, theo bảng A, thuộc nguyên Nhâm tý dương. Nguyên Nhâm tý dương bắt đầu từ năm 1612 Ta coi: 1612 = 1 Vậy: 1613 = 2 ; 1614 = 3 ; 1615 = 4 ; 1616 = 5…… Cứ thế ta tính tiếp, sẽ có: 1622 = 11 ; 1632 = 21 ; 1642 = 31 ; 1643 = 32 ; 1644 = 33 Do đó năm 1644 thuộc nguyên Nhâm tý dương, dương nguyên cục 33. - Năm 2404, theo bảng B ở trên, thuộc nguyên Giáp tý âm. Nguyên Giáp tý âm bắt đầu từ năm 2404. Ta coi: 2404 = 1 Do đó, năm 2404 thuộc nguyên Giáp tý âm, âm niên cục 1 - Năm 2478, theo bảng B, thuộc nguyên Bính tý âm. Nguyên Bính tý âm bắt đầu từ năm 2476. Ta coi: 2476 = 1 ; 2477 = 2 ; 2478 = 3 Do đó, năm 2478 thuộc nguyên Bính tý âm, âm niên cục 3. SỐ NGUYỆT CỤC Cục tương ứng với tháng gọi là Nguyệt cục. Gốc tính nguyệt cục là ngày mồng 1, tháng Giáp tý ,năm Giáp tý, thuộc triều đại Nguyên Gia thời nhà Tống Trung Quốc (tương ứng với ngày 7 tháng 12 năm 424 sau công nguyên). - Thử tính số nguyệt cục tháng Bính Dần, năm Kỷ Mão (năm 1999). Ta tính như sau: Từ tháng Giáp tý, năm Giáp tý (năm 424) đến tháng Quý hợi (trước tháng Giáp tý) năm Kỷ Mão (trước năm Canh Thìn tức là năm 1999), ta có: 1999 – 424 = 1575 năm (năm Mậu Dần, tháng Kỷ Mão) 1575 x 12 tháng = 18.900 tháng (tháng Hợi, năm Mậu Dần) Từ tháng Giáp tý, năm Kỷ Mão đến tháng Mậu Dần, năm Canh Thìn, có 3 tháng: 18.900 tháng + 3 tháng = 18.903 tháng (Bính Dần, năm Kỷ Mão) Dùng công thức I : 19.903 : 360 = số dư 183 Dùng công thức II : 183 : 72 = số dư 39 Năm 2000 thuộc nguyên Nhâm tý dương, ta nói : tháng Bính Dần năm Kỷ Mão (năm 1999) có nguyệt cục dương 39 thuộc nguyên Nhâm tý dương.1 like
-
THÁI TUẾ Thái tuế là biểu tượng cho người chủ lãnh đạo các thần. Đi tuần thú quốc gia, thăm hỏi các địa phương, đem quân ra trận, kiểm tra nơi cảnh giới, đều không thể không xem cho kỹ. Nếu Tuế quân (Thái tuế) và Thái ất cùng gặp Cách là đại hung. Thái ất đóng cung 3 mà Thái tuế ở Mùi là cách. Có sao chổi xuất hiện ở phương Tây Nam, là các nước phía Đông Bắc bại hoại trước, các nước phía Tây Nam bại hoại sau. Nếu sao chổi xuất hiện ở phương Đông Bắc thì trái lại. Hiện tượng này chủ về sự lưu vong, tật bệnh. Thái ất đóng cung 4, Thái tuế ở cung Dậu cũng là cách. Khi có sao Thái Bạch xuất hiện ở phương Tây là nước phía Đông bại hoại trước, nước phía Tây bại hoại sau. Nếu sao chổi xuất hiện ở phương Đông thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự binh đao, tật dịch, lưu vong. Thái ất đóng cung 8, Thái tuế ở cung Ngọ cũng là cách. Khi có sao Huỳnh hoặc xuất hiện ở phương Nam, là nước phía Bắc bại hoại trước, nước phía Nam bại hoại sau. u sao đó xuất hiện ở phương Bắc thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự loạn lạc, tang thương. Thái ất ở cung 9, Thái tuế ở Tuất Hợi cũng là cách. Khi có sao Bột xuất hiện ở phương Tây là nước ở phương Đông bị bại hoại trước; nước ở phương Tây bị bại hoại sau. Nếu sao Bột xuất hiện ở phương Đông thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự tang thương, tật bệnh. Khi có sao chổi xuất hiện ở phương Tây Bắc, là nước ở phương Đông Nam bại hoại trước; nước ở phương Tây Bắc bại hoại sau. Nếu sao Chổi xuất hiện ở phương Đông Nam thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự binh đao, tang thương, tật bệnh. Nếu Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 lại bị cách mà Thái tuế ở các cung Ngọ, Mùi, Thân, Dậu đều có sát khí yêu tinh hiện ở phương đó thì nhà vua nên tu sửa đức độ, làm tốt chính sự để tránh đi. Và nên đổi niên hiệu, xá hình tội thay đổi chính lệnh để ứng phó với sự biến động nên xảy ra. Ngoài những năm nói ở trên là không bị cách, và do nguyên nhân có sinh khí. THÁI ÂM Giả dụ như năm Tý thì Thái tuế đóng cung Tý; cung Hợi là hợp thần. Sau hai cung tức là cung Tuất là cung Thái âm đóng. Các năm khác dựa theo đó mà tính. Thái âm là vị hậu phi của Tuế đức, chủ về dạy dỗ, khuyên bảo, hứa hẹn. Ở sau Thái tuế 2 thần. Như tính về Thái ất mà Thái ất và Thái âm cùng cung là tất có nước láng giềng đem tiến cống con gái đẹp. Văn xương hoặc Thuỷ kích cùng cung với Thái âm là Hậu phi có lòng nghiêng ngả, phụ nữ chủ về mưu mô. Nhà vua gặp năm như thế thì phải thân thiết với các trung thần, xa lánh kẻ dèm nịnh, cẩn mật với tả hữu, dứt việc nữ sắc, để phòng suy vi.1 like
-
bài quá hay, cám ơn bác Hà Uyên!1 like
-
CHỌN CHỦ KHÁCH VÀ THÁI ẤT, NHỊ MỤC TỐT XẤU. Âm dương hoà hay bất hoà là nói về Thái ất, Chủ Khách, nhị Mục, thần nào đóng ở cung nào. Chủ về tai hoạ do bầy tôi mạnh. Tuy ở cung dương mà tính được thuần dương cũng không tốt. Nếu năm đó tính được số 14, 18, 23 là Thương hoà; chủ về tám phương bình an, nước có điềm lành. Nhị mục mà được như vậy là các tướng đại lợi. Các số 23, 36, 29 là Thứ hoà. Chủ về tình hình thiên hạ yên hoà, nhân dân vui vẻ, mùa màng được. Các số 12, 16, 27, 34, 38 là Hạ hoà. Chủ về chín cõi bình an, cơm no áo đủ. Tuế kế mà gặp như vậy là năm thông thuận. Tính được các số 16, 26, 36, 17, 27, 37, 18, 28, 38, 19, 29, 39 là Tam tài đều đủ. Tính Tuế kế mà gặp thế, lại không có Quan, Tù, Yểm, Bách, Cách, Đối, Đề, Hiệp phạm vào là chủ về việc trời, giáng phúc lành, dân yên, mùa được. Nếu số tính được các số đơn: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 không đến số 10 là số đến số 10 là số Vô thiên. Hoặc gặp quan, tù, yểm, bách, cách, tuyệt và âm dương bất hoà là trời có biến đổi lạ thường, hai sao bị ăn khuyết, năm vì sai lệch, sao Tuệ (sao chổi), sao Bột (sao thổ) xuất hiện là có tai hoạ về sương buông và mưa đá. Nếu tính được số 11, 12, 13, 14, 21, 23, 24, 31, 32, 33, 34 số tính không quá 5 là 5 là Vô Địa. Hoặc gặp các điều xấu thì mặt đất có nhiều biến đổi lạ thường như núi lở, đất rung, sông cạn, nước bồng; thậm chí còn có sâu bọ nảy sinh, dân chúng xâu xé lẫn nhau. Nếu tính được số 10, 20, 30, 40 là số không qua 1 là Vô nhân. Hoặc có các điều phạm về bất hoà thì con người có biến đổi lạ thường (cãi cọ, lật lọng, dối trá, trộm cướp…). Thậm chí còn loạn lạc, tật dịch, phiêu bạt, mất mùa, chết đói, rất nhiều tai hoạ. Nếu như tính được các số 2, 12, 32 là đủ ba x của năm tương phát, lợi việc dấy binh xuất quân. Nếu như số tính được 10 là Tướng quân, được 5 là Lại sĩ, được 1 là binh lính. Không trúng số 10 là không có Tướng; ra quân không có lợi cho chủ tướng. Không trúng số 5 là không có Lại sĩ; bất lợi cho phó tướng. Không trúng số 1 là không có binh lính; bất lợi cho quân sĩ. Nếu như tính được từ số 16 trở lên là Hoà, là Tướng, Lại, quân lính đều đầy đủ; lợi cho việc dấy quân, làm trăm việc. Nếu dưới số 16, số đơn từ 9 trở lên là bất lợi cho việc ra quân, kỵ trăm việc. LUẬN VỀ CHỦ KHÁCH, TRƯỚC SAU. Như dân quân ở đồng bằng, cờ trống cùng trông, thấy nhau; hành động trước là khách, ứng phó sau là chủ. Nếu ở thời an cư, hành động trước là chủ, ứng phó sau là khách. Sách phong giốc chiêm nói: Làm vua một xứ, độc 1 mình là chủ; đem quân vào đất lạ là khách. Sách Thống tôn nói: Lấy Trung Quốc là chủ thì xem chủ mục, Văn xương. Lấy rọ ngoài là chủ thì nhìn khách mục, Thuỷ kích. Sách Đăng dàn nói: Như bốn tướng cùng 1 cung, thì Khách có thể Quan được Chủ, chủ không thể Quan được Khách. Đương lúc như vậy nên cử binh trước để ứng chiến với Khách. Nếu là Chủ mà khởi sự sau thì gặp đại hung. Muốn rõ Thiên đạo, trước phải suy tính Chủ, sau suy tính Khách. Nếu cả chủ khách đều được kế lành, ba cửa đủ, năm tướng phát, âm dương hoà là lợi cho việc dấy binh, đi đâu được đó. Khởi sự trước là thắng, khởi sự sau tất bại. Nếu chủ khách đều gặp kế xấu, ba cửa không đủ, năm tướng không phát, âm dương không hoà thì khởi sự trước là bại, khởi sự sau sẽ thắng. Tính về cát hung, trường là thắng, đoản là bại. Tính chủ khách, lấy trường nhiều là thắng; đoản ít là thua. Trường nhiều thì nên vào sâu; trường ít thì vào nông. Xem nước ngoài động tĩnh ra sao, lấy giờ của phép tính khách mà xem vào cửa Đỗ thì giặc không đến. Cửa đủ, tướng phát, âm dương hoà, chủ khách đều hội ở trước Thái ất thì giặc đến hàng. Như xem rợ Bắc Dịch, khách mục chuyển mà đi về phía Nam là giặc đến; chuyển đi về phía Bắc là giặc không đến. Xem về việc quân địch cho sứ đến giảng hoà, có thể tin hay không, nên xem Thái ất chế ngự. Như tính thời kế Thái ất ở cung 2 là Ly hoả. Thuỷ kích đến Thân, Vũ Đức là kim, Hoả chế khắc kim là sứ bên địch thực hàng. Xem có phản gián hay không, nên xem Khách mục trước và sau. Như Thái ất ở cung 1 Càn. Nếu chủ khách Đại tướng, Tiểu tướng, Thuỷ kích đến các cung 6, 7, 2 là ngoài, là trước; đến các cung 8, 3, 4, 9 là trong, là sau. Nếu Khách mục Thuỷ kích đến Tuất là có giặc đến nhòm ngó. Xem quân giặc đến nhiều hay ít, nếu lấy số khách tính được 16 trở lên, âm dương thịnh là quân giặc nhiều, có tướng mạnh. Nếu được dưới số 15 thì quân giặc ít. Thiên mục đến phía trái thì giặc từ phía Đông kéo đến; đến phía phải thì giặc từ phía Tây kéo đến; vào cửa Đỗ thì giặc không đến. Xem về sự đối địch, nên xem thế mây gió, chim bay, muông chạy. Cung Thái ất sở tại mà có gió mây, chim muông từ giữa bay lên thì phải chuẩn bị gấp. Như Thái ất ở cung Tốn là mộc, mà gió mây chim thú từ phương Càn kim bay tới là chế ngự Thái ất; là rất xấu. Gió mây, chim muông từ khu Chủ Đại tướng, Thái ất, Tòng Đức lại thì cần đánh gấp, vì Chủ Đại tướng lợi. Nếu từ cung khách mục, Đại tướng lại thì nên chuẩn bị đối phó với địch. Chọn ngày, chọn giờ nên xem cách tính ngày và giờ. Nếu lợi, sẽ dấy quân. Khắc chế không nên theo. (Phép tính ngày và giờ sẽ nói rõ ở sau) Xét chủ khách là vô thường, tuỳ người mà hoạt biến. Như xem năm Kỷ Tị niên hiệu Chính thống triều Minh, Thái ất vào cục 64. Thái ất đóng cung 2 Ly, trợ khách. Khách 24, hoà. Đại tướng phát, lợi là Khách lợi ở hành động trước. Chủ 38, tuy hoà, tham tướng phát nhưng Đại tướng gặp cách là trên dưới gặp cửa Đỗ. Thuỷ kích cũng bị cách là đổi thay biến dịch. Văn xương bị Bách Khách Tham tướng gặp tù là bức hiếp, trì trệ, giằng co, công kích, không lợi cho chủ; nên cố thủ. Lại Khách mục ở Khảm là thuỷ khắc Thái ất là hoả; rất xấu. Năm ấy Dã Tiên làm giặc, Vương Chấn (bầy tôi đời vua anh Tông triều Minh) không nghe lời bàn của quần thần, ép vua thân chinh, bị thua ở Thổ mộc (một địa danh ở Trung Quốc). Vua đi tuần thú phương Bắc, chỉ lấy tính về chủ, về Khách đều được hoà, cuối cùng quay được về. Đó là sự nghiệm về Trung Quốc là chủ, rợ ngoài là khách; ứng phó là Chủ, hành động trước là Khách. Năm Bính Tuất niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh, Thái ất vào cục 13 Thái ất ở cung 9, trợ khách Khách là 23, trường hoà. Tham tướng tù Đại tướng phát lợi cho khách, lợi hành động trước. Chủ là 16, hoà Hai tướng phát, cùng lợi cho chủ. Chủ đoản, khách trường. Trường mà nhiều là thắng. Chủ và Khách đều tính được số lành. Lợi cho việc dấy quân; khởi sự trước là thắng, khởi sự sau là bại. Khách mục ở Thân là kim, khắc Thái ất mộc; rất xấu. Văn xương đối xứng với Thái ất là xung tai. Năm ấy, nhà Minh sai tướng Hoàng Trung đem quân đưa Trần Thiện Binh về nước ta. Chúa họ Hồ cự chiến ở Lạng Sơn; trước thua sau thắng. Vua Thành Tổ nhà Minh cả giận, phát đại quân sang đánh. Trương Phụ và Mộc Thanh chỉ huy 2 đạo quân cùng tiến, phá quân Hồ, chiếm đất Giao Châu. Chỉ lấy Chủ tính được hoà, các cửa đủ, tướng phát nên cuối cùng thu phục lại được và lập quốc. Đó là nghiệm về ở đất vua là chủ vào 6 cõi khác là khách; ứng chiến sau là Chủ, khởi động trước là Khách. Năm Canh Dần niên hiệu Vĩnh Lạc, Thái ất vào cục 27, Thái ất đóng cung 1 Càn, trợ thủ. Chủ 30, trường hoà. Đại tướng tù. Thái ất ở kim khắc Thuỷ kích là mộc. Lợi chủ, lợi cho hành động sau. Khách 26, chủ đại. Tiểu tướng hiệp khách đại tướng, bất lợi cho khách. Năm ấy, Bản nhà Thất lý chống lệnh triều đình. Vua Thành Tổ tự đem quân đi đánh phương Bắc. Đánh bại chúng ở sông Cán Nan. Đó là Trung Quốc, rợ ngoài là Khách, khác cõi là Khách. Năm Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Lạc Thái ất đóng cung 4 Chủ 25 Cửu là Đỗ. Đại tướng phát. Lợi cho Khách, lợi cho sự hành động trước. Năm ấy đức Cao Hoàng triều ta khởi binh ở Lam Sơn, lần lần đánh giặc đều thắng. Quan Tam Ty nhà Minh phải giảng hoà kéo quân về Bắc. Nước An Nam mới thu phục lại được, bởi vì bên kia chiếm nước ta, chia ra quận huyện thì họ là chủ, ta chỉ là 1 chốn khởi binh thì ta là khách. Thế là trong nước là Chủ, ngoài nước là Khách, mà có cái nghĩa đất là của vua đã rõ ràng. Năm Đinh Mùi niên hiệu Tuyên Đức, Thái ất vào cục 44. Thái ất đóng cung 8 Số tính là trường. Văn xương bị ngoài Bách. Khách mục khắc chế Khách tham tướng cách Đối bất lợi cho Chủ nhân Khách đoản cũng bất lợi nhưng được Thượng hoà Khách đại tướng và tiểu tướng hiệp chủ tham tướng. Chủ đại tướng hiệp khách tham tướng là 2 bên đối địch nhau, cùng mưu diệt nhau. Tình thế này, khởi động trước là bại, khởi động sau mới thắng. Trong khung cảnh cờ trống cùng trông thấy nhau thì khởi động trước là Khách, khởi động sau là Chủ. Đức Cao Hoàng ta đã vây Đông Đô, các lộ đã hạ được cả. Tháng 2 năm ấy, hai thượng tướng là Lê Triện và Lê Công Thành bị thua, chết hại binh lính hàng vạn người. Tháng 10, đại tướng nhà Minh là Liễu Thăng đem bảy vạn quân đến xâm phạm. Quân ta nhử đánh ở trên ải Chi Lăng, phá tan quân địch, chém chết Liễu Thăng. Đó là biểu tượng của sự hai bên cùng o ép lẫn nhau (hỗ hiệp). Khởi sự trước là bại, chủ khách vô thường là thế. Cho nên, nhất thời, hai bên cùng chiếm 1 cục, đều nên lấy đó mà suy lường mới rõ nghĩa của Chủ Khách; quyết được thời cơ hành động sau hay trước. Khách tính được thượng hoà thì tám phương thanh bình, khang thái, thiên hạ ngừng binh. Từ đó Nam Bắc kết giao hoan hỷ, trong ngoài không còn chuyện gì.1 like
-
TÍNH TUẾ KẾ Tính Tuế kế, tức là tính niên cục Phương pháp tính: Tính số tích niên từ thượng nguyên Giáp Tý thiên hoàng cổ đại, đến năm Mậu Ngọ, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 6 (năm 1798 dương lịch); được 10.155.715 năm, là vào trung nguyên Giáp Tý, kỷ thứ 2; vào nguyên Bính Tý dương, dương niên cục 43. Tra bảng “Thái ất 72 âm dương cục” (bài 9). Ta được: Thái ất đóng cung 8 Khảm Văn xương ở Tý vào cung 8 Khảm Chủ toán số 8 (Đơn dương, vô thiên) Chủ Đại tướng đóng cung 8 Khảm (tù) Chủ tham tướng đóng cung 4 Chấn (Phát) Kế thần ở Thân. Thuỷ kích ở Tị (Đại thần) Khách toán số 17 (tạp trùng dương) Khách đại tướng đóng cung 7 Khôn (Phát) Khách tham tướng đóng cung 1 Càn (nội Bách) Tính tiếp: Quân cơ ở Mùi Thần cơ ở Mão Dân cơ, Ngũ phúc ở cung giữa 5 Tứ thần ở Thìn Thiên Ất ở Dậu Địa ất ở Ngọ ****** Ví dụ : Tính Tuế kế năm Tân Hợi niên hiệu Tự Đức thứ 6 (năm 1853 dương lịch); được số tích niên là 10.155.768 năm. Tra “Bảng Thái ất 72 âm dương cục” (bài 9). Ta được: Thái ất đóng cung 8 Khảm, năm thứ hai là Lý địa, ở kỷ Giáp Tý thứ 3, Hạ nguyên được 48 năm. Tức là năm Giáp Tý 10 năm, đến Giáp Tuất 10 năm, đến Giáp Thân 10 năm. Tính đủ 48 năm là thuộc năm thứ 8 của tuần Giáp Thìn, tức là năm Tân Hợi. Vào nguyên Mậu Tý dương, dương niên cục 24. ****** TÍNH NGUYỆT KẾ Ngắt từ năm Giáp Tý, niên hiệu Nguyên Gia năm đầu, triều Tống tháng 11 Giáp Tý (năm 424 dương lịch); tính đến năm Mậu Ngọ niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 6 (triều Tây Sơn) năm 1798 dương lịch cộng được số tích niên là 1.673 năm. TÍNH NHẬT KẾ. Khởi từ năm Mậu Thân niên hiệu Hoằng Trị năm đầu triều Minh (năm 1488 dương lịch), tính được số 243. Dùng số đó tính theo năm một tiến, một lùi. Nếu gặp năm nhuận thì phải lùi. Nếu tiến, dùng những năm đã qua là số 24 tháng. Nếu lùi, dùng những số tháng thiếu của năm đã qua. Giả dụ như ngày mồng 1 Tết năm nay ở sau ngày mùng 1 Tết năm ngoái, phải dùng phép lùi. Nếu ngày mùng 1 Tết sang năm mà đứng trước ngày mồng 1 Tết năm nay, phải dùng phép tiến. Lùi tất không quá số 5, 6. Tiến tất không quá số 24 (là số nhất định) Trước hết lấy Kỷ để tìm ngày, tiếp sau lấy nguyên để tìm cục (giống như phép tính năm) ****** LUẬN VỀ QUAN, TÙ, YỂM, BÁCH, KÍCH Quan: -Có nghĩa là 2 bên giao chiến, thế 1 sống 1 chết, 2 bên phòng bị lẫn nhau, tướng văn tướng võ đều phải kiêng kỵ. -Có biểu tượng lấn át, tranh đoạt nhau. Nếu cứ làm sẽ bất lợi. Chỉ khi tính được đa (nhiều) và hoà là thắng; tính được thiếu (ít) và bất hoà là bại. -Có ý nghĩa là sự việc không kịp tới bậc nhân quân. -Về vị trí tức là Chủ, Khách Đại tướng, tiểu tướng cùng ở 1 cung, phải thay nhau mà quan phòng. Tình hình ác liệt như 2 cọp trong 1 rừng, hai thuồng luồng 1 suối. Khi có thịnh suy, thế không đội trời chung được, phải xem nhị Mục ở cung nào mà dùng Ngũ hành để quyết đoán, sẽ rõ sự thắng bại. -Khách Đại tướng, Khách Tiểu tướng phạm vào Thuỷ kích là Chủ quan Khách. -Tuế kế mà gặp như thế là chủ tướng bất hoà. Tù: -Tù là Thái ất, Văn xương, Đại tướng, Tiểu tướng xâm lấn lẫn nhau. Có ý nghĩa là dưới phạm trên, trói buộc, bài xích nhau, cố chấp nhau; sẽ bị hoạ tang vong, thua bại. -Về vị trí là Thái ất và Văn xương cùng đóng 1 cung. -Ở đất dịch tuyệt là rất dữ. -Ở đất Tuyệt âm, Tuyệt dương là tự thua, không lợi cho bên hành động trước. Kích: -Kích là Thuỷ kích ở bên phải, bên trái cung Thái ất cùng lấn đánh lẫn nhau. -Ngoại kích là các nước chư hầu xâm lấn, tôi con, bề dưới phản nghịch. Nước ngoài vào xâm lăng. -Nội kích là kẻ cận thần cùng họ với Hậu phi gây sự phế bỏ, giết chóc. -Thần gặp kích tất gấp. Cung gặp kích là chậm. -Nhà vua và tướng đều phải kiêng kỵ. Bách: -Bách là bên tả, bên hữu Thái ất gặp Thiên Mục, Địa mục và Đại tướng, Tiểu tướng bức sát gần bản cung. Chỉ vào sự xâm lấn, bức bách kìm giữ. Biểu lộ tình hình trên dưới lấn át nhau, tả hữu bức bách nhau. -Trước là ngoài, sau là trong. -Thần là cấp, cung là hoãn, ở sau Thái ất. -Năm dương, tai hoạ nhẹ. Năm âm tai hoạ nặng. Bách còn có nghĩa là Chủ, Khách, nhị Mục, tứ Tướng và Kế mục ở bên phải bên trái cung Thái ất, biểu hiện tình hình bầy tôi bức bách vua. -Ngoại bách là đại thần ngược lại mệnh vua có âm mưu bên trong, cùng họ có âm mưu phản nghịch, Hậu phi 2 lòng. -Nội ngoại Bách kích là trong ngoài liên kết mưu mô. Số tính là bất hoà thì thua; nếu cùng ở cung Dịch tuyệt là trước sau bại. -Ở đằng trước cung ấy là minh bách; sự việc xảy ra từ bên ngoài. -Ở đằng sau cung ấy là ám bách; sự việc xảy ra từ bên trong. Phản: -Phản là Thái tuế đóng trước cung Thái ất; có ý nghĩa phản nghịch, không tuân lệnh, dưới chống đối trên. Yểm: -Yểm là Thuỷ kích tới cung Thái ất. Có ý nghĩa âm thịnh, dương suy, dường mối nhà vua không còn trên lấn áp, dưới tiếm quyền, tụ tập cướp giết. Phàm thấy như vậy thì dùng mệnh toán để phối hợp xem hoà và bất hoà. Một âm, một dương gọi là đạo, tính được hoà. Khí được thuận, là tốt. Nếu bất hoà, khí nghịch là xấu. -Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 là dương; tính được số 1, 3, 5, 7 là lẻ; thế là trùng dương; chủ về sự khó khăn, hạn hán, hoả tai. -Thái ất ở các cung 1, 6, 2, 7 là âm, tính được số 2, 4, 6, 8 là chẵn, thế là trùng âm; chủ về mưa dầm, lụt, nước to, đều là theo số tính thấy bất hoà. -Nếu Thái ất ở dương cung, tính được số chẵn; ở âm cung, tính được số lẻ, là tính được hoà. -Hai sao Thiên mục, Địa mục lấy các cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài là dương; lấy các cung Hợi, Sửu, Dần, Thìn, Tị, Mùi, Thân, Tuất, ngôi gián thần đóng là âm. -Ở cung dương, tính được số chẵn, ở cung âm tính được số lẻ là hoà. Trái lại là bất hoà. -Số 3, 9 gặp cung Dần, Thìn là thuần dương. -Số 4, 8 gặp Sửu, Tị là tạp dương. -Số 2, 6 gặp Hợi, Mùi là thuần âm. -Số 1, 7 gặp Thân, Tuất là tạp âm. -Các số 33, 39 tính được là trùng dương. -Các số 22, 26 tính được là trùng âm. -Thái ất, Thiên mục đóng ở âm cung, số tính được 24, 28 là tạp trùng âm; tai hoạ rất lớn. -Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương, số tính được 19, 13, 31, 37 là tạp trùng dương. Tai hoạ vừa vừa, quá lắm là trong ngoài có lập mưu. Ở cung âm mà số tính được 11, 17 là dương ở trong âm, bên trong có âm mưu. Đều lấy số tính được nhiều và hoà là thắng; trái với thế là bại. -Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương số tính được 33, 39 là thuần dương, là thái quá; chủ về điều hung, va bạo ngược. Đóng ở cung âm mà số tính được 22, 26 là thuần âm, là thái quá, cung là yểm. Nếu gặp cung 2, cung 8 là dịch khí; cung 4, cung 6 là tuyệt khí, tính niên kế là nhà vua gặp hung. Và cung 9 là thuần âm, cung 1 là tuyệt dương, chủ về việc bầy tôi gặp điều dữ, xấu mà bị giết. -Yểm là Thuỷ kích gia vào cung Thái ất là âm yểm dương, gặp tình hình này thì chính trị không thi hành được, kỷ cương nhà vua mất, bầy tôi mạnh, vua yếu; thân chết, nước mất, trộm cướp, binh đao, lụt hạn, bệnh dịch. -Nếu yểm ở cung dịch tuyệt là nhà vua gặp dữ lớn; ở đất tuyệt dương, tuyệt âm, là đại thần bị giết. -Nếu yểm chủ đại tướng mà số tính về chủ không hoà là dữ, số tính hoà là lành. Đại tướng tuy gặp dữ nhưng Tham tướng số tính được hoà lợi, lấy tiểu tướng đánh thì thắng. Nếu Tham tướng bị yểm thì tiểu tướng gặp điều dữ. Cách: -Cách là Khách mục, Đại tiểu tướng cùng đối xung với Thái ất, Cách biến thành tiếm đoạt, chống cự ở đất dịch tuyệt là rất dữ. -Chủ cách khách quan; nếu chiến đấu tất chủ thắng. Chủ quan, khách cách; nếu chiến đấu thì khách thắng. Chủ khách nhà số tính là bất hoà thì bại. Tuế kế mà gặp như vậy là bề tôi ở dưới, lừa dối kinh nhờn nhà vua. Kích: -Kích là Thuỷ kích bức bách gần Thái ất, tiền tả hậu hữu; trong là lấn át, đâm chém nhau, trên lấn áp, dưới tiếm quyền. -Nếu gặp thần “kích” thì tai hoạ rất gấp nếu gặp cung “kích” là tai hoạ chậm hơn. Từ vua chúa đến thứ dân, các quan văn võ đều nên kiêng kỵ. Nếu cứ làm sẽ bất lợi. Bên trong gặp rắc rối phía các bà hậu, bà phi; bên ngoài gặp phiền nhiễu từ các phiên thần hay ngoại quốc. -Kích còn là Thuỷ kích ở bên phải, bên trái cung Thái ất. Có ý nghĩa là cùng lấn đánh lẫn nhau. -Ngoại kích là các nước chư hầu xâm lấn, tôi con phản nghịch, nước ngoài vào xâm lăng. -Nội kích là kẻ cận thần cùng họ với Hậu phi có âm mưu phế bỏ, giết chóc. -Thần gặp kích là gấp, cung gặp kích thì chậm. Nhà vua và tướng tá đều phải kiêng kỵ. -Như xem năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị thứ 13 triều Lê (năm dương lịch 1570), chủ tính được 33, trừ đi 30, dùng 3 tức là Chủ Đại tướng ở cung 3 mà Thái ất cũng ở cung 3 là Tù. Tù tức là có sự tang vong, là điều xấu. -Chủ Tham tướng, lấy số 3 mà nhân, 3 x 3 = 9, tức là Chủ Tham tướng ở cung 9, mà văn xương cũng ở cung 9, cũng là Tù, là xấu. -Lại tính Khách là 10, bỏ 10 dùng 1, tức là Khách Đại tướng ở cung 1, không gặp Tù, Bách, Yểm, Kích là tướng phát, là lành. -Lấy 3 x 1 = 3, tức là Khách Tham tướng ở cung 3, cùng cung với Thái ất; tức là tù, là Tiểu tướng bất lợi. -Cục này, Thái ất tuy trợ chủ, mà chủ lại bất hoà; hai tướng gặp tù, nên an cư, không thể hành động trước. -Khách hoà, tướng phát; lợi về khách; nên an cư vì lợi về hành động sau. -Thiên mục ở trước là trong có thể công ngoài; ở sau là ngoài có thể công trong. Từ Càn đến Thìn là trong. Từ Tốn đến Tuất là ngoài. -Thái ất ở các cung 1, 8, 3, 4 là Thiên nội, là trợ thủ, không thể đem quân công phạt. Muốn đánh địch, không nên khởi động trước, tức là nên hậu ứng. -Nếu Thái ất ở các cung 2, 3, 6, 7 là Thiên ngoại là trợ khách, lợi cho việc dấy binh đánh dẹp; nếu muốn đánh địch, không nên tiến sau, mà phải đánh trước. -Xét theo Tuế kế, năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị thứ 13 triều Lê, tương ứng với năm 1570 dương lịch, thuộc nguyên Canh Tý dương, trung nguyên, dương niên cục 31. Theo “Bảng Thái ất 72 âm dương cục”, cục dương 31 có các sao đóng tai các cung như sau: Thái ất đóng cung 3 Kế thần đóng cung Thân Văn xương đóng cung Tốn Thuỷ kích đóng cung Tuất Chủ toán số 33 Chủ Đại tướng đóng cung 3 Chủ Tham tướng đóng cung 9. Khách toán số 10 Khách Đại tướng đóng cung 1 Khách Tham tướng đóng cung 3 Đối: -Đối là chủ mục đối xứng với cung Thái ất, có ý nghĩa là sự xung đột, đối kháng nhau, là bậc đại thần có hai long, lừa dối vua, chặn đường người hiền, ghét đuổi bậc trung lương. -Nếu Chủ mục, Khách mục, Đại tướng, Tiểu tướng đối với cung với Thái ất thì tướng lại hiệp mưu gian, bề tôi dối trá. Đề hiệp: -Đề hiệp là Chủ mục, Khách mục cùng 2 tướng hoặc 1 tướng mà Hiệp cùng Thái ất, Chủ mục, Khách mục cùng 2 Đại tướng, Tiểu tướng ở cung chính ấy là Đề hiệp. -Nếu chủ mục, Khách mục ở gián thần, Chủ khách hai tướng cùng Thái ất hiệp nhị Mục ở gián thần là Hiệp quan. -Nếu chủ khách mục, tương quan số tính mà Trường hoà là thắng. -Nếu chủ khách mục, hoặc 2 tướng hoặc 1 tướng mà cùng Thái ất hiệp chủ khách mục hoặc đại tiểu tướng, ấy là vừa tôi đồng mưu, cùng giết kẻ bất nghĩa bất đạo. -Nếu nhị Mục với Đại tiểu tướng cùng hiệp Thái ất là chính sự trong tay bậc đại thần, bề tôi chuyên quyền. Số tính hoà mà có cách đối cung Thái ất là dữ; bất hoà mà không có cách đối cung thì trước thắng sau bại. -Khách mục, Đại Tiểu tướng hiệp Chủ mục ở cung gián thần thì khách thắng, nếu như hiệp Thái ất thì trước thắng sau bại. -Nếu Chủ Đại tướng gặp tù ở cung Thái ất cũng là khách thắng. -Nếu nhị Mục cùng bốn tướng hiệp lẫn nhau là 2 bên cùng dương có âm mưu. -Nếu Thiên về hiệp 1 tướng một Mục tất bên hiệp sẽ bại. -Khách tại nội, ngoại gặp Bách mà hiệp đều là bất lợi cho việc hành động trước. -Nếu Văn xương gặp tù bách mà khách Đại Tiểu tướng hiệp là đều bất lợi chủ. Chấp đề: -Chấp đề là Thái ất hợp cùng hai cửa Khai và Sinh. Đề cách: -Đề cách là Thái ất xung với hai cửa Khai và Sinh. -Chủ khách Đại tiểu tướng ở cửa Sinh đến xung cách là dữ, không nên cử sự. Xem việc quân cũng như thế. Tứ quách cố: -Tứ quách cố là văn xương gặp tù ở cung Thái ất. Chủ đại tiểu tướng lại cùng gặp Quan hoặc có Thuỷ kích, hoặc khách Đại tiểu tướng tương quan, hoặc cùng chủ đại, tiểu tướng tương quan. -Tuế kế mà gặp như thế là có hoạ thoán ngôi, kẻ dưới giết bề trên. -Có Khách tham tướng, văn xương cùng có mặt chủ đại tướng cùng khách đại tướng tương quan. -Có kiêm cả Yểm, Bách, Quan, Cách, là “Tứ quách đô”, là bất lợi cho việc xuất quân, đều bị Yểm không thong, mọi việc không thành. Đó là rất hung.1 like
-
CHU THIÊN Chu thiên (1 vòng trời) có 12 cung. Mỗi cung 30 độ Mỗi độ 60 phút Mỗi phút 60 giây Mỗi giây 60 vi Mỗi vi 60 tiêm Mỗi tiêm 60 hốt Mỗi hốt 60 mang Mỗi ngày 12 giờ (giờ cổ) Mỗi giờ 24 khắc Mỗi khắc 15 phút Mỗi phút 60 giây. (Đến vi, tiêm, hốt, mang cũng tương tự) Một khắc có 15 phút, tất 4 khắc là 60 phút, 8 khắc là 1 giờ (4 khắc là sơ nhất khắc, sơ nhị khắc, sơ tam khắc, sơ tứ khắc; tức là chính nhất khắc, chính nhị khắc, chính tam khắc, chính tứ khắc). 120 phút là 1 giờ 12 giờ là 1440 phút (tức là 1 ngày) 30 ngày là 43.200 phút1 like
-
NHỊ THẬP BÁT TÚ Nhị thập bát tú chia thành 4 nhóm thuộc 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Cụ thể như sau: Nhóm 7 sao thuộc phương Đông: -Sao Giốc (hành mộc), chủ về đại nhân lo quân xuất trận. -Sao Cang (hành kim), dân an vui. -Sao Đê (hành thổ), bên trong có bầy tôi phản nghịch; trung cung phải phòng hoả hoạn. -Sao Phòng (Nhật – Thái dương), bên trong lo về việc động binh. -Sao Tâm (Nguyệt – Thái âm), thái tử và các vương hầu lo nghĩ. -Sao Vỹ (hành hoả), chốn hậu cung có điều kinh sợ; Hậu phi có tai hoạ. -Sao cơ (hành thuỷ), có việc binh đao, quân sĩ lưu vong. Nhóm 7 sao thuộc phương Bắc: -Sao Đẩu (hành mộc). Bề tôi mất tước lộc. Nhân dân xâm lấn nhau. -Sao Ngưu (hành kim). Thóc cao, gạo kém. Dân đói. Trâu, bò, dê chết nhiều. -Sao Nữ (hành thổ). Hậu phi ốm đau. Hoả hoạn -Sao Hư (Nhật – Thái dương). Cải cách chính sách. Xoá tội khoan dung. -Sao Nguy (Nguyệt – Thái âm). Đất cát hưng thịnh. Nhiều bệnh tật. -Sao Thất (hành hoả). Đại thần giấu mưu hiểm, không chịu theo năm mất mùa. -Sao Bích (hành thuỷ). Văn chương hưng thịnh. Bỏ việc binh đao. Đại phát. Nhóm 7 sao thuộc phương Nam: -Sao Tỉnh (hành mộc). Sông ngòi, đầm ao ứ đọng. Giặc cướp, dân chúng lưu vong. -Sao Quỷ (hành kim). Hậu phi thất thế. Nhân dân nhiều bệnh tật. -Sao Liễu (hành thổ). Dân chúng đói khát, mất mùa, lưu vong. -Sao Tinh (Nhật – Thái dương). Hoả hoạn -Sao Trương (Nguyệt – Thái âm). Có nhiều biến đổi về lễ nghi. -Sao Dực (hành hoả). Âm dương mất thứ tự. Nhiều mưa lụt. -Sao Chẩn (hành thuỷ). Thua bại. Chết chóc. Đại tang. Mất mát. Các sao trên là tuỳ theo Tuế kế Thái ất vào cung nào, nhà nào mà xem xét các năm có sự việc làm chủ. Lại có 1 phép tính là: lấy Kế thần gia Hoà Đức vào, rồi xem cung Thuỷ kích tới để xét cát hung. Lại suy tính cung mà năm Thái ất tới để xét sâu hay nông như Thái ất lý thiên, dựa vào sao thứ nhất; Lý địa dựa vào sao thứ hai; Lý nhân dựa vào sao thứ ba. Nếu Thuỷ kích không ở các cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu mà lâm vào 1 sao thì sao đó phải đảm đương; lâm vào 2 sao thì chia đều để quản một năm. An nhị thập bát tú theo năm: -Sao Giốc: Các năm 1890, 1918, 1946, 1974, 2002, 2030, 2058…… (A + 28) -Sao Đẩu: Các năm 1869, 1897, 1925, 1953, 1981, 2009, 2037…… (B + 28) -Sao Khuê: Các năm 1876, 1904, 1932, 1960, 1988, 2016, 2044…… (C + 28) -Sao Tinh: Các năm 1883, 1911, 1939, 1967, 1995, 2023, 2041…… (D + 28) Ví dụ: Nhị thập bát tú ngoài việc tính theo năm còn tính theo tháng, ngày để xét cát hung trong các khoảng thời gian tương ứng. Xin tham khảo thêm vạn niên lịch từng năm. Ví dụ: Năm Kỷ Mão 1999 Mồng 1 tháng giêng âm lịch Sao Vĩ (cả tháng: sao Tinh) Mồng 1 tháng hai âm lịch Sao Đẩu (cả tháng: sao Trương) Mồng 1 tháng ba âm lịch Sao Ngưu (cả tháng: sao Dực) Mồng 1 tháng tư âm lịch Sao Nữ (cả tháng: sao Chẩn) Mồng 1 tháng năm âm lịch Sao Nguy (cả tháng: sao Giốc) Mồng 1 tháng sáu âm lịch Sao Thất (cả tháng: sao Cang) Mồng 1 tháng bảy âm lịch Sao Bích (cả tháng: sao Đê) Mồng 1 tháng tám âm lịch Sao Lâu (cả tháng: sao Phòng) Mồng 1 tháng chín âm lịch Sao Vị (cả tháng: sao Tâm) Mồng 1 tháng mười âm lịch Sao Tất (cả tháng: sao Vĩ) Mồng 1 tháng mười một âm lịch Sao Sâm (cả tháng: sao Cơ) Mồng 1 tháng chạp âm lịch Sao Quỷ (cả tháng; sao Đẩu) Chú ý: Chu kỳ hoàn nguyên của nhị thập bát tú là 7 năm (tức là sau 84 tháng mới trở về 1 tháng cùng tên sao). Tháng nhuận không có tên sao, mà lấy tên sao của tháng kề trước. ****** Nhóm 7 sao thuộc phương Đông tương ứng với sao Thanh Long. Nhóm 7 sao thuộc phương Bắc tương ứng với sao Huyền Vũ. Nhóm 7 sao thuộc phương Tây tương ứng với sao Bạch Hổ. Nhóm 7 sao thuộc phương Nam tương ứng với sao Chu Tước. ****** Ngày tiết khí: Giữa xuân (Xuân phân) Mưa rào (Cốc vũ) Duối vàng (Tiểu mãn) Giữa hè (Hạ chí) Nóng nực (Đại thử) Mưa ngâu (Xử thử) Giữa thu (Thu phân) Sương sa (Sương giáng) Hanh heo (Tiểu tuyết) Giữa đông (Đông chí) Giá rét (Đại hàn) Ẩm ướt (Vũ thuỷ) Ngày trung khí: Trong sáng (Thanh minh) Đầu hè (Lập hạ) Tua rua (Mang chủng) Nắng oi (Tiểu thử) Đầu thu (Lập thu) Nắng nhạt (Bạch lộ) Mát mẻ (Hàn lộ) Đầu đông (Lập đông) Khô úa (Đại tuyết) Chớm rét (Tiểu hàn) Đầu xuân (Lập xuân) Sâu nở (Kinh trập) ****** Tháng tiết khí : Tháng Dần (tháng giêng) Lập xuân -Vũ Thuỷ Tháng Mão (tháng hai) Kinh trập -Xuân phân Tháng Thìn (tháng ba) Thanh minh -Cốc vũ Tháng Tị (tháng tư) Lập hạ -Tiểu mãn Tháng Ngọ (tháng năm) Mang chủng -Hạ chí Tháng Mùi (tháng sáu) Tiểu thử -Đại thử Tháng Thân (tháng bảy) Lập thu -Xử thử Tháng Dậu (tháng tám) Bạch lộ -Thu phân Tháng Tuất (tháng chín) Hàn lộ -Sương giáng Tháng Hợi (tháng mười) Lập đông -Tiểu tuyết Tháng Tý (tháng mười một) Đại tuyết -Đông chí Tháng Sửu (tháng chạp) Tiểu hàn -Đại hàn TÍNH CHẤT NHỊ THẬP BÁT TÚ 1-Sao Giốc (hành mộc): Tốt Giốc tinh: Được việc, thân thế vinh hiển. Đi thi đỗ. Gặp quý nhân. Giá thú, hôn nhân, sinh con đều tốt. Nên tránh các việc mai tang, sửa sang mộ phần. 2-Sao Cang (hành kim): Xấu Cang tinh: Đứng trưởng nên đề phòng giữ mình. Công việc làm ăn phải tính toán rành rẽ. Tránh các việc chôn cất, hôn nhân. Làm ẩu sẽ có hậu quả xấu. 3-Sao Đê (hành thổ): Xấu Đê tinh: Rất xấu Phải đề phòng các việc động thổ, hôn nhân, kinh doanh, ký kết, xuất hành, xây cất, hay gặp tai ương, hỏng việc. 4-Sao Phong (Nhật – Thái dương): Tốt Phong tinh: Rất tốt. Điền tài thịnh vượng Giàu sang, hạnh phúc vẹn toàn. Xây cất, cưới xin, gia cảnh đều đẹp Sĩ, nông, công, thương đều hoà hài. 5-Sao Tâm (Nguyệt – Thái âm): Xấu Sao Tâm: Rất xấu. Cẩn thận giữ gìn trong mọi công việc Tránh ăn hỏi, cưới xin Kinh doanh dễ thua lỗ, kiện tụng. 6-Sao Vĩ (hành hoả): Tốt Vĩ tinh: Chiếu sáng. Rất tốt Nên làm nhà, cưới hỏi đều hanh thong Xuất ngoại, kinh doanh có nhiều thuận lợi. Thăng quan, tiến chức, sự nghiệp hưng thịnh. 7-Sao Cơ (hành thuỷ): Tốt Cơ tinh: Sáng chiếu giúp mọi người. Sự nghiệp cao cả viễn cảnh đẹp Nhà to, cửa rộng. Bạc tiền nhiều. Phúc đức ông cha để lại lâu dài. 8-Sao Đẩu (hành mộc): Tốt Đẩu tinh: Sáng láng, dồi dào. Hôn nhân, sinh nở đều vẹn toàn. Chăn nuôi, cấy gặt, tiền của nhiều. Làm nhà, thả cá đều tốt. 9-Sao Ngưu (hành kim): Xấu Ngưu tinh: Tốn sức, hao tài. Tránh việc xây dựng, dễ gặp chuyện bi ai. Cưới hỏi, đi xa nhà nên cẩn thận Kinh doanh, trồng trọt dễ mất cả vốn lẫn lãi. 10-Sao Nữ (hành thổ): Xấu Nữ tinh: Phụ nữ phải giữ mình Quan hệ, giao thiệp đề phòng kẻ sở khanh. Sinh nở nên tìm thầy thuốc, bà đỡ giỏi. Dễ bị hao tài, tốn của, thiệt hại gia đình. 11-Sao Hư (Nhật – Thái dương): Xấu Sao Hư chủ về tai ương, hư tổn. Nam nữ gần nhau phải giữ gìn. Khôn ba năm dại một giờ để lại đau khổ về sau. 12-Sao Nguy (Nguyệt – Thái âm): Xấu Nguy tinh: Kỵ nhất việc làm nhà, dễ gây nguy hại cho người trong gia đình. Tránh việc hiếu, việc kinh doanh sợ bị khuynh gia bại sản. 13-Sao Thất (hành hoả): Tốt Thất tinh: Chiếu sáng, công việc hanh thông. Công danh sự nghiệp vinh hiển. Mở hiệu, làm nhà đều được thịnh đạt Hôn nhân, con cái nên người. 14-Sao Bích (hành thuỷ): Tốt Bích tinh: Làm mọi việc đều thuận nhân tình Cưới hỏi, sinh con đều đạt mong muốn. Thương mại, kinh doanh nhiều lợi lộc Làm nhà, lợp mái đều được khang ninh. 15-Sao Khuê (hành mộc): Xấu Khuê tinh: Tuy xấu nhưng cũng có phần lành. Vợ chồng hoà thuận, có phúc lộc. Chỉ cần tránh các việc mở hang, động thổ, đưa ma, sửa sang mộ phần. 16-Sao Lâu (hành kim): Tốt Sao Lâu: Lợp mái nhà rất tốt. Thêm người thêm của, cơ nghiệp hưng thịnh. Hôn nhân vào ngày tháng ứng với sao lâu, sinh quý tử. Nhậm chức vào ngày đó sẽ mau thăng chức. 17-Sao Vị (hành thổ): Tốt Vị tinh: Chủ về vinh hoa, phú quý. Trong mọi việc, nên cố gắng thực hiện. Nên tiến hành các việc mua bán, xây nhà, cưới hỏi. Các công to việc lớn rất thuận lợi. 18-Sao Mão (Nhật – Thái dương): Xấu Mão tinh: Nên cẩn thận việc chăn nuôi. Làm nhà, làm cửa dễ gây thiệt hại về người. Làm quan, nhậm chức đề phòng tai hoạ. Hôn nhân, giá thú sợ hạnh phúc kém lâu bền. 19-Sao Tất (Nguyệt – Thái âm): Tốt Tất tinh: Chiếu sáng, điều hoà mọi việc. Nông trang, thóc gạo, lụa tằm bội thu. Nên xây dựng, nhà cửa, tiến hành hôn thú. Sẽ sinh được con cái nên người. 20-Sao Chuỷ (hành hoả): Xấu Chuỷ tinh: Nên cẩn thận dễ mắc việc kiện cáo. Vàng nén, bạc kho cũng hết. Làm việc quan, có chức có danh càng phải giữ gìn. Làm thầy, làm thợ cần dè chừng chuyện tai tiếng. 21-Sao Sâm (hành thuỷ): Tốt Sâm tinh: Còn gọi là văn xương, văn khúc. Mưu cầu sự nghiệp là đại cát tường. Mở hiệu, xây nhà rất tốt. Tránh hôn thú sợ có chuyện chia rẽ về sau. 22-Sao Tỉnh (hành mộc): Tốt Tỉnh tinh: Chỉ cần tránh việc tang Các việc sau đều tốt Thi cử, mưu công danh, trồng trọt. Chăn nuôi, làm nhà, hôn thú. 23-Sao Quỷ (hành kim): Xấu Quỷ tinh: Chiếu rọi dễ gây chuyện buồn thương. Làm nhà dễ khiến chủ nhân vong mệnh. Tránh cưới xin, chỉ lợi việc hiếu, việc tang. 24-Sao Liễu (hành thổ): Xấu Liễu tinh: Chiếu rọi gây lắm chuyện nguy nan. Hao tài, tổn sức, bi thương. Nên chăm làm việc thiện. 25-Sao Tinh (Nhật – Thái dương): Xấu Tinh tinh chiếu rọi, tránh hôn thú, vợ chồng dễ ruồng bỏ nhau. Tốt nhất là tiến hành việc làm nhà, thứ hai là lo việc công danh. 26-Sao Trương (Nguyệt – Thái âm): Tốt Trương tinh: nên cưới hỏi, làm nhà, mở hàng, nhập học, tang ma sẽ để lại phúc ấm lâu dài 27-Sao Dực (hành hoả): Xấu Dực tinh tối kỵ việc làm nhà, dễ xảy ra tai nạn, thiệt hại chủ nhà. Nam nữ gần nhau nên giữ gìn. Mê đắm nguyệt hoa dễ gây chuyện xót xa. 28-Sao Chẩn (hành thuỷ): Tốt Chẩn tinh: Chiếu rọi chủ về sự vẻ vang. Thăng quan, thăng cấp, tài lộc cũng tăng. Việc hiếu, việc hôn nhân, kinh doanh buôn bán đều rất tốt.1 like
-
TRỰC PHÙ là Hoả thần, là sứ tinh của trời, quan sát sự thiện ác trong nhân gian, hoạ phúc của dân chúng. Nếu lâm vào nước vô đạo tất xảy ra hạn lụt, đao binh, nhân dân tan tác. Phương pháp tính toán cũng như phương pháp tính Tứ thần. Thượng nguyên khởi từ cung 5; trung nguyên cung 1; Hạ nguyên cung 9. Đi thuận, 3 năm là rời cung. Một vòng là 36 năm. Trực phù năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hoà thứ năm triều Lê (năm 1684) khởi ở Ngọ Năm Mậu Ngọ, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư triều Lê (năm 1738) đi vào cung Tý Năm Giáp Tý, niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm triều Lê (năm 1744) đi vào cung Dần. Năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 triều Lê (năm 1765) đi vào cung Dậu. Ví dụ: Tính Trực phù năm 1744 (năm Giáp Tý), trung nguyên. Tính số tích niên được 10.155.661 năm. Lấy 10.155.661 chia cho số 360, được số dư là 61 Chia tiếp 61 cho số 36, được số dư là 25. Lại chia 25 cho số 3, được 8 lần, có số dư là 1; tức là được 9 lần thiếu. Từ Ngọ coi là 1, đếm thuận đến 9, ta gặp Dần. Ta nói: Năm Giáp Tý (năm 1744), trung nguyên, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê, trực phù đi vào cung Dần. TIỂU DU THÁI ẤT Phương pháp tính tiểu du Thái ất giống như phương pháp tính Tuế kế Thái ất ở trên. Tiểu du Thái ất tính từ năm Canh Dần, niên hiệu Trường Hưng năm đầu (TQ) tức là năm 930 vào cung 7 Khôn Năm Bính Dần (năm 966) vào cung 8 Khảm Năm Nhâm Dần (năm 1002) vào cung 9 Tốn Năm Mậu Dần (năm 1038) vào cung 1 Càn Năm Giáp Dần (năm 1074) vào cung 2 Ly Năm Canh Dần (năm 1110) vào cung 3 Cấn Năm Bính Dần (năm 1146) vào cung 4 Chấn Năm Nhâm Dần (năm 1182) vào cung 6 Đoài Năm Mậu Dần niên hiệu Kiến Gia thứ 8 triều Lý (năm 1218) vào cung 7 Khôn. Năm Giáp Dần, niên hiệu Nguyên Phong thứ tư triều Trần (năm 1254) vào cung 8 Khảm Năm Canh Dần (năm 1290) vào cung 9 Tốn Năm Nhâm Dần (năm 1362) vào cung 2 Ly Năm Bính Dần (năm 1326) vào cung 1 Càn. Năm Mậu Dần, niên hiệu Kiến Tân năm đầu tiên triều Trần (năm 1398) vào cung 3 Cấn Năm Giáp Dần, niên hiệu Thiệu Bình năm đầu tiên triều Lê (năm 1434) vào cung 4 Chấn Năm Canh Dần, niên hiệu Hồng Đức năm đầu triều Lê (năm 1470) vào cung 6 Đoài Năm Bính Dần, niên hiệu Đoan Khánh thứ hai triều Lê (năm 1506) vào cung 7 Khôn. Năm Nhâm Dần, niên hiệu Nguyên Hoà thứ 10 triều Lê (năm 1542) vào cung 8 Khảm Năm Mậu Dần (năm 1578) vào cung Tốn. Năm Giáp Dần, niên hiệu Hoằng Định thứ 15 triều Lê (năm 1614) vào cung 1 Càn Năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức thứ hai triều Lê (năm 1650) vào cung 2 Ly Năm Bính Dần, niên hiệu Chính Hoà thứ 7 triều Lê (năm 1686) vào cung 3 Cấn. Năm Nhâm Dần, niên hiệu Bảo Thái thứ 3, triều Lê (năm 1722) vào cung 4 Chấn Năm Mậu Dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 19 triều Lê (năm 1758) vào cung 6 Đoài. Ví dụ: Tính tiểu du Thái ất năm 1758 (năm Mậu Dần), trung nguyên. Tính số tích niên được 10.155.675 năm Theo phương pháp tính toán ghi trong bài 4 về cách tìm sao Thái ất trong Tuế kế, ta lấy 10.155.675 chia cho số 3600; được số dư là 75. Lấy 75 chia cho số 36; được 3 lần, số dư là 3. Tức là được 4 lần thiếu. Bắt đầu tính 1 từ 3 Cấn 2 đến 4 Chấn 3 đến Không vào số 5 4 đến 6 Đoài. Ta nói: Năm 1758 (năm Mậu Dần), nguyên Bính Tý dương, trung nguyên, Tiểu du Thái ất đi vào cung 6 Đoài. ĐẠI DU THÁI ẤT Đại du Thái ất là chi phối khí của 7 sao; là Kim thần. Tuần hành 8 cung, không vào cung giữa. Đại du Thái ất 36 năm chủ trị một cung 12 năm Lý thiên, 12 năm Lý địa, 12 năm Lý nhân; 288 năm hết 1 vòng thi hành sự trừng phạt (36 x 8 = 288) Phương pháp tính: Từ thượng nguyên Giáp Tý đến năm cần tìm, tính số tích niên là bao nhiêu, gia sai số cung là 34. Lấy phép Đại chu 2880 mà chia; không hết là cung chu. Số dư lấy phép tiểu chu là 288 chia tiếp; không hết là cung chu. Số dư lại lấy phép hành cung 36 mà ước trừ dần đi. Số được là số cung. Số không đầy là số vào cung. Để tìm số tính năm, bắt đầu từ cung 7, tính thuận sang 8 qua 9, 1, 2……Không vào cung giữa 5. Ngoài số tính tức là được cung Đại du Thái ất đóng, và vào cung đó để tìm số năm. Năm Bính Dần, niên hiệu Chính Đức năm đầu (năm 1506), Đại du Thái ất ở cung 7 Năm Nhâm Dần niên hiệu Gia Tĩnh thứ 21 (năm1542) ở cung 8. Năm Mậu Dần, niên hiệu Vạn Lịch thứ 6 (năm 1578) ở cung 9 Năm Giáp Dần niên hiệu Vạn Lịch thứ 42 (năm 1614) ở cung 1. Năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức thứ 2 triều Lê (năm 1650) ở cung 2. Ví dụ: Tìm Đại du Thái ất năm Canh Dần (năm 1650), nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên. Tính đến năm 1650 được số tích niên là 10.155.567 năm Gia sai số 34 thành số 10.155.601 Lấy 10.155.601 chia cho số 2880, được số dư là 721 Chia tiếp 721 cho số 288, được số dư là 145. Lại chia 145 cho số 36; được 4 lần, có số dư là 1. Tức là được 5 lần thiếu. Khởi tính 1 từ cung 7 Khôn 2 từ cung 8 Khảm 3 từ cung 9 Tốn 4 từ cung 1 Càn 5 từ cung 2 Ly Tính đến 5, ta gặp cung 2 Ly. Vậy Đại du Thái ất năm 1650 đóng cung 2 Ly. Ta nói: Năm Canh Dần (1650), nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên. Đại du Thái ất đóng cung 2 Ly. PHƯƠNG VỊ PHÚC TINH QUA CÁC NĂM Cung phúc tính đóng Niên can Dần Giáp Sửu Ất Tý Bính Hợi Đinh Thân Mậu Mùi Kỷ Ngọ Canh Tị Tân Thìn Nhâm Mão Quý1 like
-
NGŨ PHÚC Ngũ phúc là thần ở trên trời, cùng Thái ất cho phúc lành. Ngũ phúc du hành qua 5 cung: Càn, Tốn, Khôn, Cấn và cung giữa. Mỗi cung trụ lại 45 năm: 15 năm Lý thiên, bốn mùa thuận hoà, tám tiết an vui. 15 năm Lý địa, núi sinh ngọc tốt, đất đẻ cỏ thiêng. 15 năm Lý nhân, đời sinh người giỏi, dân yên nước giàu. Đến cung nào, ở cung đó vua có phúc, dân giàu mạnh. Cung chiếu cũng thế, không có binh đao, hạn lụt, ốm đau. Phương pháp tính: Tính đến năm cần xem, số tích niên được bao nhiêu năm, gia sai số cung là 115, lấy phép Đại chu là 2250 mà chia. Nếu không hết lấy phép Tiểu chu là 225 mà chia. Số không hết là vòng tính cung. Số dư lấy 45 ước trừ dần đi. Lấy số tính được là cung số. Số không đầy là cung đóng vào. Tìm số năm (niên), bắt đầu tính từ Càn, qua Cấn, Tốn, Khôn, trung cung. Tức là được cung Ngũ phúc đóng và được số cung số năm. 1-Cung Hoàng Bí, khu Tuất, Càn, Hợi (cung 1 Càn) 2-Cung Hoàng Thuỷ, khu Sửu, Cấn, Dần (cung 3 Cấn) 3-Cung Hoàng Thất, khu Thìn, Tốn, Tị (cung 9 Tốn) 4-Cung Hoàng Đình, khu Mùi, Khôn, Thân (cung 7 Khôn) 5-Cung Huyền Thất, khu Tý, Ngọ, Mão, Dậu (cung 5 trung ương) Năm Giáp Tý niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 6 vào cung Cấn 3 (năm 1624) Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Cảnh Trị thứ 7 vào cung Tốn 9 (năm 1669) Năm Quý Tị, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 9 vào cung Khôn 7 (năm 1713) Năm Kỷ Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 20 vào trung cung (năm 1759) Tính đầu năm 1759 (năm Kỷ Mão), số tích niên được là 10.155.676 năm Gia sai số 115 thành số 10.155.791. Lấy 10.155.791 chia cho số 2250, được số dư là 1541 Lại lấy 1541 chia cho số 225, được 6 lần, có số dư là 191 Chia tiếp 191 cho số 45, được 4 lần, có số dư là 11. Tức là được 5 lần thiếu. Tính từ Càn là 1; Cấn là 2; Tốn 3; Khôn 4. Đến số 5 vào Trung cung. TỨ THẦN, THIÊN ẤT, ĐỊA ẤT, TRỰC PHÙ TỨ THẦN là đầu của khí thuỷ, nước có đạo thì thịnh, nước vô đạo thì bại vong. Ở đất vô đạo, là quê hương của chiến tranh, binh đao, hạn lụt, nhân dân cấu xé lẫn nhau. Phương pháp tính: Tính số tích niên được bao nhiêu, dùng phép Đại chu 360 mà chia; không hết dùng phép Tiểu chu 36 chia tiếp. Không hết dùng cung chu. Số dư lấy 3 mà ước trừ dần đi; số tính được là cung số không đầy số là cung đi vào. Để tìm số năm (niên) Thượng nguyên khởi từ cung 1, đi thuận qua 9 cung, tiếp đó qua giáng cung, Minh đường, Ngọc đường. Cứ 3 năm thì rời cung, hết lại quay về bắt đầu. Trung nguyên khởi từ cung 9. Hạ nguyên khởi từ cung 5. Một vòng là 36 năm. Tứ thần năm Chính Hoà thứ năm là Giáp Tý thượng nguyên khởi ở Dần (năm 1684) Năm Mậu Ngọ niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư vào cung Thân (năm 1738) Năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm vào cung Tuất (năm 1744) Năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 vào cung Tị (năm 1765) Ví dụ: Tìm tứ thần năm 1738 (năm Mậu Ngọ), thượng nguyên. Tính số tích niên được 10.155.655 năm Lấy 10.155.655 chia cho số 360, được số dư là 55 Chia tiếp 55 cho số 36, được số dư là 19. Chia tiếp 19 cho số 3, được 6 lần, có số dư là 1. Tức là 7 lần thiếu. Từ Dần coi là 1, đếm thuận đến 7, ta gặp Thân. Ta nói: Năm Mậu Ngọ (năm 1738 dương lịch), nguyên Giáp Tý dương, thượng nguyên, Tứ thần đi vào cung Thần. THIÊN ẤT là khí Nghịch Kim của cung 6. Đến cung nào thì binh đao khởi lớn; đến nước nào tức là có nghĩa quyết đoán về được hay thua. Phương pháp tính: Tính số tích niên được bao nhiêu, dùng phép Đại chu 360 mà chia. Tiếp đến lấy 3 mà ước trừ đi là cung số. Tính thuận theo 9 cung, sau đến Giáng cung, Minh đường, Ngọc đường mà vận hành. Thượng nguyên khởi cung 6, Trung nguyên khởi cung 2, Hạ nguyên ở Giáng cung. Cứ 3 năm thì rời cung. Một vòng 36 năm. Thiên ất, năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hoà thứ năm khởi ở Mùi (năm 1684) Năm Mậu Ngọ (năm 1738), niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư vào cung Sửu. Năm Giáp Tý (năm 1744) niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm vào cung Mão Năm Ất Dậu (năm 1765) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 vào cung Tuất. ****** Tính Thiên ất năm 1738 (năm Mậu Ngọ), thượng nguyên. Tính số tích niên được 10.155.655 năm. Lấy 10.155.655 chia cho số 360, được số dư là 55 Chia tiếp 55 cho số 36, được số dư là 19 Lại chia 19 cho số 3, được 6 lần, có số dư là 1; tức là được 7 lần thiếu Từ Mùi, coi là 1; đếm thuận đến 7, ta gặp Sửu. Ta nói: Năm Mậu Ngọ (năm 1738 dương lịch), nguyên Giáp Tý dương, thượng nguyên Thiên ất đi vào cung Sửu. ĐỊA ẤT là 6 can kỷ, là thổ thần. Giữ cung nào tất có binh đao, đói khát, mất mùa. Vào nước vô đạo thì hung dữ, binh đao càng nhiều. Phương pháp tính cung giống phương pháp tính Tứ thần, Thiên ất. Thượng nguyên khởi cung 9. Trung nguyên khởi cung 5. Hạ nguyên cung 1. Ba năm rời 1 cung. Một vòng là 36 năm. ****** Địa ất năm Giáp Tý, niên hiệu Chính Hoà thứ 5 khởi ở Tuất (năm 1684) Năm Mậu Ngọ niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư triều Lê (năm 1738) đi vào cung 7 Thìn. Năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê (năm 1744) đi vào cung Ngọ Năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 triều Lê (năm 1765) đi vào cung Sửu. Ví dụ: Năm Mậu Ngọ (năm 1783), thượng nguyên. Tính số tích niên được 10.155.655 năm Lấy 10.155.655 chia cho số 360, được số dư là 55. Chia tiếp 55 cho 36, được 6 lần, có số dư là 1; tức là được 7 lần thiếu. Từ Tuất coi là 1, đếm thuận đến 7, ta gặp Thìn. TRỰC PHÙ là Hoả thần, là sứ tinh của trời, quan sát sự thiện ác trong nhân gian, hoạ phúc của dân chúng. Nếu lâm vào nước vô đạo tất xảy ra hạn lụt, đao binh, nhân dân tan tác. Phương pháp tính toán cũng như phương pháp tính Tứ thần. Thượng nguyên khởi từ cung 5; trung nguyên cung 1; Hạ nguyên cung 9. Đi thuận, 3 năm là rời cung. Một vòng là 36 năm. Trực phù năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hoà thứ năm triều Lê (năm 1684) khởi ở Ngọ Năm Mậu Ngọ, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư triều Lê (năm 1738) đi vào cung Tý Năm Giáp Tý, niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm triều Lê (năm 1744) đi vào cung Dần. Năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 triều Lê (năm 1765) đi vào cung Dậu. Ví dụ: Tính Trực phù năm 1744 (năm Giáp Tý), trung nguyên. Tính số tích niên được 10.155.661 năm. Lấy 10.155.661 chia cho số 360, được số dư là 61 Chia tiếp 61 cho số 36, được số dư là 25. Lại chia 25 cho số 3, được 8 lần, có số dư là 1; tức là được 9 lần thiếu. Từ Ngọ coi là 1, đếm thuận đến 9, ta gặp Dần. Ta nói: Năm Giáp Tý (năm 1744), trung nguyên, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê, trực phù đi vào cung Dần.1 like
-
CHÍN SAO THUỘC THÁI ẤT Chín sao thuộc Thái ất là các sao trong vùng sao Bắc đẩu. 16 năm 1 lần đổi ngôi đi trong khoảng can và chi. 90 năm là 1 tiểu chu, 900 năm là 1 đại chu. 1 là Chính tinh, còn gọi là Khu; tên là Thiên anh. 2 là Pháp tinh, còn gọi là Toàn; tên là Thiên Nhậm 3 là Hội tinh, còn gọi là Cơ; tên là Thiên Trụ 4 là Phạt tinh, còn gọi là Quyền; tên là Thiên Tâm 5 là Sát tinh, còn gọi là Hoành; tên là Thiên Cầm 6 là Nguy tinh, còn gọi là Khai dương; tên là Thiên Phụ 7 là Bộ tinh, còn gọi là Dao Quang; tên là Thiên Xung 8 là Huyền Qua, còn gọi là Thiên Nhuế. 9 là Chiêu Dao, còn gọi là Thiên Bồng. Chín sao trên nếu gặp Thái ất ở những năm yểm, bách, khai, tù, kích, cách, đề, hiệp tất sinh tai hoạ Phương pháp tính: Đặt từ thượng cổ Giáp Tý thượng nguyên đến năm cần tìm. Số tích niên là bao nhiêu, dùng phép cửu tinh đại chu là số 900 mà chia. Số dư dưới 900, lấy phép tiểu chu là số 90 chia tiếp. Nếu không hết thì lấy vòng sao Số dư lấy số sau đem 10 mà ước trừ đi, số tìm được là số cung của sao đóng. Cách tìm số niên: Tính từ 1 là Thiên Bồng, đi thuận theo 9 sao. Ngoài số 9 là trực phù 9 sao và số năm. Thứ tự và vị trí 9 sao khi chưa động: 1-Thiên Bồng là Lục Mậu tinh (6 năm có can Mậu đứng đầu), đóng cung 1 Càn. Chủ về biến động, không yên việc thay đổi 2-Thiên Nhuế là Lục Kỷ tinh (6 năm có can Kỷ đứng đầu), đóng cung 2 Ly. Chủ về chiến tranh, quân sự, trộm cướp, hưng phế. 3-Thiên Xung là Lục Canh tinh (6 năm có can Canh đứng đầu), đóng cung 3 Cấn. Chủ về việc chinh chiến, sát phạt. 4-Thiên Phụ là Lục Tân tinh (6 năm có can Tân đứng đầu), đóng cung 4 Chấn. Chủ về việc kho tang, ngũ cốc. Cát 5-Thiên Cầm là Lục Nhâm tinh (6 năm có can Nhâm đứng đầu), đóng cung 5 ở giữa. Chủ về việc giết, trừng trị kẻ có tội. Cát. 6-Thiên Tâm là Lục Quý tinh (6 năm có can Quý đứng đầu), đóng cung 6 Đoài. Chủ về việc đánh dẹp kẻ vô đạo. Cát. 7-Thiên Trụ là Lục Đinh tinh (6 năm có can Đinh đứng đầu), đóng cung 7 Khôn. Chủ về tai hoạ, tổn hại; hiệu lệnh. 8-Thiên Nhậm là Lục Bính tinh (6 năm có can Bính đứng đầu), đóng cung 8 Khảm. Chủ về âm hình, việc của nữ chúa. 9-Thiên Anh là Lục Ất tinh (6 năm có can Ất đứng đầu), đóng cung 9 Tốn. Chủ về dương đức của bậc nhân quân. Giáp là đầu hang. Trực phù là sứ của các tinh cung. Dùng Trực phù để phối hợp với 9 sao. Khi muốn tìm các năm Lục Giáp đến thì đặt vào cung trực phù muốn tìm. Ví dụ: Các năm Lục ất, theo cách tìm nói trên, thấy Lục ất tương ứng với sao Thiên Anh. Vậy gia Thiên Anh vào cung 9 Tốn làm trực phù (khi chưa động) Các năm Lục Bính, gia Thiên Nhậm vào cung 8 Khảm làm trực phù (khi chưa động). Nếu như Lục Bính, tìm được Thiên Bồng làm trực phù tất thứ nhất lấy Thiên Bồng đưa vào cung 8 Khảm, trên cung Thiên Nhậm. Thứ hai, đưa Thiên Nhuế vào cung 9 Tốn trên cung Thiên Anh. Thứ ba, đưa Thiên Xung vào cung 1 Càn trên cung Thiên Bồng. Thứ tư, đưa Thiên Phụ vào cung 2 Ly trên cung Thiên Nhuế Thứ năm, đưa Thiên Cầm vào cung 3 Cấn trên cung Thiên Xung Thứ sáu, đưa cung Thiên Tâm vào cung 4 Chấn trên cung Thiên Phụ Thứ bảy, đưa Thiên Trụ vào cung 5 T trên cung Thiên Cầm. Thứ tám, đưa Thiên Nhậm vào cung 6 Đoài trên cung Thiên Tâm. Thứ chín, đưa Thiên Anh vào cung 7 Khôn trên cung Thiên Trụ. Ví dụ 2: Tìm trực phù năm 1570 (năm Canh Ngọ âm lịch trung nguyên) Số tích niên tính đến năm 1570 là 10.155.487 năm Lấy số 10.155.487 chia cho số 90, được số dư là 67 Lại chia tiếp 67 cho 10, được 6 lần và số dư là 7 Vậy trực phù ở cung 7 (năm thứ 7), tương ứng với Lục Đinh. Lại lấy số dư 67 chia cho 9, được số dư là 4. Vậy trực phù là Thiên phụ 4 đóng cung 7 Khôn (năm thứ 7) Năm Canh Ngọ thuộc nguyên Canh Tý dương tính thuận, Thiên Bồng tại Giáp Tý Mậu đóng cung 7 Khôn. M7 T1 D4 Giáp Tý Mậu 7 Thiên Bồng Thiên phụ trực phù giáp ngọ Tân K8 N2 B5 Giáp Tuất Kỷ 8 Thiên Nhuế Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm C9 Q3 A6 Giáp Thân Canh 9 Thiên Xung Thiên Tâm giáp Dần Quý Giáp Ngọ Tân 1 Thiên Phụ Thiên Trụ Đinh Kỳ. Giáp Thìn Nhâm 2 Thiên Cầm Thiên Nhậm Bính Kỳ Giáp Dần Quý 3 Thiên Tâm Thiên Anh ất Kỳ Đinh Kỳ 4 Thiên Trụ Thiên Bồng giáp Tý Mậu Bính Kỳ 5 Thiên Nhậm Thiên Nhuế giáp Tuất Kỷ Ất Kỳ 6 Thiên Anh Thiên Xung giáp Thân Canh Ví dụ 3: Tìm Trực phù năm 2000 (năm Canh Thìn, nguyên Nhâm Tý dương hạ nguyên) Số tích niên đến năm 2000 là 10.155.917 năm Lấy số 10.155.917 chia cho số 90, được số dư là 47 Số 47 lớn hơn 10. Lại lấy số 47 chia cho số 10, được 4 lần, số dư là 7. Vậy Trực phù đóng cung 5 (năm thứ 7), tương ứng với Lục Nhâm. M5 T8 Đ2 K6 N9 B3 C7 Q1 A4 Lại lấy số dư 47 chia cho 9, được số dư là 2. Vậy Trực phù là Thiên Nhuế 2 đóng cung 5 T Năm Canh Thìn thuộc nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên, tính thuận, Thiên Bồng, tại Giáp Tý Mậu đóng cung 5 T (năm thứ 7) Giáp Tý Mậu 5 Thiên Bồng Thiên Nhuế trực phù giáp Tuất kỷ Giáp Tuất Kỷ 6 Thiên Nhuế Thiên Xung Giáp thân canh Giáp Thân Canh 7 Thiên Xung Thiên Phụ giáp Ngọ Tân Giáp Ngọ Tân 8 Thiên Trụ Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm Giáp Thìn Nhâm 9 Thiên Cầm Thiên Tâm giáp Dần Quý Giáp Dần Quý 1 Thiên Tâm Thiên Trụ đinh Kỳ Đinh Kỳ 2 Thiên Trụ Thiên nhậm Bính Kỳ Bính Kỳ 3 Thiên Nhậm Thiên Anh ất kỳ Ất Kỳ 4 Thiên Anh Thiên Bồng Giáp Tý Mậu Ví dụ 4: Tìm trực phù năm 2404 dương lịch (năm Giáp Tý nguyên Giáp Tý âm, thượng nguyên) Số tích niên tính đến năm 2404 là 10.156.321 năm Lấy số 10.156.321 chia cho 90, được số dư là 1. Vậy trực phù là Thiên Bồng 1 đóng cung 1 Càn (năm thứ nhất) tương ứng với Lục Mậu Năm Canh Thìn, nguyên Giáp Tý âm, thượng nguyên; tính thuận, Thiên Bồng tại Giáp Tý mậu đóng cung 1 Càn (năm thứ nhất) M1 T7 Đ4 Giáp tý 1 Thiên Bồng Thiên Bồng trực phù Giáp Tý Mậu K9 N6 B3 Giáp Tuất Kỷ 9 Thiên Nhuế Thiên Nhuế giáp Tuất kỷ C8 Q5 A2 Giáp Thân Canh 8 Thiên Xung Thiên Xung giáp Tân canh Giáp Ngọ Tân 7 Thiên phụ Thiên phụ Giáp Ngọ Tân Giáp Thìn Nhâm 6 Thiên Cầm Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm Giáp Dần Quý 5 Thiên Tâm Thiên Tâm Giáp Dần Quý Đinh Kỳ 4 Thiên Trụ Thiên Trụ Đinh kỳ Bính Kỳ 3 Thiên Nhậm Thiên Nhậm Bính kỳ Ất kỳ 2 Thiên Anh Thiên Anh Ất kỳ CHÍN SAO THUỘC VĂN XƯƠNG Chín sao thuộc Văn xương là sư của Thái ất. Mỗi sao 30 năm đi qua 1 cung, là trực sư. Đặt vào 5 cung liên can cần tìm xem tới khu vực nào, để xem biến đổi về lành dữ Phương pháp tính: Tính từ năm thương nguyên Giáp Tý đến năm cần tìm xem số tích niên là bao nhiêu. Lấy phép Cửu tinh đại chu thiên là 2700 mà chia. Số dư dưới 2700, dùng phép cửu tinh tiểu chu, chia tiếp cho số 270. Số dư dưới lấy số 30 ước trừ đi, sẽ được cung số. Những số còn lại không hết là tính vào cung để tìm số năm. Bắt đầu từ cung 1 là Văn xương, đi qua 9 cung. Ngoài số đó là số cung mà trực sứ đóng. Thứ tự 9 sao thuộc Văn xương (khi chưa động) 1-Văn xương ở cung 1 Càn, có can Nhâm 2-Huyền Phượng ở cung 2 Ly, có can Đinh. 3-Minh Ly ở cung 3 Cấn, có can Giáp. 4-Âm Đức ở cung 4 Chấn, có can Ất 5-Chiêu Dao ở cung 5 T có can Mậu Kỷ 6-Hoà Âm ở cung 6 Đoài, có can Tân 7-Huyền Vũ ở cung 7 Khôn, có can Canh 8-Huyền Minh ở cung 8 Khảm, có can Quý 9-Hùng Minh ở cung 9 Tốn, có can Bính. Ví dụ 1: Tìm trực sứ năm 2000 (năm Canh Thìn, nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên) Số tích niên đến năm 2000 là 10.155.917 năm Lấy số 10.155.917 chia cho số 270, được số dư là 137. Số 137 nhỏ hơn 270. Ta chia tiếp 137 cho 30; được 4 lần, có số dư là 17. Vậy trực sứ đóng cung 5 (năm thứ 17) Lại lấy số dư 137 chia cho số 9 sao. Được 15 lần, có số dư là 2. Vậy ta có Trực sứ là Huyền Phượng 2, đoán cung 5 T (năm thứ 17) Năm Canh Thìn, nguyên Nhâm Tý dương hạ nguyên, trực sứ Huyền Phượng 2 đóng tại cung 5 T (năm thứ 17). Ta có bảng sau: Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Cửu tinh Văn Xương Giáp Tý Mậu 5 Thiên Bồng Giáp Tuất kỷ Thiên Nhuế TP Huyền Phương Giáp Tuất kỷ 6 Thiên Nhuế Giáp Thân Canh Thiên Xung Minh Ly Giáp Thân Canh 7 Thiên Xung Giáp Ngọ Tân Thiên Phụ Âm Đức Giáp Ngọ Tân 8 Thiên Phụ Giáp Thìn Nhâm Thiên Cầm Chiêu Dao Giáp Thìn Nhâm 9 Thiên Cầm Giáp Dần quý Thiên Tâm Hoà Âm Giáp Dần quý 1 Thiên Tâm Đinh kỳ Thiên Trụ Huyền Vũ Đinh kỳ 2 Thiên Trụ Bính kỳ Thiên Nhậm Huyền Minh Bính kỳ 3 Thiên Nhậm Ất kỳ Thiên Anh Hùng Minh Ất kỳ 4 Thiên anh Giáp Tý Mậu Thiên Bồng Văn Xương Giáp Tý Mậu 5 Thiên Bồng Thiên Nhuế trực phù giáp Tuất kỷ Giáp Tuất Kỷ 6 Thiên Nhuế Thiên Xung Giáp thân canh Giáp Thân Canh 7 Thiên Xung Thiên Phụ giáp Ngọ Tân Giáp Ngọ Tân 8 Thiên Trụ Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm Giáp Thìn Nhâm 9 Thiên Cầm Thiên Tâm giáp Dần Quý Giáp Dần Quý 1 Thiên Tâm Thiên Trụ đinh Kỳ Đinh Kỳ 2 Thiên Trụ Thiên nhậm Bính Kỳ Bính Kỳ 3 Thiên Nhậm Thiên Anh ất kỳ Ất Kỳ 4 Thiên Anh Thiên Bồng Giáp Tý Mậu Ví dụ 2: Tìm trực sứ năm 2404 dương lịch (năm Giáp Tý, nguyên Giáp tý âm thượng nguyên) Số tích niên đến năm 2404 là 10.156.321 năm Lấy số 10.156.321 chia cho 270, được số dư là 1 Vậy trực sứ đóng cung 1 Càn (năm thứ nhất), và ta có trực sứ là Văn xương 1 Năm Giáp Tý, nguyên Giáp Tý âm, thượng nguyên, Trực sứ Văn xương 1 đóng tại cung 1 Càn (năm thứ nhất). Ta có bảng sau: Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Cửu tinh Văn Xương Giáp Tý Mậu 1 Thiên Bồng Giáp kỷ mậu Thiên Bồng TP Huyền Phương Giáp Tuất kỷ 9 Thiên Nhuế Giáp Hợi kỷ Thiên Nhuế Minh Ly Giáp Thân Canh 8 Thiên Xung Giáp Thân Canh Thiên Xung Âm Đức Giáp Ngọ Tân 7 Thiên Phụ Giáp Ngọ Tân Thiên Phụ Chiêu Dao Giáp Thìn Nhâm 6 Thiên Cầm Giáp Thìn Nhâm Thiên Cầm Hoà Âm Giáp Dần quý 5 Thiên Tâm Giáp Dần quý Thiên Tâm Huyền Vũ Đinh kỳ 4 Thiên Trụ Đinh kỳ Thiên Trụ Huyền Minh Bính kỳ 3 Thiên Nhậm Bính kỳ Thiên Nhậm Hùng Minh Ất kỳ 2 Thiên anh Ất kỳ Thiên Anh Văn Xương.1 like
-
PHÉP TÍNH THỜI KẾ Phương pháp tính: Thời kế định ư nhị Chí trung Nhược phùng Giáp Tý tiện vị tông Nhất nhất tu hạ Thập nhị toán Dương nhật dụng thời số kỷ chung Giáp Tý lục thập dư tích toán Nhị thập tứ số trừ hành cung Nhất pháp ngũ nhật vi nhất kỷ Ngũ lục tam tuần lục kỷ chung Đông chí tiết hậu dụng dương độn Hạ chí âm cục độn bất đồng Hữu thổ chi quân minh tuế kế Nguyệt kế tu ư khanh dữ cống Nhật kế chung quan giai cộng dụng Vận trù tướng soái thời kế thông. Thời kế định ở trong 2 chí (Đông chí và Hạ chí). Nếu gặp Giáp Tý là Đông chí. Dương ngày dùng giờ bao nhiêu là hết. Số dư của tích số sau khi chia cho Giáp Tý 60 là bao nhiêu, lại lấy số 24 chia hành cung. Một phép khác là: Lấy 5 ngày là 1 kỷ 5 x 6 = 3 tuần. 6 kỷ là kết thúc. Sau tiết Đông chí, dùng dương độn. Sau tiết Hạ chí dùng âm độn Bậc vua có đất nước, xem tuế kế. Nguyệt kế xem cho bậc công khanh. Nhật kế dùng cho các quan và dân chúng. Tướng soái vận trù việc quân xem thời kế. Trước tiên, xác định là sau tiết Đông chí, dùng cục dương. Lấy ngày Giáp Tý để khởi đầu tính đến ngày cần xem tích số là bao nhiêu. Giảm đi 1. Lấy phép 12 giờ mà chia. Dư không đầy số 60 là vào kỷ. Lại lấy phép 72 ước dần đi là vào cục. Sau Hạ chí dùng cục âm. Thái ất khởi từ cung 9 Ví dụ 1: Xem giờ Đinh Sửu, ngày Canh Thìn mười sáu tháng 11 năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê. Phép tính diễn ra như sau: Khởi tính từ Giáp Tý đến Canh Thìn cộng là 17 số. -Giáp Tý 1 -Kỷ Tị 6 -Ất Hợi 12 -Ất Sửu 2 -Canh Ngọ 7 -Bính Tý 13 -Bính Dần 3 -Tân Mùi 8 -Đinh Sửu 14 -Đinh Mão 4 -Nhâm Thân 9 -Mậu Dần 15 -Mậu Thìn 5 -Quý Dậu 10 -Kỷ Mão 16 -Giáp Tuất 11 -Canh Thìn 17 Số 17 giảm đi 1 rồi nhân với 12 giờ, được số 192. Lại tính Tý, Sửu là 2 giờ gia 2 số cộng là 194 Lấy 194 chia cho số 60, được 3 lần. Đây là ba kỷ thượng – trung – hạ nguyên Giáp Tý. Số dư là 14. Tức là tính đến giờ Đinh Sửu ngày, tháng nói trên, gặp kỷ thứ tư, thượng nguyên Giáp Tý. Lại lấy số 194 nói trên chia cho số 72, được 2 lần 60, số dư 50; tức là qua nguyên Giáp Tý, Bính Tý, vào nguyên Mậu Tý; sau Đông chí là dương thời cục 50 Thái ất đóng cung 1 Càn Kế thần đóng cung Sửu Văn xương đóng cung Tị Thuỷ kích đóng cung Ngọ Chủ toán là 16 Chủ Đại tướng đóng cung 6 Đoài Chủ Tham tướng đóng cung 8 Khảm Khách toán là 15 Khách Đại tướng đóng cung 5 Khách Tham tướng đóng cung 5 Ví dụ 2: Xem giờ Ất Sửu, ngày Giáp Thìn, tháng giêng năm Quý Dậu (tương ứng với ngày 24/1/1993 dương lịch) Dương lịch: 1993 niên 1 nguyệt 23 nhật 1 thời ; Âm lịch: 1993 niên 1 nguyệt 1 nhật 1 thời Can chi: Quý Dậu - Giáp Dần - Giáp Thìn - Ất Sửu ; Tuần không: [Tuất Hợi - Tý Sửu - Dần Mão - Tuất Hợi] Tích Niên: 10.155.910 - 310 - 22 ; Tích Nguyệt: 121.870.911 - 111 - 39 ; Tích Nhật: 3.709.369.601 - 161 - 17 ; Tích Thời: 44.512.435.202 - 122 Nhập Kỷ Nguyên Cục số: Nguyên thứ 2-Bính Tý - Kỷ thứ 2 - Dương độn 50 cục Phép tính diễn ra như sau: Khởi tính từ Giáp Tý đến Giáp Thìn, cộng là 41 số -Giáp Tý 1 – Giáp Tuất 11 – Giáp Thân 21 – Giáp Ngọ 31 – Giáp Thìn 41 -Ất Sửu 2 …… Số 41 giảm đi 1, rồi nhân với 12 giờ (40 x 12 = 480 giờ) Lại tính Tý, Sửu là 2 giờ; 480 gia hai được số 482 Lấy số 482 : 60 = 8, dư 2. Tám lần tương ứng với trung nguyên Giáp Tý (lần thứ 3) Số dư 2, tức là tính đến giờ Ất Sửu, ngày tháng nói trên gặp Hạ nguyên Giáp Tý (lần thứ 3). Cụ thể là: Lần thứ nhất 1-Thượng nguyên Giáp Tý I: 60 2-Trung nguyên Giáp Tý II: 60 3-Hạ nguyên Giáp Tý III: 60 Lần thứ hai 4-Thượng nguyên Giáp Tý I: 60 5-Trung nguyên Giáp Tý II: 60 6-Hạ nguyên Giáp Tý III: 60 Lần thứ ba 7-Thượng nguyên Giáp Tý I: 60 8-Trung nguyên Giáp Tý II: 60 9-Hạ nguyên Giáp Tý III: 2…… Cộng được : 482 giờ Lại lấy số 482 chia cho số 72, được 6 lần, có số dư 50. Tức là qua các nguyên tý: Lần thứ nhất Nguyên Giáp Tý số 1 Nguyên Bính Tý số 2 Nguyên Mậu Tý số 3 Nguyên Canh Tý số 4 Nguyên Nhâm Tý số 5 Lần thứ hai Nguyên Giáp Tý số 1 Nguyên Bính Tý số 2…… Ta nói: giờ Ất Sửu, ngày Giáp Thìn, tháng giêng năm Quý Dậu (24/1/1993) vào nguyên Bính Tý; sau Đông chí là dương khởi cục 50 Thái ất đóng tại cung 1 Càn Kế thần đóng tại cung Sửu Văn xương đóng tại cung Tị Thuỷ kích đóng tại cung Ngọ Chủ toán là 16 Chủ Đại tướng đóng tại cung 6 Đoài Chủ Tham tướng đóng tại cung 8 Khảm Khách toán là 15 Khách Đại tướng đóng tại cung 5 Khách Tham tướng đóng tại cung 5.1 like
-
TÌM THÁI ẤT TRONG NGUYỆT KẾ Phương pháp tính: Nguyệt kế chi pháp tuế kế đồng Thái ất tam nguyệt di nhất cung Tiên bố tích niên giảm nhất toán Nguyệt thực thập nhị thừa chi công Tam bách lục thập trừ bất tận Dư toán nhập cục, lý tư thông Thái ất cứ 3 tháng là rời 1 cung. Trước tiên, đặt số tích niên của năm, rồi giảm đi 1. Số tháng dư nhân với 12; rồi chia cho 360. Số dư là nơi nguyệt kế Thái ất đóng. [(Tích niên – 1) x 12] / 360 = (Số dư / 60) : 72 = Cục Thái ất đóng Ví dụ 1: Tìm tháng Giêng năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê, tương ứng năm 1570 dương lịch. Nguyên kế có gốc tính là tháng Giáp Tý, năm Giáp tý, triều đại Nguyên gia nhà Tống – Trung Quốc. Ngày đầu tháng Giáp tý năm đó tương ứng với ngày 7 tháng 12 năm 424 dương lịch Số tích niên đến năm Canh Ngọ (1570) là 1.147 năm Giảm đi 1. Lấy số 12 tháng nhân lên, được số tháng Dần là 13.752 tháng, chia với số 3600. Số dư dưới 3600 chia tiếp cho số 360, được số dư là 72. Số 72 lấy phép chu kỳ 60 chia 1 lần 60 là Thượng nguyên Giáp tý. Kỷ thứ nhất số dư là 12. Từ Giáp tý đến Ất Hợi là trúng số 12 tháng. Vậy tháng 10 của năm Kỷ Tị là tháng Ất Hợi vào kỷ thứ 2, trung nguyên Giáp Tý. Lại từ tháng 11 đến tháng giêng, lấy 3 mà tính được số 15. Tức là biết tháng giêng năm Canh Ngọ là tháng Mậu Dần. Số dư 72 nói trên, thêm 3 là 75, chia cho 72, dư 3 là tháng Mậu Dần, chính vào nguyên tý dương cục 3. Thái ất ở cung 1 Càn. Thiên mục ở Tuất. Chủ toán 1 chu Đại tướng ở cung 1. Chủ Tham tướng ở cung 3. Kế thần ở Tý, Thuỷ kích ở Hợi. Khách toán số 40. Khách Đại tướng ở cung 4. Khách Tham tướng ở cung 2. Ví dụ 2: X niên đầu tiên hiệu Nguyên gia nhà Tống, tháng 11 năm Giáp x đến năm Nhâm tý, tương ứng với năm1732 dương lịch. Được số tích niên là 1309 năm Số 1309 giảm đi 1 rồi tính. Lấy số 12 tháng mà nhân, được số tháng thực là 15.696 tháng. Chia 15.696 tháng cho số 3600, được số dư là 216. Lấy 216 chia tiếp cho số 60, được số dư là 36. Từ Giáp kể là 1, tính đến Kỷ Hợi vừa đúng 36. Đó là tháng 10 Kỷ Hợi năm Tân Hợi (trước năm Nhâm Tý đang tính); tức là vào kỷ nguyên Thượng nguyên Giáp tý Lại từ tháng 11 Canh tý năm Tân Hợi đến tháng giêng năm Nhâm tý thêm 3 số để tính, cộng với số dư 36 ở trên được 39; tức là tháng Nhâm Dần năm Nhâm tý. Số dư 216 nói trên, thêm 3 là 219. Lấy 219 chia cho 72, được số dư là 3; tức là tháng Nhâm Dần năm Canh tý đi vào nguyên Canh tý dương cục thứ 3. Thái ất ở cung 1 Thiên mục ở cung Tuất Chủ toán được 1 Chủ đại tướng đóng cung 3 Khách, toán được 40 Khách đại tướng đóng cung 4 Khách tham tướng đóng cung 2 Ví dụ 3: Xem năm Giáp tý niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 5 triều Lê, tương ứng với năm 1744 dương lịch. Từ gốc tính nguyệt kế đến năm 1744 được số tích niên là 1321 năm. Số 1321 năm giảm đi 1 để tính. Lấy số 12 tháng nhân lên được 15840 tháng. Số 15.840 chia cho số 3600, được số dư là 360 Chia tiếp 360 cho số 60. Số dư là 60. Từ Giáp tý kể là 1 tính đến 60 gặp Quý Hợi. Đó là tháng 10 Quý Hợi năm Quý Hợi. Lại lấy số 3 gia vào mà tính, tất từ tháng giêng năm Giáp tý là tháng Bính Dần. Số dư 360 nói trên thêm 3 là 363 chia cho số 72, được số dư là 3. Vậy tháng Bính Dần năm Giáp tý (1744) đi vào cục 3 nguyên Giáp tý dương (vị trí các sao như năm 1732) Thái ất ở cung 1 Thiên mục ở cung Tuất Chủ toán được 1 Chủ đại tướng đóng cung 1 Chủ tham tướng đóng cung 3 Khách, toán được 40 Khách đại tướng đóng cung 4 Khách tham tướng đóng cung 2 PHÉP TÌM NHẬT KẾ Phương pháp tính: Nhật kế chi pháp, nguyệt kế cầu Nguyệt thực số đắc tiện vi đầu Nhuận pháp tam thập nhị phân ngoại Ngũ thập thất sao quy trừ chu Trừ đắc nhuận số gia nguyệt thực, Nhật bình hội pháp tử tế sưu. Sưu bố nhị thập cửu nhật toán, Ngũ thập tam phân sao lục hưu. Nhật bình nguyệt thực tương thừa liễu. Nhật kế tích số thử truyền lưu Muốn tìm nhật kế, dựa vào nguyệt kế mà tính. Đầu tiên lấy số tháng thực. Dùng phép tính tháng nhuận là 32 phân 57 dây mà quy trừ. Tính được số nhuận thì thêm vào số tháng thực. Tính để ứng dụng nhất bình hội pháp. Tìm số 29 ngày 53 phân 6 dây là ngừng. Lấy số nhật bình nhân với số nguyệt thực là thấy tích số của nhật kế (số tích nhật). Tìm số tháng thực, lấy phép nhuận là 32 phân 57 dây quy trừ đi. Được bao nhiêu tháng nhuận, lẻ bao nhiêu. Số lẻ đó không góp vào số tháng thực cùng tính Còn số lẻ, dùng nhật bình hội pháp là 29 ngày 53 phân 6 dây mà nhân. Tích số (cùng số lẻ), lấy phép Đại tiểu chu 3600 mà chia. Nếu số dư không bằng số 360, chia tiếp cho số 60. Số dư là nhật kế của Giáp tý vào kỷ nguyên vào cục giống như phép tìm niên kế. Nếu như muốn tìm Thất nguyên cầm tinh đóng ngày đó, tìm số tích nhật, lấy số 28 sao mà chia, số dư khởi sao cơ đến số cuối cùng đóng ở sao nào, tức là ngày đó gặp sao ấy. Ví dụ 1: Theo phép tính nhật kế, tìm ngày mồng 6 tháng giêng năm Canh Ngọ niên hiệu chính trị thứ 13 triều Lê tương ứng với năm 1570 dương lịch. Từ gốc tính nguyệt kế, đến tháng ấy, năm ấy, được số tích nguyệt là 13.755 tháng thực. Lấy phép nhuận nguyệt là 32 phân 57 dây làm phép quy trừ, được số tháng nhuận là 222 tháng, dư 1 phân không 96, không bằng phép nhuận. Bỏ không dùng mà tính gộp vào số tháng thực, cộng được là 14.177 tháng. Lấy nhật bình hội pháp là 29 ngày 53 phần 06 dây nhân lên được 418.625 ngày 78 phân 56 dây. Lấy phép Đại tiểu chu mà chia, được số dư là 305. Lấy phép 60 Giáp tý mà chia tiếp số dư 305; 5 lần 60 bằng 300. Số dư 305 – 300 = 5. Tức là vào kỷ Giáp tý, còn dư 5. Vậy, ngày 30 tháng 12 năm Kỷ tị (trước năm Canh ngọ) đi vào kỷ nguyên Giáp tý thứ 6, là ngày Mậu Thìn. Lại gia số 6 để tính, số dư 5 nói trên + 6 = 11. Tức là ngày mồng 6 tháng giêng năm Canh Ngọ là ngày Giáp tuất. Số dư 305 nói trên, gia thêm 6 thành 311. Lấy số 311 chia cho số 72, được số dư 23. Vậy, năm Canh Ngọ (1570) thuộc nguyên Canh tý dương, trung nguyên, dương niên cục 23, ngày Giáp Tuất. Thái ất đóng cung 9 Chủ toán là 16 Chủ Đại tướng đóng cung 6 Chủ Tham tướng đóng cung 8 Kế thần đóng cung Thìn Thuỷ kích đóng cung Thân Thiên mục đóng cung 1 Càn Khách toán là 23 Khách đại tướng đóng cung 3 Khách Tham tướng đóng cung 9 Ví dụ 2: Theo phép nhật kế, tìm ngày 14 tháng 12 năm 1992 dương lịch, năm Can chi Nhâm Thân. Ta biết rằng gốc tích nhật kế, theo quy ước là ngày 19 tháng 2 năm 423. Ngày 19/02/423 chắc còn trong tháng Giáp Dần, năm Quí Hợi. Phép tính diễn ra như sau: 1992 – 423 = 1596 năm dương lịch Hiệu số từ ngày 14 (đang xét) đến ngày 19 (gốc tính nhật kế): 19 ngày – 14 ngày = 5 ngày Số ngày “x” trong dương lịch là 10 ngày. Theo bài 3 “số nhật cục”, số ngày tính đến 14 tháng 12 năm 1992, có 573.353 ngày. Lấy số 573.353 ngày chia cho số 360, được số dư là 1. Số dư 1 nhỏ hơn 60. Vậy ngày 14 tháng 12 năm 1992 đi vào kỷ nguyên Giáp tý thứ nhất, tính theo Can chi là ngày Giáp tý năm Nhâm Thân Tính tiếp theo phép tính đã nói trong bài 3 “Số nhật cục”, ta có: Ngày 14/12/1992 thuộc nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên, dương nhật cục 17, ngày Giáp tý. Thái ất đóng cung 7 Khôn Kế thần đóng cung Tuất Văn xương đóng cung 7 Khôn Thuỷ kích đóng cung Hợi Chủ toán là 7 Chủ đại tướng đóng cung 7 Khôn Chủ tham tướng đóng cung 1 Càn Khách toán là 27 Khách Đại tướng đóng cung 7 Khôn Khách Tham tướng đóng cung 1 Càn. Lại lấy số tích nhật 537.353 ngày chia cho 28 sao, được số dư là 25. Khởi sao cơ là 1. Tính đến 25 ứng với sao Đế. Vậy ngày Giáp tý năm Nhâm Thân gặp sao Đế Thổ lạc.1 like
-
PHÉP TÌM BÁT MÔN TRONG TUẾ KẾ Phương pháp tính: Tuế kế bát môn trí tích niên Nhị Thiên tứ bách luỹ trừ tiên. Thiên hạ phụ trừ nhị bách tử Dư toán khai môn vị thủ truyền. Tam thập ước chi cầu sứ trực Mệnh gia Thái ất tả chu truyền Khai, Hưu, Sinh môn vị tam cát Đỗ, Tử, Thương hồ đại hưng ngôn Kinh vãn tiểu hưng, cảnh tiểu cát Vượng, Tướng bội hề, khắc giảm yêu. Thái ất, Thiên mục cát môn lập Tam bất cụ hề, nghi thủ kiên Tam môn cụ hề, ngũ tướng phát Xuất sư chiến thắng, tất công tuyền. Phương pháp tính là: Tìm năm xem Bát môn, lấy số tích niên chia cho số 2400. Dưới 1000 chia tiếp cho 240. Số dư tính bắt đầu từ khai môn. Lấy số 36 mà ước đi để tìm Trực sứ. Gia Thái ất lên đây mà tính thuận đi. Ba cửa cát là Khai, Hưu, Sinh. Ba cửa Đỗ, Tử, Thương là đại hung. Cửa Kinh xấu vừa, của Cảnh lành vừa. Gặp Vượng, Tướng thì tăng bội. Gặp khắc, giảm bớt. Thái ất, Thiên mục đứng ở cát môn. Ba cửa không đủ, nếu cố thủ bền bỉ. Ba cửa đủ, năm tướng phát, ra quân chiến đấu tất thắng hoàn toàn. Số tích niên là bao nhiêu, lấy phép Đại Chu bát môn là 2400 trừ dần đi. Dưới số 1000, trừ tiếp cho 240. Không đủ 240 là số dư của môn chu, lấy từ môn ước dần đi với số 30, đặt khi môn tính thuận, tức là được trực sứ của Bát môn. Lấy trực sứ gia Thái ất, tính quay về trái, tức là biết cửa nào thuộc khu phận nào, tai hoạ hay cát lợi. Bát môn là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai. Nếu tính theo Lạc thư, bát môn thứ tự như sau: 1-Hưu 5-Khai 2-Tử 6-Kinh 3-Thương 7-Sinh 4-Đỗ 8-Cảnh Có cửa cát, có cửa hung. Phương nào gặp Vượng, Tướng có khí, phúc sẽ tăng gấp bội. Phương nào gặp khắc chế, không có khí, sự lành dữ giảm đi một nửa. Mỗi cửa 30 năm 1 lần đổi thế là 30 x 8 = 240 năm hết 1 Chu (vòng) của 8 cửa. Lấy cửa Khai là đầu tiên, tính vòng theo trái. Hết vòng lại bắt đầu. Nếu Thái ất, Thiên mục ở dưới cửa Khai và Sinh là 2 cửa không đủ: vì Hữu và Đỗ đối nhau. Sinh và Tử đối nhau. Đứng ở đất lành hướng về cửa xấu. Nếu không đủ đã có cửa cảnh ở giữa 2 cửa Đỗ và Tử. Nếu Thái ất, Thiên mục ở dưới cửa Hưu, là 3 cửa không đủ: vì cửa Hưu và cửa Cảnh đối nhau, là bên trái bên phải bị cách ức ở cửa Đỗ và cửa Tử. Bất lợi cho việc dấy quân Nếu ba cửa đủ, năm tướng phát, tám cửa khai thông, đường sá thanh thản, chiến đấu thắng lợi cả về công và thủ. Năm tướng là: Thái ất là gián tướng Văn xương là chủ thương tướng Thuỷ kích là khách thương tướng Hai Đại tướng của Chủ và Khách. Nếu Thuỷ kích không bị yểm, kích; Văn xương không bị tù, bách, Đại tiểu tướng không tương quan, và số tính được là trường hoà, là 5 tướng phát. Cửa không đủ, tướng không phát, cửa lấy không thông là điềm quân bị thua, tướng bị chết. Ví dụ 1: Xem năm Tân Mùi, niên hiệu Chính trị năm thứ 14, tìm Trực sứ, tương ứng với năm 1571 dương lịch. Số tích niên được 10.155.488 năm Lấy phép Đại chu bát môn mà chia. Số dư là 128. Dưới số 240, nên lấy số 30 của bát môn trừ dần đi. Bắt đầu từ Khai môn, trừ đi 30. Hưu môn trừ đi 30. Sinh môn trừ đi 30. Thương môn trừ đi 30 Trừ qua 4 cửa là 120. Còn dư là 8. Vậy Trực sứ ở cửa Đỗ. Lấy Đỗ gia Thái ất ở cung 3 Cấn, tức là cửa Cảnh ở cung 4 Chấn, cửa Tử ở cung 9 Tốn, cửa Kinh ở cung 2 Ly, cửa Khai ở cung 7 Khôn, cửa Hưu ở cung 6 Đoài, cửa Sinh ở cung 1 Càn, cửa Thương ở cung 8 Khảm, mà thấy được lành hay dữ. Năm ấy, Thái ất ở dương niên cục 32, đóng cung 3 Cấn; hợp với cửa Đỗ. Thiên mục ở Tị, hợp với cửa Tử; Chủ tính được là 2, 10, 5 cửa Đỗ. Thuỷ kích ở Tý kích Thái ất. Khách tính được là 8, đoản. Khách Đại tướng bị nội bách. Khách Tham tướng là ngoại bách. Kế thần ở Mùi Cục này, Thái ất Thiên mục không đứng ở ba cửa Khai, Hưu, Sinh là tam cát môn (là ba cửa đều đủ, có thể xuất quân). Thái ất gặp Thuỷ kích. Khách Đại tướng, Tham tướng gặp kích Bách. Chủ nhân ở cửa Đỗ là vô môn. Như số khách đoản. Chủ - Khách đều bất lợi, không thể đánh một cách miễn cưỡng. Ví dụ 2: Xem năm 1924, tương ứng với năm Can chi âm lịch là Giáp Tý. Số tích niên là 10.155.841 năm Lấy số tích niên 10.155.841 năm chia cho số 2400. Số dư được 1.441. Chia tiếp số 1441 cho 240. Số dư được 1. Vậy Trực sứ ở Khai môn. Năm 1924, Thái ất ở dương niên cục 1, đóng tại cung 1 Càn. Lấy Khai gia Thái ất ở cung 1 Càn. Vậy Khai môn cũng tại cung 1 càn. Trực sứ cũng ở Khai môn. Văn xương đóng tại cung Thân, hợp với cửa tử Thuỷ kích đóng tại cung 7 Khôn hợp với cửa tử Ví dụ 3: Xem năm 1954, tương ứng với năm Can chi âm lịch là Giáp Ngọ. Số tích niên là 10.155.871 năm Lấy số 10.155.871 năm chia cho số 2400. Số dư được 1471. Chia tiếp số 1471 cho số 240. Số dư được 31. Bắt đầu từ khai môn, trừ đi 30, còn dư 1. Vậy trực sứ ở Hưu môn. Năm 1954, Thái ất ở dương niên cục 55, đóng tại cung 3 Cấn Lấy Hữu môn gia vào Thái ất tại cung Cấn 3 Văn xương đóng tại cung Mão hợp với cửa Hưu Thuỷ kích đóng tại cung Sửu hợp với cửa Khai1 like
-
TÌM CHỦ, KHÁCH ĐẠI TƯỚNG VÀ THAM TƯỚNG Phương pháp tính: Chủ, Khách, Đại tướng suy pháp đồng, Khứ thập linh giả tức hành cung. Thập toán khứ cửu, chỉ dụng nhất, Tham tướng y Đại tam nhân thống. Đắc số vi cung, thủ lĩnh số, Phát, bách, tù, quan, khán cát hung. Chủ, Khách, Đại tướng cùng 1 phép tính. Trừ 10, số thừa ra là hành cung. Mười trừ 9 còn 1; Tham tướng dựa vào phương pháp tìm Đại tướng. Số Đại tướng nhân 3 lấy số lẻ. Tính phát, bách, tù, quan để xem tốt hay xấu. Ví dụ 1: Xem năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê tương ứng với năm 1570 dương lịch. Dương niên cục 31. Chủ tính được là 33; trừ đi 30, dùng 3, là Đại tướng ở cung 3; mà Thái ất cùng ở cung 3, là TÙ. Tù là có sự tang ma, vong bại. Chủ Tham tướng lấy số 3 của Đại tướng mà nhân với 3 (3 x 3 = 9), tức là chủ Tham tướng ở cung 9, mà Văn xương cũng ở cung 9; cũng là TÙ, là xấu. Tiếp đến tính Khách là 10. Bỏ 9 chỉ dùng 1 tức là Khách Đại tướng ở cung 1. Không gặp tù, bách, yểm, kích là tướng phát, là cát. Lấy 3 x 1 vẫn là 3, tức là Khách Tham tướng ở cung 3, cũng cùng cung với Thái ất tức là TÙ, là tiểu tướng bất lợi. Cục này, Thái ất tuy trợ Chủ, mà Chủ lại bất hoà. Hai tướng gặp tù nên an cư, không thể hành động trước. Khách hoà, tướng phát, lợi về khách. Nên an cư, lợi về hành động sau. Thiên mục ở trước là trong có thể công ngoài; ở sau là ngoài có thể công trong. Từ Càn đến Thìn là trong. Từ Tốn đến Tuất là ngoài. Thái ất ở các cung 1, 8, 3, 4 là “Thiên nội” là trợ Chủ, không thể đem quân cống phạt, muốn đánh địch, không nên khởi động trước, nên hậu ứng. Thái ất ở các cung 2, 9, 6, 7 là “Thiên ngoại”, là trợ Khách, lợi việc lấy binh đánh dẹp. Nếu muốn đánh địch phải đánh trước, không nên khởi động sau. Ví dụ 2: Xem năm 1592 dương lịch. Dương niên cục 53. Thái ất đóng cung Ly 2 hai năm Văn xương đóng cung Đại vũ (Khôn 7) Chủ tính được là 38 Khách tính được là 25 Chủ tính được 38; trừ đi 30, dùng 8. Tức là Đại tướng ở cung 8, mà Thái ất ở cung 2, không bị TÙ. Chủ tham tướng lấy số 8 của Đại tướng mà nhân với 3 (8 x 3 = 24). Trừ đi 20, dùng số 4.Tức là Chủ tham tướng ở cung 4, mà Văn xương đóng ở cung 7, Thái ất ở cung 2, không bị TÙ. Khách tính được số 25. Bỏ đi 20, dùng số 5, tức là Khách đại tướng ở cung 5 mà Thái ất ở cung 2, Văn xương đóng cung 7 là không bị TÙ. Lấy 3 x 5 = 15. Bỏ đi 10, dùng số 5, tức là Khách tham tướng đóng cung 5, mà Thái ất đóng cung 3, Văn xương đóng cung 7, là không bị tù. Ví dụ 3: Xem năm 1599 dương lịch. Dương niên cục 60. Thái ất đóng cung Chấn 4 Văn xương đóng cung Hợi Chủ tính được là 12 Khách tính được là 13 Chủ tính được 12, bỏ đi 10, dùng số 2; tức là Chủ đại tướng đóng cung Ly 2 mà Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi, là không bị tù. Chủ tham tướng lấy số 2 của Chủ đại tướng nhân với 3 (2 x 3 = 6). Tức là Chủ tham tướng đóng cung Đoài 6, mà Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi là không bị tù. Khách tính được số 13. Bỏ đi 10, dùng số 3; tức là Khách đại tướng đóng cung Cấn 3; mà Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi là không bị tù. Lấy 3 x 3 = 9. Tức là Khách tham tướng đóng cung Tốn 9. Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi, là không bị tù. PHÉP TÌM ĐỊNH KẾ MỤC Phương pháp tính: Vi Khách tối nan minh định kế. Tiệm dĩ Tuế hợp gia tuế chi. Văn xương lâm sứ vi khởi toán. Thái ất cung tiền chỉ toán thì. Đại, Tham diệc như Chủ, Khách pháp, Tù, quan, cách, đôi tu bất nghi. Là Khách rất khó rõ cho nên định kế mục. Bèn lấy tuế hợp gia vào tuế chi. Khởi tính từ cung Văn xương đóng. Ngừng lại trước cung Thái ất. Đại tướng, Tham tướng cũng giống phép tính chủ. Khách gặp tù, quan, cách, đôi là không hợp. Xem trên thiên bàn thấy Văn xương đến cung nào, tất cung Thân ở dưới là Kê mục. Lấy cung bản vị khởi tính như cung thân x là đầu tiên, theo cung số để khởi tính gián thần x là đầu tiên. X khởi số 1 mà tính, sau chi dùng cung thân x. Tính số đến trước cung Thái ất thì ngừng lại. Xem số “kích” được bao nhiêu, trừ 10 dùng số lẻ. Số đó là nơi định kế mục Đại tướng đóng. Lấy số đó nhân với 3 là nơi định kế Tham tướng đóng. Xem tù, cách, bách, quan cũng như phép trước. Tác dụng của định kế mục: Tình hình của Khách (đối phương) khó tiên đoán, cho nên lập phép định kế mục để trùng thẩm. Ví dụ 1: Xem năm Tân Mùi, niên hiệu Chính trị, năm thứ 14 triều Lê (tương ứng với năm 1571 dương lịch) để định kế mục. Năm ấy Thái ất đi vào cục 32 dương. Thái ất ở cung 3 Cấn, Thiên mục ở Tị, Đại thần. Lấy Tuế hợp, viết chữ Ngọ trên tuế chi Mùi Tuế hợp: Tí hợp Sửu Dần hợp Hợi Mão hợp Tuất Thìn hợp Dậu Tị hợp Thân Ngọ hợp Mùi Nhìn Thiên mục Văn xương ở Tị, lâm vào trên cung 2 Ly – Ngọ (thiên uy), vậy Ngọ là cung để định kế mục. Ngọ là đầu tiên ở cung Ly số 2 (khởi tính thuận) Khôn – 7 Đoài – 6 Càn – 1 Khảm – 8 Thái ất đóng cung Cấn – 3 Cộng được = 24 Không có quân, tù, cách, bách là hoà Bỏ đi 20, còn 4. Vậy Khách định kế Đại tướng tại cung 4. Lấy 4 x 3 = 12. Bỏ đi 10, còn 2; tức là Khách định kế Tham tướng ở cung 2. Ví dụ 2: Định kế mục năm 1570 dương lịch, tướng ứng với năm Can chi âm lịch là Canh ngọ. Dương niên cục 31. Thái ất đóng cung 3 Cấn. Văn xương tại 9 Tốn, Đại trắc. Lấy tuế hợp, viết chữ Mùi trên tuế chi Ngọ: Mùi – Ngọ (Ly 2) Văn xương ở Tốn 9 trên gián thần Tị Tị là đầu tiên số 1 Ly la đầu tiên số 2 Khôn là đầu tiên số 7 Đoài là đầu tiên số 6 Càn là đầu tiên số 1 Khảm là đầu tiên số 8 Thái ất tại cung 3 Cấn Cộng được : 25 Bỏ đi 20, còn 5.Vậy Khách định kế Đại tướng tại cung 5. Lấy 5 x 3 = 15 Bỏ đi 10, còn 5; tức là Khách định kế Tham tướng cũng ở cung 5. Ví dụ 3: Định kế mục năm 1592 dương lịch, tương ứng với năm can chi âm lịch là Nhâm Thìn. Tuế hợp của tuế chi Thìn là Dậu. Viết chữ Dậu trên tuế chi Thìn: Dậu – Thìn dương niên cục 53. Thái ất đóng cung Ly 2 Văn xương đóng cung Khôn 7, Đại vũ. Văn xương ở Khôn 7 trên gián thần Thân Thân là đầu tiên số 1 Đoài là đầu tiên số 6 Càn là đầu tiên số 1 Khảm là đầu tiên số 8 Cấn là đầu tiên số 3 Chấn là đầu tiên số 4 Tốn là đầu tiên số 9 Thái ất đóng Ly 2 Cộng được : 32 Bỏ đi 30, còn 2. Vậy Khách định kế Đại tướng ở cung 2. Lấy 2 x 3 = 6 Vậy khách định kế Tham tướng ở cung 6.1 like
-
SAO KHÁCH MỤC THUỶ KÍCH Sao khách mục Thuỷ kích còn có tên là Địa mục. Như phép thời kế, dùng cách này để an vị khách là kỳ binh và nghe ngóng tình hình quân giặc để chuẩn bị đối phó. Phương pháp tính là: Khách mục Thuỷ kích khởi nguyên nhân, Cấn vi hoa đức, gia kế thần Văn xương lâm xứ vi Thuỷ kích Khách mục tất ta khán Thiên luân. Chỗ khởi đầu để tìm khách mục Thuỷ kích: Cấn là Hoa đức, gia vào kế thần. Nói chung Văn xương tới là thuỷ kích. Khách mục tất xem Thiên luân. Hiểu rõ nơi Kế thần đóng, đặt Hoa đức vào đó. Xem trên niên bàn, Văn xương tới cung nào là Thuỷ kích ở đó. Ví dụ 1: Xem năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê, tương ứng với năm 1570 dương lịch. Kế thần năm 1570 ở Thân, gia cung Cấn (Hoà đức) Tính thuận Dậu gia cung Dần (La thân) ...............Tuất gia cung Mão (Cao tùng) ...............Càn gia cung Thìn (Thái dương) ...............Hợi gia cung Tốn (Đại trắc) ...............Tý gia cung Tị (Đại thần) ...............Sửu gia cung Ngọ (Thiên uy) ...............Cấn gia cung Mùi (Thiên đạo) ...............Dần gia cung Khôn (Đại vũ) ...............Mão gia cung Thân (Vũ Đức) ...............Thìn gia cung Dậu (Thái thốc) Văn xương năm 1570 ở Tốn gia cung Tuất (âm chủ) – Thuỷ kích đóng. Ta nói: Năm Canh Ngọ (1570) Thuỷ kích đóng tại Tuất, âm chủ. Dương niên cục 31, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Ví dụ 2: Tìm vị trí của sao Thuỷ kích năm 1592 dương lịch. Kế thần năm 1592 dương lịch ở Tuất, gia cung Cấn (Hoà đức) Tính thuận Càn gia cung Dần (La thân) ................Hợi gia cung Mão (Cao tùng) ................Tý gia cung Thìn (Thái dương) ................Sửu gia cung Tốn (Đại trắc) ................Cấn gia cung Tị (Đại thần) ................Dần gia cung Ngọ (Thiên uy) ................Mão gia cung Mùi (Thiên đạo) ................Thìn gia cung Khôn (Đại vũ) ................Tốn gia cung Thân (Vũ Đức) ................Tị gia cung Dậu (Thái thốc) ................Ngọ gia cung Tuất (Âm chủ) ................Mùi gia cung Càn (Âm đức) Văn xương năm 1592 ở Khôn gia cung Hợi (Đại nghĩa) – Thuỷ kích đóng. Ta nói: Năm 1592 dương lịch Thuỷ kích đóng tại Hợi, Đại nghĩa. Dương niên cục 53, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Ví dụ 3: Tìm vị trí của sao Thuỷ kích năm 1599 dương lịch. Kế thần năm 1599 dương lịch ở Mão, gia cung Cấn (Hoà đức) Tính thuận Thìn gia cung Dần (La thân) ................Tốn gia cung Mão (Cao tùng) ................Tị gia cung Thìn (Thái dương) ................Ngọ gia cung Tốn (Đại trắc) ................Mùi gia cung Tị (Đại thần) ................Khôn gia cung Ngọ (Thiên uy) ................Thân gia cung Mùi (Thiên đạo) ................Dậu gia cung Khôn (Đại vũ) ................Tuất gia cung Thân (Vũ Đức) ................Càn gia cung Dậu (Thái thốc) Văn xương năm 1599 ở Hợi gia cung Tuất (Âm chủ) – Thuỷ kích đóng. Ta nói: Năm 1592 dương lịch Thuỷ kích đóng tại Tuất, Âm chủ. Dương niên cục 60, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. TÌM CHỦ KHÁCH TỪNG NĂM Phương pháp tính: Chủ, khách nhị mục toán như hà Chỉ khán hành cung số kỷ đa Gián thần khơi nhật, tứ cung tứ, Lục cung khởi lục, thuận hành qua. Thái ất cung tiền, bất lãng việt, Đắc số tiện vi chủ toán ma. Hữu thần nhị mục lâm Thái ất, Chỉ thử cung trung chỉ toán ca. Chủ và khách hai vị tính như thế nào ? Chỉ cầu xin cung đi số là bao nhiêu ? Tính chủ từ Văn xương, tính khách từ Thuỷ kích. Thuỷ kích phối gián thần khởi 1. Cung 4 khởi từ 4, cung 6 khởi từ 6.Tính thuận, đến trước cung Thái ất ngừng lại. Số tìm được là chủ. Nếu hai thần Chủ và Khách lâm vào Thái ất, lấy cung đó và ngừng tính. Cần biết rõ Văn xương, Thuỷ kích, dấu cung nào (theo bát quái). Bắt đầu tính cùng với ngôi gián thần (Dần, Thân, Tị, Hợi – Thìn , Tuất, Sửu, Mùi) Nếu như cung quái vị là đầu tiên tất xét số cung thuộc quái vị để khởi tính. Nếu gián thần là ngôi đầu tiên, lấy số 1 mà tính, rồi tính tiếp theo thứ tự xác định. Không tính số ngôi gián thần, đều đến trước cung Thái ất là ngưng lại. Xem số dư là bao nhiêu, lấy chủ khách mà tính. Nếu Nhị mục đóng ở cung có Thái ất, tất cả y số của cung ấy mà ghi số cung của khách đóng. Ví dụ 1: Năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê, tương ứng năm 1570 dương lịch. Dương niên cục 31, tìm cung chủ đóng. Phép tính diễn ra như sau: Tính chủ từ Văn xương. Ta biết rằng năm 1570 Văn xương đóng tại cung Tốn 9. Tính khởi từ số: .................9 Tốn. Tính thuận theo cấu trúc bát quái .................2 Ly .................7 Khôn .................6 Đoài .................1 Càn .................8 Khảm (đến Cấn là cung Thái ất đóng, phải ngừng lại) Cộng được: 33 Số không quá 5 là Vô địa. Lại tính khách. Lấy Thuỷ kích gián thần đóng là số 1. Thuỷ kích đóng: Cung Tuất (gián thần)..số 1 (theo bát quái) Cung Càn (gián thần)...số 1 Cung Khảm (gián thần) số 8 (Thái ất đóng cung Cấn 3) .....................Cộng là :..10 Được số 10, không vào cửa Tù mà là Hoà. Định nghĩa một số khái niệm: Phát: Nếu đại, tiểu tướng (Tham tướng) không ở cùng 1 cửa. Văn xương không bị Tù, Bách. Thuỷ kích không bị yểm kích là Tướng phát. Phát có nghĩa là lợi mà hưng phát thành công. Quan: Nếu như đại, tiểu tướng ở cùng một cửa. Văn xương gặp Tù, Bách. Thuỷ kích gặp yểm kích là tướng không phát động được. Bởi vì số tính của Chủ Khách cùng 1 cung với Thái ất. Văn xương hoặc đại, tiểu tướng lại có số cùng bằng nhau là Quan. Quan có nghĩa là hai bên giao chiến tranh đoạt nhau, thế một sống một chết, nếu cứ làm sẽ bất lợi. Chủ khi tính được đa (nhiều) và hoà là thắng. Nếu tính được thiểu (ít) và bất hoà là bại. Tù: Thái ất cùng Văn xương, Đại, tiểu tướng xâm lấn nhau, dưới phạm trên, bị táng vong, thua bại. Bách: Hai bên Tủ Hữu Thái ất gặp Thiên mục, Địa mục và Đại, Tiểu tướng bức sát bản cung; biểu lộ trên dưới lấn át nhau, tả hữu bức bách nhau. ........Trước là ngoài, sau là trong. Giờ (thần) là cấp cung là hoan; ở sau Thái ất. ........Thái tuế ở trước cung Thái ất là phản. Yểm: Là Thuỷ kích tới cung Thái ất. Âm thịnh dương suy, trên lấn át, dưới tiếm quyền. Thấy như vậy tất dùng mệnh toán để phối hợp xem hoà hay bất hoà. Tính được hoà là tốt, bất hoà là xấu. ........Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 là dương; mà tính được số 1, 3, 5, 7 là lẻ, lóc dương; thế là trùng dương, chủ về hạn hán, hoả tai. ........Nếu Thái ất ở các cung 1, 6, 2, 7 là âm; mà tính được số 2, 4, 6, 8 là chẵn; là trùng âm, chủ về mưa lụt, nước to. Đều là theo số tính thấy bất hoà. ........Nếu Thái ất ở cung dương, tính được số chẵn; ở cung âm tính được số lẻ, là tính được hoà. ........Hai sao Thiên mục, Địa mục lấy các cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài là dương; mà lấy Hợi, Sửu, Dần, Thân, Tị, Mùi, Thân, Tuất (ngôi gián thần) là âm. ........Nếu ở cung dương tính được số chẵn, ở cung âm tính được số lẻ là hoà; trái lại là bất hoà. ........Số 3, 9 gặp cung Dần, Thìn là thuần dương. Số 4, 8 gặp cung Sửu, Tị là tạp dương. ........Số 3, 6 gặp Hợi, Mùi là thuần âm. Số 1, 7 gặp Thân, Tuất là tạp âm. Các số 33, 39 tính được là trùng dương; các số 22, 26 tính được là trùng âm. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung âm mà số tính được 24, 28 là tạp trùng âm tai hoạ rất lớn. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương, số tính được 13, 19, 31, 37 là tạp trùng dương, tai hoạ vừa vừa, quá lắm là trong ngoài có lập mưu. .......Thái ất, Thiên mục ở cung âm mà số tính được 11, 17 là dương ở trong âm. Bên trong có âm mưu; đều lấy số tính được nhiều và hoà là thắng, trái với thế là bại. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương, số tính được 33, 39 là thuần dương, là thái quá, chủ về điều hung, về vua bạo ngược. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung âm mà số tính được 22, 26 là thuần âm; thái quá cũng là yểm. Nếu gặp cung 2, cung 8 là định khí; cung 4, cung 6 là tuyệt khí. .......Tính “niên kế” là nhà vua gặp hung; cung 9 là thuần âm. Cung 1 là tuyệt dương, bề tôi gặp điều dữ xấu, bị giết. Kích: là Thuỷ kích bức bách gần Thái ất. Phía trước là tả, phía sau là hữu, bên trong đâm chém nhau, trên lấn át, dưới tiếm quyền. Nếu gặp giờ “kích” tai hoạ rất lớn. Nếu gặp cung “Kích” tai hoạ chậm hơn. Bên trong gặp rắc rối từ các bà hậu, bà phi; bên ngoài gặp phiền nhiễu từ ngoại quốc. Ví dụ 2: Tính Chủ Khách năm 1592 dương lịch. Dương niên cục 53. Nguyên Canh tý dương , trung nguyên. Thái ất đóng tại cung Ly 2 – Lý địa Văn xương đóng tại cung Đại vũ (Khôn 7) Thuỷ kích đóng tại cung Hợi – Đại nghĩa. Phép tính diễn ra như sau: Tìm cung Chủ đóng, trước hết tính từ Văn xương tại Khôn 7 .........................................................................Đoài 6 ..........................................................................Càn 1 ........................................................................Khảm 8 ..........................................................................Cấn 3 .........................................................................Chấn 4 ............Đến Ly 2 là cung Thái ất đóng phải ngừng lại Tốn 9 ...............................................................Cộng được: 38 Tìm cung Khách đóng, lấy Thuỷ kích gián thần đóng là số 1 Thuỷ kích đóng cung.........Hợi số 1 ..................................Khảm số 8 .....................................Cấn số 3 ...................................Chấn số 4 Thái ất đóng tại cung Ly 2 Tốn số 9.... ..............................Cộng được: 25 Thái ất đóng cung Ly 2 là âm. Số tính được 25 là lẻ. Ví dụ 3: Tính Chủ Khách năm 1599 dương lịch. Dương niên cục 60. Nguyên Canh tý dương , trung nguyên. Thái ất đóng tại cung Chấn 4 Văn xương đóng tại cung Đại nghĩa (Hợi) Thuỷ kích đóng tại cung Tuất, âm chủ. Phép tính diễn ra như sau: Tìm cung Chủ đóng, trước hết tính từ Văn xương tại Hợi 1 .....................................................................Khảm 8 ........................................................................Cấn 3 ...............................................Thái ất đóng tại Chấn 4 ............................................................Cộng được: 12 Tiếp đến tính Khách, lấy Thuỷ kích gián thần đóng là số 1 Thuỷ kích đóng cung Tuất số 1 ..............................Càn số 1 ...........................Khảm số 8 ..............................Cấn số 3 .....Thái ất đóng tại Chấn số 4 ......................Cộng được: 13 Thái ất đóng cung Chấn 4 là dương. Số tính được 13 là lẻ.1 like
-
SAO KẾ THẦN Người xưa nói: “Sao kế thần là con rồng đuốc của sao Thái ất” Phương pháp tìm cung có sao kế thần đóng. Kế thần Tý niên khởi từ Dần Trong thập nhị thần phải nghịch tuần Thời kế: hạ chí, từ thân khởi, Cục âm, 12 thần cũng tính ngược. Tích thập nhị tính, chia dần đi Số dư rơi cung nào là kế thần đóng. Cách tìm kế thần: năm Tý khởi từ cung Dần, rồi lần lượt tính ngược 12 địa chi. Tính giờ theo phương pháp tiết hạ chí, khởi từ giờ Thân. Cục âm 12 địa chi cũng tính ngược. Lấy số 12 mà chia dần đi. Số dư rơi vào cung nào là nơi kế thần đóng. Tính năm nào, số tích niên là bao nhiêu. Lấy số 12 theo phép Đại tiểu chu mà chia. Mười hai thân là từ Tý, Sửu đến Tuất, Hợi – số dư (kể cả 12) là ngôi ở của kế thần. Cách tính như sau: lấy năm Tý khởi từ cung Dần, tính ngược lại, tới đâu là biết cung kế thần đóng Bốn cách tính theo niên kế, nguyệt kế, nhật kế, thời kế đều tính nghịch. Duy có tính nhật kế, thời kế từ Hạ chí dùng cục âm, khởi Tý từ cung Thân tính nghịch lại. Năm Tý khởi từ Dần, đi ngược 12 năm là hết 1 vòng trời (chu thiên) Trình tự khởi từ Dần, tính nghịch 12 địa chi: Dần – Sửu – Tý – Hợi – Tuất – Dậu – Thân – Mùi – Ngọ - Tị - Thìn – Mão – (Dần)… Tính theo nhật kế, thời kế từ hạ chí dùng âm cục, trình tự khởi từ Thân, tính nghịch 12 địa chi: Thân – Mùi – Ngọ - Tị - Thìn – Mão – Dần – Sửu – Tý – Hợi – Tuất – Dậu – (Thân)… Ví dụ 1 Tìm kế thần của năm Canh Ngọ, niên hiệu chính trị năm thứ 13 triều Lê. Được số tích niên là 10.155.487 năm Lấy số 10.155.478 chia cho số 12. Được số dư là 7. Khởi năm Giáp tý kể là 1, từ Dần tính ngược đến 7 thấy Canh ngọ ở cung Thân, tức là kế thần ở cung Thân. Cụ thể là: 1-Năm Tý tại Dần (tính nghịch) 2-Năm Sửu tại Sửu 3-Năm Dần tại Tý 4-Năm Mão tại Hợi 5-Năm Thìn tại Tuất 6-Năm Tị tại Dậu 7-Năm Ngọ tại Thân (cung kế thần đóng) Muốn tìm cục năm Canh Ngọ trong ví dụ, ta lấy số tích niên 10.155.487 chia cho số 3600. Được số dư là 247. Lấy số dư 247 chia cho số 72, được số dư là 31. Năm Canh Ngọ trong ví dụ tương ưng với năm 1570 dương lịch, thuộc nguyên Canh Tý dương (theo bảng A). Ta nói: Năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị năm thứ 13, triều Lê, tương ứng năm dương lịch 1570 có dương niên cục 31, nguyên Canh Tý dương – trung nguyên. Sao kế thần đóng cung Thân. Ví dụ 2: Tìm kế thần năm 1592 Được số tích niên là 10.155.509 năm. Lấy số 10.155.509 năm chia cho số 12, được số dư là 5. Tính toán như sau: 1-Năm Tý tại Dần 2-Năm Sửu tại Sửu 3-Năm Dần tại Tý 4-Năm Mão tại Hợi 5-Năm Thìn tại Tuất (cung kế thần đóng) Muốn tìm niên cục 1592, ta lấy số tích niên 10.155.509 năm chia cho số 3600. Được số dư là 269. Lấy số dư 269 chia cho số 72, được số dư là 53. Ta nói: Năm 1592 có dương niên cục 53 nguyên Canh Tý dương – trung nguyên. Sao kế thần đóng cung Tuất. Ví dụ 3: Tìm kế thần năm 1599, được số tích niên là 10.155.516 năm. Lấy số tích niên 10.155.516 chia cho số 12, được số dư là 12. Tính toán như sau: 1-Năm Tý tại Dần 2-Năm Sửu tại Sửu 3-Năm Dần tại Tý 4-Năm Mão tại Hợi 5-Năm Thìn tại Tuất 6-Năm Tị tại Dậu 7-Năm Ngọ tại Thân 8-Năm Mùi tại Mùi 9-Năm Thân tại Ngọ 10-Năm Dậu tại Tị 11-Năm Tuất tại Thìn 12-Năm Hợi tại Mão (cung kế thần đóng) Muốn tìm niên cục năm 1599, ta lấy số tích niên 10.155.516 năm chia cho số 3600, được số dư là 276. Lấy số dư 276 chia cho 72, được số dư là 60. Ta nói: Năm 1599 dương lịch có dương niên cục 60 nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Sao kế thần đóng tại cung Mão. SAO VĂN XƯƠNG Còn có tên là Thiên mục. Như phép thời kế dùng cách này để dẹp quân đánh úp và nghe ngóng tình hình giặc để phòng bị. Phương pháp tính: Văn xương thiên mục khởi Thân hương Thập lục cung gian thuận suy tường Số chí càn khôn lưu song toán Âm cục khởi Dần cấn tốn phương Tích niên thập bát luỹ trừ ngoại Dự đoán trú xứ tứ Văn xương. Văn xương thiên mục khởi từ cung Thân. Trong khoảng 16 cung tích thuận đến cung Càn Khôn, lưu lại 2 số. Âm cục khởi từ cung Dần, tính đến cung Cấn, cung Tốn cũng lưu lại 2 số. Tích số của năm chia cho số 18. Số dư tính đến cung Mão là Văn xương ở cung ấy. Mười sáu cung tương ứng với 16 thần là: 1-Càn: Ân đức.................. 9-Tốn: Đại trắc 2-Hợi: Đại nghĩa...............10-Tị: Đại thần 3-Tý: Địa chu...................11-Ngọ: Thiên uy 4-Sửu: Dương đức.............12-Mùi: Thiên đạo 5-Can: Hoà đức................13-Khôn: Đại vũ 6-Dần: La hầu..................14-Thân: Vũ đức 7-Mão: Cao tùng...............15-Dậu: Thái thốc 8-Thìn: Thái dương...........16-Tuất: Âm chủ Số tích niên là bao nhiêu, đem chia cho số 18 của phép cục chu. Số còn lại không đủ 18, tính bắt đầu từ cung Thân, thuận theo 16 thần. Nếu gặp cung Càn, cung Khôn lưu lại một số, số dư tính đến cung nào thì Văn xương ở cung ấy. Ví dụ 1: Xem năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê tương ứng với năm 1570 dương lịch. Được số tích niên là 10.155.487 năm. Chia số 10.155.487 cho số 18 của phép cục chu, được số dư là 13. Khởi từ cung - Thân kế là 1 - Dậu kế là 2 - Tuất kế là 3 - Càn kế là 4,5 (tính 2 lần) - Hợi kế là 6 - Tý kế là 7 - Sửu kế là 8 - Cấn kế là 9 - Dần kế là 10 - Mão kế là 11 - Thìn kế là 12 - Tốn kế là 13 (cung Văn xương đóng) Cung Tốn theo hệ 16 thập tương ứng với Đại trắc. Vậy theo phép tính nói trên, năm Canh Ngọ (1570) Văn xương thiên mục ở cung Đại trắc (Tốn). Muốn tìm niên cục năm Canh ngọ (1570), ta lấy số tích niên 10.155.487 năm chia cho số 3600, được số dư là 247. Lấy số dư 247 chia cho số 72, được số dư là 31. Năm Canh Ngọ (1570) thuộc nguyên Canh tý dương (theo bảng A) – trung nguyên. Dương niên cục 31. Ta nói: Năm Canh Ngọ (1570) có dương niên cục 31, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Sao Văn xương thiên mục đóng tại cung Đại trắc (Tốn) Ví dụ 2: Tìm Văn xương thiên mục năm 1592 dương lịch. Được số tích niên là 10.155.509 năm. Chia số 10.155.509 cho số 18 của phép cục chu, được số dư là 17. Khởi từ cung: - Thân kế là 1 - Dậu kế là 2 - Tuất kế là 3 - Càn kế là 4,5 (tính 2 lần) - Hợi kế là 6 - Tý kế là 7 - Sửu kế là 8 - Cấn kế là 9 - Dần kế là 10 - Mão kế là 11 - Thìn kế là 12 - Tốn kế là 13 - Tị kế là 14 - Ngọ kế là 15 - Mùi kế là 16 - Khôn kế là 17 (cung Văn xương đóng) Vậy theo phép tính nói trên, năm 1592 dương lịch, Văn xương thiên mục ở cung Đại vũ (Khôn). Muốn tìm niên cục năm 1592, ta lấy số tích niên 10.155.509 chia cho số 3600, được số dư là 269. Lấy số dư 269 chia cho số 72, được số dư là 53. Ta nói: Năm 1592 có dương niên cục 53, nguyên Canh tý dương (theo bảng A) – trung nguyên. Sao Văn xương thiên mục đóng tại cung Đại vũ (Khôn) Ví dụ 3: Tìm Văn xương thiên mục năm 1599 dương lịch. Được số tích niên là 10.155.516 năm. Chia số 10.155.516 cho số 18 của phép cục chu, được số dư là 6. Khởi từ cung: - Thân kế là 1 - Dậu kế là 2 - Tuất kế là 3 - Càn kế là 4,5 (tính 2 lần) - Hợi kế là 6 (cung Văn xương đóng) Vậy theo phép tính nói trên, năm 1599 dương lịch có Văn xương thiên mục ở cung Đại nghĩa (Hợi). Muốn tìm niên cục năm 1599 dương lịch, ta lấy số tích niên 10.155.516 chia cho số 3600, được số dư là 276. Lấy số dư 276 chia cho số 72, được số dư là 60. Ta nói: Năm 1599 có dương niên cục 60, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Sao Văn xương thiên mục đóng tại cung Đại nghĩa (Hợi)1 like
-
BÀI 3 SỐ NHẬT CỤC Gốc tính nhật cục từ ngày mồng 1 tháng Giáp tý, năm Quý Hợi thuộc triều đại Cảnh Bình đời nhà Tống – Trung Quốc (ứng với ngày 19/2/423 dương lịch) Điểm mấu chốt của cách tính nhật cục là tính số ngày từ gốc tính nhật cục đến ngày đang xét. Ví dụ: Tính nhật cục ngày 14/02/1992 (âm lịch). Bước đầu tiên là tính số ngày từ gốc tính nhật cục (ngày 19/2/423) đến ngày 18/01/1992. Trước hết, ta tính tròn số năm phải xét. Vậy tính đến tháng 2 năm 1992, ta có: 1992 – 423 = 1569 năm Tiếp đó, ta tính số ngày tròn trong 1569 năm: (1569 x 365,2422) – 10 = 573.055 ngày Bước tiếp theo, ta tính số ngày từ 19/01/1992 đến ngày 14/12/1999. Số ngày theo dương lịch, ta có: 19/1/1992 – 31/1/1992 = 13 ngày 1/2/1992 – 29/2/1992 = 29 ngày 1/3/1992 – 31/3/1992 = 31 ngày 1/4/1992 – 30/4/1992 = 30 ngày 1/5/1992 – 31/5/1992 = 31 ngày 1/6/1992 – 30/6/1992 = 30 ngày 1/7/1992 – 31/7/1992 = 31 ngày 1/8/1992 – 31/8/1992 = 31 ngày 1/9/1992 – 30/9/1992 = 30 ngày 1/10/1992 – 31/10/1992 = 31 ngày 1/11/1992 – 30/11/1992 = 30 ngày 1/12/1992 – 14/12/1992 = 14 ngày ...........................Cộng = 331 ngày Số ngày từ 18/2/423 đến 14/12/1999 là: 573.055 + 331 = 573.386 ngày Tính tiếp theo công thức I: 573.386 : 360 = số dư 266 Cuối cùng tính theo công thức II: 266 : 72 = số dư 19 Ngày 14/2/1992 sau Đông chí thuộc dương (sau ngày hạ chí thuộc âm). Ta nói: ngày 14/2/1992 có dương nhật cục 50 thuộc nguyên nhâm tý dương, hạ nguyên. (*)Ta biết rằng: ngày 21 (Giáp tý) tháng 11 (Nhâm tý) năm Nhâm thân. Gốc tính (Lê Quý Đôn): Âm lịch – mồng 1 – tháng 11 – Giáp tý Năm Giáp tý (dương lịch 7/12/424) SỐ THỜI CỤC Cách tính thời cục là dung số Can chi cho ngày và giờ. Gốc của Can chi ngày là ngày Giáp Tý = 1 ; ngày Ất Sửu = 2 ; ngày Bính Dần = 3…v.v… Thử tính thời cục giờ Giáp Tý, ngày Giáp Thìn (tương ứng với ngày 23/1/1992) Giờ Giáp Tý là giờ đầu tiên của ngày Giáp Thìn. Ta có: giờ Giáp Tý = 1 Tính từ ngày Giáp Tý = 1 đến ngày Giáp Thìn, ta có: ngày Giáp Thìn = 41 Nhưng ta chỉ tính đến hết ngày Quý Mão (trước ngày Giáp Thìn) Ngày Quý Mão có số Can chi = 40 Mỗi ngày có 12 giờ âm lịch: 40 x 12 = 480 giờ âm lịch Cộng thêm giờ Giáp Tý ngày Giáp Thìn, ta có: 480 + 1 = 481 giờ âm lịch Tính tiếp, ta dùng công thức I: 481 : 360 = số dư 121 Cuối cùng, ta dùng công thức II: 121 : 72 = số dư 49 Ngày 23/1/1993 sau Đông chí. Tính thời cục cũng lấy thời gian từ Đông chí về sau thuộc dương, từ Hạ chí về sau thuộc âm. Từ kết quả tính toán trên đây, ta nói: ngày 23/1/1993 có dương thời cục 49 thuộc nguyên tý… Cách tính số niên cục, nguyệt cục, nhật cục, thời cục gọi là “Tứ kế” (tuế kế, nguyệt kế, nhật kế, thời kế) Theo nguyên tắc “Tề nguyên Giáp Tý”, gốc tính đầu tiên của “Tứ kế” là giờ Giáp Tý, ngày Giáp Tý, tháng Giáp Tý, năm Giáp Tý, nguyên Giáp Tý thuộc Hội Giáp Tý.1 like
-
Phong thủy trong quy hoạch Thủ đô: Thăng Long hay "Ẩn Long"? Tác giả: KTS Trần Thanh Vân tuanvietnam.net Đỉnh Ba Vì là nơi tỏa khí thì chân Ba Vì không thể là nơi thụ khí. Đó là "góc chết" của vòng tròn vận khí. Đặt Trung tâm hành chính Quốc gia ở chân núi Ba Vì là ta xây một "Ẩn Long", không còn là một Thăng Long nữa. Cách đây không lâu, ngày 15/12/2009, lần đầu tiên tại Hà Nội, Hội thảo "Tính khoa học của phong thủy trong kiến trúc và xây dựng" do Trung tâm Lý học Đông phương thuộc Trung ương Hội nghiên cứu khoa học Đông Nam Á tổ chức đã diễn ra sôi động; thu được kết quả rất đáng ghi nhận. Muốn hạnh phúc ấm êm Lần đầu tiên trước đông đảo người nghe, các chuyên gia đã phân tích mối quan hệ tương tác giữa con người với thiên nhiên, nêu rõ để có một cuộc sống gia đình hạnh phúc êm ấm, thì gia chủ phải biết chọn hướng nhà, mở ngõ, trổ cửa, phải biết đón ngọn gió lành, hứng dòng nước trong... Cũng như xây dựng một đô thị, một vùng dân cư, các nhà quy hoạch phải biết xác định các địa điểm công năng hợp với thiên nhiên, khí hậu, địa hình địa chất và thủy văn, đảm bảo cho đô thị phát triển bền vững và trường tồn. Hội thảo đã được chuẩn bị công phu, tuy chưa bàn hết mọi điều cần thiết nhất, nhưng đã giúp ta hiểu về cấu trúc phong thủy tựa Núi nhìn Sôngvà Rồng cuộn Hổ chầu, một cơ sở khoa học mà Đức Lý Thái Tổ đã viết ra trong bản Thiên Đô Chiếu 1000 năm trước. Sau 1000 năm, Thủ đô Hà Nội đã có rất nhiều thay đổi, ảnh hưởng không nhỏ tới cấu trúc phong thủy, trong đó thay đổi lớn nhất là là dân số đã phát triển lên gấp trên 10 lần năm 1010. Đất chật người đông là một vấn nạn rất lớn khiến chúng ta phải chật vật xoay xở khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Thay đổi tiếp theo là hệ thống đê điều dài 1600 km đã ngăn sông Hồng đưa phù sa bồi đắp làm mầu mỡ đồng bằng Bắc Bộ sau mỗi mùa nước lên, khiến cho vựa lúa sông Hồng ngày nay trở nên nghèo kiệt, sụt lún, đáy con sông mỗi năm một nâng cao, nên mùa mưa thì nước lũ như sắp tràn mặt đê và luôn luôn đe dọa vỡ đê, còn mùa khô thì dòng sông bị cạn kiệt, trơ đáy, nạn hạn hán đe dọa mùa màng, đời sống dân cư hàng ngày. Phong là gió, thủy là nước. Dòng nước trong và ngọn gió lành là hai yếu tố thiên nhiên quan trọng mà con người muốn sống tốt, muốn phát triển tốt phải biết tôn trọng và gìn giữ. Đó là chưa nói đến vấn nạn lớn nhất mà cả nhân loại đang bị uy hiếp là biến đổi khí hậu sẽ đưa đến những tai họa đột ngột ngoài sự dự báo thông thường của con người như động đất, núi lửa, sóng thần, lũ quét, mưa bụi mang khí độc hại dẫn tới hủy diệt... Thủ đô hôm nay đã mở rộng tới 3344 km2 là một thuận lợi rất lớn và cũng đặt ra nhiều thử thách mà các nhà quy hoạch phải biết vận dụng sự hiểu biết rất tổng hợp để hoạch định bức tranh đô thị trong tương lai. Thụ khí và tỏa khí Năm 2000, Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương (1927-2003) đã hoàn thành công trình nghiên cứu đồ sộ dùng khoa học hiện đại phương Tây là Toán học và Vật lý lý thuyết, để lý giải triết học cổ Đông phương, trong đó ông đặc biệt coi trọng cơ sở Kinh dịch cổ và Lý thuyết Tập mờ của nhà toán học người Mỹ L.A.Zadeh mới xuất hiện năm 1965. GS Hoàng Phương cũng là một tín đồ trung thành với lý thuyết tương đối của Albert Einstein. Một trong những đóng góp lớn của GS là ông đã dùng lý thuyết Y học Đông phương để "giải phẫu" một cơ thể người, khẳng định con người là một vũ trụ thu nhỏ. Trên cơ sở đó, ông lý giải một quốc gia, hay một đô thị, cũng giống như một cơ thể người. Cơ thể đó cần có một cái đầu chứa bộ não thông minh, một bộ khung xương vững vàng, các khớp xương linh hoạt, một hệ tuần hoàn lưu thông máu để nuôi mọi bộ phận trên cơ thể. Trong suốt 700 năm của ba triều đại Lý, Trần, Lê, dân số rất ít nên Thăng Long gần như không thay đổi. Hoàng thành nhỏ hẹp ở phía Nam Hồ Tây, quân lính bảo vệ kinh thành đồn trú ở phường Nhật Chiêu phía Bắc Hồ Tây, án ngữ toàn bộ sông Hồng và ngã sông Đuống. Nằm giữa hai bộ phận trên là "não thủy" Hồ Tây. Nơi đó cách đỉnh Ba Vì 26 km theo đường chim bay. Nếu đỉnh Ba Vì là nơi "tỏa khi", thì vùng này là nợi "thụ khí". Hồ Tây là nơi tạo nên niềm kiêu hãnh của văn hóa Thăng Long, nơi có huyệt đạo quốc gia, nơi lui tới của anh hùng hào kiệt, nơi tập trung các phường hội thủ công buôn bán. Đặc biệt góc Tây Nam là Bến Hồng Tân (Chợ Bưởi ngày nay ) là Ngã ba Tam hợp, nơi sông Tô Lịch gặp sông Thiên Phù nối với Hồ Tây qua phường Hồ Khẩu, có thuyền buôn trong nước ngoài nước ra vào tấp nập. Các làng quanh Hồ Tây xưa đều được gọi là "phường" và sông Thiên Phù (Trời giúp) làng Bái Ân và Đình, Chùa Bái Ân (nơi Vua tôi xưa đến làm lễ tạ ơn trời đất) Từ đầu thế kỷ 19, Kinh đô chuyển vào Huế, thành phố Hà Nội đô thị hành chính phục vụ Chính quyền bảo hộ xuất hiện. Sông Tô Lịch bị lấp, Ngã ba Tam hợp bị xóa, Trung tâm thương mại chuyển sang phía Đông Nam thành phố. Hồ Lục Thủy, nơi thủy binh tập trận thời Lê Trịnh trở thành Hồ Hoàn Kiếm, còn Hồ Tây và các phường hội quanh hồ trở thành làng xã của huyện ngoại thành Từ Liêm. Quy hoạch cũ của người Pháp có lúc vẽ Hồ Tây là một "Đại công viên", nhưng có lẽ vì thiếu ngân sách, ý tưởng đó mới chỉ dừng lại trên bản vẽ. Từ khi Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam dân chủ công hòa (năm 1945) cho đến nay, Hà Nội xinh đẹp khi xưa bị phá nát từng ngày. Hà Nội - "thành phố trong sông" ngày càng chật chội, tù túng. Người Hà Nội sống khép mình, không dám nghĩ, không dám làm và không sao thoát ra khỏi tâm lý tự ty, mặc cảm. Từ ngày Quốc hội thông qua nghị quyết mở rộng địa giới hành chính Thủ đô, các nhà quy hoạch, các nhà chiến lược bị ngợp trước cánh cửa đã mở rộng và không ý thức được bước đi của mình phải từ đâu đến đâu? "Ẩn Long" hay Thăng Long? Qua bốn lần báo cáo, bản vẽ ngày càng nhiều, thuyết minh ngày càng dài, Video clip hiện lên một đô thị lõi và 5 đô thị vệ tinh lộng lẫy rực rỡ ánh đèn, ở đâu cũng thấy nhà cao tầng, ở đâu cũng có đường giao thông trên cao bay lượn như những con Rồng khổng lồ. Xem xong, đọc xong những sản phẩm đó, người có ý thức không thể không đặt ra câu hỏi: 1- Hoàng thành Hà Nội ở đâu? Hoàng thành là nơi Vua ở, là bộ mặt của đất nước, là nơi phát ra "Lệnh Trời". Ngày nay không có Vua nhưng vẫn có những người cầm đầu đất nước. Ta gọi đó là trung tâm chính trị hay trung tâm hành chính quốc gia đều được. Nhưng phải là nơi thể hiện bộ mặt của Thủ đô, nơi linh thiêng, ổn định, trường tồn. Để đảm bảo vị thế của dân tộc với bên ngoài, lòng tin của nhân dân và biểu tượng trường tồn của đất nước, Thủ đô của quốc gia nào cũng cần phải có Hoàng thành xứng đáng. Năm 1945 đến nay, Hoàng thành ở tạm tòa nhà Phủ toàn quyền Đông Dương và các nhà phụ kế bên. Đã đến lúc dứt khoát Thủ đô ta phải có một Hoàng thành hoàn chỉnh, thể hiện rõ tư thế, bộ mặt của đất nước. Không thể tiếp tục tình trạng trước kia ở trong phố cũ là tạm, nay đưa một phần ra Mỹ Đình cũng tạm, để tương lai rất xa sau này sẽ chui vào chân núi Ba Vì? Đỉnh Ba Vì là nơi tỏa khí thì chân Ba Vì không thể là nơi thụ khí. Đó là "góc chết" của vòng tròn vận khí, đặt Trung tâm hành chính Quốc gia ở chân núi Ba Vì là ta xây một "Ẩn Long" không còn là một Thăng Long nữa. Theo các chuyên gia về phong thủy kiến trúc, chọn đất xây dựng Hoàng thành cần xem xét một trong 2 khả năng: - Chọn nơi thụ khí linh thiêng nhất là Tây Hồ Tây. Hồ Tây hiện nay chỉ còn Tây Hồ Tây thuộc phường Xuân La, nhưng Hà Nội đã duyệt chỗ đó cho khu đô thị mới 210 ha gồm trung tâm thương mại, tài chính, khách sạn, biệt thư do Hàn Quốc đầu tư. Đó là nơi duy nhất còn lại của "não thủy". Bởi vậy dù ai là chủ đầu tư cũng không bao giờ được biến nơi đây thành nơi buôn bán lừa lọc để kiếm lợi. Hơn nữa, về quy hoạch không nên là bàn cờ ô vuông như đã duyệt. Đất nước sẽ thịnh hay suy chính là việc nhìn nhận cho đúng vùng đất này. - Chọn nơi ổn định địa tầng không bị sụt lún, đảm bảo trường tồn vĩnh cửu là vùng huyện Quốc Oai, bên bờ sông Đáy. Muốn vùng này có khả năng "thụ khí" tốt, dứt khoát phải cải tạo đập Phùng và khơi lại sông Đáy để đưa được nước sông Hồng vào sông Đáy và làm mát vùng đất này. 2 -Trục Thăng Long đi từ đâu đến đâu? Theo sơ đồ PPJ đưa ra thì Trục Thăng Long đi qua Phủ Tây Hồ, tức là trên đường 21 độ Vĩ Bắc, 3' cộng trừ 30''. Nhưng báo cáo lần 4 nói nhiều tới Trục Thăng Long kéo dài đường Hoàng Quốc Việt tới chân núi Ba Vì. Trục này sẽ có giao thông bộ, giao thông ngầm, giao thông trên cao và rất nhiều nội dung phong phú khác. Dư luận đang xôn xao muốn biết đề xuất này xuất phát từ nhu cầu nào? Lưu lượng giao thông sẽ là bao nhiêu? Trục Thăng Long nối Ba Vì với trung tâm thành phố, vậy "trung tâm" sẽ là dốc Chợ Bưởi hay còn đi tiếp đến làng Yên Thái? Phải chăng ý đề xuất trên còn quá sơ sài và khiên cưỡng, nhưng lại được dự định bắt đầu khởi công từ năm 2011. Đề xuất này có thể sẽ biến con đường rất tốn kém này thành "con đường chết" vì sẽ không ai có nhu cầu đi 30 km từ Ba Vì đến mua một bó hoa ở Chợ Bưởi và nhìn sông Tô Lịch bị chặt cụt ở đầu đường Hoàng Quốc Việt một lát rồi quay về. Nếu các tác giả muốn có một đề xuất hoàn chỉnh nối sông Tô Lịch, sông Nhuệ với Hồ Tây, tái tạo một ngã ba Tam hợp đô hội sầm uất như khi xưa thì phải có một phương án nghiên cứu tổng hợp và khái quát sơ bộ. Còn hiện nay, bỗng dưng chúng ta bàn đến việc năm 2011 khởi công Trục Thăng Long để nối văn hóa Thăng Long với văn hóa Xứ Đoài, nghe ra hơi hấp tấp và khập khiễng. Dư luận cũng cho rằng nếu các tác giả đồ án muốn coi đây là một "Trục tâm linh" thì cần xem xét lại, vì "Trục tâm linh" là trục không gian được nối bằng đường đi xoáy trôn ốc và phải dịch lên hướng Bắc 1 km nữa, vì đó mới là Đại Minh Đường. Khi nói đến tâm linh, người ta kiêng một đường thẳng tắp đi đến một địa điểm giống như một mũi tên xuyên thẳng vào tim, mà cần phải tạo nên đường chéo, đường xoáy trôn ốc hoặc dùng biện pháp "yếm cảnh" (trốn) và "chướng cảnh" (che chắn) 3-Bảo tồn đô thị lõi. Đô thị lõi của Hà Nội nên hiểu gồm 2 khu vực: Khu vực bên trong vành đai 1 là khu Hà Nội cũ của người Pháp để lại và khu vực mở rộng ra tới đường vành đai 3 là khu mới hình thành 30 năm qua. Khu vực bên trong vành đai 1 sẽ "bảo tồn" ra sao nếu Hà Nội vẫn tiếp tục cho xóa kiến trúc thấp tầng để xây dựng trung tâm thương mại và khách sạn cao tầng? Để thu hút ngày càng nhiều người đến chen chúc kinh doanh buôn bán? Để diện mạo Hà Nội không ngừng thay đổi, càng thêm tắc nghẽn giao thông, càng thêm ngột ngạt? Hơn nữa, để hiểu đúng nghĩa "bảo tồn" thì không chỉ cần bảo tồn công trình kiến trúc mà còn rất cần bảo tồn giá trị văn hóa, bảo tồn "thần thái" của Hà Nội thanh lịch.1 like
-
Mình xin phép đưa bài Đại Bi Chú này lên nhé. mặc dù hơi lan man một chút sang chủ đề Phật giáo rồi, nhưng mình nghĩ đây cũng là điều có ích mà. Dưới đây là bài Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni ( tên đầy đủ nên hơi dài một chút - rút gọn gọi là Chú Đại Bi ). Mình thường sử dụng bài rút gọn sau, còn nếu bạn nào muốn thực hành đầy đủ các nghi thức trì tụng Chú Đại Bi thì có thể mua cuốn Chư Kinh Nhật Tụng - rất đầy đủ về Kinh này. Chú Đại Bi thật sự là nhiều công dụng lắm, ngoài vấn đề giải nghiệp ra, còn một cách ứng dụng cũng cho hiệu quả lắm, đó là trị bệnh ( thầy của mình dạy như vậy ), tuy nhiên, cần phải có niềm tin tuyệt đối vào Đức Phật. Mình viết thử một ví dụ về cách trị bệnh của Đại Bi chú nhé - Như bị đau bụng, lấy hai mươi mốt hột muối hòa với nước giếng tầm hoa, trì chú hai mươi mốt biến, uống nửa chén hết liền. - Như bị ghẻ nhọt dùng lá " Lăng tiêu " giã vắt lấy nước, trì chú hai mươi mốt biến, trét lên mụn ghẻ, liền bực cội ra khỏi hẳn. - Muốn cho hết các bệnh trong bụng, nên đọc câu chú " Báo Bát Thủ " nầy nữa :Án, chỉ rị chỉ rị, phạ nhật ra, án, chỉ rị chỉ rị, phạ nhật ra hồng phấn tra. - Như trong người và các công việc chẳng an...muốn cầu cho được ổn,nên đọc câu chú "Ly sách thủ" này: "Án chỉ rị lạ ra,mô nại ra,hồng phấn tra". - Như trong bụng có giun sán ,lấy cốc nước lọc trì chú đà ra ni 21 biến thổi vào nước rồi uống.Giun sán sẽ bị trục ra hết. Nói chung là còn rất nhiều phép để ứng dụng Đại Bi Chú trong dân gian, nếu mà chép ra thì phải là cả cuốn kinh, nhưng để mình xin phép thầy nhé, nếu thầy cho phép, mình sẽ scan lên diễn đàn ( tuy nhiên các bạn cũng có thể tìm thấy các phép này trong các cuốn Kinh Phật ( VD : Kinh Bát Dương - Kinh Kim Cang Thọ Mạng, có thể mua được ở gần chùa Quán Sứ ) - sách của thầy mình chỉ là biên tập, hệ thống lại các nghi thức và ứng dụng theo kinh nghiệm gia truyền của thầy mà thôi. Lan man quá, mình xin đưa bài kinh rút gọn này nhé, hàng ngày, nếu bỏ thời gian ra trì tụng, tùy khả năng : 1,3,5,7,9 biến càng nhiều càng tốt, công đức vô lượng vậy Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát ( 3 lần ) Thiên-Thủ-Thiên-Nhãn-Vô-Ngại-Đại-Bi Tâm Đà-La-Ni 1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da 2. Nam mô a rị da 3. Bà lô yết đế thước bát ra da 4. Bồ Đề tát đỏa bà da 5. Ma ha tát đỏa bà da 6. Ma ha ca lô ni ca da 7. Án 8. Tát bàn ra phạt duệ 9. Số đát na đát toả 10. Nam mô tất kiệt lật đỏa y mông a rị da 11. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà 12. Nam mô na ra cẩn trì 13. Hê rị, ma ha bàn đa sa mế 14. Tát bà tát bà a tha đậu du bằng 15. A thệ dựng 16. Tát bà tát đa na ma bà tát đa 17. Na ma bà dà 18. Ma phạt đạt đậu đát điệt tha 19. Án A bà lô hê 20. Lô ca đế 21. Ca ra đế 22. Di hê rị 23. Ma ha bồ đề tát đỏa 24. Tát bà tát bà 25. Ma ra ma ra 26. Ma hê ma hê rị đà dựng 27. Cu lô cu lô yết mông 28. Độ lô đồ lô phạt xà da đế 29. Ma ha phạt xà da đế 30. Đà la đà ra 31. Địa rị ni 32. Thất Phật ra da 33. Giá ra giá ra 34. Mạ mạ phạt ma ra 35. Mục đế lệ 36. Y hê di hê 37. Thất na thất na 38. Ra sâm Phật ra xá lợi 39. Phạt sa phạt sâm 40. Phật ra xá da 41. Hô lô hô lô ma ra 42. Hô lô hô lô hê lỵ 43. Ta ra ta ra 44. Tất rị tất rị 45. Tô rô tô rô 46. Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ 47. Bồ đà dạ bồ đà dạ 48. Di đế lỵ dạ 49. Na ra cẩn trì 50. Địa rị sắc ni na 51. Bà dạ ma na 52. Ta bà ha 53. Tất đà dạ 54. Ta bà ha 55. Ma ha tất đà dạ 56. Ta bà ha 57. Tất đà dũ nghệ 58. Thất bàn ra dạ 59. Ta bà ha 60. Na ra cẩn trì 61. Ta bà ha 62. Ma ra na ra 63. Ta bà ha 64. Tất ra tăng a mục khê da 65. Ta bà ha 66. Ta bà ma ha a tất đà dạ 67. Ta bà ha 68. Giả kiết ra a tất đà dạ 69. Ta bà ha 70. Ba đà ma kiết tất đà dạ 71. Ta bà ha 72. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ 73. Ta bà ha 74. Ma bà rị thắng yết ra dạ 75. Ta bà ha 76. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da 77. Nam mô a rị da 78. Bà lô kiết đế 79. Thước bàn ra dạ 80. Ta bà ha Án Tất điện đô Mạn đà ra Bạt đà gia Ta bà ha. ( 3 lần ) Mình thấy trong diễn đàn chưa có Box nào cho lĩnh vực Phật giáo, thiết nghĩ ban quản trị nên xem xét, dành một chỗ chủ đề đạo Phật, thiết nghĩ đây cũng là một việc làm thiết thực, giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, hướng tới Chân - Thiện - Mỹ. Vài dòng, mong ban quản trị xem xét. Thân ái1 like