-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 23/09/2010 in all areas
-
4 likes
-
Dị nhân thề đuổi mưa: Không có gì là thần bí! Thứ năm, 23/09/2010, 13:30(GMT+7) GiadinhNet - Có được số điện thoại nhà riêng của Nguyễn Vũ Tuấn Anh, phóng viên GĐ&XH đã gặp trực tiếp được ông. Chỉ 1 ngày sau khi một tờ báo mạng đăng bài viết "Dị nhân thề đuổi mưa suốt 7 ngày Đại lễ", ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu lý học Đông phương - nhân vật chính đã thực sự gây rúng động giới khoa học và độc giả với nhiều cái nhìn, quan điểm trái chiều. GĐ&XH xin cung cấp một số thông tin để độc giả tham khảo và có một cái nhìn khách quan hơn về vấn đề này. Theo ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh, ông là một nhà nghiên cứu trên cơ sở khoa học nghiêm túc chứ không phải là một "dị nhân". Sẽ "tắt điện", lộ nguyên hình? Những ngày qua, giới truyền thông rùm beng chuyện một “dị nhân” thề đuổi mưa, ngăn bão trong dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long. Ngay sau khi một tờ báo điện tử đăng tin ông Tuấn Anh (bút danh Thiên Sứ) tuyên bố có thể "ngăn mưa" trong dịp 7 ngày diễn ra Đại lễ, nhà nghiên cứu lập tức nhận được vô vàn ý kiến. Phần lớn trong đó là sự phản hồi rất gay gắt, cho rằng đó là sự hoang tưởng, hoang tưởng, một hình thức PR đánh bóng tên tuổi. Theo một tờ báo điện tử, ông bị các nhà khoa học "đánh tơi tả", các chuyên gia khí tượng thủy văn "mổ" vì "phát ngôn gây sốc" quá ngạo mạn, hoang đường. Để minh chứng rằng tuyên bố kia đầy màu sắc hoang tưởng, các nhà khoa học đã vận dụng rất nhiều lý lẽ và không tiếc lời đả phá ông. "Tôi không tin một cá nhân có thể làm được. Cùng lắm họ chỉ biết được có nắng có mưa nhưng ngay cả việc dự báo này cũng không phải lúc nào cũng làm được" - ông Nguyễn Phúc Giác Hải, Chủ nhiệm bộ môn Thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người nói. Theo chuyên gia phong thủy Nguyễn Tuấn Kiệt, Công ty Cổ phần Phong thủy Việt Nam thì "xét trên hai phương diện khoa học và tâm linh thì quan điểm ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh đưa ra có phần chủ quan và ngạo mạn. Lời cam kết của ông Tuấn Anh theo tôi cần phải xem xét lại và hoàn toàn không đáng tin cậy". GS.TSKH Nguyễn Đức Ngữ - nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn đặt ra sự nghi ngờ: "Nếu cho rằng ý thức con người quyết định được cơn bão, mưa hay nắng thì sao lại không "đuổi" được mấy cơn bão vừa rồi đi để cứu Việt Nam? Hay sao không "phá" trận mưa lớn tại Hà Nội ngày 13/7 vừa rồi?". Còn TS Vũ Thế Khanh, Tổng giám đốc Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng UIA nói thẳng: "Chẳng cần biện pháp cao siêu gì, tôi chỉ cần sử dụng đúng chiêu đã thử nghiệm và lật mặt các nhà ngoại cảm rởm như đã nêu trong loạt bài đã đăng tải, là ông Tuấn Anh sẽ "tắt điện", lộ nguyên hình nếu ông ấy không có khả năng thực sự". Và biện pháp mà theo ông Khanh sẽ "lật mặt" được khả năng của Thiên Sứ là một yêu cầu rất nhỏ: Đợi lúc trời mưa, ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh ra đứng dưới mưa. Ông Tuấn Anh sẽ vận công, phát lực sao đó để đuổi mưa trong diện tích 1m² - ngay chỗ ông đứng. Theo đó, "nếu ông Tuấn Anh đuổi được mưa trong diện tích 1m² để ông không ướt, thì tôi đã thấy ông ấy quá siêu phàm, chứ chưa cần ông phải đuổi mưa trên diện tích hàng tỉ m2 cho cả Hà Nội trong 7 ngày" và ông Khanh cam đoan đến 95% là "ông ấy không dám gặp tôi để làm thử nghiệm này". Ý kiến trái chiều Bị các nhà khoa học "đánh tơi tả", nhiều độc giả cũng cho là hoang đường song tuyên ngôn của ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng được khá nhiều người ủng hộ. Người đầu tiên nói về vấn đề này là Giáo sư, Viện sĩ Đào Vọng Đức - nguyên Viện trưởng Viện Vật lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người. Theo ông, cá nhân con người có thể làm ảnh hưởng tới tự nhiên, việc nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh tuyên bố có thể "ngăn mưa, bão" trong vòng 7 ngày dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội là có cơ sở. "Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã từng có những dự đoán rất đúng và rất hiệu quả. Không chỉ Tuấn Anh mà tôi biết có những người khác cũng có khả năng tiên đoán này. Đây là những phương pháp mang yếu tố tâm linh mà khoa học cũng không thể lý giải. Nhưng tôi tin là có những cá nhân có thể thực hiện được việc này", ông nói. Tiếp đó là ông Phan Thanh Hiền - Chủ nhiệm CLB Thiên văn Bách khoa - cho hay từ xưa con người đã từng lập đàn cầu mưa để bảo vệ mùa màng và ngăn ngừa hạn hán. Tuy nhiên chưa có cơ sở khoa học để khẳng định việc này có tác động đến thời tiết, song ông cũng cho rằng "Việc ngăn mưa là có thể làm được. Nhưng phải đầu tư nguồn vốn tương đối lớn và quan trọng hơn là phải có đánh giá cụ thể về tác động đến môi trường". Một lực lượng đông đảo trong số người ủng hộ quan điểm của Thiên Sứ là các "đệ tử" của ông trên trang web lyhocdongphuong.org. vn. Trước những chê bai, búa rìu dư luận chĩa vào sư phụ của mình, đa số họ đều bày tỏ sự ủng hộ hết lòng vì theo họ nói đã từng biết về cảm ứng ngăn mưa của ông. Bên cạnh đó, họ còn phân tích và phản bác lại các luận điểm của một số nhà khoa học là vội vàng, không đúng và mâu thuẫn. "Có vội vàng quá không khi những bình luận gia đã bức xúc dùng những lời lẽ thách thức chỉ trích nặng nề đến như vậy? Kết quả của lời tiên đoán này còn ở phía trước kia mà! Thời nay đang có quá nhiều hiện tượng mà các nhà khoa học dần công nhận và tìm cách giải mã" - thành viên với nickname Wildlavender viết. Ông Tuấn Anh khẳng định là không "thề ngăn mưa, đuổi mây" như một tờ báo đã nói. Vì đại lễ của dân tộc chứ không PR Gần 1 tuần ầm ĩ trên các trang web, báo mạng, có thông tin đưa ra là sau khi tuyên bố "ngăn mưa" và bị dư luận phản bác, "dị nhân ngăn mưa" đột nhiên biến mất. Các cuộc gọi đến di động của ông đều chỉ nghe thấy "tò te tí". Có được số điện thoại nhà riêng của ông, phóng viên GĐ&XH đã gặp trực tiếp được ông. Ông cho biết vì bây giờ mọi người mới hay gọi cho ông nên mới biết, chứ việc ông tắt điện thoại thường xuyên từ nhiều năm nay rồi. Đó là do ông quá bận, công việc cần tập trung cao độ và có quá nhiều cuộc gọi không thể lúc nào cũng trả lời được. Lý giải cho việc không có ý định “đánh bóng” tên tuổi cũng như tuyên bố việc "ngăn mưa" này, ông Tuấn Anh cho biết nguồn cơn được đưa lên phương tiện thông tin đại chúng gây xôn xao dư luận là rất tình cờ. Ông nói: "Thời tiết trong lễ hội 1.000 năm Thăng Long là một vấn đề nổi cộm, được nhiều người quan tâm. Tôi đã đưa vấn đề này trên trang web của mình và đề nghị bộ môn "Lạc Việt độn toán" dự đoán xem như thế nào". Trước thông tin cần 1 tỷ USD để bắn mây chặn mưa, một thành viên trên diễn đàn đã nhận xét là quá tốn kém và cho rằng, nếu đưa 100.000 USD về Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương sẽ nghiên cứu để ngăn mưa được”. Theo ông Tuấn Anh, việc đề nghị của thành viên này tất nhiên là do họ tin vào khả năng của ông - dù khả năng này đang ở tình trạng thí nghiệm đã ứng dụng nhiều lần nhưng chưa từng công bố mặc dù có những kết quả không phải là ngẫu nhiên. "Đây không phải là dịp để tôi công bố việc này, chỉ là việc nội bộ trên mạng, tôi khẳng định 100.000 USD thì rẻ quá, phải 7 tỉ. Thông tin đó được 1 phóng viên "chớp" lấy và hỏi tôi có đúng không, tôi đã trả lời là đúng. Trong cuộc trò chuyện thoải mái, cô ấy hỏi tôi có khả năng ngăn mưa không, tôi nói cái đó chúng tôi đang nghiên cứu và đã thực hiện nhiều lần rồi" - ông Tuấn Anh kể. Ông cho hay, mình là một nhà nghiên cứu trên cơ sở khoa học nghiêm túc chứ không phải là một "dị nhân". "Tôi cũng khẳng định là tôi không "thề ngăn mưa, đuổi mây" như tờ báo đó nói. Khi được hỏi nếu có mưa thì ông có thể ngăn mưa không, tôi đã từng nói trên diễn đàn nên tôi đã khẳng định điều mình nói là có và bằng phương pháp nghiên cứu của mình tôi có thể làm được - ngăn chặn từ lúc nó chưa xảy ra”. Hà Thư3 likes
-
Kiểm Nghiệm Cùng Bác Thiên Sứ
hiki and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Thống nhất tiêu chí thế này nhé - không tính thời gian mưa:* Mưa có bong bóng là mưa to, nước chảy xối xả từ các ống máng. * Mưa nhỏ là mưa không có bong bóng và gây ướt, phải mặc áo mưa.2 likes -
Cháu lập gia đình năm 2002 tức là năm cháu đúng 26t ; đây là khởi đầu thập niên đại vận 26>35t ; đắc được cách Cự Nhật cách mà được gọi là nhật lãng thiên môn , cách nầy chỉ nằm ở được 2 nơi Dần và THÂN nhưng ở Dần thì rất tốt đẹp ,còn ở Thân thì chỉ là thứ cách vì mặt trời mọc ở giờ Thân thì cũng sắp vào chiều mặt dầu bị triệt cũng giảm đi mất khá nhiều nhưng vẫn còn tốt ,Thái dương tại thê tức có người vợ cũng hiền hậu ,thẳng thắng nóng nảy ,nhưng cũng rất mực nễ trọng và tin cậy ở chồng , cự -kỵ nơi đây cũng có nhiều khi vợ chồng tâm và khẩu bất đồng ,nhưng vẫn sống chung với nhau trong cảnh phú túc ,bắt đầu qua 2 thập niên kế là 36>46t ,cháu gặp nhiều khó khăn trở ngại trong công việc và sự nghiệp ,tiền bạc tài lộc thu nhập cũng thất thường ,không phải bị nghèo hèn nhưng trong khoãng thời gian nầy phải vất vã tranh đấu nổ lực rất nhiều trong công việc để cũng cố sự nghiệp ;phải ngoài 56t thì mới được an nhàn sung túc và có nhiều của cải /mệnh của cháu có cơ+ lương miếu địa là người thông minh nhân hậu và có từ tâm ,biết quyền biến ,xử thế ,sách có câu phú như vầy ;cơ,lương hội hợp thiện đàm binh; cư thìn -tuất diệc vi mỹ luận ,có nghĩa là người có cách cơ + luơng tại THÌN- TUẤT thì học nhiều hiểu rộng hay bàn việc chính sách chiến lược /theo như đó cháu có thể làm việc ở vị trí cố vấn chứ không thể là người đứng ra lãnh đạo .Theo cách thân cư quan tại Thân vô chính diệu có cự nhật cách chiếu sang thì về gần hậu vận cháu mới có danh tiếng .2 likes
-
Nếu tháng 11 âl nầy mà có gặp người đó trong sự bất ngờ ,thì tháng 12 âl sẽ đính hôn năm tới cưới ;nếu không có thì 31t-32t mới cưới vợ .2 likes
-
Có rất nhiều người thắc mắc /về cái tên họ của mình có liên quan đến phần số của mình không ? phương pháp thần số học của Tây phương dựa vào những con số đã định cho một mẫu tự /cấu thành tên họ có thể tiên đoán được /nhân cách tính tình /công việc năng khiếu /tình cảm của con người dính liền với cái tên thật của mình do cha mẹ đặt ra .Vấn đề nầy có thể giúp bạn giải thích những thắc mắc ở đây /Nếu bạn cho biết tên thật của mình !1 like
-
Chỉ đường tìm mộ liệt sĩ. Một hiện thực khách quan và bí ẩn. Kính thưa quí vị và anh chị em quan tâm. Từ hàng chục năm nay, bắt đầu từ tiểu luận của giáo sư Trần Phương với tựa đề: "Tìm mộ Liệt sĩ - Một hành trình bí ẩn", đã gây ấn tượng mạnh trong dư luận xã hội. Những ý kiến trái chiều của các nhà nghiên cứu khoa học đã can thiệp sâu vào hiện tượng này. Nhưng hiện tượng này vẫn được tồn tại và gần như công khai hoạt động với sự bảo trợ của Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam, ở số 1 phố Đông Các. Hoạt động tìm mộ của các nhà ngoại cảm Việt Nam đã giúp cho bao gia đình Việt Nam tìm được thân nhân của mình mất tích trong chiến tranh. Đây là một hoạt động mang tính nhân bản góp phần giải tỏa "nỗi buồn chiến tranh"(*) mà lịch sử để lại. Trên thực tế Thiên Sứ tôi cũng chỉ nghe nói và tham khảo qua tài liệu, tuy đã hai lần can thiệp vào việc tìm mộ bằng cách toán quẻ từ xa, nhằm xác định vị trí chính xác của ngôi mộ. Nhưng đây là lần đầu tiên Thiên Sứ tôi trực tiếp tham gia vào công việc này với thân nhân liệt sĩ. Tôi đang ở Quảng Ngãi làm phong thủy cho một thân chủ ở đây, thì nhận được cú điện thoại của một thân chủ cũ. Anh ta có việc ra Quảng Ngãi giúp gia đình bên vợ tìm mộ một người cháu nuôi là liệt sĩ Vũ Văn Sơn, quê ở Lạch Tray Hải Phòng, hy sinh ở Quảng Ngãi năm 1972. Lần trước, anh ta cũng đi tìm mộ và khi đến địa điểm cần tìm, đã được sự tư vấn của tôi, đào lùi hai mét xuống phía Tây Nam và tìm được mộ. Bởi vậy, anh ấy tín nhiệm tôi. Đây không phải lần đầu tiên tôi toán quẻ xác định địa điểm tìm mộ. Lần trước, có một Việt Kiều Úc làm ăn ở Việt Nam, cũng tìm mộ một người thân chết ở bãi biển Cà Mau, cũng đào không thấy và nhờ sự tư vấn từ xa của tôi. Tôi cũng dùng hình thức toán quẻ để xác định địa điểm và cũng tìm được mộ. Tôi ở lại Quảng Ngãi thêm một ngày để chờ thân chủ của tôi ra và cùng đi tìm mộ với toán của anh ấy.Chiều hôm 13 - 7, anh ta xuống sân bay Đà Năng với người em vợ - thân nhân liệt sĩ - và ra Quảng Ngãi vào chập tối hôm đó. Họ cùng ở Khách sạn Sông Trà Petro với tôi. Đây là một khách sạn cao cấp ba sao khá đầy đủ tiện nghi. Sáng hôm sau, anh ta và người em vợ đi xuống Đức Phổ tiền trạm và chờ đoàn tìm mộ gồm các bạn chiến đấu với mấy người bà con từ Hải Phòng đến. Cả ngày hôm sau - 14 - 7 - vì ban ngày tranh thủ vẽ sơ đồ phong thủy cho thân chủ, nên tôi quên không ăn cơm sáng. Chiều tôi đi ăn cơm sớm và bỏ quên điện thoại đang sar pin ở khách sạn. Bởi vậy, suốt buổi chiều tối hôm ây chúng tôi không gặp nhau. Khoảng 9 giờ tối, anh ta vào phòng tôi tỏ ý lấy làm tiếc vì không gặp để cùng đi ăn tối, anh ta muốn giới thiệu tôi với mấy bạn chiến đấu của liệt sĩ. Có điều mâu thuẫn về địa điểm liệt sĩ Sơn hy sinh giữa các nhà ngoại cảm và bạn chiến đấu của ông là: Tất cả các bạn chiến đấu, đều cho rằng vị liệt sĩ này hy sinh ở trận Ba Tơ cách Đức Phổ 30 km. Nhưng các nhà ngoại cảm thì xác định rằng liệt sĩ Sơn hy sinh ở Đức Phổ. Anh Việt - tên thân chủ của tôi - mở cho tôi nghe băng ghi âm của nhà ngoại cảm Năm Nguyện. Trong băng bà Nguyện miêu tả rành rọt về vị trí chôn vị liệt sĩ này và miêu tả chi tiết đường đi xuống mộ. (Khi tôi viết những dòng này việc đi tìm mộ vẫn tiếp tục, bởi vậy tôi sẽ đưa nội dung cuộn băng lên đây sau). Bà vẽ hẳn một bản đồ địa hình khu vực cần tìm. Dưới đây là bản đồ đi tìm mộ Liệt sĩ Vũ Văn Sơn do bà Năm Nguyện phác thảo. Bản đồ phác thảo tổng quát. Cận cảnh chi tiết vị trí mộ liệt sĩ Xác định mục đích của bản đồ và dấu ấn huyền bí của văn minh Lạc Việt. Sau khi đưa tôi nghe băng và bản đồ, anh ta nói với tôi: "Thày ah, sáng nay tôi đi đến thực địa thì có thể nói rất kỳ lạ! Tất cả những địa danh trên bản đồ và những vị trí ghi trên đó, đều có thật". Anh đăm chiêu: "Tại sao, một người ngồi ở Hanoi, cách xa hàng ngàn cây số lại có thể vẽ chính xác bản đồ cùng địa danh một nơi mà họ chưa bao giờ đến nơi? Thậm chí đến cả tên chủ các thửa đất liên quan đến nơi liệt sĩ nằm cũng đúng luôn?". Tôi chỉ cười cười và chẳng nói gì. Anh hẹn tôi 5 giờ sang mai, cùng lên đường đi Đức Phổ. "Ngày mai, mời thày đi cùng chúng tôi. Thày sẽ chứng kiến tất cả sự huyền bí liên quan đến bản đồ này. Nhưng có điều là vị trị mộ liệt sĩ liên quan đến các vật chuẩn định vị cụ thể như con suối, đường mòn và cây mít có sai lệch. Bởi vậy, nhờ thày định vị chính xác một liệt sĩ nằm ở đâu. Gia đình chúng tôi quyết định đi theo hướng những nhà ngoại cảm chỉ dẫn". Tôi tán thành quyết định của anh Việt và gia đình anh ta. Trong điều kiện này, khả năng tiên tri của các nhà ngoại cảm được tín nhiệm hơn trí nhớ. Còn tiếp. ---------------------------------- * Tựa một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Bảo Ninh.1 like
-
1 like
-
Kính chào bác Thiên sứ. Cháu đã đọc nhiều bài viết của anh VULONG này và đưa ra kết luận. Anh này là người không đoàng hoàng, trình độ thì không biết nhưng viết bài lung tung và cháu tin chắc có mưu đồ gì đấy đằng sau. Bác và mọi người cứ tìm bài của VULONG trên các diễn đàn khác thì biết ngay. Chúc bác mạnh khỏe và cháu tin bác sẽ đem lại niền vui lớn cho nhân dân thủ đô vào ngày đại lễ sắp tới.1 like
-
1 like
-
Đúng là diễn đàn bị khóa nhiều chức năng.Mong BQT sớm gỡ bỏ những rào cản này đi. Thân !1 like
-
Ui, anh niubia làm em cảm động quá. Em chỉ sợ chưa kịp cống hiến hết, sang năm anh đã đi lấy vợ như bác Hảithiênhà dự đoán ấy chứ.Ps: Hay là anh đợi đến 32 tuổi mới cưới đi, lúc đó em cũng vừa 28. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/grin.gif1 like
-
Bạn này có vẻ thích phán bừa nhỉ?1 like
-
Vậy bạn cho biết vì sao phải đón 2 lần? Đang năm Tam Tai thì không nên cưới, quan điểm của tôi là vậy, đợi đến năm 2013 hết Tam Tai hãy cưới!1 like
-
Sướng nhá! Sắp lấy được vợ rồi! :P1 like
-
Cái nầy trông như lấy vải thưa mà che mắt thánh .1 like
-
1 like
-
Thế nhân có thói quen - nhìn thấy mới tin - và những thí nghiệm gọi là "Khoa học" là kết quả của sự "nhìn thấy" qua các phương tiện kỹ thuật, cũng là sản phẩm của khoa học ứng dụng. Vấn đề đặt ra là: "Khoa học đã nhìn thấy hết chưa?". Những cái chưa nhìn thấy, chưa được "Khoa học chứng minh" nó sẽ không tồn tại sao? Cách nhìn đó không thuộc về tư duy của khoa học (Nhưng có rất nhiều nhà khoa học - chủ yếu ở Việt Nam có cách nhìn này). Với một quan niệm ấu trĩ và trực quan về khái niệm "khoa học" đó, nó phản ánh một thời kỳ phát triển manh nha của nền khoa học hiện đại và còn ghi dấu ấn đến bây giờ. Các cách phát biểu, đòi hỏi tôi phải thể nghiệm chứng minh điều đó. Tôi đã nói rồi và không nhắc lại: "Mọi chuyện đều có yếu tố cần và đủ". Tôi không "qưỡn" để làm điều này. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà tôi đề nghị ông Vũ Thế Khanh - một lãnh đạo cao cấp của Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam - trong tay có đầy đủ mọi phương tiện - định nghĩa khái niệm "Khoa học" là gì. Và với bất cứ định nghĩa nào do chính ý chí chủ quan của ông ta đưa ra với lực lượng công sự hùng hậu, tôi cũng sẽ lấy ngay định nghĩa đó chứng minh ông ta sai về phương pháp nghiên cứu qua các câu tuyên bố của ông liên quan đến tôi. Lúc ấy tôi sẽ gặp ông Vũ Thế Khanh. Với những thực tại chưa biết đó - nhưng tồn tại khách quan và đang tương tác trên thực tế đã được các cổ thư Đông phương và của nền văn minh tồn tại từ xa xưa nhắc đến, tôi chỉ tổng hợp và tìm hiểu ứng dụng. Bởi vậy, đó là những thực tại chưa được phương tiên khoa học tìm thấy. Bởi vậy, chỉ có thể coi là tương tác gián tiếp qua cách hiểu của thế nhân.Mọi người có quyền giải thích theo cái hiểu của mình. Tôi sẽ không thanh minh dù thất bại hay thành công. Bởi vì tôi không có chủ ý làm việc ầm ĩ việc này. Không phải ngẫu nhiêu, tiêu chí khoa học hiện đại không đặt vấn đề chứng minh cơ chế tương tác qua thực nghiệm. Nó phát biểu như sau: Một lý thuyết - hay một phương pháp khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết những vấn đề và hiện tượng liên quan đến nó một cách nhất quán, có tính hệ thống, tính khách quan, tính qui luật và khả năng tiên tri. Rõ ràng trong tiêu chí này không đặt vấn đề ....thí nghiệm. Thí nghiệm chỉ là khâu xác định lý thuyết và tất nhiên nó phải có điều kiện cần và đủ. Việc xác định không có mưa trong Đại Lễ mang tính ứng dụng một phương pháp có từ lâu trong văn minh cổ nhân loại với những hiệu ứng tương tác mà nên văn minh đó nhận thức được, còn bây giờ thì chưa. Chính tôi đang thực nghiệm. Do đó, tôi có diễn giải thì cũng như Ngô Bảo Châu diễn giải bổ đề toán học mà thôi. Mà có lẽ khó khăn hơn rất nhiều khi chuyển tải thông tin, bởi nhưng khái niệm miêu tả những thực tại "chưa được khoa học chứng minh".1 like
-
Kiếp nghe anh nói tự tin quá,con trai như thế ai yêu,giàu nữa giàu mãi thế thôi.Thay đổi đi anh ạ.Con gái yêu thật sự thì sẽ yêu bằng tình cảm chứ không ai yêu bằng vật chất đâu.Nghe anh nói thì là người coi trọng vật chất hơn tình cảm đấy1 like
-
Vì đây là lá số sinh đôi nên tôi xác định lại xem có đúng không ; dạng người trung bình ,mặt nhỏ gầy ,lưng dầy ,tay chân dài, nước da trắng xám ,da không tuơi ,mắt yếu ,cận hay có bệnh gì ở mắt ,mắt nhỏ hay hí ,một mí , lúc nhỏ mới sinh có tang ai trong gia đình trong vòng năm đó , hay đau yếu bệnh khó nuôi nhưng đến qua 5 t về sau thì sức khỏe tốt ít hay đau yếu ,anh em trong gia đình chỉ được 3 ,có người em hay nhậu nhẹt ăn chơi cũng lắm ...1 like
-
1 like
-
Thưa chú Thiên Sứ Tiến sĩ như ông Khanh - Viêt Nam nhiều lắm - PhD như anh Kakalotta đang theo dõi chuyên mục này ít hơn - nhưng cũng cũng phải dùng số đếm - chứ chú Thiên Sứ - trên rất nhiều mặt - cháu mới thấy có một thôi ạ Chúc chú sức khỏe Tran Anh1 like
-
Bây giờ mua con piggy bank ,mỗi ngày qui định bỏ vào đó bao nhiêu ,không được lấy ra ... đến năm túng thiếu thì đập nó ra có tiền mà tiêu xài .1 like
-
"Dù ai nói ngả nói nghiêng Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân" Một lời gọi Thầy, suốt đời cũng gọi Thầy. Đệ tử và nhiều anh chị, bạn bè trên diễn đàn chỉ thầm cầu nguyện và chúc Thầy thành công trong trận này. Đọc các bình loạn mà bực bội, những ngày này đệ tử nghĩ Thầy đừng vào xem và đừng trả lời gì gì nữa mà hãy tập trung thời gian, sức lực, tinh thần cho lần ra quân này. Đây là một cơ hội tốt để cả nước biết đến trang web của chúng ta và quan tâm hơn đến vấn đề mà Thầy và các anh chị đang theo đuổi. Mong Thầy tập trung giữ gìn sức khỏe.1 like
-
Tôi bị đau nhứt lưng 12 năm, nằm ngồi không được, đi đứng điều đau nhứt, nhất là cứ tầm từ tháng 9 trở đi thì bệnh trạng rất nặng đến tháng tháng 2 năm sau. chụp film bác sĩ nói bị gai cột sống, sau đó có lần bị thoát vị đĩa đệm, bị liệt luôn, sau đó bớt, gần đây đau không chịu nổi. Tình cờ đi ăn sáng gặp một người bạn già chỉ cho LẤY CỦ CẢI TRẮNG LÁT MỎNG ĐẮP VÀO CHỖ BỊ ĐAU SẼ HẾT. Tôi làm việc này sau 1 đêm đã khỏi, sau 3 đêm thấy bình phục hoàn toàn. Tôi đang tiếp tục làm, kết quả thật tuyệt vời, nhưng không biết là sẽ bớt hẳn luôn kg. Nhưng thật là diệu kỳ, sau 1 đêm tôi cử động mọi động tác điều kg đau. Các bạn và gia đình làm thử.1 like
-
TỔNG HỢP THÔNG TIN DỰ BÁO VỀ CAO LY LÀM TƯ LIỆU THỐNG KÊ - Hào 6 quẻ Thuần Cấn: "Đôn Cấn, cát" - Nghiệm: trong 7 ngày đầu tháng 9, trọn làm tâm điểm (dư khí của Tân kim 7 ngày). Hàn Quốc không coi Bắc Triều Tiên là kẻ địch? 20/09/2010 15:43 (VTC News) - Hãng thông tấn Yonhap ngày 20/9 đưa tin, nhiều khả năng sách trắng quốc phòng Hàn Quốc năm nay sẽ bỏ sử dụng cách gọi Bắc Triều Tiên là kẻ địch chủ yếu. http://www.vtc.vn/311-262368/quoc-te/han-q...-la-ke-dich.htm Kính gửi Anh Thiên Sứ Học thuyết Lạc Việt Độn Toán mà Anh đã xây dựng nên, so với cách thức mà Tôi áp dụng Huyền Phạm Tiết Yếu - Thái Ất Di Thư của Trạng Nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, đã cùng thống nhất có tiếng nói chung về độ chính xác của thông tin dự báo. Xin được chúc mừng Anh, khôi phục lại những Di sản Văn hiến Lạc Việt. Hà Uyên1 like
-
Tóm lại là họ đã không hiểu và còn hiểu sai nữa. Chán wá -_- .Tôi đang bận túi bụi. Tôi chỉ cần thực tế xác định là - ít nhất - bẩy ngày lễ hội không mưa trên bầu trời Hanoi với bán kính tối thiểu 75 km là xong việc của tôi. Chuyện thường ngày ở huyện Lý học Đông phương. Có gì đâu mà ầm ĩ. Nếu chẳng may nó đúng mà ai khen tôi giỏi quá tôi cũng buồn.1 like
-
Con vật có thể dự đoán được rất lâu đấy, chỉ có điều nó không tuyên bố được, không nâng lên thành học thuyết được.1 like
-
Hoàng Anh đã nhân 6.750.000d tiền sữa chữa chùa. Viêc sữa chữa phát sinh thêm 1. Chống thấm tolet 2. Làm biển hiệu 3. Ngăn phòng tại tầng trệt 4. Chuyển từ đâp phá hòn non bộ sang làm đài hoa sen Đến nay công viêc sữa chữa cơ bản đã hoàn thành, còn lắp biển và vẽ hoa sen là xong. Chi phí phát sinh và hình ảnh hoàng anh sẽ cập nhât sau.1 like
-
Không gian đa chiều, hay là con đường vào cõi âm. Hàng ngày, tôi và bạn cùng nhìn ngắm ánh sáng mặt trời ló dạng từ đằng đông, những tia nắng vàng đỏ xuyên qua từng tầng mây, sưởi ấm và lo toan cuộc sống của muôn loài. Ai mà không yêu dòng sông nước trong xanh thong thả rong chơi, nâng niu từng đàn tôm cá vào lòng, cất tiếng hát ầu ơ, dưỡng dục thành hình. Bên kia bờ, dăm ba chòm cây phơi mình trong nắng sớm, sau buổi tắm sương với vòi sen của đất trời. Vậy là, điều tồn tại xung quanh ta, trước mắt ta, được khoa học gọi là không gian ba chiều. Nhưng, liệu ngoài những thứ ta đụng chạm, ta nâng niu hàng ngày kia ra; còn có chiều không gian thứ tư, hay thứ năm nào nữa hay không? Vì sao, trong giấc mơ, đôi khi tôi lại thấy mình đi lạc vào nơi không thấy tồn tại trên cõi trần này. Đấy là, tôi hả hê trong ngôi nhà dát vàng óng ánh, hay bay lơ lững trong không gian với cảm giác sung sướng thanh thảng tột cùng. Nhưng khi tỉnh giấc, tôi mường tượng mình vừa trải nghiệm qua một điều gì, chứ chẳng phải mơ. Có phải chăng, với tôi thực và mơ đã trộn lẫn vào nhau rồi? Nhưng lạ lùng thay, những cuộc lên đồng, gọi hồn người chết, tìm mộ liệt sĩ, xãy ra rầm rộ ở đất nước ta, trong thời gian vừa qua, lại không phải là một cơn mê sảng. Thực tại hiện hình kia, vội vã gây nhiều tranh cãi ở khắp nơi. Loại bỏ những lý lẽ bác bỏ cho rằng, thầy đồng giở trò bịp đằng sau tấm màn huyền bí; hay đấy là cơn điên loạn của trào mê tín dị đoan còn tồn tại từ thời con người “ăn lông ở lổ”. Nhưng vậy ai đủ khả năng bác bỏ sự tồn tại linh hồn người sau khi chết, khi mà niềm tin đó đã tồn tại từ lâu lắm với những người theo duy linh thuyết, hay Phật giáo. Linh hồn tồn tại. Nhưng họ sống ở đâu, thiên đàng hay địa ngục. Thiên đàng, phải chăng được xây dựng trong những tầng mây màu sắc, trên bầu trời thăm thẳm kia? Hay là vương ra tận ngoài không gian vũ trụ xa tít, trên một hành tinh trôi nổi bồng bền trong Thái dương hệ mông mênh, mà chẳng có họng kính viễn vọng tối tân nào có một giây cơ hội nhìn thấy nó. Và địa ngục, liệu có phải cư ngụ dưới lòng đất ngầm sâu thẳm tối tăm, có khi, vào tận bên trong lõi địa cầu đang sôi sùng sục, nơi chưa một mũi khoan nào của con người xuyên tới được. Hay là nó ở Becmuda, cánh cửa vào âm ti, vùng cấm địa đã nuốt chửng rất nhiều thuyền bè, phi cơ, của con người trên thế giới. Như vậy, thực sự tồn tại một chiều không gian khác ngoài những chiều không gian hiện tại. Giới khoa học đang xét lại, và cũng bắt đầu nghiên cứu và tiến đến nhìn nhận điều này. Bà Lisa Randall trong quá trình thí nghiệm về hạt cơ bản, bất ngờ phát hiện thấy có những hạt bổng dưng hô biến. Bà liền đưa giả thuyết: “Tôi cho rằng trên Trái đất có tồn tại không gian chiều thứ 5. Nếu giả thiết này là đúng thì thực ra các không gian khác không ở xa chúng ta, thậm chí có thể nói chúng ở cách ta trong gang tấc. Chỉ có điều chúng ẩn giấu rất khéo cho nên ta không nhìn thấy mà thôi.” [1] Các thuyết lý thuyết vật lý hiện đại, như thuyết String, cho rằng. Ở các khoảng không gian cực hẹp (cấp độ nanomét), không gian sẽ bị "cuộn" lại trong các chiều khác (có thể là chiều thứ 4, thứ 5 hoặc nhiều hơn). Điều này sẽ làm thay đổi lực hấp dẫn giữa các vật thể trong không gian đó. Vì thế, nếu người ta xây dựng được một thí nghiệm để chỉ ra sự thay đổi này của lực hấp dẫn, thì người ta có thể kết luận rằng, có chiều không gian thứ 4. [2] Tại Đại học Duke và Rutgers, các nhà khoa học cùng hợp sức phát triển một mô hình toán học, mà họ cho rằng sẽ giúp các nhà thiên văn học thử nghiệm định luật hấp dẫn trong không gian 5 chiều đo, để đối chiếu với Thuyết tương đối tổng quát của của Anh-xtanh. Lý thuyết này cho rằng, vũ trụ hiện tại là một màng (braneworld) nằm trong một vũ trụ lớn hơn, giống như một sợi tảo mỏng nổi trên đại dương. Vũ trụ màng có 5 chiều: 4 chiều không gian, 1 chiều thời gian; so với 3 chiều không gian, 1 chiều thời gian của Thuyết tương đối tổng quát. Họ còn nói, “nó sẽ làm đảo lộn các lý thuyết hiện tại. Nó sẽ xác nhận rằng còn có một chiều thứ 4 của không gian, và nó sẽ tạo ra một sự thay đổi về triết học trong hiểu biết của chúng ta về thế giới tự nhiên”. [3] Hội Thông Thiên Học thông qua việc tập hợp các tài liệu tôn giáo cổ xưa và thực hành khoa yoga, đã cho rằng, trong không gian tồn tại ít nhất 7 chiều đo. Cõi Trung giới có 4 chiều đo, cõi Trí tuệ có 5 chiều đo và cõi Bồ đề có 6 chiều đo [4]. Mỗi cõi này được cấu tạo bằng những vật chất khác nhau, cho nên, người ở cõi dưới không thể thấy được vật chất ở các cõi cao hơn. Các chiều đo này tồn tại cùng một nơi, nghĩa là có 7 chiều đo ở trong một không gian. Sự khác nhau “là do tầm nhận thức hạn hẹp” của con người với sự vật, và “thời gian thực ra không phải là chiều đo thứ tư” [4] như Thuyết tương đối tổng quát trình bày. “Việc nghiên cứu về chiều đo thứ tư dường như đưa thẳng ta tới Thần Bí Học” [4], cho nên thật khó có hi vọng con người với nền khoa học hiện tại, mà tìm kiếm được đường vào không gian thứ 4. Chỉ có “vứt bỏ bản ngã”, “đặt căn cứ và bắt rễ nơi tình thương, có thể cùng với chư thánh hiểu được thế nào là chiều rộng, chiều dài, chiều sâu và chiều cao” [5]. Nói theo Duy linh thuyết của nhân gian, cõi âm, tức là chiều không gian thứ 4 mà khoa học đang tìm kiếm. Cõi này Thông Thiên Học gọi là Trung giới. Và con người chúng ta, dầu còn sống hay đã chết, đều đã bước đi trên đó ít nhiều. Người chết chuyển hẳn sang cõi đó, và người sống thì phiêu bồng bên ấy trong giấc ngủ - mà ta thường gọi là mộng mị hay giấc mơ [6]. ------ [1] khoahoc.com.vn/cau-chuyen/17886_Giao-su-Nguoi-dep-va-Khong-gian-chieu-thu-5.aspx [2] Chứng minh chiều không gian thứ tư bằng thực nghiệm? - vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2002/11/3B9C21CF/ [3] diendan.vietgiaitri.com/lofiversion/index.php?t29941.html [4] Chương 15: Chiều đo thứ 4. Quyển Thể vía (A.E.Powel) – Bản dịch: Chơn Như -thongthienhoc.com/baivo%20chieu%20do%20thu%20tu.htm [5] Thư gửi tín hữu Ephesians iii, 17-18 [6] Thể vía. Quyển Chơn nhơn và các hạ thể (Annie Besant). Bản dịch: Chơn Như (thongthienhoc.com)1 like
-
Quốc Tuấn khách sáo quá Mình cũng chứng kiến vài lá số Liêm Tham Tỵ Hợi và có nhiều thắc mắc với bác Haithienha, có những lá số rất tốt mà vẫn cứ tù. Ngoài Tuần Triệt chỉ có Hóa Kỵ mới giải được - rất lạ với sao này :) . Lá số cô chị có cậu em ở tù ở mục Trao đổi học thuật để Quốc Tuấn tham khảo: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...amp;#entry945091 like
-
Cái nhà bán hàng của Trung Quốc và nhà bảo tàng của Hanoi, thoạt nhìn thì giống. Nhưng chức năng sử dụng khác nhau. Nhìn nhà bán hàng của Trung Quốc giống một cái mũ cổ, nhà cao. Còn bảo tàng Hanoi thì thấp, giống cái mũ đặt trên mặt đất. Nhà bảo tàng Hanoi Âm khí vượng, còn của Trung Quốc thì không. Do nhà bán hàng Trung Quốc đặt trên nền cao và có khoảng không gian trống ở giữa. Cấu trúc hình thức thanh thoát hơn.1 like
-
Chụp ảnh "người âm": Giải mã vòng tròn ánh sáng 11/04/2010 14:08 (GMT +7) Như đã giới thiệu trong bài báo trước, đã có nhiều người chụp được những vòng tròn ánh sáng trong tấm ảnh của mình. Trong bài viết dưới đây, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải - Chủ nhiệm của đề tài "Nghiên cứu những vòng tròn ánh sáng và mối liên hệ của chúng với thế giới tâm linh" sẽ giới thiệu chi tiết hơn về vấn đề này. "Khi ẩn khi hiện" Đề tài "Nghiên cứu những vòng tròn ánh sáng và mối liên hệ với thế giới tâm linh" được bắt đầu với tấm ảnh chụp ngôi nhà ma Đà Lạt có vòng tròn rất sáng. Sau khi được các nhà ngoại cảm của trung tâm cho biết vòng tròn đó là ảnh chụp trạng thái của một vong, tôi đã quyết định không theo đoàn của trung tâm về Hà Nội mà ở lại Đà Lạt tiếp tục chụp ảnh ngôi nhà ma lúc sáng sớm và khi tối trời. Để loại bỏ hiện tượng vòng tròn là lỗi của ống kính, ngôi nhà ma được chụp nhiều tấm liên tiếp cùng một góc cố định, cho thấy một số vòng tròn xuất hiện với kích thước khác nhau và ở vị trí khác nhau. Nếu sự xuất hiện vòng tròn là lỗi của ống kính thì vòng tròn đó phải xuất hiện cùng ở một vị trí trên khuôn hình. Đằng này lại không phải như vậy có lúc chụp được, có lúc không, dường như những vòng tròn ấy "khi ẩn khi hiện". Từ đó đã bắt đầu việc nghiên cứu mở rộng để tìm hiểu xem những nơi nào có những vòng tròn như vậy. Đề tài được thực hiện tại nhiều địa điểm khác nhau trên đất nước từ Hà Nội, TP.HCM đến Hải Phòng, Lào Cai, thậm chí ở Vân Nam (Trung Quốc). Vòng tròn ánh sáng xuất hiện khi chụp ảnh một ngôi nhà tại Đà Lạt (Lâm Đồng). Riêng ở Hà Nội cũng đã chụp ở rất nhiều nơi được coi là nhạy cảm như các nhà tang lễ, "chợ âm phủ" 19 - 12, nhà Đề Lao trung ương, sông Tô Lịch, nghĩa trang Văn Điển. Riêng ở nghĩa trang Văn Điển, tôi đã ngồi từ 4h30 chiều cho đến 8h tối, khi bóng đêm chìm dần và đã thu được những tấm ảnh đặc biệt. Khi truy cập để tìm tài liệu trên thế giới, tôi đã bắt gặp những trang web giới thiệu về những vòng tròn như vậy. Họ gọi những vòng tròn như vậy là các orbs, lấy gốc từ chữ orbita có nghĩa là những vòng tròn. Họ cũng chụp những vòng tròn như của ta ngẫu nhiên, thu hút nhiều người đưa lên mạng những tấm ảnh đặc biệt mà mình chụp được. Trong phần tranh luận cũng có những ý kiến trái chiều, có người cho đó là ảnh các vong vì không thể liệt vào các lỗi quang học, người thắc mắc tại sao lại có nhiều vong thế?... Những tấm ảnh đưa lên mạng phần lớn là do những người chụp ngẫu nhiên thấy ảnh lạ thì gửi vào trang web orbs.photos để đóng góp, nhưng đó không phải là những nghiên cứu có hệ thống! Nghiên cứu có hệ thống Vấn đề đặt ra là tại sao trước đây, hiện tượng này chưa được phát hiện? Vì trước đây chúng ta chỉ có máy ảnh chụp phim, có độ nhạy cảm không cao, một cuộn phim nhiều nhất cũng chỉ có 36 kiểu, chỉ được chụp vào những mục đích thông dụng. Khi in ảnh ra nếu thấy có những vòng tròn thì họ quy ngay là do lỗi kỹ thuật. Đó chính là trường hợp tấm ảnh in trên báo Lao động vào cuối năm 2009 về một tại nạn giao thông trên đường Phạm Hùng (Hà Nội). Ảnh chụp hiện trường lúc 8h tối, do cơ quan công an chụp. Trong tấm ảnh có nhiều vòng tròn sáng nơi xảy ra tai nạn mà người ta cho là lỗi kỹ thuật nên không để ý. Phương pháp nghiên cứu trong đề tài của chúng tôi là nghiên cứu một cách có hệ thống: Sử dụng kết hợp các ảnh chụp kỹ thuật số và các ảnh chụp bằng phim để chứng minh rằng ảnh các vòng tròn là có thực chứ không phải chế tác bằng máy vi tính. Khi thấy một nơi đã có vòng tròn ánh sáng sẽ chụp liên tiếp từ 20 - 30 kiểu, dưới cùng một góc để phát hiện động thái của những vòng tròn. Các địa điểm này, được chụp nhiều lần, ở nhiều thời gian và thời điểm khác nhau. Khi phóng to một số vòng tròn, ta thấy một số trong chúng có những cấu trúc bên trong rất rõ rệt và gần như thống nhất ở những tấm ảnh chụp ở nhiều nơi khác nhau. Rất nhiều tấm ảnh cho các vòng tròn có dạng một mặt người, với hai cái mắt, cái mũi và cái miệng (kiểu như hình vẽ mặt trời, mặt trăng có mặt mũi dưới dạng các vòng tròn. Chúng tôi đã thu được những tấm ảnh các vòng tròn chuyển động thành các quỹ đạo, kéo dài thành một vệt sáng, trong vệt sáng này vẫn có những vòng tròn như đang chuyển động. Có những tấm ảnh cho thấy các vòng tròn chuyển động thành những vệt phức tạp, trong vệt vẫn có những vòng tròn như đang trượt trên quỹ đạo. Chính những tấm ảnh này đã khiến hội đồng thẩm định khẳng định đây không phải là lỗi kỹ thuật mà là vấn đề rất phức tạp mà cần tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên, khi những nhà ngoại cảm chụp được chân dung các liệt sĩ và những người đã mất khác thì đó mới thực sự là chụp được ảnh người âm. Theo NNC Nguyễn Phúc Giác Hải1 like
-
Rin86 à, Thiên Đồng phong cho Rin86 là Tiến Sĩ thực thụ với cả sự nể phục. Tiến Sĩ của lòng tôi.1 like
-
Giỏi lắm Rin86. Chú cảm ơn Rin86 rất nhiều. Đâu cứ phải giáo sư tiến sĩ nghe lùng bùng lỗ tai. Vấn đề là phương pháp nghiên cứu khoa học. Mấy cái chức danh nghe lùng bùng lỗ tai ấy quan niệm cho rằng: "Thời Hùng Vương dân ta chỉ là một liên minh 15 bộ lạc với những người dân ở trần đóng khố". Sao họ không giải thích y phục của các dân tộc ít người trên đất Việt từ đâu mà ra? Chú rất hy vọng Rin86 sẽ tiếp nối minh chứng cho nền văn hiến huyền vĩ Việt - ít nhất ở mảng y phục và dụng cụ sinh hoạt trong mối liên hệ giữa các nền văn minh. Từ sự minh chứng mối liên hệ giữa y phục các dân tộc cổ đại - sẽ chỉ ra sự thống nhất văn hóa trong một nền văn minh cổ xưa đã sụp đổ: Nền văn minh đã tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ hành - lý thuyết thống nhất mà nhân loại hiện đại đang tìm kiếm. Chú thật sự vui mừng vì tài năng của Rin86 trong việc phát hiện so sánh xuất sắc như vậy. Khi nào có thời gian Rin86 viết hẳn một tiểu luận về y phục cổ Lạc Việt - phát triển trên cơ sở luận đề của chú. Chú sẽ hướng dẫn. Chúc Rin86 thành công trong việc nghiên cứu của mình.1 like
-
4. Ảnh hưởng dương, vượng của trường khí Vũ trụ trong năm tới Trái đất. Ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ tới Trái đất là ảnh hưởng thông qua trường khí cảm ứng trên Trái đất bằng những dòng khí âm có tác dụng tạo nên xu hướng biến đổi, phát triển, tạo ra cái mới trong sự vật. Ảnh hưởng dương của trường khí Vũ trụ tới Trái đất cũng đặc trưng bằng dòng khí dương có xu hướng bảo tồn, ổn định, trở về bản chất những yếu tố của sự vật. Ảnh hưởng vượng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất lại đặc trưng bằng dòng vượng khí có tác dụng phát triển hưng vượng cho những yếu tố tương ứng trong sự vật. Sự so sánh các ảnh hưởng âm, dương, vượng theo bảng sau: Tiến hành khảo sát ành hưởng dương, vượng của trường khí Vũ trụ lên Trái đất tương tự như đối với ảnh hưởng âm ta thấy có thể xác định các cung ảnh hưởng âm theo tiết khí, vòng thiên can, giờ sang ảnh hưởng dương, vượng như sau: a/.Ảnh hưởng theo mùa: b. Ảnh hưởng theo tiết: c. Ảnh hưởng theo tiết khí: d. Ảnh hưởng theo vòng Thiên can: Muốn xác định độ số thời diểm khảo sát ở cung nào (cột nào) ta căn cứ vào bảng phù đầu nghi Giáp sau: e. Ảnh hưởng theo giờ: Khi xác định được độ số của cung ảnh hưởng theo vòng Thiên can (x1), lập bảng Nghi Kỳ vá ghi độ số can Mậu là độ số đó (x1): Thứ tự x1, x2, x3, x4, x5, x6, x7, x8, x9, là các cung, tùy theo khảo sát ảnh hưởng âm, dương, vượng theo thứ tự: - Đối với ảnh hưởng âm: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 - Đối với ảnh hưởng dương: 1, 3, 8, 4, 9, 7, 2, 5, 6 - Đối với ảnh hưởng vượng: 1, 8, 3, 2, 7, 5, 4, 9, 6 Hoặc theo bảng sau: Xem Thiên can giờ khảo sát, căn cứ vào bảng Nghi Kỳ vừa lập ta biết được cung ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo giờ. e. Cung cảm ứng: - Cảm ứng theo thời gian vòng Thiên can: Cung vòng Thiên can cảm ứng lên địa bàn vào cung có độ số tương ứng theo nguyên tắc: + Nam-Khôn, Nữ-Cấn đối với ảnh hưởng âm. + Nam-Càn, Nữ-Đoài đối với ảnh hưởng dương. + Nam-Càn, Nữ-Khôn đối với ảnh hưởng Vượng - Cảm ứng theo giờ: Đếm từ độ số Cung Sao vòng Thiên can (âm, dương, Vượng) bắt đầu từ Địa chi của cung này tới Địa chi giờ khảo sát theo chiều thuận hay nghịch tùy vào bảng độ số các Sao ở trên (thuận hay nghịch) theo thứ tự dưới đây ta được độ số cung Sao cảm ứng theo giờ vòng Thiên can của ành hưởng âm từ Mặt trời tới sự vật trên Trái đất. Địa chi Sao Vòng Thiên can ------------------> Địa chi giờ khảo sát Độ số Sao vòng Thiên can -------------------> Độ số cung cảm ứng + Thứ tự đếm đối với ảnh hưởng âm: 1,2,3,4,5,6,7,8,9,1,2,3,4,5,6,7,8,9, … + Thứ tự đếm đối với ảnh hưởng dương: 1,3,8,4,9,7,2,5,6,1,3,8,4,9,7,2,5,6, ... + Thứ tự đếm đối với ảnh hưởng vượng: 1,8,3,2,7,5,4,9,6,1,8,3,2,7,5,4,9,6, … Như vậy, qua phần nghiên cứu này ta đã xem xét ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo thời gian tới đơn vị nhỏ nhất là giờ một cách tương đối toàn diện (gồm đủ các tương tác âm, dương, vượng). Kết quả được tổng kết trong bảng sau: + S : Sao đại diện trường khí Vũ trụ ảnh hưởng tới Trái đất gồm 8 Sao: Nhất bạch Nhị hắc Tam bích Tứ lục Ngũ hoàng Lục bạch Thất xích Cửu tử + T : Tiết: gồm 8 tiết trong năm: Đầu, cuối của 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông + Quái: Quái đại diện tính chất của Sao. Có 8 Quái là: CÀN, KHẢN, CẤN, CHẤN, TỐN, ĐOÀI, LY, KHÔN. + Cung tiết khí: T- : Độ số cung ảnh hưởng âm của trường khí theo tiết. T+ : Độ số cung ảnh hưởng dương của trường khí theo tiết. T> : Độ số cung ảnh hưởng vượng của trường khí theo tiết + Cung vòng Thiên can: * Cung Chủ: TP- : Độ số cung ảnh hưởng âm của trường khí theo vòng thiên can hay Trực phù (Trực phù âm) TP+: Độ số cung ảnh hưởng dương của trường khí theo vòng thiên can hay Trực phù dương TP>: Độ số cung ảnh hưởng vượng của trường khí theo vòng thiên can hay Trực phù vượng * Cảm ứng lên sự vật: TS- : Độ số cung cảm ứng ảnh hưởng âm của trường khí theo vòng thiên can hay Trực sử (Trực sử âm) TS+: Độ số cung cảm ứng ảnh hưởng dương của trường khí theo vòng thiên can hay Trực sử dương TS>: Độ số cung cảm ứng ảnh hưởng vượng của trường khí theo vòng thiên can hay Trực sử vượng + Cung giờ: * Cung Chủ: tp- : Độ số cung ảnh hưởng âm của trường khí theo giờ hay Sao sa Trực phù (Trực phù âm) xuống Địa bàn tp+: Độ số cung ảnh hưởng dương của trường khí theo giờ hay Sao sa Trực phù dương xuống Địa bàn tp>: Độ số cung ảnh hưởng vượng của trường khí theo giờ hay Sao sa Trực phù vượng xuống Địa bàn * Cảm ứng lên sự vật: ts- : Độ số cung cảm ứng ảnh hưởng âm của trường khí theo giờ hay Sao sa Trực sử (Trực sử âm) xuống Địa bàn ts+: Độ số cung cảm ứng ảnh hưởng dương của trường khí theo giờ hay Sao sa Trực sử dương xuống Địa bàn ts>: Độ số cung cảm ứng ảnh hưởng vượng của trường khí theo giờ hay Sao sa Trực sử vượng xuống Địa bàn Ví dụ: Cần biết sự việc ra sao vào giờ Tân Mão, ngày Giáp Dần, tiết Đông chí, Hạ nguyên. Bước 1: Xác định số thứ tự vòng Thiên can trong Tiết khí: Theo bảng trên, giờ Tân Mão thuộc phù đầu nghi Giáp Thân, vòng thiên can thứ 3 của tiết khí Đông chí, tiết cuối Đông, quái Khảm độ số 1, Sao Nhất bạch. Bước 2: Xác định Trực phù, Trực sử theo bảng Theo bảng này: - Ảnh hưởng âm: + Trực phù âm TP- độ số 6 ---> THIÊN TÂM / 6 + Trực sử âm TS- độ số 6 ---> KHAI MÔN /6 - Ảnh hưởng dương: + Trực phù dương TP+ độ số 7 ---> THIÊN TRỤ / 7 + Trực sử dương TS+ độ số 7 ---> KINH MÔN / 7 - Ảnh hưởng Vượng: + Trực phù vượng TP> độ số 7 ---> THIÊN TRỤ / 7 + Trực sử vượng TS> độ số 7 ---> KINH MÔN / 7 Bước 3: Xác định Sao sa Trực phù: Lập bảng Nghi Kỳ: (độ số cột 1, 2, 3 tương ứng cho ảnh hưởng âm, dương, vượng) Theo bảng Nghi Kỳ này thì độ số ứng với giờ Tân Mão là: + Ảnh hưởng âm: độ số tp- = 9, Trực phù âm: THIÊN TÂM / 9 + Ảnh hưởng dương: độ số tp- = 6, Trực phù dương: THIÊN TRỤ / 6 + Ảnh hưởng vượng: độ số tp- = 9, Trực phù vượng: THIÊN TRỤ / 9 Bước 4: Xác định Sao sa Trực sử: Lập bảng (độ số cột 1, 2, 3 tương ứng cho ảnh hưởng âm, dương, vượng) Theo bảng Nghi Kỳ này thì độ số ứng với giờ Tân Mão là: + Ảnh hưởng âm: độ số ts- = 4, Trực phù âm: KHAI MÔN / 4 + Ảnh hưởng dương: độ số ts- = 2, Trực phù dương: KINH MÔN /2 + Ảnh hưởng vượng: độ số ts- = 4, Trực phù vượng: KINH MÔN / 4 Bước 5: Lập hệ thức lượng Độn Giáp: - Đối với ảnh hưởng âm: THIÊN TÂM / 6 KHAI MÔN /6 THIÊN TÂM / 9 KHAI MÔN / 4 - Đối với ảnh hưởng dương: THIÊN TRỤ / 7 KINH MÔN / 7 THIÊN TRỤ / 6 KINH MÔN /2 - Đối với ảnh hưởng vương: THIÊN TRỤ / 7 KINH MÔN / 7 THIÊN TRỤ / 9 KINH MÔN / 4 Tóm tắt kết quả trong bảng như sau: Như vậy, hệ thức lượng Độn Giáp chúng ta lập được phong phú, nhiều thông tin gấp 3 lần so với cổ thư chũ Hán truyền lại. Điều quan trọng là ta đã hiểu bản chất của các thông tin đó là gì. Các cung Trực phù, Trực sử, Sao sa Trực phù, Sao sa Trực sử, Cung tiết khí thực chất là các cung cư ngụ của Sao Tiết (ở ví dụ này là sao Nhất bạch thuộc quái Khảm). Các sao khác cư ngụ ở các cung còn lại theo đồ hình phân bố các Sao đã nghiên cứu ở trên. Ở ví dụ này, sự phân bố các Sao như sau: - Sao Tiết: Sao Nhất bạch đóng ở cung cục số 1, quái Khảm. Các Sao khác phân bố như sau: Sao Tiết khí: Cả 3 ảnh hưởng âm, dương, vuợng đều thể hiện sao Nhất Bạch đóng ở cung cục số 1, quái Khảm (Cung tiết khí đều là 1). Trong trường hợp tổng quát, có thể chúng ở các cung khác nhau. Các Sao ảnh hưởng theo Tiết khí phân bố như sau: - Sao vòng Thiên can: + Sao vòng Thiên can ảnh hưởng âm cũng chính là sao Tiết khí (Nhất bạch), nhưng đóng ở cung có cục số là 6. + Sao vòng Thiên can ảnh hưởng dương cũng chính là sao Tiết khí (Nhất bạch), nhưng đóng ở cung có cục số là 7. + Sao vòng Thiên can ảnh hưởng vượng cũng chính là sao Tiết khí (Nhất bạch), nhưng đóng ở cung có cục số là 7. Phân bố các sao khác như sau: - Sao theo giờ: Sao theo giờ cũng là Sao vòng Thiên can hay sao Tiết khí (Nhất bạch) nhưng đóng ở các cung khác nhau. + Trực phù âm, dương, vượng đóng ở các cung 9, 6, 9 có phân bố các sao như sau: + Trực sử âm, dương, vượng đóng ở các cung 4, 2, 4 có phân bố các sao như sau: Như đã biết, sao cảm ứng lên sự vật khong đóng ở cung trung ương. Các sao này khi lâm lào trung cung thì tuỳ theo sự vật tính âm hay dương mà phân bố vào các cung khác theo nguyên tắc ứng với ảnh hưởng âm, dương hay vượng là “Nam-Khôn Nữ-Cấn”, “Nam-Càn Nữ-Đoài” hay “Nam-Càn Nữ-Khôn”. Do đó, Trực sử trong trường hợp này như sau: · Đối với trường hợp sự vật dương tính: · Đối với trường hợp sự vật âm tính: Tổng hợp các kết quả ví dư trên ta được bảng phân bố ảnh hưởng của truờng khí Vụ trụ tới Trái đất vào giờ Tan Mão, ngày Giáp Dần, tiết Đông chí, Hạ nguyên như sau: (Những ô tô màu đỏ chỉ cung Sao chủ đóng)1 like
-
3. Môn Độn Giáp và trường khí Vũ ảnh hưởng tới Trái đất: Trong môn Độn giáp các Sao Trực phù, Trực sử tương ứng với ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ lên Trái đất như những nghiên cứu trên như sau: - Cung Sao âm ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo vòng Thiên can (Cung chủ) được gọi là Trực phù. - Cung Sao âm ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo giờ (Cung chủ) được gọi là Trực phù sa Địa bàn. - Cung Cảm ứng Sao âm ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo vòng Thiên can lên sự vật trên Trái đất được gọi là Trực sử. - Cung cảm ứng Sao âm ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo giờ lên sự vật trên Trái đất được gọi là Trực sử sa Địa bàn. Như vậy, thực chất của môn Độn Giáp theo cổ thư truyền lại là một môn khảo sát trường khí của Vũ trụ ảnh hưởng tới Trái đất, trong việc dự đoán tương lai. Để chứng minh điều đó, tôi xin mô tả lại những nét chính trong việc xác định các Sao cơ bản nhất của môn này là Trực phù, Trực Sử, Trực phù sa Địa bàn, Trực sử sa Địa bàn qua một ví dụ. Ví dụ: Cần biết sự việc ra sao vào giờ Tân Mão, ngày Giáp Dần, tiết Đông chí, Hạ nguyên. Bước 1: Tra bảng Nghi kỳ, biết được tiết Đông chí, Hạ nguyên thuộc Dương Độn 4 cục: Bước 2: Lập bảng Nghi Kỳ. Bảng Nghi Kỳ là bảng có cấu trúc sau, cho Dương Độn và Âm Độn: + Dương độn + Âm độn Mậu Tân Ất Mậu Tân Ất Kỷ Nhâm Bính Kỷ Nhâm Bính Canh Quí Đinh Canh Quí Đinh Chiều mũi tên là chiều tăng dần của số cục các Sao cho các Thiên can. Can Mậu được ghi cục số của quẻ độn. Ở ví dụ này là dương độn 4 cục, can Mậu được ghi số 4. Bảng Nghi Kỳ có các độ số như sau: + Dương độn Mậu 4 Tân 7 Ất 3 Kỷ 5 Nhâm 8 Bính 2 Canh 6 Quí 9 Đinh 1 Bước 3: Xác định Trực Phù, Trực Sử: Căn cứ vào bảng Phù đầu nghi Giáp để xem giở khảo sát tương ứng với Can nào trong bảng Nghi Kỳ: Như vậy, giờ Kỷ Sửu thuộc phù đầu nghi Giáp Thân, tương ứng (ẩn trong)Can Canh. Trên bảng Nghi Kỳ can Canh có độ số 6. Theo bảng sau xác định Trực Phù, Trực sử: Như vậy Trực phù và Trực sử là: THIÊN TÂM / 6 KHAI MÔN / 6 Bước 4: Xác định Trực phù gia vào cung nào trên Địa bàn: Giờ khảo sát là Tân Mão có can Tân độ số 7 trên bảng Nghi Kỳ nên Trực phù gia vào cung 7 trên Địa bàn. THIÊN TÂM / 7 Bước 5: Xác định Trực Sử gia vào cung nào trên Địa bàn: Muốn xác định Trực Sử gia trên cung nào phải theo các qui tắc sau a. Xác định giờ khảo sát thuộc phù đầu nghi nào b. Tính từ Địa chi phù đầu nghi đó cho tới giờ khảo sát bắt đầu từ độ số của Trực sử, ta biết được Trực Sử gia vào cung số mấy trên địa bàn (tính theo Địa chi) Nếu Trực Sử được cung Trung (số 5) thì với dương độn Trực Sử gia Tử Môn, âm độn thì Trực Sử gia Sinh Môn. Trở lại ví dụ trên ta thấy: - Theo bảng phù đầu nghi Giáp, giờ Kỷ Sửu thuộc phù đầu nghi Giáp Thân, có độ số Trực sử là 6 Giáp Thân, Canh 6 Ất Dậu 7 Bính Tuất 8 Đinh Hợi 9 Mậu Tý 1 Kỷ Sửu 2 Canh Dần 3 Tân Mão 4 Vậy, Trực Sử gia lạc cung 4 – KHAI MÔN / 4 Như vậy, hệ thức lượng Độn Giáp là: THIÊN TÂM / 6 KHAI MÔN / 6 THIÊN TÂM / 7 KHAI MÔN / 4 Người ta căn cứ vào hệ thức lượng Độn Giáp này để dự đoán về sự vật khảo sát. So sánh cách tíng Trực phù, Trực Sử, Cung sa Trực phù, Cung sa Trực Sử trên Địa bàn với của cổ thư truyền lại qua ví dụ trên với cách xác định ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ tới Trái đất ta thấy có sự trùng hợp hoàn toàn sau: - Trực phù trùng hợp với cung cư ngụ của Sao âm theo vòng Thiên can - Trực sử trùng hợp với cung cảm ứng của Sao âm theo vòng Thiên can lên sự vật. - Sao sa Trực sử trùng hợp với cãm ứng của Sao âm theo giờ lên sư vật. Duy nhất có sai biệt đối với Sao sa Trực phù so với cung cảm ứng Sao âm theo giờ. Tuy nhiên, sự sai biệt này hoàn toàn không tồn tại nếu bảng Nghi Kỳ khi xác định Sao sa Trực phù cổ thư truyền lại ghi độ số can Mậu bằng độ số cùa chính sao Trực phù. Nếu đó thực sự là sai lệch thì là một sai lệch rất nhỏ về mặt kỹ thuật do tam sao thất bổn nhưng hệ quả lại rất lớn do dẫn đến khác biệt nghiêm trọng về dữ liệu và kết quả dự đoán (thật đúng câu: sai một ly, đi một dặm). Ở đây ta thấy một sự không nhất quán về việc xác định Sao sa Trực phù so với Sao sa Trực sử về mặt kỹ thuật: Việc xác định Sao sa Trực sử phải căn cứ vào độ số Trực sử còn xác định Sao sa Trực phù không cần căn cứ vào độ số Trực phù. Tuy đây là sự không nhất quán về hình thức nhưng cũng cho ta sự nghi ngờ về sự sai sót của cổ thư sau hàng thiên nhiên kỷ lưu truyền mà thiếu hẳn một cơ sở lý thuyết kiểm chứng. Như vậy, theo tôi, cổ thư truyền lại đã có sự sai lệch trong thuật toán xác định Sao sa Trực phù. Thuật toán này chính xác là phải ghi độ số can Mậu trong bảng Nghi Kỳ khi xác định Sao sa Trực phù trên Địa bàn bằng độ số của Trực phù đã được xác định trước đó. Ở ví dụ trên, cách xác định Sao sa Trực phù phải theo bảng Nghi Kỳ ban đầu này: Mậu 4 Tân 7 Ất 3 Kỷ 5 Nhâm 8 Bính 2 Canh 6 Quí 9 Đinh 1 Để được Sao sa Trực phù có độ số là 7 (Tân) Theo lý thuyết của bài nghiên cứu thì khi xác định Sao sa Trực phù phải theo bảng Nghi Kỳ sau có độ số can Mậu là 6, chính là độ số của Trực phù đã tìm được ở bước trước: Mậu 6 Tân 9 Ất 5 Kỷ 7 Nhâm 1 Bính 4 Canh 8 Quí 2 Đinh 3 Ta được sao sa trực phù có độ số 9 (Tân) Như vậy, hệ thức lượng độn giáp, theo tôi, trong ví dụ này phải là: THIÊN TÂM / 6 KHAI MÔN / 6 THIÊN TÂM / 9 KHAI MÔN / 4 Tổng hợp các phân tích trên, tôi đề xuất cách tính hệ thức lượng Độn Giáp như sau qua ví dụ trên: Ví dụ: Cần biết sự việc ra sao vào giờ Tân Mão, ngày Giáp Dần, tiết Đông chí, Hạ nguyên. Bước1: Xác định phù đầu Nghi Giáp (Số thứ tự vòng Thiên can trong Tiết khí) theo bảng sau: Giờ Tân Mão, phù đầu nghi Giáp Thân, vòng Thiên can thứ 3 Bước 2: Xác định Trực phù, Trực sử theo bảng sau: Theo bảng, tiết Đông chí, Hạ nguyên, vòng Thiên can thứ 3 có độ số là 6, thuận (Dương Độn). Theo bảng sau: Trực phù, Trực sử là: THIÊN TÂM / 6 KHAI MÔN / 6 Bước 3: Xác định Sao sa Trực phù: Bảng Nghi Kỳ với can Mậu có độ số của Trực phù là 6 Mậu 6 Tân 9 Ất 5 Kỷ 7 Nhâm 1 Bính 4 Canh 8 Quí 2 Đinh 3 Giờ Tân Mão, độ số 9. Vậy, Sao sa Trực phù độ số là: THIÊN TÂM / 9 Bước 4: Xác định Sao sa Trực sử: Phù đầu nghi Giáp Thân, tính đến Tân Mão có độ số 4 như sau (chiều thuận – Dương Độn) Giáp Thân 6 Dậu 7 Tuất 8 Hợi 9 Tý 1 Sửu 2 Dần 3 Mão 4 Vậy, Sao sa Trực sử là: KHAI MÔN / 4 Bước 5: Xác định hệ thức lượng Độn Giáp: Hệ thức lượng Độn Giáp là: THIÊN TÂM / 6 KHAI MÔN / 6 THIÊN TÂM / 9 KHAI MÔN / 4 Nếu Sao sa Trực sử theo cách tính trên có độ số là 5 thì phải theo nguyên tắc Nam – Khôn, Nữ Cấn hau Nam 5 -> 2, Nữ 5 -> 3. Thông số ảnh hưởng trường khí Vũ trụ tới Trái đất là: Qua các phân tích ở trên ta thấy: + Thực chất môn Độn giáp là môn dự đoán tương lai căn cứ vào ảnh hưởng của trường khí âm của Vũ trụ lên sự vật trên Trái đất ở những thời điểm khác nhau. Ý nghĩa các Sao Trực phù, Trực sử, Sao sa Trực phù, Sao sa Trực sử … là các yếu tố quan trọng của môn dự đoán này được làm rõ, xua tan đi những ý nghĩa thần bí, khó hiểu suốt mấy ngàn năm. Đồng thời mở ra cơ hội phát triển và truyền bá môn học này ngày càng phong phú, rõ ràng, chính xác hơn. + Các khái niệm như Thiên can Giáp bị ẩn đi, Ất kỳ, Bính kỳ, Đinh kỳ tượng trưng cho Mặt trời, Mặt trăng và các Tinh tú trong môn Độn giáp cổ truyền là do người đời sau giải thích áp đặt, khiên cưỡng, võ đoán, thiếu cơ sở vì bị thất truyền. + Trong việc xác định Trực phù của Độn giáp cổ truyền có qui tắc: nếu dữ kiện là giờ Giáp, ta phải chuyển sang độ số giờ Ất. Qui tắc này là khiên cưỡng, thiếu lý luận, không chính xác. Trong lý thuyết trường khí này, vẫn có Thiên can Giáp trong tính toán độ số của Trực phù. Trong trường hợp này, độ số Trực phù của Thiên can Giáp trùng với độ số Trực phù của Thiên can Mậu chứ không phải Ất như cổ thư bị sai lệch. Do đó, có thể nói rằng, nếu Thiên can Giáp bị ẩn đi thì nó ẩn vào Thiên can Mậu (độ số của Giáp và Mậu như nhau), và lý do bị ẩn của Giáp là tính chất đầu âm của nó ( đứng đầu chu kỳ âm của các Thiên can là Giáp, Ất thuộc Mộc; Bính, Đinh thuộc Hoả). + Trong Độn giáp cổ truyền, các Sao Thiên bồng, Thiên nhậm, Thiên xung, Thiên Phụ, Thiên Anh, Thiên nhuế, Thiên trụ,Thiên tâm, Thiên cầm là các Khí Vũ trụ. Trong lý thuyết trường khí này, đó chỉ là các cung mà Sao biểu tượng trường khí Vũ trụ cư ngụ mà thôi. + Các khái niệm Lục nghi, Tam kỳ trong Độn giáp cổ truyền thực chất chỉ là thuật toán để xác định ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Tái đất chứ không mang một ý nghĩa lý luận cơ bản nào về trường khí. + Các nghiên cứu trên của tôi không chỉ chỉnh sửa lại thuật toán Nghi Kỳ trong việc xác định sao sa Trực phù, mà còn xử dụng đồ hình Hà đồ của tôi trong việc xác định tính chất của trường khí, không dùng Hậu thiên Bát quái Văn Vương như trong cổ thư truyền lại nên sự sai khác càng trở nên lớn hơn nhiều, đặc biệt là các độ số các cung (cục), sao, … + Nếu những phân tích của tôi là đúng, và tôi tin chắc thế do tính nhất quán của logic xuyên suốt có thể sâu chuỗi hành loạt vấn đề cơ bản, khúc mắc hàng ngàn năm của nó, thì có thể thấy sự sai lệch rất quan trọng trong cổ thư truyền lại không chỉ trong môn Độn Giáp mà có thể nói là trong hầu hết các môn dự đoán học cổ truyền. Điều đó lý giải cho kết quả dự đoán khi thì đúng, khi thì sai mà nhiều thế hệ dự đoán vẫn gặp phải, đến nỗi, một học thuyết kỳ vĩ như học thuyết ADNH bị coi là thiếu cơ sở, mê tín, phi khoa học, làm giảm đi đáng kể kho tàng tri thức của nhân loại. Đồng thời văn hóa của dân tộc ta, dân tộc chính thống kế thừa học thuyết này của cổ nhân, không được đặt đúng vị trí xứng đáng của nó. Đây quả là vấn đề làm nản lòng rất nhiều người trong chúng ta. Để giải quyết điều này, chỉ có cách cùng bắt tay vào phục hồi lại học thuyết ADNH đã bị thất truyền bằng lao động sáng tạo không mệt mỏi, không bị “chấp” vào bất cứ một cái gì của tất cả chúng ta mà thôi. Độn giáp chỉ nghiên cứu ành hưởng âm của trường khí Vũ trụ tới Trái đất. Thế còn các ảnh hưởng dương, vượng, … thì sao? Vậy, tiếp sau đây tôi xin trình bày các nghiên cứu của mình về các ảnh hưởng này.1 like
-
2. Ảnh hưởng âm trường khí Vũ trụ trong năm tới Trái đất. a. Ảnh hưởng theo mùa: Ảnh hưởng âm theo mùa của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo bảng sau: b. Ảnh hưởng theo tiết: Một mùa chia làn 2 tiết: Tiết đầu và tiết cuối. Ảnh hưởng âm theo tiết mỗi mùa của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo bảng sau c. Ảnh hưởng theo tiết khí: Theo mô hình ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ lên Trái đất đã phân tích ở trên, tính dương mạnh nhất ở giũa hành Thủy (thuộc Thái dương), tức là đầu quái Khảm, cuối quái Càn. Tính âm mạnh nhất ở giữa hành Hỏa (thuộc Thái âm), tức là cuối quái Khôn, đầu quái Ly. Như vậy, vận động từ đầu quái Khảm tới cuối quái Khôn là vận động thuận của Khí (vẩn động thuận là vận động từ yếu tố dương nhất tới yếu tố âm nhất), từ đầu quái Ly tới cuối quái Càn là vận động nghịch của Khí. Từ kết quả đó, các Sao vận động theo chiều thuận của đồ hình quĩ đạo của chúng (đồ hình Hậu thiên Huyền không Phi tinh, đồ hình Hậu thiên Bát quái, Đồ hình dòng Vượng khí, … ) từ tiết Đông chí tới tiết Mang chủng, và vận động nghịch chiều từ tiết Hạ chí tới tiết Đại tuyết. Ở đây, ta đang khảo sát ảnh hưởng âm từ trường khí Vũ trụ tới Trái đất, do đó, đồ hình vận động các Sao là đồ hình Hậu thiên Huyền không Phi tinh. Chiều thuận của vận động của các cung mà Sao cư ngụ là: 1 -> 2 -> 3 -> 4 -> 5 -> 6 -> 7 -> 8 -> 9 -> 1 -> … Áp dụng nguyên tắc trên ta có thể xây dựng được bảng mô tả ảnh hưởng âm trường khí Vũ trụ tới Trái đất bằng vị trí hay độ số của các Sao (biểu tượng cho tác động âm của trường khí) như sau: (Trong mỗi tiết gồm 3 tiết khí, cung Sao nhảy 3 bước theo chiều thuận hay nghich Hậu thiên Huyền không Phi tinh, với Cung Sao của tiết khí đầu tiên chính là Cung Sao chủ của Tiết.) d. Ảnh hưởng theo vòng Thiên can: ( Trong môn Độn Giáp gọi là Trực phù) Một tiết khí chứa hơn hay kém không đáng kể một chu kỳ 180 giờ gồm 15 ngày, 15 vòng Địa chi, 18 vòng Thiên can, 20 vòng Phi tinh như đã phân tích cấu trúc theo giờ như trên (có thể hơn kém một chút). Vận hành của các Sao đại diện cho ảnh hưởng trường khí Vũ trụ tới Trái đất phải theo vòng Thiên can, vòng mô tả biến thiên của vận động trong Vũ trụ. Trong một tiết khí, cứ sau một vòng Thiên can (10 giờ), các Sao lại vận động một bước theo Hậu thiên Bát quái Phi tinh thuận hoãc nghịch tuỳ theo tiết khí đó nằm ở vị trí thuận hay nghịch trong mô hình đang khảo sát. Cung chủ vòng Thiên can đầu tiên có độ số trùng với Cung chủ của tiết khí. Theo nguyên tắc đó, Cung các Sao đại diện ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ ảnh hưởng tới Trái đất chi phối thời gian một vòng Thiên can (10 giờ) trong các tiết khí được xác định theo bảng sau: Trên bảng mô tả 18 vòng Thiên can của một chu kỳ 15 ngày trong tiết khí. Cứ 6 vòng Thiên can tương ứng 60 giờ hay 5 ngày gọi là 1 nguyên. Một chu kỳ có 3 nguyên là Thượng nguyên, Trung nguyên, Hạ nguyên. Các số trong bảng là độ số cung các Sao biểu tượng ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo đơn vị thời gian là 1 vòng Thiên can (10 giờ) cư ngụ. Mỗi một nguyên có 6 vòng Thiên can. Độ số của Cung Sao vòng thiên can được tổng hợp trong bảng sau: Các độ số ở cột thứ bao nhiêu của cục số biểu thị cho thứ tự vòng thiên can tương ứng trong nguyên. Trong một nguyên, ta căn cứ vào giờ khảo sát có thể xác định thứ tự vòng thiên can trong 1 nguyên theo bảng sau: e. Ảnh hưởng theo giờ: (Trong môn Độn Giáp gọi là Sao sa Trực phù) Do các Sao đang khảo sát biểu tượng cho ảnh hưởng của trường khí từ Vũ trụ, nên các Sao đó vận hành theo vòng Thiên can, chúng không theo vòng Địa chi. Hơn nữa, trong 10 thiên can thì Giáp, Ất, Bính, Đinh thuộc Mộc, Hỏa nên có tính âm. Canh, Tân, Nhâm, Quí thuộc Kim, Thuỷ nên có tính dương. Mậu, Kỷ thuộc Thổ, trung tính. Nhưng do Vũ trụ đang trong thời kỳ thuộc dương, nên Thổ tuy trung tính nhưng có xu hướng ngả theo dương. Do đó, nếu trong 1 vòng Thiên can, ở 4 Thiên can Giáp, Ất, Bính, Đinh các sao vận hành theo Lường thiên xích nghịch, thì từ Mậu đến Quí các sao vận hành theo Lường thiên xích thuận, và ngược lại. Như vậy, từ Giáp đến Đinh nếu cục giảm dần thì từ Mậu đến Quí cục tăng dần. Ngược lại, nếu trong 1 vòng Thiên can, ở 4 Thiên can Giáp, Ất, Bính, Đinh các sao vận hành theo Lường thiên xích thuận, thì từ Mậu đến Quí các sao vận hành theo Lường thiên xích nghịch. Nếu sắp xếp các sao nhảy theo thứ tự giảm dần từ 9 đến 1 rồi lặp lại bắt đầu từ thiên can Giáp ta được sự tương ứng: Như vậy, các sao vận hành trong 1 vòng Thiên can từ Giáp đến Đinh theo lường thiên xích ngược, tới Mậu trở về cung mà Sao đã đóng khi ở Giáp, sau đó vận hành theo Lường thiên xích thuận tới Quí. Sau 1 vòng Thiên can, tức là 10 giờ thì chuyển sang vòng Thiên can khác. Cung Sao đóng ở thời gian Giáp và Mậu bao giờ cũng như nhau. Cung Sao theo vòng Thiên can (có độ số cung xác định ở trên) vận động theo giờ Thiên can bắt đầu từ Giáp theo nguyên tắc trên đến giờ khảo sát xác định độ số cung ảnh hưởng Sao âm theo giờ tới trường khí Trái đất. Theo qui tắc đó, vận hành các Sao trong 1 vòng Thiên can 10 giờ như sau: f. Cảm ứng theo giờ ảnh hưởng âm từ trường khí Vũ trụ tới sự vật trên Trái đất: (Trong môn Độn Giáp gọi là Sao sa Trực sử) Ảnh hưởng âm từ trường khí Vũ trụ tới sự vật trên Trái đất theo thời gian 1 vòng Thiên can sẽ cảm ứng vào cung tương ứng của sự vật trên Trái đất một hiệu ứng. Hiệu ứng này gọi là cảm ứng trường khí Vũ trụ trong sự vật theo thời gian vòng Thiên can (Trong môn Độn Giáp gọi là Trực sử) Hiệu ứng này vận động trong các yếu tố của sự vật theo giờ. Do đây là hiệu ứng vận động trong các yếu tố của sự vật nên các cung biểu tượng cho hiệu ứng ấy di động theo Địa chi chứ không phải theo Thiên can. Cứ qua một giờ (1 Địa chi) các sao sẽ di chuyển 1 bước. Do là kết quả từ cảm ứng, sự di chuyển của các hiệu ứng này cũng phải tuân thủ nguyên tắc Nam-Khôn Nữ-Cấn như đã phân tích ở phần trước, đồng thời, chiều vận động của chúng cũng như đối với các ảnh hưởng từ Vũ trụ tương ứng theo đồ hình Hậu thiên Huyền không Phi tinh thuận hay nghịch. Theo các nguyên tắc đó, độ số của cung Sao biểu tượng cảm ứng ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ trong sự vật trên Trái đất theo thời gian 1vòng Thiên can chính là cung tương ứng với Sao đại diện ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ tới Trái đất thời gian một vòng Thiên can, trong sự vật. Độ số của cung Sao đóng theo giờ - biểu tượng cảm ứng ảnh hưởng của khí Vũ trụ trong các yếu tố của sự vật trên Trái đất theo giờ - xác định theo cách sau: Đếm từ độ số Cung Sao âm vòng Thiên can bắt đầu từ Địa chi của cung này tới Địa chi giờ khảo sát theo chiều thuận hay nghịch tùy vào bảng độ số các Sao ở trên (thuận hay nghịch) ta được độ số cung Sao cảm ứng theo giờ vòng Thiên can của ành hưởng âm từ Mặt trời tới sự vật trên Trái đất. Địa chi Sao Vòng Thiên can ------------------à Địa chi giờ khảo sát Độ số Sao vòng Thiên can -------------------à Độ số cung cảm ứng g. Tổng hợp ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ tới Trái Đất: Tổng hợp các phân tích ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ đến Trái đất trong chu kỳ 1 năm ở trên ta có những Sao chi phối sự vật phát triển trên Trái đất như sau: - Sao âm theo tiết. Sao này thể hiện ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ tới Trái đất trong thời gian một tiết bằng ½ mùa trong năm. Chu kỳ vận động của nó là ½ mùa, 1/8 năm, 3 Tiết khí, khỏang 1.5 tháng, khoảng 45 ngày. Cách xác định Sao âm theo tiết theo bảng sau: Các Sao này là sao chủ đại diện cho ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ tới Trái đất cho mọi thời điểm khảo sát - Cung Sao âm đóng theo tiết khí. Cung này thể hiện ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ tới Trái đất trong thời gian một tiết khí bằng 1/6 mùa trong năm. Chu kỳ vận động của nó là 1/6 mùa, 1/24 năm, 1/3 Tiết, khỏang 1/2 tháng, khoảng 15 ngày. Cách xác định Cung Sao âm theo tiết khí theo bảng sau: - Cung Sao âm đóng theo vòng Thiên can. Cung này thể hiện ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ tới Trái đất trong thời gian một vòng Thiên can 10 giờ bằng. Chu kỳ vận động của nó là 10 giờ hay 5/6 ngày. Cách xác định Cung Sao âm theo vòng Thiên can theo bảng sau: - Cung cảm ứng Sao âm theo vòng Thiên can: Sao âm theo vòng Thiên can cảm ứng lên Trái đất thành Sao tương ứng cùng tính chất nhưng phải thỏa mã nguyên tắc Nam-Khôn, Nữ Cấn. - Cung Sao âm đóng theo giờ Sao này thể hiện ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ tới Trái đất trong thời gian một giờ. Chu kỳ vận động của nó là 1 giờ. Cách xác định Cung Sao âm theo giờ theo bảng sau: - Cung cảm ứng Sao âm theo giờ Sao này thể hiện cảm ứng trên Trái đất từ ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất trong thời gian một giờ. Chu kỳ vận động của nó là 1 giờ. Cách xác định Cung cảm ứng Sao âm theo giờ theo bảng sau: Địa chi Sao Vòng Thiên can ------------------à Địa chi giờ khảo sát Độ số Sao vòng Thiên can -------------------à Độ số cung cảm ứng Các kết quả ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ lên Trái đất được thể hiện trong bảng sau:1 like
-
.X./ Ảnh hưởng trường khí Vũ trụ tới Trái đất trong 1 năm : 1. Mô hình thời gian tính toán ảnh hưởng trường khí Vũ trụ trong 1 năm tới Trái đất. Trái đất vận động quay quanh Mặt trời 1 vòng hết chu kỳ 1 năm.Trường khí Vũ trụ cảm ứng lên Trái đất hình thành một trường khí cảm ứng có cấu trúc theo thời gian là THỦY-> MỘC -> HỎA -> KIM tương ứng với các mùa Đông, Xuân, Hạ, Thu trong năm. Trường khí này có thể coi là ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ lên Trái đất. Vạn vật trên Trái đất đều chịu sự chi phối của trường khí này. Mô tả vận động của trường khí ảnh hưởng của Vũ trụ lên Trái đất bằng các yếu tố bát quái ta được cấu trúc theo thời gian của nó như sau: Càn -> Khảm -> Chấn -> Cấn -> Khôn -> Ly -> Tốn -> Đoài (các quái vận động theo chiều dòng Vượng khí, đồ hình Hà Đồ) Nếu chia nhỏ thời gian vận hành của các Quái đi nữa thành 3 phần đều nhau Sinh, Vương, Mộ, đặt tên chúng theo như sách cổ truyền lại là các tiết khí, đồng thời bố trí các Sao đặc trưng cho trường khí theo các quái, ta có bảng cấu trúc trường khí ảnh hưởng của Vũ trụ tới Trái đất như sau: Như vậy, theo mô hình trên, ta đã lập được cấu trúc thời gian dùng để tính toán trường khí ảnh hưởng của Vũ trụ lên Trái đất tới các chu kỳ 1/4 năm (1 mùa), 1/8 năm (1 tiết). 1/24 măm (1 tiết khí). Để nghiên cứu ảnh hưởng này một cách chi tiết hơn, chúng ta tiếp tục chia nhỏ hơn nữa thời gian khảo sát tới các đơn vị như ngày, giờ. Giả sử rằng ta chọn hài trường khí Vũ trụ ảnh hưởng lên Trái đất có chu kỳ ngày gồm số vòng Thiên can, Địa chi, Phi tinh (các sao) là tối giản (các yếu tố Thiên can, Địa chi, Phi tinh trong mỗi đơn vị thời gian ngày không lặp lại) để khảo sát. Chu kỳ chọn được là T bao gồm x vòng Thiên can, y vòng Địa chi và z vòng Phi tinh. Ta đã biết, 1 vòng Địa chi gồm 12 bước, 1 vòng Thiên can gồm 10 bước, 1 vòng Phi tinh gồm 9 bước. Do đó, ta có hệ phương trình sau : 10x = 12y = 9.z (x,y,z là các số nguyên dương không có mẫu số chung khác 1) Giải phương trình này ta được: x = 18 y = 15 z = 20 Như vậy, chu kỳ chọn được là 15 ngày, gần đúng 1 tiết khí, bao gồm 15 vòng Địa chi, 18 vòng Thiên can và 20 vòng Phi tinh, tổng cộng 180 giờ. Mỗi một đơn vị thời gian giờ như vậy phân biệt với nhau các yếu tố Thiên can, Địa chi, Phi tinh không trùng lặp. Trong mỗi một ngày, các thiên can, địa chi, phi tinh di chuyển 1 bước theo mỗi giờ theo những đồ hình qui định quĩ đạo của chúng. Mô hình cấu trúc thời gian của chu kỳ này chi tiết tới đơn vị giờ như sau: Như vậy, ta đã xây dựng mô hình thời gian ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất chính xác tới đơn vị giờ. Đặc trưng của ảnh hưởng này được xác định bởi các tọa độ thời gian trong năm như sau: + Giờ. + Vòng Thiên can. + Tiết khí. + Tiết. Vào thời điểm khảo sát, trường khí Vũ trụ ảnh hưởng tới Trái đất được biểu tượng hóa thành các Sao đặc trưng cho tính chất các quái như sau: + Khảm (độ số 1): biểu tượng ảnh hưởng được ký hiệu là sao Nhât bạch + Khôn (độ số 2): biểu tượng ảnh hưởng được ký hiệu là sao Nhị hắc + Cấn (độ số 3): biểu tượng ảnh hưởng được ký hiệu là sao Tam bích + Tốn (độ số 4): biểu tượng ảnh hưởng được ký hiệu là sao Tứ lục + Thổ (độ số 5): biểu tượng ảnh hưởng được ký hiệu là sao Ngũ hoàng + Càn (độ số 6): biểu tượng ảnh hưởng được ký hiệu là sao Lục bạch + Ly (độ số 7): biểu tượng ảnh hưởng được ký hiệu là sao Thất xích + Chấn (độ số 8): biểu tượng ảnh hưởng được ký hiệu là sao Bát bạch + Đoài (độ số 9): biểu tượng ảnh hưởng được ký hiệu là sao Cửu tử Các Sao này gây ra trong sự vật những hiệu ứng lan tỏa được gọi là các dòng khí như dòng khí âm, dòng khí dương, dòng vượng khí, … Tương ứng với các dòng khí đó, các Sao được phân biệt như sau: + Sao Nhất bạch Âm, Nhất bạch Dương, Nhất bạch Vượng, …là đại diện của Sao Nhất bạch trong ảnh hưởng âm, dương, vượng trên Trái đất. + Sao Nhị hắc Âm, Nhị hắc Dương, Nhị hắc Vượng, … là đại diện của Sao Nhị hắc trong ảnh hưởng âm, dương, vượng trên Trái đất. + Sao Tam bích Âm, Tam bích Dương, Tam bích Vượng, … là đại diện của Tam bích bạch trong ảnh hưởng âm, dương, vượng trên Trái đất. + Sao Tứ lục Âm, Tứ lục Dương, Tứ lục Vượng, … là đại diện của Sao Tứ lục trong ảnh hưởng âm, dương, vượng trên Trái đất. + Sao Ngũ hoàng Âm, Ngũ hoàng Dương, Ngũ hoàng Vượng, … là đại diện của Sao Ngũ hoàng trong ảnh hưởng âm, dương, vượng trên Trái đất. + Sao Lục bạch Âm, Lục bạch Dương, Lục bạch Vượng, … là đại diện của Sao Lục bạch trong ảnh hưởng âm, dương, vượng trên Trái đất. + Sao Thất xích Âm, Thất xích Dương, Thất xích Vượng, … là đại diện của Sao Thất xích trong ảnh hưởng âm, dương, vượng trên Trái đất. + Sao Bát bạch Âm, Bát bạch Dương, Bát bạch Vượng, … là đại diện của Sao Bát bạch trong ảnh hưởng âm, dương, vượng trên Trái đất. + Sao Cửu tử Âm, Cửu tử Dương, Cửu tử Vượng, … là đại diện của Sao Cửu tử trong ảnh hưởng âm, dương, vượng trên Trái đất. Chúng ta sẽ lần lượt khảo sát, vào một thời điểm bất kỳ trong mô hình thời gian như đã xây dựng ở trên, Sao nào vận động đến cung nào, nói cách khác, trường khí Vũ trụ ảnh hưởng tới Trái đất tại thời điểm đó đặc trưng như thế nào.1 like
-
5. Bảng Lục thập hoa giáp Giả sử thời gian vũ trụ vận động gồm 5 hành và 10 thiên can như đã xét ở trên. Vận khí của một sự vật chịu tác động của vũ trụ như là một yếu tố con trong sự vận hành của vũ trụ, thể hiện như các thời kỳ Sinh, Vượng, Mộ và sinh ra bản mệnh của sự vật đó. Áp dụng các qui tắc Sinh, Vượng, Mộ ở trên ta xây dựng được sự liên hệ giữa Thiên can và Vận khí như thể hiện trên đồ hình sau: + Trên đồ hình, Thiên can bắt đầu tử hành Thuỷ thể hiện nguyên tắc vạn sự sinh từ Đạo, biến đổi từ Dương, vận động theo chiều tương sinh. + Ở Thời kỳ đầu tiên, Thiên can hoà Vận khí thể hiện cái tính của thời kỳ Tiên thiên, khi mâu thuẫn trong tương tác âm dương còn chưa thể hiện rõ. +Tiếp theo cứ 3 hành một thời kỳ: Thiên can sinh Vận khí, Thiên can khắc Vận khí, Vận khí khắc Thiên can, Vận khí sinh Thiên can. + Các thời kỳ Sinh, Vượng, Mộ của Vận khí được thể hiện trên đồ hình. Như vậy, Qua 15 hành thì lặp lại chu kỳ thời gian có hành Thiên can và Vận khí trùng nhau. Tiếp theo, Vận khí sinh bản mệnh được thể hiên bằng đồ hình như sau: Các hành Thiên can còn được chia nhỏ thành Thiên can gồm 10 yếu tố Nhâm, Quí, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí bắt đầu từ hành Thuỷ. Đồng thời, vận động của sự vật cũng chia ra thành 12 Địa chi, thể hiện thời gian tiến hoá. Thêm các yếu tố Thiên can, Địa chi vào đồ hình vừa dựng, tiếp tục nó cho tới khi kết thúc chu kỳ gồm các khoảng thời gian mà đặc trưng là các yếu tố Thiên can, Địa chi, Vận khí, Bản mệnh không lặp lại ta được bảng phân bố thởi gian như sau, gồm 60 khoảng: Áp dụng bảng phân bố đó cho thời gian mỗi khoảng là 1 năm, ta thu được bảng Lục thập hoa giáp mà người xưa truyền lại đã được hiệu chỉnh lại như sau: (Còn nữa)1 like
-
c. Lạc thư – bảng Ngũ hành về ành hưởng của mặt trời lên không gian trái đất khi trái đất tự quay quanh mình nó: Xét một không gian giới hạn trên mặt đất Bắc bán cầu: Do trái đất quay quanh Mặt trời, không gian đang xét có tính chất luôn thay đổi theo chu kỳ 1 ngày đêm. Ảnh hưởng của mặt trời tới không gian tới từ phương Đông, bên phải. Do đó, nửa bên trái không gian thuộc các hành “Thái” (Thuỷ, Hoả), nửa bên phải thuộc các hành “Thiếu” (Kim, Mộc). Mặt khác, ở bán cầu bắc trái đất, phía Bắc lạnh hơn phía Nam nên nửa bên trái không gian có hành Thuỷ nằm ở phía trên, hành Hoả ở phái dưới. Nửa bên phải có hành Mộc nằm ở phía trên và hành Kim nằm ở phía dưới (Do Kim thuộc tĩnh trong động phải động hơn Mộc thuộc động trong tĩnh) Do đó, ảnh hưởng của mặt trời lên không gian Bắc bán cầu khi trái đất tự quay quanh mình nó đặc trưng bằng đồ hình sau: Biểu diễn trên ma phương 9 ô ta được: Khi nạp quái cho các ô chúng ta chú ý rằng các quái “Thái” phải nằm ở phương vị chính của hành, quái “Thiếu” nằm ở các phần Chung, đồ hình phân bố Bát quái ảnh hưởng của mặt trời lên không gian Bắc bán cầu khi trái đất tự quay quanh mình nó như sau: Nếu dùng các cục của các quái thay thế biểu tượng các quái ta được đồ hình: Đó chính là đồ hình Lạc thư mà cổ thư truyền lại cho tới ngày nay. Đồ hình Lạc thư đầy đủ có các quái và cục số của chúnh như sau: Đối với bán cầu nam, đồ hình Lạc thư tương ứng như sau: (Còn nữa)1 like
-
Đối với Nam bán cầu, lý luận tương tự ta thấy: - Cấu trúc Ngũ hành của không gian: - Cầu trúc bát quái của không gian: - Đồ hình Hà đồ Nam bán cầu: (Còn nữa)1 like
-
b. Hà đồ - bảng cấu trúc Ngũ hành của không gian trên mặt đất Bắc bán cầu Xét một không gian phẳng trên mặt đất ở bắc bán cầu ta thấy: + Phương của hành Thủy là phương Bắc do phương Bắc lạnh hơn. + Phương của hành hỏa là phương Nam do phương Nam nóng hơn. Áp dụng cấu trúc Ngũ hành của không gian ở trên ta có 2 khả năng phân bố của hành Kim và Mộc như sau: Sự vận động của vật chất theo chiều dòng Vượng khí chứng tỏ rằng, tồn tại một môment lực theo chiều mũi tên ở các hình mô tả các khả năng trên ở qui mô toàn cầu. Môment lực này tác động lên trái đất khi trái đất tự quay quanh mình nó tất yếu sẽ dẫn đến một chuyển động tiến động làm cho trục quay của trái đất lệch đi một góc so với mặt phẳng quĩ đạo trái đất khi nó quay quanh mặt trời. Căn cứ vào chiều lệch của trục tự quay của trái đất như hình vẽ trên ta thấy chỉ có một phương án cấu trúc Ngũ hành của không gian trên mặt đất bên phải là phù hợp làm cho trục trái đất bị lệch đi theo đúng chiều của moment lực mà cấu trúc Ngũ hành của nó tạo ra. Đó cũng chính là nguyên nhân của hiện tượng tuế sai mà cổ nhân đã phát hiện từ lâu. Điều này cũng làm cho hướng hành Thủy cũng lệch đi một góc so với phương Bác của địa cầu. Như vậy, cấu trúc Ngũ hành của không gian trên mặt đất ở Bác bán cầu như sau: Từ đó suy ra cấu trúc Bát quái của không gian trên mặt đất ở Bác bán cầu là: Biểu diễn dưới dạng ma phương chín ô như sau: Nếu đánh độ số các quái như đã xác định ở phần trên vào các ô ta thu được đồ hình: Đó chính là đồ hình Hà đồ mà cổ thư truyền lại cho tới ngày nay Kết hợp độ số với các quái ta thu được đồ hình cấu trúc không gian trên mặt đất Bác bán cầu đầy đủ như sau:1 like
-
VI./ CẤU TRÚC ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH CỦA KHÔNG GIAN 1. Cáu trúc Ngũ hành, Bát quái của không gian Không gian mà trong đó vũ trụ chúng ta đang tồn tại củng chỉ là một tượng trong Vạn tượng sinh ra từ Đạo mà thôi. Trong không gian, vật chất tồn tại và vận động từ vị trí này sang vị trí khác, hay thịnh suy của vật chất biến đổi theo các vị trí đó. Như trên đã phân tích, sự thịnh suy của các yếu tố vận hành theo chiều Ngũ hành tương sinh hay theo dòng Sinh khí. Vì thế, có thể quan sát vận động của vật chất để suy ra cấu trúc Ngũ hành,Bát quái của không gian. Quan sát vận động của các hạt vật chất trong không gian ta thấy chúng luôn có xu hướng quay quanh một trung tâm nào đó (Điện tử quay quanh hạt nhân nguyên tử, trái đất tự quay quanh mình nó, trái đất quay quanh mặt trời, thái dương hệ quay quanh trung tâm Thiên hà,…) Giả sử rằng, có một hạt vật chất chuyển động với vận tốc v, quay quanh một điểm O nào đó trong không gian. Vì vạn tượng vận động theo chiều tương sinh, nên không gian quanh điểm O có cấu trúc Ngũ hành tương sinh theo chiều quay của hạt vật chất quanh O. Mặt khác, như đã biết, trong Ngũ hành, hành Thổ là phần chung của các hành còn lại, thể hiện tính thống nhất trong tương tác âm dương. Do đó, hành thổ phải nằm ở vị trí trung tâm, và các hành khác phân bố xung quanh theo chiều dòng Vượng khí: Kim - > Thuỷ - > Mộc - > Hoả trùng với quĩ đạo của hạt vật chất (dòng vật chất chuyển động, về mặt tổng quát, có thể coi như là sự hưng vượng của vật chất ở các vị trí khác nhau trong không gian tại những thời điểm khác nhau mà thôi). Nếu biểu diễn sự phân bố các hành như trên theo hướng của chúng trong không gian thì véc tơ mô men động lượng của hạt vật chất khi nó chuyển động với vận tốc v quay xung quanh điểm O trùng với hướng của hành Thổ, còn hướng của các hành khác phân bố trong mặt phẳng quĩ đạo hạt vật chất theo chiều Vượng khí Đó chính là cấu trúc Ngũ hành của không gian. Việc xác định hướng của các hành còn lại cần căn cứ vào đặc điểm cụ thể của không gian cần khảo sát. Ví dụ, hành Hoả - Thái âm đặc trưng là động tính, nên ở hướng này, các hạt vật chất vận động mạnh hơn các hướng khác hay nhiệt độ cao hơn. Hành Thuỷ - Thái dương đặc trưng là tịnh tính, nên ở hướng này, các hạt vật chất chuyển động chậm hơn các hướng khác hay nhiệt độ thấp hơn. Khi xác định được hướng của các hành Thuỷ hay Hoả, dựa vào cấu trúc của không gian như trên ta có thể xác định được hướng của các hành còn lại. Sau đó, áp dụng đồ hình dòng Vượng khí trong Bát quái ta có thể xác định được cấu trúc Bát quái của không gian như sau: 2. Ứng dụng cáu trúc Ngũ hành, Bát quái của không gian a. Nạp Ngũ hành cho 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông Ta biết rằng 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông xoay chuển quanh năm là do trái đất quay quanh Mặt trời không phải theo một vòng tròn tuyệt đối mà theo một hình elip nhận Mặt trời là một tiêu điểm. Mùa Đông tương ứng khi trái đật ở xa mặt trời, mùa Hạ tương ứng với vị trí trái đất ở gần mặt trời hơn cả. Sở dĩ trái đất quay quanh mặt trời do cấu trúc Ngũ hành của không gian quanh mặt trời qui định. Áp dụng cấu trúc Ngũ hành của không gian Đã phân tích ở trên cho hệ quay của trái đất quanh mặt trời ta thấy: + Phuơng của hành Thủy trùng với phương của trái đất so với mặt trời khi trái đất ở xa mặt trời nhất, tương ứng với mùa Đông. + Phương của hành Hỏa trùng với phương của trái đất so với mặt trời khi trái đất ở gần mặt trời nhất tương ứng với mùa Hạ. + Phương của hành Kim trùng với phương của trái đất so với mặt trời khi trái đất ở mùa Thu. + Phương của hành Kim trùng với phương của trái đất so với mặt trời khi trái đất ở mùa Xuân. + Mặt trời ở trung tâm, thuộc hành Thổ. + Chiều quay của trái đất quanh măt trời là chiều Thu > Đông > Xuân > Hạ trùng với chiều cấu trúc Ngũ hành của không gian là Kim > Thủy > Mộc > Hỏa Do đó, nạp Ngũ hành cho mùa như sau: Mùa Đông thuộc hành Thủy Mùa Hạ thuộc hành Hỏa Mùa Xuân thuộc hành Mộc Mùa Thu thuộc hành Kim (Còn nữa)1 like
-
Hậu thiên Bát quái Phi tinh: Trong thời hỳ Hậu thiên, do mâu thuẫn nảy sinh trong tương tác cũ mới, các quái cũng được phân bố lại theo nguyên lý trong “Thái” có “Thiếu”, trong “Thiếu” có “Thái”. Do bản chất các hành nằm trong các quái “Thái” nên sự phân bố lại chỉ phải đổi chỗ các quái “Thiếu” CẤN với KHẢM, ĐOÀI với LY ta được đồ hình phân bố Hậu thiên bát quái Phi tinh như sau: Tiên thiên Bát quái Phi tinh thực hiện đổi chỗ CẤN với KHẢM, ĐOÀI với LY theo đúng lý luận trên, ta được đồ hình sau: KHẢM -> KHÔN -> CẤN -> TỐN -> THỔ -> CÀN -> LY -> CHẤN -> ĐOÀI Đó là đồ hình Hậu thiên Bát quái Phi tinh, mô tả vận động của dòng Khí âm trong Bát quái thời kỳ Hậu thiên. Người ta đánh số thứ tự vận hành của dòng Khí âm qua các quái ở thời kỳ Hậu thiên, kết quả như sau: KHẢM – 1, KHÔN – 2, CẤN – 3, TỐN – 4, THỔ - 5, CÀN – 6, LY – 7, CHẤN – 8, ĐOÀI – 9. Các số tứ tự đó gọi là các “cục” hay “ độ số” của các quái. Như vậy, phân bố các quái trong Ngũ hành ở thời kỳ Tiên thiên và Hậu thiên khác nhau do nguyên lý phân bố trong âm có dương, trong dương có âm ở thời kỳ Hậu thiên: Trong thời kỳ Tiên thiên, các hành có độ số là: Thuỷ có độ số 6 – 9 chứa CÀN, ĐOÀI (Thái thái dương và Thiếu thái dương) Hoả có độ số 2 – 3 chứa KHÔN, CẤN (Thái thái âm và Thiếu thái âm) Mộc có độ số 3 – 7 chứa CHẤN, LY (Thái thiếu dương và Thiếu thiếu dương) Kim có độ số 4 – 1 chứa TỐN, KHẢM (Thái thiếu âm và Thiếu thiếu âm) (Chú ý: Hai yếu tố đầu tiên của các quái trong một hành luônn giống nhau, chỉ khác nhau tính “Thái”, “Thiếu” ở yếu tố thứ ba thể hiện tính thống nhất, tuy khác nhau nhưng không mâu thuẫn trong thời kỳ Tiên thiên) Trong thời kỳ Hậu thiên, các hành có độ số là: Thuỷ có độ số 1 – 6 chứa CÀN, KHẢM (Thái thái dương và Thiếu thiếu âm) Hoả có độ số 2 – 7 chứa KHÔN, LY (Thái thái âm và thiếu thiếu dương) Mộc có độ số 3 – 8 chứa CHẤN, CẤN (Thái thiếu dương và Thiếu thái âm) Kim có độ số 4 – 9 chứa TỐN, ĐOÀI (Thái thiếu âm và Thiếu thái dương) (Chú ý: Các yếu tố “Thái”, “Thiếu”, “âm”, “dương” của các quái trong một hành luôn đối ngược nhau trong thời kỳ Hậu thiên thể hiện sự xung đột, đấu tranh, tương tác, mâu thuẫn trong thời kỳ này) Hành Thổ có độ số là 5. Nhưng trong thời kỳ Hậu thiên, do kết quả của đấu tranh, mâu thuẫn và phát triển, hành Thổ có cả dương Thổ và âm Thổ, thì người ta thêm môt số nữa là 10 ký hiệu cho âm Thổ, còn dương Thổ có độ số 5. Tuy nhiên, Thổ âm chỉ là những yếu tố Chung mới nảy sinh trong tương tác âm dương tuy khác Thổ dương là Thổ có trước nhưng không mâu thuẫn, đấu tranh nhau. Vì vậy, hiệu ứng dương hay âm đều không phân biệt Thổ âm hay Thổ dương. Do đó, dòng Khí âm hay dương vận động qua Thổ chỉ có một bước như vận động qua các yếu tố Bát quái khác. Tuy nhiên, khảo sát sự phát triển của sự vật thì Thổ âm đóng vai trò như một yếu tố cần phải tính đến. Vận động của Khí âm qua các quái theo đồ hình Hậu thiên Bát quái Phi tinh tương ứng với 2 vòng vận động qua các hành ở thời kỳ Hậu thiên Bát quái, một vòng qua hết các quái âm của các hành trở về Thổ còn vòng thứ hai qua hết các quái dương của các hành theo thứ tự như sau: Thuỷ -> Hoả -> Mộc -> Kim -> Thổ Cứ sau 5 bước vận hành, dòng Khí âm lại trở về hành ban đầu. Vận động của dòng Khí dương qua các quái theo đồ hình Hậu thiên Bát quái tương ứng với 1 vòng vận động qua các hành qua hết các quái của các hành trở về Thổ theo thứ tự như sau: Thuỷ -> Mộc -> Kim -> Hoả -> Thổ Thái -> Thiếu - > Thiếu - >Thái - > Thái -> Thiếu - > Thiếu - >Thái - > Thổ Bảng so sánh vận động của Khí âm và Khí dương qua các yếu tố của sự vật.1 like
-
Có phải đây là HTBQAL hay không ?1 like
-
5. Quan hệ bát quái Như trên đã phân tích, hành Thổ xuất phát từ Chung trong Tam tài, nó bao gồm những lực lượng có tính âm và những lực lượng có tính dương, tuy khác nhau về “tính” nhưng lại thống nhất, tương tác với nhau không mâu thuẫn lẫn nhau. Do đó, trong hành Thổ cũng chia thành 2 lực lượng có tính âm dương khác nhau là âm Thổ và dương Thổ. Căn cứ vào quan hệ Ngũ hành ta nhận thấy: - Cặp Kim, Mộc sinh cặp Thuỷ, Hoả thì Kim khắc Mộc, Thuỷ khắc Hoả,Thuỷ sinh Mộc và Hoả khắc Kim. Khái quát lên, ta thu được sơ đồ quan hệ giữa các yếu tố trong quan hệ tương sinh như sau: (Đồ hình tương sinh) - Cặp Thuỷ, Kim khắc cặp Hoả, Mộc thì Kim sinh Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả,Thuỷ sinh Mộc và Hoả khắc Kim. Khái quát lên, ta thu được sơ đồ quan hệ giữa các yếu tố trong quan hệ tương sinh như sau: (Đồ hình tương khắc) Biểu diễn những yếu tố Ngũ hành trên sơ đồ vòng tròn theo chiều tương sinh như sau: Áp dụng đồ hình tương sinh ở trên cho các quan hệ tương sinh: Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim ta được quan hệ của bát quái là hệ quả của quá trình tương sinh như sau: Áp dụng đồ hình tương khắc ở trên cho các quan hệ tương khắc: Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ ta được quan hệ của bát quái là hệ quả của quá trình tương khắc như sau: Kết hợp cả hai quá trình tương sinh và tương khắc ta thu được đồ hình mô tả quan hệ bát quái như sau: Theo đồ hình ta thấy quan hệ CÀN với KHẢM, CẤN với CHẤN, KHÔN với LY, ĐOÀI với TỐN, DƯƠNG THỔ với ÂM THỔ có khi là tương sinh, có khi là tương khắc tuỳ thuộc chúng tham gia vào quan hệ nào. Các quan hệ đó là tương sinh khi hành chứa chúng tham gia vào quan hệ tương khắc và ngược lại, các quan hệ đó là tương khắc nếu các hành chứa chúng tham gia vào các quan hệ tương sinh.6. Cấu trúc âm dương ngũ hành của một sự vật Một sự vật đầy đủ hay một tiểu vũ trụ là tất cả các yếu tố cấu thành nên sự vật ấy, tồn tại và biến đổi cùng sự vật cùng các quan hệ tương hỗ giữa chúng, quyết định sự vận động, phát triển của nó trong sự tương tác với những yếu tố bên ngoài sự vật. Một sự vật bất kỳ cũng chỉ là một thành phần của vạn tượng, vận động và phát triển không ngừng do tương tác âm dương trong bản thân chúng và toàn vũ trụ. Do tương tác âm dương, trong sự vật cũng hình thành những lực lượng có xu hướng phát triển, biến đổi, phá vỡ trạnh thái ổn định, cân bằng hiện tại, gọi là Âm. Đồng thời tồn tại những lực lượng có xu hướng bảo tồn trạng thái hiện có, gọi là Dương. Sự tương tác giữa Âm, Dương sinh ra các giá trị mới để sự vật phát triển. Cả Âm lẫn Dương đều có xu hướng chiếm đoạt cho mình giá trị mới đó. Do cùng chung sáng tạo ra giá trị mới, Âm, Dương thống nhất với nhau. Do trang giành chiếm đoạt giá trị mới, Âm, Dương mâu thuẫn nhau. Dù mâu thuẫn với nhau nhưng chúng đều có mục tiêu tạo ra nhiều giá trị mới hơn, do đó qui luật chung của sự vật là phát triển, biến đổi không ngừng. Âm, Dương thống nhất với nhau tạo nên một lực lượng thứ ba là Chung, bao gồm nhũng lực lương đại diện cho sự thống nhất đó mà cả Âm lẫn Dương đều tôn trọng. Âm, Dương, Chung được gọi là Tam tài trong sự vật. Trong tương tác Âm, Dương, các yếu tố thứ cấp tiếp theo như Ngũ hành, Bát quái,… cũng lần lượt hình thành tương tự như trong Vạn tượng mà ta đã nghiên cứu ở các phần trên. Những lý luận trên và tiếp theo có thể dùng chung cho Vạn tượng hoặc sự vật riêng mà không gây ra sự mâu thuẫn nào. 7. Ý nghĩa của các Quái và các quẻ Dịch Theo các phân tích trên, ta có thể xác định ý nghĩa cùa các quái như sau: * Thủy (Thái dương) Dương ban đầu của sự vật. Lực lượng đang lãnh đạo xã hội, giới chủ, nhà nước, giới quyền thế, chính quyền, có thế lực… Đặc tính: Bảo thủ, lạc hậu, thiếu năng động, muốn bảo tồn cái cũ, bảo tồn hiện trạng, cương mạnh, không uyển chuyển, chủ động, cầm quyền… 1. CÀN: Thái Thủy, là bản chất ban đầu của Thủy. 2. KHẢM: Thiếu Kim, là lực lượng mới, đúng đắn, tiến bộ sinh ra từ thành phần ưu tú nhất của Kim, nằm trong Thủy do sự tương tác Kim <-> Thủy. Khi chuyển sang Thủy, nó trở nên hơi thái quá về đặc tính của mình. Thế lực ban đầu còn hạn chế, nhưng do tiến bộ nên có xu thế tăng dần lên, tuy nhiên, do thái quá nên không thể trở thành Thủy tương lai… * Hỏa (Thái âm) Là âm ban đầu của sự vật. Là lực lượng chính, rất lớn trong xã hội, bị lãnh đạo, giới làm công, người lao động, không có quyền thế, không có thế lực, bị trị. Là lực lượng trực tiếp lao động sáng tạo ra giá trị vật chất mới cho xã hội, có sức mạnh tập thể, là dân, quần chúng… Đặc tính: Luôn vận đông vươn lên. Uyển chuyển, mềm dẻo, năng động, dễ hỗn loạn, vô chính phủ, dễ cảm thông nhau, có sức mạnh vật chất, khả năng thực tế cao, cần có lực lượng cầm đầu… 1. KHÔN: Thái Hỏa, là bản chất ban đầu của Hỏa. 2. LY: Thiếu Mộc, là lực lượng tiến bộ sinh ra từ thành phần ưu tú nhất của Mộc, nằm trong Hỏa do tương tác Hỏa <-> Mộc. Có đặc tính rất năng động, đúng đắn, tiến bộ. Khi chuyển sang hành Hỏa, đặc tính của nó trở nên hơi thái quá. Thế lực ban đầu còn nhỏ, yếu nhưng tăng dần vì đúng đắn, tiến bộ. Tuy nhiên, do hơi thái quá nên không thể trở thành Hỏa tương lai… * Kim (Thiếu âm) Là lực lượng mới hình thành trong Dương, tiến bộ, có khả năng thay thế cho lực lượng thống trị cũ (Dương). Có chân lý. Ban đầu còn nhỏ, yếu nhưng tất yếu phát triển làm chủ xã hội. Đại diện cho sự tiến bộ, đổi mới trong tầng lớp trên và sẽ trở thành lãnh đạo trong tương lai… 1. TỐN: Thái Kim, là bản chất ban đầu của Kim 2. ĐOÀI: Thiếu Thủy, là lực lượng năng động, tiến bộ nằm trong Kim, sinh ra từ lực lượng tiến bộ của Thủy trong tương tác Kim <-> Thủy. Khi chuyển sang Kim, sự tiến bộ được hoàn thiện do tiếp thu mặt tích cực của Mộc. Ban đầu, thế lực còn nhỏ, yếu nhưng sau tăng lên mạnh mẽ, trở thành Thủy tương lai… * Mộc (Thiếu dương) Là lực lượng mới hình thành trong âm, tiến bộ theo sự phát triển đi lên của sự vật. Rất năng động, uyển chuyển mà đứng đắn. Nhậy cảm và hỗ trợ cái mới, tiến bộ. Là đại diện cho lực lượng âm tương lai… a. CHẤN: Thái Mộc, là bản chất ban đầu của Mộc b. CẤN: Thiếu Hỏa, là lực lượng tiến bộ nhất trong Mộc, sinh ra từ lực lượng tiến bộ nhất trong Hỏa, do tương tác Mộc <-> Hỏa. Khi chuyển sang Mộc, những đặc tính tiến bộ được hoàn thiện do ảnh hưởng từ tính tích cực của Mộc. Thế lực ban đầu nhỏ nhưng phát triển mau chóng, trở thành Hỏa tương lai… * Thổ (Chung) Là phần Chung của toàn sự vật, cả Âm lẫn Dương đều tôn trọng, thống nhất. Là những giá trị đại diện cho toàn Xã hội, là ý dân, văn hóa, Quốc hội, báo chí,… 1. Thổ dương: Bản chất của Thổ. 2. Thổ âm: Các giá trị chung mới đang phát sinh, phát triển. Ban đầu còn ít, nhưng sẽ tăng nhanh và thắng thế… Quẻ Dịch gồm các quái chồng lên nhau: Thượng quái và hạ quái, thể hiện quan hệ tương tác giữa các lực lượng trong sự vật mà các quái trong quẻ làm đại diện. Thượng quái: Khách thể, bị trị, bị động, đóng vai trò âm, … Hạ quái: Chủ thể, cai trị, chủ động, đóng vai trò dương, … Trên cơ sở ý nghĩa của các quái ta có thể dễ dàng hiểu ý nghĩa của các quẻ Dịch một cách logíc, khoa học và không còn huyền bí, khó hiểu.1 like
-
3. Quan hệ của Ngũ hành Những lực lượng trong sự vật quan hệ với nhau trong sự tương tác thống nhất và mâu thuẫn. Các quan hệ được tổng hợp thành 2 quan hệ cơ bản là tương sinh và tương khắc. uan hệ tương sinh: A sinh B, ký hiệu A -> B. Trong quan hệ này, các yếu tố của lực lượng A hỗ trợ cho lực lượng B phát triển hoặc chuyển từ A sang B. Bản chất của quan hệ này là ở chỗ, tác động của A trong tương tác với các lực lượng khác làm cho B thu được nhiều giá trị mới, kết quả của tương tác âm dương, hơn. Quan hệ tương khắc: A khắc B, ký hiệu A --- > B. Trong quan hệ này, những yếu tố của lực lượng A trong quá trình tương tác với các yếu tố khác trong Vạn tượng gây nên những hiệu ứng làm cho B không thu được nhiều giá trị mới, được tạo ra trong quá trình tương tác âm dương, làm cản trở sự phát triển của B. Người ta quan sát và phát hiện ra rằng, trong quan hệ tương sinh A sinh B, nếu A quá vượng (mạnh), thì B không những không phát triển tốt hơn lên, không thu thêm được nhiều giá trị mới hơn mà còn bị suy giảm đi, thu được ít giá trị mới hơn. Lúc này, quan hệ tương sinh chuyển thành quan hệ được gọi là tương thừa, một thái quá của tương sinh: A tương thừa B. Trong quan hệ tương khắc, nếu A khắc B, nếu A quá yếu, B quá vượng thì A không những không thể khắc B mà còn bị B triệt. Quan hệ tương khắc chuyển thành quan hệ tương vũ, một trường hợp bất cập của tương khắc: A tương vũ B. Tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ là những quan hệ cơ bản của các yếu tố trong sự vật. Quan hệ tương sinh, tương khắc phổ biến trong sự phát triển ổn định của sự vật, thời kỳ Hậu thiên. Quan hệ tương thừa, tương vũ sảy ra khi sự vật trở nên thái quá hay bất cập, có những yếu tố quá vượng hay quá yếu. Dưới đây ta xét quan hệ 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ trong trạng thái phát triển ổn định của Vạn tượng, tức là chỉ bao gồm các quan hệ tương sinh và tương khắc. Như trên đã chứng minh, quan hệ Tam tài như sau: Dương khắc Âm: Dương --- > Âm m sinh Chung: Âm ->Chung Chung khắc Dương: Chung --- > Dương Mặt khác, như đã thấy, Hoả là bản chất ban đầu của Âm , Thuỷ là bản chất của Dương và Thổ chính là Chung trong Tam tài khi mô tả sự vật bằng cấu trúc ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Do đó: Thuỷ khắc Hoả: Thuỷ --- > Hoả oả sinh Thổ: Hoả -> Thổ Thổ khắc Thuỷ: Thổ --- > Thuỷ Ở đây ta thấy một cấu trúc quan hệ cơ bản sau: Nếu : A sinh B. C khắc A. Thì B khắc C. Điều này được lý giải như sau: Mọi sự vật phát triển, tương tác với các sự vật khác luôn có xu hướng giành lấy nhiều nhất có thể được lợi ích cao nhất hay giá trị mới nhiều nhất. Khi A sinh B mà C khắc A thì, để bảo vệ lợi ích của mình, B phải khắc C. Quan hệ này có thể coi như một quan hệ cơ bản, dùng để xác định các quan hệ của các đối tượng trong sự vật, gọi là quan hệ cơ bản 1. Như ở trên ta đã xác định được quan hệ của Kim – Thuỷ và Mộc – Hoả như sau: im sinh Thuỷ: Kim -> Thuỷ ộc sinh Hoả: Mộc -> Hoả Mặt khác, ta cũng đã xác định rằng, Kim và Mộc đóng vai trỏ Dương, Âm trong sự vật mới được sinh ra khi sự vật cũ mất đi. Do Dương khắc Âm nên quan hệ Kim – Mộc là: Kim khắc Mộc: Kim --- > Mộc. Do Kim sinh Thuỷ mà Thuỷ khắc Hoả nên, theo cấu trúc quan hệ cơ bản 1 đã xem xét ở trên ta được: Hoả khắc Kim: Hoả --- > Kim. Như trên ta cũng thấy, do Thuỷ khắc Hoả làm cho Hoả không thể quá động nên mới nảy sinh Mộc để kìm bớt tính động của Hoả. Có nghĩa là, sự tác động của Thuỷ tới Hoả là nguyên nhân sinh ra của Mộc, Do đó quan hệ của Thuỷ và Mộc phải là: huỷ sinh Mộc: Thuỷ -> Mộc Áp dụng quan hệ cơ bản 1 cho Thổ, Thuỷ, Mộc ta thấy: Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc nên: Mộc khắc Thổ: Mộc --- > Thổ. Lại Áp dụng quan hệ cơ bản 1 cho Thổ, Mộc, Kim ta thấy: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ nên: hổ sinh Kim: Thổ -> Kim Như vậy, 10 quan hệ tương tác lẫn nhau giữa 5 hành Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ đã được xác định như sau: Thuỷ khắc Hoả: Thuỷ --- > Hoả. Hoả sinh Thổ: Hoả Thổ. Thổ khắc Thuỷ: Thổ --- > Thuỷ. im sinh Thuỷ: Kim -> Thuỷ. ộc sinh Hoả: Mộc -> Hoả. Kim khắc Mộc: Kim --- > Mộc. Hoả khắc Kim: Hoả --- > Kim. huỷ sinh Mộc: Thuỷ -> Mộc. huỷ sinh Mộc: Thuỷ -> Mộc. hổ sinh Kim: Thổ -> Kim. Sơ đồ ký hiệu quan hệ ngũ hành như sau: Qua sơ đồ ta thấy có 2 vòng quan hệ tương sinh và tương khắc như sau: Quan hệ tương sinh: Kim -> Thuỷ -> Mộc -> Hoả -> Thổ -> Kim Quan hệ tương khắc: Thuỷ --- > Hoả --- > Kim --- > Mộc --- > Thổ --- > Thuỷ. Nhận xét trên sơ đồ ta thấy quan hệ cơ bản thứ 2 như sau: Nếu : A sinh B. B sinh C. Thì A khắc C. Quan hệ này cũng có thể coi như một quan hệ cơ bản, dùng để xác định các quan hệ của các đối tượng trong sự vật, gọi là quan hệ cơ bản 2. 4. Sự phân bố các yếu tố - nguyên lý trong Âm có dương, trong Dương có âm Trong thời kỳ Tiên thiên, sự phân hoá cùa sự vật thành các yếu tố của Tam tài Ngũ hành có thể biểu diễn như sau: Sự vật tiếp tục bị phân hoá thành các yếu tố thứ cấp bậc 3 như sau: Như vậy, trong thời kỳ Tiên thiên: Trong hành Thuỷ có 2 quái CÀN vả ĐOÀI. Trong hành Mộc có 2 quái CHẤN và LY Tronh hành Kim có 2 quái TỐN và KHẢM Trong hành Hoả có 2 quái KHÔN CẤNTrong thời kỳ Hậu thiên, do mâu thuẫn âm dương, các yếu tố bị phân bố lại theo nguyên lý trong âm có dương, trong dương có âm, trong Thái có Thiếu như sau: Đối với các Hành: Đối với các Quái: Như vậy, trong thời kỳ Hậu thiên: Trong hành Thuỷ có 2 quái CÀN vả KHẢM. Trong hành Mộc có 2 quái CHẤN và CẤN Tronh hành Kim có 2 quái TỐN và ĐOÀI Trong hành Hoả có 2 quái KHÔN và LY1 like
-
IV./ CÁC YẾU TỐ ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH CỦA MỘT SỰ VẬT … 1. Sự xuất hiện Tứ tượng, Bát quái, … Vạn tượng không ngừng phát triển do tương tác âm dương tạo ra ngững giá trị mới. Sự phát triển đó của Vạn tượng phải được thể hiện bằng những lực lương của nó là Âm Dương và Chung. Nói cách khác, Âm, Dương cũng phát triển không ngừng. Dưới tác động của tương tác âm dương, chúng liên tiếp bị phân hoá thành những yếu tố khác nhau giống như Đạo bị phân hoá thành âm, dương vậy. Mầm mống của những yếu tố đó vốn có sẵn trong vạn tượng, tức là trong bản thân chúng do Vũ trụ bao trùm và bao hàm tất cả. Khi có điều kiện thuận lợi do quá trình tương tác âm dương mang lại, những mầm mống ấy phát triển, trở thành những lực lượng tương ứng trong Vạn tượng. Dương phân hoá thành Thái Dương và Thiếu Dương. Âm phân hoá thành Thái Âm và Thiếu Âm. Sau đó: Thái Dương phân hoá thành Thái Thái Dương và Thiếu Thái Dương. Thiếu Dương phân hoá thành Thái Thiếu Dương và Thiếu Thiếu Dương. Thái Âm phân hoá thành Thái Thái Âm và Thiếu Thái Âm. Thiếu Âm phân hoá thành Thái Thiếu Âm và Thiếu Thiếu Âm. Tiếp theo: Thái Thái Dương phân hoá thành Thái Thái Thái Dương và Thiếu TháiThái Dương. Thiếu Thái Dương phân hoá thành Thái Thiếu Thái Dương và Thiếu TháiThiếu Dương. Thái Thiếu Dương phân hoá thành Thái Thái Thiếu Dương và Thiếu Thái Thiếu Dương … Ở đây: - “ Thái” chỉ yếu tố ban đầu trở thành sau khi phân hoá. - “Thiếu” chỉ yếu tố mới sinh ra trong quá trình phân hoá. - Dương, Âm chỉ bản chất ban đầu của yếu tố. Dương có tính “tịnh”, ám chỉ xu thế bảo toàn bản chất ban đầu, chống lại sự thay đổi. Âm có tính “động”, ám chỉ xu thế làm biến đổi bản chất ban đầu. Để thuận tiện, người ta dùng những ký hiệu để biểu diễn những yếu tố đó như sau: Qui tắc ký hiệu như sau: +Yếu tố thứ cấp bậc n dùng n hào chồng nhau để ký hiệu. + Haò dưới cùng chỉ bản chất âm dương của yếu tố được ký hiệu. + (n – 1) hào dưới cùng chỉ nguồn gốc xuất phát của yếu tố được ký hiệu từ các yếu tố thứ cấp bậc (n – 1). + Hai hào trên cùng xác định tính “Thái”, “Thiếu” của yếu tố được ký hiệu. Nếu chúng giống nhau thì yếu tố là “Thái”. Nếu chúng khác nhau thì yếu tố là “Thiếu”. Tức là những cặp hào trên cùng xác định “Thái”, “Thiếu”, hào cuối cùng xác định bản chất âm dương của yếu tố. Vạn tượng sinh hoá liên miên trong quá trình tương tác âm dương bằng cách phân hoá thành các yếu tố “thái”, “thiếu” của các thứ cấp có bậc khác nhau. Mỗi một yếu tố đó cũng lại phân hoá tương tự như đối với Vạn tượng, hay mỗi yếu tố đó gọi là một “tượng”, một “tiểu vũ trụ” và được phân tích tương tự như trên, có tính đến ảnh hưởng của “đại vũ trụ”. Mỗi một “tiểu vũ trụ” phát triển đều do sự tương tác âm dương của “đại vũ trụ”, nên ngoài những qui luật đặc thù, vốn cũng có bản chất âm dương như những qui luật chung, còn chịu ảnh hưởng của toàn vũ trụ và nằm trong sự tiến hoá của “đại vũ trụ”. Vật chất mà chúng ta thường quan niệm cũng chỉ là một “tượng” trong đại vũ trụ mà thôi. Cái “tượng” ấy chúng ta tạm gọi là “sự vật” trong các nghiên cứu sau đây. Ngoài vật chất ra còn rất nhiều những “tượng” khác trong Vạn tương mà chúng ta chưa rõ hoặc chưa biết, thậm chí hoàn toàn chẳng có một khái niệm nào về chúng. Nhưng dù chúng có phong phú đến đâu đi chăng nữa, chúng vẫn nằm trong các qui luật của tương tác âm dương. Người xưa đặt tên cho các yếu tố thứ cấp Bát quái như sau: Thái thái dương: CÀN Thiếu thái dương : ĐOÀI Thái thái âm: KHÔN Thiếu thái âm: CẤN Thái thiếu dương: CHẤN Thiếu thiếu dương: LY Thái thiếu âm: TỐN Thiếu thiếu âm: KHẢM1 like
-
ĐỀ CƯƠNG ĐẠI CƯƠNG CƠ SỞ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH *** I./ BẢN THỂ VŨ TRỤ Bản thể của vũ trụ là “Đạo” hay “Chân như” vốn vô thuỷ, vô chung, bất khả tư nghị, hàm chứa và bao trùm tất cả mà không phân biệt. Do hàm chứa và bao trùm tất cả nên Đạo tràn đầy, viên mãn. Do không phân biệt nên Đạo vô cùng thông biến. Do bất khả tư nghị nên không thể dùng lời mà có thể định nghĩa hay diễn tả chính xác, chỉ có thể cảm thấy, nhận thức được, mô tả một cách tương đối, người xưa “gượng” mà diễn đạt Đạo một cách hình tượng là hình tròn. Do Đạo không phân biệt nên nó chí tịnh, đồng thời, do hàm chứa tất cả nên nó hàm chứa tính động – âm. Khi tính âm thể hiện cái dụng của nó là động, dù còn vô cùng nhỏ, nhưng ở trong cái chí tịnh của Đạo, nên vẫn xuất hiện sự phân biệt của phần Đạo còn lại với nó được gọi là tính dương. Tính âm và tính dương chỉ là những thuộc tính nên chúng thể hiện mình ra thông qua những lực lượng tương ứng, xuất hiện cùng với chúng gọi là lực lượng âm, lực lượng dương. Do có sự phân biệt âm dương, nên lực lượng âm, lực lượng dương tương tác nhau hình thành Vạn tượng. Trong quá trình tương tác âm dương đó, Vạn tượng sinh sinh hoá hoá liên miên từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp … tạo nên thế giới, vũ trụ ngày nay. Như vậy, bản thể của vũ trụ là Đạo hay Chân như vốn bất khả tư nghị. Cái Tướng của nó là Vạn tượng cùng cái Dụng của nó là cái lý tương tác âm dương. Quán về vũ trụ ta phải quán trên cái thế chân vạc Thể - Tướng – Dụng của nó như thế. Như vậy, Vạn tượng sinh ra từ Đạo, là kết quả của tương tác âm dương, người xưa diễn đạt nó một cách hình tượng là hình vuông, phân biệt với hình tròn là Đạo. Âm được ký hiệu là một nét đứt, còn dương – một nét liền. II./ TAM TÀI Vạn tượng là cái tướng của Vũ trụ, sinh sinh hoá hoá liên miên bất tận theo cái lý âm dương. Cái lý của âm là động, tức là luôn biến đổi, có xu hướng phá vỡ trạng thái ban đầu, đổi mới và uyển chuyển … Cái lý của dương là tịnh, tức là có xu hướng bảo tồn cái trạng thái ban đầu, bảo thủ, cứng mạnh … Sự tương tác của âm, dương là nguyên nhân, động lực phát triển của Vạn tượng. Vạn tượng sinh hoá, phát triển, có nghĩa là nó biến đổi, hay có những giá trị mới được tạo ra trong quá trình tương tác của các lực lượng âm, dương làm tăng tính phức tạp, cũng như số lượng của Vạn tượng. Những giá trị mới đó chính là kết quả của sự tương tác âm dương, đồng thời cũng bổ xung cho lực lượng âm lực lượng dương, làm cho lực lượng âm, dương cũng không ngừng phát triển cùng vạn tượng. Hệ quả tiếp theo là tăng cường hơn nũa sự tương tác âm dương và những giá trị mới lại được tạo ra nhiều hơn nữa. Trong quá trình tương tác, tạo ra những giá trị mới làm cho Vạn tượng không ngừng biến đổi và phát triển, cả lực lượng âm lẫn lực lượng dương đều có xu hướng giành lấy cho mình giá trị mới đó càng nhiều càng tốt. Nhưng mức độ chiếm đoạt giá trị mới đó tuỳ thuộc vào tương quan giữa khả năng chiếm đoạt của lực lượng âm và lực lượng dương trong Vạn tượng. Như vậy, trong quá trình phát triển của Vạn tượng, lực lượng âm, dương không ngừng tương tác làm nảy sinh những giá trị mới, đồng thời chúng cũng không ngừng tranh giành chiếm đoạt những giá trị mới đó. Đó chính là nội dung của sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập là các lực lượng âm, dương trong Vạn tượng. Để tạo ra những giá trị mới, các lực lượng âm, dương phải thống nhất với nhau trong tương tác. Nếu chỉ có một mình lực lượng âm hay một mình lực lượng dương, sẽ không có sự tương tác âm dương và giá trị mới không thể nảy sinh. Cả lực lượng âm và lực lượng dương đều có xu hướng chiếm đoạt giá trị mới này. Để có thể chiếm đoạt, trước tiên giá trị mới phải được tạo ra. Để được tạo ra giá trị mới, lực lượng âm, dương phải thống nhất với nhau trong tương tác. Vì tranh giành những giá trị mới - sản phẩm của quá trình tương tác âm dương – các lực lượng âm, dương đấu tranh với nhau, và vì thế mâu thuẫn với nhau. Giá trị mới được tạo ra tuỳ thuộc vai trò và qui mô của các lực lượng âm, dương trong quá trình tương tác, còn mức độ chiếm đoạt giá trị mới tuỳ thuộc vào sức mạnh và khả năng chiếm đoạt của lực lượng âm và lực lượng dương tương quan như thế nào. Khi có sự tương ứng giữa vai trò tương tác và khả năng chiếm đoạt đó thì Vạn tượng phát triển tốt nhất. Lực lượng âm dương tuy mâu thuẫn nhưng đó là mâu thuẫn tích cực, kích thích Vạn tượng phát triển, ta nói Vạn tượng có trạng thái âm dương hài hoà. Còn nếu sự tương ứng đó không thoả đáng, Vạn tượng phát triển khó khăn hơn, mâu thuẫn lực lượng âm, dương tăng lên, cản trở Vạn tượng phát triển, ta nói Vạn tượng có trạng thái mất quân bình âm dương. Đặc biệt, khi sự mất quân bình này thái quá, mâu thuẫn lực lượng âm dương quá gay gắt có thể dẫn đến phá huỷ thế quân bình âm dương, trạng thái đó bị tiêu huỷ, sinh ra một trạng thái mới có sự quân bình âm dương mới. Ta nói, vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản. Do thống nhất với nhau trong tương tác, tạo ra những giá trị mới, mà trong các lực lượng âm, dương có hàm chứa những yếu tố, tuy khác nhau nhưng không mâu thuẫn, đấu tranh với nhau (thống nhất với nhau). Và tương ứng với những yếu tố đó, trong Vạn tượng có những lực lượng đại diện cho chúng, gọi là Chung. Trong Chung có những thành phần mà cả hai lực lượng âm, dương cùng thống nhất và tôn trọng, tuy khác nhau mà không mâu thuẫn, đấu tranh nhau. Phần còn lại của các lực lượng âm, dương thì mâu thuẫn, đấu tranh với nhau và được gọi là Âm, Dương. Như vậy, do thống nhất và đấu tranh với nhau giữa các lực lượng âm, dương, trong vạn tượng hình thành ba lực lượng là Chung, Âm, Dương với bản chất được mô tả ở trên, được gọi là Tam tài. Tam tài thể hiện sự tương tác thống nhất và đấu tranh với nhau của các lực lượng âm, dương trong vạn tượng. Quan hệ tương tác giữa ba lực lượng này làm cho Vạn tượng cân bằng và phát triển.1 like