-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 18/09/2010 in all areas
-
Cảm ơn sự chia sẻ của VinhL.Trong cõi trời đất này, Âm Dương hoán đổi. Mặt phải và mặt trái luôn bên song hành - dù lúc cái này hoặc cái kia vượt trội. Bên cạnh cái tốt là mặt xấu của nó. Bên cạnh cái xấu là mặt tốt của nó. Người hiểu được Âm Dương thì phát huy cái tốt, hạn chế cái xấu. Tôi luôn cố gắng khách quan và trung thực với điều tôi cho là đúng trong tìm hiểu chân lý. Bởi vậy, khen chê không phải là điều tôi quan tâm. VinhL yên tâm. Định mệnh là có thật mà. Một lần nữa cảm ơn VinhL2 likes
-
Bốn Mùa Mưa Nắng
hoangnt and one other liked a post in a topic by Hà Uyên
HỌC TA - HỌC TÂY - HỌC TẦU Danh tác "Sư thuyết - Hàn Dũ" viết: "Người sinh trước ta, người biết về đạo trước ta, ta học người và tôn xưng người là thầy ta ; Người sinh sau ta, nhưng người biết về Đạo trước ta, ta học người và tôn xưng người là thầy ta. Người là Thầy của Đạo ta, ta nào biết người sinh trước hay sau ta ? Cho nên, bất kể kẻ sang hay người hèn, bất kể thời gian học ít hay nhiều, Đạo sẽ tồn tại mãi mãi, thì Thầy ta vẫn mãi là Thầy ta." Thầy Lê Quý Đôn đánh giá cao môn Thái ất học. Ông nói: “ Thuyết Thái ất, phần nhiều nói về binh pháp. Địch ta, chủ khách, lợi hại, được mất, các cơ thịnh suy, trị loạn, cái thế thắng thua, yên nguy đều được diễn giải rõ ràng. Làm tướng mà không biết môn học Thái ất sẽ không biết rõ nên đánh hay giữ, tiến hay ngừng, khó quyết đoán các mưu kế khi ra trận địa. Trong triều đình nếu không biết môn Thái ất sẽ sai lầm ở sự động hay tĩnh, tiến công hay thoái thủ, khó quyết đoán những sách lược lớn.” 60 năm được tích lại bằng một ngày. Khi "thời gian" tích lại ngày một lớn, có nghĩa rằng tuổi ngày một liên quy tích lại, thì "vật chất" ngày càng mất dần đi. Con người, chính Ta với Thời gian là một thể thống nhất và đối lập. Phàm là 10 tuổi thích chạy, 20 tuổi thích đi nhanh, 30 tuổi thích đi bộ, 40 tuổi thích sự ngồi, 50 tuổi thích sự nghỉ, 60 tuổi thích sự nằm. Đến 60 tuổi cũng chỉ mới là một ngày vậy ! Lưỡi còn vì mềm, Răng rụng vì cứng. Lão tử đã nhận xét rằng "Trên đời này không gì mềm như nước. Thế mà để chinh phục cái cứng thì không gì tuyệt vời hơn nó. Mềm khắc cứng ". Chữ "khắc" này, cũng như ngày nay ta nói: "Kiểm soát các trình tự", ví như Mộc điều khiển Thổ, Thổ kiểm soát Thủy,... Thuyết Ngũ hành đã được Lão Tử đặt vấn đề tham gia bằng trực giác của bản thân. Trực giác này được thể hiện dưới dạng hình ảnh cảm tính cụ thể, đã hợp nhất trực giác và trí tưởng tượng của con người, còn chủ thể và khách thể là không phân biệt được. Điều này, có nghĩa rằng cái " Tôi " đã được thay thế bởi cái " Nó " vậy. Nhìn tới nhóm ngành Tự nhiên Kỹ thuật cơ bản, so với nhóm ngành Xã hội nhân văn, có thể thấy ngôi vị yếu thế về số lượng con người cũng như chất lượng của nhóm Xã hội Nhân văn. Trong chương trình học những ngành xã hội nhân văn cơ bản, bao gồm ngành tâm lý học, xã hội học, kinh tế học,..., thì phần toán thống kê trong nghiên cứu empirical (ngược với theoretical), nghĩa là phải dựa vào số liệu điều tra, phỏng vấn, quan sát lấy số liệu qua bảng thăm dò, hỏi,... đóng vai trò then chốt. Khoa học là tìm đường tiệm cận chân lý (ở đây là xã hội, các hoạt động, là con người, tâm lý, quy luật kinh tế...). Đối với những người trong nhóm Xã Hội Nhân Văn, phải chăng trong một chừng mực nhất định, chân lý đã có sẵn và "khoa học" Xã hội Nhân văn cần phải làm sao, để ra được một kết quả như chân lý đã định. Điều này, dường như ngược lại với quy trình dụng sự trong tự nhiên. Hà Uyên2 likes -
2 likes
-
2 likes
-
Cát & Đá
ntpt liked a post in a topic by Mai Tím
Cát & Đá Có hai người bạn đang dạo bước trên sa mạc. Trong chuyến đi dài, hai người nói chuyện với nhau và đã có một cuộc tranh cãi gay gắt. Không giữ được bình tĩnh, một người đã tát người bạn của mình. Người kia rất đau nhưng không nói gì. Anh chỉ lặng lẽ viết lên cát rằng: "Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã tát vào mặt tôi." Họ tiếp tục bước đi cho tới khi nhìn thấy một ốc đảo, nơi họ quyết định sẽ dừng chân và tắm mát. Người bạn vừa bị tát do sơ ý bị trượt chân xuống một bãi lầy và ngày càng lún sâu xuống. Nhưng người bạn kia đã kịp thời cứu anh. Ngay sau khi hồi phục, người bạn suýt chết đuối khắc lên tảng đá dòng chữ: "Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi." Người bạn kia hết sức ngạc nhiên bèn hỏi: "Tại sao khi tớ làm cậu đau, cậu lại viết lên cát còn bây giờ lại là một tảng đá?" Và câu trả lời anh nhận được là: "Khi ai đó làm chúng ta đau đớn, chúng ta nên viết điều đó lên cát nơi những cơn gió của sự thứ tha sẽ xóa tan những nỗi trách hờn. Nhưng "Khi chúng ta nhận được điều tốt đẹp từ người khác, chúng ta phải ghi khắc chuyện ấy lên đá nơi không cơn gió nào có thể cuốn bay đi." Hãy học cách viết những nỗi đau lên cát và khắc tạc những niềm vui và hạnh phúc bạn tận hưởng trong cuộc đời lên tảng đá để mãi không phai Sưu tầm1 like -
Chú cũng thích chơi tò he hồi cn nhỏ. Tò he làm bằng đường, thổi chán thì ăn luôn, rồi lấy cái tò he bằng ông trúc, tre thổi tiếp. Khi chú ngậm ống trúc, tre đó chú chỉ thấy hồn Việt trong chú. Không thấy văn hóa Hán ở đấy. Đường mía làm tò he là sản phâm ở miến Nam Dương tử. Dân miền nam Dương tử ăn gạo, chứ không dùng bột mỳ http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/grin.gif .1 like
-
Sỏi là thứ trên sông suối và trải trên mặt đất. Nay để lên cao - nóc , sân thượng thì âm khí vượng. Cũng tùy. Nếu nhà Dương khí vương để sỏi cũng không sao.1 like
-
milosftu bạn thi chứng chỉ anh văn phải không? Chúc bạn thi tốt nha1 like
-
1 like
-
Chương Thứ Nhì Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm Tự Bát Đoạn Cẩm là tám phép luyện gân thịt và khí lực cho đặng sung mãn, giúp ích sống lâu vui hưởng cuộc đời. Người có sức khỏe thì giống người đi buôn có vốn, muốn mua hàng hóa gì cũng tùy nghi. Tập Bát Đoạn Cẩm này trẻ mau lớn, học giỏi, khôi ngô, mặt mày sáng sủa, lành mạnh tư tưởng. Trung niên tăng thêm khí lực, phát triển khả năng tổng quát, nhờ đả thông kinh mạch mà huyết khí sung cường hăng say làm việc, tiến bộ mọi mặt, người có tuổi thường xuyên luyện tập huyết khí luân chuyển và thay đổi luôn luôn nên da dẻ hồng hào, gân xương hoạt bát chận đứng tuổi già, yêu đời vui sống, thật là hạnh phúc lâu dài, các môn thể dục vận động Tây Phương không có môn nào so sánh được. Vì môn Bát Đoạn Cẩm có công năng hướng dẫn và thúc đẩy huyết và khí luân chuyển đều khắp trong châu thân nên tránh khỏi các bệnh tê thấp vì máu thiếu và cứng động mạch khi tuổi già. Tuổi trẻ tập Bát Đoạn Cẩm thân thể luôn luôn cường kiện, tinh thần luôn luôn linh mẫn, tuổi già thì thần thái uy nghi mà thân thể thì nhẹ nhàng tâm hồn khoáng đạt. Các Thiền Sư xưa, các Đạo Gia cổ lúc nào trông cũng phiêu hối mà người đời thường dùng chữ Tiên Phong Đạo Cốt để chỉ là nhờ tập thường môn học này. Từ đời xưa cho đến nay có nhiều loại Bát Đoạn Cẩm được lưu truyền trong mọi giới, đến nổi mỗi người làm mỗi khác, số động tác cùng cách phép cũng đều sai biệt và số lần tập cũng khác nhau, đến có khi hơn tám (Bát) đoạn, có khi tới 12 đoạn, 24 đoạn. Và cách tập tùy lúc đứng, ngồi, nằm v…v…thật là không có phép tắc gì và cũng chẳng ai giải thích gì về sự hiểu biết của mình trong khi truyền bá và rèn luyện các môn Bát Đoạn Cẩm đó. Người có kiến thức chút xíu thì nói là của Tiên gia, v…v.. rồi cũng chẳng thể giải thích được gì hơn nên cứ ậm ừ trở tránh khi có người hỏi tới. Đa số các bậc thầy chỉ dạy làm chớ không dạy cho hiểu. Thôi thì hậu sinh chỉ nhắm mắt làm càn làm đại, tưởng tượng thần thoại lờ mờ mà chẳng hiểu mô tê lợi ích ra sao. Thương thay. Kẻ viết sách xưa nay chẳng hơn gì nhau mấy, thường rắp khuôn sao chép cho có bản, cho có tên mình in trên sách… đôi khi vì binh danh, đôi lúc vì có tâm hồn “Puôn Pán” mà nhắm mắt làm đùa chẳng chịu tham cứu học hỏi trước khi đặt bút thảo chương. Việc nầy không riêng trong lãnh vực nghề võ, mà các ngành văn nghệ khác cũng thế. Phải xét lại hết thảy. Xét luôn cả các văn gia học giả bên Tàu nữa chớ chẳng phải riêng chi xứ mình, các văn gia cở lớn của triều đình nhà Thanh cũng làm sách giả bán lấy tiền (thời buổi cực loạn thì lắm sự hư hoại phát sinh, từ thời Thanh sơ đến Văn Thanh, nhân dân Trung Quốc sống thời đại loạn còn hơn nước ta bây giờ) còn thiên hạ thì mặc tình. Nay học giả đọc sách nầy cần nên hiểu cho chánh lý là trong bầu trời có hai loại Bát Đoạn Cẩm mà thôi. Một của Đạo Gia và một của Phật Gia, có thể gọi là hai ngành Bát Đoạn Cẩm cũng đúng. Môn Bát Đoạn Cẩm của Đạo Gia vì chỗ tự tiện của đạo sĩ và nho sĩ xu thời đã bày lắm thứ, nhiều môn đặt nhiều bài bản lắm hiệu lắm tên nhưng chung quy ý vẫn nằm trong hơi thở, tức chủ trương vận dụng khí lực, gọi văn hoa là Đạo Dẫn Thuật hay Vân Khí Thuật. Bài bản lu bù (nhiều) nhưng người hiểu biết thấy rõ chân tánh, người kém cỏi mờ mịt nên khó thể học hành tới nơi tới chốn. Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm không có nhiều bản cho lắm, đó là nhờ Thiền môn có tổ chức quy mô (trong chùa có nhiều ban nghiên cứu…viết sách, v..v..) nên lưu truyền được chánh bổn. Nhưng dù thế vẫn thấy được hai loại Bát Đoạn Cẩm. Loại nào cũng đúng tám đoạn, một loại chủ luyện gân xương và một loại chủ luyện khí lực. Mỗi loại có chỗ thái quá và thiếu quá. Để dung hòa cho đặng vẹn toàn, một bản Bát Đoạn Cẩm đầy đủ cả hai phần Luyện Gân Lực và Khí Lực được trình bày trong sách nầy. Nhờ sự sửa đổi (canh tân) nầy mà thiền sư và chúng môn đồ võ lâm, nhân loại được toại nguyện trên đường tu tập. Và bây giờ môn Bát Đoạn Cẩm toàn hảo nầy được truyền bá rộng rãi trong đại chúng làm nổi danh môn phái Thiếu Lâm ra cùng khắp Ngũ Đại Châu. Nhưng mà thế nào là các thế tập Vận Lực và thế nào là các thế Vận Khí? Điều nầy quí học giả sẽ được thấy và cảm nhận được ngay trong chương nầy, ở phần kế tiếp liền sau đây. Và để thưởng thức trước khi đi vào thực luyện, (giống như ta mở mũi hít hơi thơm của món ngon tưởng tượng cho đã cái rồi sau đó mới gắp đồ ăn đưa vào nhai…), soạn giả xin trình là trong Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm hễ đoạn nào đứng thẳng đầu gối mà tập thì thế đó dùng luyện khí, đoạn nào đứng tấn Kỵ Mã mà tập thì dùng luyện Gân. Có vậy thôi, đơn giản thấy rõ, dể hiểu thấy rõ. Tuy thế, đoạn luyện khí cũng có vận lực phù trợ chớ chẳng phải tưởng tượng khơi khơi mà được, cũng như khi luyện gân cũng có vận khí trợ lực. Có sự bổ hợp như thế mới mau thành công, mới có sự liên hoàn động tác, chuyển động gân xương, thúc đẩy khí huyết, đả thông kinh mạch tạo dựng một thân thể cường tráng, uy nghi. Khi hiểu được những điều cần thiết (yếu quyết) nầy rồi thì không còn lo lắng, ngại ngùng lúc bắt tay vào việc luyện tập, cũng như chẳng thể có tập luyện mà chẳng có thành công. Hơn nửa đời soạn giả Cư Sĩ tôi chưa hề một lần làm chuyện gì mà mình chưa thấy hiểu ý nghĩa của sự việc, thì đối với chư học giả, võ gia, quân tử, soạn giả vẫn muốn quí vị thực hành theo con đường đó để sớm thành công. Đó là con đường sự thật, tri tri. Nay thì chư hiền đã rõ hiểu lý thuyết của Bát Đoạn Cẩm rồi, vậy xin mời nghiên cứu thực hành các động tác co duỗi sau để thân thường được mạnh khỏe, trí thường được thanh thản, hầu tài năng thiên bẩm được đà phát triển tối đa hỗ trợ đời, đi vào lịch sử…(Ai cũng đi vào lịch sử khi mà mình đã tự biết mình, ít ra cũng làm nên lịch sử vì mình đã có tích sự trong đời.) Nào, mời chư học giả thực hành cho biết Đạo vị lành mạnh mà từ cổ xưa không một ai được tôn vinh là thánh hiền mà không biết đến. I. CÁCH LUYỆN TẬP BÁT ĐOẠN CẨM Như học giả đã biết là Bát Đoạn Cẩm gồm có tám phép luyện tập, và không nói ai cũng hiểu đều phải tuần tự tập luyện tuần tự từ phép một cho đến khi hết trong một buổi tập, theo đúng phương pháp sẽ được giảng tới trong phần thực hành kế sau. Nhưng muốn thực hành cho hết tám phép trong một buổi tập thì trước tiên học giả phải thuần thục từ phép một theo phép tuần tự nhi tiến (học từ từ theo thứ tự). Việc nầy không khó, chỉ cần thời gian ngắn là ai cũng thực hành được một cách tự nhiên. Điều cần chú ý khi thực hành là phải quan tâm làm đúng từ động tác một của mỗi Đoạn (mỗi đoạn có nhiều động tác) và làm đủ số lần cần phải lập lại cho mỗi động tác. Khi chấm dứt đoạn thứ nhất thì liền đó luyện tập đến đoạn thứ nhì sau khi buông tay nghỉ thong thả 3 phút đồng hồ. (Nếu đã thuần thì thời gian nghỉ chừng một phút đã đủ) tính ra thong thả mà tập thì người mới mỗi sáng có thể dành khoảng 45 phút để thao luyện và khi đã thuần rồi thời gian luyện tập rút lại còn 20 đến 25 phút là cùng. Số thời giờ ấy rất khiêm nhường so với bất kỳ môn thể thao vận động nào mà sự thành quả thâu đạt được lại tốt đẹp vượt bực hơn tất cả. Khi mới tập thì chú trọng về hình, nghĩa là sao cho đúng cách theo sách chỉ dẫn từ cách gồng chuyển chân tay, co vào, duỗi ra, hít thở, trợn mắt ….Muốn được như thế thì nên treo tấm kiếng (gương) để nhìn cho thấy chỗ sai mà sửa đổi. Nếu có người cùng tập sửa cho nhau thì càng hay hơn. Lúc thuần thục chú trọng tới ý, nghĩa là hơi thở được quên đi, động tác xóa bỏ mà chỉ quán tưởng thấy cái dụng ý của mỗi đoạn (ý tứ đó là ý nghĩa của mỗi câu khẩu quyết của mỗi đoạn, xem trong phần thực hành chương nầy.) Bao giờ làm được từ hình thức tới ý thức thì động tác lưu đi mà tâm như quên như nhớ, huyết mạch cuồn cuộn chuyển lưu, khí lực rần rần tụ tán trong mỗi co duỗi chân tay…bài tập trôi mau đến khi chấm dứt thì tự động dừng ấy nhờ Thần. Học giả tập đến bao giờ được như thế thì thân tâm trống không, cơ thể nhẹ nhàng vui tươi như trẻ, ăn uống ngon lành, ngủ nghê khoái lạc, đến như những công việc hàng ngày cho là rối rắm, mệt nhọc thì nay như đồ chơi và ngày giờ qua mau. Vì biết được thời giờ qua mau nên không phí thì giờ, do đó thành công hơn đời là như vậy đó. Không tập không biết, tập rồi biết ngay, việc nầy người ta ví đường có đi mới biết, chuông có đánh mới kêu. Kẻ lảm biếng thần trí ỉu lờ, lù đù chậm chạp, ngu ngơ việc đời trăm việc cũng tại không người hướng dẫn, nếu biết được phương pháp này mà chuyên cần học luyện thì đời sống đổi khác tức thời, thậm chí đến như tuổi già là cái luật định của tạo háo mà Bát Đoạn Cẩm còn cản được huống hồ. Về chỗ (vị trí) để luyện tập thì không gì tốt hơn nơi yên tĩnh và thoáng khí, không khí trong sạch bao giờ cũng là thức ăn bổ, là liều thuốc quí cải tạo sinh lực con người. Do đó có thể chọn một khoảng trống sạch sẽ cao ráo trong vườn (nếu ở nhà quê), trong sân, hoặc trong phòng nơi có cửa sổ mở thoáng mát ra hướng khô ráo sạch sẽ (khuông cửa phải lau chùi hết bụi bặm thường xuyên, nếu ở nhà sàn trên sông, trên thuyền, tàu thì đợi nước lớn không khí trong sạch mới tập.) Tốt nhất là tập vào mỗi sáng, tập xong đợi 10-15 phút sau tắm nước lạnh chà xát da bằng khăn bong, xơ dừa…. thì sau đó một ngày đẹp nhất định sẽ đến với chúng ta, vì chung quanh ta ai cũng là người đáng thương, đáng mến, đời sống thật có nhiều ý nghĩa… Tóm lại, khởi sự tập Bát Đoạn Cẩm phải: 1. Thuộc và làm đúng hình thức bên ngoài của từng động tác trong mỗi đoạn. 2. Khi thuộc Hình rồi phải thuần Ý, là cái mà mỗi khẩu quyết ghi rõ. 3. Lựa chỗ thoáng, sạch mà tập mỗi buổi bình minh, nếu không tập buổi tối sau bữa cơm hơn 3 giờ đồng hồ. 4. Tập xong 15 phút sau tắm và chà xát da. Uống một ly nước lọc sạch trước khi tập và sau, ly nhỏ thôi. I. TÁM ĐOẠN CỦA BÁT ĐOẠN CẨM Bát Đoạn Cẩm gồm có 8 đoạn, mỗi đoạn có một mô thức (hình dáng, thể thức) huấn luyện cơ thể khác nhau. Khác nhau từ cử động cho đến thần ý. Vì lẽ Bát Đoạn Cẩm được chế tạo để luyện tập cho đặng hiệu quả trong việc kiến tạo một thân thể cường tráng từ ngoài (Ngoại tráng) và cả bên trong (Nội tráng). Ngoài ra Bát Đoạn Cẩm còn dung để trị liệu những bệnh trạng yếu nhược hư hao thường thấy trong mình của người đời. Ví như ai thường ngày hay uể oải thì tập Bát Đoạn Cẩm sẽ khỏi ngay; ăn uống khó tiêu hóa tập sẽ hết ngay, hay mệt tập khỏe ngay. Người tập võ công bi nội thương cũng được trị lành, v..v… nói nhiều không hết. Tổng quát là Bát Đoạn Cẩm là Tám Phép Thần dung tập luyện cho cường kiện thể xác minh mẫn tâm thần và ngừa trị, hoặc trị mọi bệnh chứng thương, lao, cùng bồi bổ các cơ phận quan yếu giúp người hồi phục sinh lực trong đời sống lao động tiêu hao hàng ngày… Đây là phép thần, nhưng có tập luyện đúng thời mới Thần còn như đọc chơi cho biết mà không tập thì Thần cũng chẳng giúp được mình, giống việc hàng ngày cầu xin cúng kiến cho mình được phúc, lộc, thọ mà không làm việc gì bó gối ngồi chờ hoặc manh tâm hung ác, tà gian thì lộc, phúc nào đâu tới với mà thọ cũng giảm dần mau chóng theo ngày tháng vì cái tâm u ám nó hạ mình. Học giả biết như thế thì tưởng chẳng cần luận bàn chi cho dài dòng tốn giấy, mà vứt bỏ hết mọi lý sự bắt tay luyện tập các động tác sau thì trong mấy tháng đã có sự khởi sắc trong đời sống hàng ngày rồi. Tức là vui rồi, vui rồi cần gì nói nhiều nữa, mà có nói nhiều cũng lại càng thêm vui. Ấy, thành công đang chờ quý vị đây. Nào chúng ta hãy tiến tới… Nhưng muốn tiến tới hãy học cho thuộc lòng Tám Câu “Thần chú” sau để làm lộ phí, hành trang rồi hãy lên đường. II. KHẨU QUYẾT BÁT ĐOẠN CẨM: 1. Đệ Nhất Đoạn Cẩm: Lưỡng Thủ Kình Thiên Lý Tam Tiêu (Hai tay chống trời tưởng “tới” Tam Tiêu) 2. Đệ Nhị Đoạn Cẩm: Tả Hữu Khai Cung Tự Xạ Điêu (Trái phải dương cung “như” bắn chim điêu) 3. Đệ Tam Đoạn Cẩm: Điều Lý Tỳ Vị Đơn Cử Thủ (Điều hòa Tỵ vị “một” tay đẩy lên) 4. Đệ Tứ Đoạn Cẩm: Ngũ Lao Thất Thương Vọng Hậu Tiền (Năm Lao Ngũ Thương liếc nhìn “phía”sau) 5. Đệ Ngũ Đoạn Cẩm: Dao Đầu Bài Vĩ Khứ Tâm Hỏa (Lắc đầu vẫy đuôi [1] dứt “bỏ” tính nóng nảy) 6. Đệ Lục Đoạn Cẩm: Bối Hậu Thất Điên Bách Bệnh Tiêu (Sờ xương cùn 7 lần trăm bệnh tiêu) 7. Đệ Thất Đoạn Cẩm: Toàn Quyền Nộ Mục Tăng Khí Lực (Nắm chặt quyền, mắt giận [2] , tăng khí lực) 8. Đệ Bát Đoạn Cẩm: Lưỡng Thủ Phan Túc Cố Thận Eo (Hai tay kéo hai chân bền thận eo) Chú ý: Chữ nghiêng phiên nghĩa Khẩu quyết Bát Đoạn Cẩm chưa sát nghĩa lắm cần đọc rõ chi tiết mỗi đoạn mới biết được đầy đủ. [1]Vẫy đuôi: ý nói uốn éo mông đít như con rắn vẫy đuôi [2]Mắt giận: dịch chữ Nộ mục, ở đây nên hiểu là tập trúng ý lực nơi mắt như giận dữ và nắm quyền đấm ra làm tăng khí lực…1 like
-
Mệnh có thiên mã + tử phủ + lộc tồn ;đây là cách phù dư mã và chiết tiễn mã ,thêm xương -khúc trong đời sẽ có lần diện kiến nguyên thủ quốc gia , công danh sự nghiệp đều hanh thông toại nguyện suốt đời sống trong cảnh phú quí vinh hoa hay kề cận những người danh gia vọng tộc .Thân cư quan sát-phá-liêm-tham đều nhập miếu vượng + khốc- hư ; công danh sự nghiệp sẽ có ngày đật đến đĩnh cao danh vọng và được nhiều người biết tiếng . Tài bạc cung /vũ khúc miếu địa ,nếu đi về ngân hàng hay tài chánh thì sẽ giử những chức vụ then chốt và có thực quyền , có thể nói là giàu có ,tiền bạc kiếm dễ dàng của cải cũng nhiều nhưng không thể thành đại phú được vì có giải -thần tọa thủ sẽ làm hao tán thất thoát đi ,nói chung công danh sự nghiệp và tài lộc sẽ phát từ sau 32t . điền sản ; hưởng của phụ ấm lại rất ít sau tự tay tạo lập nên rất nhiều phúc đức hơi kém ;nên đi xa lập nghiệp thì mới tốt .1 like
-
Bốn Mùa Mưa Nắng
hoangnt liked a post in a topic by Hà Uyên
Chào Anh Thiên Sứ Tôi thống kê chu kỳ Đại Giáp Tí để Anh tham khảo, sau đó trao đổi cùng Anh về những tai biến trong năm 2011. THỨ TỰ CHU KỲ ĐẠI GIÁP TÍ: 1. Giáp Tí - Mộc tinh - tú Giác: 1924 - 1504 - 1084 - 664 - 244 - 177 tr.CN... => Thứ Năm (Thursday) 2. Giáp Tí - Nguyệt tinh - tú Tâm: 1984 - 1564 - 1144 - 724 - 304 - 117 tr.CN... => Thứ Hai (Monday) 3. Giáp Tí - Kim tinh - tú Ngưu: 2044 - 1624 - 1204 - 784 - 364 - 57 tr.CN... => Thứ Sáu (Friday) 4. Giáp Tí - Hỏa tinh - tú Thất: 2104 - 1684 - 1264 - 844 - 424 - 4 => Thứ Ba (Tuesday) 5. Giáp Tí - Thổ tinh - tú Nữ: 2164 - 1744 - 1324 - 904 - 484 - 64 => Thứ Bảy (Saturday) 6. Giáp Tí - Thủy tinh - tú Sâm: 2224 - 1804 - 1384 - 964 - 544 - 124 => Thứ Tư (Wednesday) 7. Giáp Tí - Nhật tinh - tú Hư: 2284 - 1864 - 1444 - 1024 - 604 - 184 => Chủ Nhật (Sunday) Hàng ngang cách nhau một Đại Giáp Tí 420 năm, hàng dọc cách nhau một Tiểu Giáp Tí 60 năm. Hiện nay, ta đang ở trong chu kỳ Đại Giáp Tí 1924 - 2284. Từ năm 1984 - 2044 là một Tiểu Giáp Tí, theo chu kỳ thời gian hình thành "Bốn mùa Vũ trụ", thì Trái Đất của chúng ta đang trong ngày Thứ Hai (Monday). Chúng ta hiện đang sử dụng hệ Lịch pháp được phổ cập toàn cầu theo một trật tự thống nhất, từ thứ Hai, tiếp theo là thứ Ba, thứ Tư ... còn đối với chu kỳ vận hành của các hành tinh thì lại theo một trật tự riêng biệt. Đây là một trong những nguyên nhân gây nên những biến động lớn cho hành tinh của chúng ta. Với những dữ liệu ban đầu thật mỏng manh, đó là tổ hợp thời gian Năm - Tháng - Ngày - Giờ, chúng ta khảo nghiệm lại di sản của tiền nhân, trên nguyên tắc "cũ xưa mới nay", từng bước chỉ rõ những giá trị mang lại lợi ích chung, đối với nơi cư trú của chính chúng ta vậy. Lý học Đông phương cũng từng bước khảo chứng và trải nghiệm, cũng đã tìm được tiếng nói chung với Lý học Tây phương, đó là sự hội tụ của ba hành tinh: sao Mộc + sao Hỏa + mặt Trăng, hay là sự tụ hội của nhóm: sao Thổ + mặt Trăng + sao Mộc,... Hà Uyên1 like -
@ tuyết rơi mùa hè 123, - Nhờ bố chồng đứng ra cúng động thổ và nhập trạch. Ngày động thổ: -11/10 : từ 9g00 đến 11g00. -15/10 : từ 9g00 đến 11g00. Trai Giáp Tý lấy gái Kỷ Tị. -Nếu là đám cưới thì không lên đèn, không bái gia tiên. -Chọn tháng 8 Tiểu Lợi, chọn tháng 9 thì Đại Lợi. -26/8 là ngày không tốt vì là Ly sàng. - Nên chọn ngày 24/8: 11g00 đến 13g00 hay 15g00 đến 17g00. Thiên Đồng1 like
-
Triển lãm bộ tranh dân gian Hàng Trống quý hiếm 149 bức tranh thuộc dòng tranh cổ quý giá của Hà Nội, thu thập trong vòng 10 năm, được nhà sưu tầm Phạm Đức Sĩ trưng bày tại Trung tâm nghệ thuật Việt, Hà Nội từ 9/9. Cảm thấy bất an trước sự tàn lụi của một dòng tranh truyền thống Hà Nội, của nền tảng tinh thần Hà Nội ngày trước, nhiều nhà sưu tập đã âm thầm đi lùng lại những bộ tranh Hàng Trống quý giá. Phạm Đức Sĩ là một trong số đó. Từ năm 2001, anh cất công tìm lại dòng tranh niên họa Hàng Trống phục vụ nhu cầu trang trí, chúc lành chúc phúc năm mới hoặc đốt thờ cúng cho người âm, làm bùa “trấn trạch” trong nhà của người thị thành. Bức "Lý thu vọng nguyệt". Trong bộ sưu tập của Phạm Đức Sĩ, có hàng chục bộ tranh trang trí vẽ theo các tích truyện (Chiến quốc; Tam quốc; Hán Sở tranh hùng), tranh thờ Đạo giáo của người thiểu số đặt hàng thợ Hàng Trống chế tác (Tam Thanh - Tày Nùng; Hành say - Dao Tiền). Ngoài ra còn rất nhiều tranh lẻ vẽ các ông Hoàng bà Mẫu để phục vụ tín ngưỡng đạo Mẫu (Ông Hoàng cưỡi cá; Ông Hoàng cưỡi lốt; Bà Chúa thượng ngàn; Bà Chúa thượng thiên…), tranh “trấn trạch” dán ở cửa và trong nhà để trừ tà ma. Và rất quý giá là những bức tranh Hàng Trống như nhật ký thời gian ghi lại cuộc sống của Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX (Hội Tây; Duyệt binh). Tuy nhiên, trong dịp này, Phạm Đức Sĩ chỉ trưng bày một phần trong số tranh sưu tập, gồm 22 bộ tranh (83 bức) và 66 bức tranh lẻ. Bộ tranh được trưng bày phần nào làm người xem hình dung ra một nền đồ họa Hàng Trống từng rất phong phú đa dạng. Bức "Nam tào". Nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Ngọc Khuê nhận xét, giá trị của tranh dân gian Hàng Trống được thể hiện trong nhiều tác phẩm, khó có thể bình luận được. “Chúng ta nên hiểu được ý nghĩa tượng trưng, huyền thoại, giáo lý giấu sau những hình hài cụ thể, phải tìm được cơ sở con người trong triết học, tôn giáo và tâm lý qua dòng tranh này”, ông nói. Phạm Đức Sĩ sinh năm 1967, là chủ xưởng mộc đóng khung tranh có tiếng gần Đại học Mỹ thuật Hà Nội. Khoảng từ năm 1999, anh bắt đầu sưu tập đồ gốm cổ, đến năm 2001, bắt đầu chuyển sang sưu tập tranh. Đến nay, anh đã có một số bộ sưu tập giá trị, bao gồm gốm Đông Sơn, gốm Hán; tranh cổ động trong thời kỳ chiến tranh; tranh thờ cúng Đạo giáo - Phật giáo của một số dân tộc Việt Nam, tranh Hàng Trống. Triển lãm mở cửa đến ngày 13/9. Ảnh: Một số bức tranh Hàng Trống do Phạm Đức Sĩ sưu tập Hòa Ca Ảnh: Phạm Đức Sĩ Nguồn: vnexpress.net1 like
-
1 like
-
8 điều nên tránh khi bài trí tượng Phật. Thờ cúng và bài trí tượng Phật trong nhà cũng cần biết những điều cấm kỵ giúp gia đình đạt được bình an và phú quý. Thông thường, trong mỗi gia đình theo Phật giáo đều có bàn thờ Phật, tranh Phật hay bài trí tượng Phật để cầu xin bảo hộ bình an, phát tài. Tượng Phật rất linh thiêng, vì vậy chúng ta nên chú ý đến những điều kiêng kỵ để tránh mang lại những điều không may đến cho gia đình. 1 - Sau khi mua tượng Phật, tuyệt đối không được khóa trong két bạc hay cất trong tủ kín giống các đồ quý khác như vàng, bạc, đá quý... Hành động này bị coi là bất kính nhất đối với tượng Phật. Nếu để tượng trong két bạc còn làm cho nhà xảy ra rất nhiều chuyện không hay, nhất là trẻ em hay bị ốm. 2 - Phòng ngủ là không gian riêng tư của gia đình. Vì vậy, không được bài trí tượng Phật hay vứt bùa phù hộ có hình tượng Phật lung tung trong căn phòng này, vì điều đó sẽ dẫn đến việc ngủ không ngon, hay mộng mị. 3 - Không nên mua tượng Phật một cách ngẫu hứng, tùy tiện. Trong nhà chỉ nên thờ nhiều nhất là ba vị và phải sắp đặt chung một bàn, càng nhiều tượng Phật thì người sống trong nhà càng cảm thấy phân tâm, bất an. 4 - Nếu tượng Phật trong nhà quá cũ, để lâu năm thì không được vứt hoặc ném vào một góc nào đó mà cần mua tượng Phật mới để thay và mang tượng Phật cũ lên chùa, miếu hoặc có thể đốt cùng tiền vàng (vào mùng 1, ngày rằm để tiễn tượng Phật quy vị). 5 - Nếu tượng Phật không may bị vỡ, không nên dùng chổi quét và vứt tùy tiện mà phải dùng giấy vàng gói lại, vào ngày mùng một, ba, năm, bảy, chín đốt dưới nắng, tiễn tượng Phật quy vị. Nếu ngón tay tượng Phật bị gãy thì nên dùng giấy đỏ cuộn lên rồi lắp vào, nếu thân Phật có vỡ, nên dán lại bằng giấy đỏ. 6 - Khi đặt tượng Phật lên bàn thờ, dưới tượng phải để một đĩa có giấy đỏ nhằm tỏ lòng thành kính và trang trọng đối với Phật. 7 - Trong khi thờ Tam thế Phật, phải sắp đặt chung một bàn. Nếu tượng lồng kính thì nên đặt ngay thẳng, không được cái cao, cái thấp, cũng không được cái to, cái bé; còn với tượng gỗ, tượng đồng, tượng sành, thì để ngang hàng đồng bậc, không nên để tầng trên, cấp dưới. 8 - Bàn thờ Phật không được bày theo hứng mà phải đặt chính giữa nhà. Bàn thờ ông bà thì nên thờ một bên. Nếu nhà cao tầng thì thờ Phật ở tầng trên. Tại bàn thờ Phật thì không nên để tạp vật nào khác, ngoài bình bông, lư hương, chân đèn và đĩa quả. Những vật này, mỗi ngày cần được săn sóc lau quét sạch sẽ. Ngoài ra, những tranh in hình Phật tuyệt đối không được cuộn lên, bởi làm như vậy sẽ gây đau đầu cho những người sống trong gia đình. Khi mắt, ngón tay của tượng Phật trong tranh bị hỏng thì phải sửa chữa hoặc vẽ lại, nếu không vẽ lại như cũ thì người sống trong nhà dễ bị mắc bệnh đối ứng chỗ tượng Phật. Theo ARCHI nguồn tintuconline1 like
-
1 like
-
:lol: Cháu nhớ có lần bác nói là Hỏa tinh gặp đào hồng nên đương số nôn nóng gặp người yêu hay sao ấy ạ. Hì, cháu vào diễn đàn cũng được 1 thời gian, học được rất nhiều từ những lời luận giải của bác, cháu rất biết ơn nhưng cứ áy náy vì mỗi lần như thế lại tạo comment mới để cảm ơn thì thật rườm rà làm loãng topic của đương số. Đến hôm nay cháu mới để ý thấy cái chức năng cảm ơn ở ngay phía dưới bài viết :D , tính cháu hay để ý cái trọng yếu lại ko hay nhìn mấy phần ngoài lề, nay biết được rồi thật tiện quá. Cháu cảm ơn bác nhiều ạh :lol:1 like
-
1 like
-
Dự định trên có thể thực hiện được ,nhưng nên chờ qua tháng 08 ,tháng 07 -08 cũng không tốt .1 like
-
Hi! Sư Thiến tui vốn cũng hay đùa giỡn. Thí dụ như mục "Thiên Sứ cười". "Tai nạn Thiên Sứ vào thứ Sáu ngày 13" Thực ra đây là một dự báo thời tiết của Lạc Việt độn toán. Trong 10 ngày Lễ hội kỷ niệm 1000 năm Thăng Long thời tiết nắng đẹp, tiết trời hơi se lạnh. Có thể có mưa nhỏ vào ban đêm. Tình trạng trên kéo dài ít nhất bảy ngày trước và trong ngày lễ hội chính. Tôi chính thức dự báo như vậy và việc cá độ 7,150. 000. 000 đ chỉ là nói đùa. Thành thật xin lỗi.1 like
-
1 like
-
Thui chít. Ra Hanoi, lần nào tôi cũng ăn bánh tôm Hồ Tây. Híc. Bít làm sao bây giờ. Nó chui vào bụng hết rồi :P .1 like
-
Chuyện này báo chí cũng đề cập rồi mà bác! Đây 0 phải 2 ngôi mộ mà có cả 1 nghĩa địa dưới lòng Hồ Tây. Góc nhìn rõ nhất về 2 ngôi là ở quán nước cây si hoặc mấy quán nhậu bên kia đường. Nhìn góc chụp em đoán bác đứng gần cây si. :P Theo những tình tiết em đọc trên báo (cách đây khoảng 1 2 năm) thì những ngôi mộ thuộc nghĩa địa các làng ven hồ bị bồi lở qua nhiều năm tháng nên dần dà cũng bị chìm xuống đáy hồ (làng Hồ, Võng Thị, Trích Sài, Bưởi....). Các ngôi mộ này của nhiều nhà khá giả, thường chôn theo cổ vật, vì thế mà dân quanh vùng Hồ Tây phất lên nhanh nhờ chuyển từ mò cua bắt cá sang tìm cổ vật. Có một chi tiết em nhớ nhất trong bài báo đó là chuyện 1 ng đàn ông tìm đc 1 chiếc hũ cổ, mang về lau rửa rồi cất kỹ. Trong 1 lần nhà thiếu vại muối dưa, vợ ông ta không biết đã đem hũ ra dùng nhưng, rất kỳ lạ, dưa không lên men được trong hũ. 1 chiếc hũ vô trùng! Còn 1 chi tiết khác, theo bài báo. là tôm Hồ Tây béo tốt vì..... lí do kể trên. Nói ra nghe hơi sợ, e 0 còn ai muốn ăn bánh tôm Hồ Tây nữa. ------------------ Đây rồi, đã tìm được bài báo cho bác: http://www.tintuconline.com.vn/vn/phongsuk...6885/index.html Hồ Tây là một thắng cảnh đệ nhất của Thủ đô, nhưng ít ai biết rằng, dưới đáy Hồ Tây có rất nhiều nghĩa địa cổ. Vì sao những nghĩa địa lại nắm dười lòng Hồ Tây? Nghĩa địa chìm dưới đáy hồ Một chiều, lang thang trên con đường bê tông uốn lượn quanh Hồ Tây, đoạn làng Võng Thị, thuộc phường Bưởi, phóng tầm mắt ra giữa hồ, tôi thấy một hình khối màu trắng trồi lên giữa biển nước mênh mông, thi thoảng lại bị những con sóng bạc đầu nhấn chìm. Dùng máy ảnh thu zoom hết cỡ, trên màn hình hiện rõ, đó là 3 ngôi mộ xây liền. Xa hơn, còn một ngôi mộ nữa, cũng chơ vơ giữa biển nước. Hỏi một người bán nước bên gốc đa cổ thụ ngay bờ Hồ Tây, thì đó quả là những ngôi mộ. Hàng năm, cứ đến gần tết, lại có người chèo thuyền ra giữa Hồ Tây thắp hương, khấn vái. Nhưng tại sao, những ngôi mộ lại nằm ở giữa hồ? Chẳng lẽ, phong tục người dân ven hồ đem người chết ra giữa hồ chôn cho mát mẻ? Tôi đã tìm gặp một người từng có cả cuộc đời lặn ngụp ở Hồ Tây để tìm lời giải đáp. Phải vất vả lắm, tôi mới tìm được ông Nguyễn Viết Bân, nguyên Giám đốc Trung tâm cá giống Nhật Tân, thuộc Công ty Đầu tư khai thác Hồ Tây. Khi gợi chuyện Hồ Tây, những kỷ niệm trong ông lại tràn về. Suốt 40 năm lặn ngụp ở Hồ Tây, ông thuộc nó như thuộc những đường chỉ trên bàn tay mình. Ông bắt đầu câu chuyện từ nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Bao nhiêu năm nay, các nhà khoa học không ngừng tranh luận và đưa ra các giả thiết về nơi chôn bà chúa thơ Nôm cũng như đề xuất các biện pháp truy tìm mộ bà. Tuy nhiên, theo ông Bân, việc này vô cùng khó, bởi nếu mộ nữ sĩ được đổ bằng "bê tông", thì cũng nằm dưới đáy hồ, còn nếu mộ táng bình thường, thì xác thịt nữ sĩ đã tan vào hàng triệu mét khối nước Hồ Tây từ hàng trăm năm nay rồi. Theo ông Bân, xưa kia Hồ Tây chỉ là một nhánh cụt của sông Hồng, không rộng tới 560 ha và chứa tới 8 triệu m3 nước như hiện nay. Bên Hồ Tây có hàng chục làng mạc cổ, cánh đồng, ruộng vườn bám ở mép hồ và cũng có hàng chục cái nghĩa địa để chôn cất những người trong làng, hoặc chôn người chết ở các làng phía trong bãi. Trong sử sách cũng chép, thời Lê, khi đánh nhau với quân Chăm-pa, bắt được tù binh, đều tạo điều kiện cho họ lập kế sinh nhai bằng cách khai hoang vùng đất rậm rạp, heo hút quanh Hồ Tây suốt hàng trăm năm. Sống ven hồ, chết cũng ở ven hồ, nên theo ông Bân, dưới đáy Hồ Tây, có thể vẫn còn hàng ngàn ngôi mộ Chăm-pa. Tuy nhiên, thời gian đã quá lâu, lớp bùn đất bồi lấp, dìm những nghĩa địa này xuống rất sâu rồi. Cùng với nghĩa địa của người Chăm-pa, còn hàng chục nghĩa địa khác của người Việt hình thành trên những dải đất hoang ven hồ. Chỉ cần lặn xuống đáy Hồ Tây, khu vực làng Hồ, Võng Thị, Trích Sài thuộc phường Bưởi, có thể phát hiện cả một góc hồ là một nghĩa địa khổng lồ, rộng hàng chục ha. Toàn bộ đáy Hồ Tây ở khu vực phường Bưởi, là một nghĩa địa. Những nghĩa địa hình thành từ hàng ngàn năm trước, đã bị những đợt sóng kiên trì của Hồ Tây đánh tan và nhấn chìm xuống đáy bùn. Theo khảo sát của ông Bân, thẳng khu vực làng Xuân La cũng từng có một nghĩa địa rộng chừng 3 ha, bị sóng Hồ Tây nhấn chìm. Giờ đứng ở đoạn Xuân La nhìn ra, chỉ thấy biển nước mênh mông, với những đợt sóng lớn đang ngoạm dần vào đường Lạc Long Quân. Cảnh Hồ Tây ở khu vực Phủ Tây Hồ rất đẹp, song ít ai biết rằng dưới mặt nước xanh biêng biếc ấy, cách bờ vài trăm mét cũng có một nghĩa địa rộng mênh mông với dày đặc các ngôi mộ nhấp nhô. Rất nhiều xuồng máy của các doanh nghiệp quản lý, khai thác Hồ Tây bị gãy chân vịt mỗi khi chạy qua khu vực này vì chạm vào mộ. Ông Bân từng là người trực tiếp chứng kiến nghĩa địa cuối cùng bị sóng Hồ Tây nhấn chìm xuống đáy, đó là nghĩa địa của làng Nghi Tàm. Hồi những năm 60, 70 của thế kỷ trước, khi quân Mỹ bắn phá Hà Nội, ông Bân cùng các chiến sĩ bộ đội đưa pháo cao xạ ra hòn đảo nằm giữa Hồ Tây, gần làng Nghi Tàm, cách bờ chừng 200m để ngắm bắn máy bay địch. Hòn đảo thực tế là một gò đất trong nghĩa địa cổ. Khi đó, xung quanh hòn đảo ken dày những ngôi mộ nằm xâm xấp mặt nước đang bị sóng đánh chìm dần. Những con sóng bạc đầu của Hồ Tây trong những ngày gió lớn cứ nối đuôi nhau xô vào đảo, đánh tan cả cái đảo ấy. Giờ đứng bên làng Nghi Tàm nhìn ra, không còn thấy bóng dáng hòn đảo xưa đâu nữa. Nghĩa địa cổ mênh mông của làng Nghi Tàm đã nằm sâu dưới đáy hồ. Mùa nước cạn, lội xuống khu nghĩa địa này sâu đến ngực, còn mùa nước lớn, ngập quá đầu. Những con tàu lớn kéo nhà nổi Hồ Tây vẫn chạy qua lại trên khu nghĩa địa này mà không hề hấn gì. Săn đồ cổ ở nghĩa địa Năm 1966, cơ quan của kỹ sư Nguyễn Viết Bân (thuộc Công ty Đầu tư khai thác Hồ Tây) đóng ở làng Yên Phụ. Làm việc ở đây, rồi lấy vợ người trong làng, nên không chuyện gì ở Hồ Tây và làng Yên Phụ mà ông không biết. Theo ông kể, suốt hàng chục năm trời, người dân ở một số ngôi làng quanh Hồ Tây đã kiếm sống, thậm chí làm giàu từ việc săn đồ cổ ở những nghĩa địa dưới đáy Hồ Tây. Những đợt sóng kiên trì của Hồ Tây kéo dài hàng trăm năm đã đánh tan hàng chục nghĩa địa cổ, làm bật nắp quan tài, phơi xương cốt trắng hếu, lăn lốc dưới đáy hồ. Chính vì thế, những năm 70 đến 80 của thế kỷ trước, làng Yên Phụ nổi lên phong trào mò gỗ quý tại những nghĩa địa dưới lòng Hồ Tây. Hầu hết những thanh niên trẻ khỏe, lặn giỏi ở Yên Phụ đều tham gia mò gỗ. Ngày ngày họ lặp ngụp, mò mẫm dưới hồ, hễ phát hiện có ván thiên làm bằng gỗ quý chìa lên khỏi mặt bùn là họ tiến hành đào bới lấy gỗ. Họ dùng những chiếc thuốn sắt chọc sâu xuống lớp bùn đất để truy tìm gỗ và những vật quý nằm sâu dưới bùn. Ngày trước, rừng còn nhiều, nên khi người giàu chết được chôn trong những chiếc quan tài gỗ vàng tâm, đinh hương, thậm chí pơmu dày cộp, nặng trịch. Những loại gỗ quý này nằm trong lòng đất vài trăm năm không mối mọt, ngâm dưới bùn, nước hàng thế kỷ vẫn rắn chắc. Dân ở các làng ven hồ phá tung những ngôi mộ, lấy những tấm áo quan bán lại cho các xưởng mộc chế tác ra đủ các loại đồ dùng như giường, tủ, bàn ghế, cánh cửa... Ngoài việc người dân ven Hồ Tây lặn mò quan tài đóng bằng gỗ tốt, thu lượm tiểu sành kè bờ chắn sóng giữ đất, thì một thời có cả đội ngũ chuyên lặn mò đồ cổ trong những nghĩa địa dưới đáy Hồ Tây. Theo lời đồn, nhiều người còn bới được cả hũ vàng trong những chiếc quan tài. Những chiếc vòng vàng, vòng bạc, khuyên tai vàng thì kiếm được rất nhiều. Tuy nhiên, thứ nhiều nhất là chum, lọ, bát đĩa, bình gốm... toàn là những đồ cổ có tuổi vài trăm năm. Xưa kia, người giàu chết thường được chia của chôn theo. Sóng Hồ Tây đánh bật mộ, những món đồ cổ này cũng lăn lóc đầy dưới đáy hồ. Giới săn đồ cổ không những mò mẫm, tìm kiếm, mà họ còn bới cả những ngôi mộ chìm dưới lòng đất lên để lấy đồ cổ. Nhiều ngôi mộ đổ kiên cố bằng hợp chất vôi-cát-mật, bên trong có xác ướp, chôn sâu dưới đáy bùn, cũng bị đám săn đồ cổ đào bật lên. Thậm chí, họ dùng cả mìn để đánh bật nắp. Trong những ngôi mộ hợp chất này thường có một số đồ cổ giá trị hoặc vàng bạc, tiền cổ. Ông Nguyễn Văn Tiến (hiện quản lý thuyền vịt ở hồ Trúc Bạch) kể rằng, ông là người có thâm niên 20 năm kéo cá thuê ở Hồ Tây, từng lượm được rất nhiều đồ cổ đem bán. Phần lớn những món đồ ông lượm được là do dính vào lưới vét. Trong số đó, có một cái hũ rất đẹp. Lòng chiếc hũ tráng men xanh, mặt ngoài có nhiều hình thù cổ quái. Ông Tiến kiếm được chiếc hũ đó trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Đợt đó, khi kéo lưới vào sát khu vực nghĩa địa cạnh làng Võng Thị thì lưới bị mắc vào nắp chiếc quan tài kiến mọi người không thể kéo được. Ông cùng đám thợ tìm cách gỡ lưới thì chiếc quan tài bật nắp. Trong chiếc quan tài có một số đồ cổ bằng sành, sứ, trong đó chiếc hũ là đẹp nhất. Vì thấy chiếc hũ đẹp quá nên ông Tiến không bán, mà đem cọ rửa sạch sẽ rồi cắt vào trong tủ. Một hôm, không kiếm đâu ra bình muối dưa, vợ ông Tiến đã bê chiếc hũ cổ ra... dùng tạm. Điều lạ là dưa muối cả chục ngày không thấy lên men chua, lá dưa vẫn tươi nguyên như ngày mới đổ vào. Sợ quá, ông Tiến đổ dưa muối đi, rửa sạch chiếc hũ rồi lại cất vào trong tủ. Thế nhưng, vài ngày sau, bọn trộm phá khóa nhà và khóa tủ rồi lấy mất chiếc hũ. Cũng thật kỳ lạ, bọn trộm không lấy gì khác ngoài chiếc hũ ông lượm được dưới đáy Hồ Tây. Đến bây giờ ông Tiến vẫn tiếc hùi hụi. Đặc sản tôm Hồ Tây bắt từ... nghĩa địa? Với thâm niên 20 năm lặn ngụp kéo cá ở Hồ Tây, ông Nguyễn Văn Tiến là người rất am hiểu luồng lạch Hồ Tây. Chỗ nào lắm cá, lắm tôm ông đều biết cả. Mỗi khi thả lưới, động hồ, những con trắm đen nặng 40 - 50kg, to như quả bom lừ đừ dưới nước, lại rồng rắn kéo nhau vào trú trong những khu nghĩa địa. Những điểm này mấp mô, lắm vật cản nên lưới vét bất lực. Do đó, mỗi khi kéo cá, người ta phải dùng gậy gộc sục xạo, xua đuổi đàn cá ra ngoài mới bắt được. Mỗi khi lưới quây vào khu nghĩa địa, thứ mắc vào lưới nhiều nhất là xương cốt, đầu lâu. Những cái đầu lâu ngâm trong nước hàng trăm năm mà không mục nát, cứ trắng lốp, rất sạch sẽ, trông như đầu lâu làm bằng thạch cao. Trong các khu nghĩa địa, cá trê và tôm là hai loài trú ẩn nhiều nhất. Giống cá trê thường thích đào hang ở những khu vực có mồ mả. Chúng đào tung cả mộ để làm hang ổ. Đàn cá trên cũng góp phần rất lớn cùng với sóng phá tan các khu mồ mả dưới đáy Hồ Tây. Giờ đây, đi lang thang quanh Hồ Tây, đến các khu vực có nghĩa địa nằm dưới, có thể gặp nhiều người sống ven hồ lặn ngụp mò tôm. Tại những nghĩa địa này, người ta thả xuống hàng vạn rọ tôm, rồi hàng ngày lội xuống nhấc rọ giũ lấy tôm. Những người mò tôm ở các làng ven hồ thậm chí còn nhấc cả đầu lâu lên để nhặt lấy những con tôm trú ngụ ở bên trong. Điều đặc biệt là tôm hồ Tây rất ngon, rất bùi. Người mê ẩm thục cả nước đều biết đến món tôm Hồ Tây nổi tiếng, vẫn còn hiện diện bên đường Thanh Niên. Chỉ có điều, tôm ở đây có phải làm từ tôm Hồ Tây, và có phải bắt từ khu nghĩa địa dưới đáy Hồ Tây hay không thì không ai biết được. Theo ông Nguyễn Văn Tiến, trước đây, mỗi mẻ lưới có đến có tạ tôm dính vào, nhưng giờ đáy Hồ Tây ô nhiễm rất nặng ở nhiều điểm nên tôm không phát triển được nữa. Mỗi mẻ lưới vét may ra chỉ có một vài ký tôm dính vào lưới mà thôi. Người ta chỉ có thể nhặt nhạnh tôm bằng cách thả rọ bẫy ở những khu vực có nghĩa địa... PGS Nguyễn Lân Cường: "Trước đây Hồ Tây rất rộng, có nhiều nhánh khác nhau, thậm chí, nó còn ăn sát vào Hoàng thành Thăng Long. Nhiều cuộc khai quật Hoàng thành Thăng Long đã tìm thấy cả bờ sông ở gần thành, có cả biểu hiện của giao thông thủy. Hàng ngàn năm nay, Hồ Tây lúc lở, khi bồi, nên chuyện các nghĩa địa cổ bị chìm dưới đáy Hồ Tây do hiện tượng xói lở là hoàn toàn bình thường và có thể xảy ra, chỉ có điều, tôi cũng như các nhà khoa học, khảo cổ, đều chưa nghiên cứu về chuyện này". Nhà Hà Nội học Nguyễn Vĩnh Phúc là người am hiểu rất sâu sắc về Hà Nội. Năm 2008, ông viết tác phẩm cuối cùng cuộc đời mình, đó là "Địa chí Tây Hồ". Tuy nhiên, trao đổi với PV, ông Phúc cũng thừa nhận không nắm được thông tin gì về những nghĩa địa dưới đáy Hồ Tây. Có lẽ, những khu nghĩa địa cổ này, cùng với việc chìm nghỉm dưới đáy Hồ Tây từ hàng trăm, hàng chục năm nay, nó cũng đã biến mất trong tâm trí người Hà Nội.1 like
-
CHUYỆN YỂU MỆNH CỦA NHÀ MẠC, NHÀ HỒ VÀ GIẢ THUYẾT CHỌN SAI ĐẤT ĐỊNH ĐÔ. Đời nay nhìn lại sẽ là giản đơn và thiếu khoa học nếu quy thất bại của nhà Hồ cho việc dời đô và chọn đất sai phong thủy. Nhưng theo các sử gia, trong số các nguyên nhân của thất bại, ít nhất có nguyên nhân “làm mất lòng dân”, mà việc dời đô góp một phần vào đó. LTS: Gần đây nhiều nhà kiến trúc, phong thủy và lịch sử đã lên tiếng kiến giải sự yểu mệnh của một vài triều đại trong lịch sử Việt Nam liên quan đến yếu tố chọn đất xây thành. Có ý kiến cho rằng thế “rồng cuộn, hổ chầu” trong Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ bị hiểu sai hoặc vận dụng không đúng dẫn tới chuyện cả vương triều đặt trên vùng Âm trạch (tức là đất tốt để làm việc âm), thay vì Dương trạch. Phóng viên đã về tận Cao Bằng, Lạng Sơn và Thanh Hóa, tìm đến các di tích và vùng đất cổ, gặp gỡ những nhân chứng và các nhà phong thủy, lịch sử để tìm kiếm những giả thuyết khả dĩ giải mã sự yểu mệnh của nhà Hồ và nhà Mạc. Từ thành phố Thanh Hóa, đi về phía tây khoảng hơn 50 km, qua ngã ba Kim Tân thêm chừng 1 km nữa, sẽ thấy nơi cuối con đường hiện sừng sững một cổng thành đá ba vòm uốn cong, dưới chân tường cỏ phủ xanh. Đó là cổng chính của một tòa thành cổ, ra đời từ cách đây đã hơn 600 năm: Tây Đô, hay như chúng ta thời nay gọi “thành nhà Hồ”. Vào những ngày này, Ban Quản lý di tích và thành phố Thanh Hóa đang trong quá trình chờ UNESCO xét duyệt hồ sơ công nhận thành nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới, nếu không có gì thay đổi thì năm 2011 sẽ có kết quả. Xét về phương diện kiến trúc, công trình khá độc đáo, theo nhận định của ban quản lý thì “cả khu vực Đông Nam Á không có ngôi thành nào thế này”. Độc đáo bởi lẽ toàn bộ thành xây bằng đá; những tảng đá lớn nặng 2-3 tấn, có khối nặng tới 20 tấn, được xếp vào nhau cực kỳ khít khao, bằng phẳng mà không hề dùng vữa. Tổng diện tích bề mặt đá đo được (mặt ngoài, chưa tính phần lõi) là hơn 10 triệu m2. Người đời nay tới thăm thành có thể kinh ngạc, không hiểu làm cách nào mà thời Hồ (cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15), phu xây thành lại có thể di chuyển những khối đá lớn như thế để xây nên những bức tường có chiều cao trung bình 5-6 m, cổng mái vòm gần 10 m. Đó là chưa kể các tảng đá đều được mài nhẵn, vuông vức, xếp rất khít vào nhau. Nhà nghiên cứu người Pháp L.Bezacier từng nhận xét vào đầu thế kỷ 20: “Ngôi thành này là một mẫu mực độc nhất về việc sử dụng những khối đá vôi to lớn, được đẽo gọt và ghép một cách rất tài tình...”. Vì lý do này, Tây Đô còn có được gọi là “thạch thành”, nghĩa là thành đá. Ảnh trên: Địa thế thành nhà Hồ (Google maps). Trải qua sáu thế kỷ, một số bức tường đã bị sạt lở, song bốn cổng thành vẫn còn nguyên, trong đó chỉ riêng cổng Nam (cổng chính, mặt tiền) là có ba vòm, các cổng Bắc, Đông, Tây đều “đơn môn” (một cửa). Chiều dài từ cổng Bắc tới cổng Nam là 880 m, Đông sang Tây 877 m, tức là tổng diện tích nội thành gần 1 km2 . Các kiến trúc khác mà sử sách có ghi lại như La Thành (vòng thành ngoài cùng), điện Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ, v.v… đều không còn nữa, chỉ để lại dấu tích. Tây Đô độc đáo còn vì đây là ngôi thành đã chứng kiến bảy năm tồn tại của nhà Hồ - một triều đại yểu mệnh trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông vua nổi tiếng của triều đại này - Hồ Quý Ly - được ghi nhận như là một nhà cải cách đầy tham vọng, đã dời đô từ Thăng Long về Thanh Hóa, xây một ngôi “thạch thành” kiên cố đủ cả tường cao, hào sâu, trên vùng đất mà chính ông nhận xét là “long xà ẩm thủy”, “rồng chầu rắn cuộn”. Vậy mà khi quân Minh kéo sang, vua quan Hồ Quý Ly thua chạy dài, thành Hồ chưa (kịp) bị tấn công ngày nào đã thất thủ. “Thế đất xung quanh còn non lắm” Theo giới nghiên cứu thì Hồ Quý Ly đã có sự tính toán, chuẩn bị rất kỹ cho việc chọn đất xây thành, ít nhất là về mặt phong thủy. Thời đó, khu đất xây thành được bao quanh bởi cả sông và núi: Từ cổng Tây đi ra có dòng sông Mã. Phía Đông có dòng sông Bưởi. Phía Bắc gối đầu vào núi Thổ Tượng, còn gọi là núi Voi. Cổng chính mở ra hướng Nam, tiến thẳng về Đún Sơn (tức núi Đún theo tiếng địa phương), là nơi đặt đàn tế Nam Giao - một trong bốn đàn tế xã tắc còn lại ở Việt Nam đến ngày nay. Hồ Quý Ly rất tâm đắc với mảnh đất này, cho là đắc địa, có thể xây nền đế nghiệp lâu dài, bởi sông Mã lớn như con rồng chầu phía tây, sông Bưởi nhỏ hơn uốn lượn như con rắn cuộn phía đông. Hai bên là sông, trước mặt sau lưng là núi, thế vững như vậy, đây hẳn là “mảnh đất long xà ẩm thủy, có thể ở được lục thập niên ký” (tức là trên dưới 60 năm). Cổng Nam thành nhà Hồ, xây từ 1397. Ảnh: Đoan Trang Tiếc thay, không được như mong đợi của Hồ Quý Ly, nhà Hồ chỉ thọ được thất niên. Dân gian có vài giai thoại đồn rằng thảm bại của họ Hồ xuất phát từ sai lầm trong phong thủy xây thành. Giai thoại thứ nhất kể Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết đã dâng thư can nhưng Quý Ly không nghe. Thư viết: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ (tức Thăng Long) có núi Tản Viên, có sông Lô, Nhị, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất ấy làm nơi sâu gốc bền rễ (…). Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nhà nước. An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị”. (Theo giải thích của TS Đỗ Quang Trọng, Trưởng ban quản lý di tích, sở dĩ gọi là “đầu non cuối nước” vì xuôi về phía Nam thì sông Mã và sông Bưởi có gặp nhau ở một điểm, cổng Bắc thành thì gối vào núi Thổ Tượng). Một giai thoại khác cho rằng từ cổng chính thành mở ra một con đường lát đá dài 2,5 km chạy thẳng về đàn tế Nam Giao, con đường này giống như mũi tên, mà núi Đún nơi đặt đàn tế thì uốn vòng như một cánh cung giương sẵn. Hai yếu tố này phối hợp, làm thành một thế cực độc về phong thủy: Tên bắn thẳng vào thành. Song nói chung kể cả nếu không phạm vào cái thế này thì thành nhà Hồ cũng khó vững, bởi như chính Hồ Hán Thương (con trai Hồ Quý Ly) đã nói, mảnh đất này tuy là thạch bàn long xà nhưng “thế đất xung quanh hãy còn non lắm, nên chỉ ở được lục niên ký (sáu năm) mà thôi”. Nhà Hồ đã tính lầm ngay từ khi dời đô về phủ Thanh Hóa. “Anh hùng di hận kỷ thiên niên” Đời nay nhìn lại sẽ là giản đơn và thiếu khoa học nếu quy thất bại của nhà Hồ cho việc dời đô và chọn đất sai phong thủy. Nhưng theo các sử gia, trong số các nguyên nhân của thất bại, ít nhất có nguyên nhân “làm mất lòng dân”, mà việc dời đô góp một phần vào đó. Nhà Trần có 175 năm tồn tại, trải 13 đời vua, ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Đất Thăng Long vì thế đã gắn bó quá sâu đậm với lòng dân, với nhà Trần. Dời đô khỏi miền đất ấy khác nào chặt một cái cây khỏi cội rễ của nó. Còn mảnh đất định đô mới, dẫu có là nơi đắc địa với quan niệm của Hồ Quý Ly thì như Nguyễn Nhữ Thuyết thống thiết can: “Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm”. Triều Hồ thất bại. Có lẽ chỉ Nguyễn Trãi là giữ tấm lòng thương cảm với Hồ Quý Ly khi ông viết: “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật/Anh hùng di hận kỷ thiên niên” (Họa phúc có manh mối không phải một ngày/Anh hùng để mối hận mấy ngàn năm sau). Nguồn: Báo pháp luật HCM1 like
-
Dienbatn ah. Sẽ không chỉ có một kẻ như vậy, mà còn nhiều kẻ như vậy. Những cách hiểu dốt nát đó, thí dụ như đổi tên bánh "dày" - cách gọi và cách hiểu truyền thống - thành bánh "giầy" chỉ do một giáo sư ngôn ngữ dốt nát có ý kiến trên tờ Tuổi Trẻ, thế là cả một đám nhao nhao ủng hộ và trở thành chính thống. Mặc dù nó không có một logic gì cả. Còn ý kiến minh chứng văn hóa truyền thống thì chỉ có một tờ bào duy nhất nói tới gần đây (Tuanvietnam.net). Tất cả im re. Đủ để Dienbatn suy ngẫm. Thế lực của những kẻ chống lại văn hóa truyền thống Việt rất mạnh. Còn tôi, anh và vài người ủng hộ chỉ là những cá nhân nhỏ nhoi. Họ đã công khai vảo hẳn trang web này chỉ trích và đe doa tôi - Thí dụ như Nhân Vô Minh, bài viết tôi còn giữ lại - Nhưng tôi tin rằng chân lý tối thượng - Lý thuyết thống nhất - vốn gắn liền với Việt sử 5000 văn hiến, cuối cùng cũng sẽ phải sáng tỏ. Tôi tin điều này.1 like
-
Khi biết tôi nhận định không bị ban nick, bạn mới thật sự cười. Khoa học là đúng thì 2 trường phái PT phải có một cái đúng theo KH để mà công nhận, quyền lợi của đất nước hãy yêu nước bằng hành động và còn là công dân của chính đất nước mình mới là phần gốc, ngồi đâu đâu mà phán ai yêu ai phản e rằng chủ quan.1 like
-
Chào cô Haiphuong. Chúc cô và gia đình vạn sự an lành. Hôm nay tôi mới thấy lại topic này. Rất vui vì chồng cô có tiến triển tốt. Cô hãy yên tâm, theo quẻ của tôi - nhnh thì ngay tháng này. Chậm thì giữa tháng năm, âm lịch , chồng cô sẽ phục hồi. Cô nên làm hai việc sau đây: 1 - Tìm một thày giỏi về nhân điện (Hình như tôi có giới thiệu) để phụ giúp chồng cô. 2 - Thả chim phóng sinh, ngay tai căn nhà vợ chồng cô thuê. Phương pháp như sau: Ra chợ bán chim. Chọn lồng chim có nhiều chim nhất (Nếu không đủ tiền mua hết tất cả chim ở đó) - có quyền trả giá sát nhíp - nói họ chở về nhà, hoặc tự mình chở về và thả ở đó. Con nào yếu không bay được thì nuôi cho đến khi nó khỏe bay đi. Chết thì chôn. Sinh khí và sự giải thoát của chúng sẽ giúp cho chồng cô chóng khỏi. Cái này khó giải thích (Chứ không phải không giải thích được). Nhưng đây là điều có thật Tôi cũng thường xuyên thả chim.1 like
-
Phòng bệnh bằng cây kiểng 07/04/2010 10:41 (TNTT>) Trong khi Tây y luôn thể hiện tính đối kháng khi chữa bệnh - là ngành khoa học có đặc tính quần thể cao thì Đông y lại mang tính hóa giải, chữa bệnh ở phạm trù cá thể hóa, lấy thiên nhiên làm trọng. Nói rõ hơn, chính từ việc chọn sự sống và sức khỏe của con người làm tiêu chí tối thượng cho y đức hành nghiệp nên các nhà khoa học Đông y đã tìm thấy mối tương quan mật thiết giữa con người và thiên nhiên. Đây cũng là đặc tính văn hóa chữa bệnh của Đông y, qui vào 8 biện pháp tối ưu như: Hãn (xuất mồ hôi), thổ (nôn mửa), hạ (thông đại tiểu tiện), hòa (hòa giải), ôn (làm ấm thân nhiệt), thanh (gây mát nội tạng), tiêu (tiêu hóa thức ăn), bổ (bồi dưỡng, tăng lực). Phương thức này nhằm cân bằng và khôi phục chỉnh thể, hóa giải mâu thuẫn giữa sức chống bệnh (đề kháng chính khí) và với tác nhân gây bệnh (tà khí). Văn hóa chữa bệnh của Đông y nổi bật một bản sắc riêng. Việc trồng cây chữa bệnh là một ví dụ. Nếu như cây kiểng có thể tiết ra các độc chất gây ô nhiễm không khí và ảnh hưởng sức khỏe thì cũng có thể loại trừ, miễn nhiễm các tác nhân gây hại. Vì vậy, khi trang trí cây cần đặt ở môi trường không khí thích ứng lý hóa, sinh thái của thiên nhiên theo nguyên tắc: Đặt bất kỳ ở phòng nào đủ ánh sáng: Trầu bà vàng thu hút các khí thải CO2, benzen, tolouen, nhưng kỵ người hen suyễn, da dễ mẫn cảm đến gần (khoảng 0,5m). Cây cúc đồng tiền có thể tẩy cả khói thuốc lá, mùi quần áo hôi, ẩm. Hoa bạch diệp (còn gọi là bạch lan ý) hút hết các chất acetylen, trichorethylen, cylen, tolouen thích hợp trồng ở phòng khách, bếp, buồng tắm, nhà có tường ẩm mới sơn hoặc bằng chất dẻo (chứa nhiều benzen), đồ đạc nội thất chứa sơn dầu nặng. Người dễ bị dị ứng da tránh đến gần. Tránh đặt các loại hoa kiểng này ở chỗ tối. Đặt ở bếp có lò gas, phòng tắm: Kiểng lạc thảo trường điệp hút mạch các khí thải benzen, CO2, cylen và tolouen khi đặt ở phòng khách có lò sưởi đốt khí gas hay củi. Phòng tắm nước nóng đặt rất thích hợp. Cây kiểng lá cốt rắm, móng trâu kép, lê tai diệp (nephrolepis exaltata họ Davilliaceae) đặt ở các điểm có độ ẩm cao rất thích hợp như nhà kho, nhà tắm, phòng khách có non bộ và hồ cá, phòng ngủ quay hướng bắc hoặc nội thất trang trí gỗ ván ép, sơn nhựa cylen. Càng ít nắng càng tốt. Đặc biệt, cây hoa hồng liên môn (tên gốc hồng vĩ hoa, xuất xứ ở Colombia, Trung Mỹ) rất hợp ở nhà bếp do hút các chất NH3, cylen và CO2, kể cả các mùi khét, nồng tanh, nặng mùi của thức ăn kho, chiên, xào có ảnh hưởng đến thần kinh và xoang mũi. Điều nên lưu ý là hoa thải nhiều độc tố khi đêm xuống, phải mang ra sân phơi sương, thải khí độc. Đặt ở phòng khách, phòng tắm: Trầu bà lá tím than (hồng điệp môn) đặt ở phòng khách thoáng mát hay phòng tắm để hút các khí trichorethylen và mùi sơn, véc-ni từ gỗ tường dán hoặc ép. Bạch cúc trinh (gốc Trung Quốc) hút khí NH3 (độc tính cao) và một số khí độc khác ở phòng khách, bếp. Thỉnh thoảng mang ra phơi sương để thải độc. Đặt trước cửa nhà, sân vườn: Cau tre (chamae dorea seifrizii, họ cau, gốc Hawaii) giải phóng các khí trichorethylen, tolouen và khí bốc từ quần áo còn ẩm vừa ủi xong. Có thể đặt một chậu nhỏ nơi có tủ quần áo. Hoặc đặt hai bên cửa vào phòng khách. Chà là cảnh (có tên gọi khác là phượng hoàng Ba tây) cành lá so le, chót nhọn xòe như đuôi phượng hoàng, có hoạt tính chống độc khí cylen, chịu nhiệt cao, sống dễ, thường đặt dọc lối vào các biệt thự, sân vườn đầy ánh sáng, tạo nên các hiệu ứng cao bảo vệ không khí thanh khiết, lâu dài. Lương y Dương Tấn Hưng1 like
-
Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam? Tuanvietnam.net Bài đã được xuất bản: 3 giờ trước "Một nền văn minh siêu việt tồn tại trên trái Đất , đã sản sinh ra lý thuyết này và đã có một thiên tai mang tính toàn cầu hủy diệt nó, những bộ phận sống sót còn lại đã lưu truyền những giá trị của nó . Dân tộc Việt ở Nam Dương Tử chính là bộ phận sống sót còn lại của nền văn minh đó". Giao lưu trực tuyến với phong thuỷ gia Nguyễn Vũ Tuấn Anh Tiếp tục khủng hoảng kinh tế * Nhiều người biết đến những dự đoán của ông trước kia về khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, tình hình lũ lụt, hạn hán, động đất.. Ông có thể nói vắn tắt lại thời điểm, hoàn cảnh đưa ra những dự báo đó? Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Bắt đầu từ năm 2004, tôi có những dự báo đầu tiên. Tôi đã nói năm đó sẽ có một trận động đất kinh hoàng xảy ra, mà mức độ của nó sẽ "làm cho giới trí thức khoa học hiện đại cảm thấy nhỏ bé trước một cơn thịnh nộ của đất trời". Sau đó cứ mỗi đầu năm, tôi lại có một dự báo cho năm đó. Mãi đến 2007 thì báo chí mới bắt đầu cho đăng những dự đoán của tôi. * Tính chính xác về mặt thời gian của những dự đoán đó là như thế nào? Tùy theo những sự việc, ví dụ như vụ khủng hoảng kinh tế thế giới, thì tôi dự báo khoảng tháng 3 hoặc chậm là tháng 5 (Âm lịch) , sự việc đã nghiệm đúng. Gần đây tôi có tham vọng là dự báo chính xác luôn cả địa điểm xảy ra, chẳng hạn như là dự báo địa điểm xảy ra sóng thần ở Indonesia. Chứng tỏ là khả năng này cũng thực hiện được, nhưng nó đòi hỏi một sự suy ngẫm lâu dàii có sự kiểm chứng, phối hợp giữa nhiều phương pháp dự báo. * Cũng trong năm nay, ông lại tiếp tục dự đoán có khủng hoảng kinh tế. Ông có thể mô tả tình trạng khủng hoảng kinh tế diễn ra trong năm nay không? Khi dự đoán, tôi xem xét tất cả các yếu tố dưới góc nhìn từ thuyết Âm Dương Ngũ Hành chứ không phải của một nhà kinh tế. Năm 2008 là năm Mậu Tí, chữ Mậu thuộc Thổ, Tí lại thuộc Thủy và vận khí của năm Mậu Tí theo quan điểm của tôi là đổi chỗ Thủy Hỏa. Nó cũng là một năm thiên khắc địa xung, tương ứng với năm Canh Dần cũng là năm dương thiên khắc địa xung này. Ở năm 2006 thì có một dấu hiệu biến đổi ở thị trường nhà đất Hoa Kỳ. Nhà đất là trung tâm thuộc Thổ thì những cái liên quan đến nó: Thổ thì sinh Kim, tức là tiền tệ kinh tế. Một khi Thổ đã biến động thì nền kinh tế sẽ biến động, nó sẽ rơi vào năm thiên khắc địa xung. Từ đầu năm 2007 tôi đã nói rằng cuộc khủng hoảng năm 2008 sẽ không giống năm 1936. Như chúng ta đã biết thì mọi việc phát triển theo chiều hướng xoáy trôn ốc từ thấp đến cao. Năm Canh Dần và năm Mậu Tý, mặc dù là cùng thiên khắc địa xung và cùng là năm dương, nhưng tính chất nó khác hẳn, vì Kim khắc Mộc khác hẳn Thổ khắc Thủy. Kim khắc Mộc tuy là mang tính sát phạt nhưng Mộc đó vẫn có thể ứng dụng được. Năm nay, sự khủng hoảng này khác hẳn năm 2008, nó sẽ có tính quyết định hơn và sẽ định hướng thế giới sau đó đi về đâu. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh trong buổi giao lưu trực tuyến với độc giả VietNamNet. Ảnh: LAD Bệnh dịch ở VN * Năm 2010, ông có dự đoán tình hình thiên tai lũ lụt, hạn hán ở Việt Nam sẽ càng nặng lên. Ông có chỉ ra nguyên nhân lý giải? Tất nhiên là có nhiều cách lý giải. Khoa học hiện đại giải thích động đất là do các vết nứt, sự đứt gẫy của các mảng kiến tạo nên vỏ trái đất. Lý học Đông phương lại cho rằng đó là do Âm khí bị bế trong các tầng địa chất. Năm nay là năm Canh Dần, chữ "Canh" thuộc Kim - tất cả những người nghiên cứu Lý học đều biết rằng vận khí năm nay thuộc Mộc, Dần cũng thuộc Mộc. Thế tức là thiên khắc và địa xung, cho nên năm nay khả năng xảy ra những biến động lớn rất là cao. Yếu tố thứ hai là trong Phong Thủy có một bộ môn là Huyền Không. Với ý kiến cá nhân, tôi xác định Huyền Không là sự tương tác có tính quy luật của vũ trụ đến với cuộc sống của trái đất này. Nhân danh nền Văn hiến Việt, trong quá trình nghiên cứu tôi có đổi chỗ một số phương vị Huyền Không. Trên cơ sở này , sự tương tác vũ trụ năm nay có rất nhiều điều đặc biệt, tức là sao vận niên của 20 năm theo cách hiểu Huyền Không và sao của năm nay trùng khớp ở tất cả các phương vị. Tức là phương vị nào đã xấu thì cực xấu, đã tốt thì cực tốt. Đặc biệt sao Bát Bạch nằm ngay ở trung cung, với cái nhìn của riêng cá nhân tôii, sao Bát Bạch chính là sao Thái Tuế, tức là sao Mộc tĩnh. Trong vũ trụ chúng ta đã biết, nếu có 2 khối lượng lớn gần nhau sẽ có một lực hút và lực đẩy. Sao Thái Tuế là sao lớn nhất trong hệ mặt trời, đương nhiên là tương tác của nó rất là mạnh. Đó là điểm thứ hai để tôi dự đoán về năm 2010. * Cũng nói về điều kiện tự nhiên của Việt Nam, ông đã đưa ra những dự đoán liên quan đến khí hậu của Việt Nam rất là độc trong năm nay, có thể gây nên những dịch bệnh nhỏ rải rác ở khắp nơi? Đầu năm tôi cũng có nói đề phòng các bệnh liên quan đến đường ruột và một số dịch bệnh lạ. Và tôi có xác định là nó không như mấy năm trước, không mang tính đại dịch mà chỉ mang tính cục bộ thôi. Cho đến bây giờ, đã thấy có dấu hiệu chứng nghiệm, thí dụ như bệnh tả là bệnh có liên quan đến đường ruột. Khi Kim càng vượng thì Thủy khí sẽ bị hạn chế. Trong lý thuyết Âm dương Ngũ hành, Kim sinh Thủy, nhưng nếu Kim quá vượng thì Thủy không sinh được, nên tà khí bắt đầu xảy ra và bắt đầu ảnh hưởng đến bộ tiêu hóa. * Vậy ông có thấy một tín hiệu lạc quan nào đó, mà con người có thể bằng cái nỗ lực của mình để làm cho tình hình tốt lên được không? Có triết gia nào đó đã nói: "Nếu con người nắm được quy luật của tự nhiên thì sẽ tác động theo chiều hướng có lợi cho con người". Như tôi vừa trình bày, nếu không có tính quy luật thì không có khả năng tiên tri. Những quy luật đó được người xưa đưa vào trong các quẻ dịch chẳng hạn, tuân theo quy ước đó mà dự báo mà thôi. Nhưng theo phong thủy thì cấu trúc địa hình núi sông nước Việt Nam, Lào và một phần Cambuchia mang tính chất riêng. Thế nên ảnh hưởng của hạn hán không đến mức độ bi đát như cái vùng nào đó của Trung Quốc bây giờ. Điều kiện đó nó có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người như thế nào? Nếu chưa nói đến địa hình đất nước, mà chỉ nói ngay trong một ngôi nhà mà rộng rãi, thì đã khác với ngôi nhà ẩm thấp. Đương nhiên là địa hình nước Việt Nam cộng với sự tương tác với vũ trụ sẽ khác với địa hình của một nước khác với tương tác y như vậy. Tôi lấy ví dụ vũ trụ tương tác với chúng ta một lực nào đó, thì đương nhiên vùng đồng bằng và vùng núi sẽ chịu ảnh hưởng khác nhau, cũng như là ảnh hưởng đối với Việt Nam và Lào sẽ khác nhau vậy. Điều này trong thuyết Âm dương ngũ hành phân loại rất rõ. Nó cho những công thức tính toán để thấy những gì sẽ xảy ra ở các vùng miền như vậy. Nhưng để tính toán điều này thì sẽ rất là phức tạp. Căn cứ vào Âm dương Ngũ hành Để đưa ra những dự báo như thế này, ông đã dựa trên những căn cứ nào? Tôi quan niệm là căn cứ vào lý thuyết cổ gọi là thuyết Âm Dương Ngũ Hành, hầu hết những người nghiên cứu về văn hóa Đông phương cổ thì đều biết rằng nó có khả năng dự báo. Lấy ví dụ như là Kinh Dịch hay là Tử vi, thậm chí ngay cả trong bên Đông y cũng có dự báo, thí dụ họ bắt mạch, nhìn sắc mặt, đoán biết được bệnh nhân mắc bệnh thế nào, chừng nào khỏi và chừng nào chết. Theo như tôi hiểu thì một lý thuyết khoa học, được coi là khoa học thì phải có khả năng tiên tri, đây là điều tất cả các nhà khoa học trên thế giới đều công nhận. Tôi căn cứ vào cơ sở lý luận trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành để mà dự báo. Sách vở ngày nay nói về thuyết Âm Dương Ngũ Hành được bán tràn lan. Vậy thuyết Âm Dương Ngũ Hành mà ông sử dụng được hiểu như thế nào? Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu có tên tuổi đã viết về học thuyết này, nhưng lịch sử của thuyết này vẫn rất mơ hồ. Có người ra cho rằng thuyết Âm Dương là một sự phát kiến riêng, và thuyết Ngũ Hành là một sự phát kiến riêng, sau hòa nhập lại. Nhưng theo nghiên cứu cá nhân của tôi thì đây là học thuyết hoàn chỉnh ngay từ khi nó ra đời, đã tồn tại trong một cái nền văn minh nào đó, cuối cùng nền văn minh sụp đổ và bị Hán hóa. Trong quá trình Hán hóa này nó bị thất truyền, làm người ta hiểu nhầm bản chất học thuyết này. Bản chất của học thuyết đó từ xưa đến nay được gọi là gì, nguồn gốc cổ xưa của nó là gì, thì thật sự đến nay chúng ta chưa thể kiểm chứng được. Tôi coi đây là một học thuyết hoàn chỉnh, và nó thuộc về nền văn minh Việt cổ ở Nam Dương Tự. Đây là ý kiến của cá nhân tôi, tất nhiên tôi phải có những cơ sở để nói điều đó, những điều này tôi đã trình bày trong những quyển sách của tôi đã xuất bản như: Thời Hùng Vương qua truyền thuyết huyền thoại, Thời Hùng Vương và bí ẩn lục thập hoa giáp, Tìm về cội nguồn Kinh dịch, Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, tiểu luận Định mệnh có thật hay không (khi xuất bản được đặt tên là Đức Phật khai ngộ với tính thấy).... Trong những cuốn sách đó, tôi minh chứng thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc về nền văn minh Nam Dương Tử. Những nghiên cứu về tiên tri và đưa ra các lời dự đoán về tình hình về kinh tế xã hội thì không phải ở Việt Nam và ở phương Đông mới có mà phương Tây cũng có nhiều. Cá nhân ông với tư cách một nhà nghiên cứu thì ông sử dụng những tài liệu nào và phương pháp nghiên cứu của ông là gì để đưa ra những lời tiên tri đó? Như tôi đã trình bày, thuyết Âm dương Ngũ hành là một học thuyết mà cho đến ngày nay người ta vẫn còn rất là mơ hồ. Nhưng những phương pháp ứng dụng của thuyết này lại rất rộng khắp. Ví dụ mở cuốn "Hoàng đế nội kinh tô vấn" thì từ đầu đến cuối đều sử dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương ngũ hành, trong đó nội dung của nó thì có từ cách đây 6000 năm, từ thời Hoàng đế. Thế nhưng nếu lui lại 2000 năm, thì sách Trung Hoa lại chép vua Đại Vũ mới tìm ra Ngũ hành trên Lạc Thư. Đây rõ ràng là một điều cực kỳ vô lý. Còn Khổng Tử , sau đó 1500 năm nói đến Âm Dương trong Kinh dịch mà không nhắc đến Ngũ Hành. Cho nên bây giờ các nhà nghiên cứu cứ căn cứ vào bản văn đó thì không thể tìm hiểu được bản chất của học thuyết này ở đâu ra cả. Thế thì tôi đã xác định thuyết này là một học thuyết hoàn chỉnh và nhất quán ngay từ khi nó xuất hiện. Nó phải là một học thuyết hoàn chỉnh thì nó mới có cơ sở phương pháp luận trong các phương pháp ứng dụng của nó. * Ông có thể ra một vài nguồn tài liệu trong các nghiên cứu của mình không? Tất cả các cuốn sách như là Chu dịch, Phong thủy, Tử vi, các loại sách của đông y... tất cả cuốn sách liên quan đến lý học Đông phương... Tôi căn cứ vào đấy, tổng hợp lại để đưa ra luận điểm của mình, chứ tôi không nói theo những cuốn sách đó. Những dự đoán của tôi là trên cơ sở tổng hợp những phương pháp này và tôi đưa ra 1 phương pháp hoàn mới tôi đặt tên là "Lạc Việt Độn Toán" Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam? * Ông có đưa ra ý kiến là Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam chứ không phải từ Trung Quốc. Điều đó khiến nhiều người Việt Nam rất là mừng, vì ta được sở hữu một kho tàng một giá trị lớn lao. Nhưng có rất nhiều người băn khoăn là điều đó có phải là sự thật hay không bởi vì cả thế giới biết đến kinh dịch là thuộc về Trung Quốc, điều đó gần như là hiển nhiên rồi. Ông có bằng chứng nào để cho người nghĩ theo hướng lạc quan họ có thể tin chắc được? Quý vị nào muốn xem đầy đủ nhất quan điểm của tôi thì có trong cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch" và tiểu luận "định mệnh có thật hay không". Thứ nhất là cho đến ngày hôm nay, Liên hiệp quốc đã tổ chức 4 đại hội Kinh Dịch tại Bắc Kinh để tìm hiểu bản chất, nguồn gốc Kinh Dịch và đã không kết luận. Nếu như 1 nền văn minh mà tự nó phát mình ra hệ thống lý thuyết đó, thì cái tri thức xã hội của nó phải có cơ sở để tạo ra lý thuyết đó. Cho đến nay theo tôi hiểu thì chính người Trung Quốc cũng không hiểu, về mặt lý thuyết thì chúng ta cũng thấy là họ không thể nào làm ra một lý thuyết mà chính họ không hiểu. Rõ ràng là phải có một nền văn minh nào tạo ra nó chứ. Trên cơ sở những giá trị văn hóa phi vật thể, tôi thấy để có sự hợp lý trong cái lý thuyết của Kinh Dịch thì nó phải hiệu chỉnh lại. Mà nó hiệu chỉnh lại nhân danh giá trị văn hóa phi vật thể của Việt Nam tương quan với nhau. Tôi lấy ví dụ như thời Hùng Vương, người ta mặc áo "nam tả nữ hữu". Người con trai là dương thì mặc áo bên là âm, người con gái là âm thì mặc áo bên hữu là dương. Tức là trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, nó đã ăn sâu vào trong chi tiết đời sống xã hội. Đó là cái nền tảng xã hội phải có cơ sở để tạo dựng nên lý thuyết này. Theo tôi đã có một nền văn minh siêu việt nào đó tồn tại trên trái Đất , đã sản sinh ra lý thuyết này và đã có một thiên tai mang tính toàn cầu hủy diệt nó, và những bộ phận sống sót còn lại đã lưu truyền những giá trị của nó . Dân tộc Việt ở Nam Dương Tử chính là bộ phận sống sót còn lại của nền văn minh đó. * Giả thiết của ông đã được đưa ra cho độc giả, các nhà nghiên cứu khác và họ đã có phản biện gì không? Với một nếp nghĩ đã tồn tại hơn 2000 năm và con người ta lại vốn có một nhìn trực quan nhiều hơn, mà trong các tài liệu cổ không có tài liệu nào ngoài tiếng Trung Hoa nói về Kinh Dịch cả, thì người ta dễ dàng chấp nhận là nó là của Trung Hoa. Nhưng nếu xem xét lại toàn bộ diễn tiến lịch sử, thì thấy rất mâu thuẫn, mà tôi đã phân tích trong các cuốn sách của mình. Có nhiều người ủng hộ tôi, và chấp nhận những lập luận hợp lí. Nhưng cũng có nhiều người phản đối tôi, vì họ đã quá quen với các quan niệm đã có từ lâu. Nhưng bản thân tôi chưa thấy có lập luận phản đối nào để tôi thấy tâm phục khẩu phục. * Những phương pháp về kinh dịch, về tính các quẻ thì sách của Trung Hoa cổ đã viết rất nhiều. Nhưng được biết là ông đã viết cho mình một phương pháp mà có những điểm không đồng ý với những cái đã được lưu truyền trong sách cổ, thì ông có thể nói điểm khác biệt lớn nhất của phương pháp Lạc Việt và phương pháp cổ Trung Hoa không? Trong các mảng vụn của thuyết Âm Dương ngũ hành, người ta cho rằng đồ hình gọi là Lạc thư chính là một ma phương. Và họ lấy ma phương Lạc Thư để làm một nguyên lý căn bản, gán với đồ hình Hậu thiên Bát quái được coi là của ông Chu Văn Vương, làm ra vào khoảng thế kỉ X trước CN. Tất cả các ứng dụng của Âm Dương Ngũ Hành đều căn cứ vào đồ hình Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương trên Lạc Thư. Tôi nhận thấy rằng nó những điều vô lý và tôi đã phân tích rất kỹ trong cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Tôi đã nhận thấy rằng nó không thể nào ở trên cái Lạc Thư được, cái Bát Quái Văn Vương đó phải được đặt trên Hà Đồ và phương vị Đông Nam và Tây Nam, tức là phương vị quẻ Tốn và quẻ Khôn phải đổi chỗ cho nhau, và khi tôi thực hiện điều này thì tất cả mọi việc đều trùng khớp và giải thích hợp lý những vấn đề liên quan. Tôi chưa thể chứng minh được tại sao lại có quẻ Đoài nằm ở đấy, hoặc là quẻ Càn nằm ở phương Tây Bắc. ...vv... Nhưng mà một lý thuyết khoa học chỉ được coi là đúng nếu nó giải thích hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan. Thì cơ sở của tôi đã đáp ứng được điều đó. * Ông có thể mô tả ngắn gọn tinh thần của phương pháp Lạc Việt Độn Toán được không? Trong nhân gian có lưu truyền 2 phương pháp đơn giản để dự đoán gọi là Bát môn - gần giống với Thái Ất. Và một phương pháp nữa gọi là Lục Nhâm. Những phương pháp này có những cái không hoàn chỉnh. Trong quá trình nghiên cứu tôi có nhận thấy rằng Hà Đồ chính là cơ sở của thuyết Âm Dương Ngũ Hành chứ không phải là Lạc Thư như cổ thư chữ Hán nói và tôi áp dụng Bát Môn này vào đồ hình Hà đồ và kết hợp với Lục Nhâm mà tôi cho rằng đó là cái Hậu thiên Lạc Việt được kết hợp hai quẻ là Đoàn Tốn và Cấn Chấn. Tôi kết hợp hai phương pháp này lại với nhau và đặt tên là Lạc Việt Độn Toán. Cái này chúng tôi đã sử dụng từ năm 2004 đến nay qua các lời tiên tri mà các vị đã biết. (Còn tiếp)1 like
-
Giao lưu trực tuyến với phong thuỷ gia Nguyễn Vũ Tuấn Anh VietNamNet Bài đã được xuất bản: 7 giờ trước Hôm nay, VietNamNet tổ chức một cuộc phỏng vấn trưc tuyến với nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh về những dự báo của ông trong năm Canh Dần và những vấn đề cần quan tâm trong tương lai. Hình ảnh cuộc giao lưu trực tuyến với nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Ảnh: Lê Anh Dũng) * Có người nói khí hậu Việt Nam năm nay rất "độc", gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. Ông có thể nói rõ hơn về điều này? Tôi đã dự đoán năm nay sẽ không có dịch bệnh mang tính đại dịch, mà chỉ có tính cục bộ. và liên quan đến bệnh đường ruột. Thực tế cho thấy bệnh tả đã manh nha xuất hiện. Căn cứ vào đâu tôi lại nói đến bệnh đường ruột? Đó là vì canh kim khắc mộc. Kim càng vượng thì thủy khí sẽ bị hạn chế sinh ra. Trong lý thuyết Âm dương Ngũ hành, kim quá vượng, thì thủy không sinh được. Gọi là hiện tượng tương thừa. Nếu thủy sinh được, thì đường ruột hanh thông. Nếu thủy không sinh được thì sẽ gây ảnh hưởng đến các bệnh đường ruột. * Độc giả Nguyễn Văn Tuấn (Hà Nội) hỏi, liệu có mối nguy nào về chiến tranh xảy ra ở Việt Nam không? Theo dự đoán của tôi, tình hình ở Việt Nam không đến nỗi gay gắt. Mọi sự đều diễn ra theo tính quy luật, chiến tranh hay hòa bình cũng đều có quy luật. Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế, Việt Nam vẫn bảo vệ được chủ quyền và văn hóa của đất nước nhờ sự uyển chuyển trong ngoại giao. * Với cơ sở tính toán quy luật, từ cuối năm 2010, 2011, người ta có thể lạc quan gì về những vấn đề của Việt Nam? Có thể thấy có rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài vẫn đang đến với Việt Nam. Theo dự đoán của tôi, dù thế giới xảy ra khủng hoảng kinh tế, thì ảnh hưởng tới Việt Nam vẫn chưa lớn lắm. * Ông có thể đưa ra một ví dụ về những đóng góp của phương pháp nghiên cứu Lý học Đông Phương mà ông đã dày công tìm hiểu? Tôi có thể đưa ra một ví dụ đơn giản về khái niệm "khí". Trong sách Trung Hoa cũng cổ khái niệm "khí", nhưng ngữ nghĩa không thống nhất và rõ ràng. Trong dân gian, ta cũng thường dùng chữ "khí" như: "khí nóng, khí lạnh, ám khí, bế khí... Nhưng ít người giải thích được chính xác thế nào là tà khí, hỏa khí, nhụt khí... Qua nghiên cứu, tôi cho rằng mình đã giải thích được khái niệm "khí" này, đã đưa ra được định nghĩa, nói tóm tắt là: "Khí là một dạng tồn tại của vật chất, hình thành bởi sự tương tác giữa các vật thể." Đây chính là cơ sở để giải thích cho phong thủy- sự thay đổi tương tác mang tính quy ước. Nếu không hiểu được bản chất, thì người ta chỉ coi phong thủy là một thứ huyền bí. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Ảnh: Lê Anh Dũng) *- Ông có bằng chứng nào chứng minh Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam? Tôi đã viết rất kĩ về điều này trong các cuốn sách: "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", "Hà đồ trong văn minh đất Việt", và tiểu luận "Định mệnh có thật hay không". Cho đến nay, đã có ít nhất 4 hội thảo quốc tế tổ chức về Kinh Dịch tại Bắc Kinh nhưng vẫn chưa chứng minh được nguồn gốc thực sự của Kinh Dịch là ở Trung Quốc. Chính người Trung Quốc cũng chưa hiểu về Kinh Dịch. Trước đây, tôi đã chứng minh y phục thời Hùng Vương đã rất hoàn chỉnh chứ không phải cởi trần đóng khố. Từ trong đời sống sinh hoạt hàng ngày dân gian, ta có thể tìm thấy những bằng chứng cụ thể của người Việt đã áp dụng rộng rãi các nguyên tắc trong Kinh Dịch. Ví dụ trong trang phục thì tuân theo nguyên tắc "nam tả, nữ hữu": trong dương có âm. Nghiên cứu những chi tiết rất nhỏ, ta cũng thấy được nền tảng âm dương ngũ hành đã ăn sâu vào đời sống của người dân Việt Nam. * Giả thuyết rằng Kinh Dịch có xuất phát từ Việt Nam. Các nhà nghiên cứu nói gì về công bố này của ông? Có nhiều người ủng hộ và nhiều người phản đối, nhưng đến nay chưa có phản biện nào thực sự thuyết phục và khẳng định là những lập luận của tôi là sai. * Tại sao nghiên cứu của lý học Đông Phương chưa có ứng dụng rộng rãi? Tôi cho rằng câu hỏi này chưa bao quát. Thực ra những ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành đã len lỏi vào cuộc sống hàng ngày của người dân, chỉ có điều nó chưa được công bố rộng rãi trên các phương tiện truyền thông.1 like
-
VÀI HÌNH ẢNH CỦA BUỔI GIAO LƯU TRỰC TUYẾN TRÊN VIETNAMNET Tôi ôm màu tím qua thu chết. Để mãi cô liêu với má hồng. Thu Say Có một số câu hỏi của độc giả. Nhưng vì thời gian có hạn, tôi không trả lời trực tiếp trong buổi giao lưu này. Tôi sẽ trả lời trên đây. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị độc giả.1 like
-
Về ý tưởng thì có vẻ giống Thiên Sứ. Nhưng phương pháp thì khác hẳn. Bởi vậy, Thiên Sứ tôi thật khó khăn khi tìm người chia sẻ.1 like
-
Giaback tin rằng chồng bạn sẽ qua khỏi, khả năng tháng này sức khỏe sẽ khá lên rất nhiều. Cầu mong may mắn đến với hai bạn. ẽsnạab gnồnôhc gnằnă1 like
-
VỀ THĂM CỤ TRẠNG TRÌNH - NGUYỄN BỈNH KHIÊM 7 Phạm vũ Hội Ngày đầu xuân 2010- Canh Dần- Phú luận về Kinh Dịch Người Việt ai cũng nghe nói tới Kinh Dịch? Một triết học cổ Phương Đông. Nguyễn Thiếu Dũng cho rằng vị sứ giả hiển hiện trên trống đồng thuần Việt. Theo Ngô Tất Tố biên khảo dịch từ sách Tàu- thì Kinh Dịch có từ Phục Hy (thủy tổ giống người da vàng phương Nam) cách nay hàng vạn năm..(?) sau đến Tây Chu (bên Tàu)- khoảng 1100 năm TrCN, Vua Văn Vương mới đặt tên Quẻ- chua ý Quẻ: gọi là Thoán, đến Chu Công (con trai Văn Vương) lại viết thêm ý hào từ... Tiếp đến KhổngTử (551-trCN, nước Lỗ) lại soạn ra 6 thứ: tượng, văn, hệ, thuyết, tự, tạp (+quái)... Người Trung Quốc đã phát triển Kinh Dịch và dụng để Chiêm sự thế theo cách “bói dịch” (tức suy đoán) còn cách dụng như thế nào bớt “tùy biện” đi, thì không có sách nào chỉ một cách tường tận hoặc cố định. Cho nên chỉ cần hai kí ngôn vạch-chấm (dương- âm) mà có thể viết và luận bình ra thiên kinh vạn quyển, rất thú lạ! Bàn về nguồn gốc thì cứ nói thuộc Trung Quốc, nhưng “xét về biến cố lịch sử và hình tích Văn hóa Đông Sơn” thì ta thấy có lẽ xuất xứ gốc Kinh Dịch là của Việt Nam từ thời Hồng Bàng mà Kinh Dịch là bảo khí của Kinh Dương Vương- Càn chi- thủy tổ Việt- Ngài húy là Lộc Tục, anh của Lộc Linh, vốn có tài biến hóa, không tham đất rộng, nhường cho Lộc Linh làm vua phương Bắc, còn mình chỉ làm Vua phương Nam từ Động Đình Hồ dọc Trường Giang trở xuống... (PVH). “Gẫm” trong Sấm vọng lưu truyền lần theo con tạo gắng tìm tuệ kinh “Cửu thiên”(1) sáng rạng cung đình “Nhật hồng ”(1) sao lại minh minh mù mù “Cơ trời lâm trận mê đồ” (2), khốn thay non Việt dị hồ ngửa nghiêng? ** mấy ai“xét” việc thiên niên mà không sử sách khui tìm thiện căn mấy ai hóa giải kiến văn mà không kiến giải lê dân bụi lầm dạy rằng “ôn cố tri tân” (3) nhìn xa thửa lối... nhìn gần thửa đi... ví như tiếng vọng ầm ì... chân trời mây phủ liệu thì bão giông..? ví như mưa gió bịt bùng nắng xiên... ắt có cầu vồng thất tinh..? phút giây vẫn bảo là nhanh triệu năm một khắc vô tình bỏ qua..? chẳng ai không trẻ đã già âm dương thái dịch sinh ra trạng hình... ** mới hay chung? thỉ? ngọn? ngành? mà nên Bát Quái- Dịch Kinh lưu truyền đã nghe luận giải thì- phen ngọn nguồn Kinh Dịch vẫn tìm chưa ra rằng Kinh Dịch của Trung Hoa nhưng sao gốc tích lại là Việt Nam? đem ra kiến giải luận bàn... tưởng như vớt giải khói loang lam chiều? nghiêng ly cụng cốc vèo vèo bao năm trắc dịch suy siêu lạc loài tầm nhìn đích ngắm đà sai một ly một dặm chệch ngoài biển xa? Có gì phân biệt tàu ta lấy gì để nói của nhà thửa nên? chiều tà phủ bóng đêm đen còn kia Chim Lạc lộ then Rồng Vàng! ** “Nước non từ thuở Hồng Bàng bể dâu cuộc thế giang sang đổi vần Trải Đinh Lê Lý Trần giữ nước... đã bao lần ngôi nước đổi thay Núi sông Thiên định đặt bày Đồ thư một quyển xem nay mới rành Hòa đao mộc lạc, thập bát tử thành”(4) ** lật trang sử chiến dã tranh mấy ngàn năm trước tung hoành ra sao? Cho hay sóng vỗ ba đào màn thâm sơn thủy thấp cao lại về... Đông Nam Tây Bắc phân kỳ Quốc gia sinh? diệt? quần nghi “dê đàn”... một Tần khởi đất Hàm Dương giới biên ngót triệu kilô- vuông Sở Hùng kiếm côn bá đạo bão giông tính kiêm sáu nước(5) vẫy vùng dọc ngang lập ra Hoa Lục Trung Nguyên trải bao triều đại thay quyền đọat ngôi ngàn năm bành trướng chuyển rời mà nay rộng lớn gấp mười lần hơn!? nghề ăn cướp được suy tôn? ấy nghề ăn cướp chiếm chôm đất- người..! ngỡ câu khái quát nực cười mà là sự thực muôn đời đẻ ra... thưa rằng văn minh Trung Hoa? thì văn minh ấy chỉ là... lăng xâm! (bây giờ là một Trung Quốc ngót 10 triệu km2, dân số~ 1,3tỷ, hiểu rằng: xưa quen bá đạo đồ vương, anh hùng gây cảnh chiến trường mà nên; mấy ai hiểu được căn nguyên, phải là: dân ý- nhân quyền- tự do!) ** lại xem đất Việt người Nam địa danh Lưỡng Quảng Giang Nam có thừa? hơn ba triệu kilô-vuông xưa bao phen loạn lạc gió mưa hoành hành ngàn năm chống chọi Bắc xâm cụm về cố thủ Cửu Chân- Tống Bình(6) xưng danh con Lạc cháu Hồng mười lần nhỏ lại muôn phần xót xa? (nay chỉ là một Việt Nam hơn 300 ngàn km2 đất, dân số 80 triệu) thời gian chẳng trẻ chẳng già vẫn còn khói lửa trên toà Luy Lâu(7) hỏi ai? Ai? cướp của nhau cảo văn? thư khố? ...ngọc châu ai giành? cướp của người làm của mình vốn nghề xâm lược đã thành thói quen... tài năng cẩm tú thì- phen còng tay- khóa- trói bắt đem công triều thông tin bịt miệng đủ điều cướp cướp? mất mất? bấy nhiêu phũ phàng..? Ví như cung điện Thiên An(8) của người Nam Việt Đình làng chế ra... miệng đời nói ấy Trung hoa sao không biết nói của ta đình làng? trống đồng ta đánh lừng vang làm sao chống được bạo tàn lắm phen cho nên Nam Bắc trắng đen? Kẻ quen ăn cướp... Người quen chạy dài... ngàn năm xưa- dám nói sai? chứng nhân- chứng vật- hình hài huyết chi..!? giặc vào lấy hết... đem đi... Dịch Kinh- Quốc Bảo nghiệm suy cũng là... ** Than ôi khí vận yên hà! hồn xửa trắc ẩn thấm xa muôn trùng Tàng thư Nam Việt rỗng không chỉ còn khắc quẻ trống đồng(9) làm tin... đầu Càn “hanh lợi nguyên trinh” Lý Càn- Nhân- Cách(10) dưỡng sinh giống nòi ngữ ngôn “vật khí” thay lời Đồng nhân quây lấy mặt trời đúng tâm biểu nghi Chấm- Vạch(11) làm vần “thụ căn diểu diểu” dương âm lập trình cơ quyền còn chút kiện hanh tự tôn mười tám bản danh công đường Càn Vương tức Kinh Dương Vương chữ đầu tiên khởi cội nguồn nước Nam Cách nay hơn: năm ngàn năm..? là người biến hóa tiếng tăm lẫy lừng Khảm Vương là Lạc Long Quân thuận hành bát quái... thuộc vần cửu cung lại xưng... Giáp Ất... đủ vòng... làm thành mười tám đời Hùng(12) nối nhau... (Lần lượt <8tự quái>: Càn Vương, Khảm Vương, Cấn Vương, Chấn Vương, Tốn Vương, Ly Vương, Khôn Vương, Đoài Vương... <10 thiên can>:Giáp Vương, Ất Vương, Bính Vương, Đinh Vương, Mậu Vương, Kỷ Vương, Canh Vương,Tân Vương, Nhâm Vương, Quý Vương) thần cơ dịch số cơ màu “sa phù dĩ chỉ” đời sau chớ lầm... Rõ ràng “mộc biểu thanh thanh” “Thập bát tử thành”(18) tiên tổ đã gieo? “Toàn thư sử ký” (13) cũng nêu “Đông A nhập địa”... gặp nhiều tai ương! cho hay khí dịch đoạn trường phải chờ “ma quỷ dọn đường” (14) loé ra..? ** Xem thêm dã sử nước nhà “Lĩnh Nam chích quái” (15) truyền qua miệng đời dân man hay bị lọc lòi quỷ ma xâm hại buông lời rủ rê Long Quân thường phải trở về cứu dàn con dại trăm bề khốn nguy diệt xương cuồng diệt hồ ly(16)... nạn từ phương Bắc chi chi... thực thà... ** ngàn năm xưa ngỡ rất xa chẳng qua khép lại bóng qua một ngày luận thời ai biết ai hay tháng năm con cháu ngày rày đã quên..! văn nhân sĩ tử mọi miền hãy đem chớp mắt nối liền ngàn năm mới hay Kinh Dịch trữ tàng gốc từ bảo khí Hồng Bàng Rồng Tiên!? ----------------------------------------------------(Lys.T.T)* Chú thích: (1)Nguyên văn Sấm Trạng: “Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật”-trên trời sáng mà trần gian hàng ngày sao tối tăm thế!; (2)Sấm Trạng: ý nói trời mở cơ làm thiên hạ mù mịt, không rõ lối mà đi, người dân như lâm vào mê cung; (3)Lời dạy của Khổng Tử :“ôn cố tri tân, khả dĩ vi sư”: thông hiểu sử sách, việc cũ để biết cách thức hệ quả... nên làm thời nay, việc mới ra sao? thì có thể làm thày; (4)Một đoạn mở đầu trong một bài Sấm Trạng Trình; (5)Năm 221TrCN Tần Thủy Hoàng kiêm tính 6 nước gồm: Sở, Tề, Triệu, Ngụy, Hàn, Yên- thống nhất Trung Quốc quy mô khoảng gần 4 triệukm2; (6)Cửu Chân chỉ Thanh Nghệ ngày nay;Tống Bình chỉ đất Hà Nội tên gọi thời cổ khoảng năm 800 TrCN; (7) Luy Lâu tên cổ chỉ Bắc Ninh ngày nay; (8)Cung điện lớn nhất của Trung Quốc xây dựng vào thời Minh khoảng thế kỷ XIV, do Nguyễn An- một thợ cả tài hoa của Việt Nam bị giặc Minh bắt- ông làm tổng công trình sư thiết kế và xây dựng; (9)Bát Quái được cho là đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ- Hoàng Hạ thuộc văn hoá Đông Sơn Việt Nam, các nhà khảo cổ tìm được ở Thanh Hoá, đồng bằng Bắc Bộ; (10) Trên trống đồng có khắc các quẻ Thuần Càn, Đồng Nhân, Cách- đúng như nhà NC Nguyễn Thiếu Dũng xác định; (11)Thực chất ký quái đầu tiên là Chấm và Vạch, biểu nghi hai khí Âm- Dương, khi viết nhuận tay hơn, nhưng sau này người ta (có thể là Văn Vương) thấy nét chấm dễ bị mờ khuyết, mới đổi chấm sang vạch đứt; (12)Theo phả tịch Đền Hùng còn ghi đến nay đủ 8quái và 10thiên can; (13)Sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, viết vào thời Lê Thánh Tông (1460-1497); (14)Sấm Trạng Trình nguyên văn “trời sinh lũ quỷ dọn đường, để cho thánh xuất khảm phương sau này”; (15)Lĩnh Nam chích quái: truyện cổ dân gian Việt Nam tác giả là Nguyễn Qùynh và Kiều Phú biên soạn vào thế kỷ XV có viết “Than ôi! Lĩnh Nam liệt truyện có phải chỉ riêng khắc vào đá, viết vào tre, mới là quí hơn bia miệng đâu? từ đứa trẻ hoi sữa đến cụ già bạc tóc, đều truyền tụng để tỏ lòng yêu dấu, để tỏ ý chê trách thì tất là có quan hệ tới cương thường phong hóa..!”; (16)Truyện xương cuồng tức là Mộc tinh, Hồ ly tinh, Ngư tinh, là những truyện trong Lĩnh Nam nói về công lao của thuỷ tổ Việt Nam (Lys.T.T)./. Truyện phụ thêm: Đã từ lâu, nhiều người cứ băn khoăn về câu hỏi tại sao xưa các “bậc Nam kiệt” cứ gọi người phương bắc, các “bậc hảo Hán” tức người Tàu là “Các chú”- lúc sẵng giọng thì “ôi dào! bọn các chú” có nơi chuyển âm thành “cắc chú”, chê họ thâm hiểm; Lại nhớ rằng hồi nhỏ nghe các vị túc nho rành rọt chữ nghĩa kể về chuyền tiên tổ Hồng Bàng mới biết rằng sở dĩ gọi như vậy là vì người Nam và người Bắc vốn tổ tiên xưa cũng là anh em, mà người Việt là anh và người Tàu là em đích thị. Cụ thể là cháu ba đời của Viêm Đế- Thần Nông theo lệnh trời, và cha mình làm Vua toàn cõi, khai sinh loài người, theo lời cha dặn dạy giống người da vàng phương đông trồng lúa- Ngài Biểu danh là Đế Minh. Ngài lấy bà Vụ Tiên- một vị nữ tiên ở thượng giới, sinh được hai người con trai, lớn là Lộc Tục, nhỏ là Lộc Linh. Khi già về trời, Đế Minh định truyền ngôi cho con trưởng là Lộc Tục, làm vua phương Bắc, cho Lộc Linh làm vua phương Nam . Nhưng Lộc Tục nói với cha, phương Nam nóng nực, có nhiều chướng khí, đất đai hẹp hơn, dân sự ít lại ham chơi, xin nhận khó khăn làm vua thay em, để Lộc Linh kế ngôi ở phương Bắc, đất đai rộng lớn, dân sự phồn thịnh hơn, thuận tiện cho em hơn. Đế minh cho là người nhân hậu, ngài chấp nhận. Sau đó Lộc Linh lên ngôi làm vua phương bắc, trông coi từ tả ngạn sông Trường Giang trở lên, lấy hiệu là Đế Nghi. Lộc Tục làm vua phương Nam, từ hữu ngạn sông Trường Giang trở xuống, thủ phủ ở Động Đình Hồ, lấy hiệu là Kinh Dương Vương, Miếu hiệu là Càn vương, Ngài hay đi đây đó, sống rất phóng túng, biến hóa không biết đâu mà lường. Ngài lấy con gái Thần Long Động Đình hồ mà sinh ra Sùng Lãm, Lãm kế ngôi, tự xưng là Lạc Long Quân, tài giỏi như cha, đi dưới nước như đi trên cạn, Miếu hiệu là Khảm vương... nghi biểu theo quái dịch. Sau Lạc Long Quân lấy con gái Thần Núi Đế Lai là bà Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng nở ra trăm người con trai... là tổ tiên người thuần Việt ngày nay... Nhiều lần tôi kể lại và giải thích cho mọi người nghe, cố tìm trong sách để dẫn, nhưng các sách thông sử thời nay viết về Hồng Bàng thị lại nói, Lộc Tục là em, Đế Nghi là anh? thậm chí không có cả cái tên “Lộc Linh”. Sách “Lĩnh Nam chích quái” xuất bản 1990- nhà xuất bản văn học, cũng nói vậy! tôi cứ băn khoăn mãi!.. Tết 2010, đi du xuân, thắp hương Đền Hùng, tôi mua quyển “truyền thuyết Hùng Vương- thần thoại vùng đất Tổ” do Vũ Kim Biên sưu tầm biên soạn, xuất bản 2008, tôi thấy câu chuyện trở lại đúng với truyện hồi nhỏ tôi được nghe... Vậy là hơn 50 năm mới thấy mình không phải là ốc xạo với bạn bè con cháu. Ôi! Dã sử vẫn có giá trị ở chỗ đó! thiện tai, nam mô phật!. (PVH) Bài chiêm soạn cho năm 2012-1013 Kiến trúc sư Phạm vũ Hội Xưởng kiến trúc tạo hình Hải Phòng Thân gửi: Ông Bùi Quốc Hùng- Bút danh DIENBATN Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương Bài chiêm để đăng tải về nghiệm lý Sấm Ký Trạng Trình (tiếp tục với hư thực muôn đời 1-2) (E-mail: dienbatn@yahoo.com) Nhâm Thìn diễn nghĩa- 2012 1-Thiên tượng Gập ghềnh muôn thác vượt lên, chọn thì “lợi thiệp đại xuyên”vu tòng Rồng bay “bảy sắc” cầu vồng, lấy nước “bối pháp” chiêu dòng trường xa thiện phùng nhân nghĩa bước ra, để xua quỷ quái yêu ma hại người “đoài phương phúc địa” sáng soi, âm dương tiêu tức đất trời chuyển xoay chấn cung khói bụi giăng đầy, “giang hồ sử sĩ” điều ngay hiệp bàn khảm nghi quy tử quy hàng, “nắm cơm bầu nước” tỉnh tang dần dần bui lòng hanh chuộng quyền nhân, đạo trong thiên hạ thăng trầm tự nhiên 2-Nhân sự loạn ru bởi vẫn cuồng điên, trùng lai hiểm dã dược tiên trị đời tự do dĩ đạo làm người, cộng sinh dĩ đạo ông tôi nhân quyền “báo thù báo phục” đã phen, “non xanh căng trắng” chuân chuyên đã nhiều “đồng khô hồ cạn” họa thiêu, “lông chìm đá nổi” bao điều lạ tai ầm ào đạn súng trong ngoài, nước sôi lửa bỏng giêng hai dập dồn bốn năm sáu bảy ta ương, “thần quy cơ nỗ” khôn lường hiểm nguy “ba ngày trói” chặn đường đường đi, cháy nhà ra ngõ đông kỳ thoát thân 3-Thiên tặc Phong lôi chuyển động canh luân, nóng khô trộn với mưa dầm thối thây Phát ban cảm sốt chầy chầy, cấn khôn phân vị bão dây tuyết dồn chấn cung bốc lửa đạo ôn, cây khô lá héo người còm đói ăn hai ba cứu giúp nhì nhằng, vận thì sóng quật đất quăng chẳng thường bởi đâu mà lắm tai ương, bởi chưng hút sạch “huyết tương địa cầu?” “đến thời thịnh vượng còn lâu? ” hiểu rằng “tam hợp chia sau” ắt là! Phạm Vũ Hội-14-12-2009 (28-10 Kỷ Sửu) Quý tỵ diễn nghĩa- 2013 1-Thiên tượng thói đâu thệ thói đàn bà, “nữ công thực bắc” lại là đàn ông trời lùa kể cũng bất công, làm cho lộn ngược cửu trùng mà cam chỉ quen học nói học bàn, ít cảnh lam làm, lắm cảnh ba hoa chừng con rắn nước bò ra, quay đầu lột xác quả là khốn nguy “tượng trời gia trước” nhiều khi, “đã đàn cửu khúc còn thi thơ đề” đến thời ích lý u mê, anh hùng quyết quyết đường về gặp cha “xà đầu long vĩ” chuyển qua, ngựa hồng bảy sắc nhảy ra trình làng... 2-Nhân sự năm dương vượng khí dâng tràn, một âm thượng lục bẽ bàng nãi chung nhìn lên bắc khí thuần hung, “đại lai tiểu vãng” nhịp cùng thế gian giêng hai súng nổ đôi đàng, “một còn... hai mất” ngón đàn thực chi càn khôn “chính vị phân kỳ”, ba tư năm sáu ngược đi xuôi về chấn ly hiệp hội địa kê, “trùng hưng dĩ bốc bên lề mã giang” phím trầm tích tịch tình tang, thiên cầm mượn gió so hàng vũ văn hết thời “nhị ngũ nhị phân”, “đông tàn tây bại” chắp vần họa tai... 3-Thiên tặc đông phương gió lửa ra bài, nóng khô năm trước kéo dài năm sau khí trì- dịch bệnh ốm đau, làm cho nhức trán tê đầu rối ren hỏa thiên hỏa địa hạo nhiên, núi rung đất sập bể chìm sóng reo đói ăn thiên hạ bao nghèo, thần cơ lặp lại những điều nghĩa nhân đoài phương tuyết dải mưa dầm, thành trì có lúc tối tăm mịt mù tứ phương khốc nạn ngoạn du, họa vô đơn chí linh phù tái biên Phạm Vũ Hội-14-12-2009 (28-10 Kỷ Sửu) Phạm Vũ Hội có thơ chiêm rằng: (Bài 2 tiếp theo kỳ trước...) “kim kê khai lựu” là đây, đồ rằng non nước tới ngày mát trong ngờ đâu đục nước ngược dòng, nào ai thoát khỏi được vòng kim cô muông sinh có mắt như mờ, kẻ say kẻ tỉnh bơ phờ lạ thay hung hăng tranh cạnh ngày ngày, “quý phương hoàng cái” từ nay thảm sầu “thụy trình ngũ sắc” cơ màu, thùy vi nhân nghĩa đạo đầu: dữ đương!” “tộ truyền nhị thập” tai ương, “ngũ diên vận khải” bất tường nhân gian “danh vi gia tử” họ hàng, “ngưu lang bản tính” đại gian bản thần Đúng là “danh thế nan lường”, “thủy trung bảo cái” chính phường sát nhân Đúng là ma quỷ hiện hình, tiểu nhân đắc ý lộng hành đế vương Làn cho “bách tính tai ương”, “can qua tranh đấu” chiến trường hồn oan “quần gian phạm địch hung hoang” “ma vương đại quỷ” ám tàng hoàng thiên! Than ôi Sấm ký đã truyền, mà sao thiên hạ mãi nhìn chẳng ra “rừng xanh núi đỏ bao la, đông tàn tây bại sang gà mới yên... sửu dần thiên hạ đảo điên, ngày nay thiên số vận niên rành rành!” điềm trời thủy động địa sinh, thăng trầm tới bước chuyển mình chẳng sai sau khi hết thế chiến hai, Pháp đã tính bài trở lại Đông Dương đầu tiên quay lại Việt Nam , nhân danh kẻ thắng trong làng Đồng minh núp sau Anh quốc điều đình, không công nhận nước Việt minh nắm quyền Việt Nam mở trận thư hùng, chín năm binh lửa cuối cùng Pháp thua “càn khôn cửu cửu” có thừa, “thanh minh thời tiết” cũng vừa đúng niên ngọ mùi quân “nhập Tràng An”, “hồ binh đủ tám” sư đoàn tiến vô... cho hay thế sự biến cơ, từng câu Sấm ký chẳng ngờ một ly cứ đem Sấm Trạng ra suy, bao nhiêu sự kiện sự gì chẳng hay? nhiễu nhương thời thế đổi thay, thiên cơ khéo đã phơi bày cả ra nghe lời càng thật thiết tha, “thời trung quân tử” khuyên ta giữ mình “âm dương cơ ngẫu ngộ sinh, thái nhâm thái ất trong mình có hay?” trước là giữ được điều ngay, sau là nuôi chí chờ ngày góp công sang giàu đố kị tham lòng, “lưới chài đâu dễ” mà công cán gì “đừng nên bội bạc nghịch vi” ích gia phì kỷ dân thì khốn thay” lời khuyên vẻ rạng đường mây, cho ai biết lối đến ngày thửa ân... từ ngày Trịnh- Mạc kỳ phân, “sương sâm tuyết lạnh muông dân dập vùi” “đàn dê tranh phá đôi nơi”, quân thần tá sứ càng đồi hung hăng đến khi thế kiệt lực cùng, “kẻ ngàn Đông hải, người rừng Bắc lâm” liên miên binh lửa cát lầm, “kẻ nằm đầy đất người trầm đầy sông” nhớ khi lánh nẻo đường trong, Nguyễn Hoàng chèo chống một vùng trời Nam đợi thời tu dựng nghiệp vương, những mong Nghiêu Thuấn Ngu Đường có phen bỗng đâu “sừng sực Tây sơn” “mười bốn năm trường” sấm sét chuyển rung nước non ngàn trận thư hùng, vẻ xanh muốn rạng Lạc Hồng muốn nên? chỉ trong gang tấc lâm tuyền, “kiến nhân rời tổ... phụ nguyên” sinh hồi bấy giờ rộng mở quy khôi, thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn Hà Tiên tới Mục-Nam-Quan, nước non một dải kim quang ngõ hầu Gia Long ấy chẳng sai đâu, “mặt rồng lồ lộ trên đầu chữ vương” “thiên sinh tai lạ khác thường, Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài” tuất hợi “điều đỉng độ mai”, Việt Nam là chữ so bài dài lâu... thoắt đà tám chục năm sau, Việt Nam lại mắc vào cầu ngoại xâm ấy là giặc Pháp dã tâm, từng đi xâm chiếm xa gần đất đai đạo truyền mượn cớ vãng lai, đường đi đã tỏ trong ngoài đông lân đợi khi triều Nguyễn suy dần, thừa cơ súng nổ quyền thần bó tay thiên cơ quy nỗ vần xoay, nước Nam lại chọi với bầy thực dân bừng bừng kháng chiến duy tân, độc lập dân tộc quốc dân dựng cờ được thua ai dễ khôn dò, lời truyền Sấm Trạng có thừa trăm năm “ngựa hồng quỷ mới nhăn răng, cha con dòng họ thày tăng hết thời” truyền cho đừng lẫn sự đời “nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu” “chín con rồng lộn” mỹ miều, luận cho ra nhẽ rặt điều trái tai! lại còn dắng dẻ một hai, “cuộc tàn mới rõ rằng tàu thấp cao” thấy Sấm từ nay chép vào, một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa?” con Hồng cháu Việt đường xa, thịnh suy nào hiểu cho ra lối đời đắn đo Sấm lại thêm lời “hiểu xuôi cũng được ngược thời mới nên!” Than ôi tạo hoá u huyền, nào ai biết được biến thiên những là... vả chăng mà dám nói ra, nói ra thì bị quỷ ma tội hình trăm năm vùi dập sinh linh, một thiên hạ dại riêng mình ta đâu? “chờ cho nhân doãn đến sau, đến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn trời xui những kẻ ác gian, kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay vua nào tôi ấy đã bày, trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn” đến khi hết lẽ khuyên can, biết rằng chẳng được lòng càng tai tê “thôi thôi mặc lũ thằng hề, gió mây ta lại theo về gió mây!” (Phạm Vũ Hội) Chú thích 1)-chữ”thửa”dùng trong Sấm Trạng theo văn nghĩa cổ là làm cho mình; thí dụ: thửa cái áo mà mặc; hoặc làm cái gì cho vừa vặn:thửa đôi giày, thửa cái nhẫn; hoặc kiến giải điều gì cho đạt ý: thửa nên...thửa chăng?; hoặc so sánh: công lênh phụ mẫu thửa ấy ai bằng?; (2)-người Đoài:chỉ người ph.Tây, kẻ Sở: chỉ người ph. Đông- cách nói theo tích Đông Chu liệt quốc, vì nước Sở nằm về phía đông Bành Thành: kinh đô nước Tần; (3)-Giáp Ất Bính Đinh: là các năm1954,1955,1956,1957, Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Định Dậu, chính quyền miền Bắc bắt tập trung sách dưới thời Phong kiến- Thực dân gồm chữ Tây, chữ Nho đem đốt hết, ai không nộp cất dấu thi bị bắt giam hoặc đấu tố;(4) “Hùm già lạc dấu”: Giáp Dần 1914:Thái tử nước Ấo và vợ bị mội thanh niên Bôsnia giết ở Bôsnia trong 1cuộc bạo động, người chỉ huy là một người Secbia, không liên quan đến chính phủ Secbia; nhưng Ấo lấy cớ, tuyên chiến với Secbia, Nga bênh Secbia, Đức bênh Ấo, Pháp nhảy vào cuộc, Đức tuyên chiến với Nga, Pháp; Anh hòa giải không được... diễn tiến thành Đại chiến thứ nhất (WW.I) cho nên nói là “lạc dấu khôn về”, Hùm là năm con hổ, chữ Giáp- thuộc can dương- mộc nên nói là “Hùm già”;trường hợp chữ Ất- thuộc can âm mộc, nên Ất Mão là mèo non “mèo non chí chí tìm về cố hương”;(5)-Sau WW.I- Ông Wilson Tổng Thống Hoa Kỳ đã có ý lập Hội Quốc Liên (Hội vạn quốc) nhằm bênh vực độc lập tự do cho tất cả các quốc gia, không phân biệt lớn nhỏ- chung sông hòa bình, mãi đến 1945 mới chính thức thành lập, nay là Liên Hiệp quốc. PVH dienbatn giới thiệu .1 like
-
Như căn nhà ốp đá granite đen mà Wild nêu ở trên nhìn vào giống hình tượng Lỗ đen vũ trụ thì âm khí nặng,trong khi đó nhà ở cần chú trọng về dương khí sáng sủa quang đãng. Wild nhận thấy màu đen thường được sử dụng cho tang chế và buồn bã. Nói như trên thì sự bền vững và ổn định như núi và đá mới mang sắc đen.1 like
-
Màu đen đem lại năng lượng của sự bền vững và sự ổn định Đen là sắc màu phong thủy của sự bí ẩn và tinh tế; nó gìn giữ năng lượng của quyền uy và sự an toàn. Màu sắc của đêm, của đáy biển và lỗ đen vũ trụ, màu đen được sử dụng trong phong thủy để tăng chiều sâu, độ đậm và sự rõ nét cho bất kì không gian nào. Lỗ đen sâu thẳm của vũ trụ Trong phong thủy, màu đen thuộc về yếu tố nước, hướng Bắc, và nó là màu của Âm (hoặc thuộc về phái nữ), một nguồn năng lượng thụ động trong phong thủy Âm - Dương. Nếu quá lạm dụng màu đen, nó có thể mang lại một cảm giác nặng nề. Chính vì vậy, màu đen nên được sử dụng để làm nổi bật các màu sắc phong thủy khác và mang lại sức mạnh, độ rõ nét cho căn phòng. Có thể sử dụng màu đen thoải mái ở các hướng Bắc (Thủy), Đông (Mộc) và Đông Nam (Mộc). Tránh sử dụng màu đen ở phía Nam (Hỏa); tránh dùng nhiều trong phòng của trẻ em, cũng như ở cửa chính, nhà bếp và phòng ăn. Tránh sử dụng màu đen cho phòng ăn Bởi màu đen đem lại năng lượng của sự bền vững và sự ổn định, tốt nhất nên sử dụng màu đen như nền tảng ở những nơi bên dưới tầm mắt. Là màu sắc của yếu tố Thủy, màu đen khi đặt ở hướng Bắc sẽ thu hút các cơ hội về nghề nghiệp, ảnh hưởng tốt đến đường công danh của bạn. Subu (Theo Vzone) --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Đây là cái nhìn của tôi so với bài viết khi nói về màu ĐEN trong Phong Thủy,Theo quan điểm Phong thủy Lạc Việt : Hạn chế dùng màu đen trừ trường hợp hết sức đặc biệt. Vì màu đen là màu của cực Âm, trong khi nhà chúng ta xét về tương quan môi trường "nhà nhô cao so với mặt đất ở đã là cực âm mà tăng cường màu đen (ÂM)" càng không tốt cho sinh hoạt của người ở trong căn nhà. Như vậy là khí chất thuần âm nếu gặp một vài yếu tố xấu nữa thì ... Tôi đã gặp không ít trường hợp gia chủ sau khi sữa chữa xây dựng nhà mới đã theo mode dùng đá tấm granite màu đen dựng 2 bên cổng nhà và cửa cổng cũng tuyền đen gây cho chính gia chủ hoặc vợ chồng gánh chịu bệnh nan y dẫn đến suy kém về sức khỏe và khó cứu vãn dù họ đang có tiền không cứu mạng được.1 like
-
1 like
-
Cảm ơn Thiên Đồng nhắc nhở. Nhưng tôi nghĩ rằng:Đăng ký bản quyền mà làm gì. Đó chỉ là mấy thứ lặt vặt. Bản quyền lớn nhất không thành thì mấy cái đó chỉ là vớ vẩn.1 like
-
Lợi thế của các cơ sở kinh doanh cùng ngành trên cùng một khu vực, qua góc nhìn của Phong Thuỷ Lạc Việt. Achau Trong cuộc sống sinh hoạt thường nhật, có những tuyến đường đã chở nên quá quen thuộc khi ta muốn mua sắm một vật phẩm cụ thể nào đấy, ví như các phố Hàng Lược, Hàng Mã, Hàng Chiếu… ngoài Hà Nội hay đường Bạch Đằng, đường Ngô Gia Tự, đuờng Lý Thường Kiệt, đường Võ Thị Sáu …..v.v. ở T/p HCM. Khi xã hội phát triển, ta có thể thấy có siêu thị chuyên bán về các mặt hàng điện máy, có siêu thị lại chuyên bán các mặt hàng phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt thường nhật…. v.v.. rồi Chợ Nhật Tảo, chợ Dân Sinh ở Tp HCM. Qua quan sát, có thể nhận thấy rằng, các cơ sở kinh doanh ở những nơi tập trung nhiều cửa hàng cùng bán một ngành hàng có thể coi là phát đạt hơn, so với các cơ sở kinh doanh cùng ngành hàng (hay mặt hàng cùng loại) khi mở riêng lẻ. Điều này hoàn toàn được lý giải một cách nhất quán dưới góc độ phân tích của Phong thuỷ Lạc Việt Phong thuỷ Lạc Việt cho rằng, bên cạnh những tiêu chí tốt cần theo phong thủy cho một cửa hàng kinh doanh như: hướng tốt, cấu trúc phù hợp, vận tốt & phù hợp với cảnh quan môi trường xung quanh ...vv..... thì việc chọn vị trí, xây dựng hay thiết kế các cơ sở này để đón đựơc luồng sinh khí càng nhiều, càng tôt là một yếu tố rất cần thiết. Trên cơ sở này thì một cửa hàng ở những khu phố càng đông người qua lại thì sinh khí càng dồi dào. Từ đó chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng: Khi các cửa hàng cùng một ngành hàng, được tập trung ở một khu vực thì sẽ quy tụ khách hàng có nhu cầu mua sắm mặt hàng đó có nhiều lựa chọn hơn, so với họ đến một cửa hàng kinh doanh mặt hàng đó, ở khu vực đơn lẻ. Chính vì vậy, khu vực kinh doanh tập trung sẽ dồi dào sinh khí, do lượng khách có nhu cầu về mặt hàng đó tập trung hơn. Một lợi thế hơn rất nhiều nữa là: Do mục đích mua sắm của những khách hàng đến khu vực kinh doanh cùng ngành hàng là những ý tưởng đồng nhất. Ta thấy rằng, việc một cửa hàng được thiết kế phù hợp với phong thuỷ sẽ kéo theo một luồng khí nhất định tới cửa hàng đó & khi có nhiều cửa hàng nằm trên cùng một khu vực hay một tuyến đường sẽ kéo theo nhiều nguồn sinh khí tới khu vực/ hay tuyến đường này. Trong những thời điểm nào đó thì đây chính là những yếu tố làm cộng hưởng luồng dương khí trong khu vực. Qua thời gian, nguồn sinh khí được cộng hưởng ngày càng mạnh nên & làm cho khí lực kéo tới khu vực này ngày càng trở nên thuần nhất & tinh khiết. Do việc tập trung các cửa hàng hay các cơ sở kinh doanh cùng ngành hàng trên cùng một khu vực, lâu dần & qua thời gian sẽ kéo theo nhiều khách hàng có cùng một nhu cầu tới. Việc này, bộ môn Phong Thuỷ Lạc Việt quán xét cho rằng dương khí trong khu vực này càng ngày càng thịnh & làm cho các cơ sở kinh doanh ở đây ngày một phát đạt hơn. Hiệu ứng của tính minh triết Việt “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” đã được cộng hưởng & phát tác. Có thể thấy rằng, sự tập trung các cơ sở kinh doanh có cùng một ngành hàng là một yếu tố rất có lợi - xét theo Phong Thủy Lạc Việt – khi chúng ta muốn chọn một địa điểm để kinh doanh. Việc chọn địa điểm ở những khu vực như vậy, sẽ làm cho các cơ sở kinh doanh ở đây thuận lợi hơn rất nhiều so với các cơ sở kinh doanh cũng mặt hàng đó ở những hoạt động đơn lẻ, do tính tụ khí của người tiêu dùng Trong phạm vi mở rộng đối tượng quán xét, chúng ta cũng có thể thấy đó là các Khu Công nghiệp, Khu công nghệ cao.... Hay những tòa nhà cao ốc văn phòng, không khí làm việc cũng sẽ hơn hẳn nếu so với nhưng cơ sở đó hoạt động ở những nơi đơn lẻ. Bởi vậy, từ cái nhìn của Phong thủy Lạc Việt, việc hoạt động kinh doanh và làm việc tập trung là một trong những yếu tố có lợi trong việc kinh doanh buôn bán, xét về sự tập trung khí lực. Thiết nghĩ, Ông cha ta ngày xưa cũng có câu: "Buôn có bạn, bán có phường" là hoàn toàn chính xác. Trên đây là những kiến giải của Achau dưới góc độ Phong thủy Lạc Việt. Cám ơn sự quan tâm của các ACE.1 like
-
Có lẽ trục tâm linh, hoàng đạo là lời lẽ phô trương đao to búa lớn của mấy đại ca qui hoạch như thường thấy khi làm pờ-ri-zen-tê-sần với các quan chức, báo chí. Thực chất là chỉ là 1 trục đường rất rất đặc biệt, mục đích làm điểm nhấn cho cả một không gian đô thị khổng lồ như Hà nội. Mấy ảnh nói thế chứ nhiều khi không biết rõ hoàng đạo là cái chi, hay thực sự có khái niệm trục tâm linh trong phong thủy hay trong triết học, thần học hay không? :angry: thông cảm vậy. Xu hướng bây giờ trên toàn thế giới là cố gắng tiệm cận, mô phỏng thiên nhiên, mà thiên nhiên thì hiếm thấy đường thẳng ở qui mô lớn. Cho nên vuông thành sắc cạnh chỉ thích hợp ở qui mô nhỏ, khi ở qui mô lớn và cực lớn buộc phải nương vào thiên nhiên mà làm, nó méo thì mình làm méo, nó xiên thì mình xiên, thế đất lên thì mình lên, thế đất xuống thì mình xuống. Hạn chế tối đa việc bạt rừng, xẻ núi, đào đồi, lắp hố, lấn biển, lấn sông, thẳng tắp nhân tạo . Thi đua kiểu công trình nhìn thấy từ mặt trăng thì cho xin, lợi thì không bao nhiêu nhưng hại thì nhiều vô kể.1 like
-
chào bạn vinh theo mình nghĩ dù con người có làm chủ được quy luật âm dương ngũ hành thì cũng khó mà làm chủ được định mệnh dân tộc đã từng sở hữu nền văn minh này cũng ko thoát khỏi quy luật đó . trong dịch có nói : thiên- địa- nhân ..trời ,đất có trước con người vậy mà con người vẫn muốn vượt lên đứng trước trời đất sao ?? có những chuyện chúng ta nên chấp nhận ở tính tương đối :P thân1 like
-
Phong Thủy Lạc Việt ở Singapore
hiki liked a post in a topic by Guest
Phong Thủy Lạc Việt ở Singapore Một đối tác Malaysia của một thân chủ của Tôi khi sang thăm Việt Nam đã có dịp chứng kiến tôi làm phong thủy và cùng tôi trao đổi về Phong Thủy Lạc Việt. Anh ta đã bị thuyết phục bởi những lý giải của tôi về Phong Thủy Lạc Việt và Anh ta có nhờ tôi qua sửa lại phong thủy cho công ty của Anh, nhà của bạn gái anh ta ở Malay cũng như đối tác của Anh ta ở Singapore. Tôi nhận lời và khi Anh ta quay về Malaysia, tôi cũng thu xếp công việc của mình , xem ngày tốt và thu xếp hành trang lên đường. Trước khi lên đường, Tôi lại nhờ Sư Phụ Thiên Sứ bảo lãnh cho tôi về thời tiết cũng như công việc bởi trước khi đi Tôi được thông báo rằng ở Singapore là mùa mưa và đang mưa rất to, thậm trí ngập cả đường cao tốc. Tôi rời Hà Nội ngày 20 tháng 11 và ngày về là 23 tháng 11. Tối ngày 19 tháng 11, Sư phụ Thiên Sứ chúc tôi thượng lộ bình an nói với tôi rằng, thời tiết ở Singapore và Malaysia sẽ mát mẻ, không mưa và tôi sẽ rung chuông lanh lảnh ở xứ người… Tôi hạ cánh ở sân bay Changi lúc 3h chiều , giờ địa phương, vẫn có mưa ngoài trời. Khá quen thuộc với sân bay Changi nên tôi chỉ mất 15 phút là ra tới cửa, và người đón tôi đã đợi ở đó. Khi Tôi bước lên xe của anh ta, mưa bắt đầu tạnh, lúc 3h30 phút giờ địa phương. Anh ta nói với tôi về thời tiết ở Singapore và hy vọng tôi sẽ không gặp mưa trong thời gian tôi ở đây. Tôi nói với anh ta rằng, tôi sẽ “gặp may”. Chúng tôi đi thẳng tới công ty ở Singapore, nơi tôi rung tiếng chuông đầu tiên. Phải mất 30 phút chúng tôi mới tới được văn phòng này. Chủ nhân của công ty này rất quan tâm tới phong thủy và có khá nhiều “đồ chơi” được bày và “trấn “ bởi các thày phong thủy từ Đài Loan và Hông Kông. Được biết mỗi năm, bà chủ này phải mời thày phong thủy 1 lần để có được vị trí để “đồ chơi” phong thủy. Tôi liền nói với bà ta về “Flying star”, câu trả lời là một cái gật đầu và “oh, you know about Flying Stars” (dịch: oh, anh biết về Huyền Không ?). Dĩ nhiên câu trả lời của tôi là ::”Absolutely… , Yes”. (dịch: tất nhiên là có rồi). Tôi bắt đầu nói về Phong Thủy Lạc Việt, cách mà tôi sẽ làm và sự khác nhau ở vị trí Tốn Khôn và phi tinh trên Hà Đồ, giữa Phong Thủy Lạc Việt và phong thủy cổ điển mà các thày phong thủy Đài Loan/Hồng Kông thường làm Sau khoảng thời gian diễn giải bằng vốn tiếng Anh “tiền lẻ” của tôi, gia chủ này hoàn toàn đồng ý về tính khoa học và sự hợp lý, logic của Phong Thủy Lạc Việt. Họ đề nghị tôi tiến hành sửa và sắp đặt lại theo nguyên lý Phong Thủy Lạc Việt Việc đầu tiên là đo hướng, loan đầu và phân cung bát trạch. La kinh của bác Lái Đò giữa đồ chơi phong thủy của gia chủ. Nhiều đồ chơi trấn yểm, nhưng thân chủ của tôi hoàn toàn không hiểu tác dụng của những đồ vật khí mà các thày phong thủy trước đã đề nghị họ mua và đặt ở đó. Đồ trấn yểm, có cả đèn Ngũ Hành. Nhưng hỏi thì chủ nhân lại không biết để làm gì. Ở trong đèn thì chả có gì ngoài mấy đồng tiền, lại để ở hướng Tây Bắc ?????. Tôi hỏi họ có biết đèn ngũ hành để làm gì và vì sao phải dùng để trấn yểm thì gia chủ lắc đầu:"Chỉ biết là thày bảo năm nay để ở đó". Tôi giải thích cho họ công năng của đèn Ngũ hành với vị trí nên để ở đâu. Và tất nhiên, sẽ phải cho muối, trà, gạo, đất vào đâu trong cái đèn này và vị trí đúng của nó theo Huyền Không Lạc Việt . Chủ nhân: “À ra thế, bây giờ tôi mới biết”. Tôi đáp: “Tất nhiên là bà không biết, bởi chỉ có chủ nhân đích thực của Phong Thủy mới giải thích một cách khoa học và sự logic. Chủ nhân của Âm Dương Ngũ Hành , Phong Thủy là tổ tiên của chúng tôi “ Hic, nói xong tôi mới nhớ ra họ là Hoa Kiều và tự thấy mình cũng liều và coi như dũng cảm :lol: . Sau đó là bắt đầu tới việc sửa cầu thang, trấn yểm thoát khí, xung sát khí….vv. . Tới 7 giờ, chúng tôi rời khỏi điểm đầu tiên với cái bụng đói meo và tôi đã thấm mệt. Về tới khách sạn cũng đã 7h30, khách sạn tôi ở gần ngay con đường Orchard Road, rât tiện cho việc tiêu tiền. Sau khi ăn uống no nê, tôi bắt đầu thực hiện chuyến đi tìm hiểu phong thủy ở Singapore mà chủ yếu là con đường chính Ochard Road và Bencoleen. Điều dễ nhận thấy là có khác nhiều tòa nhà bị lộ cốt, và cho dù khá đẹp như trung tâm mới này, nó vẫn vắng hơn trung tâm ở vị trí đối diện. Đây là điều có thể lý giải theo Lý thuyết hình lý khí của Phong Thủy Lạc Việt Bên phải là trung tâm có thiết kế lộ cốt,- vắng hơn bên trái, là trung tâm đông tấp nập và không lộ cốt. Khác sạn có kiến trúc lộ côt, khá vắng vẻ trong khi nằm ở đường trục chính Bencoolen Trung tâm này rất to nhưng cũng vắng teo. Tôi cũng vào nghỉ chân và uống café ở tầng dưới cùng, cũng chỉ để chứng thực cho nhận định của mình.Thiết kế lộ cốt mà. Đây là đồ phong thủy trấn yểm hàng năm “Flying Star”. Đồ chơi này nhập từ Đài Loan và giá của nó không rẻ tí nào. Hàng năm, khách hàng phải mang đồ tới , sau vài tuần đợi thày phù phép mới được quay lại mang về và đợi thày xếp lịch tới nhà để chỉ chỗ đặt. Hỏi thăm chủ cửa hàng thì họ nói rằng chủ yếu là các phong thủy gia tới từ Malay, Đài Loan, Hồng Kông, đều dùng “Flying Star” . Vậy tức là phong thủy gia ở đây thường dùng Huyền Không. Nhưng lý do vì sao đặt cái này ở vị trí này, cái kia ở vị trí kia thì họ không hiểu. Chỉ biết là để tăng cường Tài Lộc, Con cái, sức khỏe…vv Cuộc nói chuyện khá lâu và chúng tôi trao đổi name card, họ cũng muốn hiểu thêm về Phong Thủy Lạc Việt mà tôi nói tới. Trở về khách sạn lúc nửa đêm, tôi đã hiểu thêm khá nhiều về cách làm của các phong thủy gia ở đảo quốc Sư Tử. Điểm tiếp theo của tôi sẽ là ở thành phố Johor Bahru của Malaysia. Chỉ cách 45 phút đi xe máy từ Singapore nếu ngày thường, nhưng tôi mất tới 2 giờ đồng hồ khi di chuyển từ Sin qua Johor vào cuối tuần bởi khu vực hải quan “check point” giữa Sin và Malay đông ngẹt xe đợi làm thủ tục. Tới nơi, chỉ kịp cất đồ và xin phép thân chủ cho tôi được ăn mặc thoải mái khi làm phong thủy mặc dù thời tiết khá mát mẻ. Anh này cũng cho tôi biết rằng hai ba hôm nay trời mát và không có mưa. :lol: Khỏi cần giải thích thêm về Phong thủy Lạc Việt, tôi bắt tay vào công việc ngay. Tất nhiên là đo hướng, bát trạch, huyền không và Loan đầu. Tất nhiên là phải có trấn yểm chống thoái khí, một phát hiện và phục hồi độc đáo của Phong thủy Lạc Việt. Sửa lại cửa, chứ thế này là lộ cốt đấy. Có thương xung sát nữa nhá. Thân chủ tôi hướng văn phòng bị phạm Tuyệt Mạng nên cần chỉ chỗ để trấn yểm. Sau gần 3 tiếng đồng hồ mần khu văn phòng rộng hơn 100 m2, tôi di chuyển tới nhà riêng của bạn gái của anh này. Ngôi nhà này chính gốc Hoa Kiều và may mắn họ nói tiếng Anh. Tất nhiên là đầy đủ: phân cung bát trạch, huyền không, loan đầu. Trấn yểm chống thoát khí, xà đè, hướng bếp,vv. Sau hơn 2 giờ đồng hồ, chân của tôi đã bắt đầu run run vì hết năng lượng. Bữa tối duy nhất trên đất Malay. Chúng tôi được mời tới nhà hàng nằm trên bãi biển, mà bên bờ bên kia là đất Singapore. Chiều ngày 23 tháng 11, 2h30 chiều trời đổ cơn mưa khi chúng tôi bước chân vào sân bay Changi. Đồ đạc lỉnh kỉnh, chỉ kịp chạy để là thủ tục lên máy bay và tiếc hùi hụi khi không kịp chụp bức ảnh nào ở ngoài sân bay khi trời mưa. Tôi không biết khi tôi rời Singapore thì trời có tạnh mưa hay không, nhưng chuyến bay về rất mệt bởi máy bay gặp thời tiết xấu. Tuy mệt nhưng vui, vì chuyến đi thành công bởi ít nhất với chút "công lực" mà tôi đã gõ được vài tiếng chuông leng keng, đi sửa sai lầm của phong thủy cổ điển bằng Phong Thủy Lạc Việt. Tuy chưa thể chứng nghiệm được bởi tôi mới sửa cho họ, nhưng quan trọng là họ cần nhờ tới Phong Thủy Lạc Việt để sửa lại phong thủy cho họ, vì bao năm họ làm theo phong thủy cổ điển cũng không tác dụng. Mục tiêu tiếp theo của tôi sẽ là: Đem chuông đi rung ở xứ Đài Loan!1 like -
Một bằng chứng nữa chứng tỏ rằng: Bản thân những gì nền văn hóa Hán còn ảnh hưởng trên đất Việt cổ từ hơn 2000 năm trước: Đài Loan, Nam Dương Tử....thì những tri thức liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành chỉ là những mảnh vụn rời rạc, không hệ thống....nó không đủ sức để thuyết phục ngay chính dân của họ. Thuyết Âm Dương Ngũ hành và các hệ quả của nó, như Phong thủy....là của người Việt. Khi nó thuộc về người Việt rồi. Nó sẽ thật sự có hệ thống và khoa học.1 like
-
Giỏi lắm. Sư phụ cần những đệ tử như Hải. Sẽ đến lúc chúng ta sang Đài Loan, Trung Quốc nói về nguồn gốc Phong thủy và tính khoa học của nó. Cảm ơn Hoàng Triều Hải vì món quà mang tặng tôi từ Singapore1 like
-
PHONG THỦY TRỤ SỞ TWA Hãng hàng không lớn nhất Hoa Kỳ * Hướng dẫn: Thiên Sứ Đồng hướng dẫn: Phạm Cuơng Thực hiện: VinhL Tham gia: Hạt Gạo Làng, MinhChau, VoThuong, Nhị Địa Sinh,Random, Carista, Thiên Đồng, AChau, Zhinsang, ThanhPhuc, Vovinhivi. Hãng hàng không TWA là một hãng hàng không tầm cỡ quốc gia của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Sau nhiều thập kỷ hoạt động ghi dấu ấn trong lịch sử hàng không dân sự quốc tế, hãng này đã bị phá sản và lùi vào quên lãng. Nhưng những ai có dịp đến phi trường Kennedy ở New York City vẫn thấy trụ sở của hãng hàng không TWA một thời oanh liệt, vẫn còn sừng sững ghi dấu ấn nơi đây. Từ cái nhìn của khoa Phong Thủy Đông phương, anh chị em lớp Phong Thủy Lạc Việt khóa II với sự chủ trì của VinhL và được sự hướng dẫn của ban giảng viên đã thực hiện đề tài phân tích trụ sở của hãng TWA với sự thăng trầm trong lịch sử. Hãng hàng không TWA và lịch sử thăng trầm. TWA, tức Trans World Airlines, là một trong những hãng hàng không lớn nhất ở Hoa Kỳ. Hãng TWA được thành lập vào ngày 13 tháng 7 - 1925, tên lúc đó là Western Air Express. Năm 1930, sát nhập cùng hãng Transcontinental Air Transport và trở thành hãng Transcontinental and Western Air (T&WA). Năm 1939, nhà tỷ phú Howard Hughes (một trong những người giàu nhất thế giới lúc hiện tiền) đã mua và phát triển phục vụ xuyên Đại Tây Dương. Đến năm 1950 đã đỗi tên thành Trans World Airlines (TWA). Từ 1940s đến 1970, TWA là một trong hai hãng hàng không Hoa Kỳ (TWA và Pan American World Airways) phục vụ các đường bay sang Âu Châu. Đến 1969, các đường bay xuyên Đại Tây Dương của TWA đã trội hơn của hãng Pan Am. Vào thập 1980, các pháp quy của hàng không được nới rộng, mở đường cho sự cạnh tranh và thâm nhập của các hãng mới. Đây là một đòng nặng cho hãng TWA. Vào 1985, hãng TWA bán cho Carl Icahn, và vào năm 1992, hàng TWA nạp đơn phá sản. Nhưng lại phục hồi hoàn toàn sau đó và tuyên bố mua thêm 125 máy bay để thay mới đoàn bay. Nhưng các khó khăn về tài chánh bắt đầu xuất hiện. Tháng 1 - 2001 hãng TWA một lần nữa nạp đơn phá sản. Vào tháng 4 - 2001, đã bị hãng American Airlines mua. Chuyến bay cuối cùng của hãng TWA từ St. Louis, Missouri đến Las Vega và Nevada vào ngày 1 tháng 12 - 2001. Thập niên 1960s, TWA phát triển mạnh dưới sự điều hành của nhà tỷ phú Howard Hughes, đã xây cất thêm trụ sở nổi tiếng Terminal 5 tại phi trường JFK của thành phố New York. Kiến trúc này được hoàn tất vào 1962 và đây chính là đối tượng suy nghiệm của khoa Phong Thủy Đông phương và là nội dung chính của bài viết này. Sau khi xây cất xong nhà ga (Terminal 5), hảng TWA lúc đầu phát triển mạnh mẽ hơn, nhưng chỉ trong khoảng 40 năm, hảng TWA bắt đầu suy thoái, cho đến năm 2001 thì biến mất trên thị trường. (Nguồn: http://www.aviationexplorer.com/twa_airlines.htm) Kiến trúc của nhà ga (Terminal 5) này có hình dáng rất đặc biệt giống như con chim ưng hạ cánh. Nó được liệt kê là một công trình có giá trị nghệ thuật (“Landmarked building”) ở New Jersey thuộc New York City. Ưng (Eagle) là một loài chim rất được ưa chuộng tại nước Mỹ và được sử dụng trong các phù hiệu của chánh phủ, có lẽ đây cũng là một nguyên do mà con Ưng TWA này được dân chúng trong vùng yêu thích. Con Ưng TWA này do nhà Kiến Trúc nổi tiếng Eero Saarinen phác họa. Toàn bộ kiến trúc ứng dụng tối đa các đường cong, phòng ốc bên trong (cavernous interior) trên cơ sở của những lý thuyết kiến trúc hiện đại (Modern Architecture). Dưới đây là bản vẽ phác thảo kiến trúc của trụ sở hãng TWA tại phi trường Kennedy Phần mặt trước của trụ sở TWA nhìn nghiêng Con Ưng này đã trở thành hình ảnh đại diện cho hảng hàng không TWA và cho cả phi trường JFK trong các hập niên qua. Một kiến trúc hiện đại có giá trị nghệ thuật cao, một nhà ga và trụ sở nổi tiếng của hãng hàng không TWA lớn nhất nhì nước Mỹ. Nhưng nhìn từ góc độ phong thủy chúng ta có thể thấy ảnh hương thực tế theo phương pháp luận của môn khoa học kiến trúc Đông phương cổ này đến số phận của nó và toàn thể hãng hàng không quốc tế TWA. Toàn cảnh trụ sở hãng TWA, nhìn từ phía trước. Ảnh Thiên Sứ Toàn cảnh trụ sở hãng hàng không TWA, nhìn từ phía sau. Ảnh Thiên Sứ Xét về lý khí hình thể Qua các hình ảnh, hình dáng của kiến trúc này trong giống như một con Đại Bàng đang hạ cánh, dãy nhà xuyên qua dưới hai cánh, như một mũi tên xuyên từ cánh này qua cánh kia, phía sau hai cây cầu dẫn vào trong, như hai mũi tên ghim vào. Phía trước mặt kiến trúc này là một con đường cong, đầu con Ưng này ở ngay tại khúc cong (chổ lồi) của con đường, tạp khí tạo ra bởi khúc lồi xung thẳng vào tòa nhà, tạo nên cục thế Liêm Đao Sát. Theo hình thể bề ngoài thì đây có thể nói là cục "Phi Ưng hở cánh" bị "Xạ Tiển Xuyên Tâm", Liêm Đao cứa cổ, thật là xấu. Con Ưng này phía trước bị dao khứa cổ, mình thì trúng xuyên tâm tiển, như vậy mà nó cũng có thể oanh liệt kéo dài mạng sống hết 40 năm trong huy hoàng, được dân chúng khắp New York yêu quí. Xin đặt câu hỏi là tại sao với hình lý khí như vậy mà nó có thể cầm cự một cách oanh liệt suốt 40 năm và khả năng còn tiếp tục vươn lên oanh liệt? Nhưng nếu quan sát kỹ thì chúng ta thấy rằng: Hình thể con chim ưng này thật dũng mãnh và uy dũng với khí thể xà xuống vồ mồi của một loài vương điểu. Bởi vậy, mặc dù phạm nhiều cách sát nguy hiểm, nó vẫn không thể chết ngay, mà còn vũng vẫy trong lịch sử hàng không Hoa Kỳ nhiều năm về sau. Huyền không phi tinh Lạc Việt Trong quan niệm của phong thủy Lạc Việt, không thể chỉ xét riêng Hình Lý Khí, mà phải là sự tổng hợp của các yếu tố tương tác khác. Đó là vận khí của tòa nhà, công trình kiến trúc qua phương pháp Phi tinh Huyền Không, để xét đoán sự tốt xấu, lành dữ qua thời gian lịch sử tồn tại của nó. Phương pháp Huyền Không sẽ cho chúng ta một cái nhìn chi tiết hơn về và hiểu diễn biến thăng trần của con chim ứng này trong lịch sử hàng không dân dụng Hoa Kỳ. Theo hình được tạo từ kinh vĩ độ của GPS Visualizer (đường dọc là kinh tuyến, đường ngang là vĩ tuyến Đông Tây), ta thấy con Ưng này có hướng Tây, Sơn Đông Hướng Tây tức Sơn Mão Hướng Dậu. Con Ưng này được hoàn tất vào năm 1962 tức vận 5 (1944 – 1963), kéo dài qua vận 6 (1964 – 1983), và đóng cửa vào tháng 10, 2001 tức vận 7 (1984 – 2003). Sơn Mão Hướng Dậu Theo Huyền không Lạc Việt Phi Tinh: Vận 5 Đáo Sơn Đáo Hướng, vì vậy mà dù bị dao tên xâm phạm mà vần oanh liệt vương danh thiên hạ. Vận 6 Lệnh Tinh Đáo Hướng, trong vận này con Ưng bắt đầu yếu dần, nhưng củng nhờ cái lệnh tinh đáo hướng mà lây lất chưa gục. Vận 7 trước gặp Nhị, sau gặp Ngũ, Hình Khí đã bị thương, nay lại gặp Nhị Ngũ theo Huyền Không Lạc Việt thì làm sao mà thoát khỏi tử thương? Theo Huyền Không Phi Tinh từ cổ thư Hán: Vận 5 cũng được "Vượng Sơn, vượng Hướng"; nhưng vào vận 6 thì phạm "Thướng Sơn, hạ Thủy". Như vậy theo phương pháp luận của Huyền không phi tinh thì con Ưng này phải chết. Hay nói cách khác là hãng TWA phải phá sản trong vận này. Nhưng thực tế đã không diễn ra như vậy theo phiên tinh Huyền Không từ cổ thư chữ Hán. Và cũng theo phương pháp từ cổ thư chữ Hán thì đến vận 7 lại đắc "Vượng Sơn, vượng Hướng" thì đáng nhẽ phải phục hồi trở lại, nhưng thực tế con chim Ưng TWA lại gục ngã trong vận này - Hãng TWA chính thức phá sản vào 2001 - Như vậy, đã chứng tỏ phương pháp Huyền Không Lạc Việt Phi Tinh có tính hợp lý và nhất quán với phương pháp luận Huyền không. Cũng theo Huyền Không Phi Tinh từ cổ Thư Hán, con Ưng này khởi ở Vận 5, Hướng tinh là 7, cho nên đến Vận 7, 7 nhập trung cung tức Nhập tù, vì vây địa vận của nó chỉ có 40 năm. Một sự mâu thuẫn rõ ràng trong phương pháp Huyền Không Phi Tinh Hán là vận 7 vừa “Đáo Sơn, Đáo hướng” lại vừa Nhập Tù, như vậy thì phần “Đáo Sơn, Đáo Hướng” ảnh hưởng nhiều hơn hay Nhập Tù ảnh hưởng nhiều hơn. Thật tế cho thấy thì hảng TWA đã phá sản năm 2001, như vậy, theo Huyền Không Phi Tinh Hán là Nhập Tù, địa vận hết, vận số dứt, thế nhưng thực tế con Ưng đến hiện nay vẫn còn, nó chỉ gục ngã, nằm dưỡng thương vài năm, rồi lại vươn lên trong sự nâng niu của người chủ mới - JetBlue Airways. Theo Huyền Không Lạc Việt phi tinh thì vận 5 - thời điểm xây dựng trụ sở TWA - Hướng Tinh là 9, đến Vận 9, Hướng Tinh 9 nhập trung cung tức "Nhập Tù"; vì vậy, với "Sơn Mão Hướng Dậu", địa vận phải là 80 năm. Vì vậy mà con Ưng này chỉ gục ngã tạm thời, chứ không tử vong như theo vận khí của Huyền Không Phi Tinh Hán. Theo Huyền Không, thì Điạ Vận là tính từ khi khởi vận đến khi Hướng Tinh Nhập Trung Cung, nếu theo nguyên lý này thì địa vận theo Huyền Không Lạc Việt Phi Tinh của con Ưng này kết thúc ở vận 9 tức 2024-2043, như vậy còn ít nhất là 15 năm hay lâu nhất là 34 năm nửa thì vận khí mới hết. Như vậy, đã chứng tỏ phương pháp Huyền Không Lạc Việt Phi Tinh có tính hợp lý và nhất quán so với phương pháp luận huyền không. Đây không phải là cái vận số đã phô diễn rõ ràng của con Ưng TWA theo Huyền Không Lạc Việt sao! Xét theo Bát trạch Lạc Việt Ngoài Thời Vận ra thì còn nhừng gì tốt về con Ưng này mà khiến nó có sức cầm cự mãnh liệt qua mấy mươi năm? Để đi sâu vào vấn đề này chúng ta tiếp tục xét trên phương pháp Bát Trạch để phân tích. Phong Thủy quan niệm có hình thì có khí, có khí thì có sinh có tử có vượng có suy. Vật thể có hình thì tất có khí, có khí tức có sự ảnh hưởng và chi phối của Âm dương Ngũ hành. Đã có sự ảnh hưởng của Ngũ hành thì dĩ nhiên củng bị chi phối của phương hướng, bát quái, như vậy, vật thể củng phải có cung Phi. Còn Ưng này hình thể dũng mãnh, thuộc Dương , là con đực. Năm 1962 hoàn tất là năm Nhâm Dần vận 5, Nam Khôn Nữ Cấn, theo cung phi Lạc Việt thì là Nhị Khôn. Kiến trúc này có Sơn Đông Hướng Tây (Sơn Mão Hướng Dậu) tức là Đoài Trạch. Cung Phi Khôn, nhà Đoài Trạch, phía trước Tây là Thiên Y, phía Đông Bắc (cung Cấn) là Sinh Khí, phía Đông Nam (cung Khôn) là Phục Vị, chính hai chổ này là hai mũi hậu tiễn theo hình lý khí, nhưng lại đắc Sinh Khí, và Phục Vị, như vậy hai cây cầu này là chổ động nên dẫn khí tốt vào trong. Theo Môn Lầu Ngọc Bối thì hướng Tây cửa mở Thiên Y được Thân Hôn. Cây cầu ở Đông Bắc Cấn Sinh Khí lại đắc Quan Tước, cây cầu ở Đông Nam Phục Vị phạm Điên Cuồng. Dãy nhà xuyên tâm từ Tuyệt Mệnh sang Lục Sát. Tổng hợp lại luận thì quả thật con Ưng này hơi Điên Cuồng không dễ nắm đầu nó được, nhưng hướng Thiên Y có Thân Hôn, Sinh Khí có Quan Tước, có lẻ vì vậy mà nó đã vang danh khắp xứ, và là cái ảnh (image) đại biểu cho phi trường JFK nổi tiếng. Sơn Mão Hướng Dậu, tức Chấn phối Đoài là Phá Quân Kim tinh, bản tính của con Ưng này hung hãn như Phá Quân Kim tinh, ai làm chủ nó không cẩn thận sẻ bị con Ưng này sơi sống. Nạn nhân đầu tiên là hãng TWA lớn nhất nhì nước Mỹ. Xét theo cấu trúc hình thể Xem xét đến sự kiến trúc đặc thù ở bên trong của con Ưng này, thì sự mãnh liệt, dai sức của nó càng được hiện rõ. Kiến trúc bên trong của con Ưng, được ứng dụng các đường cong và giảm thiểu các đường thẳng và góc cạnh tối đa. Đường thẳng và góc cạnh thì tạo ra tạp khí và sát khí, nay dùng đường cong thì tạo ra sinh khí và sự thông khí tối đa cho các cung vị, nhờ vậy mà nội khí của con Ưng này không phải là tầm thường. Nó như một nhà nội gia khí công cao thủ mạch Nhâm Đốc được đã thông nên khí lực sung mản, tuy bị hình lý khí bề ngoài xấu, nhưng, thể chất (Cung Phi Bát Trạch) và nội khí rất tốt (Kiến trúc đường Cong), không dễ dàng bị quật ngả. Phải đến lúc thời vận (Phi Tinh) gặp Nhị Ngủ sát khí trùng trùng thì nó mới gục xuống. Tuy gục xuống, nhưng nó vẫn chưa chết, mà chỉ nghỉ dưỡng thương vài năm!!! Sau khi hảng TWA phá sản, bị hảng American Airlines mua, con Ưng này bị đóng cửa. Tháng 12, 2005, hảng JetBlue Airways là một hảng hàng không phát triển lẹ nhất đương thời, đang ở ga 6, dời sang ga 5, xây cất thêm 26 cửa bay phía sau, phá bỏ các kiến trúc phụ bên hông, và sáp nhập con Ưng vào thành một kiến trúc ga 5 mới. Ga 5 JetBlue Airways bắt đầu mở cửa vào ngày 22 tháng 10, 2008. Hãng hàng không TWA đã mất, con Ưng TWA củng đã gục ngã 7 năm, bước vào vận 8 nó đã phục sinh thành con Ưng JetBlue. Theo Phi Tinh Lạc Việt thì vận 8 đắc Lệnh Tinh Đáo Hướng, Linh Thần cung Tốn Tây Nam đắc Thủy. (Còn theo Huyên Không thì vận 8, Sơn Mão Hướng Dậu được Song Tinh Đáo Hướng, Khảm Cung Đả Kiếp). Sự hồi sinh vào vận 8 sẻ là một cục vận mới cho con Ưng này, địa vận mới của nó sẻ kéo dài tới 80 năm. Qua sự suy luận và khảo nghiệm về mặt phong thủy của kiến trúc con Ưng TWA này, sự ứng dụng hợp nhất các phương pháp mới phô diễn được chổ cao siêu của Phong Thủy. Chỉ biết Hình Lý Khí không thì chưa đủ, Phi Tinh không cũng không thông, chỉ có kết hợp Hình Lý Khí, Bát Trạch, Phi Tinh và cấu trúc hình thể mới có thể hiểu thấu được toàn cục diện. Sự áp dụng của 4 phương pháp này giống như ở con người, Hình Lý Khí là diện mạo sắc khí của con người, Bát Trạch và cấu trúc hình thể là thể chất nội bộ của con người, và Phi Tinh là Thời Vận ở con người. Vài lời bình luận. Không tự cho là đúng . Xin được các cao nhân bổ sung góp ý. Kính bút. VinhL1 like
-
BÀI VIẾT BỔ SUNG TIỂU LUẬN TRỤ SỞ TWA Nhidiasinh Phong Thủy Lạc Việt Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Qua bài phân tích về Termenal 5 vừa qua, chúng ta đã thấy đây là hình tượng một con chim ưng dũng mãnh đang vồ mồi. Nhưng với những đường dẫn lưu thông đâm thẳng vào thẳng trung tâm tóa nhà, tức trái tim của con chim ưng này. Đó là ba hướng Đông bắc, Đông nam và Tây nam, về cấu trúc hình thể theo Phong thủy Lạc Việt là rất xấu, với lối lưu hành như thế thì nó cũng là nơi thu nạp dẫn khí vào ra chủ yếu của những khu vực này, vì thế theo Phi tinh Huyền Không lạc Việt, nó cũng bị tác động theo phi tinh tốt xấu tại đây, như là một yếu tố tương tác quan trọng góp phần quyết định vận mệnh của trụ sở hãng hàng không TWA này. Theo quan điểm của Phong Thủy Lạc Việt thì nếu chỉ xét một yếu tố là phi tinh Huyền không tốt xấu mà thôi, thì các yếu tố liên quan đến phi tinh Huyền không, không thể nào gây nên tác động xấu đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của công trình được, mà nó phải kết hợp bởi nhiều yếu tố tương tác. Trong bài phân tích phong thủy TWA do VinhL và anh chị em tham gia đã phân tích có tính tổng hợp 4 yếu tố tương tác trong Phong thủy Lạc Việt. Trong bài này, người viết chỉ tập trung phân tích dưới góc độ phi tinh để phân tích diễn biến trong thời gian đã qua. Đại vận Tam Bích của Việt lịch trong phong thủy Lạc Việt Trước khi đi sâu vào phân tích, chúng ta cũng nên biết sơ qua về đại vận. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì từ thời Hồng Bàng Thị, tính từ năm Nhâm Tuất, tức năm 2879 trước công nguyên, đến nay là đại vận thứ 84 thuộc hạ nguyên của tam nguyên thứ 28, tức là đại vận của tam bích, chứ không phải tính theo lịch Trung Hoa là đại vận thứ 79 thì thuộc đại vận Thất xích. Ở đây, theo Phi tinh Huyền Không Lạc Việt là căn cứ theo Việt lịch, lấy đại vận tam bích là đại vận hiện thời, tính từ 1984 đến 2024, còn từ năm 1924 đến 1984 là thuộc đại vận thứ 83 thuộc tam nguyên thứ 27 tức là đại vận Nhị hắc. (Tham khảo từ Lý thuyết Tam nguyên cửu vận của soạn giả Hoàng Tuấn). Vận 7 Theo tinh bàn vận 7, ngoài vận bàn ngũ hoàng tới toạ và vận bàn nhị hắc tới hướng, tạo thành thế nhị ngũ giao tranh, thì tại trung cung và ngoại khẩu hướng đông bắc đều có sơn hướng tinh nhị ngũ đều tề tụ về đây, vì thế trong vận 7 này ta có hai móc thời gian biến động chính yếu thể hiện tác động không tốt của các phi tinh ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công trình hình con chim ưng này. -Tháng 1 năm 2001, năm Canh Thìn - Cửu tử niên tinh, tam bích nguyệt tinh nhập trung cung, nhị hắc, bát bạch niên nguyệt tinh đến ngoại khẩu hướng tây nam. Ngũ hoàng, nhị hắc niên nguyệt tinh đến phương nam. Năm canh thìn tam sát tại phía nam gồm các sơn Tỵ - Ngọ - Mùi, âm khí quá mạnh làm cho nhị ngũ niên nguyệt càng thêm phát tác mạnh. Thái tuế phi tinh tại Đoài (hướng Tây), Tuế phá tại Chấn. Thái tuế là dương khí, tuế phá là âm khí, phương tây - Đoài thuộc Kim, phương đông - Chấn thuộc Mộc. Như vậy sơn tọa sơn hướng đối nghịch âm dương đối xung Kim Mộc rất hung hại. - Tháng 10 năm 2001 Tân Tỵ, khí khẩu hướng Tây Nam niên tinh thất xích dương hoả, nguyệt tinh nhị hắc âm hoả đới thổ, hoả khí quá vượng làm suy kiệt tổn hao tổn khí lục bạch âm kim đới thuỷ, lục bạch tượng là người đứng đầu. Khẩu khí hướng đông bắc có niên nguyệt nhị hắc, lục bạch, năm tân tỵ thái tuế phi tinh tại đông bắc, như vậy hướng tinh ngũ hoàng xưa nay đã ở khu vực động khí nay lại gặp thái tuế đến khoáy động, lại gặp thêm nguyệt tinh nhị hắc, như vậy khu vực này đã động nay càng thêm động, ngũ hoàng phát tác, đã xấu lại càng thêm xấu hơn. Năm Tân tỵ tam sát tại phương đông Dần Mão Thìn là phương toạ, nơi đây lại là khu vực trống trãi nên âm khí lại càng dễ tụ rất lớn. Như vây trong thời gian này quá nhiều tác động xấu nên không tranh khỏi phải đóng cửa. Khẩu khí hướng Đông nam có niên nguyệt ngũ hoàng cửu tử. Năm 2001 - Tân Tỵ - Bát Bạch - Vận 7. Thái tuế năm tại Tốn (Khôn – HKLV) - Tỵ. Tuế phá Càn - Hợi, tam sát tại Dần - Mão - Thìn - phía Đông. Vận 8: Theo trạch bàn vận 8 thì vận tinh ngũ hoàng đến khẩu khí hướng Đông nam gặp hướng tinh lục bạch âm kim đới thuỷ, và khu vực đông nam Khôn địa bàn là Nhị hắc âm hoả đới thổ, lục bạch không được tương sinh mà còn bị thổ khí quá vượng ở đây vùi lắp bao vây, lục bạch tượng người đứng đầu, vì thế người đứng đầu luôn hay gặp điều bất lợi bên ngoài đưa đến, nên hạn chế sử dụng, đi lại. Vận tinh nhị hắc âm hoả đới thổ đến khẩu khí hướng Đông bắc, gặp hướng tinh cửu tử dương kim sinh khí, khu vực địa bàn Đông bắc là bát bạch âm mộc vượng khí, như vậy khẩu khí ở hướng đông bắc trong vận này rất tốt, nên sử dụng thường xuyên. Phương Đoài - Tây đầu hướng có hứơng tinh vượng khí bát bạch âm mộc vượng khí, đây gọi là được vượng hướng. Vận tinh tam bích dương mộc, theo hà đồ 3 – 8 là khí mộc, như vậy bát bạch vừa là vượng khí lại là đồng khí với tam bích nên đầu trong vận này rất tốt, nếu bố trí thêm thuỷ thì sẽ càng tốt hơn do khu vực này là Đoài dương kim cửu tử, sẽ tạo nên vòng tương sinh Kim Thuỷ Mộc. Phương toạ Chấn - Đông có hướng tinh ngũ hoàng, lục bạch vận tinh âm kim đới thuỷ . Hướng tinh và sơn tinh Nhị Thất, Thất Nhị là hoả khí đến Tây bắc và Bắc tương xung tương khắc với cửu tử, tứ lục vận tinh, cũng như với địa bàn Thuỷ nhất bạch hướng Bắc và kim lục bạch Tây Bắc, không tốt. Qua các mốc thời gian xảy ra ở vận 7, thì ta thấy rằng có một chu kỳ phi tinh niên nguyệt cố định, đó là các niên nguyệt Tam bích, Bát bạch, Cửu tử nhập trung cung. Do đó trong vận 8 này sẽ có các năm sau có niên tinh phi tinh gây ảnh hưởng xấu: Năm 2009, 2010, 2015, 2018, 2019, 2024 cùng với các tháng có nguyệt tinh Tam bích, Bát bạch, Cửu tử nhập trung cung của các năm trên. Năm 2009 thì nguyệt tinh tam bích tháng 12 AL nhập trung cung, nguyệt tinh ngũ hoàng đến phương nam gặp nhị hắc lưu niên thành sát. Phương Tây nam nhị hắc nguyệt tinh tới đây gặp thái tuế cùng bát bạch âm mộc đắc mà đem hoạ đến phương nầy. Năm 2009 Kỹ Sửu tam sát tại toạ phương đông, phương nầy lại là khu vực trống trãi, với lại tam sát chỉ kỵ toạ không kỵ hướng nên âm khí ở đây trùng trùng tạo thêm điều kiện cho hướng tinh ngũ hoàng đại sát càng thêm phát tác sát khí mạnh mẽ, âm khí chủ sự huỹ diệt, gây tai hoạ, vì thế sẽ phương hại cho mọi người, nhất là người đứng đầu là lục bạch âm kim đới thuỷ. Với những phi tinh của nguyệt tinh tháng 12/2009 AL thì có thể thấy rằng vào tháng này sẽ gặp nhiều trở ngại, chủ yếu là do những kẽ tiểu nhận phá hại gây nên. TWA trong năm 2010 Như vậy năm 2009 là năm kinh doanh khá khó khăn, nhưng cũng còn cầm cự được, đầu hướng có hướng tinh vượng khí bát bạch được tam hợp thái tuế Tỵ Dậu Sửu kích thích hoạt động tốt, nhưng vì đây là tam hợp kim cục nên cũng hạn chế làm cho bát bạch âm mộc yếu kém đi nhiều tuy là vượng khí. Nhưng nếu có vượt qua được năm này, nhất là tháng 12 AL thì bước sang năm mới 2010 cũng đầy sóng gió cam ro thử thách, để thấy được điều đó, ta đi vào phân tích cụ thể năm 2010 như sau. Năm 2010 – Canh Dần - Bát bạch nhập trung cung, nguyệt tinh tháng 3 AL là cửu tử nhập trung cung. Nguyệt tinh bát bạch tháng 4 nhập trung cung và nguyệt tinh tam bích tháng 9 nhập trung cung. Reduced: 62% of original size [ 1023 x 965 ] - Click to view full image Nhìn qua ba bảng phi tinh trọng yếu trên, tuy hai tháng 3 và 9 cũng có tác động xấu nhưng tháng 4 là tháng có phi tinh tác động xấu nhất. Tháng 4 AL có nguyệt tinh bát bạch nhập trung cung, thì hai khẩu khí Đông Bắc và Đông nam đều có Nhị hắc Ngũ hoàng đến đó, ở khẩu khí Tây nam cũng có Thất xích suy khí, trong tháng 4 AL này các phi tinh xấu đều hội tụ ở những khẩu khí quan trọng đâm thẳng vào trung cung trái tim của con chim ưng này, tuy trung cung là nơi tập hợp khí vượng, nhưng khó mà chống đỡ được bị công kích tứ phía. Như vậy, như một người cựu chiến binh mang trong mình nhiều mãnh miếng vụn của đạn pháo thời chiến tranh, bình thường thì không sao, nhưng gặp khi trái gió trỡ trời thì nó mới gây nên những cơn đau dần vặt thể xác, thì con chim ưng này cũng vậy, thì những mũi xuyên tâm là những khẩu khí, lúc phi tinh tốt thì không sao, có vẽ còn khoẻ mạnh hơn nhưng khi các phi tinh xấu đến những khẩu khí này thì giống như trái gió trỡ trời nó sẽ gây nên những cơn đau thấu buốt, đó là sự suy sụp trong làm ăn kinh doanh không hiệu quả, lỗ lã đẫn đến phá sản hay đóng cửa, và nhất là nó không còn khí lực dũng mãnh như ban đầu vang dội khắp chốn. Như vậy với sự dũng mãnh bề ngoài của con chim, nhưng dưới cái nhìn của phi tinh Huyền Không Lạc Việt thì khí lực của nó khá yếu kém, nó đang cầm cự chỉ cần chờ hội đủ các yếu tố xấu tác động thì nó sẽ lại gục ngã. Có thể nó sẽ lại gục ngã lần nữa vào tháng 4 AL năm 2010 năm sau. Có thể là sẽ sang bán cho một công ty khác hay là đóng cửa tạm thời do các yếu tố bên ngoài tác động. Nhidiasinh.1 like
-
về việc tính ngũ hành này, H nhớ có trong quyển Tử Bình Chân Thuyên cũng có công thức tính, trích nguyên văn như sau: đây cũng là công thức dùng được trong lập trình, tính toán. chào chú Vo Truoc, công thức của anh VinhL rất hay đấy. theo H nghĩ chú đề nghị anh VinhL đổi lại công thức dùng cho Lạc thư Hoa giáp thì anh VinhL cũng ghi rõ bên dưới rồi, ai dùng thì đổi Thủy - Hỏa. H nghĩ vậy cũng OK rồi. còn nếu chỉ sử dụng công thức của anh VinhL riêng cho Lạc thư Hoa giáp trừ khi Lục Thập Hoa Giáp biến mất khỏi trần gian này. Điều này có nghĩa chúng ta cần phải làm hành động giống như Tần Thuỷ Hoàng xưa kia ra lệnh đem đốt hết tất cả sách vậy. sau khi đốt hết sách có viết về Lục Thập Hoa Giáp, đương nhiên chỉ còn lại duy nhất Lạc thư Hoa giáp !1 like
-
Cám ơn bạn VinhL đưa ra công thức tính nhẩm nạp âm ngũ hành khá hay dựa vào Hợp kỷ biện phương thư và Thừa số học. Chỉ tiếc rằng nó chỉ đúng với bảng Lục thập Hoa giáp mà không đúng với Lạc thư Hoa Giáp của anh Thiên Sứ. Các bạn cũng đã biết, anh Thiên Sứ đã chứng minh bảng Lục thập Hoa giáp mà cổ thư truyền lại là không chính xác và đưa ra bảng Lạc thư Hoa giáp thay thế. Trong chuyên mục "Cơ sở Học thuyết ADNH" tôi cũng lập ra bảng Hoa giáp, đồng thời chỉ rõ cơ sở lý thuyết của nó bằng phương pháp lôgíc, hoàn toàn độc lập với phương pháp của anh Thiên Sứ, được kết quả chính xác là bảng Lạc thư Hoa giáp. Điều này gián tiếp khẳng định tính đúng đắn của Lạc thư Hoa giáp và lý thuyết trong chuyên mục "Cơ sở Học thuyết ADNH". Bạn VinhL đề nghị đổi Thủy - Hỏa để có thể dùng công thức của mình cho Lạc thư Hoa giáp, tuy kết quả chính xác nhưng logic thì có cái gì đó không ổn (không thể dùng công thức từ một nguyên lý bị sai lệch cho nguyên lý đúng). Trong khi nghiên cứu của mình, tôi cũng đưa ra công thức tính nạp âm Ngũ hành cho các đơn vị thời gian như sau, đúng vói Lạc thư Hoa giáp mà không đúng với Thập lục Hoa giáp của cổ thư. Xin chia sẻ với các anh chị em trong diễn đàn như sau: Đặt trọng số Địa chi, Thiên can: ĐC = 1 (Tý, Sửu), 2 (Dần, Mão), 3 (Thìn, Tỵ), 4 (Ngọ, Mùi), 5 (Thân, Dậu), 6 (Tuất, Hợi) TC = 1 (Giáp, Ất), 2 (Bính, Đinh), 3 (Mậu, Kỷ), 4 (Canh, Tân), 5 (Nhâm, Quí) Tính H = (ĐC+TC)mod5 (nếu ĐC < = 3). H = (ĐC+TC-3)mod5 (nếu ĐC > 3) Nếu: H = 4, Mệnh Thủy H = 3, Mệnh Hỏa H = 2, Mệnh Kim H = 1, Mệnh Mộc H = 0, Mệnh Thổ (Chiều giảm dần của H từ 4 tới 0 là chiều tương khắc của các hành bắt đầu từ Thủy) Mệnh thuộc Sinh khi ĐC = 1;4, Vượng khi ĐC = 2;5, Mộ khi ĐC = 3;6 Ngoài ra, hành của Vận khí xác định theo nguyên tắc: Vận khí sinh Bản mệnh. Vị trí đơn vị thời gian đang xét trong 60 đơn vị thởi gian của Hoa giáp tính theo công thức: X = 6 - (ĐC - TC)mod5, khi X = 6 được tính bằng 1 X là số thứ tự của vòng Địa chi trong Hoa giáp (1 Hoa Giáp có 5 vòng Địa chi) Căn cứ vào hành của Thiên can, Vận khí, Bản mệnh có thể biết thời điểm khảo sát có đặc tính gì. Ví dụ: Năm Ất Dậu: ĐC = 5 (Thân, Dậu) > 3 TC = 1 (Giáp, Ất) H = (5 + 1 - 3)mod5 = 3 ----> Mệnh Hỏa vượng (Sơn đầu Hỏa - Lạc thư Hoa giáp) ----> Vận khí Mộc vượng, Thiên can Kim (Tân) ---> Thiên can khắc Vận khí (Kim khắc Mộc), Bản mệnh khắc Thiên can (Hỏa khắc Kim) X = 6 - (5 - 1)mod5 = 2 ---> Ất Dậu thuộc vòng Địa chi thứ 2 trong Hoa Giáp, tức là năm thứ 22 của Hoa giáp (bắt đầu 12 đếm từ Tý đến Dậu đươc 22)1 like
-
Bài viết của kiến trúc sư Phạm Cương đã tiếp tục được đăng báo chứng tỏ khả năng của anh về những tri thức phong thủy đạt sự tín nhiệm. Xin hân hạnh giới thiệu. Thiên Sứ Reduced: 86% of original size [ 736 x 1024 ] - Click to view full image Reduced: 88% of original size [ 722 x 1024 ] - Click to view full image Reduced: 92% of original size [ 694 x 1024 ] - Click to view full image Dưới đây là nguyên văn bài viết đã đăng báo: 10 Bí quyết để có gian bếp hợp Phong thuỷ Kiến trúc sư Phạm Cương Ban Phong Thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Trong một ngôi nhà, khu bếp có vai trò rất đáng kể, đó không chỉ nơi diễn ra các hoạt động liên quan đến ăn uống, không gian bếp còn là nơi giao lưu, gặp mặt của các thành viên trong gia đình. Dưới góc độ Phong thuỷ, gian bếp tượng trưng cho tài lộc và cũng là nơi mang dưỡng khí cho gia đình, cổ nhân xưa có câu “Hoạ tòng khẩu xuất, bệnh tòng khẩu nhập” nên chuyện ăn uống và bếp núc nhất thiết phải được coi trọng.Phong thuỷ cổ truyền xưa và kiến trúc hiện đại nay luôn xem khu bếp là một vị trí quan trong trong tổng thể ngôi nhà. Sách phong thuỷ xưa thừong lấy bếp là một yếu tố chủ đạo, kết hợp với hướng nhà và gian phòng chủ để luận đoán phong thuỷ (Mối quan hệ Chủ-Môn-Táo). Trước đây, bếp có thiết kế đơn giản nên việc tìm hướng bếp để luận Phong thuỷ không gặp mấy khó khăn. Ngày nay xã hội văn minh , nhiều kiểu bếp hiện đại ra đời khiến đôi khi ta cẩm thấy lúng túng trong việc tìm hướng bếp để tính toán phong thuỷ. Trong phong thuỷ có nhiều quan điểm về hướng bếp, có người đặt vấn đề tìm hướng bếp bằng việc xem hướng bật công tắc bếp để quán xét phong thuỷ. Quan điểm này nghe qua có vẻ thuyết phục nhưng nếu ta xét ở một kiểu bếp ga hiện đại với công tắc bật tắt ngay trên mặt bếp thì lúc này việc tìm hướng bếp trở thành nhiệm vụ bất khả thi; có người thì coi hướng nạp khí cho bếp – ngày nay là hưóng của đường ống tiếp nhiên liệu (khí ga) cho bếp chính là hướng bếp. Nhưng quan điểm này còn sai lầm hơn, vì đường ống ga có muôn hình vạn kiểu, có cả cứng cả mềm nên chuyện luận đoán lại càng thêm phức tạp. Vậy hướng bếp tính thế nào? Trước hết chúng ta nên hiểu hơn về sự vận hành và quá trình nạp khí cho bếp. Như ta biết, trong phong thủy yếu tố khí được coi là yếu tố cốt lõi, sự tương tác giữa con người với bếp tạo nên sự vận hành của bếp, sự tương tác vận động này tạo nên khí (theo Phong thuỷ Lạc Việt), đó cũng chính là yếu tố khí mà ta cần bàn ở đây. Bếp được nạp khí chính là do con người vì vậy mà hướng bếp chính là hướng nhận thao tác của người nấu, hay nói cách khác hướng bếp chính là hưóng lưng của người nấu vậy. Và khi đã nắm bắt rõ khái niệm hướng bếp thì cho dù bếp có thay đổi đến đâu, có hiện đại đến thế nào, ta vẫn có thể tìm ra nó một cách dễ dàng từ đó thì việc bố cục khu bếp mới chính xác và hiệu quả được. Trong việc thiết kế và bố cục khu bếp cần lưu ý đến vấn đề sau: 1. Bếp nên có một vị trí cố định, thuận tiện cho người nấu, dây chuyền sử dụng như soạn rửa, gia công, chế biến nên coi trọng trước tiên, không nên chồng chéo gây hỗn loạn sự vận hành của dòng khí. 2. Nên thiết kế bếp phù hợp về kích thước, tỷ lệ con người. Hài hoà về tỷ lệ cũng chính là tìm được trạng thái cân bằng âm dương, ngũ hành theo phong thuỷ. Nhất là khi phù hợp với Nhân trắc học thì trường khí giữa con người và đồ vật sẽ có sự liên hệ, điều này dễ tạo năng lượng tốt qua đó con người dễ tìm thấy sự tiện lợi khi thao tác trong khu bếp. 3. Trước mặt của bếp cần phải thoáng rộng, sạch sẽ, yên tĩnh để dòng năng lượng tập trung cung cấp cho bếp được đều đặn, ổn định. Nên lưu ý bếp không nên đặt đối diện với cửa chính, khí lúc này xộc thẳng vào khu bếp không tốt, gió thổi trực diện gây tắt bếp, tạt lửa hoặc khiến người đứng nấu không kiểm soát được sau lưng, dễ giật mình, thiếu tập trung khi có gió sập cửa hay người đi ra vào dẫn đến việc xử lý thiếu chính xác khi nấu bếp.. Nếu gặp trường hợp này nên tìm cách đặt bình phong hoá giải. 4. Tránh đặt bếp đối diện với bồn rửa, những vật dụng chứa nước như tủ lạnh, máy giặt..., hoặc khu vệ sinh dẫn đến sự xâm nhập của thủy khí và tạp khí làm triết giảm hoạt tính của bếp. Bếp cũng không nên đặt tại vị trí kẹp giữa những đồ có nước như tủ lạnh hay bồn rửa. Phong thủy gọi đây là thuỷ hoả tương xung, không có lợi về tài lộc gia chủ và sức khoẻ của nữ chủ nhân trong nhà. 5. Bếp tránh đặt ở vị trí quá sát với cửa sổ họăc dựa lưng vào cửa sổ, vửa làm mất tập trung trong thao tác vừa không thể kiểm soát được các yếu tố tự nhiên bất ngờ. Gió tự nhiên thổi mạnh đôi khi lại làm phân tán bớt đi những dòng năng lượng tích cực. 6. Không nên bố trí bếp ở ngoài nhà, hành lang. Nên đặt bếp trong nhà chỗ kín đáo, khuất tầm nhìn khi khách đến nhà, nhưng cũng không đặt ở những vị trí tối tăm tù túng gây bất lợi cho sự vận hành của Dương khí. 7. Không nên đặt bếp dưới xà ngang, điều này cũng nguy hiểm không kém gì khi xà đè giuờng ngủ. Không thuận cho chuyện làm ăn, sức khoẻ của ngươi nữ trong nhà. 8. Bếp cũng không nên đặt dưới cầu thang hoặc ở tại vị trí mà phía tầng trên là khu vực Toa-lét. 9. Không bố trí bếp nấu đối diện trực tiếp với cửa phòng ngủ, cũng lưu ý nên tránh đặt gian bếp áp sát vào tường phòng ngủ, nhất là phía đầu giường. 10. Trong sử dụng, đồ đạc trong bếp nên gọn gàng ngăn nắp, những vật sắc nhọn như dao kéo dễ tạo sát khí nên được cho vào hộp đựng hoặc đặt trọn trong ngăn tủ bếp. Thao tác vòi nước rửa xong thì nên tránh để vòi chỉa thẳng vào bếp gây khó khăn cho công việc làm ăn. Kiến trúc sư Phạm Cương.1 like