• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 03/09/2010 in all areas

  1. Đọc toppic này, nếu không bàn đến chuyện đúng sai, chỉ nói về bản chất con người thì có thể nhận xét rằng ,dù xét trên khía cạnh nào đi nữa cả Phú Thượng và Lê Điền đều không xứng đáng là những người đàn ông chân chính. Các bạn đã chọn cách phản ứng với những điều mình không hài lòng khi học PTLV một cách rất tầm thường. Không hiểu sau này khi các bạn dạy dỗ con cái, các bạn có dạy chúng chửi lại người thầy đã dậy mình như các bạn không. NẾU LÀ TÔI, SAU KHI ĐỌC XONG 1 CUỐN SÁCH, NẾU THẤY KHÔNG HAY TÔI SẼ TÌM ĐỌC CUỐN SÁCH KHÁC CHẲNG HẠN CHỨ KHÔNG MẤT THỜI GIAN NGỒI CA THÁN NGƯỜI VIẾT SÁCH, CHỬI BỚI NỘI DUNG SÁCH VIẾT. PTLV không bẳt bạn phải theo họ, tự bạn theo. Nên nếu bạn không có duyên với họ, bạn cũng không nên phản bác theo kiểu thế này. Xin lỗi PHÚ THƯỢNG và LÊ ĐIỀN : Nếu là 1 ng đàn ông của gia đình, thì tôi nghĩ các bạn là những người hay bới lông tìm vết, có tính cách đàn bà, chấp nhặt và nói nhiều. Những người đàn ông nói nhiều và thích đôi co không bao giờ là người có phẩm chất tốt. Nếu là một doanh nhân thì là 1 doanh nhân tầm thường và cô độc, không có người cộng sự giỏi ở bên cạnh, không có chữ tín trong kinh doanh, không được nhân viên kính trọng, khi gặp khó khăn thì sẽ chà đạp lên mọi đạo lý, đối tác... để thu lợi về cho mình. Xin lỗi các bạn về những nhận xét thế này. Mình nghĩ các bạn không nên phản hồi lại ở topic này nữa, vì bây giờ càng nói nhiều thì sẽ càng bộc lộ những phẩm chất của con người các bạn chứ không thể hiện được 1 tinh thần trao đổi học thuật nào nữa. Mình viết nhận xét như thế này chỉ đơn giản là viết những ý kiến thẳng thắn của mình chứ mình không có ý đồ xấu gì với các bạn, MÌNH k quen các bạn cũng như BQT diễn đàn, vì thế đừng đôi co với MÌNH về nhận xét này. Chỉ mong rằng các bạn sẽ hiểu ra cái gì mình nên làm và cần làm. Thân mến.
    6 likes
  2. Kẻ Lửa, bài 2 Khoa học gen chỉ ra rằng người Homo Sapient bắt nguồn từ Đông Phi, khoảng 80.000 năm trước một nhóm trong số họ men theo bờ biển Ả Rập thiên di về bờ biển Ấn Độ phía đông. Khoảng 60-70.000 năm trước họ đã đến trú ở ven biển Đông Nam Á. Một chi đi về đông nam đến Indonexia, khoảng 50.000 năm trước họ đến Châu Úc thành tổ tiên của người bản địa Maori ở Úc. Một chi khác men theo bờ biển Đông vào vùng Hoa Nam sau đó mới lên phía bắc cư trú ở lưu vực sông Hoàng. Báo “Di truyền học Trung Quốc” năm 1991 đưa ra so sánh gen nhân chủng người Trung Quốc, phát hiện người Mân Nam Trung Quốc (nghiên cứu ở Hạ Môn Phúc Kiến,Sán Đầu Quảng Đông), người Khách Gia ( nghiên cứu ở Mai Huyện Quảng Đông) về chủ thể huyết hình đều là Việt tộc phương nam ( gen chiếm 75% đến 90% trở lên), gần gũi nhất với người Đông Nam Á; người Quảng Châu càng ít huyết thống phương bắc hơn cả người Mai Huyện. Mân Nam là tên chỉ vùng Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Đài Loan và Hải Nam, chung hệ ngữ gọi là Mân Nam ngữ. Thời cổ đại ngôn ngữ Bách Việt là một ngôn ngữ cộng thông tính. Phân tích của giáo sư Lâm Ma Lợi林媽利 viện nghiên cứu huyết thống của Đài Loan vào năm 2007 chỉ rõ người Đài Loan có 48% là đến từ Phúc Kiến, 52% còn lại là từ dân miền núi bản địa Đài Loan, dân đảo Đông Nam Á và dân các vùng khác của châu Á. Về gen thì 85% người Đài Loan có gen của dân bản địa Đài Loan và dân đảo Đông Nam Á, đồng thời hơn 90% người Đài Loan là có gen của Việt tộc. Các phó giáo sư Trầm Kiến Đức, Hứa Minh Châu của đại học Trung Hưng khi nghiên cứu tính chân thực trong tộc phả của người Hà Lạc Đài Loan đã nhận định rằng người Hà Lạc Đài Loan thực chất là người Bình Bồ (bản địa Đài Loan) đã bị người Hà Lạc di cư từ Phúc Kiến ,Quảng Đông sang đồng hóa chứ không phải là người Hán thuần chủng từ Trung Quốc đến Đài Loan. Ngôn ngữ của dân Đài Loan là tiếng Ho Ló, sử gọi là tiếng Hà Lạc 河洛Người Đài Loan còn gọi là người Hà Lạc (Ho Ló), còn có các tên gọi khác là người Phước Lào, Hạc Lào, Học Lão, dân số 17 triệu người, phân bố ở Đài Loan và ở hải ngoại. Người Hà Lạc tức người nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Hà Lạc, bao gồm người Bình Bồ bản địa đã bị Hà Lạc hóa, người Việt đã bị Hán hóa, người Khách Gia đã bị Hà Lạc hóa. Họ là hậu đại của cư dân ven biển nam Trung Quốc di cư sang Đài Loan hỗn huyết cùng dân Bình Bồ bản địa. Thời xưa di dân từ Trung Quốc sang là dân Chương Châu漳州 và Tuyền Châu泉州 của Phúc Kiến và sau hơn là dân Triều Châu潮州, Sán Đầu 汕頭của Quảng Đông là những sắc dân Việt tộc đã bị Hán hóa. Về ngôn ngữ Hà Lạc Đài Loan thì ở những vùng khác nhau của Đài Loan có giọng nói khác nhau chút ít nhưng đều giao tiếp được. Đài Loan có bốn dân tộc lớn, người Hà Lạc Đài Loan chiếm 73,3%(16.572.000 người). Người Khách Gia ở Đài Loan được gọi là Hà Lạc Khách vì ngôn ngữ của họ đã hầu như thất truyền, nhiều người vẫn nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Khách Gia nhưng lại tự xưng mình là người Hà Lạc, nhiều nhân sĩ người Khách Gia kể cả nguyên tổng thống Lý Đăng Huy tiên tổ là người Khách Gia ở Giang Châu Phúc Kiến thì đến đời tổ phụ của họ đã là không còn nói được tiếng Khách Gia. Giải thích từ vựng Hà Lạc河洛 Để giải thích nguồn gốc của từ vựng này, vốn chỉ một tộc người ngày nay nói thứ tiếng đó là tiếng mẹ đẻ của họ, thì phải dùng mẫu tự Latin ký âm đúng như người Đài Loan gọi là “ Ho Ló”. Chữ Mân là chữ thời Tần chỉ dân tộc bản địa toàn bộ vùng Đông Việt và Nam Việt , ngày nay thành cái tên chỉ vùng bao gồm toàn bộ tỉnh Triết Giang, toàn bộ tỉnh Phúc Kiến, Triều Châu và Mai Châu của Quảng Đông. Thời Đông Hán học giả Hứa Thận trong cuốn sách “Thuyết văn giải tự “của mình đã giải thích chữ Mân là chỉ Việt tộc thờ rắn vùng Đông Nam, lấy bộ thủ “môn” làm chú âm, bộ thủ “trùng” làm phù hiệu nghĩa. Mân Việt tộc là tộc Việt vùng Đông Nam thờ rắn. Năm 1984 ở Phúc Kiến đã khai quật được Cổ Việt thành là thành của vua nước Mân Việt. Thực ra cổ đại thì Mân là từ ký âm chỉ người Mun,da ngăm ngăm hơn người Hán, mà người Hán còn gọi là người Man蠻 với ý khinh thị. (Từ “mun” là từ Việt cổ chỉ màu đen, có lẽ nó có từ thời lục địa “Mu” , tự nó cũng đã nói lên nguồn gốc châu Phi của loài người, từ “mun” ấy nay trong tiếng Việt chỉ còn ở “cây gỗ mun”, “con mèo mun”, “con chó mực”, “mực tàu” mà thôi, còn thì phổ biến dùng từ “đen” thay thế). Danh từ “Bách Việt” đến thời Xuân Thu Chiến Quốc mới xuất hiện trong Hán thư để chỉ Việt tộc nói chung, chứ còn âm tiết “việt” thì nó đã có trước đó hàng ngàn năm. Văn hiến đời Thanh ghi rằng người Khách Gia ở Phúc Kiến gọi những người nói tiếng Hà Lạc ở Phúc Kiến là “ Hà Lão” hay “Phúc Kiến Lào” , gọi tắt là “Phúc Lào”, tiếng Khách Gia phát âm là “ Phuk Lò”, tự gọi mình là “Khách Gia Lào”. Còn người Hà Lạc gọi chính mình là “Ho Ló”. Âm tiết “Ló” và “Lò” trong tiếng Hà Lạc hay tiếng Khách Gia có nghĩa là “người” , sử thư viết là “ Hà Lạc nhân” tức “người Hà Lạc” là viết thừa chữ người, làm cho người đọc cứ tưởng Hà Lạc là tên một địa phương nào đó nên người xuất xứ từ đó gọi là người Hà Lạc.Tuy vậy ngày nay từ “Hà Lạc”mà chính sử dùng và giải thích là “do nguồn gốc từ lưu vực Hoàng Hà và Lạc Thủy tức Trung Nguyên”, nghiễm nhiên thành từ chỉ tộc người cũng như chỉ ngôn ngữ của họ. Trung Quốc sở dĩ tồn tại tới 7 phương ngữ không thể giao tiếp với nhau được là do nguồn gốc của chúng không đồng nhất.Tiếng Ho Ló là một ngôn ngữ bắt nguồn từ phương Nam. Khi người Hán tránh xâm lăng của Hồ, Di mà chạy về Giang Nam thì họ chỉ là dân tị nạn, thiểu số so với dân bản địa ở đó từ xưa. Ngôn ngữ Ho Ló cổ là tiếng mẹ đẻ của người Phúc Kiến. Sau do người Hán di cư đến và ảnh hưởng của chữ Hán tạo nên ngôn ngữ Ho Ló có diễn biến Hán hóa, nhưng không thể vì cái yếu tố Hán hóa này mà nói rằng tiếng Ho Ló bắt nguồn từ lưu vực Hoàng Hà, cũng giống như người Hàn, người Nhật, người Việt Nam từ xưa vẫn học và đọc chữ Hán nhưng không thể nói tiếng các dân tộc đó là bắt nguồn từ lưu vực Hoàng Hà. Lại nữa, người Hán ở phương Bắc do bị người Hồ thống trị nên ngôn ngữ của họ bị ảnh hưởng, nhưng không thể nói ngôn ngữ họ là tiếng Hồ được. Trong tiếng Khách Gia nói “Lò” và tiếng Hà Lạc nói “Ló” có nghĩa là “người” ,vậy nó chính là từ tiếng Việt nói “Lòi” cũng gọi là “Nòi” (do tiếng Việt “N”và “L” chuyển đổi được cho nhau nên hay bị lầm lẫn với từ đồng âm dị nghĩa,vì tiếng Việt còn có từ “nòi” = “giống”, bởi vậy mới cần đến ngữ pháp hàn lâm để qui ước chặt chẽ), tiếng Lào nói “Nọi” hoặc “Neo”, tiếng Quảng Đông nói “lào” đều có nghĩa là “người”. Tiếng Việt “con người” còn nói là “con nòi” , xứng đáng là “con nòi” ý là xứng đáng là người để làm giống, do chơi chữ nòi=người, đồng âm dị nghĩa với nòi=giống. “Nòi” có biến âm là “Mòi” cũng nghĩa là người, mà trong tiếng Việt con người cổ xưa nhất tức xuất hiện đầu tiên trên trái đất thì gọi là “Mọi” (chứ không phải như trong nhà trường vẫn giải thích “mọi” là từ “do thực dân Pháp sang ta nó đặt ra để gọi miệt thị dân ta”). “Mòi” là cá nhân một con người tức “Mỗi”, phân biệt được với nhau từ cái mong manh nhất là “Mùi” nên con chó nó mới đánh hơi phân biệt được. Biến âm “Mùi” ở giới hạn khái niệm này cũng nghĩa là “con người cá nhân” mà chữ nho viết là “Vị” 位mà gốc dân gian của nó từ thuở đầu tiên là “Lòi”. Từ vựng “Lòi” ấy Quan Thoại đọc là “wây” (của chữ Vị), L- đã biến sang V- tương tự như Lang đã biến thành Vương mà Quan Thoại đọc là “Wáng” cũng như “Lửa” tức chữ nho Liệt烈 (“rực”) đã biến thành Việt 越,粤mà Quan Thoại đọc là “Duê”. (“Duê”, “Yuê” còn biến âm thành “Huê” 華, “Hoa” 華, người Hoa cũng là do Việt tộc mà ra). Chư vị=các vị=các người=các ngài. Còn từ vựng “mùi” ở khái niệm là cái ngửi được thì chữ nho cũng viết bằng một chữ “Vị” khác là 味 (cũng còn đọc là “mùi”) mà Quan Thoại đọc là “wây” chứ trong Quan Thoại không có âm tiết “mùi”. Trong tiếng Việt thì cái mà ngửi được là “mùi”= “vị”= “mùi vị”, từ ghép “mùi vị” là ghép “mùi” của dân gian có trước với “vị” của chữ nho đồng nghĩa có sau để chỉ “nhiều mùi”, trong cách ghép đó “mùi” đứng trước vì nó ra đời trước, mà không hề có ghép ngược là “vị mùi”, đúng như qui luật của tiếng Việt. “Ngửi mùi” để nhận biết chính mình đã cho ra từ “Người” đồng nghĩa với “Lòi” ban đầu, mà tiếng Đài Loan từ mang nghĩa là “người”, họ phát âm là “nghìn”. Từ vựng “Mòi” nghĩa là “người” ấy trong tiếng Mân Nam có từ vựng “Mằn” cũng là “người”, mà chữ nho viết là “Dân”; trong tiếng Quảng Đông thì còn có từ vựng “Dành” cũng là người, mà chữ nho viết là “Nhân”, còn tiếng Tày thì gọi là “cần”. Từ “nhân dân” là một từ ghép hai từ đồng nghĩa “nhân”= “dân”= “người” để mang ý “nhân dân” là nhiều người, đúng như qui tắc của tiếng Việt, “nhân dân” thì Quảng Đông-Phúc Kiến nói là “dành mằn”, Quan Thoại nói là “rấn mín”.Tiếng Huế có từ “tình cảm mằn mòi” nghĩa là tình cảm “mằn” với “mòi” tức người với người, nó hẳn là sâu sắc và nó mang nghĩa ngọt ngào chứ không phải là “mặn mòi” tức “mặn mói” = “đậm muối” = cho quá nhiều muối. Tiếng Việt từ vựng “Lòi Người” là một từ ghép hai từ đồng nghĩa con người để tạo ý nhiều người, đúng qui luật từ “Lòi” ra đời trước nên đứng trước, “Lòi Người” sau phát âm là “Loài Người” (chắc do từ tiếng Huế, “nói” phát âm thành “noái”, “thói” phát âm thành “thoại”, chứ ở vùng quê Nam Bộ “đối thoại” người ta vẫn phát âm là “đối thọi”). Từ ghép “giống lòi” trong tiếng Việt chỉ có duy nhất một nghĩa là “giống người” nhưng hàm ý còn hẹp hơn, đó là “giống lòi Việt”, “giống Việt”, nhưng do hàn lâm quen nói “N”, chê nói “L” là nói ngọng, nên dùng “giống nòi Việt”, câu “giống nòi Việt Nam” là một câu thiêng liêng, tuy vậy nó bị đồng âm thành ra nhạt ý, vì “giống” = “nòi” nên “giống nòi” = nhiều giống = nhiều nòi, đã nói Việt thì chỉ có một giống tức một nòi chứ làm gì có nhiều? “Loài người” nghĩa là “nhiều người”, cũng tương tự như vậy, từ “mọi” nghĩa là “ người” có từ ban đầu cũng được ghép đứng trước từ “người” để có từ “Mọi Người” nghĩa là nhiều người. Còn có từ ghép “ Mọi Nhân” = nhiều Người , mà “Mọi Nhân” đã lướt thành “Muôn” để chỉ con số, Muôn (Việt) = Mưn (Tày) = Man (Nhật Bản), chữ nho viết là Vạn萬, quan thoại đọc là “wan”. Lòi Người = Mọi Người = Loài Người = nhiều Người theo đùng qui tắc của tiếng Việt là: hai từ đồng nghĩa ghép với nhau thì thành một từ ghép có hai âm tiết cũng đồng nghĩa nhưng mang ý là nhiều, trong thứ tự ghép thì từ xuất hiện trước đứng trước, từ xuất hiện sau đứng sau. Đây chính là do tư duy “ lưỡng hợp” của người Việt, kẻ đã phát minh ra thuyết Âm Dương, hai từ đồng nghĩa tức cùng gốc từ Một, nhưng là hai âm tiết khác nhau như một tiếng Âm và một tiếng Dương, cùng hợp với nhau chúng sẽ cho ra “nhiều”. Từ “Lòi” nguyên thủy trong tiếng Việt nghĩa là “người” ấy cũng chính là từ mà người Việt nguyên thủy dùng gọi “Mặt trời” là “Blời”,rồi vo thành “Lời”, rồi lại biến âm thành “Trời” (Trống đồng có hình mặt trời là sản phẩm đặc trưng của người Việt cổ). Con “Lòi” tồn tại dưới mặt “Lời” từ khi nó “lòi” ra khỏi bụng mẹ, rồi nó “lớn” lên, đến khi nó “lằm” xuống là hết một “đời”của nó, từ “Đời” chữ nho viết là “Đại” 代 mà Quan Thoại đọc là “tai” (vậy thử hỏi chữ “Đại” ấy là từ Hán-Việt hay từ Việt-Hán? Tiếng Hán gọi là “thế”, “thế hệ”).Từ “Con” do từ “Kẻ” mà ra , “con người” = “con lòi” = “kẻ lòi”. Cũng cùng logic như đời người ( Lòi ra, Lớn lên, Lằm xuống), sự tồn tại của mặt trời là “Lời” trong một ngày cũng là từ “Lòi” ra lúc bình minh,lên “ Lửa” lúc giữa trưa, cho đến “Lặn” xuống lúc hoàng hôn là hết một “Ngày”, rõ ràng là từ “Ngày” rất có logic với từ “Ngài” = “Người”. Chính “Lòi” nghĩa là “người” đã biến âm thành “Lửa” bởi người nguyên thủy đã biết tự gọi mình là người bằng tiếng “Lòi” từ khi còn chưa phát hiện ra lửa, khi loài người tìm ra được lửa họ mới thực sự là “người” và làm chúa tể muôn loài. Khi người nguyên thủy vô tình cọ xát đá sinh ra lửa cháy họ đã hô lên “lòi !” để gọi nhau đến “coi”. “Lửa” đã có tên gọi do “Lòi”, và logic tồn tại của Lửa cũng tương tự logic tồn tại của “đời người” hay logic tồn tại của “ngày trời” là Lửa đã từ “Lòi” ra khi nảy ra từ đá , lớn lên thành ngọn là Liệt (rực) nhất rồi giảm dần cho đến lúc “Lụi” đi khi đã ngốn hết củi đun. Người Việt cổ đã tự gọi mình là “Kẻ Lòi” mà lúc đầu là “Kẻ” hay “Lòi” đều có nghĩa là “người”. “Lửa” đã sinh ra do từ “Lòi” là người vì chính con người tìm ra lửa và làm ra lửa nên người Việt cổ cũng còn gọi mình là “Kẻ Lửa” là một từ đại diện để phân biệt với những kẻ khác là động vật không biết làm ra lửa. Rồi người Việt sáng tạo ra dịch lý, gọi Kẻ Lửa là Quẻ Ly, xác định phương nơi mình sống là phương của quẻ ly là phương xích đạo ấm (chữ nho là “Ôn” 温) là phương nóng bức, từ đó “Quẻ Ly”= “Kẻ Lửa”= “Kẻ Lả”= “Kẻ La”= “Kẻ Ly” đều là tên người Việt tự gọi mình. Chẳng thế mà nhà sàn có đốt bếp lửa ở giữa sàn như còn thấy ở vùng Tây Nguyên hay miền núi phía bắc, đồng bào miền núi phía Bắc Việt Nam đến ngày nay vẫn gọi là “nhà quẻ ly”, đó chính là nhà của dân Kẻ Lửa tức dân Việt. Chuyện cổ tích của người Ba Na kể rằng thời xưa loài người nói chung một thứ tiếng, sau vì cùng nhau dựng một cái nhà rông quá rộng,mài nhà quá lớn quá cao, khi lợp mái người ngồi lợp các phía mái chẳng thấy được nhau, đến khi lợp xong xuống thì không còn hiểu nhau được nữa vì tiếng nói đã bị khác nhau mất rồi. Cái mái lá của nhà rông cong bốn phía và võng trên nóc để lại dấu ấn rõ ràng trong kiến trúc đền chùa miếu mạo của khắp vùng Phúc Kiến, Quảng Đông,Việt Nam và Trung Hoa mà hoàn toàn không phải là dấu ấn của kiến trúc của dân du mục đồng cỏ Mogoloit. Nhà sàn “quẻ ly” ấy thời cổ đại tồn tại phổ biến ở Quảng Đông mà sử thư gọi là nhà “sào cư 巢居tức nhà cách đất trên cọc như tổ chim, ở Việt Đông”, và phổ biến ở Phúc Kiến mà cổ thư gọi là nhà cách đất tức “nhà can lan 干欄 ở Mân Việt”, do phiên chữ một âm tiết là “sàn” mà thành chữ “can lan”. Quẻ Ly là “Lửa” được người Việt ghi bằng ký tự kẻ vạch của dịch lý bằng ba kẻ vạch là : một kẻ vạch liền là Dương ở dưới cùng, một kẻ vạch đứt là Âm ở giữa, một kẻ vạch liền là Dương ở trên cùng, logic biến của nó từ hào dưới là vạch dưới cùng lên hào trên là vạch trên cùng cũng là logic biến từ tĩnh (Dương) đến động (Âm) rồi lại đến tĩnh (Dương), cũng hợp logic biến của “Lòi” là con người từ “Ló” ra đến “ Lớn” lên rồi “Lằm” xuống, cũng là logic trong một ngày trời của “Lời” là mặt trời từ “Ló” ra đến “Liệt”(rực) nhất lúc giữa trưa rồi cũng đến “Lặn”. Ba kẻ vạch của quẻ ly là một nét dài dưới, hai nét ngắn giữa, một nét dài trên, tất cả là bốn nét. Bốn nét ấy đã được cách điệu thành chữ nho là bộ Hỏa 火 hay灬đều chỉ gồm bốn nét . Lại do Lửa là từ đại diện chỉ người nên chữ nho có chữ Nhân 仁bốn nét là lòng nhân tức chữ nhân viết hoa, và có chữ Tâm心 bốn nét là từ đại diện chỉ con người, mà hình ảnh của chữ Tâm心 là ba ông đầu rau và cái vòng kiềng chỉ cái bếp, lửa trong lòng người cũng như cái bếp ở giữa sàn nhà sàn là nơi quây quần gia đình. Quẻ Ly cũng như các tên quái khác trong bát quái rõ ràng là những cái tên Việt ở Việt Nam, thời mà người Việt sáng tạo ra Bát Quái thì đã ghi bằng ký tự của dịch lý, rồi sau chắc là có ký âm bằng chữ khoa đẩu mà đã bị thất truyền, chữ nho chưa kịp đặt chữ cho chúng theo đúng âm và đúng biểu ý, để cho về sau người Mongoloit vốn chỉ quen dùng âm tiết chắp dính chứ không quen chữ biểu ý nên đã dùng những chữ nho có âm tương tự tiếng Việt để ghi âm, thành ra Ly vốn là lửa được họ ghi âm bằng chữ “ly” 離 là ly khai ,chẳng có một bộ thủ nào là hỏa, chữ Cấn vốn là núi ( do “bnâm” = “phnom” = “non” = “cồn” = “cấn” là từ Khơ Me sang Việt) đã được họ ghi âm bằng chữ “cấn”艮 cũng chẳng có một bộ thủ nào là sơn, và các tên của các quẻ khác của bát quái cũng trong tình trạng như vậy cả. Học giả Trần Trọng Kim năm 1945 đã có ý muốn lấy ký tự “Quẻ Ly” trong dịch lý của dân Kẻ Lửa để làm hình tượng biểu trưng cho dân tộc Việt, vì các vạch của Quẻ Ly nếu tô đậmdày nét lên thì nhìn thấy rõ phần trống còn lại của nó là hình chữ “công” 工 nghĩa là người lao động. Ngày nay ta lấy hoa văn mặt trống đồng Đông Sơn làm hình tượng biểu trưng dân tộc Việt, mà như Nhật Nguyên đã giải mã, nó có ý nghĩa lịch sử và văn hóa toàn diện và sâu sắc hơn nhiều. Thời Tần người Hán di cư xuống Mân ngày càng nhiều, nhất là từ thời Tấn và Lục triều thì số người Hán di cư xuống Mân chỉ có ngày càng tăng chứ không giảm, ngôn ngữ Việt tại chỗ dần dần bị đồng hóa, nhất là ngữ pháp. Đến thời Đường Tống thì căn bản đã định hình một thứ ngôn ngữ được gọi là Mân Nam ngữ tồn tại đến ngày nay trong khẩu ngữ mà chỉ có nó mới đọc đúng được vần điệu của những thơ và những từ viết vào thời thời Đường Tống. Tiếng Mân Nam Đài Loan cũng bảo lưu được thanh điệu thời trung cổ này nên đọc và ngâm được đúng thơ Đường. Mân Nam ngữ về khẩu âm sở dĩ được bảo tồn cho đến ngày nay là do khoảng thời Minh các cố đạo Tây Ban Nha ở Manila đã dùng ký tự Latin để phiên âm tiếng Mân Nam phục vụ cho truyền giáo. Người Mân Nam di cư đến Đài Loan vào cuối Minh đầu Thanh, đến cuối thời Thanh thì đã phổ biến toàn Đài Loan. Người bản địa Đài Loan lui lên vùng rừng núi, người Khách Gia định cư ở vùng chân núi Đài Bắc, người Mân Nam ở vùng đồng bằng phía Tây. Tiếng Ngô: lang = người, am = lãnh (= ẵm, người Việt vẫn nói “nó ẵm gọn tiền của người ta rồi”).Tiếng Quảng Đông “lào” 佬 = con trai. Người Khách Gia gọi người Phúc Kiến là “Phúc lào” 福佬 (huk lò) với ý miệt thị, tiếng Khách Gia “lò” 佬 = người, những từ khinh miệt trong tiếng Khách Gia như “tặc lò” 贼佬= kẻ trộm, “á lò” 哑佬 = kẻ câm. Người Trung Nguyên không biết nên viết là Phúc Lào nhân 福佬人 = người Phúc Lào, người đời sau cứ tưởng Phúc Lào福佬 là một tên riêng địa danh hay tộc người, cuối cùng cũng chấp nhận trong chính sử như cái tên riêng là Phúc Lào mà người Khách Gia phát âm là “huk lò”, người Đài Loan phát âm là “ho ló”. Về sau có xuất hiện một cuốn sách là “ Phúc Lào thoại ngữ pháp” không biết tác giả là người Khách Gia hay người Đài Loan. Các âm “phúc”= “học” = “hạc”= “hà” chỉ là biến âm của một từ mà người Mân phát âm là “hok”, “họ”, “hỏ”. Các âm “lào”= “lão”= “lạc” cũng chỉ là biến âm của một từ mà người Mân phát âm là “ló”. Thành ra có các từ dùng chữ nho ghi âm trong chính sử là Phúc Lào福佬, Phúc Lão福老, Học Lào學佬, Hạc Lào鶴佬, Hà Lạc河洛, rồi bảo đó là những tên gọi khác nhau của một tộc người có một hệ ngữ riêng là tổ tiên của người Mân Nam. Những chữ ký âm đó đúng là tam sao thất bản, chẳng có biểu ý gì để chứng tỏ nó là một địa danh hay tộc người cả. (Đó là nhược điểm của văn tự không phải là văn tự ký âm. Nhưng văn tự biểu ý cực kỳ hữu dụng cho những ngôn ngữ có quá nhiều từ đồng âm dị nghĩa như tiếng Hán hay tiếng Nhật. Người Nhật đã vô cùng sáng tạo khi từ chỗ dùng hoàn toàn chữ nho mà họ gọi là kanji đã chế tác thêm ra văn tự ký âm hiragana để ghi những từ gốc Nhật và văn tự ký âm katakana để ghi những từ gốc phương Tây, thành ra trong văn bản tiếng Nhật dùng cả ba loại ký tự.Văn tự biểu ý còn có một lợi thế nữa là khi đã được ngữ pháp hàn lâm bắt buộc nó phải đồng nhất về ngữ pháp thì nó là một công cụ hữu hiệu làm văn viết chung cho các cộng đồng khẩu ngữ không giao tiếp được với nhau có thể thống nhất được với nhau trong một quốc gia, đó là phương thức gọi là bút đàm). Những từ chỉ có “tiếng” mà không có chữ trong ngôn ngữ Mân Nam có nhan nhản, vốn cái tênHà Lạc ấy tự điển cổ ký âm là “hỏ ló”,người đời sau bị Hán hóa bằng chữ viết và bằng ngữ pháp trong văn ngôn và cả văn nói rồi nên lu mờ luôn cũng không còn biết nguyên gốc nó nghĩa là gì, đành chấp nhận là cái tên như chính sử viết về mình là Hà Lạc河洛. Chính sử lại căn cứ vào cái chữ Hà Lạc河洛 là có vẻ có biểu ý hơn cả trong những cái tên trên, nên giải thích là đó là người từ vùng Hà là Hoàng Hà và từ vùng Lạc là Lạc Thủy, tức từ Trung Nguyên tới , là tổ tiên của người Mân Nam. Các bậc túc nho ngày xưa đâu có ngớ ngẩn gì mà viết như vậy? “Hà” là “sông”, Hoàng là tên riêng; “Thủy” là đại diện cho “sông”, Lạc là tên riêng; nếu ghép hai lưu vực đó thành một cái tên vùng chung như một cái tên riêng thì phải lấy hai tên riêng ghép lại với nhau là Hoàng Lạc chứ, tức vùng lưu vực Hoàng hà và Lạc thủy. Rõ ràng là “Hà Lạc” chỉ là mượn chữ nho để ký âm “hỏ ló” mà thôi. Các học giả Trung Hoa đã tìm suốt một trăm năm qua trong thư tịch “Phúc Kiến chí thư” 福建志書 mà không thấy có chữ nào là chữ Hà Lạc河洛 là danh xưng( tên đất hay tên tộc người cả). Còn “ Hỏ Ló” là gì thì phải hỏi người Bách Việt cổ ấy, họ có Nôm na mới hiểu được, nó là chữ “Kẻ Lửa” hay “Kẻ Lòi” tức “nhiều người” hay “bách Việt” cũng vậy. Lòi = Người (Việt) = Lào (Quảng Đông) = Lang (Ngô) = Lò =Ló (Mân Nam) = Lang (=con trai vua Hùng ,như Hán thư đã ghi) = Quan (=con trai vua Hùng, như Hán thư đã ghi) = Dân (=người, địa vị xã hội thấp hơn Quan) = Cần (Tày) = Dành (=nhân, Quảng Đông)= Mằn (=dân, Phúc Kiến). Kẻ = Lả= Tỏ= Đỏ=Hỏ (Mân Nam)= Người ( “dân đen” = “con đỏ” = nhân dân= nhiều người, mà địa vị xã hội thấp hơn Quan tộc). “Lòi Lang” = nhiều Người vì là hai từ đồng nghĩa “ người” ghép với nhau. Còn ý nữa, Lòi Lang = Người + Con trai vua Hùng, nên nó có nghĩa là nhiều người , nhưng là “cộng đồng người có người đàn ông lãnh đạo”, đó chính là “Làng”, do lướt từ “ Lòi Lang” mà thành từ một âm tiết là Làng .( Qui tắc lướt để thành từ một âm tiết là một qui tắc cố hữu tự nhiên trong tiếng Việt do thói quen “đơn âm thành nghĩa” đối với từ hai âm tiết hay đối với cả một câu dài, dù dân gian chẳng biết chữ họ vẫn đặt ra từ lướt một cách tự nhiên. Ví dụ câu “ thợ dũa Lưỡi cưa cũ cho sắc lại như Mới” đã lướt thành “thợ Lỡi”, đó là thợ tay nghề cao dù thủ công nhưng không phải ai cũng làm được “thợ Lỡi”, này nay tự động hóa, người ta gọi là “máy mài tự động lưỡi cưa” chứ không biết gọi là “máy Lỡi” như từ “thợ Lỡi “ đã dùng phổ biến ở miền Nam từ xưa, đó là vì từ điển hàn lâm không theo kịp ngôn ngữ dân gian. Hay như câu “đi du lịch kiểu Phóng khoáng Vượt mọi trở ngại tự nhiên và sự bắt buộccủa tua truyền thống” đã được giới trẻ ngày nay chỉ lướt một tiếng là “đi Phượt”).Từ “làng” trong tiếng Việt hàm ý cộng đồng người chứ không hàm ý vùng đất, chỉ có tên riêng đi kèm “làng” mới là địa danh. Ví dụ “làng” Cót là nơi “nhiều người”= “dân làng” làm cót, “làng” Bún là nơi “nhiều người” = “dân làng” làm bún. Khi có người lỡ gặp nạn ở cánh đồng làng Bún, người đó kêu cứu gọi : “bớ làng ơi ! cứu tôi với! ” = “bớ mọi người ơi !...”= “bớ nhiều người ơi!...”= “bớ dân làng ơi!...” = “bớ nhân dân ơi!...”, chứ không phải là gọi “bớ Bún ơi ! cứu tôi với !”. Bởi vậy những từ chỉ người thì “Lang” biến thành( “wáng”)= Vương, Lửa biến thành (“lia”)= Liệt, biến thành Việt; quan thoại là bắt chước tiếng dân gian thì mới có thể giao tiếp quan dân được, lấy luôn cả chữ nho có từ xưa, chỉ có là phát âm theo giọng quan tộc và bắt ngữ pháp phải theo ngữ pháp ngôn ngữ của quan tộc, quá trình ấy gọi là quá trình đồng hóa ngôn ngữ.(Đồng nhất ngữ pháp đã phải hoàn thiện trong hàng ngàn năm để cuối cùng hoàn toàn theo ngữ pháp quan thoại.Thời kỳ đầu cú pháp Việt vẫn chiếm ưu thế. Bởi vậy người quan thoại ngày nay đọc cổ văn chữ Hán dù biết hết mặt chữ mà vẫn không thể dịch ý ra được, phải học qua đại học chuyên về dịch cổ văn thì mới dịch được,cũng như người Việt Nam ngày nay dù có giỏi ngoại ngữ là tiếng quan thoại cũng không dịch nổi cổ văn, phải học qua đại học Hán-Nôm thì mới dịch nổi cổ văn.Ví dụ câu cổ văn viết “thử điềm điềm giả” 此甜甜者 = thử điềm điềm dã” 此甜甜也, không ai hiểu nổi, nhưng rõ ràng nó là câu chữ nho ngữ pháp Việt: “nó ngọt ngọt là”). Từ “ Ho Ló” chính là “Kẻ Lòi” = “Kẻ Lửa” đã bị lịch sử Hán hóa làm lu mờ đi mà thôi.Ta so sánh từ vựng tiếng Ho Ló với từ vựng tiếng Đông Nam Á và tiếng Nam Đảo (Austronesian) thì thấy nhiều từ giống nhau, về thanh âm nó không phải là của tiếng Hán ( xem http://ws.twl.ncku.edu.tw/hak-chia/1/lou-e...ongpah-oat.htm), chứng tỏ nó không phải nguồn gốc Hoàng Hà, mà nó là nguồn gốc Nôm na. Ví dụ: Alnni = nì, nầy (Việt Nam) = ney (Thái) =ini (Mã Lai); dah, doh = đâu (Việt Nam); lut = lọt (Việt Nam) = lu-chut (Mã Lai) = lu-cut (Indonexia); vat, bat = biết (Việt Nam); za, cha = ta, choa (Việt Nam) = tau, cau (Philipin) = cau (Vân Kiều); za bou, cha po = cha bố (Việt Nam) v.v.Tiếng Mân Nam hình thành và tồn tại đến nay đã hai nghìn năm.
    2 likes
  3. Lưu Thái Tuế tại phụ Mẫu . Phục- thai -vượng- tướng có thể là nguyên nhân của vấn đề .
    2 likes
  4. Nếu có thì năm 2008 có dự định đi đến hôn nhân bị bị trì hoãn can ngăn từ song thân /đến 2009 thì mới cưới được nhưng cũng có điều kiện gì đó mà nhảy qua rào cản hay đám cưới không được rở ràng cho lắm.
    2 likes
  5. THƯ MỜI (V/v Công tác từ thiện tặng quà Trung thu cho trẻ em ở Bênh viện Ung Bướu) Thân mời các thành viên của diễn đàn Lyhocdongphuong tham gia một buổi công tác từ thiện tặng quà trung thu cho các em ở bệnh viện Ung Bướu. Chương trình: ngày: 5/9/2010 (tức 27/7/ canh dần) 9h00: Tập trung tại TTNC Lý Học Đông Phương, số A75/6F/14 đg Bạch Đằng, P.2, Q.Tân Bình. 9h30: đến Trung tâm Ung Bướu, đg Nơ Trang Long Q. Bình Thạnh. Rất mong sự có mặt của các thành viên.
    1 like
  6. Chắc là không có ,nhưng vì tự thấy mình học thì ít chơi thì nhiều ,khi thi nghĩ mình khó đậu nhưng sao lại đậu ,cho nên chắc đương số ngạc nhiên .
    1 like
  7. Xin chào các thành viên diễn đàn! Tôi cũng có vài lời đến với toppic này. TIÊN ĐỊNH KHÍ HẬU ĐỊNH LÝ!!! Vạn vật từ trong lý khí mà ra thành hình, chỉ vì hai tính chất lý khí mà thế gian còn nhiều mâu thuẩn tranh phân cao thấp…vv.Nói riêng về nhân ở con người ai ai cũng có lý và khí, khí bên trong lý bên ngoài,khi khí động thì lý sanh…anh có cái lý của anh tôi có cái lý của tôi,ta kg nên chê bai hay phân biệt, hãy nhớ rằng đây là trung tâm nghiên cứu lý học tất cả các lý khí điều nằm ở trung tâm là bản gốc cứ dụng đó để mà học, học được tới đâu thì hay tới đó nhưng tiềm căn mỗi con người học, ai cũng có tầm giới hạn cả, vì vậy mới có cái lý khí phân ra chổ cao chổ thấp, điều quan trọng nhất là hỏi ta có căn duyên thiện tâm để mà học hay kg? đã học nhưng có thấu hiểu hết ý nghĩa của bản lý khí hay chưa? Có ngưòi học tới đó nghĩ đâu đã hiểu hết lý, nhưng thực tế chỉ phân ra được cái khung cứ thế mà nói lý. Còn người khác dụng lý hay hơn anh thì sao đây? Lại thế…lấy cái khung của người làm đề tài. Anh chỉ dựng được cái khung còn tôi lý hay hơn anh, tôi bung ra được thêm cái sườn. Cứ cái lý luân hồi theo một vòng tròn mãi như thế, thì ta phải tự hỏi lý khí ở trong ta trước rằng: ai đúng, ai sai, ai cộng, ai trừ, ai nhân lên, ai chia ra? hoàn toàn thì chưa ai dám khẳng định được điều đó cả, vì sao? Vì vận mệnh chúng ta hiện đang còn nằm trong ngũ hành có ai nói mệnh mình đã thoát khỏi vận của ngũ hành kg?. Trước khi tôi bước vào diễn đàn tôi cũng đã tham khảo qua các bài của các thành viên trên diễn đàn, đã tư vấn tận tâm cho người có nhu cầu cần sự giúp đở của người khác, tôi nhận thấy đó là niềm vinh hạnh của ngưòi học lý khí là ngộ căn, thiện căn, kg để mất đi những gì mình đã học hỏi và nghiên cứu,còn có những bài viết nói là giúp ích cho người cho đời …để nền văn hóa lạc việt đi lên. -Nhưng giờ thì sao? Tôi thấy chỉ một cái lý riêng của một người, mà bao nhiêu cái lý hợp lại cứ lần lược nối theo sau bao quanh vào cái lý nhỏ bé ấy!!! dùng lý để đối lý, mà kg từ bi hỷ xã chút nào cứ thế mà tập trung hỷ nộ. Tôi nhận thấy cái lý trong tâm mọi người mới là yếu tố quan trọng nhất. Hãy xét lại lý ở trong tâm ta xem sao? Có những chuyện suy để mà nghĩ, càng nghĩ càng thông, nếu kg có giới hạn bản thân. Nhưng riêng chuyện này tôi nhận thấy càng nghĩ càng bị suy? Thì thử hỏi làm sao giúp được cho người, khi một người nào đó cần sự cầu cứu giúp đỡ của ta và ngược lại ta cũng vậy. -Trên diễn đàn lý học đông phương này để trao đổi học hỏi, rổi trao dồi cái lý của anh và cái lý của tôi xem sao?.Học thì có hai cái học. -Thứ 1 Học sách dụng lại trong sách gọi lả coppi. -Thứ 2 học sách dụng sách mà nghiên cứu ra sách đó là cái ý tưởng tư duy tri thức của anh hơn người trao đổi, rồi anh thừ trao đổi thêm người thứ 2 thứ 3 ….vv… thì sẽ ra sao? Nhưng cũng đừng vì chổ đó mà nói người ta sai, rồi trừ bỏ đi, hãy nên nhớ rằng:người ta vẫn học theo sách, dụng cái lý của cổ nhân để lại! mình chỉ là người hậu học thôi!!! Học để tiếp thu và tìm cái còn sót lại, phát minh thêm những gì mình đã ngộ ra, để cho người hậu học, sau nữa và sau nửa, nối tiếp theo bài của mình mà nghiên cứu. Nếu cảm thấy cái lý hay riêng bản thân ta dụng được thì ta THU còn kg thì ta chỉ có TIẾP chứ ta kg có THU. Mình chỉ có vài lời mong rằng các vị tham gia trên diễn đàn hãy mở rộng lòng mình để cho nền lý học đông phương ngày càng tốt đẹp hơn mọi người tin tưởng hơn. DA VÀNG, DA TRẮNG, DA XANH, DA ĐEN, DA ĐỎ, VẪN LÀ DA. Muốn nói cho người ta hiểu. Hãy hiểu những gì mình đã nói!!!
    1 like
  8. Chào Nhật Tâm, - Hà Đồ và Lạc Thư được xây dựng dựa vào sự vận động của các hành tinh trong hệ mặt trời và các chòn sao các tương tác ảnh hưởng tới trái đất mà khả năng giới hạn của người Việt cổ cho phép. Đã có cân bằng âm dương ngũ hành theo Hoangnt là phù hợp. - Lạc Thư là vòng tương khắc của Ngũ hành và Hà đồ là ngược lại tức tương sinh. Từ đó khi ứng dụng bắt buộc phải dùng Hà đồ bởi vòng tương sinh là quy luật vận động của vũ trụ trong đó tương khắc là duy trì tính cân bằng động (chú ý vũ trụ đang giãn ra mãi mãi nên gọi là cân bằng động). - Nếu thấy cơ sở thiên văn hiện đại vào giải thích được thì very ok tuy nhiên chắc sẽ vấp vải rào cản thứ hai đó là giải thích sự khác nhau về phương vị của một số quái trong Tiên thiên và Hậu thiên và lý giải sự logic trong thuyết ADNH về Tiên thiên một cách hợp lý. Thân mến.
    1 like
  9. Cháu cảm ơn bác đã chỉ dạy.Thưa bác, năm 2008 bác nói có ngăn cản trì hoãn từ song thân có phải là do có phục binh chiếu không ạ?
    1 like
  10. Em nghĩ là năm 2009 chị ạ, em nghĩ năm đấy có khả năng hơn năm 2008 :D Mong bác Haithienha chỉ bảo cho chúng cháu thêm ạ.
    1 like
  11. Cháu đoán chắc có rồi năm 2008 hay 2009 gì đó... :D
    1 like
  12. Năm sau sẽ có việc đi xa cung phúc xấu nên đi lập nghiệp phương xa cũng tốt, số này cũng có của hoạnh tài nhưng hiện nay thơi vận chưa tới nếu đi theo chứng khoán tài chính thì ngoài 34t sẽ có 1 giai đoạn phát lớn tiền bạc dư giả mua được nhà đất cũng nhiều trong thời gian này, lá số có cách vô chính diệu địa hung tinh độc thủ hội tiểu hao người thông minh quyền biến học ít hiểu nhiều nhưng trong cuộc đời thành bại thất thường, hay có của hoạnh tài nhưng có bao nhiêu rồi cũng tiêu xài hết không biết giữ của, thường hay dính vào 1 trong 4 đỗ tường ham mê cờ bạc tửu sắc mà tán gia bại sản. Ngoài 44t có thể còn đèo bồng thêm cô vợ hai sau đó sự nghiệp tiền bạc bắt đầu xuống dốc lại gặp nhiều tai tiếng... Số này là người cũng có năng lực cũng gặt hái được thành công nhất định nhưng không bền, không được hưởng thụ thành quả của mình, về sau coi chừng bị kẻ khách làm hại... Anh chờ bác haithienha lên tư vấn chính xác cho nhé, thân chào! Mong bác sửa bài cho cháu...
    1 like
  13. 1 like
  14. Nếu Phú Thượng ( PHÚ_THƯỢNG chứ không phải PHÚ_THƯƠNG nhé) tôi nhớ không nhầm thì vào thời điểm đó, tôi còn đề nghị lớp PTLV 2 đưa tôi KHỎI danh sách thành viên tư vấn cho trường hợp này. Achau nhắc lại chuyện cũ khiến Phú Thượng tôi cảm thấy mình thật may mắn :D :D ^_^
    1 like
  15. Tôi thấy nhiều cao thủ, cao nhân vào topic này, nhận xét, xác quyết hơi bị tanh. Chủ đề này do thành viên Le Dien nói PTLV ứng dụng không hiệu quả. Tôi đưa ra quan điểm của riêng tôi: - Trường hợp nhà Le Dien sửa chữa theo PTLV không sai. thành viên Le Dien có thể mail riêng cho các cao thủ phong thủy khác mà Le Diên quen biết về bản vẽ của nhà Le Dien trước và sau khi sửa theo PTLV cũng như nói rõ cho họ khi chưa sửa & sau khi sửa công việc kinh doanh thế nào? Nếu tôi nhớ không nhầm, hồi đó - qua bài tư vấn phong thủy trên site, có một ACE học viên lớp PTLV 2 nào đó có khuyên thành viên Le Dien nếu có điều kiện nên chuyển chỗ khác do chỗ đó xấu quá, hiệu quả sau khi sửa chữa cũng không cao. - Tôi thấy mọi người nói Le Dien điên mộ PTLV quá mức. Nhưng chính tôi cũng thấy có một số học viên bị Sư phụ đuổi ra khỏi lớp vì nhiều lý do khác nhau. Cũng như một số thành viên ra vẻ chê bai PTLV, nhưng đang kiếm xiền từ kiến thức của Sư Phụ phục hồi, truyền dạy. - PTLV được giảng dạy hoàn toàn theo khoa học, và hoàn toàn có khả năng dự đoán sau khi xem xét tới đơn vị kiền trúc đó về những thành viên sinh hoạt trong đó. - Sau khi xây dựng ngôi gia theo PTLV hoàn toàn làm cho các TV sinh hoạt trong đó nâng cao độ số của bản thân, không đồng nghĩa là đổi mệnh, đổi vận, đổi đời của các TV đó. Vì thế gọi là PTLV tương tác cho từng cá thể. Chẳng cao thủ lý học nào sau khi xem tử vi.... hay bằng các phương pháp lý học khác sau khi khuyên thân chủ nên làm việc này, không nên làm việc kia là ......không khoa học khi tìm sự tướng tác tối ưu của nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Kể cả các nhà tư vấn tài chính - đầu tư. - Theo quan điểm của tôi, trong cuộc sống hơn 80% học viên bị trường đuổi học là quay lại chê trường, chê bạn, chê thầy chê cô..... cũng như hơn 80% các tay cao thủ làm ăn thất bại đổ tại số xui, phong thủy kém, nhân viên dở. 20 % thấp thủ, thừa nhận mình khiếm khuyết, mình kém nên chịu khó trau dồi kiến thức, sửa sai để tìm cơ hội mới.... Bản thân tôi, từ hồi biết tới lý học đông phương, biết tới Diễn đàn của Trung Tâm. Nhìn Thấy bác Hà Uyên, bác Hải Thiên Hà... Anh votruoc, anh daohoa, anh lieu ngan dinh, anh vuivui, anh linhnhi, anh quangnx... bạn VinhL, bạn Rin86... & một số thành viên khác mà tôi không thể liệt kê hết tên ra đây được. Mới thấy trong cuộc sống có rất nhiều người giỏi trên nhiều lĩnh vực & đường hoàng trong cách cư xử. Thực lòng, tôi rất khâm phục họ. Hy vọng, Diền Đàn trở lại & phát triển với đúng tinh thần của nó là trao đổi học thuật về cổ học Đông phương. Trò cũng rất hy vọng, Sư phụ luôn khỏe, minh mẫn, cũng như tiếp tục các công trinh nghiên cứu, phục hồi cổ học Đông phương còn đang dang dở..... HT Achau
    1 like
  16. To: Tất cả, Tôi là kẻ ngoại đạo, thấy các cao - trung - thấp - sơ thủ lời qua tiếng lại sao mà nhốn nháo, sôi sục. Tôi đọc mà khâm phục, với kinh hồn bạt vía. Với lời dự đoán này tôi nghĩ Phuthuong phải là người có đẳng cấp, đầu đội trời chân dép, vì đại nghĩa diệt bản thân, cắm một cây thánh giá tuyên tử và cáo chung cho Phong thủy lạt việt. Hay thiệt hay! Phải là một người có thực tài thực lực mới có thể hô lớn, trịnh trọng lời quyết đoán này. Còn nếu như một tên dở hơi nào viết ra thì tên đó cũng đang làm con rối nô dịch, bị giựt dây bởi các Đại ca hay các thầy khác. Phuthuong ạ, qua câu nói của anh, tôi đủ tự tin là anh ở đẳng cấp phong thỷ cao hơn anh Hatgaolangg và như vậy, chắc anh đã có duyên học được các thầy cao đẳng hơn Ptlv. Thôi thì tôi gơi ý Phuthuong ra tay giúp cho người mẹ 10 con điên khổ đau đó thoát khổ đau đi anh. Anh thách chi mấy tay Ptlv làn nhàn này rớ vô làm gì? Lỡ họ không dùng Ptlv mà chữa không khỏi điên cho các người con, không làm cho bà mẹ hết khổ cực thì anh lại mắc tôi là xúi bậy người khắc làm và cái tội là lợi dụng hoàn cảnh khổ đau của người khác để làm thí nghiệm. Tội này nặng lắm anh à! Thôi, anh tự ra tay hay về nhờ các Đại ca, các thầy của Phuthuong mà ra tay đi. Tồt thì phúc đức không nhỏ mà không tốt thì mình cũng có cái lòng tốt. Nếu mà tôi gọi ý vậy anh cũng vì cớ gì đó mà không tiện ra tay thì chắc có lẽ mọi người sẽ thật thất vọng nghĩ rằng anh và Đại ca anh, ông thầy anh cấp độ cao đẳng phong thủy, chắc là bị "cẳng đau' bỏ dép chuồn êm như chuột vậy à. Này anh Hatgaolang Anh thuộc hàng Ptlv cao đẳng, chắc anh cũng "cẳng đau" luôn rồi sao? Anh hứa cho tiền thì anh cho tiền bà mẹ đó sửa phong thủy, nếu có Phuthuong giúp. Và lúc ấy anh khỏi lo. Anh cứ lo cái "cẳng đau" của anh đi. Chi wildlavender,Chị đừng khích bác như thế. Chưa biết "chó nào cắn chùa nào" mà. Chị đừng có nói Ptlv hay Phong thủy Phuthuong siêu việt hơn. Nhưng tôi tin những gì mà Phuthuong nói với cái dũng khí đó thì phải là có chức, có đẳng cao. Nói thực ra cái Ptlv cũng quá non trẻ so với ông già phong thủy ngàn năm kia biết bao nhiêu người ngưỡng mộ, huyền bí, u u minh minh, sùng bái không biết đau đầu gối và mỏi sống lưng. Sin lỗi anh...Xích lô, Anh là thành viên mới tinh hà. Anh biết thì nói, không biết thì...đi đạp xích lô chổ khác chở tây chở tàu kiếm vài đồng sống sướng hơn. Anh đừng có "chọc đít ngoáy mông" anh Phuthuong bằng bài vè con cóc của anh. Anh cũng thuộc loại có hạng đó nghe! Hạng...xích lô, xe kéo. Hôm nào anh ế độ thì tôi nhờ anh chở đi "du lịch xích lo săng - su - si" quanh hồ Tây ngắm gái Tây...Bắc. Anh nhớ đem theo hoa tím để tôi khỏi bỏ công..."tìm hoa". Nhắn anh Ledien ( Lê đì en = nghĩa là The and = Hết phim?) anh muốn quản bá? Anh biết không, các thương hiệu kinh tế lớn, nếu các tiểu lý, đại lý muốn chưng bản cũng phải có sự đồng ý của chủ quản. Sách giảng ở trường đại học thôi, bị sao chép hay photo cũng bị kiện bảng quyền. Anh tự ý tự động làm càng, có ý tốt hay xấu thì chỉ có anh biết. Nhưng nói đi thì phải nói lại, các người bên Ptlv cũng nên cảm ơn anh Ledien, vì đã công bố cho công chúng biết Ptlv là một môn "pha học" trước khi cả có cuộc báo cáo chuyên đề tại Hà Nội. nmph cũng ngưỡng mộ tài năng diễn xuất của Ledien từ trạng thái tôn vinh, "điên mộ" Ptlv chuyển sang ngay trạng thái chửi rủa, oán thán, khích bác Ptlv, chỉ vài tỷ giây sau khi xin học phong thủy lạc việt cấp cao. Nhưng giờ thì...lê đì en giồi! To: tất cả, tôi có nói gì không phải, mong các anh chị bỏ quá cho. Để trong bụng, nặng bụng, xì hơi ô nhiễm chết! Sin lỗi (ịt - kíu - sờ - mi!) http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/eyelash.gif
    1 like
  17. hi! Chào Anh Phú Thương. Người có lòng hành hiệp vì đại nghĩa ko cần đợi đến sự cá cược hay thách thức mới đem lòng hào hiệp giúp mọi người, Anh có thể mang 5 Tr gửi ngay tới giúp đỡ cho bà mẹ điên mọi người sẽ vỗ tay cổ vũ vì điều đó. Nói như anh , anh quên biết 1 số cao thủ có thể sửa phong thủy cho gia đình nhà "bà mẹ ăn mày nuôi 10 đứa con điên" thì hãy đen lòng hành hiệp vì đại nghĩa. Theo tôi phong thủy chỉ là yếu tố tương tác đạt đến mức độ nào đó! nếu nói như anh thì ko riêng PTLV và các loại Phong Thủy Khác có thể giúp người ta kiếm tiền hay chữa khỏi bệnh hoàn toàn ??? nếu chỉ nhờ phong thủy mà người ta khỏi bệnh thì xã hội ko cần nhờ đến bệnh viên, ko cần các nhà nghiên cứu ra các loại vắc xin mới để điều trị bệnh.. ................................................................................ ................................................................... Thường thì người ta có Thương rồi sẽ phú Anh này đã Phú lại còn Thương Giống như con ếch ương ương Ếch ương ương nằm ở bờ mương ( bờ ruộng) Gặp con gà ác đi qua Mổ cho 1 cái thế là lên mây Anh đừng giận em làm thơ cho mọi người giải ngố, anh mà tức giận sẽ nổi đầy mụn ở mặt sẽ ko tố đâu!
    1 like
  18. Lời dự đoán của PHUTHUONG có khả năng đúng tương đương với xác suất người biến mất 80%. khỏi diễn đàn. Với điều kiện ngay thời điểm này xuất hiện một giá trị PT siêu Việt mang tên PHONG THỦY PHUTHUONG. Tôi tin rằng khi PT cố ý phản bác PTLV đồng nghĩa với việc PT đang sở hữu một kiến thức PT mới logic hơn, khoa học hơn để thuyết phục chứ đừng khích bác thách đố để thỏa mãn sự tự kỷ cá nhân. Vài lời đóng góp hy vọng PT để dành công sức trí tuệ của mình cho việc đầu tư kinh doanh sẽ có lợi cho sự nghiệp hơn.
    1 like
  19. Theo tôi bạn cũng như hầu hết các trường hợp khác coi PTLV như tôn giáo đều là TRƯỜNG HỢP NHẸ của hiện tượng Ledien : Thừa hâm mộ nhưng thiếu hiểu biết. TÔI DỰ ĐOÁN, TRONG VÒNG 02 NĂM NỮA, 80% CÁC CAO THỦ CỦA PTLV SẼ LẦN LƯỢT BIẾN MẤT KHỎI DIỄN ĐÀN LYHOCDONGPHUONG.ORG.VN MỘT CÁCH IM HƠI LẶNG TIẾNG. :D :lol: :lol:
    1 like
  20. Thân mến gởi bạn Phu Thuong, "PTLV là khoa học" và " PTLV chỉ là một yếu tố tương tác" không hề có mâu thuẫn nhau về mặt ngữ nghĩa để mà bạn quy chụp là một sự xuống dốc rồi. Cái gì là chân lý tuyệt đối thì "bất khả tư nghì" và không thể chứng minh, do vậy phải chăng mình khoan nên nóng vội kết luận và quy chụp, phải không?
    1 like
  21. -------------------------------- Phong thủy thì ai cũng có thể học được hết, tuy nhiên để đạt tới cảnh giới thì chỉ có vài người thôi. Biết phong thủy và làm được phong thủy là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Tôi rất tâm đắc câu nói này của hatgaolang…
    1 like
  22. - Tôi chưa từng bảo tôi là người làm Phong thủy, Phú Thương hãy đọc lại kỹ đi. Tôi cũng chỉ làm một người đang trên con đường học hỏi. Kiên thức thì bao la, cả đời học cũng chưa chắc đã hết được. - Thứ hai: Tôi muốn thì tôi sẽ làm mà không tham gia vào bất kỳ một cuộc thách đấu nào cả. Phong thủy chứ không phải là trò chơi. Đâu phải cứ google earth xong là có thể phán được đâu. Nên tôi sẽ không nhận lời thách đấu của bạn. Tiền thì tuy tôi không có nhiều, nhưng khi cần cũng có thể bỏ ra vài triệu để làm từ thiện. Thân mến
    1 like
  23. Phú Thương ạ - Tôi cũng đã làm nhiều. kể cả trường hợp Đoài - Ly, và chính trường hợp Đoài Ly này lại tiếp tục giới thiệu người khác cho tôi. Vậy chắc do có một yếu tố khách quan nào khiến cho nhà của cậu này tốt lên nên cậu ấy tưởng tôi giỏi và giới thiệu người khác cho tôi chăng. - Phong thủy thì ai cũng có thể học được hết, tuy nhiên để đạt tới cảnh giới thì chỉ có vài người thôi. Biết phong thủy và làm được phong thủy là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Thân mến
    1 like
  24. Xét riêng về mệnh trong trường hợp này thì không khắc mà có lợi cho nhau. nói như bạn nói ví như nước ở đại dương cần có mặt trời chiếu xuống phản quang ánh sáng lên thì mới tạo ra một bức tranh đẹp nhưng còn thiếu một điều kiện nữa mới toàn mỹ là bên bờ biển phải có cây cảnh mới đẹp
    1 like
  25. Xét về bản chất, Hỏa và Thủy khắc nhau, Thiên Thượng hay Đại Hải chỉ là tên gọi để chỉ mức độ của Hỏa và Thủy đó. Trong bản tuần hoàn của Lạc Thư Hoa Giáp, mỗi mạng (nạp âm) có 6 mức độ khác nhau và chia làm âm - dương. Ví dụ năm Canh Dân và Tân Mão đều có nạp âm Tùng Bách Mộc, và Canh Dần là năm Dương, Tân Mão là năm Âm, Tùng Bách là chỉ mức độ của Mộc, tức Mộc tuơng đối mạnh so với các Mộc khác như Dưỡng Liễu Mộc, Thạch Lựu Mộc... Mọi sự vật đều vận động và tương tác, không chỉ với các sự vật khác mà tuơng tác trong chính bản thân sự vật đó. Bản thân 1 hành cũng có sự vận động bên trong nó, và có các mức độ phát triển khác nhau, thông qua 6 hình thái vận động như hành Kim, từ Sa Trung, Hải Trung, Thoa Xuyến , Bạch Lạp, Kiếm Phong, Kim Bạch... Quay lại vấn đề của bạn, xét về bản chất thì Thủy khắc Hỏa, xét về mặt kết hợp 2 người với nhau thì phải xét cả Thiên Can và Địa Chi, chỉ xét mạng thì không đủ điều kiện để quyết định. Nếu vậy thì sao bạn không nghĩ là Mặt trời chiếu xuống làm nước bốc hơi???? Nên hiểu theo bản chất vận động của sự vật hơn là hiểu theo nghĩa tên gọi của nó.Ý tại ngôn ngoại, lời không diễn hết ý. Thân mến Thiên Luân.
    1 like
  26. Bé 8 tuổi sống một mình trong nguy khốn. Tôi đã xúc động đến đắng lòng khi xem bài và clip này! Bước chân Tuấn đi còn cứng cáp mà đời em sao mong manh quá! http://www.vietnamnet.vn/giaoduc/201008/Be...uy-khon-931085/. Và tôi đã phá lệ (do tôi đặt ra) là không đăng lại những bài báo về những mành đời đáng thương, thế mà tôi không kềm chế được lòng mình dẫn tới quyết định đưa bài này đến với ACE.
    1 like
  27. 1 like
  28. Rin86 không biết xem tử vi nhưng với câu hỏi "Thientam có lấy được vợ không?" thì ra quẻ Thương Xích Khẩu => lấy được vợ nhưng phải đợi khá lâu đấy he he :D
    1 like
  29. Hà Giang: Những cuộc đời trong khuôn hình của tôi Tác giả: Đoàn Bảo Châu Tuanvietnam.vn Cô sơn nữ có vẻ đẹp mộc mạc, nụ cười tinh khôi của cô gái trẻ, những đứa trẻ lam lũ hay nét khắc khổ của người đàn ông từng trải được khắc họa đậm nét trong loạt ảnh chụp tại Hà Giang của nhiếp ảnh gia Đoàn Bảo Châu. Vài năm trở lại đây đôi khi tôi tự hỏi là mình còn yêu Hà Nội hay không. Hà Nội của ngày xưa và Hà Nội bây giờ khác nhau nhiều quá. Những lúc như vậy tôi hiểu là mình nên đi đâu đó vài ngày. Mấy tháng trước khi đang rơi vào tình trạng như vậy thì tôi có việc chụp ảnh ở Hà Giang. Đối với phóng viên ảnh thì được chụp ảnh ở nơi mình thích thì tuyệt nhất rồi. Đối với phóng viên ảnh thì cái thú của một chuyến đi được kéo dài cho tới lúc biên tập ảnh khi về nhà, phần bù đắp cho những lúc vất vả lăn lộn săn ảnh. Sau mỗi chuyến đi tôi thích chọn ra vài tấm ảnh ấn tượng nhất đối với tôi. Tôi thích được ngồi tĩnh lặng trong bóng tối, nhắm mắt lại để xem hình ảnh nào tự hiện lên trong đầu. Hình ảnh hai anh em người H'mong đi bộ một cây số để gùi nước hiện lên đầu tiên. Hai đứa trẻ cũng chạc tuổi các con tôi, cậu anh 10 tuổi, cô em 7 tuổi. Chúng còng gập người, khuỳnh chân để lấy thăng bằng, đi từng bước rất nhỏ. Tôi bảo chúng lên xe ôm của tôi để đỡ một đoạn nhưng chúng lắc đầu, cười xấu hổ. Buồn vì ta thấy dường như cả tương lai của chúng. Nói vậy thôi chứ bao nhiêu phần trăm trẻ em nghèo vượt lên được số phận? Ba đứa trẻ bên lề của một con đường hun hút, trước núi, trước cánh đồng ngô sao bơ vơ tới nao lòng. Chẳng hiểu một sự liên tưởng nào mà trong tôi như có dòng điện chạy qua. Bọn trẻ sao có vẻ cô đơn, chúng đang chờ đợi ai? Nếu bạn không cảm thấy như vậy thì đấy chắc hẳn là khả năng nhiếp ảnh của tôi hạn chế, hay cũng có thể là tôi quá nhạy cảm trong tình huống này. Cô gái khoảng 18 tuổi, tôi không biết là dân tộc gì, đi bộ trên con đường đầy nắng giữa núi non trập trùng. Cô không hiểu tôi nói gì, chỉ lắc đầu cười, cúi đầu e thẹn bước đi. Không hề lộng lẫy, nhưng duyên dáng kỳ lạ. Xin bạn đừng hiểu lầm. Con tim của kẻ trung niên không còn non nớt như vậy, nhưng rõ ràng cái đẹp trong trẻo của rừng núi có nét gì đấy rất sâu lắng. Chú bé đầu trọc ngồi đằng sau xe đạp của mẹ đang lướt đi trước cánh đồng ngô. Tôi tự hỏi cái gùi của người mẹ có làm chú khó chịu không. Một em bé hai tuần tuổi ngủ say sưa trong vòng tay nâng niu của mẹ trong không gian tĩnh lặng giữa trưa hè. Hạnh phúc trẻ thơ dù ở trên núi cao hay dưới thành thị thì cũng êm đềm giống nhau. Một nông dân đang cày trong một mảnh ruộng có mấy mét vuộng, được bao quanh bởi những vỉa đá lô nhô. Mảnh ruộng hẹp làm người và trâu cứ quay trong một vòng tròn luẩn quẩn. Một thiếu phụ hái ngô cứ chực chạy đi và cười lớn thành tiếng khi thấy tôi đưa máy ảnh lên. Những người đang tát nước bằng chậu để tưới ngô. Chân dung một người đàn ông đang bán gà ở chợ. Ánh nhìn và đôi bàn tay khắc khổ đã qua bao năm tháng nhọc nhằn. Một thiếu nữ chắc khoảng 16 tuổi nói được tiếng Kinh, cứ nhất định không cho chụp ảnh. Nụ cười và ánh mắt chân phương này khó kiếm ở nơi thành thị. Người đàn ông thổi kèn trong một đám ma người H'Mong. Bàn tay lao động cũ kỹ trở thành bàn tay của nhạc công. Phải chăng nhiếp ảnh là phương tiện tuyệt vời để chúng ta chia sẻ những khoảnh khắc của cuộc sống? Hình ảnh nào đang chờ đợi bạn và tôi trong những chuyến đi sau?
    1 like
  30. Buồn như ly rượu đầy, không có ai cùng cạn. Buồn như ly rượu cạn, không có người cùng say.
    1 like
  31. 1 like
  32. Bách Việt Tiên Hiền Chí hodovietnam.vn 05/04/2007 Giới Thiệu "Bách Việt Tiên Hiền Chí" là một tác phẩm quan trọng cho những ai muốn tìm hiểu về nguồn gốc của chủng tộc Bách Việt ngày xưa. "Theo bộ đại từ điển Từ Hải Hợp đính, gọi tắt là Từ Hải, viết bằng lối chữ phồn thể, xuất bản tháng 3 năm 1947 (tái bản tháng 2 năm 2003) thì: "Bách Việt (chữ Việt bộ Tẩu), tên của chủng tộc, cũng viết là Bách Việt (chữ Việt bộ Mễ). Theo sách Thông Khảo Dư Địa Khảo Cổ Nam Việt: Từ Ngũ Lĩnh về phía Nam, cùng thời với Đường, Ngu, Tam Đại, là nước của Man Di, ấy là đất của Bách Việt." "Bách Việt (chữ Việt bộ Tẩu), tên của chủng tộc, cũng viết là Bách Việt (chữ Việt bộ Mễ). Theo sách Thông Khảo Dư Địa Khảo Cổ Nam Việt: Từ Ngũ Lĩnh về phía Nam, cùng thời với Đường, Ngu, Tam Đại, là nước của Man Di, ấy là đất của Bách Việt." Từ Hải còn ghi chú thêm: "Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, bảy, tám nghìn dặm, Bách Việt sống lẫn lộn với các dân tộc khác, nhưng luôn luông giữ cá tính của dân tộc(Bách Việt tạp cư, các hữu chủng tính). Xem như vậy, Bách Việt , từ núi Ngũ lĩnh đổ xuống phương Nam, vừa là nước, vừa là sắc dân, sự hiện diện đã được ghi nhận, từ thời thượng cổ Đường ( vua Nghiêu), Ngu ( vua Thuấn), Tam Đại ( Hạ, Thương, Chu). Và, người Bách Việt có cá tính riêng và luôn luôn giữ cá tính nầy. Đúng với sự khẳng định của Nguyễn Trãi, trong bài Bình Ngô Đại Cáo: Sơn xuyên chi phong vực ký thù Nam Bắc chi phong tục diệc dị Sơn hà cương vực đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Trần Trọng Kim - Bùi Kỷ dịch "Bách Việt Tiên Hiền Chí", như tựa đề, là một công trình sưu tập, nghiên cứu, ghi lại một cách công phu hành trạng, công nghiệp, ngôn từ, tư tưởng của các danh nhân người Bách Việt , trải qua nhiều triều đại của Trung Hoa. Những danh nhân này, với phong cách cao quý, tài năng vượt bực, tư tưởng cao siêu, đã là thành phần nồng cốt xây dựng nên nền văn minh, mà ngày nay, thế giới gọi là văn minh Trung Hoa. Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam đã sưu tập được hai bộ "Bách Việt Tiên Hiền Chí". Một bản in năm Tân Mão (1831), đời Thanh, chữ lớn, khắc đẹp, nơi tên tác giả đề là Thuận Đức Âu Đại Nhậm (ông Âu Đại Nhậm, người ở Thuận Đức). Bản thứ hai, in vào năm Dân Quốc thứ hai mươi sáu (1936), chữ nhỏ, bản khắc có nhiều chữ không rõ, nơi tên tác giả đề là Minh Thuận Đức Âu Đại Nhậm Trinh Bá soạn (soạn bởi ông Âu Đại Nhậm, tự là Trinh Bá, người ở Thuận Đức, đời nhà Minh). Như vậy, tác giả của sách là Âu Đại Nhậm. Theo Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu, Âu Đại Nhậm, tên chữ là Trinh Bá, người huyện Thuận Đức, tỉnh Quảng Đông, làm quan đời Gia Tĩnh, triều Minh, đã từng giữ những chức vụ huấn đạo Giang Tô, đổi làm học chánh Quang Châu, rồi về triều làm bác sĩ Quốc Tử Giám, chúc vụ sau cùng của ông là hộ bộ lang trung ở Nam Kinh. Phần lớn cuộc đời làm quan của ông là ở đất Bách Việt cũ, nên ông có nhiều cơ hội tìm hiểu, sưu tập những chứng tích về tiên hiền Bách Việt. Vả chăng, Âu Đại Nhậm, gốc tích từ Thuận Đức, Quãng Đông, cũng là người thuộc gốc Bách Việt. Thuận Đức là một huyện thuộc Quảng Đông, phía Đông Nam huyện Nam Hải, gần giáp Giang Tây, chạy ra tới biển. Tên huyện được đạt thời nhà Minh, tiếp tục giữ dưới thời nhà Thanh. Đến đời vua Quang Tự nhà Thanh, Thuận Đức được mở rộng thành một hải cảng lớn, nỗi tiếng là nơi sản xuất và xuất cảng tơ, lụa, vân, sa... (Xin đừng lầm với phủ Thuận Đức thuộc tỉnh Trực lệ. Phủ nầy được lập vào đời nhà Tống, vào thời Kim, Nguyên đổi thành bộ, đến đời Minh đổi lại là phủ. Nhà Thanh vẫn giữ nguyên theo nhà Minh. Đến thời Dân Quốc, tên Thuận Đức bị bãi bỏ. Như vậy, bộ "Bách Việt Tiên Hiền Chí" được viết bởi một người gốc Bách Việt, từng làm quan nhiều năm ở đất Bách Việt cũ, viết về tiên hiền Bách Việt. Tóm tắt, đây là bộ sách của người Bách Việt viết về tiền nhân Bách Việt. Nhận thấy tầm quan trọng của bộ "Bách Việt Tiên Hiền Chí", đối với dân tộc Việt Nam (là một trong Bách Việt), nhất là trong giai đoạn nầy, giai đoạn mà Việt tộc đang phải chống chọi với những cuộc xâm lăng văn hóa từ nhiều phía, Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam đã đề nghị giáo sư Trần Lam Giang phiên dịch bộ sách nầy ra Việt ngữ và giáo sư đã mau mắn nhận lời, coi đây là một công tác mà anh em giao phó, để giúp cho các thế hệ trẻ có thêm tài liệu xác tín khi tìm hiểu về quá khứ của dân tộc. Người xưa có câu "chu tầm chu, mã tầm mã", nghĩa là "những người sống trên thuyền thì tìm đến và sống với những người sống trên thuyền; giống dân sống trên lưng ngựa thì tìm đến và sống với giống dân sống trên lưng ngựa." Câu nầy phân biệt rõ rang sự khác nhau giữa hai chủng tộc, Việt ở phương Nam và Tàu ở phương Bắc; giữa giống dân sống định cư, làm ruộng trên vùng sông nước và giống dân sống du mục trên lưng ngựa, khác nhau từ nếp sống, phong tục tập quán đến văn hóa. Trong Kinh Thi, với thiên Chu Nam và Thiệu Nam, Khổng Tử đã ca tụng nền văn minh rực rỡ của phương Nam và vị vạn thế sư biểu của Bắc tộc đã học hỏi rất nhiều ở nền văn minh nầy, đem áp dụng và đặt ra những quy luật xã hội cho các giống dân phương Bắc... Trong kinh Xuân Thu, Khổng Tử đã ghi lại bao nhiêu trường hợp cha giết con, cha cướp vợ của con, con cướp vợ của cha, anh em dâm loạn với nhau, bề tôi giết chúa, trong giới vua chúa quý tộc Trung Hoa. Điều nầy, chứng tỏ rằng, trong khi Bách Việt ở phương Nam đã đi vào đời sống nề nếp của văn minh nông nghiệp, thì Bắc tộc Trung Hoa vẫn còn dã man với nếp sống du mục. Khổng Tử đã đem những gì nghiên cứu, sưu tập, học hỏi của nền văn minh Bách Việt phương Nam, đạt để thành những quy luật, trật tự xã hội cho phương Bắc. Bởi vậy, ông mới xác định công việc của ông là "thuật nhi bất tác" Trải qua các triều đại Tần, Hán, Đường, Tống, Bắc tộc Trung Hoa đã xâm lăng, thôn tính được đất đai Bách Việt, nhưng ngược lại đã bị nền văn minh Bách Việt đồng hóa. Hởi ơi, Bách Việt ngày nay còn lại những dòng tộc nào? Có còn chăng là Việt Văn Lang trên mảnh đất hình chữ S ven bờ Đông Hải. Lịch sử của Việt Văn Lang là chống chọi triền miên với các cuộc xâm lược của Bắc tộc, để gìn giữ nền độc lập, tự chủ cho mảnh đất cuối cùng của Bách Việt ở cõi trời Nam. Ngày nay, người Đài Loan xác định nguồn gốc Bách Việt của họ, gồm Điền Việt từ Vân Nam, Việt Đông từ Quảng Đông, Quảng Tây và Mân Việt từ Phúc Kiến, Chiết Giang, với mục đích muốn tuyên bố độc lập cho đảo quốc nầy. Cũng ngày nay, do các công trình khảo cổ, nghiên cứu chủng tộc, người ta xác định dân tộc Nhật Bổn vốn phát xuất từ Việt Đông. Việt Văn Lang không cần xác định gì hết về nguồn gốc, vì từ ngàn xưa, vẫn vững chân trên lãnh thổ của mình. Chẳng những vậy, Việt Văn Lang còn "cầm búa đi khai phá phương Nam" (đúng theo ý chí của tiền nhân khi dung bộ "tẩu" viết nên chữ Việt), để mở rộng cơ đồ xuống tận mũi Cà Mau... Đọc "Bách Việt Tiên Hiền Chí" để hiểu rõ sự khác biệt giữa văn hóa Bách Việt và văn hóa Bắc tộc Trung Hoa; để phân biệt đâu là văn minh Bách Việt trong nền văn minh mà thế giới ngày nay gọi là văn minh Trung Hoa. Trên tường bên trong lăng Triệu Mạt ở Quảng Châu là nhiều tranh vẽ hoặc khắc trên đá thể hiện văn minh của thời Bách Việt vốn vẫn còn ảnh hưởng qua ngôn ngữ và văn hoá người Quảng Đông. Người Quảng Châu vẫn dùng từ 'Việt' rất nhiều, nhưng chữ Việt đây theo bộ Mễ, không phải Tẩu, dù có thể trước đây được dùng qua lại Ghi chú: "Bách Việt tiên hiền chí " tác giả Âu Đại Nhiệm viết vào năm 1554 Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam trân trọng giới thiệu tác phẩm nầy. Theo nguồn "Việt Nam Gia phả" ----------------------------------- Nhời bàn của Thiên Sứ: Tôi thường tự cho mình cô đơn trong học thuật khi minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến. Bởi vì, một trong những quan niệm của tôi là Lạc Việt là khái niệm chung chỉ dân tộc Việt, tức Bách Việt. Nhưng có thể nói. Nhiều học giả cho rằng: Lạc Việt chỉ một bộ phận trong Bách Việt. Tôi giới thiệu bài này vì nó nhắc đến cuốn sách mang tính tư liệu có giá trị, chứ không có ủng hộ quan niệm của bài viết nhận xét về cuốn này. Rất tiếc, tôi chưa thấy trang web ở Việt Nam nào giới thiệu cuốn sách này, nên phải sử dụng bài này.
    1 like
  33. Chào Wen Hai hành thủy hỏa có cấu trúc vi mô tinh tế hơn hẳn ba hành còn lại.Thực chất hai hành thủy hỏa là sự thống nhất cao nhất của hai mặt âm dương đối lập ở các cấp. Chẳng thế mà Hải Thượng Lãn Ông rất quan tâm đến thủy hỏa trong " Y tông tâm lĩnh". Do thủy hoặc hỏa thống nhất cao nên khi hai hành này gặp năm vận khí tốt chủ đạo thì con người khỏe mạnh thông minh sáng suốt còn khi gặp năm vận khí sấu chủ đạo gây ra bệnh tật thì trị bệnh thật khó. Kính bạn
    1 like