-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 30/08/2010 in all areas
-
Ledien Gửi Bqt.
Mickey and 2 others liked a post in a topic by Thiên Đồng
@Phuthuong Không có gì là trái ngược hay không "pha học" ở đây. Tôi dẫn ra trường hợp sau: 1. Tôi quen một một ông thầy thuốc đông y thuộc loại nghề cứng cựa. Một lần có một chị hàng xóm bị té sưng trặt chân, uống thuốc tây chỉ giảm đau không hết. Ông hốt thuốc cho và bảo: "Uống vào vài ba thang thì chân sưng đau hơn và sau đó thì xẹp và hết, vì sức công phạt của thuốc". Quả thực y như lời ông thầy, một hai ngày đầu chân sưng đau hơn đến độ đi không nổi, sau lại giảm dần và hết hẳn. 2.Trong Khí Công Dưỡng Sinh Việt Nam, khi mọi người đắc khí thì tùy theo các loại bệnh mà trạng thái ban đầu sẽ y như bệnh trạng, cụ thể những người mất ngủ lâu ngày, lâu năm thì sau những buổi ban đầu tập, tự nhiên sẽ mất ngủ nhiều hơn và dài hơn; những người bị tổn thương bên trong nên đau thì nó cho đau nhiều hơn chút, những người có độc thì nó cho thải độc đến nỗi xách quần chạy không kịp, những người bị stress thì nó xuất hiện hiện tượng stress muốn cười muốn khóc...đủ mọi trạng thái bệnh trạng, NHƯng sau đó, chỉ vài ba ngày thì người bệnh bình ổn và không có những biểu hiện đó nữa, bắt đầu ngủ được, hay hết đau, bình an và khỏe khoắn. 3. Ai bị bệnh ruột thừa cũng biết, khi ruột ấy bị kín, mưng mủ thì phải cắt bỏ, nếu không thì nguy. Vậy thì phải chịu đau mỗ sẻ thì mới hết bệnh được chứ! Phong thủy không kể là phong thủy nào cũng có những hiệu quả tương tác như vậy. Thiên Đồng3 likes -
Ledien Gửi Bqt.
tom_xp and 2 others liked a post in a topic by +Achau+
Nên hiểu cho đúng: Kiến trúc nhà theo Phong thủy Lạc Việt là chọn lựa sự tương tác tối ưu của cảnh quan môi trường xung quanh , sự hợp lý trong bố trí phòng ốc .... Qua đó làm cho các thành viên sinh hoạt trong đơn vị kiến trúc đó thuận lợi hơn rất nhiều trong cuộc sống, sinh hoạt, hay lao động.... Điều này không nên lầm tưởng: Phong thủy Lạc Việt là máy bán hàng, máy thu hồi công nợ, máy in tiền, máy chữa bệnh..... Sau khi kiến trúc nhà theo PTLV làm cho mọi thành viên sinh hoạt hợp lý hơn so với trước đó, không đồng nghĩa với muốn gì được nấy, hay như người có trình cấp 3 trở thành trình đại học... phá sản ngay lập tức trở nên giàu có, thành công. Làm ăn thua lỗ do trình kém lại tưởng là không may, Phong thủy xấu... Thiết nghĩ ta thử ngồi trong buồng lái máy bay Boeing ta sẽ làm gì nếu như không biết lái: nhìn xem, hay tự lái đây... rồi bay nên trời hay chuii xuống ruộng. Đừng nói là Boeing thiết kế sai, không bay được.3 likes -
LỜI TIÊN TRI 2010
Rừng Nauy and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Bác Liêm Trinh thân mến.Sự rực rỡ ccủa nền văn hiến Việt là chân lý - Tôi tin rằng tôi hoàn toàn đúng trong chuyện này. Còn chuyện 1000 năm Bắc thuộc và việc Trương Phụ xâm chiếm nước Việt lại sang một lĩnh vực khác chứ nhỉ. Người Mông Cổ - Quân Nguyên - Xâm chiếm cả thế giới vào thế kỷ XII, vậy cả thế giới này đều là không văn minh , mọi rợ hơn quân Mông Cổ sao. Sự thịnh suy, canh tân..... để phù hợp với thời đại không phải việc của Thiên Sứ.2 likes -
LỜI TIÊN TRI 2010
Huongthien and one other liked a post in a topic by Liêm Trinh
Chào cụ tiến sỹ Việt nam hơn bốn ngìn năm Lịch sử là điều không cần bàn cãi . Nhưng sự "rực rỡ" ấy như thế nào thì còn phải bàn. Cần phải nhìn thẳng vào sự thật chứ cứ mãi nuôi mình trong ảo ảnh hào quang giả tạo của quá khứ thi sẽ là một bước thụt lùi. Sự rực rõ ấy sẽ phải giải thích thế nào để cho dân tộc phải chịu 1000 năm bắc thuộc, một trận đánh của trương phụ như đi vào chỗ không người để rồi cha ông phải nếm mật nằm gai mấy chục năm trời mới dành lại được độc lập, và gần một trăm năm đô hộ cùng mấy chục năm chiến tranh khốc liệt với phương tây để rồi bao triệu người con đã phải nằm xuống trong mưa bom bão đạn mới dành được độc lập thống nhất trọn ven cho tổ quốc.Như vậy sự "rực rỡ" ấy chắc chắn đã bộc lộ những khiếm khuyết trầm trọng xuất phát từ vũ trụ quan của những cư dân trồng lúa nước,đánh cá và sự thơ ngây về khoa hoc thực nghiệm.Sự "rực rỡ" ấy còn rất nhiều khiếm khuyết nếu cứ ôm mãi trong lòng sự "rực rỡ" ấy mà không chịu canh tân đi cho phù hợp với tri thức hiện đại thì sự thăng trầm của lịch sử sẽ lại có thể tái diễn và tội đầu tiên tổ tiên Lạc Hồng phân sử là tội của những kẻ con cháu bảo thủ tự hào mù quáng. Kính cụ.2 likes -
2 likes
-
Hà Giang: Những cuộc đời trong khuôn hình của tôi Tác giả: Đoàn Bảo Châu Tuanvietnam.vn Cô sơn nữ có vẻ đẹp mộc mạc, nụ cười tinh khôi của cô gái trẻ, những đứa trẻ lam lũ hay nét khắc khổ của người đàn ông từng trải được khắc họa đậm nét trong loạt ảnh chụp tại Hà Giang của nhiếp ảnh gia Đoàn Bảo Châu. Vài năm trở lại đây đôi khi tôi tự hỏi là mình còn yêu Hà Nội hay không. Hà Nội của ngày xưa và Hà Nội bây giờ khác nhau nhiều quá. Những lúc như vậy tôi hiểu là mình nên đi đâu đó vài ngày. Mấy tháng trước khi đang rơi vào tình trạng như vậy thì tôi có việc chụp ảnh ở Hà Giang. Đối với phóng viên ảnh thì được chụp ảnh ở nơi mình thích thì tuyệt nhất rồi. Đối với phóng viên ảnh thì cái thú của một chuyến đi được kéo dài cho tới lúc biên tập ảnh khi về nhà, phần bù đắp cho những lúc vất vả lăn lộn săn ảnh. Sau mỗi chuyến đi tôi thích chọn ra vài tấm ảnh ấn tượng nhất đối với tôi. Tôi thích được ngồi tĩnh lặng trong bóng tối, nhắm mắt lại để xem hình ảnh nào tự hiện lên trong đầu. Hình ảnh hai anh em người H'mong đi bộ một cây số để gùi nước hiện lên đầu tiên. Hai đứa trẻ cũng chạc tuổi các con tôi, cậu anh 10 tuổi, cô em 7 tuổi. Chúng còng gập người, khuỳnh chân để lấy thăng bằng, đi từng bước rất nhỏ. Tôi bảo chúng lên xe ôm của tôi để đỡ một đoạn nhưng chúng lắc đầu, cười xấu hổ. Buồn vì ta thấy dường như cả tương lai của chúng. Nói vậy thôi chứ bao nhiêu phần trăm trẻ em nghèo vượt lên được số phận? Ba đứa trẻ bên lề của một con đường hun hút, trước núi, trước cánh đồng ngô sao bơ vơ tới nao lòng. Chẳng hiểu một sự liên tưởng nào mà trong tôi như có dòng điện chạy qua. Bọn trẻ sao có vẻ cô đơn, chúng đang chờ đợi ai? Nếu bạn không cảm thấy như vậy thì đấy chắc hẳn là khả năng nhiếp ảnh của tôi hạn chế, hay cũng có thể là tôi quá nhạy cảm trong tình huống này. Cô gái khoảng 18 tuổi, tôi không biết là dân tộc gì, đi bộ trên con đường đầy nắng giữa núi non trập trùng. Cô không hiểu tôi nói gì, chỉ lắc đầu cười, cúi đầu e thẹn bước đi. Không hề lộng lẫy, nhưng duyên dáng kỳ lạ. Xin bạn đừng hiểu lầm. Con tim của kẻ trung niên không còn non nớt như vậy, nhưng rõ ràng cái đẹp trong trẻo của rừng núi có nét gì đấy rất sâu lắng. Chú bé đầu trọc ngồi đằng sau xe đạp của mẹ đang lướt đi trước cánh đồng ngô. Tôi tự hỏi cái gùi của người mẹ có làm chú khó chịu không. Một em bé hai tuần tuổi ngủ say sưa trong vòng tay nâng niu của mẹ trong không gian tĩnh lặng giữa trưa hè. Hạnh phúc trẻ thơ dù ở trên núi cao hay dưới thành thị thì cũng êm đềm giống nhau. Một nông dân đang cày trong một mảnh ruộng có mấy mét vuộng, được bao quanh bởi những vỉa đá lô nhô. Mảnh ruộng hẹp làm người và trâu cứ quay trong một vòng tròn luẩn quẩn. Một thiếu phụ hái ngô cứ chực chạy đi và cười lớn thành tiếng khi thấy tôi đưa máy ảnh lên. Những người đang tát nước bằng chậu để tưới ngô. Chân dung một người đàn ông đang bán gà ở chợ. Ánh nhìn và đôi bàn tay khắc khổ đã qua bao năm tháng nhọc nhằn. Một thiếu nữ chắc khoảng 16 tuổi nói được tiếng Kinh, cứ nhất định không cho chụp ảnh. Nụ cười và ánh mắt chân phương này khó kiếm ở nơi thành thị. Người đàn ông thổi kèn trong một đám ma người H'Mong. Bàn tay lao động cũ kỹ trở thành bàn tay của nhạc công. Phải chăng nhiếp ảnh là phương tiện tuyệt vời để chúng ta chia sẻ những khoảnh khắc của cuộc sống? Hình ảnh nào đang chờ đợi bạn và tôi trong những chuyến đi sau?2 likes
-
Cùng Nhau Học Dịch
VHTNQ liked a post in a topic by Hà Uyên
Chào Anh Chị Em Chủ đề: "Cùng nhau học Dịch", được gợi mở khi anh Dichnhan đặt vấn đề: "Người đời học Dịch". Cũng mong Anh Chị em nhìn từ nhiều góc độ với sách Kinh Dịch, chúng ta cùng bình giải và bình luận khi học Dịch. - Anh Dichnhan viết: Hiện tại tôi đang soạn 2 tập tài liệu Kinh Dịch Tự Điển và Giải Mã Hào Từ nên mất rất nhiều thời gian suy nghĩ cho chúng. Nhưng may sao nhờ có chương V của Tâm Pháp nên đã bớt đi được phần nào khó khăn, giống như có chiếc la bàn chỉ hướng vậy. Tôi vừa mới giải lại hào 1 quẻ Quải, mời Bác cùng nghiệm xét: Sơ Cửu: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.” - Hà Uyên viết: Quá trình nhận thức cá nhân, thường tôi phân: giải Dịch theo trường phái - hoặc giải Dịch theo "thuyết". Có nghĩa rằng, giải Dịch theo "thuyết", thường tự xây dựng một học thuyết riêng, mang tính độc lập. Đối với giải Dịch theo trường phái, thường lấy căn cứ theo Âm Dương chọn nghĩa, tam tài chọn tượng. Hướng tư duy cá nhân tôi, đang thăm dò hướng tới kết cấu khung, trong tổng thể 384 hào, để khảo chứng tìm về nguyên nghĩa của ý nghĩa hào từ, trên nguyên tắc: phải mang tính liên tục, tính hệ thống lôgíc của hào từ, sau đó mới xét tới không gian Quái danh, sau tiếp mới xét tới thời điểm Quái vị. Cụ thể: 1. Kinh viết: "Quải, Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu" - Dịch: Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn tới cưu hại. 2. Anh Dichnhan giải Dịch: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.” Tôi bình giải theo kết cấu khung: 1. Tính liên tục hào từ: tìm nguyên nhân: trước hào Sơ quẻ Quải, là hào Sơ quẻ Hàm - Hàm, Sơ Lục, hàm kỳ mẫu. - Dịch: Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái. 2. Tính hệ thống: tìm xu hướng từ quẻ "đối" và quẻ "đảo", sau đó mới giải thích được tại sao lại " tráng vu tiền chỉ". Mong anh chị em cùng tham gia bình giải khi học Dịch Hà Uyên.1 like -
1 like
-
Nếu đã là cái số ,thì tránh được cái vỏ dưa cũng phải gặp vỏ dừa ,chỉ có cách đề phòng hạn chế để thủ thân /nói đúng ra năm tới hạn rất nặng nhưng không ai biết được sự thể sẽ xảy ra theo chiều hướng nào ,chỉ chắc rằng có liên quan đến 2 vấn đề chánh tiền bạc và bênh tật . Hậu vận từ 54t trở về sau cơ nghiệp suy dần luôn cả trong người cũng mang nhiều bệnh tật .1 like
-
1 like
-
Năm nay có việc cần phải chú ý là sức khỏe của ông bố hay ông nội kém ,tiền bạc thì năm nay thu nhập không nhiều bị hao hụt hơn thì có ,cũng có thể bị phạt vạ gì đấy hay có việc liên can đến giấy tờ thuế má .1 like
-
Cô-Quả tại mệnh ;là người cô độc nghiêm nghị ,ít giao thiệp với người bên ngoài /nếu Cô -Quả tại điền -Tài thì người khéo giữ của ; nếu tiêu tiền nhiều ăn hoang xài phí thì nhờ có cặp song- hao thêm phá quân thì có lúc xem tiền như rác .1 like
-
Ngày 25/8, nhân dịp Đại tướng Võ Nguyên Giáp bước vào tuổi Một trăm, Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ đã có văn bản gửi Quốc hội Kiến nghị tấn phong Tướng Giáp hàm “Nguyên soái Việt Nam”. Đây là kiến nghị tiếp bước các kiến nghị cùng nội dung của nhiều vị lão thành cách mạng đã lần lượt gửi lên các cấp lãnh đạo cao nhất từ nhiều tháng trước, nhưng là kiến nghị đầu tiên được công bố công khai trên mạng internet. BVN có cuộc phỏng vấn ông Cù Huy Hà Vũ về Kiến nghị này. BVN: Thưa Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, ông có thể cho biết do đâu ông có ý tưởng làm Kiến nghị tấn phong Đại tướng Võ Nguyên Giáp hàm “Nguyên soái Việt Nam” mà ông vừa gửi Quốc hội và BVN cũng đã công bố ngay sau khi ông gửi? TS Cù Huy Hà Vũ: Ngay từ thuở nhỏ, bên cạnh những bài học lịch sử ở nhà trường và các sách truyện về lịch sử Việt Nam, đối với tôi, cha tôi, nhà thơ Huy Cận là “đường dẫn – link” tới Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Thực vậy, Huy Cận và Võ Nguyên Giáp cùng là Bộ trưởng trong Chính phủ khai quốc do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch ra mắt quốc dân đồng bào tại Lễ Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nền Dân chủ cộng hòa tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2/9/1945. Khi đó Võ Nguyên Giáp 34 tuổi còn cha tôi 26. Nói cho đúng thì Huy Cận cha tôi và Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là đồng chí trong công tác của Chính phủ mà còn là bạn bè văn hóa. Phải nói, ngoài một thiên tài quân sự, Võ Nguyên Giáp còn là một trí thức lớn, có một tình yêu lớn đối với văn học – nghệ thuật. Việc Đại tướng kết hôn với bà Đặng Bích Hà, trưởng nữ của nhà văn hóa Đặng Thai Mai, biết chơi đàn piano, thưởng thức hội họa… hẳn là minh chứng. Thỉnh thoảng làm được bài thơ tâm đắc, cha tôi chia sẻ với Đại tướng thậm chí qua điện thoại. Nhà thơ Huy Cận dành cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp một sự kính trọng đặc biệt, không dưới một lần cha tôi nói với tôi và người thân trong gia đình: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất xứng đáng được phong Nguyên soái, rất xứng đáng làm Chủ tịch nước”. Mẹ tôi, Bác sĩ Ngô Thị Xuân Như, em ruột nhà thơ Xuân Diệu, luôn giữ kỷ niệm đẹp đẽ về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, kể lại rằng chính Đại tướng đã nhường nhà của Đại tướng ở Chiến khu Việt Bắc cho Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ Cù Huy Cận và bà khi hai người mới thành hôn… Rồi hai chú ruột tôi, Cù Huy Thước, nguyên Chính trị viên Đại đội cao xạ pháo trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Tiến sĩ Cù Huy Chử, cựu chiến binh và nguyên Thư ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, luôn xúc động khi nhắc tới Anh Văn – Anh Cả của Quân đội. Thế rồi sau này trong những lần diện kiến Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Đại tướng Chu Huy Mân, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Thượng tướng Trần Văn Quang, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, bậc thầy tình báo Trần Quốc Hương… và nhiều vị lão thành cách mạng, chính khách, tướng lĩnh cũng như bất kỳ đâu ở Việt Nam, tôi đều được nghe những đánh giá tốt đẹp về Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôi đã từng đến Pháp và một số nước khác, nói đến Việt Nam là người dân ở đó nói “Hồ Chí Minh – Tướng Giáp”! Thấm nhuần tình cảm và sự kính trọng mà cha tôi, các chú tôi cũng như nhân dân, nhiều chính khách và tướng lĩnh dành cho Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, của người nước ngoài dành cho “Tướng Giáp”, năm 2004, trong bài viết có tựa đề “Mong Nước Nam ta có Nguyên Soái” đăng trên tạp chí Thế giới mới cơ quan của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tôi đã đề xuất tấn phong Đại tướng Võ Nguyên Giáp hàm Nguyên soái nhân kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Sau đó tờ báo Nhà báo và công luận, cơ quan của Hội nhà báo Việt Nam đã đăng lại bài báo này và có lẽ đây là lần đầu tiên một đề xuất có nội dung vinh danh Đại tướng như vậy được báo chí đăng tải, gây được sự chú ý trong xã hội. Nhân dịp này tôi cũng tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp một bức chân dung Đại tướng do tôi trực họa, bên dưới tôi ghi “Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thống soái của Quân đội nhân dân Việt Nam”. Tôi dùng “Thống soái” là vì thuật ngữ này vừa thể hiện được chức “Tổng tư lệnh”của Đại tướng vừa thể hiện được hàm “Nguyên soái” mà Đại tướng rất xứng đáng được tấn phong. Trước khi cha tôi qua đời cách đây 5 năm, ngày 19 tháng 2 năm 2005, người duy nhất mà ông nhắc tới ngoài Xuân Diệu và những người thân trong gia đình chính là Võ Nguyên Giáp! Rồi năm ngoái, 2009, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở tuổi 99 một lần nữa lại phất cờ “Quyết chiến quyết thắng” kiên quyết chống lại các dự án khai thác bauxite do Trung Quốc tiến hành tại Tây Nguyên gây ra hiểm họa Mất Nước, khai mào cho cả một phong trào rầm rộ ký Kiến nghị chống khai thác bauxite do Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Nhà văn – Nhà giáo Phạm Toàn, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng khởi xướng, và từ đó đã thúc đẩy Cù Huy Hà Vũ đâm đơn kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra tòa! Tóm lại, chính sự kính trọng xen lẫn yêu thương Đại tướng Võ Nguyên Giáp của cha tôi, của mẹ tôi, của các chú tôi đã hình thành trong tôi ý tưởng làm Kiến nghị tấn phong Đại tướng hàm “Nguyên soái Việt Nam” để gửi cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao và ý tưởng này ngày càng thăng hoa trước dạt dào tình cảm mà các vị lão thành cách mạng, các cựu chiến binh, các chính khách, quảng đại nhân dân và lực lượng vũ trang Việt Nam dành cho Đại tướng. BVN: Ông có thể giải thích vì sao không phải là “Nguyên soái” mà là “Nguyên soái Việt Nam”? TS Cù Huy Hà Vũ: Đương nhiên không phải để phân biệt “Nguyên soái” của Việt Nam với “Nguyên soái” hoặc hàm tương đương của các nước khác mà là dành cho hàm này một vị trí đặc biệt so với các quân hàm khác của quân đội Việt Nam. Võ công của Việt Nam trong lịch sử từng vang dội trên thế giới, nói đến Việt Nam trước hết người ta nói về những võ công lừng lẫy ấy. Do đó, “Nguyên soái Việt Nam” sẽ không đơn thuần là một cấp quân hàm mà người được phong đảm nhận một chức vụ nhất định trong quân đội mà trước hết và chính yếu biểu trưng cho võ công và nghệ thuật quân sự Việt Nam. BVN: Nếu Quốc hội nói rằng hiện nay trong Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam không có hàm Nguyên soái nên không thể tấn phong Đại tướng Võ Nguyên Giáp hàm này thì ông nghĩ sao? TS Cù Huy Hà Vũ: Thì trong Kiến nghị tôi đã đề cập rồi, không có hàm Nguyên soái thì Quốc hội quy định hàm này để bổ sung vào Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam. Tóm lại, Quốc hội muốn là được! Thậm chí không cần phải đợi đến kỳ họp tới dự kiến vào tháng 11 Quốc hội vẫn có thể quy định hàm “Nguyên soái” để bổ sung vào Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp tuổi đã cao, sức đã yếu. BVN: Bằng cách nào vậy, thưa Tiến sĩ? TS Cù Huy Hà Vũ: Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội giữa hai kỳ họp có trách nhiệm dự thảo quy định về hàm “Nguyên soái” để bổ sung vào Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, sau đó sẽ triệu tập Quốc hội họp bất thường để thảo luận và biểu quyết về quy định này. Tuy nhiên để tiết kiệm tiền bạc của nhân dân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thể gửi dự thảo quy định về hàm “Nguyên soái Việt Nam” đến từng Đại biểu Quốc hội bằng đường công văn và yêu cầu Đại biểu Quốc hội biểu quyết bằng văn bản rồi gửi lại Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng bằng đường công văn. Như vậy, việc lấy biểu quyết của Quốc hội về quy định về hàm “Nguyên soái Việt Nam” để bổ sung vào Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam có thể thực hiện trong vòng một tuần. Ở các Nhà nước pháp quyền trên thế giới thì Quốc hội họp cả năm nên hiệu quả của Quốc Hội rất cao. Trong khi chờ đợi xóa bỏ quy chế họp “Xuân – thu nhị kỳ” của Quốc hội chúng ta gắn liền với chế độ kiêm nhiệm như hiện nay thì có thể áp dụng hình thức lấy biểu quyết của Đại biểu Quốc hội bằng văn bản trong những trường hợp khẩn trương, đặc biệt. BVN: BVN nhận được khá nhiều ý kiến hưởng ứng Kiến nghị của ông và cả những câu hỏi xoay quanh Kiến nghị. Cụ thể, Tiến sĩ Vũ Trọng Khải nhờ BVN chuyển đến ông câu hỏi: “Hiện nay ở Việt Nam ai là người đủ tư cách và trí tuệ ký Quyết định phong và trao hàm Nguyên soái cho Tướng Giáp (tất nhiên người đó phải hơn Tướng Giáp, thậm chí phải hơn cả Cụ Hồ vì Cụ Hồ mới chỉ phong hàm Đại tướng đầu tiên cho ông Võ Nguyên Giáp)?”. Ông nghĩ sao trước câu hỏi này? TS Cù Huy Hà Vũ: Việc tấn phong hàm “Nguyên soái Việt Nam” nói riêng và việc bầu, bổ nhiệm các chức danh của các cơ quan Nhà nước nói chung là công việc của quốc gia, của Nhà nước chứ không phải công việc của riêng cá nhân nào. Điều đó có nghĩa người có chức vụ Nhà nước ký văn bản là nhân danh Nhà nước chứ không phải nhân danh cá nhân. Tất nhiên, người có chức vụ Nhà nước nào không đủ tư cách và trí tuệ để đảm đương chức vụ họ đang giữ thì cần bị loại bỏ theo quy trình do pháp luật quy định. Đúng là Hồ Chí Minh đã có công lớn đối với Dân tộc khi phát hiện Võ Nguyên Giáp cho cuộc chiến tranh ái quốc của người Việt Nam thời hiện đại nhưng Hồ Chí Minh cũng chỉ là một con người, dù vĩ đại đến đâu cũng không thể sống mãi, dù vĩ đại đến đâu cũng phải dưới Quốc hội – đại diện ý chí của toàn dân. Cho đến nay, Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam quy định Chủ tịch nước có thẩm quyền phong Đại tướng, Thượng tướng, Đô đốc. Nhưng những cấp quân hàm này là để người được phong nắm chức vụ nhất định trong quân đội chứ không phải là biểu tượng quốc gia về mặt quân sự như hàm “Nguyên soái Việt Nam” mà tôi đã đề cập ở trên. Vì thế, để tương xứng với biểu tượng quốc gia của hàm “Nguyên soái Việt Nam”, việc tấn phong hàm này phải do Quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất quyết định bằng một Nghị quyết trong đó Quốc hội giao cho Chủ tịch nước ký Lệnh tấn phong hàm “Nguyên soái Việt Nam”. Mặt khác, việc Quốc hội quyết định tấn phong hàm “Nguyên soái Việt Nam” sẽ tránh được sự lạm quyền của cá nhân mà ở đây là Chủ tịch nước. Tóm lại, không như ký quyết định phong Đại tướng, Thượng tướng và Đô đốc, Chủ tịch nước ký Lệnh tấn phong Đại tướng Võ Nguyên Giáp hàm “Nguyên soái Việt Nam” là để thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, tức thể theo ý chí của toàn dân về vấn đề này. BVN: Ý kiến đó của ông cũng có cái hay là việc tấn phong cho Đại tướng hàm “Nguyên soái Việt Nam” sẽ không phải là một tiền lệ để Nhà nước chúng ta sau này, biết đâu đấy, lạm dụng và “đôn” những người không xứng đáng lên danh hiệu ấy, chẳng hạn hàm Đại tướng phong cho một số người trước đây trong hơn 30 năm từ sau hòa bình hình như đã có không ít sự xì xào mà ý kiến Sáu Nghệ vừa đăng trên BVN là một cách bày tỏ, còn Trung tướng, Thiếu tướng thì quả thật lâu nay tấn lên quá nhiều quá nhanh, tính ra không xuể, cũng khiến có một luồng dư lận hài hước rằng “nhiều nhanh tốt… rẻ”, trong khi Chính phủ Việt Nam rõ ràng đang phải chịu lép trước việc đòi chủ quyền biển Đông. Vì thế cũng có ý kiến cho rằng chỉ tấn phong hàm “Nguyên soái” cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà thôi chứ sau này sẽ không phong thêm cho ai khác. Ông nghĩ thế nào về quan điểm này? TS Cù Huy Hà Vũ: Mặc dù tôi rất hiểu và trân trọng tình cảm của người có ý kiến này dành cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhưng nhìn tới một tầm xa hàng thế kỷ nữa về lịch sử Việt Nam thì có vẻ đó là cách đặt vấn đề ít nhiều thiển cận! Thực vậy, một trong những lý do để tôi đưa ra Kiến nghị là cốt chứng minh cho thiên hạ thấy ở Việt Nam đời nào cũng có hào kiệt, thời nào cũng có thiên tài quân sự mà thời hiện đại có Võ Nguyên Giáp để kế tục xứng đáng các nguyên súy Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ – Quang Trung… Cũng như thế, Thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp chắc chắn rồi sẽ có người Việt mình tiếp nối bởi có như vậy thì Tổ quốc Việt Nam mới trường tồn, đồng nghĩa hàm “Nguyên soái Việt Nam” khởi đầu được trao cho Võ Nguyên Giáp cũng sẽ được trao cho những ai kế tục ông một cách xứng đáng – tất nhiên là phải xứng đáng – trong những hoàn cảnh đặc biệt sau này, khi tình thế cũng như các mối quan hệ cụ thể giữa Việt Nam với thế giới đòi hỏi phải giải quyết vấn đề bảo vệ chủ quyền và an ninh của đất nước theo cách khác với hiện nay. BVN: Một câu hỏi cuối, thưa Tiến sĩ: việc nước ngoài tấn phong Đại tướng Võ Nguyên Giáp hàm “Nguyên soái danh dự” liệu có khả thi vì trên thế giới chưa có tiền lệ phong quân hàm danh dự cho người nước ngoài? TS Cù Huy Hà Vũ: Cứ đi đường sẽ được mở, cứ làm sẽ có tiền lệ! Vả lại, trao huân chương là vinh dự quốc gia cho người nước ngoài là chuyện quá đỗi bình thường thì hà cớ chi hàm “Nguyên soái” cũng là vinh dự quốc gia lại không thể được trao cho người nước ngoài, tất nhiên để ghi nhận công lao của người ấy đối với sự hình thành hay phát triển quân đội của nước mình hoặc trong việc làm giàu kiến thức quân sự thế giới chứ tuyệt nhiên không phải để người ấy đảm nhận một chức vụ nào đó trong quân đội nước mình! Nhưng để phân biệt với “Nguyên soái thực quyền” thì cách tốt nhất là thêm “danh dự” vào sau “Nguyên soái”, như “Chủ tịch danh dự”, “Viện sĩ danh dự”, “Tiến sĩ danh dự”, “Công dân danh dự”… BVN: Cuối cùng, thông qua trang mạng BVN, Tiến sĩ có lời nhắn nào tới Quốc hội sau khi đã gửi Kiến nghị? TS Cù Huy Hà Vũ: Trong Kiến nghị tôi đã khẳng định: “Việc Quốc hội tấn phong Đại tướng Võ Nguyên Giáp hàm “Nguyên soái Việt Nam” không chỉ đáp ứng xứng đáng tình cảm thiêng liêng ấy của mọi người Việt Nam dành cho Đại tướng mà hơn thế nữa, vinh danh một Thiên tài quân sự của Việt Nam và thế giới đồng thời qua đây, vinh danh cả Lịch sử hàng ngàn năm chống ngoại xâm của người Việt cùng Nghệ thuật quân sự của người Việt đúc kết từ đây”. Như vậy, tấn phong Đại tướng Võ Nguyên Giáp hàm “Nguyên soái Việt Nam” là yêu cầu của Lịch sử! Với tư cách là hậu duệ của Binh bộ Thượng thư Cù Ngọc Xán thời Lê, tôi còn mong được thấy hình bóng của tổ tiên oai linh trong Nguyên soái Việt Nam Võ Nguyên Giáp! BVN: Xin cảm ơn Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ đã dành cho BVN cuộc phỏng vấn này. Hy vọng rằng Quốc hội sẽ đáp ứng tích cực tiếng nói thấu tình đạt lý của ông về việc tấn phong Đại tướng Võ Nguyên Giáp hàm “Nguyên soái Việt Nam”. (Theo http://boxitvn.wordpress.com/2010/08/28/t%...-c%E1%BB%A7a-l/)1 like
-
Như vậy, tấn phong Đại tướng Võ Nguyên Giáp hàm “Nguyên soái Việt Nam” là yêu cầu của Lịch sử! Với tư cách là hậu duệ của Binh bộ Thượng thư Cù Ngọc Xán thời Lê, tôi còn mong được thấy hình bóng của tổ tiên oai linh trong Nguyên soái Việt Nam Võ Nguyên Giáp! Thưa anh Cù Hu y Hà Vũ Đại tướng là người như thế nào thì mọi người cũng biết rồi, nhưng cũng đừng thần thánh hóa quá cá nhân. Đại tướng có những mong ước bình dị cho quê hương, cho con người Việt nam Nếu làm được điều đó là Đại tướng đã mãn nguyện rồi1 like
-
Sao lại đón dâu 2 lần với tuổi Đinh Mão?1 like
-
Sách nào thì tôi không biết như theo sách tôi đọc thì đấy là tín hiệu của 1 sự thành công về tài danh sắp tới .1 like
-
Quán vắng!
+Achau+ liked a post in a topic by Liêm Trinh
Nếu có môt phép mầu chỉ trong một đêm toàn bộ các nhà máy của Việt Nam được hiện đại hóa như các nhà máy của Mỹ thì nền kinh tế Việt Nam sẽ bị phá sản ngay sau đó môt tháng, đơn giản vì trình độ người lao động, ý thức người lao động chưa thể sài được cái công cụ lao động cao cấp ấy. Nếu không có các công ty kiểu cha chung không ai khóc ấy mà 100% là các công ty tư nhân thì với công cụ lao động nhập khẩu lạc hậu, năng suất thấp, lãi của nhà kinh doanh bắt buộc phải tích lũy ở sức lao động của công nhân đó là một điều tồi tệ không thể chấp nhận được ở ngay các nước tư bản có nền khoa học và pháp luật phát triển.Các công ty cha chung không ai khóc ấy cái dở của họ là hay coi thường lợi nhuận để không có tích lũy cho những lúc trái gió trở trời của nền kinh tế, nhưng cái dở ấy lại nảy cái hay thành quả thu được chia hết cho công nhân nên người công nhân vẫn sống được chẳng phàn nàn gì và đó cũng chính lại là khát vọng đầy trăn trở của các nhà quản lý cấp quốc gia của các nước tư bản mà không giải quyết được. Khi các nhà kinh doanh phán xét bất cứ vấn đề gì xin các vị hãy đặt mình vào môi trường Việt Nam, tố chất,khả năng hiện tại của con người Việt Nam. Một công ty gì đó như bài viết trên là điều buồn của nền kinh tế nhưng các nhà kinh doanh trong nước Việt Nam hãy nhớ lợi nhuận của các vi hiện tại được tạo nên do chính trình độ lao động của những người công nhân đã được các công ty cha chung không ai khóc ấy đào tạo nên và chạy sang phục vụ các vị và sin các vị hãy đặt mình vào địa vị của nhiều đối tượng mà suy nghĩ chứ đừng nghĩ chỉ cho riêng mình.1 like -
Không biết là Ledien đã sửa phong thủy được bao lâu rồi. Gia đình mình sửa phong thủy theo thầy Thiên Sứ, 6 tháng đầu biến chuyển tệ đi, nhưng sau 6 tháng đó thì mọi việc bắt đầu tốt lên và hiện tại thì đã rất tốt. Theo mình bạn nên kiên trì. Hiệu quả của phong thủy theo mình thường không thể thấy ngay lập tức được.1 like
-
Cung quan tại Thìn- Tuất có Tham Lang +hóa kỵ không làm quan thì đi buôn cũng rất tốt , năm tới cháu có thể thay đổi nghề nghiệp hay việc làm chổ ở v.v. ,năm Thìn sẽ có sự thay đổi lớn trong công việc hay nghề nghiệp ,cũng có thể là BƯỚC NGOẶC của cuộc đời ,nếu cháu muốn ra kinh doanh hay đi buôn thì cũng sẽ toại nguyện ,có điều đừng cao vọng háo thắng quá vì số của cháu lập nghiệp hay khởi sự lúc đầu hay gặp trỡ ngại và khó khăn ,đến lúc đứng tuổi thì tài lộc thu nhập dễ dàng và vô nhiều 1 lúc chứ không rĩ rả từ từ , qua năm tới trở đi thì vận số của cháu bắt đầu tươi sáng rồi mọi chuyện sẽ dần dần hanh thông .1 like
-
hình như cụ ông bệnh chưa đến 1 tháng phải không Huongthien, nếu tính đến hôm này thì tầm khoảng 25-26 ngày thôi.1 like
-
Hải ơi cho vothuong hỏi một ít được không? Hải viết: Chào Bạn, Bố bạn phi cung Khôn- tây trạch cho nên nhà này là tuỵêt mạng trạch. Tôi vừa xem qua và NẾU hướng chính Nam 180 độ thì tự hỏi vì sao thày Huyền KHông bạn mời về trước đó lại đặt cửa nhà vào ĐẠI KHÔNG VONG. theo vothuong thì nhà này nếu 180 độ đâu rớt ĐKV đâu, nếu đúng 180 thì bị không vong do cứng hướng, nhưng thực tế chắc chắn rằng nhà nhà này không rớt không vong, còn nếu H tính cửa bị kv thì theo vothuong cũng không đến nổi nào đâu, vì cánh cửa đó chắc chắn sẽ đóng ít khi sử dụng, cửa 4 cánh chỉ phạm 1 ít bên mép mà thôi, H đã xem bảng phân cung chưa?. nếu như chủ topic nói rằng đã mời thầy HK về làm thì chắc chắn nhà này 178 độ không sai được. CỔng thì laị bị THướng Sơn chủ về hại gia đinh. vì sao H nói nhà này bị thướng sơn? nhà toạ Tý hướng Ngọ vận 8, theo LV thì 4-8-1 nhập trung, như vậy đầu hướng là 1-6-8 còn nếu tính theo tàu thì được cách cuc Đả Kiếp, thì sao bị thướng sơn H giải thích giúp vothuong với. Bể phốt thì đào phạm phải cung Càn, là người Cha nên cha bạn sức khỏe kém là điều dễ hiểu. nếu bể phốt nơi đây thì không hay rồi - Bếp sai hoàn toàn. bếp này toạ sinh khí hướng Lục Sát, là toạ Sửu hướng Ly, nếu thực tế đúng như vậy thì nhà này khó nuôi thú vật, người trong nhà hay nóng tính, vào các thời điểm Hợi Mão Mùi hao tài, Thân Tí Thìn gặp nạn. - Nhà xây ba tầng cũng phạm nốt. Nhà này cần xây 5 tầng. vì sao thế Hải? theo vothuong nhà này đẹp chứ không phải xấu, chẳng qua do vị thầy trước quá nặng về HK nên bố trí một vài chổ chưa thuận, nhà này sau khi xây hình như có tài lộc có vụt lên một lúc, sau đó trì kéo chậm dần lại, trong nhà mọi người đều thông minh và học giỏi, làm việc thiên về trí tuệ, hiện nay cụ ông đang bị bệnh về thân nhiệt dẫn đến các bệnh chứng biểu hiện bên ngoài theo mô tả, cần cẩn thận các chứng cao huyết áp, máu, tim. mẹ và em trai thường hay bị thị phi gây ra nhiều ức chế tâm lý, còn riêng bạn huongthien thì đang được nhiều lợi lộc nhất. Anh KhacQuang mến, anh viết: Năm xây cất là 2008 Tuổỉ ba em đã bị phạm kim lâu THÂN đã bị kim lâu lại còn bị xung phương toạ vì tính chất khí khi xây cất nên trạch năm nay ảnh hưởng đến mẹ. vothuong xin hỏi anh, cụ ông sinh năm 1950 như vậy năm nay 2010 cụ ông 61 tuổi, trừ ngược về năm 2008 thì còn 59 tuổi, vậy vothuong đâu thấy phạm phải kim lâu hay hoang ốc gì đâu??? vì hiện nay có nhiều phương pháp tính, mong rằng vothuong được học thêm một pp mới mà mình chưa biết, cám ơn anh. anh nói cụ ông bị xung phương toạ, nhà toạ Tý hướng Ngọ cụ ông Tuổi Canh Dần vậy thì xung thế nào anh? vài dòng mong học hỏi vothuong1 like
-
Tổng lãnh sự Mỹ gốc Việt ra mắt tại TP.HCM 28/08/2010 1:01 Hôm qua, Tổng lãnh sự quán Mỹ tại TP.HCM đã tổ chức buổi ra mắt tổng lãnh sự mới là ông Lê Thành Ân tại văn phòng Diamond Plaza. Ảnh: TLSQ Mỹ Ông Lê Thành Ân, 56 tuổi, rời Việt Nam cách nay 45 năm, là quan chức gốc Việt đầu tiên giữ chức Tổng lãnh sự Mỹ tại TP.HCM và nhiệm kỳ của ông sẽ bắt đầu vào cuối tháng này. Ông cũng là người Mỹ gốc Việt giữ vị trí cao nhất trong ngành ngoại giao Mỹ hiện nay. Trước khi đến Việt Nam, ông Ân từng làm việc tại Singapore, Hàn Quốc và gần đây nhất là tại Pháp. Phát biểu với cử tọa bằng tiếng Anh và tiếng Việt, ông Ân nhấn mạnh: “Chúng ta đều hy vọng một tương lai tươi sáng cho mối quan hệ Việt - Mỹ và tôi sẽ đóng góp sức mình để xây dựng mối quan hệ ngày càng tốt đẹp”. Thụy Miên1 like
-
Vào dịp cuối năm, khi thời tiết mùa đông khắc nghiệt nhất, người Pà Thẻn thường làm lễ nhảy lửa. Để chuẩn bị cho buổi lễ, ông thầy mo phải làm lễ cúng thần linh trước khoảng 4 tiếng. Vừa đọc thần chú, ông thầy mo vừa dùng hai vật màu đen như hai thanh sắt gõ vào nhau phát ra âm thanh rất gấp gáp. Đến khi trời tối, đống củi lớn xếp giữa bãi đất được đốt cháy tạo thành đống than đỏ rực. Những người đàn ông Pà Thẻn dự hội tụ tập quanh thầy mo, đọc thần chú rồi như nhập đồng, tự nhiên có sức mạnh phi thường, liền nhảy cả hai chân vào đống than đỏ rực nóng mấy trăm độ. Một số thanh niên đứng quanh đó cũng đột nhiên không biết gì, cứ chạy vòng quanh đống than. Chạy được vài vòng thì họ vốc cả than đỏ cho vào miệng rồi nhai như nhai miếng khoai miếng sắn. Sau khi đã chén no than hồng thì mới lao vào nhảy và những người này nhảy trên lửa suốt đêm không biết mệt, không biết nóng và cũng không bị bỏng. Nhiều người Pà Thẻn sau khi nhảy chán thì cởi áo rồi nằm luôn lên đống than hồng. Trong lễ hội đó còn có một chuyện rất kỳ bí xảy ra. 6 thanh niên khỏe mạnh lực lưỡng được chọn để vác trên vai một ống luồng to bằng bắp đùi. Sau khi thầy mo cúng bái, kêu gọi thần linh nhập vào ống luồng suốt mấy giờ đồng hồ, ống luồng đột nhiên bay lên trời. Cả 6 thanh niên đều ráng sức kéo xuống, thậm chí bám hai tay vào ống luồng đu cả người lên, song ống luồng cứ lao đi như tên bắn, thậm chí nhấc bổng cả vài thanh niên lên cao 20 đến 30cm. Các nhà khoa học đều đã dày tâm nghiên cứu và không phát hiện ra hiện tượng lừa bịp nào trong lễ hội nhảy lửa và đọc thần chú cho ống luồng bay của người Pà Thẻn. Theo người Pà Thẻn, sau khi được thầy mo niệm chú, họ tự dưng không điều khiển được mình nữa và xuất hiện cảm giác như có một sức mạnh siêu nhiên từ ngoài nhập vào khiến họ không có cảm giác nóng khi nhảy vào lửa. Còn ống luồng bay, những người tham gia giải thích rằng, sau khi thầy mo niệm chú, đôi tay như dính liền với ống luồng rồi bị ống luồng điều khiển, nó kéo mọi người đi, rồi nhấc bổng cả cơ thể người tham gia lên. Đây là một hiện tượng vô cùng kỳ bí mà các nhà khoa học vẫn chưa giải thích nổi. Người Pà Thẻn thì tin rằng thần linh đã nhập vào họ, tiếp cho họ sức mạnh vô biên.1 like
-
Ếm Và Giải ếm
bachvan liked a post in a topic by Bách Lâm
Thần chú chuẩn đề là một pháp cao , tăng ích, kính ái, hàng phục . Người dùng cần phải có tâm từ bi, bồ đề tâm kiên cố . Tốt nhất nên có minh sư chỉ dạy .1 like -
Chào bạn! Theo tôi hiểu thì có lẽ không phải vậy bạn à. Tìm hiểu ngược lại dòng lịch sử thì có lẽ khác. Đức Phật khi sinh thời dám từ bỏ Ngai Vàng để tìm đạo giúp tất cả chúng sinh muôn loài thoát khổ. Chỉ cần điều này thôi cũng đủ minh chứng cho việc cái gì cũng phải làm lễ quán đảnh là sai. Mật tông đã được hình thành và phát triển cách đây 13 thế kỷ, vậy với những điều kiện ràng buộc như vậy thì MT sao trở thành 1 tông phái đang thịnh hành như ngày nay và làm sao chúng sinh muôn loài thoát khổ như tâm niệm của Đức Phật.? Và thử hỏi Ai là người đầu tiên điểm đạo và quán đảnh cho người khai sáng ra MT? Càng kín cổng cao tường thì càng có nhiều người ngó vào xem! Huyền bí huyền bí Vài lời ngộ nhận không cho là đúng!1 like
-
Gia đình này mới thật sự là gia đình hạnh phúc. Quý hiếm thay.1 like
-
Cõng mẹ lên núi tập tu để chữa bệnh Trong những hang lớn trên núi Đá Bia (Phú Yên), có một gia đình 13 người, nhỏ nhất mới 10 tuổi, trú ngụ. Họ phát nguyện tụng kinh niệm Phật tu trì, tập leo núi, ăn rau rừng để chữa bệnh cho mẹ. Núi Đá Bia có tên chữ là Thạch Bi Sơn, nằm trong dãy Đại Lãnh ở huyện Đông Hòa, Phú Yên, cao 706 mét so với mặt nước biển. Núi nằm doi ra sát mặt biển tạo thành những mỏm đá mà từ biển nhìn vào giống những hình thù kỳ dị như đầu sư tử, đầu rồng. Trên chóp đỉnh núi có một tảng đá khổng lồ đứng vươn thẳng lên trời cao, quanh năm mây trắng che phủ. Đứng dưới chân tảng đá, phải ngửa mặt mới trông thấy tầng chót vót đỉnh cao. Ấy thế mà trên đỉnh cao chót vót này lại có một gia đình đến tập tu từ hơn 4 tháng qua. Đại gia đình này chỉ có hai anh em xuất gia mang pháp danh Minh Đăng, Bảo Đăng, còn lại (bao gồm cha mẹ, anh chị, cháu...) đều tu hành tại nhà theo phái Nam tông Minh sư đạo. * Cuộc sống thanh tịnh trên đỉnh núi caoĐưa VnExpress.net vượt đỉnh non quanh năm mây phủ, rồi men theo sườn núi phía Bắc về nơi nghỉ của cả nhà, chú Bảo Đăng xoa tay sảng khoái: "Cả nhà từ huyện Đông Hòa lên núi tu trì là mong chữa chứng bệnh nan y của mẹ". Câu chuyện của người tu hành cứ thế mở ra trong không khí trong lành mát lạnh của đỉnh núi. Bữa cơm trong hang đá với rau rừng, muối é. Ảnh: Thiên LýHồi tháng 3 âm lịch năm nay, thấy mẹ già bị nhiều chứng bệnh như cao huyết áp, hen suyễn, đau cột sống..., cả nhà nghĩ rằng chắc không khí trong lành trên núi sẽ giúp bà khỏe mạnh hơn nên quyết định chia nhau cõng bà lên núi Đá Bia. Chú Bảo Đăng kể: Ngày lên núi tu trì rất khó khăn, vì lúc đó mẹ bị bệnh đi không nổi phải dìu, cõng, còn Bảo Đăng và Minh Đăng thì phát nguyện cứ đi ba bước là lạy một lạy (tam bộ nhất bái), cứ thế mà lên tới đỉnh núi. Ban đầu, cả nhà tá túc tạm trong những hang đá nhỏ ẩn ở đỉnh núi, dần dà mới tìm được hang đá tương đối rộng để lưu trú, sắp xếp chỗ ăn nghỉ, nấu nướng. Đường núi đến nơi ăn nghỉ của cả gia đình Bảo Đăng quanh co, thỉnh thoảng bị chắn ngang những tảng đá to đùng, có lúc vướng phải những vòng dây xanh lòng thòng của rừng nguyên sinh. Cuối cùng cũng đến. Đó là một hang đá khá rộng. Bên ngoài, chỗ rộng nhất dành để sinh hoạt, ăn uống, ngủ nghỉ, lót sàn bằng cây rừng. Phía trong có một hang đá khác, nhỏ hơn, làm nơi thờ Phật, để kinh sách và tụng niệm. Có một góc nhỏ giữa những khối đá lớn khuất gió được dùng làm bếp. Công việc hàng ngày của họ là tụng kinh, niệm Phật và tập thể dục bằng những dụng cụ đơn giản như gậy, “chổi xoa bóp” và leo núi. Lương thực, thực phẩm chủ yếu là rau rừng hoặc họ mang hạt giống ở nhà lên gieo nhưng tuyệt đối không phá rừng, uống nước suối. Thỉnh thoảng họ mới xuống núi để mua gạo và những thức cần thiết. Người mẹ già hơn 70 tuổi của Bảo Đăng cười hóm hỉnh nói, có lẽ nhờ khí trời và chế độ ăn thanh đạm, tập thể dục thường xuyên trên đỉnh núi mà bà đã khỏe ra như người bình thường. "Cứ mỗi sáng cả nhà thức dậy sớm khi mặt trời còn chưa mọc, ra đỉnh núi tập thể dục với gậy, hít thở không khí rồi vào tụng kinh niệm Phật", bà cụ cho biết. Bà bảo rằng, bây giờ bà đã có thể đi lại bình thường, không ngất xỉu như trước nữa, thậm chí còn có thể lên xuống đỉnh núi để lấy nước suối về dùng. Cả nhà hôm ấy mời cơm trưa khách bằng một bữa cơm trắng với muối é và rau rừng đạm bạc, nhưng ai ăn cũng tấm tắc khen ngon. Bữa cơm thanh đạm được dọn ra giữa lòng hang đá, mỗi người ngồi xếp bằng thế hoa sen theo hàng dài đối diện nhau, ấm cúng không khí gia đình. Thiên Lý1 like
-
Từ tượng vua Lý ở Hà Nội đến tượng Bồ tát Quảng Đức ở Tp Hồ Chí Minh. Tượng cao trong một không gian thoáng rộng, dáng hùng vĩ và nét mặt quắc thước nhưng vẫn đậm nét đôn hậu vương giã. Tuy không có dữ kiện lịch sử để xác định khuôn mặt của nhà vua ra sao nhưng, theo tường tượng chủ quan của tôi, điêu khắc gia đã lột tả được hình ảnh hùng tráng mà nhân hậu của vị vua sáng lập ra triều Lý. Nhất là vị vua đó đã có viễn kiến nhân văn để thiên đô từ Hoa Lư về Thăng Long cách đây sắp được 1000 năm. Tượng LÝ THÁI TỔ-HÀ NỘI Chỉ đáng tiếc, và buồn, một điều: Ngoài phần khắc tên “Lý Thái Tổ” và năm sanh và năm mất “974 – 1028” dưới chân tượng, trong toàn bộ quần thể kiến trúc to lớn và trang trọng đó của tượng đài, không có một bảng chỉ dẫn nào ghi chú xem “ông” Lý Thái Tổ nầy là ai ? Có công gì với tổ quốc mà được tạc tượng ghi ơn tại địa điểm thanh lịch nhất của thủ đô Hà Nội nầy. Lẽ dĩ nhiên ai cũng còn đọng lại trong trí nhớ của lớp Sử thời trung học vài nét chấm phá mơ hồ về vị vua xuất thân từ cửa nhà chùa nầy. Nhưng thi xong là … hết, trừ ra sau đó chọn ngành Sử làm niềm đam mê hay lẽ kiếm sống thì lại là chuyện khác. Đối với khách du lịch nước ngoài thì lại cả một vấn đề. Cuốn cẩm nang du lịch Lonely Planet nổi tiếng thì chỉ ghi vài dòng ngắn ngủi mà nội dung không biện giải được lý do tại sao một ông vua “cũng thường thôi” mà lại được dân ta ngưỡng mộ tôn thờ đến thế. Ở nước ngoài, thiên hạ cũng … lung tung ! Tại thủ đô Paris bên Pháp, trước cổng chính vào đại học Sorbonne, dưới chân tượng bán thân của nhà tư tưởng Auguste Comte, ta cũng chỉ thấy khắc tên ông rất đơn giản mà thôi, thậm chí không có cả hai mốc thời gian “1798 – 1857” thường phải có nữa. Ngồi trong quán cà phê La Sorbone đối diện, nhấm nháp ly expresso, nhìn khuôn mặt trầm tư của ông, tôi không ngờ ông là một trong những cha đẻ của một bộ môn mà ngày nay có hàng triệu người theo đuổi: Khoa xã hội học. Trong khi đó thì tại thủ đô Washington DC bên Mỹ, trong quần thể đài tưởng niệm Lincoln Memorial, điêu khắc gia Daniel Chester French đã tạc một bức tượng của vị tổng thống giải phóng dân nô lệ Abraham Lincoln bằng cẩm thạch trắng cao hơn 6 mét, và trên mặt tường làm phông cho bức tượng có khắc một câu ghi nhớ ơn ông: “Trong ngôi đền nầy cũng như trong tâm tưởng của nhân dân mà vì họ ông đã cứu lấy tổ quốc, niềm tưởng nhớ đến Abraham Lincoln thì được tôn thờ muôn đời” (In this temple as in the heart of people for whom he saved the Union, the memory of Abraham Lincoln is enshrined forever). Ngoài ra, chính phủ còn cho khắc trên tường bài diễn văn Gettysburg ngắn và bài diễn văn nhậm chức nổi tiếng của ông (vốn là hai áng văn chính luận rất nhân bản và cao cả nói lên lý tưởng nhân đạo và triết lý trị nước của ông). Ta không theo Tây mà cũng không theo Mỹ, cứ thấy đúng thì ta làm. Cho nên “hà tiện” chi mà không làm một văn bia (với thiết kế truyền thống hay hiện đại gì cũng được) với nội dung cô đọng nhưng đầy đủ, ghi lại những thông tin cốt lõi và đặc sắc nhất của cuộc đời vua Lý, vừa để giúp đồng bào ôn lại Sử nước nhà vừa để khơi dậy niềm tự hào dân tộc. * * * Cách đây đúng 45 năm, vào ngày 11/6/1963 (tức ngày 20/4 nhuận năm Quý Mão), Bồ Tát Quảng Đức đã tự thiêu trong tư thế kiết già ở giữa ngã tư hai đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là ngã tư hai đường Nguyễn Đình Chiểu và Cách Mạng Tháng Tám thuộc Quận 3, Thành phố HCM), trước hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử, đồng bào Sài Gòn và các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước. Bồ Tát Quảng Đức đã an nhiên tự tại nằm xuống để Ngài trở nên đại hùng đại bi đứng dậy. Nhân dân yêu chuộng công lý và tự do khắp nơi trên thế giới rúng động. Sáu tháng sau, một chế độ độc tài giáo trị đã bị nhân dân miền Nam đứng lên dõng dạc khước từ bằng một tiếng “Không” âm vang bát nhã. Mẫu tượng Bồ tát Quảng Đức được chọn Trước sự hy sinh phi thường và dũng cảm của Hòa thượng Thích Quảng Đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức cảm động và đã có câu đối kính viếng Hòa thượng như sau: Vị pháp thiêu thân vạn cổ hùng huy thiên nhật nguyệt. Lưu danh bất tử bách niên chính khí địa sơn hà. (Theo Phạm Hoài Nam. Bồ tát Thích Quảng Đức, ngọn đuốc xả thân vì Đạo pháp và Tổ quốc. Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 30-5-2005). Trong khi đó thì tại Sài Gòn, giữa vòng vây dày đặc của các cơ quan mật vụ của chế độ Diệm, một nhà thơ hiền lành nhưng “uy vũ bất năng khuất”, vốn được xưng tụng là thi bá của nền văn học miền Nam thời bấy giờ là thi sĩ Vũ Hoàng Chương, đã xúc động đến tận tâm can mà xuất thần sáng tác ra bài thơ còn lưu truyền muôn thuở: Lửa từ bi Lửa! Lửa cháy ngất tòa sen! Tám chín phương nhục thể trần tâm hiện thành thơ, quỳ cả xuống. Hai vầng sáng rưng rưng, Đông Tây nhòa lệ ngọc, Chắp tay đón một mặt trời mới mọc. Ánh Đạo Vàng phơi phới đang bừng lên, dâng lên ... Ôi đích thực hôm nay trời có mặt, Giờ là giờ hoàng đạo nguy nga, Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt, Nhìn nhau: tình huynh đệ bao la l Nam mô Đức Phật Di Đà, Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay? Thương chúng sinh trầm luân bể khổ, Người rẽ phăng đêm tối đất dầy, Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây, Gọi hết Lửa vào xương da bỏ ngỏ Phật pháp chẳng rời tay. Sáu ngả luân hồi đâu đó, Mang mang cùng nín thở, Tiếng nấc lên từng nhịp bánh xe quay, Không khí vặn mình theo, khóc oà lên nổi gió, Người siêu thăng ... giông bão lắng từ đây ... Bóng Người vượt chín tầng mây, Nhân gian mát rợi bóng cây bồ đề. Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc, Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi. Chỗ Người ngồi, một thiên thu tuyệt tác, Trong vô hình sáng chói nét từ bi. Rồi đây.. Rồi mai sau... Còn chi? Ngọc đá cũng thành tro, lụa tre dần mục nát, Với thời gian, lê vết máu qua đi ... Còn mãi chứ, còn Trái Tim Bồ Tát, Gội hào quang xuống tận chốn A Tỳ. Ôi ! Ngọn lửa huyền vi ... Thế giới ba nghìn, phút giây ngơ ngác, Từ cõi vô minh Hướng về cực lạc, Vần điệu thi nhân chỉ còn là rơm rác, Và cũng chỉ nguyện được là rơm rác. Thơ cháy lên theo với lời kinh, Tụng cho nhân loại hòa bình, Trước sau bền vững Tình Huynh Đệ này. Thổn thức nghe lòng trái đất, Mong thành quả phúc về cây. Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật! Đồng loại chúng con nắm tay nhau tràn nước mắt, Tình thương hiện tháp chín tầng xây. Vũ Hoàng Chương (Sài Gòn, 15-7-1963) Từ hai đầu đất nước xa xôi, cách nhau gần 10 thế kỷ lồng lộng, hai Phật tử Việt Nam là Lý Công Uẫn và Bồ Tát Quảng Đức, một tăng một tục, đã nắm chặt tay nhau để nói chỉ một lời, làm chỉ một chuyện: Xả thân cho chúng sinh, hy sinh vì dân tộc. Được biết Sở Thông tin Văn hoá Tp HCM và GH PGVN đang trong tiến trình hoàn tất khu tượng đài kỹ niệm Bồ Tát Quảng Đức, tôi mạo muội đề nghị thêm vào quần thể kiến trúc nầy hai “văn bia”: Một là hai câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và một là bài thơ Lữa Từ bi của cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Có lẽ chử đen khắc trên hai tảng cẩm thạch trắng, nằm riêng rẽ tự nhiên nhưng hòa điệu với thiết kế chung là đẹp và ý nghĩa nhất. Việc làm nầy có nhiều ý nghĩa, mà có lẽ ý nghĩa rõ nét nhất là dân ta có nét văn hóa riêng: Uống nước nhớ nguồn. Tháng 6/2008 Nguyễn Kha nguồn giacngo.vn1 like
-
Lê Văn Tám: Lửa Bất Diệt Sau một loạt bài về anh hùng nhỏ tuổi Lê Văn Tám trên tuần báo văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, được bạn đọc xa gần hết lòng ủng hộ, nhiều người như được sống lại với những kỷ niệm không phai mờ về tấm gương vì nước quên thân của người anh hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước. Ông Đỗ Văn Xuyền, sinh năm 1937, một nhà nghiên cứu chữ Việt cổ có rất nhiều thành công của nước ta hiện nay kể lại : - Năm 1945 – 1947, một đoàn bộ đội đến ở nhà tôi tại thôn Duyên Hà, huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình. Năm ấy tôi đã 9 - 10 tuổi rất yêu quí các anh bộ đội và vô cùng ham đọc sách báo. Tôi thường lân la làm quen và mượn sách báo của một anh cán bộ đại đội. Trong số báo mượn được có tờ “Quân Bạch Đằng” – tờ báo của quân khu ba. Tôi còn nhớ tờ báo in trên giấy xấu, mực đen, riêng chữ “Quân Bạch Đằng” in bằng mầu xanh cô ban. Anh cán bộ đại đội chỉ cho tôi một bài thơ in ở trang nhất bảo tôi đọc. Tôi không nhớ tên tác giả, nhưng bài đó tôi còn nhớ như sau : Lửa bất diệt Buổi trưa ấy Sài Gòn rung ý hận Nghiến răng nghe rầm rập tiếng chân thù Anh đứng khoanh tay lòng hồi hộp đợi chờ Giờ cứu nước, giờ đây giờ cứu nước! Anh nhìn xuống áo quần xăng đẫm ướt Mùi xăng dầu ngây ngất chí hiên ngang Ngoài miệt xa phơi phới ánh sao vàng Từng nhịp sống từ Cầu Ông vọng lại Mỗi tiếng súng là mỗi người trẻ tuổi Cũng như anh ngã xuống cũng như anh Lòng lâng lâng dâng nước mảnh hồn xanh Anh rạo rực trong anh sao nóng quá? Anh châm lửa người anh mang cánh lửa Anh băng băng xông tới giữa kho dầu Ánh lửa hồng mỗi lúc một dâng cao Bay loang loáng khắp kho dầu loang mãi Lưỡi lê giặc vụt chìa ra cản lại Anh hiên ngang trong ngọn lửa vinh quang Lũ giặc hèn lùi lại rợn kinh hoàng Mắt xanh lét trừng trừng đầu sẽ lắc Ôi cuồng nộ là mưu đồ xâm lược Mộng thực dân – sợi khói thoảng bay tan Vì lửa ai anh dũng đã thiêu tàn Chúng điên hận nhìn anh run mũi súng Tiếng súng nổ cây người anh đổ xuống Lửa người anh đã gặp lửa hồn anh Phơi phới lên ngọn lửa sáng đô thành Và sán lạn một trời Nam đỏ rực Nơi máu lửa đang ghi hồn dân tộc Tám mươi năm uất hận phút này đây Lửa người anh bén cháy mọi lòng trai Lan cháy mãi trong lòng dân đất Việt Lửa người anh! Lửa người anh bất diệt! ” Tôi hỏi : - Vẫn biết ông là người có trí nhớ tuyệt vời, nhưng sao lúc đó mới 9, 10 tuổi mà ông nhớ bài thơ đến như vậy. Ông Đỗ Văn Xuyền mỉm cười : - Anh phải biết rằng lúc đó phong trào học tập tấm gương anh hùng Lê Văn Tám rộ lên ở khắp mọi nơi. Tôi còn nhớ lúc đó trong một đêm liên hoan văn nghệ quân dân, có một anh bộ đội quê ở huyện Thụy Anh nói dấu ngã thành dấu hỏi. Khi anh ngâm: “Mắt xanh lét trừng trừng đầu sẻ lắc” làm mọi người cười ầm lên. Ban tổ chức phải lên đính chính lại: “Đầu sẽ lắc, chứ không phải đầu chim sẻ lắc”! Tôi tò mò : - Thưa ông, rất mong ông lượng thứ, thời gian quá lâu rồi, bài thơ này ông nhớ có chính xác không? Ông Đỗ Văn Xuyền độ lượng : - Thế hệ chúng tôi ngày ấy vô cùng tin tưởng vào sự thành công của cách mạng. Phong trào học tập tấm gương anh hùng Lê Văn Tám nhanh chóng lan rộng khắp nơi. Chúng tôi chuyền tay học thuộc lòng bài thơ đó và mãi sau này vẫn thường ngâm mỗi khi có dịp, vì vậy tuy thời gian đã lâu, có câu có thể không đúng với nguyên bản, nhưng bài thơ cơ bản như vậy đấy. Trầm ngâm giây lát, ánh mắt ông Đỗ Văn Xuyền chợt sáng lên : - Anh biết không, chỉ mấy năm sau, vào năm 1955 trong bài “Cửu Long Giang ta ơi”, nhà văn Nguyên Hồng viết : “Mười sáu tuổi xanh Em Ðuốc Sống đốt mình phá tan kho giặc Võ thị Sáu vùng răng cắn chặt Giữ trung trinh cho đến phút cuối cùng Ðạn giặc xuyên lỗ chỗ ngực măng non Ðỏ thắm nụ cười Chào Bác Hồ và Việt nam bất diệt.” Mấy năm gần đây tôi có nghe nhiều ý kiến cho rằng anh hùng Lê Văn Tám không có thật. Nói thật lòng, đó là những ý kiến thiếu trung thực, không có căn cứ. Trong lịch sử nước ta đã từng có Thánh Gióng, vốn là nhân vật lịch sử có thật có công trị thủy, sau này được nhân dân ta tôn vinh trong công cuộc đánh giặc Ân. Nhiều nước cũng có những nhân vật lịch sử nhuốm mầu huyền thoại. Nhưng khi đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân và trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc, thì tại sao phải mất nhiều tâm sức và giấy mực tranh luận về nhân vật đó, nhất là anh hùng Lê Văn Tám là nhân vật có thật, sự kiện anh tẩm dầu vào người quyết tử đốt kho xăng của giặc là có thật, bây giờ vẫn có nhiều nhân chứng còn sống và minh mẫn. Xét một góc độ nào đó, những ý kiến phản biện ấy còn là sự thiếu tôn trọng lịch sử, chưa biết trân trọng những hy sinh vô tư, không vụ lợi của những người anh hùng vì nước quên thân. Người viết bài này còn biết chắc chắn rằng, nhà văn Sơn Tùng cũng thuộc một bài thơ về anh hùng Lê Văn Tám và ông chuẩn bị viết về vấn đề đó trong những ngày tới. 02 tháng 3, 2010 Trần Vân Hạc1 like
-
Kẻ Lửa
thanhphuc liked a post in a topic by Lãn Miên
KẺ LỬA Chữ “môn” mà người ta cứ giải thích là từ Hán Việt tức từ Việt gốc Hán thực ra nó 100% là từ Việt (về sau Quan Thoại dùng nó đọc là “mấn” là cái cửa,chính là một từ Hán gốc Việt). Hàng chục vạn năm về trước khi con người còn là người nguyên thủy nhưng hơn động vật là biết nói để giao tiếp thì những từ biết đến đầu tiên là chỉ các bộ phận trên cơ thể con người.Tiếng Việt trên “ mặt” có: “mắt”, “mi”, “mày”, “mũi”, “mồm” là những cái chui ra đầu tiên khi mẹ đẻ ra là thấy ngay vì đỡ ra là nó nằm ngửa. Cái “mồm” ấy ở con người vì biết nói “tiếng” có ý nghĩa để giao tiếp nên mới gọi là cái “miệng”, khác với con vật chỉ có mồm (ngày nay có người vẫn lầm lẫn nên vẫn viết là con vật có miệng, tưởng là dùng từ ấy cho nó sang hơn chứ không tục). Cái mồm ấy khi đem “món” ăn bón cho khi còn chưa mọc răng không nhai được,chỉ nuốt , nên gọi là “măm”, còn khi mở mồm “đưa” thức ăn từ trong ra qua mồm thì gọi là “mửa”, chính từ mửa này là tiền đề cho từ “cửa” có sau , khi con người đã biết làm nhà ở. Còn khi đang còn là người nguyên thủy chưa biết làm nhà ở thì cái cửa ấy người ta đã gọi là “môn”. Bởi vì mọi cái cửa đầu tiên mà con người ý thức được là nó ở trên cơ thể con người. Cái cửa đầu tiên có ở con người khi đang còn bào thai trong bụng mẹ là cái cửa duy nhất thông với cơ thể mẹ để lấy dinh dưỡng gọi là cái “rốn”.Tiếp đến trên cơ thể thấy các cửa là: cái “nõn”( “nõ”-“lõ”-“linga” ,mà hình tượng nhất là cái “nõ” điếu cày); cái “nồn” ( “yôni”-“nường”-“lường” nên từ “lường gạt” là từ mắng thậm tệ chỉ dùng cho gái điếm thay cho “lừa gạt” nhẹ hơn, cặp sinh thực khí Âm/Dương mà người Việt thời cổ đại thờ là cặp Nõn/Nường hay Lõ/Lường cũng vậy); cái “trôn” (mà Quan Thoại gọi là “hậu môn”, một âm tiết phải dịch ra thành hai âm tiết), cái cửa trong của trôn gọi là cái “dom” vì phải vạch ra “nom” mới thấy. Người nguyên thủy vì ban đầu chưa biết làm nhà nên ở trong hang mà cái cửa hang là một lỗ nhìn vào tối “om om” hay tối “um” (mà về sau Hán ngữ phiên cái từ “đơn âm thành ý” là “um” ấy của tiếng Việt thành từ hai âm tiết bằng hai chữ “u minh”,chữ “u”烏 cũng nghĩa là tối đen, chữ “minh”冥 cũng nghĩa là tối đen) như hang dơi nhưng để con người có chỗ mà “chun” ra chun vô nên thoạt đầu họ gọi nó là cái “mun”,cũng thành từ để chỉ màu đen. Loại gỗ đen chỉ có ở rừng miền Trung Việt Nam là cây gỗ mun, mà ngày nay còn rất hiếm. Cư dân nông nghiệp của nền văn minh lúa nước yêu con mèo hơn con chó vì nó trị chuột , bảo vệ ngũ cốc, họ thích vuốt ve mèo,cho mèo ngủ chung trong chăn với người, còn chó thì chẳng mấy ai ôm và bị đuổi ra sân ngủ chứ đừng nói cho ngủ trên giường với người. Khác hẳn dân du mục đồng cỏ, họ ôm chó trong áo lông, cho chó ngủ chung giường vì nó là bạn chăn cừu và đi săn cùng họ. Con mèo đen gọi là mèo mun. Con chó đen gọi là chó mực cùng từ chữ mun mà ra (chữ “mực” ấy sau dùng chỉ mực là chất lỏng màu đen chế ra để viết trên giấy mà Quan Thoại gọi là “mặc thủy”. Cùng thời với Khổng Tử còn có ông Mặc Tử, cũng viết ra một cái giáo lý riêng của ông ấy gọi là “Mặc giáo”, cổ thư chữ Hán nói cũng chẳng biết ông ấy họ tên gì,sống độc thân ,đi lang thang, gọi là Mặc Tử vì ông ấy da đen trũi , tóc lại quăn -vậy thì ông ấy chính là người dòng Nam Đảo của Việt tộc chứ chẳng lẽ lại là người Hán?). Cái “mun” hỏm hòm hom là cửa hang của người nguyên thủy ấy sau viết chữ nho là chữ “môn”.Thời ở hang của con người thì mỗi hang là một dòng họ, phân biệt bằng cửa hang là “mun” nên gọi là “dòng mun” mà về sau chữ nho viết là “tông môn”, là cửa của một họ. Họ ấy là người một gốc, mà tiếng Choang gốc gọi là “thị”, chữ nho viết là thị氏 tức gốc đằng mẹ, vì chế độ mẫu hệ. Khi con người đã chuyển sang chế độ phụ hệ thì cái “gốc” ấy chữ nho viết là “tộc”族 , “thị” cũng là họ nhưng là họ theo mẹ, “tộc”族 cũng là họ nhưng là họ theo cha, “thị tộc”氏族 là từ chỉ cộng đồng người nguyên thủy, là một từ ghép theo đúng trật tự thời gian từ nào có trước đứng trước và từ nào có sau đứng sau, vì chế độ mẫu hệ là có trước, chế độ phụ hệ có sau. Khi con người biết làm nhà để ở thay cho ở hang thì cái cửa nhà là cái “đưa” con người chun ra chun vô nhưng nó sáng chứ không tối như cửa hang nên gọi là “cửa”. Thời ở hang là thời đại đồ đá cũ ,đến thời đại đồ đá mới kéo dài mấy chục ngàn năm, con người đã biết trồng trọt mà phương thức canh tác đầu tiên là chọc lỗ tra hạt trên đất khô. Hết thời ở hang, người Việt làm nhà sàn để ở. Nền văn minh lúa nước ra đời, và phát triển liên tục hàng chục ngàn năm,gắn bó đồng thời với văn minh nhà sàn và văn minh sông nước ở vùng nhiết đới nóng ẩm và gió mùa của Đông Nam Á. Nền kinh tế ấy cũng đồng thời sản sinh ra văn minh dịch lý để tính toán vũ trụ, thời tiết, nông lịch v.v. phục vụ cho chính nó.Nền văn minh ấy là vào khoảng 20.000 BC-17.000 BC, thời của vua Phục Hy. Người Việt được gọi là Mun ( “ngăm-ngăm”) bao gồm các nhánh Môn, Miên, Chăm, Lùm (Lào Lùm), Mường v. v.mà sử Hán gọi là “Man”, “Nam”, rồi từ ghép theo cú pháp Hán là “Nam Man”, (nếu theo cú pháp Việt thì phải đặt ngược lại là Man Nam) vì họ có nước da Nam Đảo-Nam Á ngăm đen chứ không trắng bằng người Hán là chủng Mogoloit. Theo phương dịch lý do mình sáng tạo ra , người Việt gọi mình là Kẻ Lửa (mà ngôn ngữ dịch lý thì gọi là Quẻ Ly, tượng là màu Đỏ, gọi theo ngũ hành là Hỏa) tức người ở phương nóng bức gần xích đạo. (Đồng bào miền núi phía bắc Việt Nam đến tận bây giờ vẫn gọi cái nhà sàn có bếp lửa đốt ở giữa nhà là “nhà quẻ Ly”, đó không phải là nói về cái kiểu nhà ,mà là do ký ức xa xưa nói đó là nhà của dân Kẻ Lửa).Từ KẺ đã có những biến âm trong tiếng Việt là KÒ (tiếng Thanh Hóa)=KÔ (tiếng Nhật Bản)=KU (tiếng Việt)=TU (tiếng Tày)=TỬ ( chữ nho子)=ZỬ (tiếng Quan thoại)=TÍ (chữ nho 子)=CON (tiếng Việt) đều có nghĩa là “con”. Từ KẺ ấy ban đầu viết bằng ký tự kẻ vạch là một kẻ dương (—) là kẻ có đầu tiên( hoa văn kẻ vạch chìm-hoa văn kỷ hà học- trên vỏ đồ gốm thời đại đồ đá mới tìm thấy ở nhiều nơi,kể cả ở Đài Loan và Nhật Bản, điển hình là ở di chỉ Hà Mẫu Độ ở Triết Giang Trung Quốc 7000 năm BC cùng di tích hạt lúa và rơm chất đống được các nhà khoa học Trung Quốcnhất trí nhận định là di tích văn hóa của dân tộc Bách Việt, là một trong những nét đặc trưng để nhận biết là văn hóa của người Bách Việt cổ đại. Hoa văn kẻ vạch ấy còn thấy trên trống đồng , và còn hiện hữu rực rỡ trên nền thổ cẩm của các dân tộc Mường, Dao, Hmông, Chăm,Tây Nguyên đến tận ngày nay. Trong nghề gốm sành ở Nghệ An, các động tác gia công là: kẻ, khắc, khía, khứa, khót-là nạo bên trong lòng vật gia công-mà dụng cụ chỉ là một sợi lạt cật.Trong chuyện cổ tíchVợ chồng An Tiêm (có thể là bà An ông Tiêm) lên thuyền trôi dạt ra đảo,trồng dưa hấu, kẻ khắc ký tự lên vỏ quả dưa gửi trôi theo biển về báo cho cha là Vua Hùng rằng họ còn yên lành và khấm khá, đó là cái đạo hiếu của người Việt, con không bao giờ trách cứ cha mẹ “con cái không chê cha mẹ khó, con chó không chê chủ nghèo”, hòn đảo ấy chắc là đảo Đài Loan, dân bản địa Đài Loan từ cổ gọi nơi họ ở nam Đài Loan là Tuan Uan (có thể là do chỗ của ông Tiêm bà An), mà thành từ “Thái Oan” tức Đài Loan bây giờ, còn chuyện thuyền đánh cá của ngư dân Việt từ miền trung Việt Nam bị bão trôi dạt vào Đài Loan thì đến bây giờ vẫn là cái “chuyện thường năm ở huyện”).Từ LỬA đã có những biến âm trong tiếng Việt là: LẢ (tiếng Bắc Trung Bộ)=LA=LI (trong dịch lý)=LIỆT (chữ nho烈, nghĩa là “rực”), để rồi LIỆT biến âm thành VIỆT, cũng như LANG đã biến âm thành VƯƠNG . Đến thời Xuân Thu Chiến quốc trong Hán thư mới có từ Bách Việt, trước đó người Hán vẫn gọi dân tộc ở phía nam của họ là Man , do từ Mun của người Việt, vì có nước da ngăm đen hơn họ. Đến thời Tam Quốc người Hán vẫn chưa vượt nổi sông Dương Tử nên quân Ngụy của Tào Tháo thua quân Ngô của Ngô Tôn Quyền khi đòi vượt sông.Trận thua “xất bất xang bang” đó sau sử gọi là trận Xích Bích tức húc phải bức tường lửa của dân Kẻ Lửa,chứ chẳng có địa danh nào bên sông Trường Giang gọi là Xích Bích cả. Biết bao làng quê, sông,núi của Việt Nam và cả những vùng đất bao la ở Giang Nam của Trung Quốc ngày nay đều có cái tên (địa danh) chỉ bằng một âm tiết theo đúng nguyên tắc ngôn ngữ Việt mà các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc nhận địnhnó là yếu tố đặc trưng của tiếng Bách Việt cổ, là “đơn âm thành ý” tức cứ phát ra một tiếng là có mang một ý nghĩa hoàn chỉnh, mà khi phiên ra tiếng Hán phải dùng hai chữ Hán. (Cũng vì nguyên lý này mà lỡ đánh một cái rắm thành tiếng thì người ngồi bên đã phê bình khéo là mày chê cái gì “ít”). Một nguyên tắc đặc trưng khác mà các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc thừa nhận ở tiếng Bách Việt cổ khác với tiếng Hán là cú pháp tiếng Việt “chính trước phụ sau,ở tiếng Hán thì phụ trước chính sau”.Các địa danh Việt chỉ có một âm tiết. Ở Việt Nam trước thời Bắc thuộc biết bao tên làng , tên sông là Lửa (làng Cầu Lửa tức Kẻ Lửa ở Nghệ An), là La (sông La ở Hà Tĩnh tức con sông của dân Kẻ Lửa), là Liệt ( làng Phương Liệt, tức vuông Liệt ở Hà Nội , là ruộng của dân Kẻ Lửa) . Đến như con sông Mịch La tận bên Giang Nam, nơi nhà thơ Khuất Nguyên trẫm mình là từ do Quan Thoại dùng từ “mi lúa” phiên âm từ “mẹ lửa” của tiếng Việt , là con sông mẹ của người Kẻ Lửa, cũng như người Thái gọi “mè Khoỏng” là “mẹ sông” mà thành tên Mê Kông. Đất nước của dân Kẻ Lửa ấy Hán thư phiên âm theo Quan Thoại là “Quẩy Sử” rồi viết đúng cú pháp Hán là “Sử Quẩy” tức nước “Xích Qủi”, “xích” là đỏ, lấy ý tương tự như “lửa” . Các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc rất tôn trọng đặc điểm đặt tên địa danh bằng một âm tiết ấy của lịch sử nên trong từ điển Hán ngữ đều có chú nguồn gốc xuất xứ của từ. Ví dụ một từ “điền” được giải nghĩa là ruộng, lại chú thêm “Điền” là địa danh gọi vùng Vân Nam thời cổ đại (đó là nước Điền Việt), do vậy đến khi nền văn minh nhân loại có vụ đăng ký biển số ô tô, cục quản lý xe chỉ việc lấy chữ đó làm mã số vùng, không như ta lấy hai con số đầu làm mã số vùng, nhìn qua đều chưa kịp giải mã xem nó là vùng nào. Ví dụ ở Trung Quốc nhìn biển số xe ô tô có chữ Việt粤 đầu biết ngay là xe Quảng Đông, nhìn chữ Quế桂 đầu biết ngay là xe Quảng Tây, nhìn chữ Điền田 đầu biết ngay là xe Vân Nam v.v, mà còn hiểu được cả lịch sử vùng đó xưa là đất Việt .Từ điển tiếng Việt của ta xuất bản thì không hề có chuyện đó. Ví dụ tra chữ “noi” được giải thích là theo gương, không có mục “Noi” là tên làng Việt cổ sát Hà Nội gọi là Kẻ Noi nằm bên bờ sông Noi, mà thời Bắc thuộc Kẻ Noi được phiên âm là Cổ Nhuế, sông Noi được phiên là Nhị Hà, mà dân thì vẫn quen “đơn âm thành nghĩa “ nên gọi là sông Nhuệ; “lừ” được giải thích là phụ từ của lừ đừ,không có mục “Lừ” là tên con lạch cổ ở Hà Nội đổ ra sông Noi, thời Bắc thuộc “lạch Lừ” được phiên âm kèm đổi sang cú pháp Hán nên ngược thành “Lừ lạch” viết là “Tô Lịch”( đoạn cuối sông ấy ở đồng ruộng nhà quê bây giờ nước ô nhiễm đặc quánh và đen ngòm, dân vẫn gọi là con sông Lừ, nó còn lừ đừ hơn là con lạch trong xanh chảy êm đềm vì giữa đồng bằng, mà ngày xưa gọi là con lạch Lừ. (Nhưng từ điển giải thích từ Hán-Việt thì nhiều lắm, nhan nhản đủ kích cỡ, dày mỏng, trong hiệu sách ngày nay). Đến như Thuận Hóa là kinh đô cuối cùng của thời “Hán học” mà dân vẫn chỉ gọi có một âm tiết là Huế, rồi bắt buộc quan hàn lâm phải theo mà thành tên Huế cho đến bây giờ, trở thành thân yêu với bao nhiêu đặc sắc văn hóa hàm chứa chỉ trong một tiếng “Huế” . Người Việt của dân tộc Bách Việt cổ đại đã đem nền văn minh lúa nước lấn-lướt (chữ nho “lăng liệt”凌烈) lên phía bắc bằng đường biển khai phá vùng Giang Nam rồi đồng bằng nam sông Hoàng hàng chục nghìn năm trước công nguyên. Từ khi người Mogoloit tràn xuống chiếm vùng đồng bằng Hoàng Hà là bắt đầu một sự hội nhập và đồng hóa mà dân tộc học gọi là quá trình “vàng hóa” chủng Nam Á- Nam Đảo da ngăm đen trên mảnh đất gọi là Trung Nguyên . Chủng Việt lui dần về nam sông Trường Giang, bảo lưu đặc sắc ngôn ngữ và văn hóa của mình, đến thời Xuân Thu Chiến Quốc hình thành hàng loạt quốc gia Bách Việt hùng mạnh “ kéo dài từ Giao Chỉ đến Cối Kê hàng 7,8 ngàn dặm”, một trong số đó là Việt Quốc của Câu Tiễn tồn tại 160 năm với 8 đời vua, sau bị Tần diệt.Từ thời Tần Hán mới bắt đầu quá trình Hán hóalần thứ hai, diễn ra ở Giang Nam mà trước tiên là quá trình đồng hóa ngôn ngữ. Đến thời Hán Vũ Đế thì Bách Việt hoàn toàn bị xóa sổ. Những trung tâm chính trị của dân tộc Bách Việt đều bị Hán Vũ đế chinh phục, đổi thành quận huyện của triều Hán.Từ đó về sau cái tên Bách Việt không còn thấy ghi trong sách sử nữa, cái tên dân tộc Việt cũng bị lãng quên trên đất Trung Hoa, chỉ còn dân tộc Việt Nam hậu duệ đích tôn của dân tộc Việt là còn tồn tại như một dân tộc độc lập với ngôn ngữ Việt nguyên vẹn là Nôm na.Tuy rằng ngày nay không còn tìm đâu ra cái tên gọi là dân tộc Bách Việt hay nhóm dân tộc Việt nhưng văn hóa Bách Việt trên thực tế thấu qua muôn ngàn phương thức lưu lại muôn ngàn dấu tích trong văn hóa các dân tộc khác nhau. Đó là những đặc điểm văn hóa mà các nhà khoa học Trung Quốc thừa nhận là đặc điểm riêng để nhận biết cùng nguồn gốc: Gốm hoa văn kẻ vạch chìm đặc trưng của dân tộc này từ thời đồ đá mới; thờ rồng, tự coi mình là cháu con của rồng; tập tục xăm mình; cuộc sống làng gần nước; tập quán nhai trầu và nhuộm răng đen; khí cụ đồng thau tinh xảo, nhất là trống đồng, kiếm đồng,chuông đồng lớn; trồng lúa nước,vấn khăn xếp, bói chân gà, khắc cánh tay kết bạn, ăn nhiều ốc hến hải sản, ở nhà sàn (mà Hán ngữ phải phiên âm “sàn” bằng hai chữ “can lan”干欄), giỏi dùng thuyền và giỏi thủy chiến, thích chọi gà v.v. Mặt khác ngôn ngữ Bách Việt cổ còn đậm dấu ấn trong tiếng nói của hậu duệ người Mân Việt (Phúc Kiến), mà ở Đài Loan vẫn dùng, gọi là tiếng Hà Lạc, mặc dù ở Đài Loan và Phúc Kiến chẳng có địa danh nào gọi là Hà Lạc cả (Quan Thoại phiên âm là “ hứa lua”, nghe còn phảng phất âm “kẻ lửa” ,còn theo chữ dùng ghi âm đó là chữ河洛thì chỉ còn có thể nhận được ở bộ thủy có ở cả hai chữ, để hiểu rằng đó là chỉ thứ tiếng của dân sông nước, đó chính là tiếng của dân văn minh lúa nước, dân Kẻ Lửa) và tiếng Việt粤 của dân Quảng Đông . Sự gần gũi để còn nhận thấy là : ở cách phát âm, ở cú pháp ghép cụm từ là cú pháp Việt trong khẩu ngữ nhất là ở những từ gốc (Ví dụ:曆日(lịch nhật)=lịch ngày, 風颱(phong đài)=bão (quan thoại là đài phong), 人客(nhân khách)=người khách, quan thoại là khách nhân, 鬧熱(náo nhiệt), quan thoại là nhiệt náo, 雞母(kê mẫu)=gà mái, quan thoại là mẫu kê, 雞公(kê công)=gà trống, quan thoại là công kê v.v.); Ở bổ động từ, ví dụ: 看現現(khán hiện hiện=rõ mồn một)、行透透(hành thấu thấu=đi thông thống);食食去(thực thực khứ=ăn ăn đi)、摃走走去(tẩu tẩu khứ=chạy chạy đi) Và ở từ láy , mà ở Kinh Thi gặp rất nhiều, nhưng ghi bằng hai chữ Hán giống nhau nên không rõ được thanh điệu của hai tiếng láy ấy phải là một Âm một Dương như khẩu ngữ nói, ở tiếng Hà Lạc còn có láy ba, ví dụ:甜甜甜(điền điền điền=Ngót ngòn ngọt), 烏烏烏 (u u u= hỏm hòm hom)、鹹鹹鹹 (hàm hàm hàm=Mắn mằn mặn),花花花 (hoa hoa hoa=Hỏe hòe hoe)v .v. Đó là những đặc điểm cực giống tiếng Việt mà ở tiếng Hán không hề có. Về từ láy thì tiếng Việt phong phú vô cùng, láy hai, láy ba, láy bốn, láy xuôi, láy ngược, láy lặp đi lặp lại, mà gốc cơ bản của nó là sự tách đôi một âm tiết trong cái bầu biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt như sự tách đôi tự sinh sản của tế bào, cho ra một từ hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược. Để thư dãn cuối bài viết ,xin tặng bạn đọc bài thơ khuyết danh: Tai nghe gà gáy te te Ánh dương vừa rọi sân hè chói chang Chập chùng mây núi chon von Hoa năm sắc nở tươi non lập lòe Chim tình bầu bạn tỉ tê Ong chăm nuôi chúa lượm về phấn hoa Lợi danh mặc kệ người ta Mình đây nướng giấc đẫy đà khỏe re. Để thấy rằng đổi qua dùng từ láy ba ,nó sẽ có hẳn một mùi vị khác thật dí dỏm: Tai nghe gà gáy tẻ tè te Bóng ác vừa lên hé hẻ hè Núi một chồng cao von vón vót Hoa năm sắc nở lóe lòe loe. Chim,tình bầu bạn kia kìa kỉa, Ong,nghĩa vua tôi nhé nhẻ nhè Danh lợi mặc người ti tí tỉ. Ngủ trưa chưa dậy khỏe khòe khoe. ( Khi đã dùng đến từ láy của tiếng Việt thì các ngôn ngữ khác khó mà dịch cho ra nổi cái mùi vị của của câu văn và cái cảm xúc của người đọc)1 like -
Trí thức cũng nghe nhạc vàng Thanh Niên Online - Thứ Năm, 26/8 Nguyễn Ánh 9 cùng thế hệ với các nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc vàng, nhưng tự nhận không theo nhạc vàng. Cuộc trao đổi với tác giả Buồn ơi chào mi, Tình khúc chiều mưa... cho thấy cái nhìn tương đối khách quan về nhạc vàng, nhạc sến. Theo ông, nhạc vàng là nhạc gì? Người ta hay dùng nhạc vàng để nói về âm nhạc trữ tình hay lãng mạn. Theo tôi biết, màu vàng có lúc tượng trưng cho sự bệnh hoạn. Hồi xưa như tôi được biết, khi trên tàu thủy có bệnh dịch thì treo cờ vàng để báo hiệu. Ông đánh giá thế nào về kỹ thuật thanh nhạc của ca sỹ ca nhạc vàng nổi bật như Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Tuyền, Giao Linh…? Duy Khánh và học trò là Chế Linh, Giao Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Phương Hồng Quế - mỗi người một giọng riêng biệt, và không qua trường lớp nào. Họ có thể hát nhạc khác cũng được nhưng không hay và không được nhiều người ưa thích bằng bolero. Nghe những bản nhạc theo điệu bolero và các giọng hát thời kỳ đấy rất Việt Nam? Không hẳn. Đúng ra, có những câu mang âm hưởng dân ca Nam Bộ. Phần đông ca sĩ, nhạc sĩ là người miền Nam nên hát và viết bài hát mang chất dân ca bình dân của người Nam. Họ viết nhạc phần đông ở giọng thứ, khi hát với bolero, nó đúng cái nhịp của người miền Nam. Dân ca miền Nam rất hợp bolero. Bên tân cổ giao duyên, phần đông hát vọng cổ xong qua bolero liền. Hai cái đó dính liền, pha với nhau. Từ đó có âm hưởng bolero trong âm nhạc Việt Nam. Có bao giờ ông sáng tác theo phong cách nhạc vàng? Tôi dân trường Tây, ảnh hưởng nhạc nước ngoài nhiều. Rồi làm việc ở vũ trường, xung quanh toàn nhạc mới. Nhưng khi phổ thơ bài Ngày xưa có mẹ, tôi áp dụng bolero để kể chuyện. Dòng nhạc bolero không hiếm những bài hát kiểu kể chuyện như: Hàn Mặc Tử, Màu tím hoa sim, Lan và Điệp… Bolero của Việt Nam khác bolero của Tây Ban Nha hay Nam Mỹ. Bolero Việt Nam rất chậm. Nam Mỹ, Tây Ban Nha lẹ hơn, gần như rhumba. Vậy có thể đưa ra công thức: nhạc vàng chính là điệu bolero Việt Nam cộng với kỹ thuật hát mang âm hưởng dân ca? Đúng rồi. Nhạc vàng xưa chỉ có hai thể điệu bolero và slow rock. Slow rock của Việt Nam cũng chậm lắm. Thời đó, hẳn nhạc sĩ, ca sĩ nhạc vàng được đón nhận nồng nhiệt hơn so với nhạc trẻ? Trời ơi, băng nhạc loại bolero bán chạy nhất! Người đầu tiên nghĩ ra bolero là Lam Phương rồi Trúc Phương. Trúc Phương có viết một loạt Nửa đêm ngoài phố, Hai chuyến tàu đêm, Tàu đêm năm cũ… cho Thanh Thúy hát rất phù hợp. Thời thịnh của nhạc vàng cũng chỉ giới bình dân nghe là chính? Trí thức cũng nghe, nhưng theo kiểu vô thưởng vô phạt. Trí thức lúc đó thích nghe nhạc của Phạm Duy, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Phạm Đình Chương, Hoàng Trọng hay Văn Phụng. Nhạc sĩ thấy hai khái niệm nhạc sến và nhạc vàng có gì chung? Hồi xưa, mấy người giúp việc nhà, hay nhà nghèo đi ra phông-ten nước (vòi nước công cộng) để lấy nước về nhà xài, hay giặt đồ, người ta gọi cho nó “sang” là Mari Đờ La Phông-ten, giỡn chơi vui vậy. Đồng thời lúc đó nổi lên cô đào Maria Schell, dẫn đến họ có thêm biệt danh là Mari Sến. Mấy người đó, chủ nhật được chủ cho nghỉ, họ ở nhà mở radio nghe nhạc bolero, hoặc ra phố kiếm mấy chỗ bán nhạc đó để mua. Họ thích bolero vì nó hợp với trình độ của họ. Nhờ những người đó, nhạc sĩ bán bài hát mới chạy. Vô tình người ta gọi loại nhạc đó là nhạc sến. Không phải mình phân chia giai cấp, nhưng loại nhạc đó được giới bình dân nghe nhiều hơn. So với nhạc vàng, lời nhạc sến còn bình dân hơn: Ước gì nhà mình chung vách, anh khoét bức tường, anh qua thăm em. Chung quy cũng là nhạc trữ tình. Nhạc cho người có hiểu biết chút xíu gọi là nhạc vàng, còn cho người ít hiểu biết gọi là nhạc sến. Theo ông, nhạc vàng nên được nhìn nhận như thế nào trong hoàn cảnh hiện nay? Tôi nghĩ nhạc vàng có giá trị của nó, nhạc sến cũng có giá trị của nó. Phải có những giá trị nhỏ thì người ta mới biết giá trị lớn chứ. Không nên đánh giá cái nào thấp quá hoặc cao quá.1 like
-
Chào Nhật Tâm. Hoangnt ủng hộ không gian chỉ gồm 4 chiều (x,y,z,t) để giải quyết các vấn đề về khoa học (không cần thiết bàn sâu vì sẽ đến vô cùng). Hoàngnt tạm nhận thấy theo cá nhân: + Lý học Đông phương quan niệm vũ trụ 11 chiều: như trình bày ở bài trước. + Việc hành thổ đặt tại tâm của Hà đồ có vẻ như vai trò của nó quan trọng, đặc biệt và có chút khác hơn so với 4 hành còn lại. Ta có thể giải thích thế nào về sự hơi thiếu bình đẳng này? Liệu có thể chấp nhận khi tiên đề gốc âm dương - ngũ hành - 5 hành có vẻ hoàn toàn bình đẳng: tổng hợp tri thức của nhiều nghìn năm tạo ra nhưng quy tắc chắc chắn sẽ phải từ quan sát thiên văn - thực tế - thời gian quy ước.... Theo Hoangnt hiện tại ai sẽ là cao nhân giải thích vấn đề này bằng tri thức hiện đại? Mặc dù Nhật Tâm có giải thích hợp lý về việc lập Hà đồ trong 2 tiểu luận nhưng sự chưa bình đẳng này thì chưa biết là do đâu? Vậy nên muốn đặt vấn đề là tại chiều không gian. Do đó buộc phải mượn quan niệm về chiều của phương tây để giải thích việc này. Chiều không gian đã chuyển sang dạng quy luật 'vị trí sao và thời gian xem xét' Thân mến.1 like
-
Rất khó tìm được việc làm trong năm nay dù là công việc không hài lòng ;qua năm tới cháu mới có thể có được công việc làm ,nhưng lúc đầu công việc cũng không vừa ý hài lòng hay làm không đúng nghề của mình đã học ,rồi có thể đổi công việc khác sau đó mới thuận tiện hơn.1 like
-
Đoán GiẤc MỘng
Táo đỏ liked a post in a topic by NDK
Nick của bạn nghe dễ thương gớm! :x Đây là câu chuyện của mình, ở 1 topic nào đó cũng trong box này thì phải, không dễ thương lắm như giấc mơ của bạn! :D Vấn đề nữa là mình rất hay mơ kiểu này! Đã thế thỉnh thoảng còn bị Deja vu! :D1 like -
Năm Canh Dần - 2010, do vậy ta bắt đầu khảo sát từ LỤC CANH Canh Dần 1. Chu kỳ 1 - Canh Dần - Thuần Chấn, hào 2 - “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc.” - “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.” - Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – ý nói tượng hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy. 2. Chu kỳ 2 - Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2 - “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát.” - “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành.” - Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – "Không đợi ngày mà biết", vì Sáu Hai đã trung, lại chính. 3. Chu kỳ 3 - Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2 - “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát.” - “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành.” - Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – "Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành", nói lên được đạo ở giữa không lệch. 4. Chu kỳ 4 - Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2 - “Cửu Nhị, hối vong.” - “Chín Hai, hối hận tiêu hết.” - Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – "Chín Hai hối hận tiêu hết", nói lên Chín Hai có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch. 5. Chu kỳ 5 - Canh Dần - Địa Phong Thăng, hào 2 - “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.” - “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi tội lỗi.” - Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” - Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh. 6. Chu kỳ 6 - Canh Dần - Thủy Phong Tỉnh, hào 2 - “Cửu Nhị, tỉnh cốc xạ phụ, ủng tệ lậu.” - “Chín Hai, rốn giếng bị uổng dùng để bắn mấy con cá nhỏ, lúc này gầu bị thủng không có gì để múc lên.” - Tượng “Tỉnh cốc xạ phụ, vô dữ dã.” - "Rốn giếng bị uổng dùng", nói lên Chín Hai không có ứng với trên. (Mỹ, Nga, Trung quốc) 7. Chu kỳ 7 - Canh Dần - Trạch Phong Đại quá, hào 1 - “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.” - “Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.” - Tượng “Tạ dụng bạch mao, nhu tại hạ dã.” - "Lấy cỏ tranh trắng lót vật biếu người trên", nói ý hào Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng. 8. Chu kỳ 8 - Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2 - “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu.” - “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng.” - Tượng “Hệ tiểu tử, phất khiêm dữ dã” - "Quấn quýt với kẻ tiểu tử", nói lên Sáu Hai không thể cùng một lúc thân hiếu với nhiều nơi.1 like
-
Điều mà người xưa cho là "nghiêm mật", chính là "cái mà phải dựa vào đang dần mất đi sự ổn định". Phàm là 10 tuổi thích chạy, 20 tuổi thích đi nhanh, 30 tuổi thích đi bộ, 40 tuổi thích sự ngồi, 50 tuổi thích sự nghỉ, 60 tuổi thích sự nằm. Dịch - Sơn Địa Bác, tượng hào 2 nói: "Bác sàng dĩ biện, vị hữu dữ dã", có nghĩa rằng: "Đã đến lúc muốn nằm nghỉ, thì giường nằm từ cứng mạnh đang chuyển thành hư yếu". Phải dừng lại, vì người ta không thể quên nguồn cội của mình. Thường ngày cần phải củng cố cái "gốc" để phòng sự "bác". Khi "thời gian" tích lại ngày một lớn, có nghĩa rằng tuổi ngày một tăng lên, thì "vật chất" ngày càng mất dần đi. Cái mà ta phải dựa vào đó vậy !1 like
-
Ếm Và Giải ếm
Thiên Phú liked a post in a topic by bachvan
kiết ấn chuẩn đề, thì phải đuơc quán đảnh mói được nếu k dễ bị tẩu hỏa nhập ma lắm phải k quí vị? http://s272.photobucket.com/albums/jj161/t...hunphtmuthn.flv ấn chuẩn đề1 like -
Ếm Và Giải ếm
Thiên Phú liked a post in a topic by Như Thông
Phượng Hồng yêu dấu, 84.000 pháp môn của Đức Phật cũng là mong muốn chúng sanh giải thoát, đều thành Phật. Ai biểu mê mệt chi mấy cái ấn chứng, thần thông rồi lọt vào ma đạo :) :D Chị Will yêu dấu, một phút biết đến Phật Pháp. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật, tích bao công đức, tịnh hóa vô lượng nghiệp chướng.1 like -
Như Thông thân mến . Học đạo phải có 1 tâm trong sạch , nếu như học mà mong muốn mình được cái gì từ đó thì đúng là tẩu hỏa nhập ma và rơi vào ma đạo là đúng rồi :D1 like
-
Đường đi từ Biết đến Vực được Đạo còn vời vợi xa Như Thông ơi! Nói đến chánh pháp đã khó làm sao mà hành? Hội đủ duyên mới chắt lọc đường Quang để bước bằng ngược lại đường tà cách nhau gang tấc.1 like
-
Ếm Và Giải ếm
Thiên Phú liked a post in a topic by Như Thông
Chị Will yêu dấu :) . Về phương pháp điểm đạo hay quán đảnh chính thống của Mật Tông, không có cái nào gọi là điểm đạo qua điện thoại, interner, yahoo như trang vutruthanbi tuyên truyền cả. Việc điểm đạo hay quán đảnh cần phải có cơ duyên và được chính vị Kim Cang Đạo Sư ( đạt thành tựu) đích thân quán đảnh. Ở Việt Nam, chưa có vị nào được quyền quán đảnh cả.Phật đâu chẳng thấy, lạc vào ma đạo chẳng hay, đến lúc quay đầu thì e rằng chẳng kịp, uổng cả kiếp người. :)1 like -
Khảo sát vòng 2 ...........................LỮ .....TIỂU SÚC.........................PHỤC ...DỰ.....................+....................KHỐN ..........BÍ..................................CẤU ...........................TIẾT Nhận xét thấy - Hướng Tây -Nam cung Khôn 2, mang quẻ Địa Lôi Phục phối hợp với hướng Đông, cung Chấn 3 mang quẻ Lôi Địa Dự, hướng Tây - Nam thì: Địa ở bên ngoài mà Lôi ở bên trong ; Địa ở trên mà Lôi ở dưới ; Địa ở ngọn mà Lôi ở gốc,...v.v... Đối với hướng Đông thì vị trí Nội quái và Ngoại quái được thay đổi cho nhau (không phải là đảo - ngược quái): Lôi lại ở bên ngoài còn Địa lại ở bên trong => Lôi Địa <==> Địa Lôi (Tây Nam <==> Đông). Tương tự: - Hướng Tây - Bắc cung Càn 6, mang quẻ Thiên Phong Cấu phối hợp với hướng Đông - Nam cung Tốn 4, mang quẻ Phong Thiên Tiểu súc => Thiên Phong <==> Phong Thiên (Đông Nam <==> Tây Bắc) - Hướng Đông - Bắc quẻ Cấn 8, mang quẻ Sơn Hoả Bí phối hợp với hướng Nam cung Ly 9 mang quẻ Hoả Sơn Lữ => Sơn Hỏa <==> Hỏa Sơn (Đông Bắc <==> Nam) - Hướng Bắc cung Khảm 1, mang quẻ Thuỷ Trạch Tiết phối hợp với hướng Tây cung Đoài mang quẻ Trạch Thuỷ Khốn => Thuỷ Trạch <==> Trạch Thuỷ (Bắc <==> Tây) Nội ngoại, trong ngoài, trên dưới, trước sau, gốc ngọn, nhân quả...v.v... đều thay đổi vị trí cho nhau. Khi sự thay đổi vị trí quái như vậy, thì chúng ta nhận thức được gì đây ? Phải chăng, cái "bên ngoài" của hướng Tây phản ảnh thông tin cái "bên trong" của hướng Đông - Bắc, cũng như cái "bên trong" của hướng Tây Bắc phản ánh thông tin về cái "bên ngoài" của hướng Đông Nam,...v.v...1 like
-
Một Ví dụ mà Tôi thường ứng dụng và trải nghiệm: Can Chi ngày sinh của Tôi là ngày Ất Mùi, nếu tính theo số TỬ BÌNH hay LỤC NHÂM, thì hiện tại Tôi đang ở trong VÒNG 6. Trước tiên, Tôi tìm hiểu ý nghĩa cấu tạo của VÒNG 6 cho ta biết về những "Sự" gì ? VÒNG 6 ...........................HOÁN ........PHỆ HẠP.........................QUẢI ...TỈNH.....................+.................KHIÊM ..........LÝ...................................BÁC ...........................PHONG - Hướng Nam, đó là sự lìa tan - Phong Thuỷ Hoán - Hướng Bắc, đó là sự thịnh lớn - Lôi Hoả Phong - Hướng Đông, đó là "Mạch nước ngấm không cùng" - Thuỷ Phong Tỉnh - Hướng Tây, đó là sự khiêm tốn - Địa Sơn Khiêm - Hướng Tây - Bắc, đang là sự bong ra từng mảng - Sơn Địa Bác - Hướng Tây - Nam, đang có sự quyết đoán - Trạch Thiên Quải - Hướng Đông - Nam, đang có sự cắn để hợp lại - Trạch Thiên Quải - Hướng Đông - Bắc, đang có nhắc nhở về "sự thận trọng trong đi lại" - Thiên Trạch Lý. Một người bạn có lời mời Tôi đi miền Nam, từ VÒNG 6 xét thấy, phía Nam đang có sự lìa tan, ứng hợp vào tháng nào đây ? Chắc là tháng Nhâm Ngọ vậy. Tôi thành thật cảm ơn bạn mình, và trả lời không thể đi được. Hướng Tây Nam đang có sự quyết đoán, lại có lưu "Lộc Tồn", tôi chiêm đoán rằng: cơ quan mà tôi đã làm việc, đang cân nhắc tiền thưởng cho một số cán bộ lão thành. Khi tính theo số ĐỘN GIÁP thì can ngày sinh Ất Mùi của Tôi cho tôi biết những thông tin gì đây ? .........................................Tân gia Mậu ..................Kỷ gia Canh................................Đinh gia Nhâm (Đinh gia Giáp) ....Mậu / Tân...............................+.......................Ất / Bính ...................Nhâm / Đinh................................Bính / Quý .............................................Canh / Kỷ Như vậy, Can ngày sinh của Tôi đang nhắc nhở tôi, cho tôi biết thông tin rằng: tôi cần phải có sự khiêm tốn (Địa Sơn Khiêm) trong những ngày tới. Không biết số Thái ất của Tôi còn nói cho tôi biết thêm những thông tin gì đây. !1 like
-
Hệ thống 60 can chi, khi phối ứng với 384 Hào từ quẻ Dịch sẽ thuận tự trải qua 8 vòng, nhận thấy một vòng 60 ngày sẽ có 12 ngày mang "thông tin" trùng nhau, được trường phái "Tam huyền" (Tiêu Diên Thọ, Kinh Phòng, Dương Hùng) gọi là số "Trùng lưu". Ta xét tỷ lệ: 1 / 4, có nghĩa rằng: 48 ngày mang "thông tin" tỷ lệ với 12 ngày mang "thông tịn" trùng lưu (thông qua một mà biết bốn - Khổng Tử). Tỷ lệ này, được ứng dụng một cách nghiêm mật, rải khắp trong các môn thuật toán Đông Phương học. Phép bói Cỏ thi mà sách Dịch có bàn tới, sử dụng số 49 cọng cỏ thi. Con số "49" này, xét thấy tương đương với số "1". Chúng ta đã phối ứng "Thời gian" với Hào từ Kinh Dịch, thấy rằng một "thông tin" ẩn tàng trong "can chi", ví như trong ngày Giáp Tý, thì sau 49 ngày, tới ngày Nhâm Tý thì "thông tin" quay trở lại (phản bản hoàn nguyên - quy luật Phản Tổ). Ta đang bàn về học thuyết thuyết "Bản thể", đã nhận thấy sự khởi nguồn khi người xưa định "Tuần không", khi chúng ta tìm hiểu về học thuyết thuyết "Sinh - Thành", thì sẽ nhận thức rõ thêm tại sao người xưa quy định như vậy.1 like
-
Bài số #13, chúng ta đã có ví dụ về VÒNG 8, hệ thống 60 can chi phối hợp với Hào từ của 8 quẻ thuộc Vòng 8. Nhận xét thấy: - Mỗi quẻ Dịch có 6 hào, ta ví dụ mỗi một Hào trong quẻ Dịch tương đương với đơn vị tính là một ngày. Như vậy, một vòng Dịch Can Chi sẽ tương đương với 60 ngày. Thuận tự hết 8 vòng, thì số ngày là: 60 x 8 = 480 ngày tương đương với 480 hào từ. - Khi người xưa quy định sự phối hợp Thiên can với quẻ Dịch, thì can Giáp - Nhâm phối với quẻ Càn, can Ất - Quý phối với quẻ Khôn. Từ nguyên nhân này, đã nảy sinh ra số "Trùng lưu" (Lão Tử gọi là Trùng hư), cụ thể như sau: - Số 1 ~ số 49 ==> Giáp Tý <=> Nhâm Tý - số 2 ~ số 50 ==> Ất Sửu <=> Quý Sửu - số 9 ~ số 21 ==> Nhâm Thân <==> Giáp Thân - số 10 ~ số 22 ==> Quý Dậu <==> Ất Dậu - số 11 ~ số 59 ==> Giáp Tuất <==> Nhâm Tuất - số 12 ~ số 60 ==> Ất Hợi <==> Quý Hợi - số 19 ~ số 31 ==> Nhâm Ngọ <==> Giáp Ngọ - số 20 ~ số 32 ==> Quý Mùi <==> Ất Mùi - số 21 ~ số 9 ==> Giáp Thân <==> Nhâm Thân - số 22 ~ số 10 ==> Ất Dậu >==> Quý Dậu - số 29 ~ số 41 ==> Nhâm Thìn <==> Giáp Thìn - số 30 ~ số 42 ==> Quý Tị <==> Ất Tị - số 31 ~ số 19 ==> Giáp Ngọ <==> Nhâm Ngọ - số 32 ~ số 20 ==> Ất Mùi <==> Quý Mùi - số 39 ~ số 51 ==> Nhâm Dần <==> Giáp Dần - số 40 ~ số 52 ==> Quý Mão <==> Ất Mão - số 41 ~ số 29 ==> Giáp Thìn <==> Nhâm Thìn - số 42 ~ số 30 ==> Ất Tị <==> Quý Tị - số 49 ~ số 1 ==> Nhâm Tý <==> Giáp Tý - số 50 ~ số 2 ==> Quý Sửu <==> Ất Sửu - số 51 ~ số 39 ==> Giáp Dần <==> Nhâm Dần - số 52 ~ số 40 ==> Ất Mão <==> Quý Mão - số 59 ~ số 11 ==> Nhâm tuất <==> Giáp Tuất - số 60 ~ số 12 ==> Quý Hợi <==> Ất hợi Như vậy, trong 24 ngày được gọi là "trùng lưu" này, thì số ngày thực tính mang thông tin, chỉ còn 12 ngày, vậy nên số "thông tin" thực có sẽ là 60 - 12 = 48, tương đương với một vòng Dịch Can Chi - Khi trải qua 8 vòng thì số "thông tin" là 48 x 8 = 384, tương đương với số hào của 64 quẻ Dịch. Ta có thể đưa ra một kết luận rằng: trong quá trình thực tính, thì tổng số hào của Kinh Dịch là 480 hào, được phân làm 8 vòng, mỗi một vòng là 60 hào tương đương với 60 can chi, trong mỗi một vòng thì số "trùng lưu" sẽ là 12. Từ đây, chúng ta nhận thức được tại sao LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN chỉ dùng đơn vị số quẻ là 48. Nhưng bên trong số 48 này, vẫn ẩn tàng số "trùng hư", để thuận theo số chu kỳ của thời gian là 60. 480 HÀO LÀ SỐ THỰC CỦA KINH DỊCH.1 like
-
Khảo sát ngày Giáp Tý phối hợp với Hào từ quẻ Dịch, thông qua 8 vòng Giáp Tý 1. Ngày Giáp Tý vòng 1: Càn hào 1 - “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”. - “Hào Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng”. 2. Ngày Giáp Tý vòng 2: Cấu hào 1 - “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịch trục.” - “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.” 3. Ngày Giáp Tý vòng 3: Độn hào 1 - “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng” - “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”. 4. Ngày Giáp Tý vòng 4: Bĩ hào 1 - “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”. - “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”. 5. Ngày Giáp Tý vòng 5: Quán hào 1 - “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.” - “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.” 6. Ngày Giáp Tý vòng 6: Bác hào 1 - “Sơ Lục, bác sàng dĩ túc, miệt ; trinh hung.” - “Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gãy gục, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.” 7. Ngày Giáp Tý vòng 7: Tấn hào 1 - “Sơ Lục, tấn như tồi như, trinh cát ; võng phu, dụ vô cữu.” - “Sáu Đầu, sự tiến thịnh khởi đầu đã bị ghìm lui chắn lại, giữ chính thì được tốt lành ; hãy tạm ung dung đợi thời thì không gặp cữu hại”. 8. Ngày Giáp Tý vòng 8: Đại hữu hào 1 - “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”. - “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”. Xét thấy ngày Giáp Tý thông qua 8 vòng mà sao lời Hào từ lại nói "vật dụng" khởi đầu ở Vòng 1, mà tới cùng là Vòng 8 nói "chưa đi lại giao du thì chưa mắc hoạ", lạ thật !!!. Vậy thì, có sự liên hệ tới Độn Giáp chăng ?1 like
-
VÒNG 7 ..........................Nam ..........................TỤNG ...........DI............................NHU ...ĐẠI QUÁ...............+...............TIỂU QUÁ ........TRUNG PHU.....................TẤN ...........................MINH DI .............................Bắc VÒNG 6 ...........................HOÁN ........PHỆ HẠP.........................QUẢI ...TỈNH.....................+.................KHIÊM ..........LÝ...................................BÁC ...........................PHONG VÒNG 5 .............................MÔNG ......VÔ VỌNG.......................ĐẠI TRÁNG ...THĂNG.....................+...................KIỂN ........KHUÊ...................................QUAN ...........................CÁCH VÒNG 4 ...........................VỊ TẾ ........ÍCH.............................THÁI ...HẰNG.....................+...............HÀM ..........TỔN...................................BĨ ...........................KÝ TẾ VÒNG 3 ...........................ĐỈNH ........GIA NHÂN.........................LÂM ...GIẢI.....................+.................TỤY ........ĐẠI SÚC......................ĐỘN ..........................TRUÂN VÒNG 2 ...........................LỮ ........TIỂU SÚC.........................PHỤC ...DỰ.....................+....................KHỐN ..........BÍ..................................CẤU ...........................TIẾT VÒNG 1 ...........................LY ........TỐN.............................KHÔN ...CHẤN.....................+..............ĐOÀI .........CẤN.............................CÀN ...........................KHẢM1 like
-
VÒNG 8 ....................ĐỒNG NHÂN ...........CỔ.........................TỶ ...TUỲ...............+...............QUY MUỘI ..........TIỆM.....................ĐẠI HỮU ......................MINH DI VÒNG 8 1. Giáp Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (1 ~ 49) - “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”. - “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”. - Tượng “Đại hữu Sơ Cửu, vô giao hại dã” – Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại. Thân tuy ở cuộc “đại hữu”, nếu giữ cho sự ăn ở của mình được yên ổn, không lạm “giao” với vật, thì có thể vô hại. 2. Ất Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (2 ~ 50) - “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”. - “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật với đáng quân chủ, giữ vững chính bền thì được tốt lành”. 3. Bính Dần – Phong Sơn Tiệm, hào 6 - “Thượng Cửu, hồng tiệm vu lục, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát”. - “Chín Trên, chim đại nhạn bay từ từ lên núi cao, lông vũ của nó có thể làm đồ trang sức đẹp tinh khiết, tốt lành”. 4. Đinh Mão – Lôi Trạch Quy muội, hào 2 - “Cửu Nhị, diểu năng thị, lợi u nhân chi trinh”. - “Chín Hai, chột mà cố gắng nhìn được, lợi về giữ vững chính bền của bậc u tĩnh điềm đạm”. 5. Mậu Thìn - Địa Thủy Sư, hào 2 - “Cửu Nhị, tại sư, trung cát, vô cựu ; vương tam tính mệnh”. - “Chín Hai, thống xuất quân đội, giữ đúng mức không thiên lệch sẽ được tốt lành, tất không bị cữu hại, nhà vua nhiều (ba) lần ban thưởng, giao cho trọng trách”. 6. Kỷ Tị - Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 6 - “Thượng Cửu, đồng nhân vu giao, vô hối”. - “Chín Trên, hòa đồng với mọi người ở nơi giao ngoại xa xôi, chưa có được kẻ chí đồng cũng không hối hận”. 7. Canh Ngọ - Trạch Lôi Tùy, hào 4 - “Cửu Tứ, tùy hữu hoạch, trinh hung ; hữu phu tại đạo, dĩ minh, hà cữu !”. - “Chín Bốn, được người theo, thu hoạch được nhiều, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm ; chỉ cần giữ lòng thành tín, hợp chính đạo, sáng suốt trong sự lập thân, như vậy thì làm sao có cữu hại được”. 8. Tân Mùi – Sơn Phong Cổ, hào 4 - “Lục Tứ, dụ phụ chi cổ, vãng kiến lận”. - Sáu Bốn, dùng dằng không trị sự tệ loạn của cha, nếu cứ như vậy mãi thì tất sẽ hối tiếc”. 9. Nhâm Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (9 ~ 21) - “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”. - “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”. 10. Quý Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (10 ~ 22) - “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”. - “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”. 11. Giáp Tuất[/b] - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (11 ~ 59) - “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”. - “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”. 12. Ất Hợi - Thủy địa Tỷ, hào 5 (12 ~ 60) - “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”. - “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”. 13. Bính Tý – Phong Sơn Tiệm, hào 5 - “Cửu Ngũ, hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng ; chung mạc chi thắng, cát”. - “Chín Năm, chim đại nhạn bay từ từ lên gò cao, (giống như chồng đi xa), vợ ba năm không có mang ; (nhưng vợ chồng tất sẽ được xum họp) kẻ khác cuối cùng không thể xâm phạm ngăn trở mà thủ thắng, tốt lành”. 14. Đinh Sửu – Lôi Trạch Quy muội, hào 3 - “Lục Tam, quy muội dĩ tu, phản quy dĩ đệ”. - “Sáu Ba, người con gái sau khi lấy chồng mỏi cổ mong được thành vợ cả, nên quay về đợi thời, làm vợ lẽ”. 15. Mậu Dần - Địa Thủy Sư, hào 1 - “Sơ Lục, sư xuất dĩ luật, phủ tang hung”. - “Sáu Đầu, quân đội khi xuất quân thì phải dùng quân luật, hiệu lệnh để ước thúc, quân kỷ không khéo tất có hung hiểm”. 16. Kỷ Mão – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 1 - “Sơ Cửu, đồng nhân vu môn, vô cữu”. - “Chín Đầu, vừa ra khỏi cửa mà đã có thể hòa đồng ngay với người, tất vô cữu hại”. 17. Canh Thìn - Trạch Lôi Tùy, hào 3 - “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh”. - “Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền”. 18. Tân Tị - Sơn Phong Cổ, hào 5 - “Lục Ngũ, cán phụ chi cổ, dụng dự”. - “Sáu Năm, vì uốn nắn sự tệ loạn của cha mà được tiếng khen”. 19. Nhâm Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (19 ~ 31) - “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”. - “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”. 20. Quý Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (20 ~ 32) - “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”. - “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”. 21. Giáp Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (21 ~ 9) - “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”. - “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”. 22. Ất Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (22 ~ 10) - “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”. - “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”. 23. Bính Tuất – Phong Sơn Tiệm, hào 4 - “Lục Tứ, hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ dốc, vô cữu”. - “Sáu Bốn, chim đại nhạn bay từ từ lên cây cao, may mà tìm được cành bằng đậu thoải mái, không bị cữu hại”. 24. Đinh Hợi – Lôi Trạch Quy muội, hào 4 - “Cửu Tứ, quy muội khiên kỳ, trì quy hữu thời” - “Chín Bốn, người con gái đi lấy chồng bị lỡ thì con gái, dềnh dàng chưa lấy chồng, yên đợi thời cơ”. 25. Mậu Tý - Địa Thủy Sư, hào 6 - “Thượng Lục, đại quân hữu mệnh, khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng”. - “Sáu Trên, thiên tử ban phát mệnh lệnh, phong thưởng cho các công thần, là chư hầu, là đại phu ; còn kẻ tiểu nhân thì không thể trọng dụng”. 26. Kỷ Sửu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 2 - “Lục Nhị, đồng nhân vu tông, lận”. - “Sáu Hai, hòa đồng với mọi người trong họ, có sự đáng tiếc”. 27. Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2 - “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu”. - “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng”. 28. Tân Mão – Sơn Phong Cổ, hào 6 - “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự” - “Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình”. 29. Nhâm Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (29 ~ 41) - “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”. - “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”. 30. Quý Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (30 ~ 42) - “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát” - “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”. 31. Giáp Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (31 ~ 19) - “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”. - “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”. 32. Ất Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (32 ~ 20) - “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”. - “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”. 33. Bính Thân – Phong Sơn Tiệm, hào 3 - “Cửu Tam, hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung ; lợi ngư khấu”. - “Chín Ba, chin đại nhạn bay từ từ đến ngọn núi nhỏ, giống như người chồng đi xa, một đi không trở về, người vợ không giữ được trinh chính, có mang để con không nuôi, có hung hiểm ; (nếu có thể giữ chính, dụng cương, thì) lợi về sự chống trả giặc mạnh. 34. Đinh Dậu – Lôi Trạch Quy muội, hào 5 - “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, kỳ quân chi duệ, bất như kỳ đệ chi duệ lương ; nguyệt cơ vọng, cát”. - “Sáu Năm, Đế Ất cho em gái về nhà chồng, y phục của người vợ chính không đẹp bằng y phục của cô vợ lẽ ; (đức hạnh rất cao, ví như) trăng đến ngày sắp tròn mà chưa đầy, tốt lành. 35. Mậu Tuất - Địa Thủy Sư, hào 5 - “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu ; trưởng tử suất sư, đệ tử dư thi, trinh hung”. - “Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vậy bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nghiệm cho bậc trưởng giả cương chính, thì có thể thống suất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọn người trẻ tuổi không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm”. 36. Kỷ Hợi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 3 - “Cửu Tam, phục nhung vu mãng, thăng kỳ cao lăng, tam tuế bất hưng” - “Chín Ba, phục binh giữa nơi rừng rậm, thỉnh thoảng lên gò cao trông ngóng, qua ba năm cũng không dám dấy binh giao chiến”. 37. Canh Tý - Trạch Lôi Tùy, hào 1 - “Sơ Cửu, quan hữu du, trinh cát ; xuất môn giao hữu công”. - “Chín Đầu, có quan niệm tư tưởng giữ vững chính bền, thì sẽ được tốt lành ; ra cửa kết bạn với người, tất sẽ thành công”. 38. Tân Sửu – Sơn Phong Cổ, hào 1 - “Sơ Lục, cán phụ chi cổ, hữu tử khảo, vô cữu, lệ chung cát”. - “Sáu Đầu, uốn nắn sự tệ loạn của cha, người con có thể nối được nghiệp tổ tiên, tất không có cữu hại, tuy có thể nguy hiểm nhưng cuối cùng tất được tốt lành”. 39. Nhâm Dần - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (39 ~ 51) - “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”. - “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”. 40. Quý Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (40 ~ 52) - “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”. - “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”. 41. Giáp Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (41 ~ 29) - “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”. - “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”. 42. Ất Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (42 ~ 30) - “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát” - “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”. 43. Bính Ngọ - Phong Sơn Tiệm, hào 2 - “Lục Nhị, hồng tiệm vu bàn, ẩm thực hãn hãn, cát”. - “Sáu Hai, chim đại nhạn bay từ từ đến bên phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi vui vẻ, tốt lành”. 44. Đinh Mùi – Lôi Trạch Quy muội, hào 6 - “Thượng Lục, nữ thừa khuông, vô thực ; sỹ khuê dương, vô huyết, vô du lợi”. - “Sáu Trên, người con gái tay xách giỏ tre, không có gì ở trong ; người con trai cầm dao giết dê, không thấy máu: (vợ chồng làm lễ không thành), không có gì lợi”. 45. Mậu Thân - Địa Thủy Sư, hào 4 - “Lục Tứ, sư tả thứ, vô cữu”. - “Sáu Bốn, quân lui về, tạm giữ thế thủ thì tránh được cữu hại”. 46. Kỷ Dậu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 4 - “Cửu Tứ, thừa kỳ dung, phất khắc công, cát”. - “Chín Bốn, cưỡi lên tường thành rồi lại lui không dám tiến công, tốt lành”. 47. Canh Tuất - Trạch Lôi Tùy, hào 6 - “Thượng Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi ; vương dụng hưởng vu tây sơn”. - “Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà ràng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây”. 48. Tân Hợi - Sơn Phong Cổ, hào 2 - “Cửu Nhị, cán mẫu chi cổ, bất khả trinh”. - “Chín Hai, uốn nắn sự tệ loạn của mẹ, khi tình thế khó tiến hành thì không thể gượng làm được, mà phải giữ vững chính bền để đợi thời”. 49. Nhâm Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (49 ~ 1) - “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”. - “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”. 50. Quý Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (50 ~ 2) - “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”. - “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành”. 51. Giáp Dần – Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (51 ~ 39) - “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”. - “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”. 52. Ất Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (52 ~ 40) - “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”. - “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”. 53. Bính Thìn – Phong Sơn Tiệm, hào 1 - “Sơ Lục, hồng tiệm vu can ; tiểu tử lệ, hữu ngôn, vô cữu”. - “Sáu Đầu, chim nhạn bay dần đến bên bờ nước (không được an toàn) ; giống như trẻ nhỏ gặp lúc nguy hiểm, bị trách mắng, nhưng nếu có thể tiến dần không vội thì tránh được cữu hại”. 54. Đinh Tị - Lôi Trạch Quy muội, hào 1 - “Sơ Cửu, quy muội dĩ đệ, phả năng lý, chinh cát”. - “Chín Đầu, người con gái về nhà chồng làm vợ lẽ, chân thọt mà cố gắng đi được, tiến lên thì được tốt lành”. 55. Mậu Ngọ - Địa Thủy Sư, hào 3 - “Lục Tam, sư hoặc dư thi, hung” - “Sáu Ba, quân chốc chốc phải chở xác về, có hung hiểm”. 56. Kỷ Mùi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 5 - “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ”. - “Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp”. 57. Canh Thân - Trạch Lôi Tùy, hào 5 - “Cửu Ngũ, phu vu gia, cát”. - “Chín Năm, tỏ rõ lòng thành tín với kẻ thiện, tốt lành”. 58. Tân Dậu – Sơn Phong Cổ, hào 3 - “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu”. - “Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn”. 59. Nhâm Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (59 ~ 11) - “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”. - “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”. 60. Quý Hợi - Thủy Địa Tỷ, hào 5 (60 ~ 12) - “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”. - “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”. Vòng 8, với sự khởi đầu là ngày Giáp Tý, cho chúng ta nhận thức được một hàm nghĩa rất rõ ràng: "nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại". Đạo lý hay thật !!!1 like
-
Tìm hiểu mối quan hệ giữa Hệ thống 60 Can Chi với Dịch Kinh. Đây là phần kiến thức ít thấy sách vở bàn tới. Trọng tâm tìm hiểu là trường phái Tam huyền đời nhà Hán. Nhà Đại Dịch học Trịnh Huyền đã công bố về "HÀO THẦN ĐỒ", chúng ta bắt đầu khảo chứng từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH sau: 乾宫八卦属金 Càn cung bát quái thuộc kim 乾为天 Càn Vi Thiên 天风姤 Thiên Phong Cấu 天山遁 Thiên Sơn Độn 天地否 Thiên Địa Bỉ 风地观 Phong Địa Quán 山地剥 Sơn Địa Bác 火地晋 Hỏa Địa Tấn 火天大有 Hỏa Thiên Dại Hữu 坎宫八卦属水 Khảm cung bát quái thuộc thủy 坎为水 Khảm Vi Thủy 水泽节 Thủy Trạch Tiết 水雷屯 Thủy Lôi Truân 水火既济 Thủy Hỏa Ký Tế 泽火革 Trạch Hỏa Cách 雷火丰 Lôi Hỏa Phong 地火明夷 Địa Hỏa Minh Di 地水师 Địa Thủy Sư 艮宫八卦属土 Cấn cung bát quái thuộc thổ 艮为山 Cấn Vi Sơn 山火贲 Sơn Hỏa Bí 山天大畜 Sơn Thiên Đại Súc 山泽损 Sơn Trạch Tổn 火泽睽 Hỏa Trạch Khuê 天 泽履 Thiên Trạch Lý 风泽中孚 Phong Trạch Trung Phu 风山渐 Phong Sơn Tiệm 震 宫八卦属木 Chấn cung bát quái thuộc mộc 震为雷 Chấn Vi Lôi 雷地豫 Lôi Địa Dự 雷 水解 Lôi Thủy Giải 雷风恒 Lôi Phong Hằng 地风升 Địa Phong Thăng 水风井 Thủy Phong Tỉnh 泽风大过 Trạch Phong Đại Quá 泽雷随 Trạch Lôi Tùy 巽宫八卦属木 Tốn cung bát quái thuộc mộc 巽为风 Tốn Vi Phong 风天小畜 Phong Thiên Tiểu Súc 风火家人 Phong Hỏa Gia Nhân 风雷益 Phong Lôi Ích 天雷无妄 Thiên Lôi Vô Vọng 火雷噬嗑 Hỏa Lôi Phệ Hạp 山雷颐 Sơn Lôi Di 山 风蛊 Sơn Phong Cổ 离宫八卦属火 Ly cung bát quái thuộc hỏa 离为火 Ly Vi Hỏa 火 山旅 Hỏa Sơn Lữ 火风鼎 Hỏa Phong Đỉnh 火水未济 Hỏa Thủy vị Tế 山水蒙 Sơn Thủy Mông 风水涣 Phong Thủy Hoán 天水讼 Thiên Thủy Tụng 天火同人 Thiên Hỏa Đồng Nhân 坤宫八卦属土 Khôn cung bát quái thuộc thổ 坤为地 Khôn Vi Địa 地雷复 Địa Lôi Phục 地泽临 Địa Trạch Lâm 地天泰 Địa Thiên Thái 雷天大壮 Lôi Thiên Đại Tráng 泽天夬 Trạch Thiên Quải 水天需 Thủy Thiên Nhu 水地比 Thủy Địa Tỉ 兑宫八卦属金 Đoái cung bát quái thuộc kim 兑为泽 Đoài Vi Trạch 泽水困 Trạch Thủy Khốn 泽地萃 Trạch Địa Tụy 泽山咸 Trạch Sơn Hàm 水山蹇 Thủy Sơn Kiển 地山谦 Địa Sơn Khiêm 雷山小过 Lôi Sơn Tiểu Quá 雷泽归妹 Lôi Trạch Quy Muội Từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH, chúng ta lần lượt xắp xếp Can Chi theo hệ thống, khởi đầu từ Giáp Tý, để xác định HÀO THẦN phối hợp với 60 Can Chi: 1. Giáp Tý – hào 1 2. Ất Sửu – hào 4 3. Bính Dần – hào 6 4. Đinh Mão – hào 2 5. Mậu Thìn – hào 2 6. Kỷ Tị - hào 6 7. Canh Ngọ - hào 4 8. Tân Mùi – hào 4 9. Nhâm Thân – hào 5 10. Quý Dậu – hào 6 11. Giáp Tuất – hào 6 12. Ất Hợi – hào 5 13. Bính Tý – hào 5 14. Đinh Sửu – hào 3 15. Mậu Dần – hào 1 16. Kỷ Mão – hào 1 17. Canh Thìn – hào 3 18. Tân Tị - hào 5 19. Nhâm Ngọ - hào 4 20. Quý Mùi – hào 1 21. Giáp Thân – hào 5 22. Ất Dậu – hào 6 23. Bính Tuất – hào 4 24. Đinh Hợi – hào 4 25. Mậu Tý – hào 6 26. Kỷ Sửu – hào 2 27. Canh Dần – hào 2 28. Tân Mão – hào 6 29. Nhâm Thìn – hào 3 30. Quý Tị - hào 2 31. Giáp Ngọ - hào 4 32. Ất Mùi – hào 1 33. Bính Thân – hào 3 34. Đinh Dậu – hào 5 35. Mậu Tuất – hào 5 36. Kỷ Hợi – hào 3 37. Canh Tý – hào 1 38. Tân Sửu – hào 1 39. Nhâm Dần – hào 2 40. Quý Mão – hào 3 41. Giáp Thìn – hào 3 42. Ất Tị - hào 2 43. Bính Ngọ - hào 44. Đinh Mùi – hào 6 45. Mậu Thân – hào 4 46. Kỷ Dậu – hào 4 47. Canh Tuất – hào 6 48. Tân Hợi – hào 2 49. Nhâm Tý – hào 1 50. Quý Sửu – hào 4 51. Giáp Dần – hào 2 52. Ất Mão – hào 3 53. Bính Thìn – hào 1 54. Đinh Tị - hào 1 55. Mậu Ngọ - hào 3 56. Kỷ Mùi – hào 5 57. Canh Thân – hào 5 58. Tân Dậu – hào 3 59. Nhâm Tuất – hào 6 60. Quý Hợi – hào 51 like
-
Khi giải Dịch theo trường phái tam tài Thiên - Địa - Nhân, trong chu kỳ 1864 - 2043, thì đối với "tài" của Thiên, chúng ta đang ngồi Hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, lời hào 6 quẻ Đại súc viết: Hà thiên chi cù , hanh. Tượng quẻ Sơn Thiên Đại súc Hỏi rằng: - Trước hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào đây ? - Sau hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào ? Dịch im lặng, không trả lời. - Phải chăng, "sau" hào 6 quẻ Đại súc, là hào 1 quẻ Địa Phong Thăng. Rồi tiếp đến hào 2 quẻ Địa Sơn Khiêm. - Phải chăng, "trước" hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào 5 quẻ Thủy Thiên Nhu. Lại trước hào 5 quẻ Nhu, là hào 4 quẻ Lôi Thiên Đại tráng. Dịch vẫn im lặng. Vấn đề này, khi chú giải về "Kinh", thật là mông lung về tính liên tục của Hào từ. Vì đã gọi là "Kinh", thì phải là một hệ thống lôgíc chặt chẽ và hoàn chỉnh. Có thể đây vẫn là một khoảng trống, mà Dịch Kinh chưa đề cập tới. Hay, cũng có thể đã hình thành một hệ thống phương pháp luận về: tính liên tục của hào từ, mà ta chưa biết tới. Hoặc cũng là sự tồn nghi của cá nhân tôi, con người lại đòi hỏi về "tri thiên" thật mơ hồ.Vậy thì câu: "sổ vãng giả thuận, tri lai giả nghịch" chúng ta nên hiểu như thế nào đây.1 like