• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 26/08/2010 in all areas

  1. Tướng Giáp, GS Châu:Trùng hợp kì lạ vận người, thế nước. Kinh đô Thăng Long ngàn năm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đại thọ tròn 100 tuổi, GS Ngô Bảo Châu đoạt giải thưởng Toán quốc tế Fields có tầm cỡ Nô-ben - Liên tiếp những sự kiện trọng đại của dân tộc khiến lòng người phấn chấn. Trong không khí rạo rực đó, chúng tôi nhận được bài viết đầy chiêm nghiệm của nhà văn Xuân Cang. Đọc xong bài viết này, độc giả dường như sẽ có chung một cảm xúc, tâm thế: Tự hào thế nước đi lên! Trong cuộc đời dường như có một quy luật là mỗi con người đều được giời đất sinh ra vào một thời điểm nào đó, là để giao cho một sứ mệnh nào đó, một việc đời nào đó, việc lớn, việc nhỏ, cùng với những thăng trầm trong cuộc sống, gọi là số mệnh. Đó là một nhận định, một suy ngẫm tổng kết của người xưa truyền lại. Đã sinh ra ở trong trời đất - Nguyễn Công Trứ đã từng thao thức như thế. Trăm năm trong cõi người ta - Nguyễn Du đã thốt lên khi mở đầu truyện Kiều, như là vận mệnh Kiều đã được định sẵn từ một bàn tay bên trên. Nghe có vẻ huyền hoặc, khó tin. Nhưng tôi qua thực tế làm các bài toán Kinh Dịch về vận mệnh con người thì thấy đó là một sự thật kỳ diệu. Nhân tháng Tám lịch sử này của đất nước tôi xin kể vài chuyện liên quan đến những con người dường như được trời đất sinh ra để giao cho thực hành những việc liên quan đến vận mệnh đất nước. Đó là Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp. Hoặc để làm một tín hiệu sáng lên trong vận mệnh nhân dân, như một nhân vật gần đây là Ngô Bảo Châu - một trong những "hậu duệ" xứng đáng của các bậc tiền bối. Trước hết nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người được sinh ra với quẻ Dịch là Thiên Trạch Lý, nguyên đường chủ mệnh là hào 5. Người xưa đặt lời cho quẻ Lý chỉ có 7 chữ Hán, dịch là Dẫm lên đuôi cọp, mà cọp không cắn, hanh thông (Lý hổ vĩ, bất khiết nhân, hanh). Nghe hoang sơ, đơn giản thế, nhưng là cả một triết lý cao sâu, khái quát một Minh triết: Lấy nhu thắng cương, lấy yếu thắng mạnh. Phải thế nào thì dẫm lên đuôi cọp mà vẫn an toàn chứ? Chỉ có mấy chữ mà nói lên cái tính cách người, cái bản lĩnh người, cái tài đức hơn đời của người. Hồ Chí Minh chính là như thế. Cuộc đời Hồ Chí Minh với bản lĩnh lấy nhu thắng cương, lấy yếu thắng mạnh chính là bắt nguồn từ triết lý cao sâu dẫm lên đuôi cọp mà cọp không cắn. Đó cũng là tính cách Việt, bản lĩnh Việt, sức sống Việt. Năm 1946, khi Người sang Pháp, giao việc nước cho Phó chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng. Giữa tình hình nước sôi lửa bỏng, cụ Huỳnh hỏi cụ Hồ: Khi có biến thì làm thế nào? Hồ Chủ tịch trả lời: Dĩ nhu ứng cương, dĩ bất biến ứng vạn biến. Nghĩa là lấy cái mềm ứng xử với cái cứng, lấy cái bất biến đối phó với vạn cái biến. Câu ấy chính là một minh triết bắt nguồn từ vận mệnh của người: Lấy nhu thắng cương. Hậu vận của Hồ Chí Minh bắt đầu từ năm 1942 là quẻ Trạch Hỏa Cách, chủ mệnh hào 2. Cách là Cải cách, Cách mạng. Lời hào 2 nói rằng: Chuẩn bị lâu ngày rồi, liệu cải cách đi, tiến lên, tốt, không lỗi. (Cải cách ở đây theo vận mệnh Hồ Chí Minh là làm cách mạng). Thực tế đời sống đã diễn ra đúng như thế. Tôi xin không nói thêm. Có một điều thú vị. Năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời đô, ban hành Chiếu dời đô, câu cuối có câu: Ý các khanh ra sao? Các nhà văn, các nhà sử học đều có lời bình: Đó là câu văn hay nhất trong toàn bộ bài Chiếu. Chính câu hỏi ấy đã đi vào lòng dân, biến thành ý chí của quần thần, của nhân dân. 935 năm sau, năm Ất Dậu (1945) sau cuộc Tổng khởi nghĩa ngày 19-8 tại Hà Nội, đúng 15 ngày sau, ngày 2-9, tại quảng trường Ba Đình, ngay sát gần Hoàng thành xưa, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập. Một điều bất ngờ đã xảy ra, vừa đọc được vài câu, giữa chừng bỗng dừng lại vài giây, Người hỏi: Tôi nói đồng bào nghe rõ không? Hàng vạn người trên quảng trường đã đồng thanh reo lên: Rõ ạ. Sau đó im phắc nghe Bác Hồ đọc tiếp. Không ngờ câu hỏi đột ngột từ trong trái tim người thủ lĩnh, người lãnh đạo, bỗng có tính minh triết cao sâu. Tôi nói đồng bào nghe rõ không, là sự gặp nhau đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, giữa lãnh tụ và quần chúng, nguyên thủ và nhân dân. Cái phút giây ấy của lịch sử, cũng chứng kiến một cuộc gặp nhau giữa hai nguyên thủ quốc gia (cách nhau gần nghìn năm) trong một câu nói gần giống nhau. Ý các khanh ra sao? Tôi nói đồng bào nghe rõ không? Đây không phải tình cờ. Đây là sự gặp nhau về ý chí, gặp nhau về Thời Cơ, gặp nhau trong một chữ THỜI của trời đất, núi sông. Xin nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Năm nay ông vừa 100 tuổi. Chúng tôi có làm quẻ Kinh Dịch về cuộc đời ông, thấy ra một điều vô cùng kinh ngạc trong số mệnh ông. Tiền vận ông 42 năm được quẻ Thuần Khảm. Hậu vận ông từ năm 1953 được quẻ Địa Thủy Sư, hào 5. Chỉ xin nói về hậu vận này. Sư là Đám đông, Quân đội. Tượng quẻ là trong Đất có Nước tụ lại. Quẻ này phản ánh cuộc đời người có số mệnh điều khiển đám đông, nếu tham gia quân đội thì trở thành người chỉ huy. Người được quẻ này thường là trước gian nan, sau thành công. Người quẻ Sư hào 5 có thiên chức chỉ huy, thích ứng nhanh với chiến trận, thu nhận nhanh binh pháp, binh thư, nghệ thuật hành quân, dụng tướng, dụng hiền. Mệnh thế nào thì cuộc đời thế ấy. Ông trở thành vị tướng cầm quân suốt hai cuộc kháng chiến cứu nước. Ngày nay thấy thêm rằng với mệnh trời cho, những gì thuộc về quẻ Địa Thủy Sư đã tiềm ẩn trong vô thức của ông và nhập vào những ứng biến của ông trong công tác chỉ huy chiến dịch. Chỉ xin nói một ví dụ. Hào 4 quẻ Địa Thủy Sư có vẻn vẹn bốn chữ: Lui quân không lỗi (Tả thứ vô cựu). Cả quẻ Dịch chỉ có 6 hào, mà người xưa để hẳn ra một hào nói về lui quân, đủ biết vấn đề này quan trọng dường nào trong học thuyết về quân sự. Trong diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ, khi vừa mới lên mặt trận, nhận thấy tập đoàn cứ điểm của địch đã tăng cường, việc chuẩn bị chiến trường của quân ta chưa đạt yêu cầu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển từ phương án đánh nhanh, thắng nhanh sang đánh chắc, tiến chắc; đã kéo pháo vào nay lại kéo pháo ra, củng cố lại trận địa, lui để tiến, chia giai đoạn đánh công kiên, bóc từng mảng cứ điểm của địch. Chủ trương phù hợp với thực tế chiến trường, được Đảng ủy mặt trận tán thành, cán bộ chiến sĩ chấp hành nghiêm chỉnh, đã biến thành sức mạnh đi đến thắng lợi cuối cùng. Kinh Dịch bảo lui quân thế không lỗi. Không khác gì trời đất đã mách bảo từ trong số mệnh. Viết đến đây tôi có cảm tưởng như giời đã sinh ra cho nước Việt ta hai con người, với hai sứ mệnh, một người là Nguyên thủ, một người là Tướng cầm quân, và đã dẫn dắt hai con người đó đến với nhân dân ta đúng thời khắc Cách mạng và Cứu nước. Bây giờ đến Ngô Bảo Châu. Tôi tính quẻ Kinh Dịch thấy anh được quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu, nguyên đường chủ mệnh hào 5. Quẻ Đại Hữu nói rằng anh là người có Sở hữu rất lớn, tóm tắt là Có Lớn, còn hiểu là có lòng khoan dung, rộng lớn. Tượng quẻ là Lửa ở trên Trời. Người quẻ Đại hữu là người bên ngoài thì phát triển mạnh mẽ, bên trong thì chứa chất hàm súc. Có lớn ở đây có hai nghĩa, một là có lớn về vật chất, là người giàu có, hai là có lớn về trí tuệ, là người sang trọng. Ngô Bảo Châu thuộc lớp người thứ hai này. Người quẻ Đại hữu có lúc như bánh xe lớn, chở nặng, đi chốn nào cũng được, sẵn sàng gánh vác công việc to lớn, nặng nhọc. Có lúc như được phúc trời ban xuống, là người có uy danh, có lòng chí thành, được tin dùng, có thể tiếp xúc với các bậc đại nhân, nguyên thủ. Mệnh như thế nên sự kiện anh trở thành người Việt Nam giỏi toán được giải thưởng Fields danh giá, dường như có giời trong đó. Có một cuộc gặp huyền diệu giữa hai thời gian: Ngày 19-8 năm 1945 của toàn dân ta tổng khởi nghĩa thành công, cả dân tộc bước vào kỷ nguyên lịch sử mới, gặp ngày 19-8 năm 2010, vào lúc 12 giờ 55 phút, Ngô Bảo Châu người Việt được giải thưởng Toán quốc tế Fields có tầm cỡ Nô-ben. Việt Nam là nước Châu Á thứ hai có sự kiện này. Mọi người Việt trong nước, ngoài nước đều vui mừng, xúc động về sự kiện này. Thấy rằng trong đó có một tín hiệu tỏa sáng về một thời kỳ mới trong lịch sử đã bắt đầu, mà ngày 19-8 đã gợi ra: một cuộc “tổng khởi nghĩa”, một cuộc cách mạng ít nhất trong Giáo dục, trong Văn hóa, trong khám phá khoa học, phát hiện và sử dụng hiền tài, mà hiền tài là nguyên khí quốc gia. Đây không phải tình cờ. Đây cũng là sự gặp về ý chí, gặp về Thời Cơ, trong một chữ THỜI của trời đất, núi sông. Duy có một điều này giời đất bảo thêm cho ta hay: Đối với Ngô Bảo Châu, tuy số mệnh cực tốt như thế, nhưng nếu không có một sự đam mê hết mình, nếu không có những người thày, những môi trường Toán như anh đã từng được trải nghiệm qua, thì liệu có thể có / hay không cái ngày 19-8 của anh năm nay? Câu trả lời dành cho tất cả các bạn trẻ. Từ vận Người đến vận Nước vẫn có một khoảng cách dành cho ý chí con người, bản lĩnh con người, kể cả một cái gì gọi là may mắn. Cuộc đời Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp là một tấm gương. Tôi cứ nghĩ lan man như thế từ cái hôm 19-8 năm nay, vào giờ Ngọ, lúc 12 giờ 55 phút theo giờ việt. Theo VTC News.
    3 likes
  2. (Zing) - Quần thể lăng mộ của ông Vũ Hồng Khánh "ngự" trên mảnh đất rộng hơn 3.000 m2 giữa TP Hải Phòng. Để hoàn thành ngôi mộ "độc nhất vô nhị" này, ước chừng ông Khánh đã bỏ ra hơn 1 triệu USD. >> Người đàn ông bỏ 120 tỉ đồng để… chơi cây Ông Vũ Hồng Khánh sinh ra trong ra đình công chức nghèo tại phố Cảng, từng tốt nghiệp khoa Chế tạo máy, ĐH Bách Khoa Hà Nội. Vốn ham mê sáng tạo máy từ nhỏ, chàng kỹ sư trẻ Vũ Hồng Khánh đã sớm nổi danh với những sáng chế máy như: chế biến xà phòng, máy ép gỗ, ép mùn cưa, máy cải tạo đồng cói, máy ép cói, máy chẻ cói, máy đan cói xuất khẩu, rồi đủ các loại máy móc phục vụ nông dân như máy cày, máy gặt, máy tuốt lúa, máy cắt cỏ… Nhưng sáng tạo khiến ông "nức danh" nhất phải kể đến việc chế tạo máy uốn vành xe đạp bằng inox. Sáng chế này đã đem lại nhiều giải thưởng, bằng khen, bằng sáng tạo khoa học ViFOTEC. Đặc biệt, việc mở doanh nghiệp cung cấp vành xe đạp inox khắp Việt Nam và xuất khẩu sang Lào, Campuchia đã đưa tên tuổi Vũ Hồng Khánh lên hàng "đại gia" bậc nhất Hải Phòng thời bấy giờ. Giờ chàng kỹ sư ngày nào đã trở thành ông lão 70 tóc muối tiêu, ông khề khà kể: "Cả tuổi trẻ cống hiến cho khoa học, làm bạn với dầu mỡ. Giờ về già, tôi chỉ khao khát tự tay xây mộ cho mình lúc nằm xuống". Vậy là, để thỏa khao khát ông đã ngắm cho mình mảnh đất tại quận Kiến An, Hải Phòng làm nơi... yên nghỉ. Ông gặp tất cả những hộ dân xung quanh mảnh đất để thỏa thuận, ngã giá mua lại đất để mảnh đất được rộng rãi, vuông vức, dù đắt cỡ nào ông cũng mua. Cuối cùng, với 9 tỷ đồng, ông đã "có trong tay" mảnh đất 3.000 m2. Để bắt tay xây dựng lăng mộ cho mình, ông Khánh đã khăn gói quả mướp vào tận khu vực núi Nhồi, Thanh Hóa để tự tay chọn những khối đá đẹp nhất, đắt nhất. Ông bảo: "Đá xanh, đá đen đủ tiêu chuẩn phải nguyên khối, nguyên tảng, không có đường vân dù chỉ nhỏ bằng sợi tóc, không màu sắc pha tạp". Vì thế, ông Kha không dùng cách khai thác bằng nổ mìn mà dùng sức người khai thác, bởi theo ông, đá khai thác bằng nổ mìn sẽ om, sức bền không tốt. Mỗi tảng đá như thế giá từ 10-30 triệu đồng. Sau 5 năm cần mẫn làm việc của 3 anh em họa sĩ Trần Minh Tuấn cùng hàng trăm thợ lành nghề, khu trung tâm lăng mộ đã được hình thành. Khu trung tâm lăng mộ rộng chừng 200m2, lẩn khuất sau những hàng cau vua rợp bóng. Cổng vào lăng mộ được dựng bằng hai cột đá đen, mái cổng là một tấm đá đen lớn. Ở giữa lăng mộ là khối đá đen nặng 10 tấn, mặt trước là những dòng chữ khắc nội dung kể tài năng cũng như đóng góp của ông cho xã hội. Trên cùng tháp đá bức tượng bán thân của ông Khánh được chạm khắc tỉ mỉ. Toàn bộ phần khuôn viên lăng mộ đều được xếp bằng những khối đá trắng lớn, được mài giũa rất khít. Hầm mộ sâu trong lòng đất 4m, được bao bọc bởi những phiến đá khổng lồ, mỗi khối nặng 2,6 tấn. Ông Khánh dặn lại, khi nào ông và vợ nằm xuống, các con sẽ rút hết nước, nhấc nắp lăng mộ đưa thi hài ông và vợ xuống. Sau đó, sẽ cho nước lên nắp hầm cho... mát mẻ. Công trình được đặt tên là "vườn treo Babylon" gồm 3 bậc sàn bằng đá, 24 cột đá và một mái đá lớn. Ông Khánh coi đây là nơi nghỉ ngơi, thưởng trà. Vị đại gia này muốn xương cốt của mình nằm vĩnh hằng dưới một lớp nước để tạo sự kín đáo, yên tĩnh và cũng là để con cháu đời sau được tự hào về khả năng của ông cha mình. Căn biệt thự của ông Vũ Hồng Khánh "ngự" bên cạnh khu "lăng mộ triệu đô". Lê Trang
    2 likes
  3. Xin lỗi LeDien, ai ai cũng đều biết là anh bị đuổi ra khỏi lớp học, vì do đã công bố kiến thức Phong thủy Lạc Việt một cách trái phép, khi chưa có sự đồng ý của Trung tâm hay của Sư Phụ Thiên Sứ. Việc vin cớ rằng "do những câu hỏi hốc búa của Tôi không được trả lời thuyết phục." là điều ngụy tạo trắng trợn.
    2 likes
  4. @ LeDien Ngoài các bệnh về đầu, Bố bạn còn bị bệnh về chân, chân trái. -Yếu tố nào chỉ ra điều này? Nhà sửa khó, nhưng không phải không sửa được. -câu này đúng, nhưng sửa ra sao? Nhà Bạn chắc chắn phạm Đại Không vong.? Chắc chắn. - Chắc không? 178 độ là đại không vong sao? Nên dời hầm phốt về Gara xe. Bỏ bể nước. - Cách này là một sai lầm lớn và nguy hại trong tư vấn. Lời khuyên của Thiên Đồng là với kiến thức chưa qua khỏi một tháng của Phong thủy Lạc Việt cơ bản thì LeDien nên thật thận trọng trong những lời tư vấn mang tính cá nhân. Và khi tư vấn nên nêu ra là anh tư vấn theo quan niệm phong thủy nào, tránh những hiểu lầm cho những người tham khảo trên những mục tư vấn. Còn nếu anh là người đã có kiến thức dồi dào, lâu năm của những phong thủy ngoài Phong thủy Lạc Việt thì cũng nên nêu rỏ lý do hay nguyên nhân giải thích cho các yếu tố được tư vấn, theo những sở kiến đó. Thiên Đồng
    2 likes
  5. Nhặt lá rụng trong tâm. Sư Đỉnh Châu và một vị sư ngồi đọc kinh ở sân chùa, đột nhiên một trận gió thổi đến, lá trên cây rụng xuống khá nhiều. Đỉnh Châu liền khom lưng nhặt từng chiếc lá bỏ vào trong đãy. Vị sư bên cạnh thấy vậy bèn nói: - Không cần nhặt đâu, dù sao sáng ngày mai chúng ta cũng phải quét mà! Đỉnh Châu không cho là như vậy nên nói: - Không thể nói như vậy, tôi nhặt thêm một lá, sân sẽ sạch thêm một chút. Vị sư lại nói: - Lá rụng nhiều như thế, nhặt phía trước nó lại rụng phía sau, làm sao mà nhặt hết được? Sư Đỉnh Châu vừa nhặt vừa nói: - Không sạch lá rụng ở trên mặt đất nhưng với lá rụng trong đất tâm thì cũng có lúc tôi nhặt sạch. Vị sư nghe rồi, hiểu ra việc nhặt lá rụng của Đỉnh Châu cốt là nhặt những phiền não vọng tưởng trong tâm. (Theo Hoa Linh Thoại) BÀI HỌC ĐẠO LÝ: Quét chùa, một hình ảnh và việc làm quen thuộc của các tiểu tăng, vì “con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Nhất là đối với những ngôi chùa thâm u, nhiều cổ thụ thì lá rụng vô số và quét lá vàng rơi là việc gần như liền tay của các chú tiểu và những vị Phật tử công quả, gieo phúc với chùa. Trước đây, mỗi lần đến chùa ngồi nhẩn nha niệm Phật thì các sư thường trao cho tôi một cây chổi tre, bảo quét chùa cho có phước. Lạ, quét chùa thì cũng như quét nhà thôi, có khác gì đâu, vậy thì tại sao quét chùa lại có phước? Cũng có thể làm việc cho chùa nên có phước, ngày ấy tôi cũng chỉ biết vậy thôi. Rồi duyên lành đến, một vị sư đã dạy tôi cách quét chùa. Sân chùa lá rụng hoài, dĩ nhiên phải quét mãi không thôi. Sân chùa phải sạch mới trang nghiêm chốn thiền môn, cũng như tâm của mình cần tĩnh lặng thì Phật trong tâm mới hiển bày. Do đó, quét lá vàng rơi trên đất cũng đồng thời quét luôn những phiền não rơi rụng trong tâm. Vì quét sạch bụi trần phiền não trong tâm nên mới tạo ra phước đức, sống hạnh phúc an lành. Và từ đó đến nay cũng đã nhiều năm, tôi vẫn hành trì pháp môn “quét chùa” trong im lặng, bền bỉ và liên tục. Tôi nhận ra rằng phiền não trong tâm nhiều hơn lá rụng sân chùa gấp nhiều lần. Dù nhiều não phiền nhưng do kiên trì quét dọn, không bao giờ ngừng nghỉ, không đợi đến ngày mai nên rắc rối thưa dần và bình an ngày càng thêm lớn. Mới hay, người biết tu và thực tu thì dù làm bất cứ việc gì cũng là phương tiện để dọn dẹp và trau dồi thân tâm nghiêm tịnh. Từ quét lá, làm vườn, trồng cây cho đến dịch kinh, viết sách, tụng niệm cũng chỉ để “an tâm”. Nếu không hướng đến mục tiêu làm trong sạch thân tâm thì mọi việc dù mệnh danh Phật sự cũng phù du và cạn cợt. Như sư Đỉnh Châu chỉ làm một công việc bình thường là nhặt lá vàng rơi ở sân chùa nhưng kết quả thì diệu dụng vô cùng. Vì đó là một quá trình hướng đến thanh lọc nội tâm thanh tịnh, không còn phiền não và chấp thủ. Tu tập là một người làm vườn, là thiên thần quét lá lúc nào cũng dọn dẹp vườn tâm trở nên đẹp đẽ và trang nghiêm. Bạch Vân
    2 likes
  6. TƯ LIỆU THAM KHẢO Gửi ACE, Dưới đây là các bài audio đọc cho quyển sách "Hành trình về phương Đông. Phần 1 Phần 2 Phần 3 Phần 4 Phần 5 Phần 6 Phần 7 Phần 8 Phần 9 Phần 10
    1 like
  7. THÔNG BÁO (V/v Khai giảng lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản và nâng cao) Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương thông báo khai giảng lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản khóa 04 và Phong thủy Lạc Việt nâng cao khóa 1. Chương trình học: 1. Lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản khóa 4: - Khai giảng: ngày 25/8/2010 (tức 16/7/ canh dần) - Thời gian: 03 tháng - Hình thức học: học trực tuyến trên web: lyhocdongphuong.org.vn và họp mặt định kỳ, 01 lần/01 tháng. - Nội dung chính: *Các kiến thức cơ bản về Phong thủy Lạc Việt. *Bát trạch Lạc Việt - Học phí: 400.000 đồng/ 01 tháng. (Bốn trăm nghìn đồng một tháng) - Hình thức đóng học phí: * Đóng trực tiếp tại TTNC Lý Học Đông Phương, số A75/6F/14 đường Bạch Đằng, P.2, Quận Tân Bình. * Hoặc chuyển khoản: Chủ tài khoản : HÀ HỒNG NGA Số tài khoản: 10620424693010 tại : Ngân hàng: TECHCOMBANK (chi nhánh Tân Bình). Lưu ý: Khi chuyển khoản hay dùng Ủy Nhiệm Chi nên ghi rõ nội dung nộp "Nick hoạt động trên Diễn Đàn & Học Phí Lớp Phong Thủy cơ bản khóa 4" để tiện kiểm tra và xác nhận. 2. Lớp Phong thủy Lạc Việt nâng cao khóa 01: - Khai giảng: ngày 11/8/2010 (tức 02/7/ canh dần) - Thời gian: 04 tháng- Hình thức học: học trực tuyến trên web: lyhocdongphuong.org.vn và họp mặt định kỳ 01 lần/01tháng. - Nội dung chính: * Cấu trúc hình thể trong Phong thủy Lạc Việt *Dương trạch Lạc Việt - Học phí: 3.000.000 đồng/ 04 tháng. (Ba triệu đồng cho 04 tháng) Lưu ý: Khi chuyển khoản hay dùng Ủy Nhiệm Chi nên ghi rõ nội dung nộp "Nick trên Diễn Đàn & Học Phí Lớp Phong Thủy nâng cao" để tiện kiểm tra và xác nhận.Trân trọng thông báo. Tp HCM, ngày 4 tháng 8 năm 2010 Thay mặt TTNC Quản trị diễn đàn
    1 like
  8. Môn khoa học huyền bí Tây phương gọi là Thần Số (Numerology) dựa theo nhân sinh quan của Thần Tam Giác (Divine Triangle). Nhờ Thần Số mà người ta đoán được nhân cách, tính tình, công việc, năng khiếu, tình duyên v.v... của một đời người. Môn khoa học huyền bí đã phát xuất 600 năm trước Thiên Chúa giáng sinh và do nhà toán học Pythagorax lập ra. Pythagorax dùng phương trình C2-A2-B2 của hình tam giác (pythagorean theorem) để giải đoán định mệnh nên các nhà siêu hình học Hy Lạp cho là "God geometrizes." Môn siêu hình học này gồm có tất cả 9 số. Hãy dựa vào bảng sau để tính ra con số định mệnh của bạn: Số 1 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: A, J, S Số 2 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: B, K, T Số 3 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: C, L, U Số 4 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: D, M, V Số 5 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: E, N, W Số 6 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: F, O, X Số 7 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: G, P, Y Số 8 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: H, Q, Z Số 9 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: I, R Ví dụ: tên Lê Thị Mỹ = 3+5+2+8+9+4+7 = 38 = 11 = 2 Con số định mệnh của Lê Thị Mỹ là số 2. Bấm vào mỗi số để đọc phần giải thích. Số 1 Tượng trưng cho sự hùng mạnh, sự độc lập, sự lãnh đạo. Lập trường vững chắc, ít thay đổi. Số 1 còn tiêu biểu cho sự thông minh, sáng tạo, một ý chí sắc bén, cứng, mạnh, tượng trưng cho nguyên lý căn bản của đời sống. Số 1 tương đương với viên Phán Quan (The Magiaan) ở bài bói Tarot. Số 1 đồng hóa với Thái Dương Tinh, nguồn gốc của mọi năng lượng. George Washington, Karl Marx, và Napoleon Bonaparte thuộc loại người mang số 1. Tính Tình & Nhân Cách Ưa thám sát, mạo hiểm, khám phá, tìm tòi và sáng chế. Cứng đầu, ý chí mạnh mẽ, tự quyết, tự lập, tự hào. Có óc tổ chức, lãnh đạo. Rất khó bị thuyết phục, khó sửa đổi những lầm lỗi, và chỉ huy độc đoán. Bản tính rộng rãi, đại lượng, nhưng vì nhiều tham vọng nên dễ trở thành ích kỷ, tàn nhẫn, bất chấp. Làm việc đúng đường hướng thì kết quả rất tốt vì nhiều nhiệt huyết và cương quyết. Nhưng nếu sai lạc thì rất thảm hại. Con người xuất chúng, tinh thần rất cao. Thường nổi bật và gây ấn tượng tốt đẹp ngay lúc đầu. Có tài thuyết phục người chung quanh. Thích hoạt động, bận rộn và xê dịch đó đây. Tế nhị và dễ dàng xúc cảm. Được nhiều người mến phục mặc dầu hơi thiếu xã giao. Có nhiều bạn bè và sẵn sàng giúp đỡ họ mà không ngần ngại điều gì. Đối với kẻ thù, người số 1 không bao giờ tha thứ hoặc quên đi dễ dàng một lỗi lầm nhỏ nào. Do đó có thể trở thành rất tàn nhẫn. Rất nặng về tình cảm và rất dễ đau khổ. Thường che giấu cảm nghĩ thầm kín, ít cho mọi người biết tâm trạng mình dù là bạn bè, thân quyến. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Dễ thành công trong công việc điều khiển và quản trị hơn là trong địa hạt nghệ thuật. Dễ thành công nếu là giám đốc sản xuất, kỹ thuật hơn là tài tử. Làm chủ báo thích hợp hơn là ký giả. Thành công trong các ngành khoa học, nhất là về khảo cứu, sáng chế, và phát minh. Với óc chỉ huy, tính cương quyết và nhiều tham vọng nên dễ đạt được kết quả trong việc làm. Làm việc có lương tâm nhưng ít thành công. Nếu làm công cho người khác rất dễ có sự va chạm với chủ nhân vì lúc nào cũng nghĩ là mình phải.Dễ bị người khác ghét và có kẻ thù vì cứng rắn, muốn làm nhanh, làm mạnh. Nếu là chủ nhân dễ gây hứng thú vì cá tánh đặc biệt, nhiều sáng kiến và chỉ dẫn hoặc huấn luyện rất hay. Về tiền bạc, người số 1 dễ giàu mà cũng dễ bị đói rách. Dễ kiếm tiền mà cũng dễ mất tiền. Dễ mắc công nợ vì dám chi tiêu vào bất cứ việc nào cho là hợp lý. Dám đầu tư vào các công việc liều lĩnh: "được ăn cả ngã về không." Người mang số 1 cần phải học tính cẩn thận. Rất dễ phiêu lưu trong vấn đề tiền bạc có thể đưa tới sự phá sản. Những người làm công hoàn toàn vì tiền thôi thì không nên chọn người chủ mang số 1. Tình Duyên Khi chọn bạn, luôn luôn chọn người mà họ chi phối được. Họ càng gần gũi người nào bao nhiêu thì họ càng có khuynh hướng muốn chỉ huy bấy nhiêu. Rất thụ cảm với tình yêu nhưng cũng lại dễ tiêu tan. Muốn chiếm độc quyền tình cảm và rất cả ghen! Vì bản tính chinh phục nên thích hợp với người có bản tính hiền diệu của số 2 hoặc số 6. Sau đó là các số 3 và 4. Có thể sung sướng với số 5 hay 7. Kết hợp với người số 1 khác hoặc số 8 hay 9 có thể gây bất hòa, sóng gió cho cả đôi bên. Số 2 Số 2 tượng trưng cho sự hòa nhã, ngọt ngào, sẵn sàng giúp đỡ và xã giao khéo léo. Liên hệ với mặt trăng. Tương đương với High Priestess, ái nữ Thổ Tinh, một thiếu nữ đang ngồi tiêu biểu cho quyền năng thiêng liêng, huyền bí và mọi sự bí mật trong cuộc đời đều chỉ khám phá bằng sự thông minh của trí óc và mọi sự hiểu biết đều có sự hổ trợ của ý chí cương quyết. Cựu ngoại trưởng Henry Kissinger và Jules Verne thuộc loại người số 2. Tính Tình & Nhân Cách Rất tế nhị trong việc giao thiệp, biết xét đoán những người khác. Cộng tác ngoan ngoãn với người khác hơn là lãnh đạo họ. Thích sự quen thuộc thân mật yên ổn hơn là muốn ra sao thì ra, hơn là cái gì mới lạ quá. Thường trầm lặng, dè dặt, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi hành động. Thích sự hòa thuận cộng tác. Không ưa cãi cọ, xích mích. Vì vậy không thể tin tưởng hoàn toàn vào sự thành công của họ. Dễ thất vọng, chán nản, lo nghĩ nếu gặp những chuyện không vui. Nếu xử dụng đúng chỗ, tính lịch thiệp sẽ đem lại nhiều kết quả không ngờ. Nếu không dùng đúng chỗ có thể xảy ra chuyện bất hòa. Dễ bị sự chi phối bởi tình cảm hơn là lý trí. Lãng mạn. Dễ xúc cảm. Hòa nhã. Tuy có vẻ thản nhiên trầm lặng bên ngoài, thật ra có nhiều khi "cười bên ngoài mặt, khóc thầm bên trong." Khi vui thì thật là vui, khi buồn thật buồn. Rất dễ gây tình bạn, ít đòi hỏi ở người khác, nhưng lại không phải là người ưa sống tập thể. Không thích là trung tâm vũ trụ, không thích làm mọi người chú ý. Thích là khán giả hơn là làm diễn viên. Chịu khó làm việc hăng hái, vì vậy dễ đem lại thành công cho các việc tổ chức. Ít khi mất bình tĩnh. Khi đau khổ hay giận dữ thường có tính thâm trầm, ngậm đắng nuốt cay hơn là bộc phát. Ưa hòa bình, thích phục sức trang điểm và sống nhiều về tình cảm. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Có óc sáng kiến và tưởng tượng nhưng có khả năng nhiều trong công việc người thừa hành hơn là cấp chỉ huy, cộng tác hơn là tranh chấp. Chẳng hạn làm diễn viên giỏi hơn làm đạo diễn, chơi nhạc hay hơn soạn nhạc. Dễ thành công trong những việc đòi hỏi sự tế nhị như giao dịch, nhất là các nghề về tâm lý học, xã hội học, cố vấn, phụ tá, thư ký vì dễ đem lại tình cảm cho những kẻ bị bối rối, đau khổ, bịnh tật. Các ngành thích hợp khác là dạy học, nghiên cứu y khoa, kế toán. Là nhân viên cộng tác chân thành, đắc lực, tín cẩn, và có lương tâm. Ít gặp sự may mắn trên đường công danh. Ít đòi hỏi, cam phận thủ thường, thiếu tinh thần tranh đấu. Nếu là chủ nhân, rất dễ chịu, ít ra lệnh, ít thúc đẩy thuộc hạ nên không có kết quả mỹ mãn. Tiêu tiền rất hợp lý và chắc chắn. Ít phung phí trừ trường hợp đối với người yêu. Ghét nợ nần, thường dành dụm từng đồng. Kinh doanh những việc chắc ăn như bắp nhưng ít lời. Không dám liều lĩnh, không có đầu óc đầu cơ. Vì mềm yếu, dễ bị bạn bè lợi dụng, vay mượn, ngược lại rất ngại ngùng khi vay mượn người khác. Tình Duyên Là bạn đời lý tưởng và nhiều khía cạnh, chan chứa tình thương yêu và sẵn sàng với người yêu. Người vợ số 2 thường tìm đủ mọi cách để đem lại hạnh phúc cho chồng, dù phải hy sinh nhiều, giúp đỡ chồng rất nhiều. Người chồng số 2 rất hòa nhã, dễ thương, ít đòi hỏi hoặc độc đoán, lại còn có thể bị các bà chi phối vì quá nể nang. Cần phải lưu ý đừng để khuynh hướng lãng mạn chi phối tính tốt bản nhiên vì họ mềm yếu về tình yêu. Cần phải nhận thức là: thực tế cũng quan trọng như lãng mạn. Kết bạn trăm năm được với các số khác. Tuy nhiên muốn có hạnh phúc lâu dài nên kết hợp với các số 2, 4, hoặc 6. Tuy bị chi phối, người số 2 vẫn thấy rất thích hợp với người số 1 và 8. Có thể gặp sự quý mến ở người số 3 và 5. Kết hợp với người số 7 và 9 chỉ đem lại nhiều ưu phiền và chịu đựng. Số 3 Tượng trưng cho tình cảm, tài năng đại chúng. Số 3 tiên đoán sự thành công trong các ngành khoa học, kỹ thuật nếu biết dung hòa sự hoạt động với khả năng tinh thần. Số 3 liên hệ với sao Mộc Tinh (Jupiter). Các nhà bói toán Hy Lạp cho đó là một số hoàn toàn. Số 3 tương đương với Hoàng Hậu (The Empress) ở bài bói Tarot. Tổng Thống Mỹ Bejamin Franklin and Jonh Wayne đều thuộc loại người mang số 3. Tính Tình & Nhân Cách Có nhiều khả năng thiên phú và ham thích học hỏi. Lạc quan, dễ say mê, tháo vát và thông minh. Thích sống tập đoàn, yêu đời và làm cho người chung quanh vui theo. Thường công nhận sự rũi ro và cho đó là tự nhiên, không thể tránh được. Không than thân trách phận. Có tài ứng biến, thích hoạt động nhưng ít cương quyết, dễ bị người khác chi phối và cũng dễ gây ảnh hưởng sang người khác. Có khuynh hướng ích kỷ, thích sống theo lối sống riêng của mình, dễ dãi đối với bản thân. Rất chú trọng tới đời sống vật chất và tiền bạc, do đó muốn thành công để thụ hưởng chứ không phải quyền hành. Thích thức ăn ngon, quần áo đẹp, xe hơi, nhà lầu. Xã giao giỏi và đại chúng, thích quen biết, đi nơi này, nơi khác và tiêu khiển về ăn uống. Nói chuyện hay, dễ làm quen với hoàn cảnh mới, làm cho mọi việc thoải mái trừ phi giận dữ bất thường. Thường có nhiều bạn bè nhưng ít thân vì ưa thích thay đổi và nhìn sự vật một cách dễ dãi. Vui tính, dễ kích thích và làm hứng khởi người khác. Ít chán nản, bi quan, ít quấy rầy người chung quanh. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Có óc sáng tạo và tưởng tượng rất mạnh, thêm với nhiều tham vọng, do đó dễ thành công. Nếu được xử dụng đúng khả năng và tìm cách phát triển sẽ đạt được kết quả thật cao xa và thật nhanh chóng. Các nghề thích hợp thuộc địa hạt văn nghệ như viết văn, nhiếp ảnh, trang hoàng, hội họa, giải trí và các nghề cần tài xã giao. Ít kiên nhẫn với các nghề bác sĩ, luật sư, kế toán, kỹ sư. Dễ chán nản với công việc cố định và đều đặn. Nếu làm công, thường xuất sắc, được các bạn đồng sự mến chuộng, có nhiều sáng kiến nhưng không kiên nhẫn. Nếu làm chủ thường tạo nên không khí vui vẻ, thích thú, sẵn sàng đón nhận ý kiến của mọi người và luôn luôn khuyến khích, tưởng thưởng nhân viên. Dễ tiêu hoang phí cho mình, cho gia đình và cho người cộng tác. Không thích tiết kiệm mà thích sắm sửa. Rộng rãi về tiền bạc và quà bánh đối với mọi người. Quan niệm kiếm ra tiền là để tiêu pha cho sướng. Tóm lại, đó là người kiếm tiền cũng dễ dàng và tiêu pha cũng dễ dàng. Tiền bạc như chiêm bao, sáng vào tối ra là thường. Tình Duyên Tình duyên sâu xa, vững bền sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng. Khi chưa kết hôn, thường là người đa tình, hào hoa và thích phiêu lưu tình cảm do đó có thể bị tai tiếng. Không muốn làm đau khổ kẻ khác, nhưng vô tình lại coi thường tình yêu. Khi lập gia đình rồi, là người rất trung thành, thích cảnh ấm cúng, săn sóc, chiều chuộng gia đình hết mực. Tuy nhiên không vì thế mà rời bỏ các đam mê riêng tư. Số 4 Tượng trưng cho công bình, trách nhiệm và bình yên. Liên hệ với sao Saturne (tử vi gọi là sao La Hầu). Số 4 tương đương với The Emperor (Hoàng Đế) của bài Tarot, tiêu biểu cho uy quyền tối thượng, nhưng chỉ trong một đại hạn nào đó. Tính Tình & Nhân Cách Làm việc nhiều, bền bỉ, tín cẩn, nhưng không phải là người sáng chế hay phát minh. Là cột trụ của kỹ nghệ và xã hội, tổ chức và kiến thiết giỏi. Làm việc với suy nghĩ chín chắn, cẩn thận chính xác. Nhiều khi đi sâu vào cả chi tiết vì vậy mà bị lạc khỏi mục tiêu chính. Lương tâm chức nghiệp nếu được dùng đúng chỗ sẽ đem đến kết quả tốt, nếu dùng sai sẽ bị phí thì giờ và mất năng xuất rất nhiều. Khuynh hướng bảo thủ, ưa chống đối các việc cải cách. Thường tìm hiểu do dự rất lâu rồi mới bắt tay vào việc. Tiền bạc rất quan trọng đối với họ vì lý do muốn đời sống được vững chắc hơn là hưởng lạc thú. Vì phải làm việc nhiều nên dễ nghi ngờ những sự thành công dễ dàng và phải đổi chủ trương: "thích thú trước việc làm." Hành động chín chắn nhưng lại phản ứng nhanh với các hành động bất bình đẳng. Và thường là người đòi hỏi các tổ chức và lãnh đạo các cuộc chống đối có trật tự và áp bức bất công. Thường trầm lặng, có điều độ, mực thước và ít biểu lộ. Ít có tính hài hước, không mấy tháo vác. Bản tính trung thành, tin cậy. Là những người bạn thật tốt và lâu dài. Hướng nội hơn là hướng ngoại. Có khuynh hướng trả thù hơn là tha thứ. Kém tế nhị, kém ăn nói. Thật thà. Nghĩ sao nói vậy. Không có tính chỉ huy nhưng rất cứng đầu, khó mà lay chuyển được ý định của họ. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Rất thích hợp cho các việc cần có sự tập trung và chú ý từng chi tiết. Các nghề thích ứng: kỹ sư, kiến trúc sư, thầu khoán, kế toán, thu ngân, quản thủ thư viện, hóa học, dược sĩ, toán học, luật gia hoặc thẩm phán xuất sắc. Có thể thành công trong các việc khảo cứu khoa học. Phần lớn thiếu óc sáng kiến và tưởng tượng nên không thích hợp với các nghề thương mãi, quảng cáo hoặc tuyên truyền. Là nhân viên rất có tinh thần trách nhiệm, có thể hợp với các công việc buồn tẻ, đều đặn và không chán. Rất tin cẩn, thật thà và ham làm nên thường là nhân viên đắc lực. Nếu làm chủ thì kém điệu nghệ vì thường hay đòi hỏi người làm cũng phải thích thú công việc như mình. Không biết tha thứ cả những lỗi nhỏ. Cẩn thận về tiền bạc. Biết để dành phòng khi mưa nắng trở trời. Mua bán rất chặt chẽ, không hoang phí. Thường mua đồ cũ hơn là đồ mới. Ít người thích cờ bạc hay đầu tư liều lĩnh. Họ chỉ dám làm các việc có kết quả chắn chắc và kiếm được đồng nào thì giữ chắc đồng đó. Tình Duyên Không tương tư một cách dễ dàng. Rất cẩn thận, thực tế, tiến bước trên đường tình một cách chậm chạp và chắc chắn. Rất hiếm người có tình yêu sét đánh, phần đông thường tìm hiểu lâu dài, từ một năm trở lên rồi mới quyết định, sau một năm nữa mới tới hôn nhân. Là một người lý tưởng cho những ai muốn kiếm một người tin cậy, làm việc nhiều và cương quyết. Thường dè dặt, ít bị chi phối bởi tình cảm nên có hạnh phúc với những người cùng chung mục tiêu. Cần tình yêu nếu không rất dễ bị cô quạnh, khổ sở nhưng lại ít dám tỏ tình. Rất thích hợp với các số 4, 7, và 9, là những người đồng quan niệm và rất nghiêm nghị. Kết hôn với 2 và 6 thường đem lại nhiều hạnh phúc nếu 2 bớt lãng mạn và 6 bớt lý tưởng. Có thể kết hợp với 1 và 8 nếu các số này bớt tính hợm hĩnh và óc chỉ huy. Không thích hợp với 3 và 5 vì đó là dầu và lửa. Số 5 Số 5 tượng trưng cho một trực giác thiên bẩm (true intuition), tượng trưng uy quyền thiêng liêng, sự NHANH TRÍ, hoạt động theo cảm hứng, phiêu lưu, gan dạ, sự kết hợp của tinh thần và vật chất. Số 5 tượng trưng với thần đại tư giáo La Mã (The Hierophant). Liên hệ với sao Mercury. Abraham Lincoln và Adolph Hitler thuộc loại người mang số 5. Tính Tình & Nhân Cách Sáng trí, hành động mau lẹ. Đặc biệt hơn cả, họ rất quý trọng tự do cá nhân và luôn luôn vận dụng tinh thần, đã thúc đẩy họ không ngừng hoạt động. Phần đông, họ sẵn sàng hy sinh quyền hành, địa vị cho sự họat động và phiêu lưu. Khi xuống tinh thần, họ thường trở nên dễ tức giận, cáu kỉnh và buồn bã. Thường làm việc một cách trì hoãn. Soạn thảo chương trình, kế hoạch và cuộc sống hàng ngày, không lo tới ngày mai, mặc cho giòng đời lôi cuốn, muốn ra sao thì ra. Có nhiều nghị lực và hứng khởi, và tuy thay đổi tính tình mau chóng, nhưng có sức chịu đựng. Rất ít có việc nào làm chán nản lâu dài. Bản tính lạc quan giúp cho họ mau lấy lại tinh thần. Thích thay đổi mới lạ bất cứ một việc gì. Không bận tâm cho lắm về vấn đề tình yêu hay tiền tài. Họ tận hưởng những gì mà tiền bạc có thể mang đến, nhưng luôn luôn ham phiêu lưu hơn cả. Người số 5 rất cương quyết và nhiều nghị lực, ý chí. Ít khi phải ngập ngừng, đắn đo trước một vấn đề nào. Thường cảm nghĩ cũng như hành động đều là tùy hứng. Rất nóng nảy, bộp chộp. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều duyên dáng niềm nỡ và vồn vã. Thích các buổi họp, thích cười đùa, ca hát và chuyện phiếm. Dễ đem cái vui đến cho người chung quanh, làm người khác quên nỗi ưu phiền. Bị chi phối rất nhiều bởi tinh thần, có óc sáng kiến và thích đem ra áp dụng. Thường được người quen biết mến chuộng, nhưng đối với người biết rõ họ hơn thì lại giảm bớt sự mến chuộng vì cái tính quá bất thường của họ. Nhất là khi tức giận thì không thể kềm chế được. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thường có bốn đặc tính đem lại thành công: thông minh, tài ba, nghị lực, và cá nhân tính. Nhưng đối với họ, thành công không phải là đạt được quyền hành hay tiền bạc mà là tận hưởng đời sống luôn luôn có các cuộc gặp gỡ và chinh phục mới. Không thích sự buồn tẻ với bất cứ giá nào. Vì vậy họ cần phải chọn nghề cẩn thận để khỏi phí phạm các đức tính sẵn có (mà còn phải khéo và không được an bằng). Nếu chọn lựa đúng nghề, họ có thể leo lên tột đỉnh. Chẳng hạn như: viết báo, sáng tác, hội họa, nhiếp ảnh, luật gia, thể thao gia, phi công v.v... Thích hợp được với các nghề: quảng cáo, tuyên truyền hay cần giao tế. Muốn thành công, cần phải có sự HỨNG THÚ. Rất bấp bênh về tiền bạc. Có thể thành triệu phú hay trắng tay trong một đêm. Rất rộng rãi về tiền bạc. Ít dành dụm. Nên để cho người khác quản trị họ trong vấn đề tiền bạc. Ít lo lắng về tương lai và những khi trở trời. Tình Duyên Dễ quyến rủ người khác và luôn luôn là kẻ hấp dẫn đối với kẻ khác phái. Thường có bản chất về tình cảm và tình dục rất mạnh. Hết sức lãng mạn. Yêu cuồng sống vội. Viết thư tình một cách say mê. Đi đến tính ước một cách bất tử. Kết hôn với họ, bạn có thể đi đến thiên đường hoặc đến địa ngục, ít khi là lưng chừng ở giữa. Thích hợp với họ, phải là người cũng ưa tự do, bay nhảy, hoạt động tùy hứng, hoặc là người khác hẳn, không cần thay đổi gì đến đời sống của họ cả. Người thích hợp hơn cả là người mang số 5. Hôn nhân có thể có rất nhiều sóng gió. Nhưng đối với họ, trật tự và bình yên không quan hệ lắm, chỉ cần có thích thú và tình dục thỏa mãn. Có thể hạnh phúc với người mang số 2, 3, và 6 miễn là cũng dám phiêu lưu trong vấn đề tài chánh. Cũng thế và trung bình với 1 và 8 (chỉ cần bớt độc đoán và chỉ huy). Số 6 Số 6 tượng trưng cho sự hòa hợp thẩm mỹ, ổn định quân bình, nhịp nhàng, hy sinh. Số 6 có ý nghĩa quyến rủ, nhịp nhàng cân nhắc, chọn lọc và tự do. Số 6 tương đương với thần ái tình (The Lover) ở bài bói Tarot. Liên hệ với sao Venus. Tính Tình & Nhân Cách Cứng cõi, mạnh mẽ, tin cậy, cao thượng, tế nhị, và rung động sâu xa trước cái đẹp. Bản tính nhân ái và rất chú trọng tới hạnh phúc của kẻ khác. Tuy có thể hoạt động tích cực ngoài đời nhưng trọng tâm đời sống là gia đình. Hy sinh cho gia đình đến dễ thành chiều chuộng quá mức. Rất có lương tâm và ưa sự chính xác, mẫu mực. Thường hay đảm đang luôn các việc của kẻ khác. Thường quá đi sâu vào chi tiếc cho nên hay bị lo lắng và không an tâm. Tính điều hòa, mềm mỏng, nhẹ nhàng, nhu mì, trầm lặng và duyên dáng dễ tạo nên cảm tình với người chung quanh. Bởi tính yêu mến thiên nhiên, rất dễ kết bạn và giữ được tình bạn lâu dài. Được mọi người ưa mến. Rất ít ghét ai trừ phi người nào đe dọa tới hạnh phúc của họ. Khi đó họ có thể thành một con hổ dữ. Thích những cái gì xinh xắn, đẹp đẽ. Nhà ở của họ thường phản ảnh sự yêu mỹ thuật. Thường thích hội họa, âm nhạc, điêu khắc. Là chủ nhà hoặc chiêu đãi viên rất được cảm mến. Thích giải trí, xã giao, hội họp, tiệc tùng và tổ chức rất khéo léo. Thường khuynh hướng về lý tưởng, nặng về tình cảm. Không ích kỷ, sẵn sàng giúp đỡ bạn bè, không cần phải đợi nhờ vã. Nếu đặt sự rộng lượng vào đúng hoàn cảnh thì tránh được việc bị lạm dụng. Cần phải biết từ chối. Biết trả lời KHÔNG trong những trường hợp bị đòi hỏi quá đáng. Công Việc, Năng Khiếu, & Tiền Bạc Có óc sáng tạo, rất dễ thành công trong các địa hạt nghệ thuật như: viết văn, hội họa, điêu khắc nếu không dồn hết tâm trí vào gia đình. Không bị lôi cuốn bởi tham vọng. Họ rất thích thành công nhưng không phải chỉ vì quyền hành. Thường dễ thành công nếu được sự thúc đẩy và giúp đỡ, khuyến khích của người thân. Bản tính nhân ái khiến họ đạt được nhiều kết quả quan trọng trong các nghề như: hội họp, hoạt động xã hội, bác sĩ, y sĩ, công cuộc từ thiện, săn sóc nhi đồng. Vì tin cậy được nên có khả năng trong các công việc như: thủ quỹ, thủ kho, kế toán v.v... Là nhân viên, họ có thể coi như hoàn toàn và thật thà, trung thành, chú ý tới chi tiết, thích tự hào khi đã chu toàn công việc. Là chủ nhân, họ cũng tốt vì biết chú trọng tới đời sống của nhân viên. Tuy nhiên, cần phải biết nghiêm ngặt, đừng để tình cảm lấn át công việc nhiều quá. Cũng không nên có cảm tưởng là họ chẳng thể nào hoàn toàn hoặc làm nên trò trống gì. Về tiền bạc, họ thích yên ổn và vượt cao hơn mọi người. Vì vậy, ít khi họ kiếm được một tài sản khổng lồ. Tuy nhiên, họ chi tiêu hợp lý, ít mắc nợ hay phung phí tiền bạc. Tuy rộng lượng về các thứ khác, nhưng ít khi rộng rãi về tiền bạc, kể cả đối với người trong gia đình. Không ham làm giàu bằng các cuộc thử thời cơ, may rủi. Tóm lại, là người rất cẩn thận và chặt chẽ về tiền bạc. Tình Duyên Quan niệm về tình yêu không viễn vông và lãng mạn. Đối với họ, tình yêu có mục đích rõ ràng là gắn liền với hôn nhân. Cho nên, trong việc giao thiệp với bạn khác phái, luôn luôn có ý nghĩ xây dựng lâu bền... Khi kết hôn, chỉ còn biết có gia đình, hầu như thế giới bên ngoài không còn gì khác để hướng tới nữa. Rất dễ cảm xúc và chan chứa tình thương. Đối với họ, yêu cũng cần như thở vậy. Sự thương cảm này có thể vượt quá mức và làm họ đau khổ. Kết hôn thích hợp nhất với người mang số 6 và 2, có thể hài lòng với 3 và 5. Giữa số 6 và 4 thường có sự xung đột, xích mích. Tuy nhiên, hai bên có thể tìm hiểu nhau, để đi đến sự hòa thuận. Xa cách và tương phản nhất với số 6 là số 1 và 8. Không thích hợp với số 7 trừ phi một trong hai thay đổi hẳn tính tình. Số 7 Số 7 tượng trưng cho khuynh hướng tinh thần và trí tuệ, cá tính riêng biệt, tư tưởng thâm trầm, và ảnh hưởng đến các môn khoa học kỹ thuật, triết lý, tôn giáo và siêu hình học. Số này tiêu biểu cho sức mạnh cường tráng và khả năng tiến thủ vượt bực về tinh thần và tâm linh, cao cả thiêng liêng. Số 7 liên hệ với sao Uranus (tử vi gọi là sao Thổ Tú), tương đương với thần Đại Trùng Tinh (The Chariot). Voltaire, Horace và Shakespeare đều thuộc loại người số 7. Tính Tình & Nhân Cách Tư tưởng thâm trầm và có vẻ phân tích. Nhiều ý kiến cá nhân, rất tự lập, ít nghĩ ngơi về tâm trí và thể xác. Rất chú trọng và tò mò về thời thế. Thích du lịch, nhất là đến những nơi xa xôi, hẻo lánh. Thích sự kín đáo, cô quạnh. Thường là kẻ sống với nội tâm, ít biểu lộ ra ngoài. Ham hiểu biết. Rất có khiếu về nghệ thuật thẩm mỹ và dễ xúc cảm với cái đẹp. Thường bất đồng ý kiến của đa số. Quan niệm của họ thường có tính cách triết lý và trực giác. Ít khi a dua hay bắt chước thời trang. Tự lập luận, tự quyết, không chịu theo ý kiến của người khác. Thích hoàn toàn, có tinh thần tự chí, tự phê bình rất nghiêm khắc. Tự đòi hỏi mình những tiêu chuẩn có khi quá cao với khả năng. Thường thì tính tình khó hiểu, và họ cũng khó tìm hiểu được người khác. Cô độc, dè dặt, bẽn lẽn, rất khó kết bạn. Tuy nhiên, khi đã là bạn rồi, họ trở thành người bạn rất tốt, trung thành, khoan dung. Vì tính thâm trầm, nên họ không thích hợp được với các cuộc hội hopï, tiệc tùng, liên hoan dạ vũ... Tìm thấy sự thích thú thoải mái trong các cuộc họp mặt nhỏ. Nói chuyện hay, biết nghe chuyện nhưng không thích các chuyện phiếm hay tán gẫu. Vì dè dặt, giữ gìn thận trọng nên thường bị người xung quanh hiểu lầm là có tính khinh người. Không thích la lối, nổi giận, nhưng tranh đấu mãnh liệt cho niềm tin tưởng của mình, tranh đấu một cách bền bỉ, thụ động nhưng bướng bỉnh. Rất tín ngưỡng và sống nhiều về tinh thần. Thích nghiên cứu về tôn giáo và thường trở nên người thâm trầm, sâu sắc và bí ẩn. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thích hợp nhất với các công việc hay nghề nghiệp ít bị kiểm soát bởi người khác. Dễ thành công trong các lãnh vực nghệ thuật, viết văn, điêu khắc, hội họa v.v... Giáo dục, khoa học, hoặc tôn giáo cũng thích nghi với khả năng. Nhờ vào kiên nhẫn và kiến thức sẵn có, họ có thể gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp khi bắt tay vào việc. Thích biển cả, du lịch và có nhiều khả năng trong ngành hàng hải. Ít thích thú trong các việc thương mãi hay các việc cần đến sự giao dịch. Là nhân viên, họ rất tận tâm, chăm chỉ, ghét sự kiểm soát và bó buộc quá nhiều. Là chủ nhân, họ không đạt được nhiều thành công vì họ không thích ra lệnh, muốn cho nhân viên dưới quyền tự sáng kiến. Ít quan niệm về tiền bạc và mãnh lực của nó. Thấy tiền bạc là cần thiết nhưng không mơ ước nhà lầu, xe hơi. Thỉnh thoảng họ cũng dám tiêu xài phung phí nhưng thường thì có tính tiết kiệm hơn. Không thích các vấn đề hay sự việc có liên quan đến tiền bạc. Có tiền họ cũng để cho người khác quản trị dùm. Tình Duyên Dễ kết hôn trong nhiều trường hợp và thường rất sớm, nếu không thì rất muộn bởi vì càng lớn tuổi họ càng dè dặt. Sống xa cách với thế giới bên ngoài và khó biểu lộ cảm xúc. Rất tử tế nhưng không hẳn là dễ thương, dễ cảm bởi vì họ chú trọng nhiều về tinh thần và ít lệ thuộc chặt chẽ vào việc khác. Thí dụ, người chồng có thể nhớ vợ khi xa cách nhưng vẫn làm việc hăng hái, có kết quả tốt như lúc bình thường vậy. Hôn nhân hạnh phúc có thể tìm gặp với người mang số 9, 1 hay 7 vì giống nhau về tinh thần và nhân cách. Các số 6 và 2 ít thích hợp hơn cả, bởi lẽ hai số này rất dễ bị khổ sở bởi tính tình của số 7. Đối với các số 3 và 5, họ có thể tạo được hạnh phúc nhưng sẽ có những sóng gió bất thường. Có thể hài lòng với số 1 và 8 có tính chinh phục nhưng thường thiếu sự rung cảm sâu xa. Số 8 Số 8 tượng trưng cho quyền lực, thành công, chiến tranh, và tàn phá, có ý nghĩa lúc nào cũng phải tôn trọng công lý và đề phòng những tai nạn nguy hiểm và sự suy sụp, tàn phá. Số 8 liên hệ với sao Mars (tử vi gọi là sao Hỏa Tinh), và tương đương với The Strength của bài Tarot (thần Hùng Cường). Cựu Đại Tướng Hoa Kỳ William Westmoreland và cựu Đại Tướng Douglas MacArthur đều thuộc loại người số 8. Tính Tình & Nhân Cách Người mang số 8 có khả năng thiên phú về tập trung tư tưởng và chú ý, tự rèn luyện vào khuôn khổ kỷ luật. Có nhiều cá tính và ý chí sắt đá, là những người có quyết tâm khai sơn phá thạch. Ít khi làm việc gì mà không để hết nhiệt tâm. Rất nhiệt thành, cực đoan, và cuồng thị. Rất ghét những gì tầm thường, hoặc là thành công rực rỡ, hoặc là cam tâm thất bại ê chề. Tự rèn luyện khắc nghiệt và có khuynh hướng lôi cuốn người khác đi theo con đường của mình. Đôi khi thích hoạt động vì quyền hành nhưng thường tin rằng những người chung quanh cũng cuồng nhiệt phục vụ cho một lý tưởng như mình. Nhiều khi tỏ vẻ lạnh lùng, nhưng là người rất tốt bụng. Nếu có vẻ xa cách là bởi họ không biết cách hoặc khó biểu lộ cảm xúc. Thường có vẻ cô độc, thích được kết bạn với những người khác nhưng không đi đến chỗ thân mật được. Nhiều nghị lực và hoạt động. Thích theo đuổi những mục đích có cả tinh thần lẫn vật chất. Không chịu được sự thất bại và khi đã dấn thân vào việc gì dầu là việc tiêu khiển hay làm thiệt, cũng mong hòa hoặc thắng. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, nhiều người sẽ bị quyến rũ ngay bởi sức mạnh nhân cách của họ, như bị thôi miên vậy. Tuy nhiên, càng tiếp xúc với số 8 nhiều và càng lâu, sự mến phục này càng giảm đi và số 8 bị mất dần đi số người ái mộ. Khi muốn, họ tự tạo cho mình sự nổi bật và duyên dáng. Nhưng họ rất ít muốn làm như vậy, trừ những lúc họ cảm thấy thật sự cần cho họ. Vì ham muốn đạt được mục tiêu, đôi khi họ trở nên cứng rắn, khắc nghiệt với những người mà họ không có cảm tình. Là người bạn rất trung thực và tin cẩn, thường sẵn sàng đứng lên bênh vực và che chở cho những người thân của họ. Với kẻ thù, họ trở nên đáng sợ vì họ rất khó quên những xích mích, dù nhỏ nhặt. Và khi đã bùng nổ tranh chấp hay hiềm khích, họ sẽ chiến đấu đến cùng. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thường thành công rực rỡ trong các chức vụ quan trọng. Nhất là các địa vị hữu quyền vì ngoài khả năng tập trung, chú ý, tự ghép mình vào khuôn khổ kỷ luật, họ còn là người làm việc có kế sách chặt chẽ, có sáng kiến, và biết áp dụng những tư tưởng mới lạ. Khi tận lực cho công việc, họ có thể đạt đến tột đỉnh của thành công. Tuy nhiên, vì có tài năng và muốn lãnh đạo họ cần phải thận trọng lựa chọn đường lối bởi lẽ nếu đi nhầm đường, họ là những phần tử đe dọa cho xã hội. Là nhân viên họ rất tận tâm trong mọi công việc, luôn tỏ ra nhanh chóng và hữu hiệu. Tuy nhiên, các bạn đồng nghiệp rất dễ hiểu lầm là họ muốn chơi trội hay nhảy vọt qua một cách vội vàng. Trong công việc cũng như giao tế, họ cần phải lịch thiệp, khôn khéo hơn, và ít đòi hỏi hơn. Là chủ nhân, họ rất hăng hái hoạt động, và muốn tất cả nhân viên cũng hăng hái như họ vậy, hay cũng thận trọng và làm việc vất vả như họ. Họ rất có khả năng trong lãnh vực tài chánh, có thể nói họ nhúng tay vào việc gì là việc đó hái ra tiền. Cương quyết có óc thực tế, biết đánh giá đồng tiền tiêu pha một cách hợp lý, xứng đáng, không chặt chẽ về vấn đề tiền bạc nhưng cũng không phung phí tiêu pha liều lĩnh. Kinh doanh nhiều thắng lợi. Rộng rãi với gia đình, bạn bè nếu cho rằng đó là người biết kiếm tiền, biết xử dụng đồng tiền. Tình Duyên Rất thay đổi, từ chỗ yêu tha thiết đến hoàn toàn dửng dưng. Điều này có thể chứng tỏ tình yêu nồng nàn, say đắm, nhưng có khi lại rất xa cách, lạnh nhạt. Trong tình yêu, rất ít người số 8 tìm được hạnh phúc trong sự trung dung. Tình yêu với họ hoặc là đầy ngọt ngào hoặc là nhiều cay đắng. Tuy hôn nhân của họ có thể trải qua nhiều cay đắng nhưng không bao giờ buồn tẻ. Họ là những người hoạt động, dễ làm nẩy nỡ những sự hào hứng mới, vì vậy mà họ (nhất là nam giới) rất quyến rũ đối với người khác phái. Trong khi họ có thể mất nhiều bạn thân, họ lại được rất nhiều mến chuộng trong cương vị tình nhân hay vợ chồng. Nếu các số 2 và 6 thông cảm được bản tính của họ, hôn nhân sẽ đạt nhiều hạnh phúc. Họ cũng thường được hài lòng khi kết hôn với số 4 và 7 hay 9 tuy đôi khi thiếu sự nồng nàn. Nhiều khi sự kết hợp của họ đối với số 3 và 5 cũng đem lại nhiều hạnh phúc nếu cả hai người cùng biết tương nhượng lẫn nhau. Họ không thể hòa hợp được với số 8 hay 1 vì những con số này có bản tính háo thắng, dễ va chạm trong cuộc sống hàng ngày. Số 9 Số 9 thể hiện tình thương vô bờ bến đối với nhân loại. Có ý nghĩa là phải sống khổ hạnh mới tìm ra chân lý và khuyên chúng ta: "sự im lặng là vàng bạc, lời nói phải cẩn thận, phải suy nghĩ chín chắn trước khi phát ngôn." Số 9 liên hệ với sao Neptune, tương đương với The Hermit (Thần Tu Khổ Hạnh) của bài Tarot. Đức Khổng Phu Tử và Thủ Tướng Ấn Độ Thánh Gandhi thuộc loại người số 9. Tính Tình & Nhân Cách Rất thụ cảm và tế nhị. Cảm thông với những nhu cầu đòi hỏi của người chung quanh và sẵn sàng giúp họ thỏa mãn một cách nồng nhiệt. Các nạn nhân của bạo lực và áp bức, những người bị bạc đãi, hất hủi, bệnh tật, già yếu, không may mắn... đều gây cảm xúc cho họ như là những người thân thuộc vậy. Khi theo đuổi một nguyên do chính đáng, họ say đắm đến độ quên lãng cả gia đình. Tính lại, họ là con người rất nhân ái và lý tưởng. Bị chi phối bởi trực giác và tình cảm nhiều hơn là lý luận và trí thức. Mặc dù rất thụ cảm, họ rất dè dặt, thường rút lui vào địa hạt triết lý, tâm linh với hy vọng tìm ra được giải quyết thỏa đáng cho những vấn đề về những đau khổ của loài người. Ít khi bị quyến rũ bởi tiền bạc hay quyền hành, trừ phi đó là những phương tiện cứu giúp người. Có tính chịu đựng bền bỉ, can đảm và cương quyết nhưng lại ít dùng tính đó để suy cho mình. Mục đích của họ là tình yêu rộng lớn, lòng đại lượng và sự thông cảm. Được nhiều người mến chuộng cũng như bị nhiều người ghen ghét bởi vì họ kết bạn dễ dàng nhưng thường không giữ được bạn bởi tính tình nông nổi bồng bột. Không ưa cãi cọ về những chuyện vụn vặt nhưng lại rất chú trọng đến các vấn đề quan trọng và dễ gay gắt, giận dữ với những người không đồng quan điểm. Thường thì dè dặt, tự quyết, tự lập, và ẩn tránh nhiều hơn. Về một vài khía cạnh khác, họ là một cá nhân rất mau mắn và hay thay đổi. Hôm nay thì buồn bã ủ ê, nhưng hôm sau sẽ vui nhộn hứng khởi. Tuần này hăng hái sôi nổi. Tuần sau đã dửng dưng lạnh nhạt. Tuy nhiên có một điểm cố định dù tính tình và hoàn cảnh có thay đổi, mục tiêu duy nhất là tự do và tình yêu thương đồng loại. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thích hợp hơn cả với những công việc và nghề nghiệp đòi hỏi sự giúp đỡ người khác nếu biết hòa đồng tính tình, họ sẽ là những nhà lãnh đạo tôn giáo, các bác sĩ, y tá, trợ tá, cán sự xã hội và kể cả thợ thuyền rất khéo léo tài ba. Tuy dè dặt, nhưng cũng có nhiều người thích xuất hiện trước quần chúng và có thể thành công như nhà hùng biện, thuyết pháp, chính trị gia, giảng viên, hay giáo sư triết học. Tuy có trí thông minh và tài lãnh đạo rất cần thiết cho việc kinh tài họ lại thường không thấy hạnh phúc. Làm việc chỉ vì tiền hay vì danh tiếng không làm cho họ thỏa mãn. Nên tránh các nghề như tài chánh, kinh toán, quảng cáo. Luật học rất thích ứng với họ nếu họ được phép bênh vực thẳng thắn cho chính nghĩa. Là nhân viên, tánh tình thất thường, họ chỉ đạt được kết quả tốt nếu biết để hết nhiệt tâm vào việc làm cũng như sự tin tưởng. Rất dễ để tình cảm xen vào công việc. Là chủ nhân, họ rất điệu vợi, thiệt thà và rộng lượng. Về tiền bạc, họ thường không thành thạo trong vấn đề quản trị. Có người kiếm được nhiều tiền và giàu có thường là do may mắn nhiều hơn. Đại lượng, sẵn sàng giúp đỡ gia đình và bạn bè, có khi cả những người rất xa lạ nữa. Không hiếm những người số 9 bị nợ nần nhiều. Tuy thích tiền bạc, nhưng lại không nô lệ cho đồng tiền. Đối với họ, đồng tiền kiếm ra được chỉ để tạo tiện nghi cho đời sống vật chất, chứ không phải dùng để tạo thế lực hay dùng để đẻ ra đồng tiền khác. Tình Duyên Là người bạn đường rất tín cẩn và chung tình. Hôn nhân đối với họ rất thiêng liêng. Rất ít than phiền về bạn trăm năm của mình với người khác dù là bạn bè thân thuộc, và ngược lại, rất là khổ sở nếu người yêu của mình phân trần chuyện gia đình với người ngoài. Họ đáng kính trọng nhưng chưa phải là người bạn lý tưởng. Cũng giống như một số đông các bác sĩ, họ giành hầu hết thì giờ và năng lực cho những người khác, nhiều khi quên lãng gia đình. Đời sống tình cảm khô khan. Họ bị hăng say về công việc, họ quên cả những ngày nghĩ lễ quan trọng như sinh nhật hay ngày Tết, Noel. Tuy tình cảm khô khan nhưng nhiều khi họ cần sự yêu đương. Họ thích hợp với số 4, 7 hay 9 vì đồng tính tình và mục tiêu giống nhau. Đôi khi số 9 kết hợp với số 2 cũng sung sướng. Với sự chịu đựng và cố gắng của cả hai bên, số 9 có thể kết hợp với số 3, 6 hay 8. Phải thận trọng khi muốn kết hợp với số 1 hay số 5 vì tính tình trái ngược.
    1 like
  9. Lá số nầy không đúng với hình dạng đương số bên ngoài ,lá số đầu tiên chính xác hơn ,theo lá số trước người cao trung bình mặt vuông hay tròn đầy đặn ,nước da trắng nhưng không trắng lắm , mắt sâu có quầng thâm mắt kém hay cận,hay bị dị ứng với thời tiết ,ho hen vặt khi đau yếu thì kéo dài lâu khỏi, viêm cánh hơi nặng ... nếu đúng với giờ sanh nầy ,thì cung phu tôi cũng có lời phán như các cao thủ trên ,nhưng về bản thân và tính tình thì tôi có lời đối ngược ,bởi vì cung mệnh vô chính diệu tại Mùi xung chiếu có nhật nguyệt đắc địa đây là quí cách rất tốt gọi là nhật nguyệt đồng lâm cuộc đời hanh thông nhàn hạ không có sự vất vã nghèo hèn xẩy đến cũng như ít có bệnh nạn lớn xẩy ra ,tánh tình chín chắn cẩn thận ,có khiếu ăn nói khẩu thuyết hùng hồn ,có năng khiếu về ngoại ngữ , và có tính ngưỡng đôi khi hơi dị đoan lại có tánh đa nghi , có linh tính bén nhạy hay nghi đâu trúng đó ,vì bởi cung mệnh hội đủ bộ tứ linh Long-Phượng-Hổ-Cái ,có phúc thần hổ trợ , nhưng mệnh có tang- hổ -khốc cuộc đời hay phiền muộn bởi ông chồng .
    1 like
  10. bạn vẽ lại sơ đồ nhà và đo hướng nhà đi. Dùng công cụ vẽ corel, photoshop hoặc Smartdraw mà vẽ. Tôi sẽ xem giúp cho. - Nhà này có nhiều cái xấu lắm, tốt nhất nên nhượng lại, tìm nơi khác. - Cửa thông nhau này. Khí vào nhà ít này ... - Thờ thần tài thường người ta để dưới đất, không ai để trên bàn như vậy cả. - Nhớ đo la bàn hướng cửa nhé (đường vuông góc với bức tường phía trước ấy) Thân mến
    1 like
  11. Tri âm thì trong khoảng tháng 09 âl sẽ gặp ,nhưng tìm được người tri kỹ phải đợi đến năm chẵn tuổi 30 mới có được .
    1 like
  12. Cần phải nói rõ như thế này: Hướng nhà 178 đô không phạm đại không vong về hướng. Nhưng vì tính chất của ảnh hướng các sao Huyền Không, nên nếu trục không vong - thí dụ như Nam/ Tây Nam từ tâm nhà đi qua giữa tâm cửa thì cửa này bị coi là phạm "Đại không Vong". Tuy nhiên, vì thế gian còn nhiều bí ẩn, nên tính chất không vong của Huyền Không ảnh hưởng như thế nào cần phải bàn. Không phải cứ cửa phạm Không Vong thì chân trái chân phải gì đó là bị đau.
    1 like
  13. Ledien mến, Hướng 180 hay 178 độ đều không phải là Phạm Đại Không Vong, nhưng theo Huyền KHông, thì Tâm Nhà đi qua tâm cửa của hướng nhà này là phạm Đại Không Vong. Cho nên việc xác định hướng 180 độ (+- 2 độ) phạm ĐKV là không chính xác. thân HTH
    1 like
  14. @ LeDien viết có xác nhận của Huongthien rồi đây. @ Huongthien, Theo như sơ đồ phát thảo của Huongthien đưa lên thì quả thật vị trí khi đất này ở thế rất bất cập theo tiêu chí Phong thủy Lạc Việt. Nếu chỉnh cho tốt thì theo TD nghĩ cũng khó lắm. Nhưng cũng có thể chấn chỉnh lại được phần nào. Quay mặt tiền theo phía nào cũng hơi bất ổn, nếu chọn cái tốt nhất có thể thì quay mặt tiền ra hướng con đường rộng 3m. Dầu sao cũng không gọi là tốt mấy. Việc này nếu có sơ đồ thực địa chi tiết hơn thì các anh chị em trong nhóm Phong thủy Lạc Việt và tôi sẽ có thể giúp bạn miễn phí hoàn toàn. Nếu đến thực địa nhìn tận mắt thì còn thuận lợi hơn trong tư vấn. Còn nếu điều kiện không thuận thì bạn chụp hình toàn cảnh và chi tiết đưa lên đây nhằm có nhiều cơ sở càng tốt. Phong thủy tốt cho một ngôi trường cũng là giúp rất nhiều cho mầm xanh tri thức. Mến. Thiên Đồng
    1 like
  15. Thấy topic đông vui em vào góp vui thôi anh ah.Em nghĩ là Ngày là Thọ Tử, còn ngày 11/8 có sao Thụ Tử là chính xác anh ah.
    1 like
  16. @ PhongVan - Trên mục "Chuyển đổi Dương lịch - Âm lịch" của diễn đàn này, nếu tra ngày 11/8 âm thì là ngày Tân Mùi, có ghi là "thụ tử". Thiên Đồng đinh ninh rằng "Thụ tử" và "thọ tử" là một hay là hai nghĩa khác nhau với ngày "Thọ tử"? Vì ngày Thọ tử theo tư liệu sách vở thì là Tháng 8 thì Thọ tử ở các ngày Quý Mùi. Nếu Thụ và thọ là một thì ngày 11/8 không phải là ngày phạm. - Đồng ý với PhongVan là có Phước Đức thì vô ngại, nhưng Phước Đức mình đủ dày tới đâu mới vô ngại là cái chính. Còn Thân Khẩu Ý trọn lành tức là Tam Mật Tương Ưng thì...dể hành trì chăng? Thiên Đồng không làm được rồi. Vài ý làn nhàn. Thiên Đồng
    1 like
  17. Đức THẾ TÔN hằng dạy rằng: Chính ta là tạo hoá của ta. Tội cũng do ta tạo, phước cũng chính ta gây. Sướng vui hay đau khổ đều do theo cái nghiệp của ta đã tạo. Thời gian chỉ là một danh từ trừu tượng. Chỉ danh pháp, để kêu gọi vậy thôi. Không có trí giác và tri giác, thì tại sao lại cho là ngày tốt, ngày xấu? Ngày và đêm có năng lực gì ban phước hay giáng hoạ cho ai đâu? Theo Phật giáo, thì ngày nào thân khẩu ý trọn lành ngày giờ phút ấy tốt, là ngày hoàng đạo vậy. Trái lại, ngày nào, giờ nào, phút nào, mà ta làm điều sai quấy như sát sanh, trộm cắp tà dâm, nói dối, uống rượu cũng như phạm vào THẬP ÁC NGHIỆP v.v...tức là ngày giờ xấu nhất. :D -Đồng ý với anh Thiên Đồng ngày 9/8 Là ngày Kim Thần thất sát nên kiêng, Ngày 11/8 lại vướng ngày Thụ Tử cũng nên kiêng, Ngày 12 cũng là ngày tốt, nếu không kiêng ngày cuối tháng theo cháu nên chọn ngày 30/8 AL vì là con trai đứng lễ nên cũng được
    1 like
  18. Thông tin cung cấp như thế chỉ có thể tư vấn về hướng thôi
    1 like
  19. 1.Xét lại ngày 9/8 âm lịch. Là ngày Kỷ Tị tháng Ất Dậu năm Canh Dần -Phạm ngày Kim Thần Thất Sát: Năm có chữ Ất, chữ Canh thì ngày Thìn, Tị là phạm. Nên chọn ngày 11 hay 12/8 âm 2.Thủ tục dọn vào nhà: Tùy theo tập quán vùng miền mà có những cách khác nhau. Tựu chung các thứ quan trọng là - Mang ông táo, hột (diêm) quẹt, củi, đèn. vào trước tiên. - Thứ đến gạo, muối, nước đầy thùng đầy bao, vào tiếp. - Thứ đến là cách thần vị, bài vị, tôn tượng, chiếu manh, tủ bàn... - Thứ đến phải đủ lễ 3 mâm. (Nên lễ chay là tốt nhất). - Khởi động bếp đun nước, lấy nước đó châm trà hoặc để dùng. Thiên Đồng
    1 like
  20. Lê Diện giỏi Thái Ất thì tìm hộ người ta đi. mà không biết Thái ất thì tìm ngày giờ có gì sai nhỉ, Lê Diện chỉ ra nguyên nhân để mọi người cùng học hỏi với. Cám ơn Lê Diện nhiều Thân mến
    1 like
  21. Cái này không biết có phải giống chuyện thầy bói xem voi không nhỉ ? :D :D http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/grin.gif :D http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/grin.gif Bác gọi theo số này mà hỏi tôi thấy mọi người hay xem ở chú ấy http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...showtopic=14818
    1 like
  22. Được như mong muốn. Chuyển nhanh, chỗ ở tốt, công việc hanh thông. Chúc vui.
    1 like
  23. Ngoài các bệnh về đầu, Bố bạn còn bị bệnh về chân, chân trái. Nhà sửa khó, nhưng không phải không sửa được. Nhà Bạn chắc chắn phạm Đại Không vong.? Chắc chắn. Nên dời hầm phốt về Gara xe. Bỏ bể nước. Giải pháp tiết an toàn, tiết kiệm tiền bạc và thời gian: Thuê một nơi khác ở, sửa chữa sau. Thân.
    1 like
  24. Không hiểu biết về Thái Ất, tư vấn ngày giờ thật là tai hại.
    1 like
  25. Đúng là khóa học có qui định là 3 tháng nhưng lúc mình đi offline Sư Phụ có nói rõ ràng là anh chị em vẫn có thể có tiếp tục sinh hoạt trong lớp khi lớp kết thúc(lúc đó chưa có kế hoạch mở lớp nâng cao) và 3 tháng ở đây có thể hiểu là 3 tháng có thầy cô và sau đó vẫn xem được bài học và thảo luận với anh chị em cùng khóa, kính mong ban quản trị xem xét lại
    1 like
  26. Từ 8h - 9h khi dọn về nhà mới gia chủ phải tuân thủ các qui định cổ truyền là: - Chọn ngày giờ tốt để dọn đến nhà mới. - Đồ đạc phải do người trong gia đình tự tay dọn chuyển mang đến nhà mới. - Bài vị cúng Gia Thần, Tổ Tiên phải do gia chủ tự tay cầm đến nhà mới. Còn những người khác trong gia đình thì đi theo sau, tay cầm tiền của mang đến nhà mới. Thời gian chuyển nhà tốt nhất là vào buổi sáng, giữa trưa hoặc lúc mặt trời mới bắt đầu lặn, tránh chuyển nhà vào buổi tối. Khi vào nhà mới, vật đầu tiên mang vào nhà là cái chiếu hoặc đệm đang sử dụng, sau đó là bếp lửa (bếp ga, bếp dầu), không nên mang bếp điện vì bếp điện có tinh và không có tướng (tức chỉ có nhiệt mà không có ngọn lửa), chổi quét nhà, gạo, nước...... lễ vật để cúng Thần linh trước để xin nhập trạch và xin phép Thần linh rước vong linh Gia tiên về nơi ở mới để thờ phụng. Lễ vật được để lên bàn, mâm, kê theo hướng đẹp với gia chủ. Tự tay gia chủ thắp nhang vào một bát nhang làm tạm thời. Thắp nhang và khấn lễ Thần linh xin nhập vào nhà mới, tiếp ngay sau đó gia chủ châm bếp và đun nước. Đun nước mục đích là để khai bếp, pha trà dâng Thần linh và Gia tiên. Nếu có khách, có thể lấy nước đó mời khách. Nếu chỉ nhập trạch lấy ngày tốt chưa có nhu cầu ở ngay thì gia chủ phải ngủ một đêm ở nhà mới. Sau khi khấn Thần linh xong, gia chủ làm lễ cáo yết Gia tiên rồi nới dọn dẹp đồ đạc. Sau khi dọn xong, để cầu bình yên, toàn gia phải tổ chức lễ bái tạ Thần Phật, các vị Thánh thần và Tổ tiên... Người có chửa thì tốt nhất không nên dọn nhà. Trong trường hợp cấp bách không thể không dời nhà, nên mua một cái chổi mới tinh, để đích thân người chửa quét qua các đồ đạc một lượt rồi mới chuyển. Như vậy mới không phạm tội ''Thần thai''
    1 like
  27. Đêm 24/8, hàng trăm người dân đã kéo đến nhà ông Dương Văn Hồng (Tiền Giang) chứng kiến cảnh gia đình ông Trần Văn Nhi (Bến Tre) đào vườn nhà ông Hồng để tìm xác đứa con gái đã mất tích 23 năm trước. Quang cảnh đào bới trong vườn nhà Dương Văn Hồng Hàng chục người “ăn theo” đến xin số đề suốt đêm làm cho an ninh khu vực trở nên náo loạn. Ông Nhi cho biết 23 năm trước ông có đứa con gái tên Phan Thị Nga (sinh năm 1969) bị mất tích. Mấy ngày gần đây, gia đình ông liên tục được chị Nga báo mộng là bị giết chết rồi bỏ vào cái lu chôn ở khu vực này. Sau đó, gia đình ông đi xem bói thì được ông thầy “phong thủy” chỉ địa điểm chôn xác của chị Nga?! Trưa 24/8, gia đình ông đến nhà ông Hồng xin được vào vườn để cúng bái và được gia đình ông Hồng đồng ý. Đến chiều cùng ngày, nhiều người đã mang cuốc, xẻng, dao... vào để đào đất lên tìm kiếm xác chị Nga. Đào đến sáng ngày 25/8 vẫn không thấy gì. Lúc này mọi người dự định lấp lại nơi đào thì có một phụ nữ tên Gái xuất hiện. Bà Gái tự xưng là bạn của chị Nga và đêm qua được báo mộng là có xác chị Nga chôn tại đây nên đề nghị mọi người tiếp tục đào. Sự việc đã gây tò mò nhiều người, buộc Công an Tiền Giang phải cử cán bộ đến để giải tán và giữ trật tự. Tuy nhiên nhóm đông người vẫn tiếp tục tụ tập, đào bới. Đại tá Lưu Văn Bình, Trưởng Công an TP Mỹ Tho, cho biết đó chỉ là tin đồn và công an sẽ tiếp tục cử cán bộ giữ trật tự ở đây trong những ngày tới. Theo NLĐ
    1 like
  28. 1 like
  29. Huynh Thiên Đồng đã giải đáp cho bạn rồi đó! Bàn thờ và bếp cứ quay 1 trong 4 hướng tốt trên là được.
    1 like
  30. Bạn có thể chọn ngày Thứ 7. 11 tháng 8 âm lịch, tức ngày 18 tháng 9 duơng lịch để dọn vào nhà mới! Nên làm vào giờ Tỵ từ 9h -11h trưa!
    1 like
  31. 2 bạn đã được set vào lớp từ chiều hôm qua, các bạn kiểm tra lại nhé, lớp học Phong Thủy Cơ Bản 04 năm ở Box Giảng Đường Lý Học Đông Phuơng. Nếu các bạn thấy Box GDLHĐP thì ấn vào dấu (+) ở cuối tab sẽ thấy lớp. Mong các bạn hồi âm sớm để BQT xem xét!
    1 like
  32. Vấn đề "Vô Ngã" trong Đạo Phật Nguyên Thảo "Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu. Nhưng Vô Ngã lại là vấn đề quan trọng trong giáo lý của Đạo Phật. Tại sao Đạo Phật lại chủ trương "Vô Ngã"? Nếu nói Đức Phật chủ trương "Vô ngã" thì quả thật tội nghiệp cho Đức Phật không biết là ngần nào! Đã nhiều lần trong các Kinh điển Đức Phật thường nhắc đến "các Đức Phật trong ba đời cũng đều hộ trì như vậy". Đức Phật nói điều đó là muốn cho chúng sinh biết rằng con đường tiến đến quả vị Phật là con đường tự nhiên và tất yếu phải đi qua những giai đoạn như thế. Con đường tu và giác ngộ nó không khác trên căn bản, nhưng tùy theo tâm tính, cơ thể "bẩm sinh" mà mỗi con người thực hành một cách có khác, cho nên mỗi con người, mỗi chúng sinh gần như có mỗi một pháp môn khác nhau. Chúng ta cũng cần lưu ý rằng Đức Phật chỉ tự xưng là "Đạo sư" mà không là Giáo chủ, cũng không bắt người khác phải theo ta, ngay cả giáo hội cũng không có một điều lệ, lời răn nào để o ép một ai. Tất cả tin và theo chỉ là "tự nguyện". Tại sao như vậy? Đức Phật đã từng là một con người như bao nhiêu người khác. Ngài có nhiều tư lự, suy nghĩ về cuộc sống trần thế với sanh, lão, bệnh, tử; và Ngài đã từ bỏ ngôi vị giàu sang phú quý, vợ đẹp con thơ để đi tìm đạo. Ngài cũng đã không thỏa mãn với những gì mà Ngài học được từ những vị danh sư; Ngài cũng thực hành pháp khổ hạnh. Nhưng cuối cùng do quyết tâm của chính mình, Ngài đã ngộ được đạo dưới cội Bồ đề. Và từ đó, Ngài nói về những chân lý, phương pháp mà Ngài đã cảm nhận được để hướng dẫn cho con người làm theo cách đúng hầu tìm đến được sự Giác ngộ, tìm về với Chơn tâm của chính mình; cho nên Ngài chỉ là một Đạo sư, người chỉ đường cho người khác chứ không là một giáo chủ đầy quyền uy và ban phép cho người khác. Còn cái "Chân lý" mà Ngài truyền đạt qua "cái biết" của tri thức, "cái thấy" của Phật nhãn sau khi thành đạo Ngài gọi đó là chân lý của giác ngộ. Đạo của Ngài truyền bá cho chúng sinh, con người là Đạo Giác Ngộ (Phật). Nếu thông thường chúng ta cứ gọi là Đạo Phật thì chúng ta không thể nhận thức được trọn vẹn cái ý nghĩa của đạo; mà khi chúng ta gọi là Đạo Giác Ngộ để thay thế chữ Phật thì chúng ta mới thấy được cái ý trọn vẹn: Vì với Giác ngộ ta mới thấy là ta không bị mê muội tin theo một tín điều; với giác ngộ ta mới thấy cái sáng suốt của lý trí chúng ta khi chúng ta đến với giáo lý đạo Phật; và ta tin theo cũng từ trong nhận thức của lý trí. Cho nên, những ai tin theo giáo lý đạo Phật một cách thiếu nhận thức của lý trí thì hãy còn thiếu sót khá nhiều. Đó là tính chất rất khoa học trong đạo Phật hay nói một cách khác "Giáo lý đạo Phật không làm cho tín đồ phải mê muội tin theo, hoặc làm cho tín đồ phải mù quáng mà đâm ra cuồng tín hoặc tin mà thiếu nhận thức". Trong "Phật học từ điển" của Đoàn Trung Còn đã ghi: Phật: Bouddha (scr).-L' Illuminé (fr.) Cũng đọc: Bụt. Đọc trọn: Phật đà (Bouddha). Phật là tiếng Phạn, dịch nghĩa: Giác giả (Người Sáng-suốt). Ấy là tiếng để xưng bực Viên giác (Giác ngộ hoàn toàn). Phật, Phật đà, tức là người đã tự giác, lại giác ngộ cho chúng sanh, và hai cái hạnh tự giác và giác tha ấy ngài đã làm trọn vẹn rồi. (Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn). Con đường mà Đức Phật Thích Ca đã chỉ trong Đạo Phật không phải là con đường tin để được giải thoát mà là con đường thực hành để đến được "bờ giác", đến sự giác ngộ. Sau khoảng hơn 45 năm hành đạo và tùy theo căn cơ của từng chúng sinh hay từng nhóm mà Ngài đã thuyết khác nhau. Vì thế mà có nhiều bộ Kinh được ra đời, nhưng chung quy lại "Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác." (Kinh Kim Cang). Mặc dù vậy, Đức Phật cũng nhắc nhỡ rằng: "Ta cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, thì chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không biết luôn ngón tay" (Kinh Lăng Nghiêm) . Những kinh điển, giáo lý mà Ngài rao giảng hoặc đã nói ra chẳng qua là phương tiện để chỉ đường, hướng dẫn cho chúng sinh theo đó mà tu hành để đạt đến giải thoát, chứ không phải để nghiên cứu. Nhưng thông thường vì kinh điển của Ngài nói quá cao xa, do đó mà chúng sinh đã phải nghiên cứu thật nhiều hầu hiểu rõ hơn để tìm được con đường tu tập cho đúng. Vô hình chung là chúng ta mãi mê nghiên cứu ngón tay hơn là mục đích chính: Nhìn để thấy được mặt trăng. Và cũng do nơi nghiên cứu và phương pháp tu có sai biệt từ hoàn cảnh, môi trường, thời tiết, khí hậu... mà người ta đã phân biệt tiểu thừa, đại thừa; thiền với tịnh; phương pháp của ta hay, của người thì dở...Người ta đã quên rằng Đức Phật từng vạch rõ: Chính từ cái "ngã" và với "cái tâm phân biệt" ấy mà chúng sinh đã rời cõi Chân như để đi vào cõi luân hồi; bây giờ người ta lại hãy còn vẩn vơ về hai chữ "Vô minh". Cõi Chơn như là một tên gọi khác của Niết bàn, hay còn gọi là Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, Yêm Ma La Thức, Bồ Đề, Pháp Tánh... Nhưng đó chỉ là những danh xưng cùng chỉ về một cảnh giới của người giác ngộ đã đạt được tùy theo khía cạnh của từng đối tượng tu tập, hoặc nghiên cứu. Nói như vậy, tức là Đức Phật không chủ trương "Vô ngã" mà chính trong tự thể của từng chúng sinh nó đã là vô ngã. Mà chỉ với Vô ngã, chúng sinh mới có thể nhập vào trong cùng một cảnh giới "Chỉ một không hai" (Bất Nhị) tức là Niết Bàn hay bằng những danh từ khác như trên. Nơi đó không còn có "Tâm Phân Biệt" và "Vọng Niệm ". Đức Phật, trong Kinh Lăng Nghiêm, có thuyết: "Từ nơi Chơn Tâm, vì hư vọng hiện ra các cảm giác thấy, nghe, hay, biết. Do hòa hiệp vọng sanh ra, rồi cũng do hòa hiệp vọng diệt đi", và trong Kinh Viên giác Ngài nói rõ hơn: "Nầy Thiện nam, tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, bị nhiều món điên đảo làm mê mờ tính "Viên giác", như người lạc đường, lầm lộn bốn phương. Điên đảo vọng hiện ra thân và tâm, rồi lầm nhận thân tứ đại giả hợp nầy làm thân mình, chấp cái vọng niệm sanh diệt duyên theo bóng dáng của sáu trần cho là thật tâm của mình" (Phật học phổ thông- khóa VIII- trang 16). Chính vì vọng niệm, phân biệt mà chúng sinh đã rời cõi Chơn Như và mượn tứ đại: Đất, Lửa, Gió, Nước tạo nên thân xác của mình. Ngoài ra, tâm còn mượn đến Kiến đại để thành hình sáu giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng các thức; và nó cũng mượn đến hư không để thân xác được tăng trưởng và lớn lên. Theo như vậy, chúng ta thấy rằng trong thân xác con người hay của chúng sinh chỉ là những vay mượn từ tứ đại cho đến thức đại cùng hư không; thì thân xác ấy chẳng phải là thân thật của mọi loài, vì khi chết đi thân tứ đại lại hoàn trả về cho tứ đại; giác quan, các thức lại trả về cho kiến đại, hư không lại trả về cho hư không. Thế thì sao được gọi là "Thường"? Cho nên cái thân xác ấy là Vô Thường; cái "Ngã" của chúng sinh cũng chẳng là cái "Thật Ngã" của chúng sinh. Thế cho nên cái "Ngã" ấy chỉ là cái "Giả Tạm" mà thôi! Trong thế gian, người Duy vật thì cho rằng con người được sinh ra và lớn lên chỉ một lần, chết là hết; cũng giống như những người chủ trương đoạn diệt. Nhưng ý niệm đó không đơn giản! Vì từ xưa đến nay đều có những hiện tượng xảy ra trong đời sống, khiến người ta phải nghĩ đến vấn đề siêu hình và tái sinh: Một con người kể chuyện thời xa xưa ở một địa điểm nào đó mà họ chưa từng tới, sau khi truy tìm thì quả thật có như vậy. Điều ấy cho chúng ta suy nghĩ như thế nào? Những con người chết đi sống lại kể chuyện ở cõi khác, hoặc những hiện tượng kỳ lạ, ta phải suy nghĩ ra sao? Ngày nay những câu chuyện tương tự như thế được sưu tập lại khá nhiều từ Đông sang Tây và được in thành sách hay đăng tãi trong những tạp chí về khoa học huyền bí, như vậy, giữa những kiếp người nó phải có một sự liên kết nào đó; mà trong đạo Phật gọi cái chủ thể ấy là "Tâm", cái tâm của chúng sinh. Cái Tâm ấy vì "Vô minh" do nơi có "vọng niệm" và "phân biệt" mà rời cõi Chơn Tâm, rồi trầm luân vào cõi Luân hồi. Rồi với nghiệp báo khi còn sống trong những kiếp trước đã tạo nên, chúng sinh lại càng chìm sâu vào luân hồi và biển khổ mênh mông: Các nghiệp báo ấy "nhận chìm" chúng sinh vào trong bể khổ. Cái "ngã" về thân xác đã chỉ là giả tạm. Cái ngã "Tâm" lại là "vọng tâm", cái vọng tâm ấy cần lau chùi, gột rửa để tìm về "chơn tâm" trong sáng theo tự thể của nó, giống như tấm gương, hay viên ngọc bị bùn nhơ, bụi bám làm lu mờ u tối phải được lau chùi: Lau chùi để được trở lại trong sáng, sáng soi. Tấm gương, viên ngọc thì cần đến người khác lau chùi. Còn nghiệp báo của con người, chúng sinh do chúng sinh ấy tạo ra bằng từ hành động, lời nói, ý nghĩ của chính mình qua lòng tham lam, sân hận và si mê mê muội; thì chỉ có chúng sinh ấy tự gột rửa lấy mà thôi. Không một ai có thể thay thế hay làm hộ. Cho nên chúng sinh, con người cần phải tu sửa cho đúng hơn, thiện hơn và đẹp hơn. Đức Phật đã từ là một con người, một chúng sinh bình thường tìm được con đường Giác ngộ Chơn lý; và Ngài chỉ lại con đường ấy cho mọi người, chúng sinh. Ngài khẳng định trong các Kinh: Các Đức Phật trong quá khứ, hiện tại hay trong tương lai cũng phải nương vào con đường ấy mà về đến Niết bàn hay đạt đạo Vô Thượng Bồ Đề. Ngài đã đạt được thì mọi chúng sinh cũng sẽ đạt được: "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành". Nhưng sao phải Vô Ngã? Đi tìm lại cái "Thật Tâm" của mình chưa đủ, chúng sinh còn phải đoạn trừ mọi sát, đạo, dâm vọng. Vì tất cả các món đó đều tạo nên nghiệp: Giết hại thì tất phải chịu bị giết trở lại, nên còn phải có kiếp sau; như vậy vẫn phải bị luân hồi sinh tử. Trộm cắp, gây ân oán, đau khổ cho người khác; lừa đảo, dối trá, gạt người thì cũng phải trả món nợ mà mình đã vay, cho nên cũng không tránh được sự luân hồi. Những đam mê về sắc dục, khiến người ta, chúng sinh lưu luyến không từ bỏ cõi dục, thì cũng không thể rời cõi dục để đạt được đạo. Cho nên, trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã dặn dò cùng A Nan: Nếu không đoạn trừ dâm dục sẽ đọa vào ma đạo; không dứt sát hại sẽ đọa vào thần đạo; không bỏ trộm cướp thì đọa vào tà đạo và không trừ vọng ngữ thì thành ma ái kiến, mặc dù chúng sinh đó có tâm trí diệu ngộ, thanh tịnh đến đâu; và như thế tất cũng không đạt được đạo Bồ Đề. Đó là những điều liên hệ đến cái "Ngã" thân xác. Còn đối với cái "Ngã" của "Tâm" thì sao? Trong các Kinh Viên Giác, Kinh Kim Cang Đức Phật nói đến các tướng Nhân, Ngã, Chúng sinh và Thọ Mạng tức là nói đến cái "Tâm phân biệt" Ta, Người, Chúng sinh và cái "Tâm giới hạn" Thọ mạng tướng. Đó là những "Vọng tâm" đã khiến chúng sinh tách rời khỏi "Chơn Tâm" đi vào cõi Luân Hồi. Vì sao? Vì trong cõi Chơn Tâm mọi Tâm thức của chúng sinh đều "Viên dung" (hoàn toàn dung hợp, hòa lẫn với nhau, không loại trừ); và Chơn Tâm ấy lại Viên Dung cùng sáu đại khác là Đất, Lửa, Gió, Nước, Kiến đại và Hư Không thành một thể. Thể ấy tuy chung nhưng vẫn có cái riêng, trong mỗi cái riêng vẫn có cái chung theo đúng như câu "Tất cả là một, một là tất cả". Đức Phật đã đưa ra một ví dụ tương đối dễ hiểu là Tâm của mỗi chúng sinh trong vũ trụ vô biên giống như ánh sáng của một ngọn đèn trong căn nhà, tâm của những chúng sinh khác cũng là ánh sáng của những ngọn đèn khác cùng đặt trong cùng căn nhà đó. Tất cả ánh sáng của những ngọn đèn đều chiếu sáng khắp căn nhà, nhưng những ánh sáng từng ngọn đèn không bị lộn lạo lẫn nhau. Điều này được ghi lại trong Kinh Viên Giác như sau: "Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau" (Phật Học Phổ Thông- Khóa VIII- trang 51, 52). Cái thuở các đại còn viên dung thì Thức Tâm của mọi chúng sinh cũng viên dung trong cõi Chơn Tâm, nhưng do vì si mê, không biết lý lẽ và sự việc (Vô minh) mà tâm của từng chúng sinh sinh ra có vọng niệm, phân biệt mà tách rời nhau để rồi mượn tứ đại, kiến đại và hư không cấu thành thân xác giả tạm, vay mượn nên mới có sinh, lão, bệnh, tử và có luân hồi. Mỗi chúng sinh trở nên riêng biệt, sống theo bản năng sinh tồn từng loài mà tranh đấu, chém giết, giành giựt, lừa gạt...lẫn nhau bằng đủ mọi cách. Chính vì vậy mà tạo nên nghiệp để rồi phải chịu theo luật nhân quả trong vòng luân hồi triền miên. Muốn thoát ra, chúng sinh phải tự mình phấn đấu với mọi dục vọng, tham ái; phải dứt bỏ những nhân xấu, phát triển nhân thiện bằng thực hiện con đường Đạo đế hay áp dụng những con đường trong 37 phẩm trợ đạo, tức là những phương cách giúp đỡ người tu thực hiện để đạt được đạo như: Tứ niệm xứ- Tứ chánh cần- Tứ như ý túc- Ngũ căn- Ngũ lực- Thất bồ đề phần- Bát chánh đạo để tạo cho mình được sự dũng mãnh, tinh tấn, cương quyết thoát khỏi vòng trầm luân, khổ ải hoàn tất được con đường giải thoát, đạt đến Niết Bàn (Diệt đế). Theo như vậy, chúng ta cũng có thể hiểu rằng vì cái "Ngã" khởi đầu mà "Vọng niệm" và "Tâm phân biệt" khởi sinh, cho nên muốn trở về với lúc ban đầu ta cần phải từ bỏ Tâm phân biệt và vọng niệm, tức là chúng ta không thể thấy cái Ta của mình hơn Người mà thấy cái Ta cũng như Người. Ta, Người cũng như mọi Chúng sinh và Ta, Người, Chúng sinh mãi mãi hòa hợp, viên dung chứ không phải trong một khoảng thời gian ngắn hay thật dài, hoặc trong một thời gian giới hạn nào đó tức là Thọ mạng tướng vậy. Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật đã nói về bốn tướng Ngã, Nhân, Chúng sinh và Thọ mạng như sau: -Nầy Thiện nam! Các chúng sanh đời sau, bởi không rời được bốn tướng, nên tuy trải qua nhiều kiếp, siêng năng tu hành khổ hạnh, nhưng chỉ thành hữu vi mà thôi, chớ không thể chứng được Thánh quả" (Phật Học Phổ Thông- Khóa VIII- trang167). Thấy "Cái Ta" (Ngã) hòa hợp chung với Người (Nhân) và Chúng sinh (Chúng sinh) mãi mãi, vô cùng tận (Thọ mạng tướng) tức là đã dứt bỏ đi cái Ngã hay nói đúng hơn là "Vô Ngã". Diệt cái Ngã cá nhân để biến cái Ngã ấy viên dung cùng tất cả mọi cái Ngã của chúng sinh và chung với các đại khác: Đó là một điều cần phải có trong Đạo Phật để người tu hành đạt được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Trong Kinh Kim Cang (Phật Học Phổ Thông- khóa XII), Đức Phật đã thuyết như sau: -"Phải xa lìa tất cả các chấp tướng, mới gọi là chư Phật". (Trang 109). -"Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Nếu có người phát tâm Bồ Đề, thì phải dụng tâm như vầy: Ta hóa độ tất cả chúng sanh, nhưng không thấy có mình độ và chúng sanh được độ. Tại sao vậy? Nếu Bồ Tát còn thấy mình độ và chúng sanh được độ, thì Bồ Tát còn tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả, tức nhiên không phải là Bồ Tát". (Trang 134-135). Và: -"Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông chớ lầm tưởng: Như Lai nghĩ rằng: "Ta độ chúng sanh". Tại sao vậy? Nếu Như Lai có nghĩ: "Ta độ chúng sanh", thì Như Lai còn chấp bốn tướng Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ giả, tức nhiên không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như Lai thật không có độ chúng sanh nào cả". (Trang 168). Nói tóm lại, sau khi thành Phật hay đúng hơn trở thành Bậc Giác Ngộ, Đức Phật mới nói lại những Chân Lý đã có không biết tự bao giờ và chỉ dẫn con đường để trở thành người giác ngộ mà Ngài cũng như vô số Phật đã thành đạo trong thời quá khứ, hiện tại đang thành cũng như những vị Phật trong tương lai sẽ thành phải trải qua. Con đường đó không khác nhưng tùy theo mỗi con người, chúng sinh vì trình độ có sai khác nên họ sử dụng phương pháp có khác nhau, nhưng chung qui cũng đi đến mục đích giải thoát. Sự ra đời của Đức Phật có hai mục đích chính: Một là chỉ rõ cho chúng sinh để chúng sinh được: Khai (mở ra, biết)- Thị (thấy)- Ngộ (gặp, hiểu biết, nhận thức)- Nhập (thấm vào, hiểu và thực hành) Phật Tri Kiến (những điều mà Bậc giác Ngộ thấy, biết) như mục đích rõ ràng khi Phật thuyết về Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Hai là hướng dẫn con đường, lối tu (Đạo sư) sao cho đúng và tùy theo từng trình độ để chúng sinh có thể thực hành con đường giải thoát đi đến kết quả và thoát được vòng sinh tử, luân hồi tìm về nơi an vui, hạnh phúc, thường hằng. Thực ra con người, chúng sinh tu hành để thành Phật chỉ là tìm con đường trở về nơi chốn cũ mà trước kia mình đã ra đi như Đức Phật đã nói "chúng sinh vốn đã thành Phật từ xưa tới giờ" hay khi thành Phật cũng như là thoát khỏi "giấc mộng ngày hôm qua". Sở dĩ như vậy vì do Vô minh mà con người, chúng sinh mới đi vào cõi mộng. Giấc mộng ấy không thật có cho nên những pháp để thoát khỏi giấc mộng mới được xem là "huyễn ảo" mà thôi. Chúng sinh bị rơi vào vòng trầm luân, luân hồi vì do sự Vô minh, nhưng đó cũng là điều kiện để tôi luyện cho chúng sinh thành bậc giác ngộ hiểu thấu rõ sự và lý để không bao giờ bị Vô minh một lần nữa, giống như Đức Phật đã tỉ dụ: "Quặng vàng đã được tôi luyện thành vàng thì không bao giờ trở thành quặng nữa". Cuối cùng, điều kiện "Vô ngã" là điều kiện tất có để chúng sinh có thể hòa nhập vào trong đại thể (sự viên dung của Chơn Tâm cá nhân trong Thức Tâm, cũng như thức Tâm cùng với sáu đại khác) của vũ trụ khi đã thành đạo Vô Thượng. Nếu không, "cái Ta ngã mạn" sẽ tự đào thải mình nằm ngoài vòng đai của Đại thể, đôi khi Cái Ta ngã mạn ấy biến chúng sinh thành một "nhân vật" đem nhiều tai họa đến cho không biết bao nhiêu người bởi vì sự "Tẩu hỏa nhập ma" của chính mình. Bởi thế cho nên đi tìm Chân lý cũng thật là khó lắm thay!
    1 like
  33. Cập nhật lúc 15:44, Thứ Tư, 25/08/2010 (GMT+7) Một hệ Mặt trời rộng lớn bao gồm 7 hành tinh quay quanh một ngôi sao giống như Mặt trời vừa được khám phá ở cách trái đất của chúng ta 127 năm ánh sáng. TIN LIÊN QUAN Sao Mộc từng nuốt chửng hành tinh gấp 10 lần Trái đất Phát hiện 140 hành tinh giống trái đất Hành tinh nóng nhất dải Ngân Hà sắp bị “nuốt sống” Đây là các hành tinh được cho là lớn nhất từng được phát hiện ngoài Mặt trời. Các nhà thiên văn cũng đã xác nhận sự hiện diện của 5 hành tinh và đưa ra những chứng cứ rõ ràng để khẳng định sự tồn tại của 2 hành tinh nữa. Tiến sỹ Christophe Lovis, người đứng đầu các nhà khoa học tại Đài thiên văn Nam Âu (ESO) cho rằng: “Phát hiện này đã nêu bật thực tế rằng loài người đang bước vào một kỷ nguyên mới trong việc nghiên cứu các hành tinh nằm ngoài hệ Mặt trời: chúng ta sẽ nghiên cứu một hệ thống các hành tinh phức tạp chứ không phải các ngôi sao riêng lẻ”. “Những nghiên cứu về chuyển động của các hành tinh trong hệ thống mới này cho thấy sự tương tác phức tạp giữa các hành tinh và cho chúng ta có cái nhìn sâu hơn vào sự phát triển lâu dài của cả vũ trụ”. Ngôi sao bố mẹ của hệ thống các hành tinh này, có tên gọi là HD 10180, nằm trong chòm sao Thủy Xà (Hydrus) cách chúng ta 127 năm ánh sáng. Khoảng cách của những hành tinh này đến ngôi sao bố mẹ của chúng được sắp xếp theo quy tắc tương tự như hệ Mặt trời. Các nhà thiên văn đã kiên nhẫn nghiên cứu các hành tinh này trong 6 năm bằng cách sử dụng một thiết bị được gọi là quang phổ ký (HARPS), thiết bị này được gắn vào kính thiên văn của ESO ở La Silla, Chile. Từ 190 phép đo thu được từ HARPS, các nhà thiên văn có thể phát hiện được các rung động nhỏ nhất từ chuyển động của các hành tinh do lực hấp dẫn của chúng gây ra. 5 tín hiệu mạnh nhất thu được đã giúp các nhà khoa học kết luận có 5 hành tinh với kích thước tương tự như sao Hải vương. Những hành tinh này, với chu kỳ quay quanh ngôi sao bố mẹ từ 6 đến 600 ngày, được tách từ ngôi sao bố mẹ và có khoảng cách từ 0,06 đến 1,4 lần khoảng cách từ Trái đất đến Mặt trời. Tiến sĩ Lovis nói thêm: “Chúng tôi cũng có những lý do để tin rằng 2 hành tinh khác cũng có mặt. Hành tinh thứ nhất tương tự như sao Thổ (với khối lượng tối thiểu gấp 65 lần khối lượng Trái đất), quỹ đạo quay là 2,200 ngày. Hành tinh thứ hai nhỏ hơn nhiều, nó chỉ có khối lượng gấp khoảng 1,4 lần so với Trái đất. Nó rất gần với ngôi sao chủ, khoảng cách chỉ khoảng 2% so với khoảng cách giữa Trái đất và Mặt trời. Một năm trên hành tinh này chỉ bằng 1,18 ngày trên Trái đất”. Hành tinh này có nhiều đất đá giống như Trái đất, nhưng có lẽ quá nóng để sự sống có thể tồn tại. Với ít nhất 5 hành tinh có kích thước tương đương sao Hải vương quay xung quanh, hệ thống HD 10180 có những vùng phía trong rộng lớn hơn nhiều hệ Mặt trời của chúng ta. Được biết cho đến nay các nhà thiên văn học đã tìm thấy 15 hệ thống có chứa ít nhất là 3 hành tinh. Trong đó hệ thống cuối được phát hiện có tên gọi là 55 Cancri, với 5 hành tinh bao gồm cả 2 ngôi sao khí khổng lồ. Thông tin chi tiết của phát hiện sẽ được trình bày vào ngày hôm nay (25/08) tại cuộc họp báo tại Đài quan sát Haute-Provence, đông nam nước Pháp. •Song Hà (Theo Telegraph) Nguồn: Vietnamnet.vn
    1 like
  34. Cứ thong thả qua tháng 7 âl, bạn hãy chọn ngày để dọn trong tháng 8 âl.
    1 like
  35. 178 độ thì cũng vẫn không tốt em ạ. Vấn đề ở chỗ là anh sẽ cần chính tay anh đo chính xác nhà của em mới được. Bố trí thì em phải lên anh mới hướng dẫn cụ thể chứ nói mô tả thì khó lắm.
    1 like
  36. Những bài thuốc trị bệnh bằng trái cây . http://www.megaupload.com/?d=AMTVGTWK
    1 like
  37. Tướng Giáp và sự kiện qua lý giải của Dương Trung Quốc 24/08/2010 11:00:37 - Quyết định “đánh nhanh thắng nhanh” có bị áp lực từ đâu không; thông tin về chiến dịch Mậu Thân; quan điểm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về mối quan hệ với Mỹ và Trung Quốc…, tất cả những thắc mắc của độc giả Bee.net.vn đã được Nhà sử học Dương Trung Quốc giải đáp, dựa trên những tài liệu và những buổi làm việc với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng Võ Nguyên Giáp. TIN LIÊN QUAN TBT Nông Đức Mạnh chúc thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp Đại tướng Võ Nguyên Giáp:" Dĩ công vi thượng" Đại tướng thích ăn cá kho, canh rau đắng… Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Trí thức lớn, người cha bình dị Đại tướng Võ Nguyên Giáp:Quyền lợi đất nước, con người, biển đảo… Đọc toàn bộ cuộc giao lưu TẠI ĐÂY Sự kiện Mừng sinh nhật lần thứ 100 Đại tướng Võ Nguyên Giáp Điện Biên Phủ: Thay đổi cách đánh dựa trên báo cáo thị sát hiện trường Hồ Đắc Huy - Nam 27 tuổi - TP.HCM - Thưa chú Dương Trung Quốc: Trong chiến dịch ĐBP khi đồng ý với quyết định "đánh nhanh thắng nhanh" của Cố vấn TQ, ta có bị áp lực gì của họ không, dù trước khi đi Bác Hồ có dặn Đại tướng chắc thắng mới đánh, và các vị tư lệnh đại đoàn cũng có nhiều băn khoăn. Nhà sử học Dương Trung Quốc: - Về việc này, trong hồi ức của Đại tướng cũng có đề cập tới. Thứ nhất, khi trao nhiệm vụ chỉ huy mặt trận, Bác Hồ đã giao cho Đại tướng toàn quyền nhưng với nguyên tắc "chắc thắng mới đánh". Thứ hai, Đại tướng rất tôn trọng những ý kiến của các cố vấn nhưng quyết định thì luôn đề cao tinh thần tự chủ. Thứ ba, để thay đổi cách đánh, Đại tướng luôn lắng nghe những ý kiến của các vị tướng lĩnh ngoài trận tiền và trực tiếp tìm hiểu thực tiễn. Vì thế, khi lực lượng pháo binh đã tập kết vào vị trí chiến đấu sau rất nhiều khó khăn gian khổ để đưa pháo vào để tác chiến theo phương án "đánh nhanh thắng nhanh" theo ý kiến của cố vấn. Nhưng ngay sau khi nghe được ý kiến của Tướng Phạm Kiệt là phái viên đi thị sát công tác chuẩn bị tác chiến bày tỏ sự lo lắng về lực lượng pháo binh có thể bị đối phương phản pháo vì chưa có công sự an toàn. Đó chính là "giọt nước tràn ly" khiến Đại tướng quyết định xem lại toàn bộ cách đánh của chiến dịch. Những người gần Đại tướng khi đó, sau này, luôn nhắc đến một nắm ngải cứu mà Đại tướng đặt trên đầu để giảm bớt sự căng thẳng sau một đêm suy nghĩ và trao đổi với những đồng sự của mình để đi đến quyết định cuối cùng là chuyển cách đánh từ "đánh nhanh thắng nhanh" sang "đánh chắc thắng chắc". Sau này Đại tướng cũng nói rằng, khi trao đổi lại với các cố vấn Trung Quốc thì cuối cùng họ cũng tán thành và tôn trọng quyết định của chúng ta. Như thế là Đại tướng đã thực thi đúng những quyền hạn mà Bác Hồ giao phó, đồng thời, cũng tuân thủ những nguyên lý chắc thắng mới đánh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguyễn Hồng Quy - Nam 20 tuổi - TP.HCM - Đại tướng Võ Nguyên Giáp có từng đề cập đến mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc và Mỹ không ạ, nhất là trong những năm 1976-1995? Nhà sử học Dương Trung Quốc: - Trong lịch sử Pháp và Mỹ là hai "đối tác lịch sử" khá đặc biệt: Có lúc là bạn, có lúc là thù. Khi đề cập đến vấn đề này, tôi thấy Đại tướng là người tư duy rất mạch lạc, trung thực với lịch sử nhưng luôn hướng tới một thiện chí, hơn là khơi sâu những hận thù. Ví dụ, ngay khi nói về chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng muốn làm rất rõ những chi tiết liên quan đến trận đánh, đặc biệt là khi bàn đến cách đánh để khẳng định tính tự chủ của quân đội ta. Nhưng ông cũng không quên nhắc đến những giúp đỡ của Chính phủ, nhân dân và quân đội Trung Quốc, trực tiếp còn có các vị cố vấn có mặt ngay trong cơ quan chỉ huy chiến dịch. Cũng như khi nói đến các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, ông nhắc nhở không thể quên những đóng góp rất thiết thực về vật chất và tinh thần của Liên Xô và Trung Quốc, các nước Xã hội Chủ nghĩa và bạn bè Quốc tế. Và đương nhiên, chúng ta đều biết, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc có những giai đoạn lịch sử ảm đạm gắn với cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam. Đại tướng là người luôn nhớ đến những bài học lịch sử nhưng cũng quan niệm rằng cái quá khứ không thay đổi được nhưng tương lai thì hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta. Do vậy, khi đề cập tới "vấn đề Trung Quốc" trong thời kỳ xảy ra những mối quan hệ thù địch thì ông vẫn tin rằng, hai dân tộc sẽ vượt qua được nếu những nhà lãnh đạo học được bài học của lịch sử. Thực ra, trong 1000 năm tự chủ (được ghi nhận bằng 1000 năm Thăng Long Hà Nội), bên cạnh truyền thống đánh giặc, mỗi khi bị xâm lược, thì ông cha ta luôn coi việc gìn giữ hòa hiếu với phương Bắc là một nhiệm vụ hàng đầu (đương nhiên, chủ quyền không thể chia sẻ). Nhà sử học Dương Trung Quốc Còn với Mỹ, tôi nhớ lần con trai của cố Tổng thống Mỹ Kennedy đến chào Đại tướng đúng vào dịp sinh nhật lần thứ 87 (năm1998) mà tôi có may mắn được chứng kiến, câu đầu tiên Đại tướng chỉ lên trên tường nhà mình tấm ảnh chụp cùng Bác Hồ năm 1945 và nói rằng chính tấm ảnh này là do các bạn Mỹ chụp chúng tôi. Đại tướng muốn nói đến một thời kỳ lịch sử Mỹ là đồng minh duy nhất của Việt minh, có những mối quan hệ rất chặt chẽ với Bác Hồ và Đại tướng trong thời kỳ quyết định thắng lợi cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 (tháng 7/1945) một đơn vị tình báo Mỹ (OSS) đã nhảy dù xuống Tân Trào cùng Việt minh thành lập Đại đội Việt - Mỹ do Đàm Quang Trung làm đại đội trưởng, Võ Nguyên Giáp là Tư lệnh và thiếu tá Thoms làm cố vấn. Đơn vị này đã bao vây quân Nhật ở Thái Nguyên, sau đó có mặt tại Hà Nội vào thời điểm tổ chức lễ Độc lập... Rồi Đại tướng nói với con trai Kennedy rằng, quan hệ Việt - Mỹ không chỉ có những trang đen tối của cuộc chiến tranh vừa qua mà từng có những trang sử tốt đẹp là đồng minh chống phát xít. Vậy, các bạn trẻ vừa không quên cuộc chiến tranh vừa qua nhưng phải có trách nhiệm viết tiếp những trang sử tốt đẹp như nó đã từng có trong quan hệ Việt - Mỹ. Cuộc chiến Mậu Thân: Vẫn còn khoảng trống trong lịch sử Trần Xuân Thoan - Nam 42 tuổi - 1/138 Quang Trung - TP. Nam Định - tỉnh Nam Định - Hiện giờ, thông tin về Chiến dịch Mậu Thân 1968 vẫn chưa tỏ rõ. Xin hỏi quan điểm dùng binh của Đại tướng trong cuộc chiến Mậu Thân 1968? Nhà sử học Dương Trung Quốc: - Trong nhận thức của tôi, đây vẫn còn là một khoảng trống lịch sử. Hình như, trong bộ hồi ức rất đồ sộ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, giai đoạn này chưa được đề cập tới. Và chúng ta cũng biết rằng, đây là một khúc ngoặt rất quan trọng của lịch sử chiến tranh ở Việt Nam nhìn nhận cả về phía chúng ta (cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước) và cả đối phương. Giờ đây, ngay trên sách báo của ta cũng đã nói đến những tổn thất nặng nề về lực lượng trước và sau chiến dịch và nhiều vấn đề khác, nhưng tổng thể thì ngay cả giới sử học phương Tây (bao gồm Hoa Kỳ) đều thừa nhận cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 đã gây kinh hoàng đối với Mỹ về khả năng điều động lực lượng và đồng loạt tấn công vào phần lớn các đô thị và căn cứ quân sự ở Việt Nam, kể cả tòa Đại sứ Mỹ ở giữa Sài Gòn của lực lượng vũ trang cách mạng. Tuy chịu tổn thất về lực lượng nhưng nó đã đè bẹp ý chí tiếp tục cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Mỹ hiểu rằng, không thể có được thắng lợi bằng quân sự. Nó cũng tác động mạnh mẽ vào dư luận Mỹ và thế giới. Do vậy, sau Tết Mậu Thân, Mỹ phải chấp nhận bước vào cuộc đàm phán tại Paris rồi tiến đến việc rút quân khỏi miền Nam, thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, dẫn đến điều tất yếu là chế độ Sài Gòn sụp đổ. Đương nhiên, bài học Mậu Thân cũng mang lại nhiều bài học sâu sắc cho giai đoạn tiếp theo của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chiến dịch Hồ Chí Minh: Tổng tư lệnh Tú Linh - Nam 26 tuổi - Hà Nội - Cháu không được rõ lắm về vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Bác có thể giúp cháu hiểu hơn về vấn đề này không ạ? Nhà sử học Dương Trung Quốc: - Chiến dịch Hồ Chí Minh có một tầm vóc vô cùng to lớn. Nó không chỉ là một chiến dịch có quy mô rộng lớn về quân sự mà còn là một chiến dịch mang tính chiến lược quyết định sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hoàn thành trọn vẹn mục tiêu thống nhất đất nước. Với tầm vóc như vậy, có thể nói toàn bộ bộ máy lãnh đạo đất nước và mọi nguồn lực của dân tộc đều dốc sức cho thắng lợi chung. Với cương vị Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, đương nhiên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phải là người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc chỉ huy các lực lượng vũ trang phối hợp tác chiến, theo chỉ đạo của Đảng. Người ta có thể nhắc tới những đóng góp cũng rất to lớn của các vị tướng lĩnh trên các chiến trường khác nhau nhưng sự chỉ đạo của Bộ Tổng tư lệnh vẫn mang vai trò của một người chịu trách nhiệm cao nhất về quân sự. Liên quan đến vấn đề này, tôi muốn nhắc tới một kỷ niệm liên quan đến tác phẩm mang tính tổng kết của Đại tướng "Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng", ông đã cho phép tạp chí "Xưa và Nay" của tôi công bố một số đoạn vào năm 1995 trước khi cuốn sách được xuất bản 5 năm. Trong đoạn kết, khi viết về cảm xúc chiến thắng, ông nhắc lại tên tuổi tất cả những nhà lãnh đạo, các vị tướng lĩnh tham dự cuộc chiến tranh giải phóng này. Ông yêu cầu tôi chọn một số tấm ảnh minh họa và rất hài lòng khi chúng tôi tìm được tấm ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chia tay nhau trước khi ra chiến trường bên cây đào đang nở hoa và ảnh ông cùng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh "xoay trần" dưới sàn nhà cùng nghiên cứu bản đồ tác chiến... Và đương nhiên, trong tất cả những điều ông viết ra luôn thấy có bóng dáng Bác Hồ. Bee.net.vn
    1 like
  38. Suy tưởng tiếp cận Tâm Linh Nguyễn Tất Thịnh Giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia [Thế kỉ 21 không phải là Thế kỉ của Khoa học – Công nghệ! Con người dường như đã đạt đến đỉnh cao của nghiên cứu phát hiện ra những Qui luật cũng như những Tri thức về Khoa học cơ bản và ứng dụng, từ đó có sẵn những nguyên lí để làm ra những thiết bị, phương tiện khác nhau phục vụ sản xuất, đời sống và những mưu cầu khác ! Con người đã đưa thiết bị lên Sao Hỏa, đã vẽ nên Bản đồ Gen của chính mình… Nhưng chính vì vậy Con đường bí mật đi đến tìm hiểu ý niệm về Thượng Đế - Thế giới Tuyệt đối – có vẻ như gần hơn, lại càng làm Con người khát vọng hơn bao giờ hết! Để ít nhất cũng ngộ ra một điều rằng : Bản thân Khoa học Công nghệ, dù phát triển đến đâu nhưng là quá hữu hạn để thỏa mãn khát vọng đó: Sức mạnh Vật chất, các Qui luật của Thế giới Vật chất dù đến ghê gớm cũng chỉ tạo ra những lò lửa Nhiệt hạch trên Mặt Trời Khổng lồ, hay đưa trí tuệ của Con người ( trong bộ Não dù phi thường của mình ) đi đến hình dung hình ảnh vĩ đại về cái Black Hole ( Hố Đen ) mà thôi! Thế còn trước đó và trong nó như thế nào? Thách thức cho khát vọng đó của Con người hiện nay là tìm kiếm những khả năng có thể vượt qua chính những hạn chế của mình ( Bản thể & Xã hội & Công nghệ ), vươn đến những phạm vi tối cao của Vũ Trụ…Bởi vậy Thể kỉ 21 – xét theo xu hướng Tri thức – là thế kỉ Con người biết chắc rằng mình phải tìm kiếm những phương thức và cách tiếp cận phi truyền thống và cố gắng lý giải xác thực hơn để càng ngày càng thấy mình tiệm cận đến Thế giới Tâm Linh !….Không phải ngẫu nhiên mà cái Vòng tròn này quay trở lại : Ngày xửa ngày xưa….bằng Văn Thơ, Âm Nhạc, Mĩ Thuật….Con người đã có thể du hành lên Mặt Trăng, đã bay vào Vũ Trụ với những siêu tưởng mà đến hôm nay Khoa học và Công nghê mới dần từng bước thực chứng mà vẫn chưa vươn tới hoàn toàn được như thế. Trước Công Nguyên Triết học Phương Đông đưa ra ý niệm Âm Dương, Ngũ Hành…dường như một ‘Tôn giáo Tuyệt đối Chuẩn tắc’ ( Chữ của tôi dùng ) mà toàn bộ thành quả của Khoa học đến hôm nay không hề xung đột, mà cũng chỉ đang tiệm cận đến mà thôi…. Trong khuôn khổ bài này, tôi đưa ra cách hiểu thế nào là cách tiếp cận Phi truyền thống đó ? Là không dựa vào ý thức hệ cũ, những luận cứ khoa học đã được xác tín, những cách nhìn dựa trên sự hiểu các qui luật Vật Lý đối với Sự vật Hiện tượng – Sự tiếp cận Phi truyền thống đó luôn bắt đầu bởi những câu hỏi mang màu sắc hướng tới Tâm Linh. Ví dụ 1: Khi Một Người đi trên chuyến xe bình thường thì anh ta đến nơi anh ta định muốn đến, ở tương lai đó sẽ xảy ra những điều anh ta dự kiến bởi kế hoạch, và có thể lường trước bởi một số dự liệu nhờ tiên đoán ( chọn giờ xuất hành, những cảnh báo… Chẳng hạn, thầy Tướng nói : anh ta đi xe hơi có nguy cơ bị đánh bom, anh ta bèn đi bằng xe bọc thép rất kiên cố - là phương tiện tối thiểu đi được qui luật Vật lí do bom nổ tác động vào anh ta )! Nhưng nếu anh ta đi trên con tàu mà giả định rằng hơn rất nhiều xe bọc thép nói trên - ở đó các qui luật Vật lí và qui luật sống bình thường không mảy may ảnh hưởng nữa ( ví như con tàu tốc độ ánh sáng ) thì nó có đưa anh ta đi đến Tương lai chắc chắn như vốn hoạch định cho mình như thế nữa không? Nếu đi trên con tàu đó thì hẳn anh ta sẽ không là anh ta như một thực thể như đang nhìn thấy mà sẽ là một ‘dạng khác’ ? Đó là gì ? Tương lai của anh ta lúc đó thực ra là gì ? Chắc chắn là không còn là câu chuyện của Mạng sống nữa – sẽ là ‘điều khác’ ! Ví dụ 2 : Nếu có con tàu thời gian thì Con Mèo Con 3 tuổi có thể quay ngược về thời điểm nó sinh ra mà nó vẫn là nó đang 3 tuổi nữa không ? Ở thời điểm quay lại quá khứ như thế, Bố nó đâu, là gì? Nhỡ nó du côn mà giết Bố nó thì liệu có còn nó nữa không.?... Hoặc nếu con tàu đó chạy đến tương lai của nó thì có thể dẫn nó đến rất nhanh cái thời điểm nó 100 tuổi không ? Trong khi đời sống sinh học của nó chỉ khoảng 15 năm ? Trên hành trình đó nó có gặp phải những điều đáng phải xảy ra như sẽ xảy ra khi nó sống bình thường trong một căn nhà nào đó không ? Ví dụ 3 : Có những Vì Sao đã tắt tàn, nhưng đến hôm nay ánh sáng từ nó mới vượt được những Tỉ năm ánh sáng đến với Trái đất chúng ta. Nhờ vậy chúng ta vẫn thây nơ hiện hữu, nhận dạng và hiểu được diễn tiến của nó cho dù nó đã biến mất từ lâu…Thực chất, bằng suy tưởng, tư duy ( là cách duy nhất như chúng ta từng hiểu có thể đi xuôi ngược trục Thời gian với vận tốc trên ánh sáng – chính là vận tốc của Thời Gian như tôi đã trình bày trong bài Bí Mật của Thời gian… ), thì chúng ta có thể quay ngược về Vì Sao đó nhanh hơn tốc độ ánh sáng…đến được nó khi nó, ở đó thấy nó còn đang tồn tại….cho dù thực chất nó đã không hiện hữu nữa ( nếu nhờ tín hiệu về nó được phát đi của ánh sáng ) Ví dụ 4 : Nhờ Khoa học và Công nghệ, một Tế bào Gốc, một Phôi Thai, một Con người được bảo quản đông lạnh…cho đến rất 5000 năm sau được hoạt sinh hóa trở thành một thực thể sống . Nhưng anh ta, ở tương lai đó, trong thể chất, tinh thần của mình cũng chỉ là một Sinh Thể lưu giữ hiện trạng mọi mặt của quá khứ và thời đại hôm nay ( thời điểm được đông lạnh ) mà thôi ? Trong 5000 năm chờ đợi ấy anh ta không là anh ta? Anh ta chết ? Hay anh ta đang là mình?... rõ ràng là không phải thế! Cho dù dòng thời gian vẫn trôi chảy ( 5000 năm qua đi cơ mà )…5000 năm ấy tuy có bao nhiêu biến cố, nhưng liêu có gì để tiên đoán cho anh ta khi đang được đông lạnh như vậy ? Hóa ra mọi sự tiên đoán, như người ta vẫn muốn thế, là gắn với quá trình sống thực mà thôi !? Bản chất là dẫn dắt Bản thể đi vào Ý niệm về Thời Gian sống chậm lại tối thiểu như có thể ! Nhờ vậy đỡ hao tổn và rủi ro ! Ví dụ 5: Nhưng Con Gấu ngủ đông ( nghĩa là thời gian mấy tháng rét mướt đó, sự sống của nó trở về trạng thái tối thiểu ), nó vẫn sống, nó không thể và không dự đoán gì cả về những điều xảy ra, mà Con người sẽ dự đoán thay cho nó – chẳng hạn nhờ khoa học mà biết sẽ có núi lở…Con người sẽ vác nó đến chỗ khác để tránh…do đó Tương lai của nó không tùy thuộc vào nó nữa. Vấn đề nó phải lộ diện để Con người nhận ra nó, nó phải hữu ích để Con người muốn cứu nó….Đến lượt Con người cũng vậy ( lộ diện và để ‘thương được’…với Lực lượng nào đó trong Siêu nhiên – Thượng Đế !? ) Quả thực : Tôi tư duy là Tôi tồn tại ! Nhưng Tư duy diễn ra trong Bộ Não – một cấu trúc sinh học siêu tinh tế! Nhưng không chỉ là mức độ phức tạp của nó mà chắc hẳn có ‘Thế Lực Tuyệt đối Siêu nhiên Nào đó’ can dự vào quá trình Sống của Con người, đi vào Tư duy đó…sinh thành, tác động , lưu giữ những tinh hoa, kết quả của nó…và chuyển hóa sang những Bộ não khác, những Sinh Thể khác…kết hợp vào sự Nhân Bản bởi quá trình sinh lý duy trì nòi giống của Con người. Chúng ta thấy những kết quả Tư duy ( Tư tưởng ) của Các Bậc Tiền Bối Vĩ đại được lưu giữ và truyền lại đời sau dưới dạng trước tác, thành quả vật chất…do đó chúng ta nói : Các Vị đó không chết, cho dù Các Vị đã chết ! Nhưng kết quả Tư duy đó của Các Vị có vào hết cuộc sống của mọi người đâu, mà chỉ một nhóm hay bộ phận thôi – điều quan trọng là vẫn còn được chuyển hóa, truyền tiếp đến đời sau ( một dạng thức của Tái Sinh vậy! )…Và hãy hình dung khi Toàn bộ Nhân Loại vì Nạn Đại Hồng Thủy nào đó mà chết hết cả, thì Tư duy đó nó đi đâu ? Hoàn trả lại Thế giới Tuyệt đối mà thôi ! Chờ đợi Thượng Đế tạo ra một Sinh Vật Khác mà đưa lại can dự để đưa dần các Tư duy đó vào chúng…sau này…Cũng bởi vậy và Đại Từ ‘Tôi’ nới trên rất có thể là từ Con người A -> B -> …Z -> Và đến một Con Nào Đó, Loài Nào đó…ở đâu đó, có thể không hẳn ở trên Trái Đất này…. Nhưng Thế Kỉ 21 thực ra sẽ là Thế kỉ của điều gì ? Vẫn của Con người thôi, nhưng là Con người hướng tới Tâm Linh…không đi đến sự mê tín hay cuồng tín ( bởi đã đứng trên những nền tảng quá vững chắc của Văn minh Khoa học – Công nghệ ) nhưng dẫn đắt Cuộc sống của mình chủ động hơn trong Dòng Sông Thời Gian - Bí Mật của Thượng Đế - để có thể đi được ngược xuôi trên dòng Sông đó – Tương lai & Quá khứ : Tái sinh + Hoạt sinh + Hoàn sinh! Muốn vậy tôi xin nhắc lại câu tôi viết ở trên : Lộ diện với Trời Đất + Phải có tư tưởng + Trời thương được! Tôi viết như trôi đi, không phải trên từng câu chữ…tự nhiên phát ra từ sâu thẳm…từ đâu không biết…chỉ cảm thục được mà không hiểu mấy…những ai…nhưng tôi đang biết rõ thời điểm này : Tôi là Tôi…xung quanh…Vũ Trụ…
    1 like
  39. KHAI TRƯƠNG THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ . dienbatn khai trương THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ miễn phí . Các bạn có thể tải về để đọc . Nguồn sách là của dienbatn và các cuốn sách sưu tầm khác trên các trang web khác khoảng gần 10.000 cuốn , dienbatn sẽ đưa lên dần. Tạm thời chia ra các chuyện mục sau : 1/ SÁCH PHONG THỦY - TỬ VI - TỬ BÌNH - THÁI ẤT- KINH DỊCH - NHÂN TƯỚNG ... 2/ SÁCH HUYỀN MÔN ( BÙA CHÚ, NGẢI NGHỆ ...) 3/SÁCH VỀ MẬT TÔNG VÀ CÁC ĐẠO PHÁP KHÁC . 4/SÁCH NGHIÊN CỨU . 5/ SÁCH VĂN HỌC . 6/ CÁC BÀI KHẢO CỨU SƯU TẦM . dienbatn xin cảm ơn nguồn sách của các trang web khác khi sưu tầm đã lâu mà quên mất nguồn . Chúc các bạn có thêm nhiều tư liệu cho việc nghiên cứu của mình. Thân ái . dienbatn . Tải sách tại đây : http://vn.360plus.yahoo.com/dienbatn/artic...4&next=3582
    1 like
  40. KNTL - Chúng tôi cho trích giới thiệu bài báo “Linh Hồn và Cõi Âm” của GS TS Bùi Duy Tâm (sống tại Francisco, CA 94122, USA) đã đăng trong Giai phẩm Thời luận số Xuân Mậu Tý 2008. Từ chỗ chưa có cơ sở để tin cậy vào sự tồn tại vong linh con người, GS Tâm đã rất kiên trì tìm hiểu vấn đề tâm linh và cuối cùng đã rút ra kết luận chắc chắn rằng: sự sống sau cái chết là có thực! LINH HỒN VÀ CÕI ÂM Người ta đã sinh ra thì tất sẽ chết. Nên mọi người đều rất quan tâm và đa số sợ chết. Do đó sinh ra các triết nhân và triết thuyết về cái chết, các thánh nhân và tôn giáo về thiên đàng, địa ngục, các mê tín dị đoan về ma quỷ. Chúng tôi cũng như mọi người thường suy nghĩ về Cái chết, về Linh hồn, về Cõi đời sau khi chết, nhưng hơi nhiều hơn mọi người. Tôi, Bùi Duy Tâm, sinh ra trong một gia đình ba đời theo Đạo Thiên Chúa, đã đọc Thánh Kinh (Cựu Ước và Tân Ước) ba lần, đi nhà thờ rất đều mỗi sáng chủ nhật cho đến năm 30 tuổi. Sau này làm bạn tâm giao với cố Linh mục Bửu Dưỡng và Hoà thượng Thích Mãn Giác, nên tôi có điều kiện đàm luận về Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo. Tôi đã được hiểu cái tinh tuý của Lý Dịch và Đạo Nho với cố Bác sĩ Nguyễn Văn Ba. Tôi đã đọc rất kỹ các cuốn Tử Thư của Ai Cập và Tây Tạng cũng như nhiều sách khác cùng loại. Tôi đã sang Ai Cập, Ấn Độ, Tây Tạng... để tìm hiểu thêm về Huyền Bí Học và Siêu Hình Học. Nhưng tất cả đều mù mờ về “Linh hồn” và “Cõi đời sau khi chết”. Không có đủ chứng cứ cụ thể có thể thuyết phục tôi. Tôi không chấp nhận các giáo điều của chính trị và tôn giáo. Tôi không yên tâm với tín ngưỡng và chán ngấy các loại sách viết huyên thuyên xích đế chẳng có gì cụ thể. Tôi trở thành một người theo phái bất khả tri: “Con người nhận biết thế giới và vũ trụ với khả năng rất giới hạn nên không thể biết được sự tuyệt đối về Thượng Đế, Linh hồn và Cõi đời sau khi chết”. Và như vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu sự hiện hữu của Linh hồn và Cõi Âm của tôi chưa đi đến đâu cả, chưa thấy một sự kiện gì đủ thực tế để bấu víu. Đầu thế kỷ 21, tình cờ cầm tờ Y Tế Nguyệt San số 5, tháng 5, 2001 của Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ và đọc bài viết “Thế giới vô hình và việc tìm kiếm mồ mả ở Việt Nam” của Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên (nguyên Phó thủ tướng đặc trách Văn hoá, Giáo dục, Y tế, Xã hội thời Việt Nam Cộng Hoà). Trong bài báo, Bác sĩ Viên tả lại việc tìm mộ gia đình của Kỹ sư Trần Lưu Cung (nguyên Tổng giám đốc Giáo dục kỹ thuật và Thứ trưởng Đại học thời Việt Nam Cộng Hoà) do hướng dẫn của các nhà ngoại cảm (ông Ngà, cậu Liên, cậu Nguyện...). Các nhà ngoại cảm tìm mộ đều nói chính vong linh của người quá cố đã chỉ cho họ những chi tiết để hướng dẫn gia đình tìm mộ. Đặc biệt trong bài báo, Bác sĩ Viên còn đề cập đến bài tự thuật “Tôi đi gặp người thân đã mất (vong) tại nhà cô Phương ở Bắc cầu Hàm Rồng tỉnh Thanh Hoá” của Trung tướng Nguyễn Hùng Phong, nguyên Phó tư lệnh chính trị và Bí thư Đảng uỷ Quân khu 1. Ông Phong đã tường thuật lại việc ngày 16-12-1999 đến nhờ cô Phương giúp cho được gặp lại vong linh của vợ là bà Vũ Thị Hạnh, nguyên Trưởng phòng Giáo dục quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, đã mất đột ngột tại nơi làm việc tháng 3 năm 1999 do bệnh tim... Sau khi đọc xong bài báo, tôi mừng quá, liền gọi điện thoại ngay cho ông Trần Lưu Cung. Ông Cung xác nhận sự kỳ diệu của việc tìm mộ và còn gửi cho tôi xấp tài liệu riêng của gia đình kèm theo rất nhiều hình ảnh. Như vậy là đề tài “Linh hồn và Cõi âm” đã có cơ hội hé mở sau bao thất vọng. Còn đợi gì nữa mà không về Việt Nam, đến cầu Hàm Rồng để tìm gặp cô Phương cho ra nhẽ? * * * * * Tháng 10 năm 2003 tôi về Hà Nội để làm lễ Cửu Tuần Đại Thọ cho mẹ tôi. Tới Hà Nội đêm hôm trước, thì sáng sớm hôm sau tôi lên đường đi Thanh Hoá để gặp cô Phương. Tôi mời mẹ tôi đi cùng, lấy cớ đưa mẹ đi Sầm Sơn để ôn lại các kỷ niệm xưa. Trước khi rời Hà Nội, mẹ con tôi ghé lại tiệm may áo dài. Tôi mang từ Mỹ về xấp vải nhung đỏ để may cho mẹ một áo dài mặc trong lễ Cửu Tuần Đại Thọ sắp tới. Trên đường đi Thanh Hoá, tôi ghé vào em Bùi Duy Tuấn nhằm cầu xin cha tôi (mất năm 1990 tại Sài Gòn) về điện cô Phương, cầu Hàm Rồng để các con và mẹ được gặp cha. Chúng tôi không dám nói với mẹ mục đích của chuyến đi vì mẹ tôi sùng Đạo Chúa (Tin Lành), không chấp nhận những chuyện “ma quỷ” như vậy. Khi đến nơi, hai anh em tôi thấy quang cảnh đúng như trong bài báo của Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên: Khoảng 30-40 người ngồi im lặng, nghiêm chỉnh, có vẻ lo âu chờ đợi trước một cánh cửa đóng kín. Một người đàn bà (sau này tôi biết là chị chồng cô Phương) dáng mập ngồi chắn trước cửa, thỉnh thoảng hô lên “Nhà ai có vong tên... thì vào”. Thế là vài ba người hay dăm bảy người mừng rỡ hấp tấp đi vào... Chúng tôi mời mẹ vào ăn sáng tại một nhà nghỉ khá lớn ở ngay trước điện cô Phương (nhà nghỉ này của nhà chồng cô Phương tiếp các khách ở xa đến phải chờ đợi vong nhà mình có khi tới ba ngày, cả tuần lễ hay đôi khi thiếu may mắn không gặp được vong, đành phải ra về tay không). Hai anh em tôi lén đi thắp nhang trước điện để cầu khẩn cha tôi về theo thủ tục như mọi người. Thỉnh thoảng cửa hé mở để dăm ba người đi ra. Người thì tỏ ra hớn hở. Người thì nước mắt sụt sùi. Tôi sốt ruột đi hỏi xem có phải đăng ký hay làm thủ tục gì nữa không, thì mọi người đều xác nhận không phải làm gì cả, mà cứ kiên nhẫn ngồi chờ. Khi vong nhà mình về thì người ta gọi vào. Tôi thắc mắc là tôi chưa khai tên của cha tôi thì ai biết mà gọi. Mọi người cười, chế nhạo tôi là hỏi thật ngớ ngẩn! Chúng tôi chờ từ 10 giờ sáng đến ba giờ chiều thì người đàn bà ngồi trước cửa đứng lên nói to: “Cô Phương nghỉ làm. Xin mời quý vị ngày mai trở lại”. Thế là anh em tôi ngao ngán cùng với vài ba chục người đứng dậy ra về. Chúng tôi đưa mẹ ra Sầm Sơn nghỉ ngơi và thăm lại cảnh xưa chốn cũ. Thật cảm động khi trở về nơi mà tôi đã sống những ngày thơ ấu cách đây hơn nửa thế kỷ (gần 60 năm). Sáng hôm sau chúng tôi trở lại điện cô Phương. Lần này chúng tôi phải thú thật với mẹ chuyện hai anh em đang làm. Mẹ tôi dẫy nảy lên: “Đến chỗ ma quỷ! Tao không vào đâu!”. Chúng tôi lại phải đành mời mẹ ngồi ăn sáng ở nhà nghỉ như ngày hôm trước. Lần này tôi sốt ruột lắm rồi. Tôi đi ra đi vào, hỏi chuyện người này người nọ. Tôi gặp bố mẹ chồng cô Phương. Ông Nghinh (bố chồng) mời tôi uống nước, đang kể chuyện cô Phương thì bỗng nghe có tiếng gọi: “Bà Tỉnh đâu, người nhà ông Tỉnh đâu?” (cha tôi tên là Bùi Văn Tĩnh, nhưng vì nói giọng Thanh Hoá nên nghe gọi tên là Tỉnh). Phải gọi đến vài ba lần thì anh em tôi mới biết là gọi mình. Tôi chạy tới cánh cửa. Em Tuấn chạy ra hối hả gọi mẹ: “Mợ ơi, Cậu về gọi mợ đấy!”. Mẹ tôi hốt hoảng đứng bật dậy chạy theo em tôi, quên mất lập trường chống ma quỷ của mình. Qua cánh cửa, chúng tôi bước vào một căn phòng khá rộng rãi, trống rỗng. Ngoài cái bệ trên tường để trái cây và các phong bì (chắc là tiền thưởng), thì không có bàn thờ hay trang trí gì khác của một cái am, cái điện. Cô Phương ăn mặc diêm dúa như các cô gái Hà Nội, mặt hoa da phấn, đang ngồi tỉnh táo trên chiếu cùng với một gia đình đông trên chục người. Cô cất tiếng: “Gọi mãi mà các bác không vào, nên vong nhà khác tranh vào trước. Thôi, các bác vui lòng ngồi chờ nhé!”. Thế cũng tốt, chúng tôi có dịp được quan sát thêm. Cô Phương gọi tên hết người này đến người nọ trong gia đình ngồi chung quanh cô. Khi gọi trúng tên ai thì giơ tay thưa: “Dạ, con đây (hay em đây, cháu đây...)”. Và người đó nói chuyện với vong (qua miệng cô Phương). Tôi nghe thấy đa số trả lời: “Dạ, đúng vậy...” có vẻ cung kính lắm. Có một chuyện cười ra nước mắt. Vong gọi: “Thằng Thanh đâu?”. Một thanh niên chừng 25 tuổi đứng bật dậy: “Dạ, con đây!”. Vong nói: “Mày không biết thương vợ con. Mày tằng tịu với con Mai ở cùng cơ quan”. Chàng thanh niên sợ hãi líu ríu nhận tội. Người phụ nữ ngồi cạnh (chắc là vợ) oà lên khóc nức nở. Sau gần một giờ, gia đình đó mới kéo nhau ra. Bỗng cô Phương nhìn chằm chằm vào mẹ tôi rồi kêu to lên: “Mợ ơi! Con của Mợ đây! Thắng đây! (Thắng là đứa em út của chúng tôi, mất lúc chưa đầy một tuổi.) Mẹ tôi vừa xúc động vừa ngạc nhiên: “Trời ơi! Con tôi... Nhưng con mất từ hồi mới... tám tháng...”. Vong nói qua miệng cô Phương: “Bây giờ con lớn rồi. Hôm qua con biết Mợ và hai anh đến, nhưng con phải đi mời Cậu. Cậu không chịu về. Con phải nói: Mợ già yếu, còn anh Tâm ở xa về nên Cậu mới chịu. Cậu và Ông Nội cũng về đây với con”. Rồi quay sang phía hai anh em tôi, cô Phương nói: “Hai anh chẳng nhớ gì đến em. Hai anh chỉ khấn Cậu thôi!”. Đúng vậy! Chúng tôi đâu có nghĩ đến thằng em út đã mất từ lúc tám tháng. Thật bất ngờ cho chúng tôi. Quay trở lại mẹ tôi, cô Phương nói: “Con thích tên là Bùi Duy Thắng như các anh con là Bùi Duy Tâm, Bùi Duy Tuấn. Sao Mợ lại đặt tên con là Bùi Tất Thắng?”. Mẹ tôi luống cuống: “Tại bố con đấy! Hồi đó Cụ Hồ mới về Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nên bố con cao hứng, đã đặt tên con là Tất Thắng”. (Hồi đó cả nhà trách bố tôi vì đặt tên thằng út là Tất Thắng. Tất còn có nghĩa là hết, tức là chết. Nên nó mới mất sớm. Nhân tiện tôi nói thêm là việc đặt tên rất quan trọng, còn quan trọng như thế nào thì tôi không biết. Nhưng tôi có biết ông Đỗ Trí ở Sơn Tây có tài chỉ cần đọc tên là ông biết con người ấy như thế nào, như xem chỉ tay hay số tử vi vậy.) Vong em tôi nói tiếp qua cô Phương: “Thôi, Mợ đã khắc tên con trên bia mộ rồi!”. Đúng thế. Tên em tôi đã được khắc trên bia mộ, nằm cạnh ông bà ngoại tôi trong nghĩa trang Bất Bạt. Đến lượt bố tôi vào. Vong bố tôi qua thân xác cô Phương nắm tay mẹ tôi, rồi nói: “Hơn mười năm rồi mới gặp lại bà. Tôi nhớ bà lắm...”. Mẹ tôi khóc nức nở. Chúng tôi cũng khóc. Bố tôi bỗng trách đùa mẹ tôi: “Bà diện lắm! Mới đi may áo đỏ...”. Trời ơi! Sao bố tôi biết nhanh thế? Trong gia đình tôi đã có ai biết chuyện may áo đỏ của mẹ tôi đâu! Tôi mới về Hà Nội tối hôm trước thì sáng hôm sau trên đường đi Thanh Hoá ghé qua tiệm may, bỏ xấp vải nhung đỏ để may áo cho mẹ kịp mặc vào Lễ Đại Thọ. Mẹ tôi đương líu ríu chống chế thì bố tôi bồi thêm một câu đùa yêu tiếp: “Bà còn muốn tô son đánh phấn nữa!”. Mẹ tôi rên rỉ: “Cái gì ông cũng biết! Đúng rồi! Tôi vừa xin con cháu Trinh Hương, con gái anh Minh, một chút son phấn để hôm Lễ Đại Thọ thoa một chút. Mặt mũi răn reo quá, sợ thằng con trai cả của ông nó ngượng với bạn bè”. (Chuyện này mẹ tôi giấu kín mọi người, trong khi anh em tôi không hay biết gì, thế mà bố tôi cũng biết!)” Rồi cô Phương quay sang tôi: “Tâm ơi! Cậu buồn quá vì chuyện con Hà nhà con. Nó lôi thôi với chồng nó thì chỉ khổ cho ba đứa con thôi”. (Hà là con gái tôi. Chuyện của nó mới xảy ra trước khi tôi về Hà Nội. Vợ chồng tôi nghe phong phanh, nhưng chưa có dịp trao đổi với nhau. Thế mà mọi chuyện người Âm đều biết, không giấu giếm được!) Một lúc sau thì ông nội tôi về. Qua miệng cô Phương: “Tao là Bùi Văn Khanh, ông nội đây. Cả bà nội Nguyễn Thị Ngọt cũng về đây!”. Tôi vội thưa: “Thưa Ông, con nghe anh Đại con cô Hai nói tên Ông là Khánh, nhưng lâu ngày trên giấy khai sinh của Bố con mất dần dấu sắc, nên đọc là Khanh” (cô Hai là chị ruột bố tôi.) Ông nội tôi gắt lên: “Tên tao là Khanh, chứ không phải là Khánh”. Rồi quay sang mắng mẹ tôi: “Chị về làm dâu nhà tôi mà không đoái hoài mồ mả tổ tiên nhà chồng. Từ ngày cưới chị, chị chỉ về quê nội có một lần!”. Mẹ tôi sợ hãi chống chế: “Gia đình con ở Hà Nội, Hải Phòng. Quê nội ở mãi Bái Đô, Lam Kinh - Thanh Hoá, nên đi lại khó khăn. Và, con sinh con đẻ cái đều đều ba năm hai đứa nên không về thăm quê được. Con xin nhận tội với ông bà”. Cứ như thế trong 90 phút vui buồn, khóc lóc... Hai anh em tôi và mẹ hớn hở ra về. Có lẽ vì cao hứng nên chúng tôi ghé thăm nhà thơ Hữu Loan, người bạn cũ ở Thanh Hoá. Đáng nhẽ về thẳng Hà Nội, nhưng chắc còn luyến tiếc những giờ phút quý báu xúc động buổi sáng đó nên chúng tôi quay trở ngược lại cầu Hàm Rồng để chụp ảnh với cô Phương. Kỳ này mẹ tôi không phản đối nữa mà còn hăm hở muốn gặp cô Phương. Cô Phương vui vẻ cho biết thêm: “Cụ ông lại vừa về cho biết đã đăng ký chỗ dạy học cho bà rồi”. Lại thêm một ngạc nhiên: Mẹ tôi vốn là một giáo viên hồi hưu. Ngày xưa, mẹ tôi là người đàn bà Tây học. Khi lấy chồng, sinh con thì ở nhà. Khi các con khôn lớn thì bà mới đi dạy lại vì sự khuyến khích của bố tôi. Thôi, không còn nghi ngờ gì nữa. Đúng là vong linh của bố tôi rồi! Lúc nào bố tôi cũng muốn mẹ tôi sử dụng cái tri thức của mình. Ngày hôm đó là ngày trọng đại của đời tôi. Tôi thấy cụ thể sự hiện hữu của Linh hồn và cõi Âm. Dù cho sau này cô Phương có nói bậy gì đi nữa, các cô gọi hồn khác, các nhà ngoại cảm khác đôi khi có nói bậy vì mưu sinh thì kết quả của ngày hôm đó vẫn không thể chối cãi được, nếu không nói là được tuyệt đối chấp nhận. Khác nào như ta cố gắng gọi điện thoại cho người thân, đường dây rất khó khăn, rất xấu, nhưng chỉ một lần thôi ta nghe rõ tiếng người thân trò chuyện với ta về những chuyện gia đình mà người ngoài không thể biết được, thì cũng khá đủ cho ta biết rằng người thân của ta vẫn tồn tại. Tuy ta không nhìn thấy được vì giới hạn của ngũ quan, nhưng người thân quá cố của ta vẫn tồn tại với các ký ức, với các kỷ niệm dưới một dạng nào đó mà ta không biết, ta tạm gọi là “Linh hồn”, trong một thế giới nào đó mà ta cũng không biết, tạm gọi là “cõi Âm” (để phân biệt với cõi Dương mà ta đang sống) hay theo kiểu Tây Phương gọi là “Cuộc đời sau khi chết” (“Life after deth”). Sau này mỗi lần về thăm quê hương, tôi đều đưa mẹ tới gặp cô Phương. Lần sau cùng mẹ tôi gặp cô ấy là cuối năm 2005. Khi đó mẹ tôi vẫn còn khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Trước khi ra về, cô Phương nói nhỏ với tôi: “Cụ ông nhớ bà lắm. Cụ ông sắp đưa bà về rồi. Một cách bình yên”. Ít lâu sau, mẹ tôi mất rất nhanh. Sau này tôi có gặp nhiều nhà ngoại cảm khác ở Việt Nam, họ cũng có khả năng như cô Phương - cô Bằng, cô Thao, cô Mến trên đường từ Hà Nội qua Hải Dương đến Hải Phòng. Tôi cũng đã gặp các nhà ngoại cảm tìm mộ như Cậu Liên, anh Nguyễn Khắc Bảy, cô Phan Thị Bích Hằng... Tôi cũng đã gặp các nhà khoa học nghiên cứu về tâm linh như TS Nguyễn Chu Phác, GS Ngô Đạt Tam, GS Phi Phi, TS Ngô Kiều Oanh... làm việc ở các cơ quan khác nhau. Tôi đã được đọc câu kết luận của một tài liệu ở Việt Nam (không phổ biến công khai) như sau: “Thế giới tâm linh là có thật. Đó là một thực tế khách quan cần được các nhà khoa học nghiên cứu nghiêm túc. Chúng ta hãy bình tĩnh, khách quan lắng nghe những lời nhắn nhủ từ thế giới tâm linh để có cuộc sống nhân ái hơn, lương thiện hơn”. VIỆT LINH Sưu tầm và giới thiệu __________________ nguồn giaoluututuong.com
    1 like
  41. Chúng ta nghiên cứu chu dịch là để dự đoán tương lai . trình độ dự đoán càng cao thì tính xác xuất cúa tương lai càng ít . Đến một lúc nào đó con người sẽ làm chủ được hoàn toàn học thuyêt âm dương ngũ hành . có lẽ lúc đó , con người sẽ làm chủ được vận mệnh của mình , bằng cách tác động đến trường khí -âm dương ngũ hành - một cách vô cùng hiệu quả - lúc đó một thế hệ siêu nhân sẽ xuất hiện - các phép thần thông sẽ trở nên phổ biến - ( điều này đã được dự đoán -" khoảng ít chục năm nữa văn minh phương tây sẽ trở về với ván minh phương đông , bỡi văn minh chân chính của con người là văn minh tâm linh - lúc đó các phép thần thông sẽ trở nên phổ biến . các quy luật căn bản của khoa học sẽ bị đảo lộn ..." ) xin ý kiến của diễn đàn !
    1 like
  42. Riêng Thiên Sứ tôi ủng hộ quan điểm: Diêm Vương tinh là một hành tinh của mặt trời và là hành tinh thứ 9. Đây là hành tinh kết thúc chu kỳ ngũ hành sinh khắc trong hệ Mặt Trời và mang độ số 10 của Hà Đồ - nếu tính Mặt trời đứng Mặt trời đứng thứ nhất từ trong ra. Điều này đã được minh chứng trong cuốn: "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", trước khi giới Thiên Văn học quốc tế tranh luận về hành tinh này 7 năm. Tuy nhiên, trong cuộc tranh luận này, dù giới khoa học công nhận hay không công nhận Diêm Vương tinh là hành tinh thứ 9 trong hệ mặt trời thì ông Lưu Đức Hoa - Lấy bằng tiến sĩ tại viện Hàn Lâm Khoa học Pháp vào những năm 30 của thế kỷ trước - cũng sai, khi ông ta dùng Kinh Dịch theo sách Hán cổ chứng minh có hành tinh thứ 10 trong hệ mặt trời. Thiên Sứ Những tranh luận về Diêm Vương tinh Nguồn: Khoahoc.com.vn Cập nhật lúc 13h11' ngày 25/08/2008 Lấy âm nhạc, đèn máy ảnh và tiếng vỗ tay của khán giả làm nền, hai nhà tranh luận và một người hòa giải bước vào khán phòng. Một bên là Neil deGrasse Tyson. Họ sẽ tranh luận về việc Diêm Vương tinh được coi là một hành tinh hay là một plutoid (thiên thể có quỹ đạo quay xung quanh mặt trời). Tyson là giám đốc Cung thiên văn Hayden thuộc Bảo tàng lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ tại New York. Ông ủng hộ việc giáng cấp Diêm Vương tinh. Ở phía đối diện là Mark Sykes, giám đốc viện Khoa học hành tinh tại Tuscon, Arizona. Ông không đồng ý với quyết định gần đây loại bỏ Diêm Vương tinh ra khỏi hàng ngũ các hành tinh. Cuộc tranh luận về chuyện liệu Diêm Vương tinh có nên được coi là một hành tinh hay không nằm trong hội nghị “The Great Planet Debate: Science as Process” tại Phòng thí nghiệm vật lý ứng dụng thuộc đại học Johns Hopkins. Trước khi cuộc tranh luận bắt đầu, người hòa giải Ira Flatow thuộc tờ Science Friday đưa ra quy định: “Không được ném tên lửa bất kỳ loại nào lên sân khấu”. Hình ảnh của hệ Diêm Vương tinh nhìn từ bề mặt của Nix hoặc Hydra, hai trong số các mặt trăng của Diêm Vương tinh được phát hiện năm 2005. Khoảng cách từ Nix và Hydra đến Diêm Vương tinh xa gấp 2 đến 3 lần khoảng cách từ sao Diêm Vương đến mặt trăng lớn Charon của nó (ở bên phải sao Diêm Vương) được phát hiện vào năm 1978. (Ảnh: NASA, ESA và G. Bacon (STScI). Thực tế cuộc tranh luận đón nhận được rất nhiều tràng vỗ tay, tiếng cười cũng như những nhận xét có phần ác ý, nhưng nói chung cũng là một trận chiến thân thiện. Không ai trong số Tyson và Sykes đưa ra được quan điểm cụ thể của họ về Diêm Vương tinh cũng như định nghĩa về một hành tinh. Có bao nhiêu hành tinh? Nói chung, Tyson nói rằng các phi hành gia cần phải có bộ từ điển hoàn toàn mới để nhóm các hành tinh và các vật thể giống hành tinh lại với nhau. Ông cũng nói Diêm Vương tinh không giống 8 hành tinh chủ yếu khác thuộc hệ mặt trời, thực tế nó phù hợp với Vành đai Kuiper – một vùng rộng lớn có các vật thể bên ngoài quỹ đạo của sao Hải Vương. Tyson cho biết: “Tôi chắc chắn là sao Diêm Vương ở đó thích hợp hơn”. Sykes lại cho rằng nếu một vật thể không phải tinh tú đủ lớn và quay quanh một ngôi sao thì vật thể đó nên được coi là một hành tinh. Theo định nghĩa này, hệ mặt trời nên có 13 hành tinh, mặc dù một số hành tinh nằm ngoài quỹ đạo của Diêm Vương tinh có lẽ sẽ được phát hiện trong tương lại. Ngoài sao Diêm Vương và 8 hành tinh chính khác, sẽ còn có Ceres, Charon – mặt trăng của Pluto, Eris và Makemake mới được phát hiện gần đây. Đáp lại mong muốn gọi tất cả các vật thể nêu trên là hành tinh của Sykes, Tyson phản bác: “Anh muốn dùng từ đó. Tôi muốn nói là cứ định nghĩa như thế nào anh muốn rồi sau đó anh sẽ nhận ra nó không cần thiết như thế nào. Lúc đó hay tìm một thuật ngữ khác để nhóm các vật thể có đặc tính tương tự hữu ích hơn dành cho các nhà khoa học nghiên cứu hành tinh”. Tyson không thích tính tổng các hành tinh mà muốn nhóm các vật thể có cùng đặc tính lại với nhau, mặc dù điều đó có nghĩa là sẽ có rất ít các hành tinh tồn tại. Câu chuyện về Diêm Vương tinh Cuộc tranh luận này đánh dấu một chương nữa trong trường tiểu thuyết về sao Diêm Vương. Nó bắt đầu khi Diêm Vương tinh được phát hiện vào năm 1930, trông nó thật kỳ quặc so với các bạn cùng hệ mặt trời do quỹ đạo lệch tâm, kích cỡ nhỏ cũng như khối lượng nhỏ (thậm chí còn nhẹ hơn cả mặt trăng của Trái Đất). Lúc đó một số người đã đưa ra quan điểm rằng Diêm Vương tinh không giống với các hành tinh còn lại của hệ Mặt Trời. Câu chuyện được thêm nhiều tình tiết vào năm 2004 khi người ta phát hiển ra Sedna – một vật thể có kích cỡ bằng 3/4 Diêm Vương tinh và nằm cách xa mặt trời gấp 3 lần. Nếu Diêm Vương tinh đáp ứng được các tiêu chuẩn của một hành tinh thì Sedna cũng thế. Bức họa về Sedna xa xôi với mặt trời nhỏ xíu chỉ lớn hơn vì sao đôi chút. (Ảnh: NASA/STScI/A. Schaller) Mike Brown thuộc Caltech đã viết thêm một bước phát triển mới cho câu chuyện vào năm 2005 khi ông công bố phát hiện ra 2003 UB313 – hành tinh triển vọng thứ 10 trong hệ mặt trời của chúng ta. Nó có dạng tròn, quay quanh mặt trời và nó còn lớn hơn hành tinh thứ 9 của chúng ta, chính là Diêm Vương tinh. Vào năm 2006, UB313 chính thức được đặt tên là Eris. Jack Lissauer thuộc Trung tâm nghiên cứu Ames NASA tại California cho biết: “Tranh luận về Diêm Vương tinh sục sôi khi Eris xuất hiện, vì chúng ta không thể để nguyên mọi thứ như bản chất của nó. Thực sự là chúng ta đã phải bóp méo mọi thứ để coi Diêm Vương tinh là một hành tinh còn Eris thì không phải. Mọi thứ đã thực sự rối loạn”. Kể từ lúc đó Hiệp hội thiên văn quốc tế (International Astronomical Union – IAU) đã đặt tên cho sao Diêm Vương là “hành tinh lùn”, sau đó mới là tên “plutoid”. Rất nhiều các nhà khoa học nghiên cứu hành tinh bất đồng với quyết định của IAU vào năm 2006. Theo họ quyết định này chỉ nhận được 424 lá phiếu của các phi hành gia trong số 10.000 các phi hành gia chuyên nghiệp cũng như các nhà khoa học nghiên cứu hành tinh khác trên toàn cầu. Văn bản công bố phát hiện ra Diêm Vương tinh do Đài quan sát Lowell xuất bản một vài tuần sau khi quan sát và phân tích được sao Diêm Vương. (Ảnh: Đài quan sát Lowell) David Morrison thuộc NASA Ames nói với SPACE.com về cuộc bỏ phiếu năm 2006 của IAU rằng: “Một nhóm các ông râu dài tập trung với nhau rồi ban hành định nghĩa chính thức không phải là một ý kiến hay”. Ảo tưởng hay tranh luận? Hal Weaver thuộc Phòng thí nghiệm vật lý ứng dụng tại JHU gọi cuộc tranh luận này là “một hội nghị khoa học thực sự đề cập đến tất cả các vấn đề rồi thảo luận chúng”. Nhưng Lissauer lại chỉ ra rằng ngay cả hội nghị này cũng có thiếu sót. Trong một cuộc thảo luận nhóm, Lissauer nói: “Hội nghị này không phải là đại diện cho các nhà khoa học nghiên cứu hành tinh. Ở đó có sự phân bố rất chênh lệch”. Sau khi cuộc tranh luận kết thúc, Diêm Vương tinh theo những gì nhiều phi hành gia được biết vẫn giữ nguyên vị trí lấp lửng. Kết thúc tranh luận, Sykes cho biết: “Tôi có cảm giác rằng Neil đang đứng về bên đúng đắn”. Tyson đáp lại: “Ảo tưởng vẫn sẽ còn tiếp tục”. Trà Mi (Theo LiveScience)
    1 like