• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 25/08/2010 in all areas

  1. Môn khoa học huyền bí Tây phương gọi là Thần Số (Numerology) dựa theo nhân sinh quan của Thần Tam Giác (Divine Triangle). Nhờ Thần Số mà người ta đoán được nhân cách, tính tình, công việc, năng khiếu, tình duyên v.v... của một đời người. Môn khoa học huyền bí đã phát xuất 600 năm trước Thiên Chúa giáng sinh và do nhà toán học Pythagorax lập ra. Pythagorax dùng phương trình C2-A2-B2 của hình tam giác (pythagorean theorem) để giải đoán định mệnh nên các nhà siêu hình học Hy Lạp cho là "God geometrizes." Môn siêu hình học này gồm có tất cả 9 số. Hãy dựa vào bảng sau để tính ra con số định mệnh của bạn: Số 1 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: A, J, S Số 2 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: B, K, T Số 3 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: C, L, U Số 4 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: D, M, V Số 5 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: E, N, W Số 6 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: F, O, X Số 7 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: G, P, Y Số 8 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: H, Q, Z Số 9 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: I, R Ví dụ: tên Lê Thị Mỹ = 3+5+2+8+9+4+7 = 38 = 11 = 2 Con số định mệnh của Lê Thị Mỹ là số 2. Bấm vào mỗi số để đọc phần giải thích. Số 1 Tượng trưng cho sự hùng mạnh, sự độc lập, sự lãnh đạo. Lập trường vững chắc, ít thay đổi. Số 1 còn tiêu biểu cho sự thông minh, sáng tạo, một ý chí sắc bén, cứng, mạnh, tượng trưng cho nguyên lý căn bản của đời sống. Số 1 tương đương với viên Phán Quan (The Magiaan) ở bài bói Tarot. Số 1 đồng hóa với Thái Dương Tinh, nguồn gốc của mọi năng lượng. George Washington, Karl Marx, và Napoleon Bonaparte thuộc loại người mang số 1. Tính Tình & Nhân Cách Ưa thám sát, mạo hiểm, khám phá, tìm tòi và sáng chế. Cứng đầu, ý chí mạnh mẽ, tự quyết, tự lập, tự hào. Có óc tổ chức, lãnh đạo. Rất khó bị thuyết phục, khó sửa đổi những lầm lỗi, và chỉ huy độc đoán. Bản tính rộng rãi, đại lượng, nhưng vì nhiều tham vọng nên dễ trở thành ích kỷ, tàn nhẫn, bất chấp. Làm việc đúng đường hướng thì kết quả rất tốt vì nhiều nhiệt huyết và cương quyết. Nhưng nếu sai lạc thì rất thảm hại. Con người xuất chúng, tinh thần rất cao. Thường nổi bật và gây ấn tượng tốt đẹp ngay lúc đầu. Có tài thuyết phục người chung quanh. Thích hoạt động, bận rộn và xê dịch đó đây. Tế nhị và dễ dàng xúc cảm. Được nhiều người mến phục mặc dầu hơi thiếu xã giao. Có nhiều bạn bè và sẵn sàng giúp đỡ họ mà không ngần ngại điều gì. Đối với kẻ thù, người số 1 không bao giờ tha thứ hoặc quên đi dễ dàng một lỗi lầm nhỏ nào. Do đó có thể trở thành rất tàn nhẫn. Rất nặng về tình cảm và rất dễ đau khổ. Thường che giấu cảm nghĩ thầm kín, ít cho mọi người biết tâm trạng mình dù là bạn bè, thân quyến. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Dễ thành công trong công việc điều khiển và quản trị hơn là trong địa hạt nghệ thuật. Dễ thành công nếu là giám đốc sản xuất, kỹ thuật hơn là tài tử. Làm chủ báo thích hợp hơn là ký giả. Thành công trong các ngành khoa học, nhất là về khảo cứu, sáng chế, và phát minh. Với óc chỉ huy, tính cương quyết và nhiều tham vọng nên dễ đạt được kết quả trong việc làm. Làm việc có lương tâm nhưng ít thành công. Nếu làm công cho người khác rất dễ có sự va chạm với chủ nhân vì lúc nào cũng nghĩ là mình phải.Dễ bị người khác ghét và có kẻ thù vì cứng rắn, muốn làm nhanh, làm mạnh. Nếu là chủ nhân dễ gây hứng thú vì cá tánh đặc biệt, nhiều sáng kiến và chỉ dẫn hoặc huấn luyện rất hay. Về tiền bạc, người số 1 dễ giàu mà cũng dễ bị đói rách. Dễ kiếm tiền mà cũng dễ mất tiền. Dễ mắc công nợ vì dám chi tiêu vào bất cứ việc nào cho là hợp lý. Dám đầu tư vào các công việc liều lĩnh: "được ăn cả ngã về không." Người mang số 1 cần phải học tính cẩn thận. Rất dễ phiêu lưu trong vấn đề tiền bạc có thể đưa tới sự phá sản. Những người làm công hoàn toàn vì tiền thôi thì không nên chọn người chủ mang số 1. Tình Duyên Khi chọn bạn, luôn luôn chọn người mà họ chi phối được. Họ càng gần gũi người nào bao nhiêu thì họ càng có khuynh hướng muốn chỉ huy bấy nhiêu. Rất thụ cảm với tình yêu nhưng cũng lại dễ tiêu tan. Muốn chiếm độc quyền tình cảm và rất cả ghen! Vì bản tính chinh phục nên thích hợp với người có bản tính hiền diệu của số 2 hoặc số 6. Sau đó là các số 3 và 4. Có thể sung sướng với số 5 hay 7. Kết hợp với người số 1 khác hoặc số 8 hay 9 có thể gây bất hòa, sóng gió cho cả đôi bên. Số 2 Số 2 tượng trưng cho sự hòa nhã, ngọt ngào, sẵn sàng giúp đỡ và xã giao khéo léo. Liên hệ với mặt trăng. Tương đương với High Priestess, ái nữ Thổ Tinh, một thiếu nữ đang ngồi tiêu biểu cho quyền năng thiêng liêng, huyền bí và mọi sự bí mật trong cuộc đời đều chỉ khám phá bằng sự thông minh của trí óc và mọi sự hiểu biết đều có sự hổ trợ của ý chí cương quyết. Cựu ngoại trưởng Henry Kissinger và Jules Verne thuộc loại người số 2. Tính Tình & Nhân Cách Rất tế nhị trong việc giao thiệp, biết xét đoán những người khác. Cộng tác ngoan ngoãn với người khác hơn là lãnh đạo họ. Thích sự quen thuộc thân mật yên ổn hơn là muốn ra sao thì ra, hơn là cái gì mới lạ quá. Thường trầm lặng, dè dặt, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi hành động. Thích sự hòa thuận cộng tác. Không ưa cãi cọ, xích mích. Vì vậy không thể tin tưởng hoàn toàn vào sự thành công của họ. Dễ thất vọng, chán nản, lo nghĩ nếu gặp những chuyện không vui. Nếu xử dụng đúng chỗ, tính lịch thiệp sẽ đem lại nhiều kết quả không ngờ. Nếu không dùng đúng chỗ có thể xảy ra chuyện bất hòa. Dễ bị sự chi phối bởi tình cảm hơn là lý trí. Lãng mạn. Dễ xúc cảm. Hòa nhã. Tuy có vẻ thản nhiên trầm lặng bên ngoài, thật ra có nhiều khi "cười bên ngoài mặt, khóc thầm bên trong." Khi vui thì thật là vui, khi buồn thật buồn. Rất dễ gây tình bạn, ít đòi hỏi ở người khác, nhưng lại không phải là người ưa sống tập thể. Không thích là trung tâm vũ trụ, không thích làm mọi người chú ý. Thích là khán giả hơn là làm diễn viên. Chịu khó làm việc hăng hái, vì vậy dễ đem lại thành công cho các việc tổ chức. Ít khi mất bình tĩnh. Khi đau khổ hay giận dữ thường có tính thâm trầm, ngậm đắng nuốt cay hơn là bộc phát. Ưa hòa bình, thích phục sức trang điểm và sống nhiều về tình cảm. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Có óc sáng kiến và tưởng tượng nhưng có khả năng nhiều trong công việc người thừa hành hơn là cấp chỉ huy, cộng tác hơn là tranh chấp. Chẳng hạn làm diễn viên giỏi hơn làm đạo diễn, chơi nhạc hay hơn soạn nhạc. Dễ thành công trong những việc đòi hỏi sự tế nhị như giao dịch, nhất là các nghề về tâm lý học, xã hội học, cố vấn, phụ tá, thư ký vì dễ đem lại tình cảm cho những kẻ bị bối rối, đau khổ, bịnh tật. Các ngành thích hợp khác là dạy học, nghiên cứu y khoa, kế toán. Là nhân viên cộng tác chân thành, đắc lực, tín cẩn, và có lương tâm. Ít gặp sự may mắn trên đường công danh. Ít đòi hỏi, cam phận thủ thường, thiếu tinh thần tranh đấu. Nếu là chủ nhân, rất dễ chịu, ít ra lệnh, ít thúc đẩy thuộc hạ nên không có kết quả mỹ mãn. Tiêu tiền rất hợp lý và chắc chắn. Ít phung phí trừ trường hợp đối với người yêu. Ghét nợ nần, thường dành dụm từng đồng. Kinh doanh những việc chắc ăn như bắp nhưng ít lời. Không dám liều lĩnh, không có đầu óc đầu cơ. Vì mềm yếu, dễ bị bạn bè lợi dụng, vay mượn, ngược lại rất ngại ngùng khi vay mượn người khác. Tình Duyên Là bạn đời lý tưởng và nhiều khía cạnh, chan chứa tình thương yêu và sẵn sàng với người yêu. Người vợ số 2 thường tìm đủ mọi cách để đem lại hạnh phúc cho chồng, dù phải hy sinh nhiều, giúp đỡ chồng rất nhiều. Người chồng số 2 rất hòa nhã, dễ thương, ít đòi hỏi hoặc độc đoán, lại còn có thể bị các bà chi phối vì quá nể nang. Cần phải lưu ý đừng để khuynh hướng lãng mạn chi phối tính tốt bản nhiên vì họ mềm yếu về tình yêu. Cần phải nhận thức là: thực tế cũng quan trọng như lãng mạn. Kết bạn trăm năm được với các số khác. Tuy nhiên muốn có hạnh phúc lâu dài nên kết hợp với các số 2, 4, hoặc 6. Tuy bị chi phối, người số 2 vẫn thấy rất thích hợp với người số 1 và 8. Có thể gặp sự quý mến ở người số 3 và 5. Kết hợp với người số 7 và 9 chỉ đem lại nhiều ưu phiền và chịu đựng. Số 3 Tượng trưng cho tình cảm, tài năng đại chúng. Số 3 tiên đoán sự thành công trong các ngành khoa học, kỹ thuật nếu biết dung hòa sự hoạt động với khả năng tinh thần. Số 3 liên hệ với sao Mộc Tinh (Jupiter). Các nhà bói toán Hy Lạp cho đó là một số hoàn toàn. Số 3 tương đương với Hoàng Hậu (The Empress) ở bài bói Tarot. Tổng Thống Mỹ Bejamin Franklin and Jonh Wayne đều thuộc loại người mang số 3. Tính Tình & Nhân Cách Có nhiều khả năng thiên phú và ham thích học hỏi. Lạc quan, dễ say mê, tháo vát và thông minh. Thích sống tập đoàn, yêu đời và làm cho người chung quanh vui theo. Thường công nhận sự rũi ro và cho đó là tự nhiên, không thể tránh được. Không than thân trách phận. Có tài ứng biến, thích hoạt động nhưng ít cương quyết, dễ bị người khác chi phối và cũng dễ gây ảnh hưởng sang người khác. Có khuynh hướng ích kỷ, thích sống theo lối sống riêng của mình, dễ dãi đối với bản thân. Rất chú trọng tới đời sống vật chất và tiền bạc, do đó muốn thành công để thụ hưởng chứ không phải quyền hành. Thích thức ăn ngon, quần áo đẹp, xe hơi, nhà lầu. Xã giao giỏi và đại chúng, thích quen biết, đi nơi này, nơi khác và tiêu khiển về ăn uống. Nói chuyện hay, dễ làm quen với hoàn cảnh mới, làm cho mọi việc thoải mái trừ phi giận dữ bất thường. Thường có nhiều bạn bè nhưng ít thân vì ưa thích thay đổi và nhìn sự vật một cách dễ dãi. Vui tính, dễ kích thích và làm hứng khởi người khác. Ít chán nản, bi quan, ít quấy rầy người chung quanh. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Có óc sáng tạo và tưởng tượng rất mạnh, thêm với nhiều tham vọng, do đó dễ thành công. Nếu được xử dụng đúng khả năng và tìm cách phát triển sẽ đạt được kết quả thật cao xa và thật nhanh chóng. Các nghề thích hợp thuộc địa hạt văn nghệ như viết văn, nhiếp ảnh, trang hoàng, hội họa, giải trí và các nghề cần tài xã giao. Ít kiên nhẫn với các nghề bác sĩ, luật sư, kế toán, kỹ sư. Dễ chán nản với công việc cố định và đều đặn. Nếu làm công, thường xuất sắc, được các bạn đồng sự mến chuộng, có nhiều sáng kiến nhưng không kiên nhẫn. Nếu làm chủ thường tạo nên không khí vui vẻ, thích thú, sẵn sàng đón nhận ý kiến của mọi người và luôn luôn khuyến khích, tưởng thưởng nhân viên. Dễ tiêu hoang phí cho mình, cho gia đình và cho người cộng tác. Không thích tiết kiệm mà thích sắm sửa. Rộng rãi về tiền bạc và quà bánh đối với mọi người. Quan niệm kiếm ra tiền là để tiêu pha cho sướng. Tóm lại, đó là người kiếm tiền cũng dễ dàng và tiêu pha cũng dễ dàng. Tiền bạc như chiêm bao, sáng vào tối ra là thường. Tình Duyên Tình duyên sâu xa, vững bền sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng. Khi chưa kết hôn, thường là người đa tình, hào hoa và thích phiêu lưu tình cảm do đó có thể bị tai tiếng. Không muốn làm đau khổ kẻ khác, nhưng vô tình lại coi thường tình yêu. Khi lập gia đình rồi, là người rất trung thành, thích cảnh ấm cúng, săn sóc, chiều chuộng gia đình hết mực. Tuy nhiên không vì thế mà rời bỏ các đam mê riêng tư. Số 4 Tượng trưng cho công bình, trách nhiệm và bình yên. Liên hệ với sao Saturne (tử vi gọi là sao La Hầu). Số 4 tương đương với The Emperor (Hoàng Đế) của bài Tarot, tiêu biểu cho uy quyền tối thượng, nhưng chỉ trong một đại hạn nào đó. Tính Tình & Nhân Cách Làm việc nhiều, bền bỉ, tín cẩn, nhưng không phải là người sáng chế hay phát minh. Là cột trụ của kỹ nghệ và xã hội, tổ chức và kiến thiết giỏi. Làm việc với suy nghĩ chín chắn, cẩn thận chính xác. Nhiều khi đi sâu vào cả chi tiết vì vậy mà bị lạc khỏi mục tiêu chính. Lương tâm chức nghiệp nếu được dùng đúng chỗ sẽ đem đến kết quả tốt, nếu dùng sai sẽ bị phí thì giờ và mất năng xuất rất nhiều. Khuynh hướng bảo thủ, ưa chống đối các việc cải cách. Thường tìm hiểu do dự rất lâu rồi mới bắt tay vào việc. Tiền bạc rất quan trọng đối với họ vì lý do muốn đời sống được vững chắc hơn là hưởng lạc thú. Vì phải làm việc nhiều nên dễ nghi ngờ những sự thành công dễ dàng và phải đổi chủ trương: "thích thú trước việc làm." Hành động chín chắn nhưng lại phản ứng nhanh với các hành động bất bình đẳng. Và thường là người đòi hỏi các tổ chức và lãnh đạo các cuộc chống đối có trật tự và áp bức bất công. Thường trầm lặng, có điều độ, mực thước và ít biểu lộ. Ít có tính hài hước, không mấy tháo vác. Bản tính trung thành, tin cậy. Là những người bạn thật tốt và lâu dài. Hướng nội hơn là hướng ngoại. Có khuynh hướng trả thù hơn là tha thứ. Kém tế nhị, kém ăn nói. Thật thà. Nghĩ sao nói vậy. Không có tính chỉ huy nhưng rất cứng đầu, khó mà lay chuyển được ý định của họ. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Rất thích hợp cho các việc cần có sự tập trung và chú ý từng chi tiết. Các nghề thích ứng: kỹ sư, kiến trúc sư, thầu khoán, kế toán, thu ngân, quản thủ thư viện, hóa học, dược sĩ, toán học, luật gia hoặc thẩm phán xuất sắc. Có thể thành công trong các việc khảo cứu khoa học. Phần lớn thiếu óc sáng kiến và tưởng tượng nên không thích hợp với các nghề thương mãi, quảng cáo hoặc tuyên truyền. Là nhân viên rất có tinh thần trách nhiệm, có thể hợp với các công việc buồn tẻ, đều đặn và không chán. Rất tin cẩn, thật thà và ham làm nên thường là nhân viên đắc lực. Nếu làm chủ thì kém điệu nghệ vì thường hay đòi hỏi người làm cũng phải thích thú công việc như mình. Không biết tha thứ cả những lỗi nhỏ. Cẩn thận về tiền bạc. Biết để dành phòng khi mưa nắng trở trời. Mua bán rất chặt chẽ, không hoang phí. Thường mua đồ cũ hơn là đồ mới. Ít người thích cờ bạc hay đầu tư liều lĩnh. Họ chỉ dám làm các việc có kết quả chắn chắc và kiếm được đồng nào thì giữ chắc đồng đó. Tình Duyên Không tương tư một cách dễ dàng. Rất cẩn thận, thực tế, tiến bước trên đường tình một cách chậm chạp và chắc chắn. Rất hiếm người có tình yêu sét đánh, phần đông thường tìm hiểu lâu dài, từ một năm trở lên rồi mới quyết định, sau một năm nữa mới tới hôn nhân. Là một người lý tưởng cho những ai muốn kiếm một người tin cậy, làm việc nhiều và cương quyết. Thường dè dặt, ít bị chi phối bởi tình cảm nên có hạnh phúc với những người cùng chung mục tiêu. Cần tình yêu nếu không rất dễ bị cô quạnh, khổ sở nhưng lại ít dám tỏ tình. Rất thích hợp với các số 4, 7, và 9, là những người đồng quan niệm và rất nghiêm nghị. Kết hôn với 2 và 6 thường đem lại nhiều hạnh phúc nếu 2 bớt lãng mạn và 6 bớt lý tưởng. Có thể kết hợp với 1 và 8 nếu các số này bớt tính hợm hĩnh và óc chỉ huy. Không thích hợp với 3 và 5 vì đó là dầu và lửa. Số 5 Số 5 tượng trưng cho một trực giác thiên bẩm (true intuition), tượng trưng uy quyền thiêng liêng, sự NHANH TRÍ, hoạt động theo cảm hứng, phiêu lưu, gan dạ, sự kết hợp của tinh thần và vật chất. Số 5 tượng trưng với thần đại tư giáo La Mã (The Hierophant). Liên hệ với sao Mercury. Abraham Lincoln và Adolph Hitler thuộc loại người mang số 5. Tính Tình & Nhân Cách Sáng trí, hành động mau lẹ. Đặc biệt hơn cả, họ rất quý trọng tự do cá nhân và luôn luôn vận dụng tinh thần, đã thúc đẩy họ không ngừng hoạt động. Phần đông, họ sẵn sàng hy sinh quyền hành, địa vị cho sự họat động và phiêu lưu. Khi xuống tinh thần, họ thường trở nên dễ tức giận, cáu kỉnh và buồn bã. Thường làm việc một cách trì hoãn. Soạn thảo chương trình, kế hoạch và cuộc sống hàng ngày, không lo tới ngày mai, mặc cho giòng đời lôi cuốn, muốn ra sao thì ra. Có nhiều nghị lực và hứng khởi, và tuy thay đổi tính tình mau chóng, nhưng có sức chịu đựng. Rất ít có việc nào làm chán nản lâu dài. Bản tính lạc quan giúp cho họ mau lấy lại tinh thần. Thích thay đổi mới lạ bất cứ một việc gì. Không bận tâm cho lắm về vấn đề tình yêu hay tiền tài. Họ tận hưởng những gì mà tiền bạc có thể mang đến, nhưng luôn luôn ham phiêu lưu hơn cả. Người số 5 rất cương quyết và nhiều nghị lực, ý chí. Ít khi phải ngập ngừng, đắn đo trước một vấn đề nào. Thường cảm nghĩ cũng như hành động đều là tùy hứng. Rất nóng nảy, bộp chộp. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều duyên dáng niềm nỡ và vồn vã. Thích các buổi họp, thích cười đùa, ca hát và chuyện phiếm. Dễ đem cái vui đến cho người chung quanh, làm người khác quên nỗi ưu phiền. Bị chi phối rất nhiều bởi tinh thần, có óc sáng kiến và thích đem ra áp dụng. Thường được người quen biết mến chuộng, nhưng đối với người biết rõ họ hơn thì lại giảm bớt sự mến chuộng vì cái tính quá bất thường của họ. Nhất là khi tức giận thì không thể kềm chế được. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thường có bốn đặc tính đem lại thành công: thông minh, tài ba, nghị lực, và cá nhân tính. Nhưng đối với họ, thành công không phải là đạt được quyền hành hay tiền bạc mà là tận hưởng đời sống luôn luôn có các cuộc gặp gỡ và chinh phục mới. Không thích sự buồn tẻ với bất cứ giá nào. Vì vậy họ cần phải chọn nghề cẩn thận để khỏi phí phạm các đức tính sẵn có (mà còn phải khéo và không được an bằng). Nếu chọn lựa đúng nghề, họ có thể leo lên tột đỉnh. Chẳng hạn như: viết báo, sáng tác, hội họa, nhiếp ảnh, luật gia, thể thao gia, phi công v.v... Thích hợp được với các nghề: quảng cáo, tuyên truyền hay cần giao tế. Muốn thành công, cần phải có sự HỨNG THÚ. Rất bấp bênh về tiền bạc. Có thể thành triệu phú hay trắng tay trong một đêm. Rất rộng rãi về tiền bạc. Ít dành dụm. Nên để cho người khác quản trị họ trong vấn đề tiền bạc. Ít lo lắng về tương lai và những khi trở trời. Tình Duyên Dễ quyến rủ người khác và luôn luôn là kẻ hấp dẫn đối với kẻ khác phái. Thường có bản chất về tình cảm và tình dục rất mạnh. Hết sức lãng mạn. Yêu cuồng sống vội. Viết thư tình một cách say mê. Đi đến tính ước một cách bất tử. Kết hôn với họ, bạn có thể đi đến thiên đường hoặc đến địa ngục, ít khi là lưng chừng ở giữa. Thích hợp với họ, phải là người cũng ưa tự do, bay nhảy, hoạt động tùy hứng, hoặc là người khác hẳn, không cần thay đổi gì đến đời sống của họ cả. Người thích hợp hơn cả là người mang số 5. Hôn nhân có thể có rất nhiều sóng gió. Nhưng đối với họ, trật tự và bình yên không quan hệ lắm, chỉ cần có thích thú và tình dục thỏa mãn. Có thể hạnh phúc với người mang số 2, 3, và 6 miễn là cũng dám phiêu lưu trong vấn đề tài chánh. Cũng thế và trung bình với 1 và 8 (chỉ cần bớt độc đoán và chỉ huy). Số 6 Số 6 tượng trưng cho sự hòa hợp thẩm mỹ, ổn định quân bình, nhịp nhàng, hy sinh. Số 6 có ý nghĩa quyến rủ, nhịp nhàng cân nhắc, chọn lọc và tự do. Số 6 tương đương với thần ái tình (The Lover) ở bài bói Tarot. Liên hệ với sao Venus. Tính Tình & Nhân Cách Cứng cõi, mạnh mẽ, tin cậy, cao thượng, tế nhị, và rung động sâu xa trước cái đẹp. Bản tính nhân ái và rất chú trọng tới hạnh phúc của kẻ khác. Tuy có thể hoạt động tích cực ngoài đời nhưng trọng tâm đời sống là gia đình. Hy sinh cho gia đình đến dễ thành chiều chuộng quá mức. Rất có lương tâm và ưa sự chính xác, mẫu mực. Thường hay đảm đang luôn các việc của kẻ khác. Thường quá đi sâu vào chi tiếc cho nên hay bị lo lắng và không an tâm. Tính điều hòa, mềm mỏng, nhẹ nhàng, nhu mì, trầm lặng và duyên dáng dễ tạo nên cảm tình với người chung quanh. Bởi tính yêu mến thiên nhiên, rất dễ kết bạn và giữ được tình bạn lâu dài. Được mọi người ưa mến. Rất ít ghét ai trừ phi người nào đe dọa tới hạnh phúc của họ. Khi đó họ có thể thành một con hổ dữ. Thích những cái gì xinh xắn, đẹp đẽ. Nhà ở của họ thường phản ảnh sự yêu mỹ thuật. Thường thích hội họa, âm nhạc, điêu khắc. Là chủ nhà hoặc chiêu đãi viên rất được cảm mến. Thích giải trí, xã giao, hội họp, tiệc tùng và tổ chức rất khéo léo. Thường khuynh hướng về lý tưởng, nặng về tình cảm. Không ích kỷ, sẵn sàng giúp đỡ bạn bè, không cần phải đợi nhờ vã. Nếu đặt sự rộng lượng vào đúng hoàn cảnh thì tránh được việc bị lạm dụng. Cần phải biết từ chối. Biết trả lời KHÔNG trong những trường hợp bị đòi hỏi quá đáng. Công Việc, Năng Khiếu, & Tiền Bạc Có óc sáng tạo, rất dễ thành công trong các địa hạt nghệ thuật như: viết văn, hội họa, điêu khắc nếu không dồn hết tâm trí vào gia đình. Không bị lôi cuốn bởi tham vọng. Họ rất thích thành công nhưng không phải chỉ vì quyền hành. Thường dễ thành công nếu được sự thúc đẩy và giúp đỡ, khuyến khích của người thân. Bản tính nhân ái khiến họ đạt được nhiều kết quả quan trọng trong các nghề như: hội họp, hoạt động xã hội, bác sĩ, y sĩ, công cuộc từ thiện, săn sóc nhi đồng. Vì tin cậy được nên có khả năng trong các công việc như: thủ quỹ, thủ kho, kế toán v.v... Là nhân viên, họ có thể coi như hoàn toàn và thật thà, trung thành, chú ý tới chi tiết, thích tự hào khi đã chu toàn công việc. Là chủ nhân, họ cũng tốt vì biết chú trọng tới đời sống của nhân viên. Tuy nhiên, cần phải biết nghiêm ngặt, đừng để tình cảm lấn át công việc nhiều quá. Cũng không nên có cảm tưởng là họ chẳng thể nào hoàn toàn hoặc làm nên trò trống gì. Về tiền bạc, họ thích yên ổn và vượt cao hơn mọi người. Vì vậy, ít khi họ kiếm được một tài sản khổng lồ. Tuy nhiên, họ chi tiêu hợp lý, ít mắc nợ hay phung phí tiền bạc. Tuy rộng lượng về các thứ khác, nhưng ít khi rộng rãi về tiền bạc, kể cả đối với người trong gia đình. Không ham làm giàu bằng các cuộc thử thời cơ, may rủi. Tóm lại, là người rất cẩn thận và chặt chẽ về tiền bạc. Tình Duyên Quan niệm về tình yêu không viễn vông và lãng mạn. Đối với họ, tình yêu có mục đích rõ ràng là gắn liền với hôn nhân. Cho nên, trong việc giao thiệp với bạn khác phái, luôn luôn có ý nghĩ xây dựng lâu bền... Khi kết hôn, chỉ còn biết có gia đình, hầu như thế giới bên ngoài không còn gì khác để hướng tới nữa. Rất dễ cảm xúc và chan chứa tình thương. Đối với họ, yêu cũng cần như thở vậy. Sự thương cảm này có thể vượt quá mức và làm họ đau khổ. Kết hôn thích hợp nhất với người mang số 6 và 2, có thể hài lòng với 3 và 5. Giữa số 6 và 4 thường có sự xung đột, xích mích. Tuy nhiên, hai bên có thể tìm hiểu nhau, để đi đến sự hòa thuận. Xa cách và tương phản nhất với số 6 là số 1 và 8. Không thích hợp với số 7 trừ phi một trong hai thay đổi hẳn tính tình. Số 7 Số 7 tượng trưng cho khuynh hướng tinh thần và trí tuệ, cá tính riêng biệt, tư tưởng thâm trầm, và ảnh hưởng đến các môn khoa học kỹ thuật, triết lý, tôn giáo và siêu hình học. Số này tiêu biểu cho sức mạnh cường tráng và khả năng tiến thủ vượt bực về tinh thần và tâm linh, cao cả thiêng liêng. Số 7 liên hệ với sao Uranus (tử vi gọi là sao Thổ Tú), tương đương với thần Đại Trùng Tinh (The Chariot). Voltaire, Horace và Shakespeare đều thuộc loại người số 7. Tính Tình & Nhân Cách Tư tưởng thâm trầm và có vẻ phân tích. Nhiều ý kiến cá nhân, rất tự lập, ít nghĩ ngơi về tâm trí và thể xác. Rất chú trọng và tò mò về thời thế. Thích du lịch, nhất là đến những nơi xa xôi, hẻo lánh. Thích sự kín đáo, cô quạnh. Thường là kẻ sống với nội tâm, ít biểu lộ ra ngoài. Ham hiểu biết. Rất có khiếu về nghệ thuật thẩm mỹ và dễ xúc cảm với cái đẹp. Thường bất đồng ý kiến của đa số. Quan niệm của họ thường có tính cách triết lý và trực giác. Ít khi a dua hay bắt chước thời trang. Tự lập luận, tự quyết, không chịu theo ý kiến của người khác. Thích hoàn toàn, có tinh thần tự chí, tự phê bình rất nghiêm khắc. Tự đòi hỏi mình những tiêu chuẩn có khi quá cao với khả năng. Thường thì tính tình khó hiểu, và họ cũng khó tìm hiểu được người khác. Cô độc, dè dặt, bẽn lẽn, rất khó kết bạn. Tuy nhiên, khi đã là bạn rồi, họ trở thành người bạn rất tốt, trung thành, khoan dung. Vì tính thâm trầm, nên họ không thích hợp được với các cuộc hội hopï, tiệc tùng, liên hoan dạ vũ... Tìm thấy sự thích thú thoải mái trong các cuộc họp mặt nhỏ. Nói chuyện hay, biết nghe chuyện nhưng không thích các chuyện phiếm hay tán gẫu. Vì dè dặt, giữ gìn thận trọng nên thường bị người xung quanh hiểu lầm là có tính khinh người. Không thích la lối, nổi giận, nhưng tranh đấu mãnh liệt cho niềm tin tưởng của mình, tranh đấu một cách bền bỉ, thụ động nhưng bướng bỉnh. Rất tín ngưỡng và sống nhiều về tinh thần. Thích nghiên cứu về tôn giáo và thường trở nên người thâm trầm, sâu sắc và bí ẩn. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thích hợp nhất với các công việc hay nghề nghiệp ít bị kiểm soát bởi người khác. Dễ thành công trong các lãnh vực nghệ thuật, viết văn, điêu khắc, hội họa v.v... Giáo dục, khoa học, hoặc tôn giáo cũng thích nghi với khả năng. Nhờ vào kiên nhẫn và kiến thức sẵn có, họ có thể gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp khi bắt tay vào việc. Thích biển cả, du lịch và có nhiều khả năng trong ngành hàng hải. Ít thích thú trong các việc thương mãi hay các việc cần đến sự giao dịch. Là nhân viên, họ rất tận tâm, chăm chỉ, ghét sự kiểm soát và bó buộc quá nhiều. Là chủ nhân, họ không đạt được nhiều thành công vì họ không thích ra lệnh, muốn cho nhân viên dưới quyền tự sáng kiến. Ít quan niệm về tiền bạc và mãnh lực của nó. Thấy tiền bạc là cần thiết nhưng không mơ ước nhà lầu, xe hơi. Thỉnh thoảng họ cũng dám tiêu xài phung phí nhưng thường thì có tính tiết kiệm hơn. Không thích các vấn đề hay sự việc có liên quan đến tiền bạc. Có tiền họ cũng để cho người khác quản trị dùm. Tình Duyên Dễ kết hôn trong nhiều trường hợp và thường rất sớm, nếu không thì rất muộn bởi vì càng lớn tuổi họ càng dè dặt. Sống xa cách với thế giới bên ngoài và khó biểu lộ cảm xúc. Rất tử tế nhưng không hẳn là dễ thương, dễ cảm bởi vì họ chú trọng nhiều về tinh thần và ít lệ thuộc chặt chẽ vào việc khác. Thí dụ, người chồng có thể nhớ vợ khi xa cách nhưng vẫn làm việc hăng hái, có kết quả tốt như lúc bình thường vậy. Hôn nhân hạnh phúc có thể tìm gặp với người mang số 9, 1 hay 7 vì giống nhau về tinh thần và nhân cách. Các số 6 và 2 ít thích hợp hơn cả, bởi lẽ hai số này rất dễ bị khổ sở bởi tính tình của số 7. Đối với các số 3 và 5, họ có thể tạo được hạnh phúc nhưng sẽ có những sóng gió bất thường. Có thể hài lòng với số 1 và 8 có tính chinh phục nhưng thường thiếu sự rung cảm sâu xa. Số 8 Số 8 tượng trưng cho quyền lực, thành công, chiến tranh, và tàn phá, có ý nghĩa lúc nào cũng phải tôn trọng công lý và đề phòng những tai nạn nguy hiểm và sự suy sụp, tàn phá. Số 8 liên hệ với sao Mars (tử vi gọi là sao Hỏa Tinh), và tương đương với The Strength của bài Tarot (thần Hùng Cường). Cựu Đại Tướng Hoa Kỳ William Westmoreland và cựu Đại Tướng Douglas MacArthur đều thuộc loại người số 8. Tính Tình & Nhân Cách Người mang số 8 có khả năng thiên phú về tập trung tư tưởng và chú ý, tự rèn luyện vào khuôn khổ kỷ luật. Có nhiều cá tính và ý chí sắt đá, là những người có quyết tâm khai sơn phá thạch. Ít khi làm việc gì mà không để hết nhiệt tâm. Rất nhiệt thành, cực đoan, và cuồng thị. Rất ghét những gì tầm thường, hoặc là thành công rực rỡ, hoặc là cam tâm thất bại ê chề. Tự rèn luyện khắc nghiệt và có khuynh hướng lôi cuốn người khác đi theo con đường của mình. Đôi khi thích hoạt động vì quyền hành nhưng thường tin rằng những người chung quanh cũng cuồng nhiệt phục vụ cho một lý tưởng như mình. Nhiều khi tỏ vẻ lạnh lùng, nhưng là người rất tốt bụng. Nếu có vẻ xa cách là bởi họ không biết cách hoặc khó biểu lộ cảm xúc. Thường có vẻ cô độc, thích được kết bạn với những người khác nhưng không đi đến chỗ thân mật được. Nhiều nghị lực và hoạt động. Thích theo đuổi những mục đích có cả tinh thần lẫn vật chất. Không chịu được sự thất bại và khi đã dấn thân vào việc gì dầu là việc tiêu khiển hay làm thiệt, cũng mong hòa hoặc thắng. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, nhiều người sẽ bị quyến rũ ngay bởi sức mạnh nhân cách của họ, như bị thôi miên vậy. Tuy nhiên, càng tiếp xúc với số 8 nhiều và càng lâu, sự mến phục này càng giảm đi và số 8 bị mất dần đi số người ái mộ. Khi muốn, họ tự tạo cho mình sự nổi bật và duyên dáng. Nhưng họ rất ít muốn làm như vậy, trừ những lúc họ cảm thấy thật sự cần cho họ. Vì ham muốn đạt được mục tiêu, đôi khi họ trở nên cứng rắn, khắc nghiệt với những người mà họ không có cảm tình. Là người bạn rất trung thực và tin cẩn, thường sẵn sàng đứng lên bênh vực và che chở cho những người thân của họ. Với kẻ thù, họ trở nên đáng sợ vì họ rất khó quên những xích mích, dù nhỏ nhặt. Và khi đã bùng nổ tranh chấp hay hiềm khích, họ sẽ chiến đấu đến cùng. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thường thành công rực rỡ trong các chức vụ quan trọng. Nhất là các địa vị hữu quyền vì ngoài khả năng tập trung, chú ý, tự ghép mình vào khuôn khổ kỷ luật, họ còn là người làm việc có kế sách chặt chẽ, có sáng kiến, và biết áp dụng những tư tưởng mới lạ. Khi tận lực cho công việc, họ có thể đạt đến tột đỉnh của thành công. Tuy nhiên, vì có tài năng và muốn lãnh đạo họ cần phải thận trọng lựa chọn đường lối bởi lẽ nếu đi nhầm đường, họ là những phần tử đe dọa cho xã hội. Là nhân viên họ rất tận tâm trong mọi công việc, luôn tỏ ra nhanh chóng và hữu hiệu. Tuy nhiên, các bạn đồng nghiệp rất dễ hiểu lầm là họ muốn chơi trội hay nhảy vọt qua một cách vội vàng. Trong công việc cũng như giao tế, họ cần phải lịch thiệp, khôn khéo hơn, và ít đòi hỏi hơn. Là chủ nhân, họ rất hăng hái hoạt động, và muốn tất cả nhân viên cũng hăng hái như họ vậy, hay cũng thận trọng và làm việc vất vả như họ. Họ rất có khả năng trong lãnh vực tài chánh, có thể nói họ nhúng tay vào việc gì là việc đó hái ra tiền. Cương quyết có óc thực tế, biết đánh giá đồng tiền tiêu pha một cách hợp lý, xứng đáng, không chặt chẽ về vấn đề tiền bạc nhưng cũng không phung phí tiêu pha liều lĩnh. Kinh doanh nhiều thắng lợi. Rộng rãi với gia đình, bạn bè nếu cho rằng đó là người biết kiếm tiền, biết xử dụng đồng tiền. Tình Duyên Rất thay đổi, từ chỗ yêu tha thiết đến hoàn toàn dửng dưng. Điều này có thể chứng tỏ tình yêu nồng nàn, say đắm, nhưng có khi lại rất xa cách, lạnh nhạt. Trong tình yêu, rất ít người số 8 tìm được hạnh phúc trong sự trung dung. Tình yêu với họ hoặc là đầy ngọt ngào hoặc là nhiều cay đắng. Tuy hôn nhân của họ có thể trải qua nhiều cay đắng nhưng không bao giờ buồn tẻ. Họ là những người hoạt động, dễ làm nẩy nỡ những sự hào hứng mới, vì vậy mà họ (nhất là nam giới) rất quyến rũ đối với người khác phái. Trong khi họ có thể mất nhiều bạn thân, họ lại được rất nhiều mến chuộng trong cương vị tình nhân hay vợ chồng. Nếu các số 2 và 6 thông cảm được bản tính của họ, hôn nhân sẽ đạt nhiều hạnh phúc. Họ cũng thường được hài lòng khi kết hôn với số 4 và 7 hay 9 tuy đôi khi thiếu sự nồng nàn. Nhiều khi sự kết hợp của họ đối với số 3 và 5 cũng đem lại nhiều hạnh phúc nếu cả hai người cùng biết tương nhượng lẫn nhau. Họ không thể hòa hợp được với số 8 hay 1 vì những con số này có bản tính háo thắng, dễ va chạm trong cuộc sống hàng ngày. Số 9 Số 9 thể hiện tình thương vô bờ bến đối với nhân loại. Có ý nghĩa là phải sống khổ hạnh mới tìm ra chân lý và khuyên chúng ta: "sự im lặng là vàng bạc, lời nói phải cẩn thận, phải suy nghĩ chín chắn trước khi phát ngôn." Số 9 liên hệ với sao Neptune, tương đương với The Hermit (Thần Tu Khổ Hạnh) của bài Tarot. Đức Khổng Phu Tử và Thủ Tướng Ấn Độ Thánh Gandhi thuộc loại người số 9. Tính Tình & Nhân Cách Rất thụ cảm và tế nhị. Cảm thông với những nhu cầu đòi hỏi của người chung quanh và sẵn sàng giúp họ thỏa mãn một cách nồng nhiệt. Các nạn nhân của bạo lực và áp bức, những người bị bạc đãi, hất hủi, bệnh tật, già yếu, không may mắn... đều gây cảm xúc cho họ như là những người thân thuộc vậy. Khi theo đuổi một nguyên do chính đáng, họ say đắm đến độ quên lãng cả gia đình. Tính lại, họ là con người rất nhân ái và lý tưởng. Bị chi phối bởi trực giác và tình cảm nhiều hơn là lý luận và trí thức. Mặc dù rất thụ cảm, họ rất dè dặt, thường rút lui vào địa hạt triết lý, tâm linh với hy vọng tìm ra được giải quyết thỏa đáng cho những vấn đề về những đau khổ của loài người. Ít khi bị quyến rũ bởi tiền bạc hay quyền hành, trừ phi đó là những phương tiện cứu giúp người. Có tính chịu đựng bền bỉ, can đảm và cương quyết nhưng lại ít dùng tính đó để suy cho mình. Mục đích của họ là tình yêu rộng lớn, lòng đại lượng và sự thông cảm. Được nhiều người mến chuộng cũng như bị nhiều người ghen ghét bởi vì họ kết bạn dễ dàng nhưng thường không giữ được bạn bởi tính tình nông nổi bồng bột. Không ưa cãi cọ về những chuyện vụn vặt nhưng lại rất chú trọng đến các vấn đề quan trọng và dễ gay gắt, giận dữ với những người không đồng quan điểm. Thường thì dè dặt, tự quyết, tự lập, và ẩn tránh nhiều hơn. Về một vài khía cạnh khác, họ là một cá nhân rất mau mắn và hay thay đổi. Hôm nay thì buồn bã ủ ê, nhưng hôm sau sẽ vui nhộn hứng khởi. Tuần này hăng hái sôi nổi. Tuần sau đã dửng dưng lạnh nhạt. Tuy nhiên có một điểm cố định dù tính tình và hoàn cảnh có thay đổi, mục tiêu duy nhất là tự do và tình yêu thương đồng loại. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thích hợp hơn cả với những công việc và nghề nghiệp đòi hỏi sự giúp đỡ người khác nếu biết hòa đồng tính tình, họ sẽ là những nhà lãnh đạo tôn giáo, các bác sĩ, y tá, trợ tá, cán sự xã hội và kể cả thợ thuyền rất khéo léo tài ba. Tuy dè dặt, nhưng cũng có nhiều người thích xuất hiện trước quần chúng và có thể thành công như nhà hùng biện, thuyết pháp, chính trị gia, giảng viên, hay giáo sư triết học. Tuy có trí thông minh và tài lãnh đạo rất cần thiết cho việc kinh tài họ lại thường không thấy hạnh phúc. Làm việc chỉ vì tiền hay vì danh tiếng không làm cho họ thỏa mãn. Nên tránh các nghề như tài chánh, kinh toán, quảng cáo. Luật học rất thích ứng với họ nếu họ được phép bênh vực thẳng thắn cho chính nghĩa. Là nhân viên, tánh tình thất thường, họ chỉ đạt được kết quả tốt nếu biết để hết nhiệt tâm vào việc làm cũng như sự tin tưởng. Rất dễ để tình cảm xen vào công việc. Là chủ nhân, họ rất điệu vợi, thiệt thà và rộng lượng. Về tiền bạc, họ thường không thành thạo trong vấn đề quản trị. Có người kiếm được nhiều tiền và giàu có thường là do may mắn nhiều hơn. Đại lượng, sẵn sàng giúp đỡ gia đình và bạn bè, có khi cả những người rất xa lạ nữa. Không hiếm những người số 9 bị nợ nần nhiều. Tuy thích tiền bạc, nhưng lại không nô lệ cho đồng tiền. Đối với họ, đồng tiền kiếm ra được chỉ để tạo tiện nghi cho đời sống vật chất, chứ không phải dùng để tạo thế lực hay dùng để đẻ ra đồng tiền khác. Tình Duyên Là người bạn đường rất tín cẩn và chung tình. Hôn nhân đối với họ rất thiêng liêng. Rất ít than phiền về bạn trăm năm của mình với người khác dù là bạn bè thân thuộc, và ngược lại, rất là khổ sở nếu người yêu của mình phân trần chuyện gia đình với người ngoài. Họ đáng kính trọng nhưng chưa phải là người bạn lý tưởng. Cũng giống như một số đông các bác sĩ, họ giành hầu hết thì giờ và năng lực cho những người khác, nhiều khi quên lãng gia đình. Đời sống tình cảm khô khan. Họ bị hăng say về công việc, họ quên cả những ngày nghĩ lễ quan trọng như sinh nhật hay ngày Tết, Noel. Tuy tình cảm khô khan nhưng nhiều khi họ cần sự yêu đương. Họ thích hợp với số 4, 7 hay 9 vì đồng tính tình và mục tiêu giống nhau. Đôi khi số 9 kết hợp với số 2 cũng sung sướng. Với sự chịu đựng và cố gắng của cả hai bên, số 9 có thể kết hợp với số 3, 6 hay 8. Phải thận trọng khi muốn kết hợp với số 1 hay số 5 vì tính tình trái ngược.
    2 likes
  2. Tướng Giáp và sự kiện qua lý giải của Dương Trung Quốc 24/08/2010 11:00:37 - Quyết định “đánh nhanh thắng nhanh” có bị áp lực từ đâu không; thông tin về chiến dịch Mậu Thân; quan điểm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về mối quan hệ với Mỹ và Trung Quốc…, tất cả những thắc mắc của độc giả Bee.net.vn đã được Nhà sử học Dương Trung Quốc giải đáp, dựa trên những tài liệu và những buổi làm việc với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng Võ Nguyên Giáp. TIN LIÊN QUAN TBT Nông Đức Mạnh chúc thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp Đại tướng Võ Nguyên Giáp:" Dĩ công vi thượng" Đại tướng thích ăn cá kho, canh rau đắng… Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Trí thức lớn, người cha bình dị Đại tướng Võ Nguyên Giáp:Quyền lợi đất nước, con người, biển đảo… Đọc toàn bộ cuộc giao lưu TẠI ĐÂY Sự kiện Mừng sinh nhật lần thứ 100 Đại tướng Võ Nguyên Giáp Điện Biên Phủ: Thay đổi cách đánh dựa trên báo cáo thị sát hiện trường Hồ Đắc Huy - Nam 27 tuổi - TP.HCM - Thưa chú Dương Trung Quốc: Trong chiến dịch ĐBP khi đồng ý với quyết định "đánh nhanh thắng nhanh" của Cố vấn TQ, ta có bị áp lực gì của họ không, dù trước khi đi Bác Hồ có dặn Đại tướng chắc thắng mới đánh, và các vị tư lệnh đại đoàn cũng có nhiều băn khoăn. Nhà sử học Dương Trung Quốc: - Về việc này, trong hồi ức của Đại tướng cũng có đề cập tới. Thứ nhất, khi trao nhiệm vụ chỉ huy mặt trận, Bác Hồ đã giao cho Đại tướng toàn quyền nhưng với nguyên tắc "chắc thắng mới đánh". Thứ hai, Đại tướng rất tôn trọng những ý kiến của các cố vấn nhưng quyết định thì luôn đề cao tinh thần tự chủ. Thứ ba, để thay đổi cách đánh, Đại tướng luôn lắng nghe những ý kiến của các vị tướng lĩnh ngoài trận tiền và trực tiếp tìm hiểu thực tiễn. Vì thế, khi lực lượng pháo binh đã tập kết vào vị trí chiến đấu sau rất nhiều khó khăn gian khổ để đưa pháo vào để tác chiến theo phương án "đánh nhanh thắng nhanh" theo ý kiến của cố vấn. Nhưng ngay sau khi nghe được ý kiến của Tướng Phạm Kiệt là phái viên đi thị sát công tác chuẩn bị tác chiến bày tỏ sự lo lắng về lực lượng pháo binh có thể bị đối phương phản pháo vì chưa có công sự an toàn. Đó chính là "giọt nước tràn ly" khiến Đại tướng quyết định xem lại toàn bộ cách đánh của chiến dịch. Những người gần Đại tướng khi đó, sau này, luôn nhắc đến một nắm ngải cứu mà Đại tướng đặt trên đầu để giảm bớt sự căng thẳng sau một đêm suy nghĩ và trao đổi với những đồng sự của mình để đi đến quyết định cuối cùng là chuyển cách đánh từ "đánh nhanh thắng nhanh" sang "đánh chắc thắng chắc". Sau này Đại tướng cũng nói rằng, khi trao đổi lại với các cố vấn Trung Quốc thì cuối cùng họ cũng tán thành và tôn trọng quyết định của chúng ta. Như thế là Đại tướng đã thực thi đúng những quyền hạn mà Bác Hồ giao phó, đồng thời, cũng tuân thủ những nguyên lý chắc thắng mới đánh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguyễn Hồng Quy - Nam 20 tuổi - TP.HCM - Đại tướng Võ Nguyên Giáp có từng đề cập đến mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc và Mỹ không ạ, nhất là trong những năm 1976-1995? Nhà sử học Dương Trung Quốc: - Trong lịch sử Pháp và Mỹ là hai "đối tác lịch sử" khá đặc biệt: Có lúc là bạn, có lúc là thù. Khi đề cập đến vấn đề này, tôi thấy Đại tướng là người tư duy rất mạch lạc, trung thực với lịch sử nhưng luôn hướng tới một thiện chí, hơn là khơi sâu những hận thù. Ví dụ, ngay khi nói về chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng muốn làm rất rõ những chi tiết liên quan đến trận đánh, đặc biệt là khi bàn đến cách đánh để khẳng định tính tự chủ của quân đội ta. Nhưng ông cũng không quên nhắc đến những giúp đỡ của Chính phủ, nhân dân và quân đội Trung Quốc, trực tiếp còn có các vị cố vấn có mặt ngay trong cơ quan chỉ huy chiến dịch. Cũng như khi nói đến các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, ông nhắc nhở không thể quên những đóng góp rất thiết thực về vật chất và tinh thần của Liên Xô và Trung Quốc, các nước Xã hội Chủ nghĩa và bạn bè Quốc tế. Và đương nhiên, chúng ta đều biết, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc có những giai đoạn lịch sử ảm đạm gắn với cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam. Đại tướng là người luôn nhớ đến những bài học lịch sử nhưng cũng quan niệm rằng cái quá khứ không thay đổi được nhưng tương lai thì hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta. Do vậy, khi đề cập tới "vấn đề Trung Quốc" trong thời kỳ xảy ra những mối quan hệ thù địch thì ông vẫn tin rằng, hai dân tộc sẽ vượt qua được nếu những nhà lãnh đạo học được bài học của lịch sử. Thực ra, trong 1000 năm tự chủ (được ghi nhận bằng 1000 năm Thăng Long Hà Nội), bên cạnh truyền thống đánh giặc, mỗi khi bị xâm lược, thì ông cha ta luôn coi việc gìn giữ hòa hiếu với phương Bắc là một nhiệm vụ hàng đầu (đương nhiên, chủ quyền không thể chia sẻ). Nhà sử học Dương Trung Quốc Còn với Mỹ, tôi nhớ lần con trai của cố Tổng thống Mỹ Kennedy đến chào Đại tướng đúng vào dịp sinh nhật lần thứ 87 (năm1998) mà tôi có may mắn được chứng kiến, câu đầu tiên Đại tướng chỉ lên trên tường nhà mình tấm ảnh chụp cùng Bác Hồ năm 1945 và nói rằng chính tấm ảnh này là do các bạn Mỹ chụp chúng tôi. Đại tướng muốn nói đến một thời kỳ lịch sử Mỹ là đồng minh duy nhất của Việt minh, có những mối quan hệ rất chặt chẽ với Bác Hồ và Đại tướng trong thời kỳ quyết định thắng lợi cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 (tháng 7/1945) một đơn vị tình báo Mỹ (OSS) đã nhảy dù xuống Tân Trào cùng Việt minh thành lập Đại đội Việt - Mỹ do Đàm Quang Trung làm đại đội trưởng, Võ Nguyên Giáp là Tư lệnh và thiếu tá Thoms làm cố vấn. Đơn vị này đã bao vây quân Nhật ở Thái Nguyên, sau đó có mặt tại Hà Nội vào thời điểm tổ chức lễ Độc lập... Rồi Đại tướng nói với con trai Kennedy rằng, quan hệ Việt - Mỹ không chỉ có những trang đen tối của cuộc chiến tranh vừa qua mà từng có những trang sử tốt đẹp là đồng minh chống phát xít. Vậy, các bạn trẻ vừa không quên cuộc chiến tranh vừa qua nhưng phải có trách nhiệm viết tiếp những trang sử tốt đẹp như nó đã từng có trong quan hệ Việt - Mỹ. Cuộc chiến Mậu Thân: Vẫn còn khoảng trống trong lịch sử Trần Xuân Thoan - Nam 42 tuổi - 1/138 Quang Trung - TP. Nam Định - tỉnh Nam Định - Hiện giờ, thông tin về Chiến dịch Mậu Thân 1968 vẫn chưa tỏ rõ. Xin hỏi quan điểm dùng binh của Đại tướng trong cuộc chiến Mậu Thân 1968? Nhà sử học Dương Trung Quốc: - Trong nhận thức của tôi, đây vẫn còn là một khoảng trống lịch sử. Hình như, trong bộ hồi ức rất đồ sộ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, giai đoạn này chưa được đề cập tới. Và chúng ta cũng biết rằng, đây là một khúc ngoặt rất quan trọng của lịch sử chiến tranh ở Việt Nam nhìn nhận cả về phía chúng ta (cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước) và cả đối phương. Giờ đây, ngay trên sách báo của ta cũng đã nói đến những tổn thất nặng nề về lực lượng trước và sau chiến dịch và nhiều vấn đề khác, nhưng tổng thể thì ngay cả giới sử học phương Tây (bao gồm Hoa Kỳ) đều thừa nhận cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 đã gây kinh hoàng đối với Mỹ về khả năng điều động lực lượng và đồng loạt tấn công vào phần lớn các đô thị và căn cứ quân sự ở Việt Nam, kể cả tòa Đại sứ Mỹ ở giữa Sài Gòn của lực lượng vũ trang cách mạng. Tuy chịu tổn thất về lực lượng nhưng nó đã đè bẹp ý chí tiếp tục cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Mỹ hiểu rằng, không thể có được thắng lợi bằng quân sự. Nó cũng tác động mạnh mẽ vào dư luận Mỹ và thế giới. Do vậy, sau Tết Mậu Thân, Mỹ phải chấp nhận bước vào cuộc đàm phán tại Paris rồi tiến đến việc rút quân khỏi miền Nam, thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, dẫn đến điều tất yếu là chế độ Sài Gòn sụp đổ. Đương nhiên, bài học Mậu Thân cũng mang lại nhiều bài học sâu sắc cho giai đoạn tiếp theo của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chiến dịch Hồ Chí Minh: Tổng tư lệnh Tú Linh - Nam 26 tuổi - Hà Nội - Cháu không được rõ lắm về vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Bác có thể giúp cháu hiểu hơn về vấn đề này không ạ? Nhà sử học Dương Trung Quốc: - Chiến dịch Hồ Chí Minh có một tầm vóc vô cùng to lớn. Nó không chỉ là một chiến dịch có quy mô rộng lớn về quân sự mà còn là một chiến dịch mang tính chiến lược quyết định sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hoàn thành trọn vẹn mục tiêu thống nhất đất nước. Với tầm vóc như vậy, có thể nói toàn bộ bộ máy lãnh đạo đất nước và mọi nguồn lực của dân tộc đều dốc sức cho thắng lợi chung. Với cương vị Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, đương nhiên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phải là người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc chỉ huy các lực lượng vũ trang phối hợp tác chiến, theo chỉ đạo của Đảng. Người ta có thể nhắc tới những đóng góp cũng rất to lớn của các vị tướng lĩnh trên các chiến trường khác nhau nhưng sự chỉ đạo của Bộ Tổng tư lệnh vẫn mang vai trò của một người chịu trách nhiệm cao nhất về quân sự. Liên quan đến vấn đề này, tôi muốn nhắc tới một kỷ niệm liên quan đến tác phẩm mang tính tổng kết của Đại tướng "Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng", ông đã cho phép tạp chí "Xưa và Nay" của tôi công bố một số đoạn vào năm 1995 trước khi cuốn sách được xuất bản 5 năm. Trong đoạn kết, khi viết về cảm xúc chiến thắng, ông nhắc lại tên tuổi tất cả những nhà lãnh đạo, các vị tướng lĩnh tham dự cuộc chiến tranh giải phóng này. Ông yêu cầu tôi chọn một số tấm ảnh minh họa và rất hài lòng khi chúng tôi tìm được tấm ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chia tay nhau trước khi ra chiến trường bên cây đào đang nở hoa và ảnh ông cùng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh "xoay trần" dưới sàn nhà cùng nghiên cứu bản đồ tác chiến... Và đương nhiên, trong tất cả những điều ông viết ra luôn thấy có bóng dáng Bác Hồ. Bee.net.vn
    2 likes
  3. Số điện thoại đẹp: "May rủi khôn lường!" Thứ hai, 23 Tháng 8 2010 09:14 Cách đây ít ngày, số điện thoại 0x88888888 đã chính thức chọn được chủ nhân sau một thời gian dài nằm trong kho số của Viettel. Theo tiết lộ của nhà mạng, giá của chiếc sim đặc biệt này không dưới 10 chữ số… . Nhiều người thích số điện thoại đẹp Theo quan niệm của nhiều người, số điện thoại 0x88888888 là con số thịnh vượng. Ngoài việc minh chứng đẳng cấp của chủ sở hữu, nhiều người tin rằng số 8 (âm Hán Việt đọc là "bát", thường được đọc chệch là "phát") tượng trưng cho sự phát đạt, đem tới vận may cho người sử dụng. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của nhiều chuyên gia phong thủy, số điện thoại có tám chữ số 8 này chưa hẳn đã đẹp… "Tôi khẳng định 0x88888888 là số không đẹp" Theo chuyên gia phong thủy Nguyễn Tuấn Kiệt (Công ty Cổ phần Phong thủy Việt Nam, 166 Nguyễn Thái Học, Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội), sim số đẹp có thể chia làm 2 dạng. Thứ nhất là sim số đẹp theo nghĩa dễ nhớ. Loại này đã có từ khi hình thành thị trường sim số. Chuyên gia Nguyễn Tuấn Kiệt - ảnh VTC Nhưng 2, 3 năm trở lại đây bắt đầu có khái niệm sim phong thủy. Trong khi sim số đẹp theo kiểu dễ nhớ chỉ có giá trị về kinh tế thì để đánh giá một sim phong thủy đẹp lại phụ thuộc vào rất nhiều tiêu chí. Chuyên gia Tuấn Kiệt cho rằng, số điện thoại 0x88888888 chỉ đơn thuần là một số dễ nhớ chứ xét về ý nghĩa phong thủy, đó chưa hẳn là một con số đẹp. “Để đánh giá một số điện thoại đẹp trước hết phải xem bản thân số đó có phải là số đẹp hay không? Thứ hai phải xem số đó có hợp với người sử dụng hay không? Tiêu chí này phụ thuộc vào đối tượng sử dụng. Số điện thoại 0x88888888 có quá nhiều số 8, mà theo phong thủy, số 8 là một số âm nên dãy số 0x88888888 là một dãy số quá nhiều âm tính. Theo thuyết âm dương ngũ hành, một dãy số đẹp thì âm dương phải cân bằng, những gì thái quá đều không tốt. Ngoài ra, theo quan niệm của kinh dịch, dãy số 0x88888888 thuộc quẻ Bĩ - mang một ý nghĩa chỉ sự suy thoái. Chưa xét đến việc người sử dụng có hợp với số 0x88888888 hay không, nhưng chiếu theo quan niệm của phong thủy tôi khẳng định 0x88888888 là một số không đẹp”, chuyên gia Tuấn Kiệt nói. "May rủi khôn lường" Ông Nguyễn Phúc Giác Hải - Chủ nhiệm bộ môn Thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người (thuộc Liên hiệp các Hội KHKTVN) lại cho rằng 0x8888888 là một số “tiện”, giúp người ta giảm thiểu chức năng của bộ nhớ nhưng chứa đựng sự may rủi khôn lường. Ông Nguyễn Phúc Giác Hải - ảnh VTC Ông Hải cho biết: Hiện nay, trên thế giới đã có khoa số học Numerology, môn khoa học nghiên cứu ý nghĩa của những con số và mối quan hệ của con số với con người. Và tùy theo mỗi dân tộc mà có quan điểm khác nhau về các con số. Ở Việt Nam thì kiêng những con số lẻ, thích con số chẵn như quan niệm “chớ đi ngày 7 chớ về ngày 3”. Hay như trường phái Pitago, một trường phái triết học cổ Hy Lạp lại quan niệm con số 4 là một số đẹp. Bởi vì, trường phái này cho rằng con người có 10 ngón tay, mà tổng các số từ 1 đến 4 lại bằng 10. Trường phái Pitago cũng lý giải ý nghĩa của số 4 như sau: Trong hình học, số 1 xác định được 1 điểm, số 2 xác định được 1 đường thẳng, số 3 xác định được 1 mặt phẳng nhưng số 4 thì xác định được 1 không gian. Do vậy, số 4 đã xác định được thế giới chúng ta đang tồn tại nến số 4 là một con số đẹp. Nhưng người Trung Quốc lại sợ con số 4 vì khi phát âm số này đọc là “tứ”, gần với chữ “tử” là chết. Người Trung Quốc thích số 8 vì khi đọc, chữ “bát” gần chữ “phát”. Theo ông Hải, quan niệm về cái đẹp của mỗi con số theo các dân tộc là mỗi khác. "Dãy số 0x88888888 có phải là con số đẹp không? Đánh giá đó tùy vào quan niệm của từng tầng lớp, từng con người. Nhưng, theo tôi, dãy số đó trước hết là một số “tiện” vì khi sử dụng sẽ giúp chúng ta giảm chức năng của bộ nhớ". "Hơn nữa, số 0x88888888 đã được mua với giá rất đắt và chắc chắn người mua mong rằng con số đó sẽ đem lại cho mình sự may mắn. Vậy, người sở hữu số điện thoại 0x88888888 trước tiên phải là một người có khả năng tài chính cao. Nhưng cái phúc, họa rất khôn lường và chúng ta không thể biết được khi sở hữu số điện thoại “tuyệt vời” đó là may hay rủi. Ví như có người nào đó vì ghen tức với số điện thoại đó của anh, họ sẽ tìm cách hại anh để có số đó. Trong công việc làm ăn, nhiều người e anh “chảnh” khi sử dụng số đó sẽ không gọi điện thoại cho anh nữa… Do vậy, theo tôi, con người nên sống đúng với bổn phận để làm sao duy trì được cái phúc và bớt đi những cái họa. May rủi phải xây dựng trên nền tảng đạo đức”, ông Hải chia sẻ. "Tôi sẽ bán ngay với giá 100.000 đồng" Theo ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Giám đốc trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương, ông sẽ không bao giờ bỏ tiền ra mua mua số điện thoại 0x88888888 và nếu ai mua tặng ông số điện thoại này dù là giá 1 tỷ đồng, ông sẵn sàng bán ngay chỉ với giá 1 trăm nghìn đồng chứ không dùng. Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh Để chứng minh cho quan điểm của mình, ông Tuấn Anh nhắc lại một câu chuyện tương tự về số điện thoại đẹp đã xảy ra trên thế giới: “Ở Bulgaria đã từng phải bỏ đi một số điện thoại có có 9 số 8 (0888888888) sau khi 3 người sử dụng số này đều qua đời trong vòng 10 năm. Chủ sở hữu đầu tiên của số điện thoại huyền thoại này là ông Vladimir Grashnov, cựu giám đốc điều hành hãng điện thoại di động Mobitel, nơi phát hành số 0888 888 888 đã qua đời vì căn bệnh ung thư ở tuổi 48. Trùm mafia Bulgaria Konstantin Dimitrov, người sở hữu số điện thoại này sau đó cũng bị ám sát tại Hà Lan ở tuổi 31 khi đang mang số điện thoại bên mình. Sim số đẹp này được chuyển sang cho doanh nhân Konstantin Dishliev, nhưng ông này cũng bị ám sát bên ngoài một nhà hàng Ấn Độ tại thủ đô Sofia của Bulgaria”. Ông Tuấn Anh cho biết, hiện nay, có một lý thuyết xuất phát từ lý học Đông Phương, tạm gọi là lý thuyết về những con số. Lý thuyết này khẳng định, các con số khi đọc lên, âm thanh đó sẽ tác động đến con người, ảnh hưởng đến số phận con người. Theo quan niệm ở một số nước phương Đông, người ta cho rằng số 8 khi phát âm là “bát” thì nó có nghĩa là “phát”. Vậy, trong trường hợp của số điện thoại 0x88888888 khi đọc lên sẽ là …phát phát… phát mà theo lý học những gì cực thịnh sẽ phải đi đến hồi suy… “Nhiều đại gia khi gọi điện thoại đến số máy của tôi cũng hiển thị những số có bốn số 8, năm số 8. Điều đó chứng tỏ rất nhiều người chuộng số 8. Cứ cho rằng lý thuyết của họ là đúng, tôi không phản đối. Nhưng tôi chưa thấy vị đại gia nào sử dụng nhiều số 8 lại có một kết cục trọn vẹn đến cuối cuộc đời cả". Theo tôi, số điện thoại 0x88888888 là con số rất nguy hiểm. Tôi khuyên mọi người không nên mua số điện thoại này”, ông Tuấn Anh kết luận. Tại Việt Nam, số điện thoại 0x88888888 của Viettel đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của người tiêu dùng. Trên nhiều diễn đàn, không ít các bạn trẻ bày tỏ niềm ao ước có được số điện thoại “thịnh vượng” bậc nhất kia cũng như sự ngưỡng mộ đối với chủ nhân của chiếc sim “khủng” này. Được biết, chủ sở hữu của sim số 0x88888888 là một người thành đạt. Chia sẻ với báo giới, chủ sở hữu của số sim này cho biết, anh mua số điện thoại này không phải để bán mà một phần là nhằm thỏa mãn niềm đam mê đối với những con số và hơn hết đó là sự chân thành, mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình cho quỹ từ thiện, với mục đích giúp đỡ những người thiếu may mắn có cơ hội nhận được sự quan tâm nhiều hơn của xã hội. "Nếu đã làm điều thiện, thì theo tôi, số điện thoại ấy sẽ không hại chủ" - một chuyên gia nghiên cứu tâm linh (xin giấu tên) cho biết. Theo: VTC ------------------------------------------------ Hi. Hôm đó Thiên Sứ tui xỉn quá nên ra giá có 100. 000 đ cho số sim đẹp. Bằng chứng là xác hai chai bia chụp trong hình. Đây là con số thống kê bia còn chưa đúng sự thật :D . Đúng ra phải bán 1.000. 000đ. So với một tỷ vẫn còn rẻ chán.
    1 like
  4. http://www.mediafire.com/?awoqthjain98l8x
    1 like
  5. Hãy buông ra Tác Giả: Vô Ngã Tôi nghe buổi Thuyết Pháp tại chùa Thiên Môn. Xin thuật lại để quý vị cùng nghe. Sau phần thuyết giảng, đến phần Pháp đàm. Thầy mời quý Phật tử đặt câu hỏi để cùng thảo luận. Tận cuối hội trường, có một ông già, đứng dậy chắp tay cung kính xin hỏi: - Kính bạch thầy. Con hiện đang bị bệnh. Hết đau đầu đến đau khớp, đau thận, tiểu đường, cao huyết áp. Bây giờ lại bị bại một chân nữa ạ! Suốt đêm qua con trằn trọc mãi không sao ngủ được do bệnh nó hành hạ xác thân… Cúi xin thầy từ bi thương xót chỉ bảo cho con làm sao cho hết đau bệnh? Xin thầy cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho con được hết bệnh, khỏe mạnh như xưa … Thầy lên tiếng nhỏ nhẹ, thong thả nói: - Thưa bác, thưa đạo hữu. Đức Phật đã dạy: Cõi thế gian tràn đầy đau khổ! Trong đó có định luật: SINH, LÃO, BỆNH, TỬ thì đau khổ vô cùng mà bác thì đang đi vào giai đoạn “Bệnh tật”, tức giai đoạn “Hư hoại”. Vạn vật là thế; tất cả đều bị luật “Vô Thường” chi phối. Chẳng hạn như cái áo bác đang mặc, khi mới mua về, trông thật đẹp đẽ, mềm mại, óng mướt, tươi thắm… Nhưng nay bác mặc đã lâu rồi; màu đã bạc, gấu đã sờn, vai đã rách và vải đã mục. Nó đang ở tiến trình “Hư Hoại”. Không có gì có thể còn mãi được, vì bản chất tự nhiên là như vậy, mà thân xác bác cũng đang như vậy. Ngay khi bác mới sanh ra thì bác trẻ trung, khỏe mạnh, xinh đẹp, rồi bác lớn lên trông rất đẹp trai, kháng kiện. Giờ đây bác đang già yếu và đang ở thời kỳ bệnh hoạn (Sanh, Trụ, Hoại, Diệt). Vậy bác phải chấp nhận điều đó, bác hãy thấu hiểu bản chất của nó, để bác phải chấp nhận nó mà sống An-Lạc với nó, dù nó ở bất cứ giai đoạn nào. Bây giờ thân thể của bác đang bắt đầu suy yếu, hư hoại theo tuổi đời chồng chất. Thì bác đừng cưỡng lại điều đó, vì đó là quy luật tự nhiên của thân xác. Chân lý không bao giờ thay đổi đó là: Sinh ra > Già cỗi > Bệnh hoạn > Rồi chết đi! Không cách chi làm khác đi được. Thời gian vận hành của định luật đã chín mùi rồi đấy bác ạ! Ông già đó nói tiếp: - Bẩm thầy, nhưng con chưa muốn chết vội, vì con và cháu của con chưa khôn lớn. Nhất là còn nhiều công việc con đang làm dở dang chưa hoàn tất, con cần giải quyết cho xong trước đã. - Ồ! Tất cả chỉ là vậy, bác chẳng làm gì khác hơn khiến bác phải lo lắng. Công việc của thế gian, bác hãy để mặc thế gian cho họ tự giải quyết lấy. Bác nên hiểu rằng: Giầu hay nghèo, già hay trẻ, đẹp hay xấu, người hay vật. Bất cứ ai, bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu cũng không thể giữ mãi tình trạng nguyên thủy như lúc ban đầu được. Mọi người, mọi vật đều phải thay đổi khác đi theo một định luật: Sinh, Trụ, Hoại, Diệt mà không cách chi sửa đổi được. Điều mà bác có thể làm được là bác tự quán chiếu, soi rọi về thân xác và tâm thức của bác, để bác thấy tính: “Vô ngã” của vạn vật. Để không thấy có cái gì là “Tôi” hoặc là “Của tôi”, mà tất cả chỉ là Giả có, Tạm có mà thôi. (Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng = Cái gì có hình có tướng, đều là giả có, chứ không thật có). Ngay như nhà cửa, sự nghiệp, danh vọng, vợ, chồng, con cái của bác cũng chỉ là: “Của bác trên danh nghĩa, chúng không thực sự thuộc về bác. Chúng thuộc về tự nhiên !!! Như lời bác vừa cầu mong, chẳng những không đạt được. Thân bác vẫn đau đớn như thường và cách suy nghĩ sai lầm của bác còn đau khổ hơn nhiều nữa. Vì cầu mong mà không được như ý là khổ (Cầu bất đắc khổ). Bởi vậy, bác phải nhìn mọi thứ đúng theo bản chất của nó và đừng níu kéo nó, đừng tiếc thương nó: “HÃY BUÔNG NÓ RA”. Bác hãy rũ sạch mọi thứ bên ngoài. “Bác hãy “Buông ra !”. Bác đừng bám víu cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, quyến thuộc, tài sản, công danh, sự nghiệp v…v… Vì những thứ đó bác không thể mang theo được, hoặc bác không “buông”, thì nó cũng phải “buông” bác mà thôi. Cho nên bác “Hãy Buông Ra!”, bởi vì mọi thứ đều là “Không” là “Huyễn” là “Vô Ngã”: “Không tôi và Không của tôi”. Tất cả rồi sẽ biến mất; chẳng còn gì. Bác phải nhận biết cho bằng được điều này, và sau khi biết rồi thì bác hãy “Buông tất cả”. Đừng bận tâm về con cái, bây giờ chúng còn trẻ. Rồi mai này chúng cũng sẽ già y như bác ngày hôm nay. Không một ai trên thế gian này có thể trốn thoát được định luật: “Sinh, Trụ, Hoại, Diệt”. Nếu bác “Buông ra” được mọi thứ thì bác mới thấy được “Chân Lý”. Vậy bác đừng buồn phiền, lo lắng và đừng ôm giữ bất cứ điều gì thì bác sẽ thấy tinh thần thanh thản trong mọi tình huống bác ạ! Ông già hỏi nữa: - Bạch thầy, nghe thầy dạy dễ quá, nhưng làm sao con “Buông ra” cho được? - Nếu bác “Buông ra” không được thì bác sẽ vô cùng đau khổ. Và không chịu “Buông ra” cũng chẳng được. Bởi vì mọi thứ nó không thuộc về của bác, kể cả chính xác thân của bác nữa. Lúc này bác hãy tập trung tâm tưởng, để cho nó được an nhiên tự tại, còn mọi việc đã có người khác lo. Bác hãy tự nhủ lòng rằng: “Chung sự” (Tôi hết việc rồi ) Tư tưởng ham sống lâu sẽ làm bác đau khổ. Cho dù bác mong muốn thiết tha tới đâu cũng chẳng được. Muôn sự đều vô thường và luôn luôn không cố định… “Sau khi sanh ra > Nó biến hoại > Sau khi sanh ra > Nó diệt đi !” Đức Phật cũng thế, bác và cả bàn dân thiên hạ cũng đều như thế. Vậy mà bác muốn xác thân bác còn tồn tại mãi sao được? Bác hãy nhìn vào hơi thở thì biết. Nó đi vô rồi lại đi ra, bản chất của nó là vậy. Bác chẳng thể ngăn cản sự đi ra và đi vô của nó được. Bác thử nghĩ coi: “Có thể nào bác thở ra mà không thở vào được chăng?” Tức là hơi thở nó đi vào, rồi nó lại đi ra. Khi nó ra rồi thì nó lại phải đi vào. Tự nhiên là như vậy, không cách chi làm khác được. Y chang sự quá trình bác Sanh Ra > Rồi Già Nua > Rồi Bệnh Tật > Rồi Chết Đi! Đó là điều hoàn toàn tự nhiên và bình thường … Nếu bác không sanh ra, thì bây giờ bác đâu có bị đau vì bệnh! Và lấy gì để mai mốt bác chết! Bác có hiểu điều đó không ??? - Bạch thầy, con ngộ được những gì thầy vừa dạy, nhưng con vẫn lo sợ quá chừng! Thầy cầm ly nước uống nhấp giọng, đoạn thày nói thêm: - Bác nên hiểu rằng: Vạn sự ở đời đều là như vậy, khi bác nhận thức được đúng đắn thì bác đừng do dự: “Hãy Buông Ra Tất Cả, Hãy Dẹp Bỏ Tất Cả”. Dù bác không buông nó ra thì mọi thứ nó cũng bắt đầu buông bác ra đó. Này nhé! Như những bộ phận trong cơ thể của bác nó cũng đang muốn rời xa bác đấy. Vì những bộ phận ấy nó đã sống đủ thời hạn với bác rồi, nên nó sắp ra đi đó. Bản chất của nó là: “Đã đến, thì phải ra đi”. Bởi thế gian là không có sự bình thường hay mãi mãi, dù bất cứ ở đâu, bất cứ thời nào, bất cứ thành phần giai cấp nào; người giầu có, kẻ nghèo khó, người lớn cũng như trẻ nhỏ, người có học cũng như người thất học v...v... Cũng không thể có sự bình thường được. Ai ai cũng phải xoay vần theo luật “Vô Thường” chi phối. Quán triệt được điều đó, bác sẽ chả còn quyến luyến bất cứ sự gì. Bác hãy "Buông ra" chứ không còn nắm giữ được nữa, vì có giữ cũng chẳng đặng. Bác buông ra, thì tâm bác sẽ thảnh thơi, An-Lạc; không buồn mà cũng chẳng vui, không khiếp sợ và cũng chẳng lo lắng. Lúc bấy giờ lòng bác sẽ an ổn với trí tuệ hiểu biết: “Vạn vật không bao giờ có thể thường còn mãi mãi được”. “ĐẶC TÍNH PHẢI ĐỔI THAY CỦA VẠN VẬT, KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI”. Nếu bác có nhiều thứ, bác sẽ phải bỏ lại nhiều thứ. Nếu bác có ít thứ, bác sẽ bỏ lại ít thứ; giầu có là giầu có, nổi danh là nổi danh, sống lâu là sống lâu… chẳng có gì khác biệt, mọi sự cũng thế thôi! Vậy bác hãy Buông nó ra, Buông cho đến khi nào tâm trí bác hoàn toàn An-Lạc! Mọi sự bác không còn cảm thấy khổ đau hay sung sướng. Mọi thứ bác không còn thấy là của bác nữa. Sung sướng và khổ đau cũng đều Hoại, Diệt và Mất tiêu như nhau… Duy chỉ có một thứ là còn và còn vĩnh viễn là của bác. Đó là “Phật tánh” là vĩnh cửu của bác mà thôi. - Bạch thầy, con đã ngộ !!! - Vậy sao! Bác giải thích xem nào? - Thưa thầy, chỉ có định luật: “Vô Thường” là bất biến, là vĩnh cửu, là thường còn. Ngoài ra, tất cả các Pháp; muôn vàn vạn sự ở đời này đều luôn luôn biến đổi không bao giờ ngừng. Chẳng hạn như: * THÂN VÔ THƯỜNG:Nay khỏe mạnh, mai ốm đau. Nay đang sống, mai đã chết… * TÂM VÔ THƯỜNG:Nay đang mến thương nhau, mai chuyển sang hận thù, ân oán nhau… * TÀI SẢN VÔ THƯỜNG: Của cải nay còn, mai hết. Tức là tiện nghi vật chất không thể tồn tại mãi được… Vật thể này biến đổi chất liệu thành ra vật thể khác. Sự vật không bao giờ cố định cả. Thầy cười hoan hỷ, đoạn thầy hỏi: - Đúng, bác hiểu khá đấy, như vậy bác sẽ làm gì khi bác hiểu như vậy? - Bạch thầy, con sẽ buông ra tất cả mà không bám víu vào bất cứ điều gì trên thế gian này. Để mọi sự chảy xuôi như dòng nước. Tính của nước luôn chảy xuống chỗ trũng (Thủy lưu tại hạ), dù chỗ đó là đất hay cát, hoặc ruộng vườn. Bản chất của nước là như vậy, con cũng phải giữ tâm như vậy. Tại sao? Bạch thầy, bởi vì nước luôn chảy một cách tự nhiên xuống chỗ thấp mà không có cách nào cho nó chảy ngược một cách tự nhiên lên trên cao được. Đó là định luật của càn khôn vũ trụ mà thầy vừa chỉ dậy cho con. - Vâng! Bác hiểu được như thế, tức là bác đã thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của bác rồi đấy. Bây giờ chỉ còn một điều là bác đưa vào thực hành những gì bác vừa chứng ngộ là đạt được “quả Phật” rồi đó. Ông già ngạc nhiên thưa: - Bạch thầy, con ngỡ là thành Phật khó lắm chứ! Đâu đơn giản như thầy vừa nói? - Phật đã có sẵn ngay trong bác rồi. Nguời đời thường mang ông Phật thật, đi tìm kiếm ông Phật ở ngoài, ở chốn xa xôi không sao thấy được, để cầu xin van vái … Trong lúc ông Phật ở ngay trong mình thì lại bỏ quên. - Bạch thầy, con vốn ngu tối xin thầy khai thị cho con được rõ ràng hơn, chứ thầy nói như thế làm sao con hiểu được. - Có khó gì đâu: “Phật Tức Tâm”. Mọi người trong chúng ta đã có sẵn một ông Phật ở trong ta rồi. Nhưng vì u mê tăm tối, nên tham lam: Sắc, Tài, Danh một cách vô độ mà không hiểu rằng những thứ đó do nhân duyên giả hợp mà tạm có. Hợp rồi tan, sanh rồi diệt! Ngay như xác thân bác cũng tạm có đó. Rồi trở thành không đó có bao lâu! Tựa hồ như bóng phù du, như ào ảnh, như khói sương … Nhưng vì si mê chạy theo níu kéo nó. Nên thành chúng sanh mà thôi. Bây giờ bác đã giác ngộ và bác buông ra những thứ mà trước đây bác bám víu vì ngỡ là thật… Vậy là bác đã thành Phật rồi. Bởi Phật và Chúng sanh vốn chỉ khác nhau có một bước: MÊ LÀ CHÚNG SANH, GIÁC NGỘ LÀ PHẬT Phật và chúng sanh, chỉ khác nhau có vậy. Thí dụ: Ông Bà thân sinh ra bác, cho bác ăn học tới nơi tới chốn; là con người trí thức đàng hoàng... Nhưng vì u mê! Bác ham chơi, đàn đúm với chúng bạn, sa đà say sưa trác táng, hưởng thụ thú vui vật chất, dẫn đến sa đọa hư hỏng. Khi ấy, bác là kẻ tồi tệ xấu xa… Nay gặp duyên may bác giác ngộ. Thấy được lẽ thật. Bác bỏ con đường hư thân mất nết, trở lại con người thật của mình… Với bằng cấp và kiến thức có sẵn của mình. Bác tận tụy làm ăn, liêm chánh, giữ uy tín đạo đức… Là bác trở thành người cao sang, quý phái… Như vậy, một con người của bác có hai giai đọan: (a) Giai đoạn 1: Bác là kẻ xấu xa, cho dù bác có bằng cấp là người học thức. (:D Giai đoạn 2: Bác là người cao quý. Do bác “Giác Ngộ” được chân lý đạo Pháp… Tức là trước thì bác là kẻ xấu xa do vì u mê! Sau bác thành người cao quý do bác giác ngộ. Nghĩa là xấu xa hay cao quý cũng chỉ khác nhau có u mê hay giác ngộ mà thôi. Và Phật hay chúng sanh cũng chỉ khác nhau có thế.
    1 like
  6. Cập nhật lúc 15:44, Thứ Tư, 25/08/2010 (GMT+7) Một hệ Mặt trời rộng lớn bao gồm 7 hành tinh quay quanh một ngôi sao giống như Mặt trời vừa được khám phá ở cách trái đất của chúng ta 127 năm ánh sáng. TIN LIÊN QUAN Sao Mộc từng nuốt chửng hành tinh gấp 10 lần Trái đất Phát hiện 140 hành tinh giống trái đất Hành tinh nóng nhất dải Ngân Hà sắp bị “nuốt sống” Đây là các hành tinh được cho là lớn nhất từng được phát hiện ngoài Mặt trời. Các nhà thiên văn cũng đã xác nhận sự hiện diện của 5 hành tinh và đưa ra những chứng cứ rõ ràng để khẳng định sự tồn tại của 2 hành tinh nữa. Tiến sỹ Christophe Lovis, người đứng đầu các nhà khoa học tại Đài thiên văn Nam Âu (ESO) cho rằng: “Phát hiện này đã nêu bật thực tế rằng loài người đang bước vào một kỷ nguyên mới trong việc nghiên cứu các hành tinh nằm ngoài hệ Mặt trời: chúng ta sẽ nghiên cứu một hệ thống các hành tinh phức tạp chứ không phải các ngôi sao riêng lẻ”. “Những nghiên cứu về chuyển động của các hành tinh trong hệ thống mới này cho thấy sự tương tác phức tạp giữa các hành tinh và cho chúng ta có cái nhìn sâu hơn vào sự phát triển lâu dài của cả vũ trụ”. Ngôi sao bố mẹ của hệ thống các hành tinh này, có tên gọi là HD 10180, nằm trong chòm sao Thủy Xà (Hydrus) cách chúng ta 127 năm ánh sáng. Khoảng cách của những hành tinh này đến ngôi sao bố mẹ của chúng được sắp xếp theo quy tắc tương tự như hệ Mặt trời. Các nhà thiên văn đã kiên nhẫn nghiên cứu các hành tinh này trong 6 năm bằng cách sử dụng một thiết bị được gọi là quang phổ ký (HARPS), thiết bị này được gắn vào kính thiên văn của ESO ở La Silla, Chile. Từ 190 phép đo thu được từ HARPS, các nhà thiên văn có thể phát hiện được các rung động nhỏ nhất từ chuyển động của các hành tinh do lực hấp dẫn của chúng gây ra. 5 tín hiệu mạnh nhất thu được đã giúp các nhà khoa học kết luận có 5 hành tinh với kích thước tương tự như sao Hải vương. Những hành tinh này, với chu kỳ quay quanh ngôi sao bố mẹ từ 6 đến 600 ngày, được tách từ ngôi sao bố mẹ và có khoảng cách từ 0,06 đến 1,4 lần khoảng cách từ Trái đất đến Mặt trời. Tiến sĩ Lovis nói thêm: “Chúng tôi cũng có những lý do để tin rằng 2 hành tinh khác cũng có mặt. Hành tinh thứ nhất tương tự như sao Thổ (với khối lượng tối thiểu gấp 65 lần khối lượng Trái đất), quỹ đạo quay là 2,200 ngày. Hành tinh thứ hai nhỏ hơn nhiều, nó chỉ có khối lượng gấp khoảng 1,4 lần so với Trái đất. Nó rất gần với ngôi sao chủ, khoảng cách chỉ khoảng 2% so với khoảng cách giữa Trái đất và Mặt trời. Một năm trên hành tinh này chỉ bằng 1,18 ngày trên Trái đất”. Hành tinh này có nhiều đất đá giống như Trái đất, nhưng có lẽ quá nóng để sự sống có thể tồn tại. Với ít nhất 5 hành tinh có kích thước tương đương sao Hải vương quay xung quanh, hệ thống HD 10180 có những vùng phía trong rộng lớn hơn nhiều hệ Mặt trời của chúng ta. Được biết cho đến nay các nhà thiên văn học đã tìm thấy 15 hệ thống có chứa ít nhất là 3 hành tinh. Trong đó hệ thống cuối được phát hiện có tên gọi là 55 Cancri, với 5 hành tinh bao gồm cả 2 ngôi sao khí khổng lồ. Thông tin chi tiết của phát hiện sẽ được trình bày vào ngày hôm nay (25/08) tại cuộc họp báo tại Đài quan sát Haute-Provence, đông nam nước Pháp. •Song Hà (Theo Telegraph) Nguồn: Vietnamnet.vn
    1 like
  7. Nhặt lá rụng trong tâm. Sư Đỉnh Châu và một vị sư ngồi đọc kinh ở sân chùa, đột nhiên một trận gió thổi đến, lá trên cây rụng xuống khá nhiều. Đỉnh Châu liền khom lưng nhặt từng chiếc lá bỏ vào trong đãy. Vị sư bên cạnh thấy vậy bèn nói: - Không cần nhặt đâu, dù sao sáng ngày mai chúng ta cũng phải quét mà! Đỉnh Châu không cho là như vậy nên nói: - Không thể nói như vậy, tôi nhặt thêm một lá, sân sẽ sạch thêm một chút. Vị sư lại nói: - Lá rụng nhiều như thế, nhặt phía trước nó lại rụng phía sau, làm sao mà nhặt hết được? Sư Đỉnh Châu vừa nhặt vừa nói: - Không sạch lá rụng ở trên mặt đất nhưng với lá rụng trong đất tâm thì cũng có lúc tôi nhặt sạch. Vị sư nghe rồi, hiểu ra việc nhặt lá rụng của Đỉnh Châu cốt là nhặt những phiền não vọng tưởng trong tâm. (Theo Hoa Linh Thoại) BÀI HỌC ĐẠO LÝ: Quét chùa, một hình ảnh và việc làm quen thuộc của các tiểu tăng, vì “con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Nhất là đối với những ngôi chùa thâm u, nhiều cổ thụ thì lá rụng vô số và quét lá vàng rơi là việc gần như liền tay của các chú tiểu và những vị Phật tử công quả, gieo phúc với chùa. Trước đây, mỗi lần đến chùa ngồi nhẩn nha niệm Phật thì các sư thường trao cho tôi một cây chổi tre, bảo quét chùa cho có phước. Lạ, quét chùa thì cũng như quét nhà thôi, có khác gì đâu, vậy thì tại sao quét chùa lại có phước? Cũng có thể làm việc cho chùa nên có phước, ngày ấy tôi cũng chỉ biết vậy thôi. Rồi duyên lành đến, một vị sư đã dạy tôi cách quét chùa. Sân chùa lá rụng hoài, dĩ nhiên phải quét mãi không thôi. Sân chùa phải sạch mới trang nghiêm chốn thiền môn, cũng như tâm của mình cần tĩnh lặng thì Phật trong tâm mới hiển bày. Do đó, quét lá vàng rơi trên đất cũng đồng thời quét luôn những phiền não rơi rụng trong tâm. Vì quét sạch bụi trần phiền não trong tâm nên mới tạo ra phước đức, sống hạnh phúc an lành. Và từ đó đến nay cũng đã nhiều năm, tôi vẫn hành trì pháp môn “quét chùa” trong im lặng, bền bỉ và liên tục. Tôi nhận ra rằng phiền não trong tâm nhiều hơn lá rụng sân chùa gấp nhiều lần. Dù nhiều não phiền nhưng do kiên trì quét dọn, không bao giờ ngừng nghỉ, không đợi đến ngày mai nên rắc rối thưa dần và bình an ngày càng thêm lớn. Mới hay, người biết tu và thực tu thì dù làm bất cứ việc gì cũng là phương tiện để dọn dẹp và trau dồi thân tâm nghiêm tịnh. Từ quét lá, làm vườn, trồng cây cho đến dịch kinh, viết sách, tụng niệm cũng chỉ để “an tâm”. Nếu không hướng đến mục tiêu làm trong sạch thân tâm thì mọi việc dù mệnh danh Phật sự cũng phù du và cạn cợt. Như sư Đỉnh Châu chỉ làm một công việc bình thường là nhặt lá vàng rơi ở sân chùa nhưng kết quả thì diệu dụng vô cùng. Vì đó là một quá trình hướng đến thanh lọc nội tâm thanh tịnh, không còn phiền não và chấp thủ. Tu tập là một người làm vườn, là thiên thần quét lá lúc nào cũng dọn dẹp vườn tâm trở nên đẹp đẽ và trang nghiêm. Bạch Vân
    1 like
  8. Mới 25 tuổi, còn trẻ mà đã có gia đình lại còn có con nữa thì chắc chắn là vất vả rồi. Cuối tháng đủ thứ tiền nào là tiền sữa, tiền tã rồi thì bỉm. Con có ốm thì phải mang đến bệnh viện. Tốn tiền nhiều. Ai mà có vợ, có con thì bác nào mà chẳng ở trong thời kỳ đen tối. Bằng tuổi ông em anh đang uống bia với cả đi hát cơ. Cố lên rồi khó khăn sẽ qua đi :D
    1 like
  9. Anh Giaback lúc nào cũng dỗ ngọt hết hỉ :D
    1 like
  10. Viết rõ thế rồi còn gì anh Lá số là chết,người là đông . Vây nên mới sinh ra cung Thân an ở 1 trong 6 cung Con người sinh ra trong trời đất,hấp thụ khí của trời đất mà hình thành nhục thể . Nên chịu sự chi phối của trời đất Non sông dời đổi ,các dòng khí cũng đổi dời Ngũ hành kim thủy thổ hỏa mộc Nắm bắt được ngũ hành Thái cực sinh lưỡng nghi,lưỡng nghi sinh tứ tượng ,tứ tượng sinh bát quái Chốt hạ là nhiều yếu tố chi phối một con người Tử vi chỉ những điểm mấu chốt,những mốc định mệnh Có thể tăng giảm nặng nhẹ điều chắc Còn có thể thay đổi vận mệnh ,là điều cần phải tìm hiểu :D Anh mà có thể nắm vững ngũ hành,chi phối thái cực ,hòa mình cùng trời đất Thì anh có thể thay đổi vận mẹnhMluccyynhcungngchngngcnnmnhnhnuLucclyyynhlntmiuuphmmthnhnhthnhnhthnhnhthnn iiMiiViithinycumchnntungngnyytuiiCnthmchungngkhcctuiinuthikbitt Mà lúc ấy anh cũng chẳng còn mệnh nữa :D Lúc đấy anh lên tầm siêu phàm ,thành thánh ,thành thần rồi . Vài thiển ý của em ,cho đến từng này tuổi Còn thêm chừng khác tuổi nữa,thi em ko biết http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/grin.gif
    1 like
  11. Làm việc gì cũng không bền, thay đổi đến chóng mặt. Người lúc nào cũng đau đầu về chuyện tiền bạc, tiền kiếm 1 cách chật vật. Thôi bằng lòng với những gì mình có, đừng mún lên cao sẽ té đau. Đang trong đại vận không tốt, nên làm việc gì cũng cẩn thận, suy tính trước sau. Nên muộn lập gia đình là người hơi nể vợ :D
    1 like
  12. NHẬN ÐỊNH VỀ SỰ XUNG KHẮC GIỮA TAM HỢP ÐẠI HẠN VÀ TAM HỢP TUỔI CỦA THIÊN LƯƠNG (YẾU TỐ THIÊN THỜI THEO CỤ THIÊN LƯƠNG) Theo Cụ Thiên Lương thì Tam Hợp Tuổi (THT) được xếp vào bốn hành như sau: Tuổi Thân Tí Thìn hành Thủy Tuổi Dần Ngọ Tuất hành Hỏa Tuổi Tỵ Dậu Sửu hành Kim Tuổi Hợi Mão Mùi hành Mộc Tam hợp Ðại Hạn (THDH) cũng được tứ hành hoá giống THT Cung Ðại Hạn Thân Tí Thìn hành Thủy Cung Ðại Hạn Dần Ngọ Tuất hành Hỏa Cung Ðại Hạn Tỵ Dậu Sửu hành Kim Cung Ðại Hạn Hợi Mão Mùi hành Mộc Cụ Thiên Lương cho rằng: THDH sinh nhập THT: tai hại (vì có Thiên Không). (Có lúc ông lại cho là &nbs p; &nbs p; &nbs p; Tốt) ?????????????? THDH hòa THT: tốt (vì có Tứ Linh) THT sinh xuất THDH: tai hại, bị người lợi dụng, bị thiệt thòi, phục vụ cho đời mà thù lao không xứng, không được thụ hưởng, làm co ????? cho người. THT khắc xuất THDH: phải gắng công tranh đấu gặp khó khăn nhưng nếu nổ lực có thể thắng được hoàn cảnh (Có lúc ông lại ghi khắc phục và bị sa lầy, mưu sự đầu thành sau trắc trở) THDH khắc nhập THT: xấu nhất, bị hoàn cảnh chế ngự, vận mạng tàn tạ khó ganh đua, nguy khốn, thân bại danh liệt. Cụ Thiên Lương còn nhấn mạnh rằng đắc Thiên Thời thì đời lên hương, mất Thiên Thời thì đời sẽ thấy khó khăn để rồi xuống dốc. Dương Nam, Âm Nữ Ðại Hạn an theo chiều thuận. Tuổi Thân Tí Thìn (THT hành Thủy), Mệnh an ở Thân Tí Thìn Ðại hạn thứ Nhất: THDH (Thân Tí Thìn) hòa THT Ðại hạn thứ Hai: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Ba: THT khắc xuất THDH (Dần Ngọ Tuất ) Ðại hạn thứ Tư: THT sinh xuất THDH (Hợi Mão Mùi) Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất (cứ cách 3 đại hạn thì lại trở về như cũ) Tuổi Thân Tí Thìn, Mệnh an ở Tỵ Dậu Sửu Ðại hạn thứ Nhất: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Hai: THT khắc xuất THDH (Dần Ngọ Tuất ) Ðại hạn thứ Ba: THT sinh xuất THDH (Hợi Mão Mùi) Ðại hạn thứ Tư: THDH (Thân Tí Thìn) hòa THT Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Thân Tí Thìn, Mệnh an ở Dần Ngọ Tuất Ðại hạn thứ Nhất: THT khắc xuất THDH (Dần Ngọ Tuất ) Ðại hạn thứ Hai: THT sinh xuất THDH (Hợi Mão Mùi) Ðại hạn thứ Ba: THDH (Thân Tí Thìn) hòa THT Ðại hạn thứ Tư: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Thân Tí Thìn, Mệnh an ở Hợi Mão Mùi Ðại hạn thứ Nhất: THT sinh xuất THDH (Hợi Mão Mùi) Ðại hạn thứ Hai: THDH (Thân Tí Thìn) hòa THT Ðại hạn thứ Ba: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Tư: THT khắc xuất THDH (Dần Ngọ Tuất ) Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Tỵ Dậu Sửu (THT hành Kim), Mệnh an ở Tỵ Dậu Sửu Ðại hạn thứ Nhất: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) hòa THT Ðại hạn thứ Hai: THDH (Dần Ngọ Tuất ) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Ba: THT khắc xuất THDH (Hợi Mão Mùi) Ðại hạn thứ Tư: THT sinh xuất THDH (Thân Tí Thìn) Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Tỵ Dậu Sửu (THT hành Kim), Mệnh an ở Dần Ngọ Tuất Ðại hạn thứ Nhất: THDH (Dần Ngọ Tuất ) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Hai: THT khắc xuất THDH (Hợi Mão Mùi) Ðại hạn thứ Ba: THT sinh xuất THDH (Thân Tí Thìn) Ðại hạn thứ Tư: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) hòa THT Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Tỵ Dậu Sửu (THT hành Kim), Mệnh an ở Hợi Mão Mùi Ðại hạn thứ Nhất: THT khắc xuất THDH (Hợi Mão Mùi) Ðại hạn thứ Hai: THT sinh xuất THDH (Thân Tí Thìn) Ðại hạn thứ Ba: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) hòa THT Ðại hạn thứ Tư: THDH (Dần Ngọ Tuất ) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Tỵ Dậu Sửu (THT hành Kim), Mệnh an ở Thân Tí Thìn Ðại hạn thứ Nhất: THT sinh xuất THDH (Thân Tí Thìn) Ðại hạn thứ Hai: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) hòa THT Ðại hạn thứ Ba: THDH (Dần Ngọ Tuất ) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Tư: THT khắc xuất THDH (Hợi Mão Mùi) Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Dần Ngọ Tuất (THT hành Hỏa), Mệnh an ở Dần Ngọ Tuất Ðại hạn thứ Nhất: THDH (Dần Ngọ Tuất ) hòa THT Ðại hạn thứ Hai: THDH (Hợi Mão Mùi) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Ba: THDH (Thân Tí Thìn) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Tư: THT khắc xuất THDH (Tỵ Dậu Sửu ) Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Dần Ngọ Tuất (THT hành Hỏa), Mệnh an ở Hợi Mão Mùi Ðại hạn thứ Nhất: THDH (Hợi Mão Mùi) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Hai: THDH (Thân Tí Thìn) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Ba: THT khắc xuất THDH (Tỵ Dậu Sửu ) Ðại hạn thứ Tư: THDH (Dần Ngọ Tuất ) hòa THT Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Dần Ngọ Tuất (THT hành Hỏa), Mệnh an ở Thân Tí Thìn Ðại hạn thứ Nhất: THDH (Thân Tí Thìn) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Hai: THT khắc xuất THDH (Tỵ Dậu Sửu ) Ðại hạn thứ Ba: THDH (Dần Ngọ Tuất ) hòa THT Ðại hạn thứ Tư: THDH (Hợi Mão Mùi) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Dần Ngọ Tuất (THT hành Hỏa), Mệnh an ở Tỵ Dậu Sửu Ðại hạn thứ Nhất: THT khắc xuất THDH (Tỵ Dậu Sửu ) Ðại hạn thứ Hai: THDH (Dần Ngọ Tuất ) hòa THT Ðại hạn thứ Ba: THDH (Hợi Mão Mùi) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Tư: THDH (Thân Tí Thìn) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Hợi Mão Mùi (THT hành Mộc), Mệnh an ở Hợi Mão Mùi Ðại hạn thứ Nhất: THDH (Hợi Mão Mùi) hòa THT Ðại hạn thứ Hai: THDH (Thân Tí Thìn) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Ba: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Tư: THT sinh xuất THDH (Dần Ngọ Tuất ) Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Hợi Mão Mùi (THT hành Mộc), Mệnh an ở Thân Tí Thìn Ðại hạn thứ Nhất: THDH (Thân Tí Thìn) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Hai: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Ba: THT sinh xuất THDH (Dần Ngọ Tuất ) Ðại hạn thứ Tư: THDH (Hợi Mão Mùi) hòa THT Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Hợi Mão Mùi (THT hành Mộc), Mệnh an ở Tỵ Dậu Sửu Ðại hạn thứ Nhất: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Hai: THT sinh xuất THDH (Dần Ngọ Tuất ) Ðại hạn thứ Ba: THDH (Hợi Mão Mùi) hòa THT Ðại hạn thứ Tư: THDH (Thân Tí Thìn) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất Tuổi Hợi Mão Mùi (THT hành Mộc), Mệnh an ở Dần Ngọ Tuất Ðại hạn thứ Nhất: THT sinh xuất THDH (Dần Ngọ Tuất ) Ðại hạn thứ Hai: THDH (Hợi Mão Mùi) hòa THT Ðại hạn thứ Ba: THDH (Thân Tí Thìn) sinh nhập THT Ðại hạn thứ Tư: THDH (Tỵ Dậu Sửu ) khắc nhập THT Ðại hạn thứ Năm: như Ðại hạn thứ Nhất NHẬN ÐỊNH DƯƠNG NAM, ÂM NỮ Tuổi Tuổi Thân Tí Thìn, Mệnh an ở Thân Tí Thìn (có bộ Tuế Phù Hổ) Hoa, sinh nhập, khắc xuất, sinh xuất Tuổi Thân Tí Thìn, Mệnh an ở Tỵ Dậu Sửu (có bộ Dương Tử Phúc) Sinh nhập, khắc xuất, sinh xuất, hoà Tuổi Thân Tí Thìn, Mệnh an ở Dần Ngọ Tuất (có bộ Tang Tuế Ðiếu) Khắc xuất, sinh xuất, hoà, sinh nhập Tuổi Thân Tí Thìn, Mệnh an ở Hợi Mão Mùi (có bộ Âm Long Trực) Sinh xuất, hoà, sinh nhập, khắc xuất Như vậy, cung Ðại Hạn luân chuyển theo một vòng tròn khép kín là Hoà (bình hoà), sinh nhập, khắc xuất, sinh xuất rồi trở lại Hoà. Dương Nam Âm Nữ thì đi theo chiều thuận như trên. ÂM NAM, DƯƠNG NỮ Ðại hạn theo chiều nghịch, do đó sẽ luân chuyển theo chiều ngược của vòng (là Hoà, sinh xuất, khắc xuất, sinh nhập) Tuổi Tỵ Dậu Sửu , Dương Nam Âm Nữ thi luan chuyen theo chieu thuan cua vong Hoa, khắc nhập, khắc xuất, sinh xuất. Am Nam, Duong nu thi theo chieu nghich cua vong (Hoa, sinh xuất, khắc xuất, khắc nhập) Tuổi Dần Ngọ Tuất , Dương Nam Âm Nữ thì luân chuyển theo chiều thuận của vòng Hoà, sinh nhập, khắc nhập, khắc xuất. Âm Nam, Dương nữ thì theo chiều nghịch của vòng (Hoà, sinh nhập, khắc nhập, khắc xuất) Tuổi Hợi Mão Mùi Dương Nam Âm Nữ thì luân chuyển theo chiều thuận của vòng Hoà, sinh nhập, khắc nhập, sinh xuất. Âm Nam, Dương nữ thì theo chiều nghịch của vòng (Hoà, sinh xuất, khắc nhập, sinh nhập) NHẬN ÐỊNH: trên vòng tròn luân chuyển ta nhận thấy: Tuổi Thân Tí Thìn chỉ có một vị trí xấu là khắc xuất Tuổi Tỵ Dậu Sửu thì có hai vị trí xấu đứng liền nhau là khắc nhập, khắc xuất Tuổi Dần Ngọ Tuất có hai vị trí xấu đứng liền nhau là khắc nhập, khắc xuất Tuổi Hợi Mão Mùi chỉ có một vị trí xấu là khắc nhập Nếu căn cứ vào các sao thuộc vòng Thái Tuế xuật hiện tại đại hạn thì ta có bảng tổng kết dưới đây: TUỔI & amp; amp;n bsp; CÁC BỘ SAO TẠI ĐẠI HẠN Thân Tí Thìn Hoa Sinh nhập khắc xuất sinh xuất Tỵ Dậu Sửu ; ; ; Hoa khắc nhập khắc xuất sinh xuất Dần Ngọ Tuất Hoa sinh nhập khắc xuất Hợi Mão Mùi Hoa sinh nhập khắc nhập sinh xuất Cũng cần nêu thêm hai yếu tố mà cụ Thiên Lương cho rằng là phụ khi giải đoán đại hạn, đó là yếu tố địa lợi và nhân hòa địa lợi (CỦA ĐẠI HẠN) là hành cung và hành mệnh có tương đắc hay không? Nếu tương đắc thì tính mệnh được phần nào vững chắc yên lành nhân hòa là lòng người. Lòng người thuận hay nghịch là tính theo tinh đẩu: tinh đẩu của hạn có cùng trong hệ phái của Mệnh là cùng một bộ trong thế lưỡng nghi và hết sức loại tránh Lục Sát tinh nhất là Không Kiếp. Nếu Mệnh ở thế Tử Phủ Sát Phá Tham hay Cơ Lương Cự Nhật, nếu gặp đồng bộ, nghĩa là cùng phe phái thì hòa thuận, bằng như đụng độ khác phái thì hẳn là có sự khó khăn, gia thêm Lục Sát tinh ngươi có số càng thêm chuyện, vất vả là may. Nói rõ hơn thì khi xét nhân hòa phải xem bộ chính tiinh tại đại hạn có cùng hay khác thế lưỡng nghi với bộ chính tinh của Mệnh. Cụ Thiên Lương chia 14 Chính tinh thành 2 thế lưỡng nghi Âm Dương: Dương ( Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham ), Âm ( Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật), và tiếp tục phân thành Tứ Tượng như sau: Tử Phủ Vũ Tướng (Thiếu Dương): 60% thực hành, 40% lý thuyết Sát Phá Liêm Tham (Thái Dương): 100% thực hành Cơ Nguyệt Đồng Lương (Thái Âm): 100% lý thuyết Cự Nhật (Thiếu Aam): 60% lý thuyết, 40% thực hành Nếu chính tinh đồng bộ cùng phe phái, cùng thế lưỡng nghi như Tử Phủ Vũ Tướng , Sát Phá LIêm Tham thì khi chuyển vận gặp nhâu vẫn ít thay đổi , dễ dàng hơn là gặp bộ khác thế lưỡng nghi là Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật (nếu thêm trung tinh đắc cách tam hợp thì càng được tốt đẹp. Nếu như khác phe phái, khác thế lưỡng nghi như Cơ Nguyệt Đồng Lương (CNDL) vận hành gặp Sát Phá Liêm Tham (SPLT) thì hẳn là có sự đụng chạm nặng nề, phần thiệt hại thuộc về phe yếu thế là CNDL (nếu gia thêm Sát tiinh nhập hạn thì sẽ gặp nhiều chuyện không may) Từ thế của bốn bộ chính tinh (Tứ tượng) trên muốn được thêm hoàn mỹ và thành công thì theo cụ cần phải có tối thiểu: Bộ; Tử Phủ Vũ Tướng cần nhất là Tả Hữu Thai Tọa Bộ Sát Phá Liêm Tham cần nhất là Lục Sát tinh và Thai Cáo Bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương cần nhất là Khôi Việt và Xương Khúc Bộ Cự Nhật cần nhất là Hồng Đào Quang Quý Riêng bộ Nhật Nguyệt nếu như lạc hãm ngoài bộ Đào Hồng Hỉ ít nhất phải đứng cặp với một trong 3 bộ hợp cách với nó là Xương KHúc, Long Phượng, Quang Quí Cụ Thiên Lương cho rằng địa lợi và nhân hòa là hai yếu tố phụ. Uư tiên là Thiên Thời , rồi đến Nhân Hòa , còn địa lợi là thứ yếu chỉ cần an thân. Được 3 yếu tố thì quá tốt. Thông thường chỉ cần được 1 thiên thời cũng đủ mãn nguyện. Đại hạn nào có đủ 2 yếu tố Thiên Thời và địa lợi thì sẽ khá, nếu có thêm Nhâm Hòa thì đại hạn rất rực rỡ. Trường hợp nếu thiên thời không có thì phải nhờ đến Nhân Hòa là lòng người. Thiên Lương cho rằng cũng có người gặp đại vận Thái Tuế, nghĩa là Mệnh không có ở Tam hợp Thái Tuế, khi đo thắng lợi chỉ là một giai đoạn rồi sụp đổ hoặc bị thị phi dèm pha để rồi ô danh sự nghiệp. Cũng có người gặp 2, 3 đại vận liên tiếp nhưng phải là Âm Nam Dương Nữ gặp Thiên Không trước rồi gặp Thái Tuế, nghĩa là muốn thành công phải gặp gian nan trước cho nếm mùi chua mặn chát của cuộc thế, hiểu cái thất bại để đem đến thành công Cần chú ý theo cụ Thiên Lương: Nếu Đại vận bị khắc nhập hay sinh xuất thì chỉ là miếng xương nuốt vào cũng khó mà nhả ra cũng vướng, thêm Quyền Lộc thì càng thêm lung tung khổ về Quan Lộc Người Thái Tuế, trường hợp gặp Bạch Hổ Đường Phù trong tam hợp , vào hạn Thái Tuế dễ trút hơi thở cuối cùng với uy danh được hậu thế ghi nhận Hạn gặp Thái Tuế là phải đắc ý, nhưng nếu gặp thêm Không Kiếp thì lên để mà xuống Hạn gặp Thiên Không là phá sản, nhưng Thiên Không gặp Khoa là xuống để mà lên
    1 like
  13. Thanh Tung cũng viết bài đàng hoàng đó chứ! Chỉ có điều là Thanh Tùng ít sinh hoạt nên không biết mấy Anh chị em ở diễn đàn thuộc dạng "Những người hay giỡn" mà thôi. Giỡn chơi cho giảm xì troét ấy mà. Mẹ 1975 hehe. Nhưng mà có đó nha. Sẵn đây tôi kể chuyện nghe chơi. Một lần đi Cao Bằng,trên một chuyến xe, tôi thấy 2 thanh niên là tài xế và lơ xe đang "tán tỉnh" một cô gái dân tộc Nùng. Tôi chợt miệng hỏi cô gái "Em có muốn cưới chồng miền xuôi không? Tôi giới thiệu bạn tôi cho, bạn tôi ở miền xuôi nhiều lắm!." Cô gái cười đáp ngay :" Em có chồng rồi ạ. Em có 3 con rồi". Tôi ngạc nhiên hỏi: " Thế em bao tuổi rồi?", " Em 16 tuổi hơn ạ"., cô gái (Như vậy thì người miền Nam gọi là "con gái mẹ". hehe :D ) đáp. Tôi và cả người bạn nước ngoài rất đổi ngạc nhiên. Cô gái lại đế thêm : "Ở quê em 13 tuổi là biết yêu rồi, có người yêu rồi, có vợ có chồng luôn". Nghe vậy tôi choáng!. Tôi nói lại với người bạn nước ngoài, người châu Âu, thì ông này buông một câu: " Ui Chúa ơi, Họ còn tiến bộ hơn bọn tôi." Mẹ hơn con 12, có thể mà. :D Về Phong thủy nhà Thanh Tùng thì cứ hướng Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây mà xoay một trong 4 hướng đó. Còn kích thước tốt phổ biến thường dùng là 0.6m, 0.8m, 1.0m, 1.25m, 1.45m, 2.0m, 2.25m, 2.45m, 3.1m là tốt. Lưu ý: đây là theo Phong Thủy Lạc Việt.
    1 like
  14. Thật tiếc cho bạn quá đi à :D :D http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/crying.gif Bạn đã từ chối một Cao Thủ xuất chiêu giúp bạn rồi... tiếc lắm thay!!! Âu cũng coi như số phận an bài như vậy. Thân mến
    1 like
  15. Hướng TB thì dễ đặt cửa. Tuy nhiên, khi nào bạn có sơ đồ của KTS thì lúc đó mới biết nên đặt cửa thế nào. Các vấn đề như có dãy núi hay quang cảnh xung quanh thì cần nhìn tận mắt chứ không thể đoán bừa được. Ít nhất cũng phải có ảnh vệ tinh hoặc ảnh chụp mới hình dung ra.
    1 like
  16. Được một vị Phó giáo sư Tiến sĩ xác định việc ứng dụng về Phooengshui là pha học cũng may lắm rồi. Ông ta có nói dở thì cũng phải vỗ tay chứ lị. :D .
    1 like
  17. 1 like
  18. Và 1 vài thông tin lịch sử: "Năm 1226 (tức niên hiệu Kiến Trung thứ hai đời Vua Thái Tông nhà Trần), để bảo toàn tính mạng và lo việc thờ cúng tổ tiên, Lý Long Tường đã mang đồ thờ cúng, vương miện, áo long bào và thanh Thượng phương bảo kiếm truyền từ đời Vua Lý Thái Tổ cùng sáu ngàn gia thuộc qua cửa Thần Phù, Thanh Hóa chạy ra biển Đông trên ba hạm đội. Sau một tháng lênh đênh trên biển, đoàn thuyền gặp bão lớn phải ghé vào Đài Loan. Khi Lý Long Tường quyết định lên đường thì con trai là Lý Long Hiền ốm nặng nên phải ở lại cùng 200 gia thuộc. Trên đường đi tiếp đoàn thuyền bị bão dạt vào Trấn Sơn, huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải, trên bờ biển phía tây Cao Ly (gần Pusan ngày nay). Tương truyền rằng trước đó Vua Cao Tông của Cao Ly nằm mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lên, vì vậy ông lệnh cho chính quyền địa phương tiếp đón ân cần, và đồng ý cho Lý Long Tường ở lại dung thân. Tại đây Lý Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi. Ông cho mở Độc thư đường dạy văn (thi phú, lễ nhạc, tế tự) và Giảng võ đường dạy võ (binh pháp, võ thuật). Học trò theo học rất đông, lúc nào cũng trên nghìn người." Mạn đàm: Suốt thời phong kiến của TQ, vùng Nội Mông, Liêu Ninh, Cát Lâm là những tộc người khác Hán, là kẻ thù của người Hán, vì vậy văn hóa Hán không phổ biến trong khu vực này. Và đây là vùng đệm ngăn cách giữa Trung Nguyên với xứ Cao Ly, cho nên khả năng lý thuyết Âm Dương Ngũ hành đã bị Hán hóa truyền vào Cao Ly là rất thấp. Và đồ hình âm dương tại Cao Ly có thể là được ngài Lý Long Tường mang đến khi tị nạn chính trị tại đây.
    1 like
  19. Cúng Rằm tháng Bảy - Tết Trung Nguyên - Lễ Vu Lan báo hiếu thường có 2 lễ. Gia đình em mọi năm vẫn làm như sau: Trước tiên, đó là ngày lễ Vu Lan, xuất phát từ tích kể đức Mục Kiền Liên xả thân cứu mẹ. Sắp 1 mâm cơm chay hoặc đơn giản hơn là mâm ngũ quả để cúng Phật rồi thụ lộc tại nhà. Khi cúng, tốt nhất là đọc 1 khoá kinh - Kinh Vu Lan để hiểu rõ về ngày này, hồi hướng công đức cho những người thân trong quá khứ được siêu sinh. Kinh Vu Lan khá dài (nhưng không quá dài, thuộc thể thơ nên đọc cũng nhanh thôi), có thể download trên mạng. Nếu ai không tìm được em sẽ copy lên từ đĩa của bác cư sỹ Binhanson giúp ạ. Ngày Rằm tháng Bảy còn là ngày, theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, các vong nhân được xá tội nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nhà cửa không nơi nương tựa. Một số người Việt Nam tin rằng Lễ Xá tội vong nhân bắt nguồn từ công việc đồng áng của người nông dân trước kia. Hằng năm, cứ đến tháng 6-7 âm lịch là vào vụ thu hoạch mùa màng. Để công việc được may mắn, không gặp trắc trở, người dân thường cầu xin thần linh, thổ địa... bắt giam những yêu ma, oan hồn lại cho khỏi quấy nhiễu. Đến đúng ngày 15/7, mọi việc phải được hoàn tất, đó cũng là lúc "ông thần tha ma, chủ nhà tha thợ cấy", "mở cửa ngục xá tội vong nhân". Và cũng vào ngày này, người ta thường làm một lễ cúng để tạ ơn các thần linh, tưởng nhớ ông bà tổ tiên và cầu nguyện cho các vong hồn siêu thoát. Vì vậy nên đa phần các gia đình cúng cơm mặn (thịt gà cá mú). Mâm cúng cô hồn thường có: quần áo chúng sinh gỡ ra từng món, rải xuống dưới mâm, một ít vàng tiền cũng làm như vậy, vài chén cháo trắng loãng, 1 đĩa muối, 1 đĩa gạo, 1 ít bỏng gạo và kẹo bánh các loại, ngô/khoai/sắn luộc rồi cắt thành khúc nhỏ. Em thường khấn đơn giản thôi, nhưng hình như các hàng bán vàng mã vẫn có những bài khấn trong các dịp như thế, các bác có thể hỏi xin hay mua. Bài tham khảo dưới đây từ tập san LẮNG NGHE của chùa Viên Giác, SG. Trong đó có nói về sự tích của lễ cúng cô hồn theo một tích khác. Mời các mẹ cùng đọc nhé! Sự Tích Rằm Tháng Bảy Và Xuất Xứ Của Hai Tiếng Vu Lan Rằm tháng 7 Âm lịch hàng năm là ngày xá tội vong nhân, dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Nhưng đây cũng còn là ngày báo hiếu mà giới tăng ni Phật tử gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này và lễ cúng cô hồn có phải là một hay không ? Và đâu là xuất xứ của hai tiếng " Vu Lan " ? Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của Ông Ma Ha Một Ðặc Già La, thường gọi là Ðại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã quy y và trở thành một đệ tử lớn của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Sau khi đã chứng quả A La Hán, Mục Liên ngậm ngùi nhớ đến mẫu thân, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống các cõi khổ mà tìm thì thấy mẹ đã đọa vào kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) nơi địa ngục A Tì. Thân hình tiều tụy, da bọc xương, bụng ỏng đầu to, cổ như cọng cỏ. Mẹ Mục Liên đói không được ăn, khát không được uống. Quá thương cảm xót xa, Mục Liên vận dụng phép thần thông, tức tốc đến chỗ mẹ. Tay bưng bát cơm dâng mẹ mà nước mắt lưng tròng. Mẹ Mục Liên vì đói khát lâu ngày nên giật vội bát cơm mà ăn. Tay trái bưng bát, tay phải bốc cơm nhưng chưa vào đến miệng thì cơm đã hóa thành lửa. Mục Liên đau đớn vô cùng, khóc than thảm thiết rồi trở về bạch chuyện với Ðức Phật để xin được chỉ dạy cách cứu mẹ. Phật cho Mục Liên biết vì nghiệp chướng của các kiếp trước mà mẹ ông mới phải sanh vào nơi ác đạo làm loài ngạ quỷ. Một mình Mục Liên thì vô phương cứu được mẹ dù ông có thần thông đến đâu và dù lòng hiếu thảo của ông có thấu đến đất trời, động đến thần thánh. Phải nhờ đến uy đức của chúng tăng khắp các nẻo đồng tâm hiệp ý cầu xin cứu rỗi cho mới được. Bởi vậy, Phật dạy Mục Liên phải thành kính đi rước chư tăng khắp mười phương về, đặc biệt là các vị đã chứng được bốn quả thánh hoặc đã đạt được sáu phép thần thông. Nhờ công đức cầu nguyện của các vị này, vong linh mẹ Mục Liên mới thoát khỏi khổ đạo. Phật lại dạy Mục Liên sắm đủ các món để dâng cúng các vị ấy, nào là thức thức thời trân, hương dâu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát. Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh. Ngày rằm tháng 7 do đó được gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không ? Không ! Ðây là hai lễ cúng khác nhau được cử hành trong cùng một ngày. Sự tích lễ cúng cô hồn đại khái như sau : Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói : " Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên ". A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là " thả quỷ miệng lửa ", về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành " tha tội cho tất cả những người chết ". Vì vậy, ngày nay mới có câu : " Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân ". Vậy lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là hai lễ cúng khác nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện ông Mục Liên, một đằng lại liên quan đến chuyện ông A Nan. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ và ông bà bảy đời, một đằng là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước. Sự khác nhau giữa hai bên là hiển nhiên, nhưng nhiều người vẫn cứ lẫn lộn. Chẳng hạn trước đây, ông Thái văn Kiểm cho rằng lễ Vu Lan và lễ (xá tội) vong nhân (fête des Trépassés) là một. Còn lễ cúng cô hồn (fête des âmes errantes) và lễ xá tội vong nhân (Pardon des Trépassés) chính là một thì ông lại xem là hai (X. Les fêtes traditionnelles Vietnamiennes, B.S.E.I., t. XXXVI, no1, 1961, pp. 64-65). Mới đây, hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi cho rằng lễ Vu Lan là để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết (Chúng tôi nhấn mạnh - HT) không còn phải đọa cảnh khổ nữa (Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 795, mục Vu Lan bồn). Nhưng đây không phải là " những người đã chết " nói chung vì như đã biết, đó chỉ là cha mẹ cùng với ông bà bảy đời mà thôi. Trở lên là nói về sự khác nhau giữa lễ cúng cô hồn với lễ báo hiếu, thường gọi là lễ Vu Lan. Vu Lan là dạng tắt của Vu Lan bồn. Nhưng Vu Lan bồn là gì ? Sau đây là lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi : " Bồn là cái chậu đựng thức ăn. Cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết không còn phải đọa cảnh khổ nữa. Vu Lan dịch âm từ chữ Sanscrit Ullabana, là cứu nạn treo ngược. Những người làm nhiều điều ác đức, sau khi chết, phải thác sinh xuống những cõi sống rất khổ gọi là địa ngục. Ở đây có một khổ hình là bị treo ngược (Sđd, tr. 795). Chúng tôi sẽ dựa vào lời giảng này mà tìm hiểu về xuất xứ của mấy tiếng " Vu Lan " và " Vu Lan bồn ". Lời giảng này có bốn điểm sai mà điểm sai thứ nhất thì chúng tôi vừa mới chỉ ra ở những dòng cuối của đoạn trên. Sau đây là điểm sai thứ hai : Nói bồn là cái chậu đựng thức ăn thì không đúng vì bồn chỉ là một yếu tố phiên âm (sẽ phân tích rõ ở phần sau) mà thôi. Nói rằng đó là " cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 " thì lại sai theo một kiểu khác nữa. Chậu là " đồ dùng thường làm bằng sành sứ hoặc kim loại, miệng rộng, lòng nông, dùng để đựng nước rửa ráy, tắm giặt hoặc để trồng cây v.v..." (Từ điển tiếng Việt 1992). Vậy đựng thức ăn trong loại đồ dùng đó mà dâng lên cho chư tăng thọ thực là một hành động hoàn toàn thất nghi và thất lễ. Thật ra, Phật đã dạy Mục Liên như sau : Phải toan sắm sửa chớ chầy Ðồ ăn trăm món trái cây năm màu Lại phải sắm giường nằm nệm lót Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu Món ăn tinh sạch báu mầu Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng (Diễn ca kinh Vu Lan bồn) Thau, bồn (chậu) chỉ là những thứ phải dâng cho chư tăng trong dịp Vu Lan để dùng trong việc rửa ráy, tắm giặt ... mà thôi. Còn thức ăn thì phải " tinh sạch báu mầu, đựng trong bình bát " đàng hoàng lịch sự, chứ có đâu lại đựng trong chậu. Thật ra, trước Thích Minh Châu và Minh Chi, cũng có những học giả đã giảng như trên, chẳng hạn Ðoàn Trung Còn trong bộ từ điển lớn về Phật học hoặc Toan Ánh trong bộ sách dày về nếp cũ. Ðây là một cách giảng lệ thuộc vào cái sai của sách vở Trung Hoa. Từ Nguyên chẳng hạn, đã giảng về mấy tiếng Vu Lan bồn như sau : " Nói lấy chậu đựng trăm thức để cúng dường chư Phật " (Vị dĩ bồn trữ bách vị cung dưỡng chư Phật). Ðiểm sai thứ ba là đã theo cái sai của những người đi trước mà giảng Vu Lan thành " cứu nạn treo ngược", vì thấy từ điển Trung Hoa giảng Vu Lan bồn là " cứu đảo huyền ". Thật ra, khi Từ Nguyên chẳng hạn, giảng Vu Lan bồn thành " cứu đảo huyền " là đã mượn hai tiếng "đảo huyền " trong sách Mạnh Tử. Trong sách này, có cú đoạn " Dân chi duyệt chi do Giải đảo huyền dã" nghĩa là "như giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng vậy ". Chính Từ Nguyên cũng đã giảng " đảo huyền " là sự khốn khổ tột cùng (khốn khổ chi thậm). Vậy " cứu đảo huyền " không phải là " cứu nạn treo ngược " mà lại là " giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng ". Hai tiếng " đảo huyền " ở đây không còn được hiểu theo nghĩa đen nữa. Nghĩa của chúng ở đây cũng giống như nghĩa của chúng trong thành ngữ " đảo huyền chi tế " là tình cảnh khốn khó, chứ không phải là " cảnh bị treo ngược ". Ðiểm sai thứ tư là ở chỗ nói rằng danh từ Sanscrit "Ullabana " có nghĩa là " cứu nạn treo ngược ". Trước nhất, cần nói rằng từ Sanscrit này đã bị viết sai. Vậy không biết ở đây hai tác giả muốn nói đến danh từ Sanscrit nào, nhưng cứ theo dạng sai chính tả đã thấy thì có thể luận ra rằng đó là một trong hai từ sau đây : Ullambana hoặc Ullambhana. Ở đây, xin phân tích từ thứ nhất: Ullambana gồm có ba hình vị : ud (trở thành ul do quy tắc biến âm samdhi khi d đứng trước l) là một tiền tố, thường gọi là tiền động từ (préverbe) chỉ sự vận động từ dưới lên, lamb là căn tố động từ có nghĩa là treo và ana là hậu tố chỉ hành động. Vậy Ullambana có nghĩa là sự treo lên. Nhưng tất cả chỉ có như thế mà thôi ! Từ Sanscrit này không hề diễn đạt cái ý treo ngược hoặc treo xuôi gì cả. Nó lại càng không thể có nghĩa là " cứu nạn treo ngược " được. Trở lên, chúng tôi đã nêu ra những điểm sai trong lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi về hai tiếng "Vu Lan ". Vậy đâu là xuất xứ và ý nghĩa đích thực của hai tiếng này ? Trước nhất, Vu Lan là dạng nói tắt của " Vu Lan bồn ". Ðây là ba tiếng đã được dùng để phiên âm danh từ Sanscrit Ullambhana. Từ này thoạt đầu đã được phiên âm bằng bốn tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt là Ôlambàna. Dạng phiên âm cổ xưa này đã được Từ Hải khẳng định. Về sau, Ôlambàna được thay thế bằng dạng phiên âm mới là " Vu Lan bồn", trong đó Vu thay thế cho Ô, lan cho lam và bồn cho bà + n (a). Vì " Vu Lan bồn " chỉ là ba tiếng dùng để phiên âm, cho nên từng tiếng một (Vu, Lan, bồn) hoàn toàn không có nghĩa gì trong Hán ngữ cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành " cái chậu đựng thức ăn " như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm là hoàn toàn không đúng. Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ Sanscrit này có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nói), căn tố động từ lambh và hậu tố ana. Xin nói rõ về từng hình vị : Không giống như trong Ullambana, ở đó nó chỉ sự vận động từ dưới lên. Trong Ullambhana, tiền tố ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập, thí dụ : chad (che, bọc, phủ), dv (đối với), uc-chad (cởi quần áo), khan (chôn), đv ut-khan (moi lên), gam (đi), đv ud-gam (đi ra), nah (trói, buộc), đv un-nah (cởi trói) v.v... Trong những thí dụ trên, ud trở thành uc, ut, un do quy tắc biến âm samdhi. Còn các căn tố động từ thì được ghi bằng chữ in hoa theo truyền thống khi chúng được tách riêng. Căn tố động từ lambh là hình thái luân phiên với labh, có nghĩa là lấy, chiếm lấy, nắm bắt ... Vậy Ul-lambh có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến ý nghĩa mà tiền tố và căn tố động từ diễn đạt. Vậy Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang Hán ngữ bằng ba tiếng dọc theo âm Hán Việt là " Vu Lan bồn ". Vu Lan bồn được nói tắt thành Vu Lan. Vậy Vu Lan là sự giải thoát. Xuất xứ của nó là danh từ Sanscrit Ullambhana. Ðây là từ thứ hai trong hai từ mà chúng tôi đã suy đoán ở trên. Trong cấu tạo của từ này, tuyệt nhiên cũng không có một thành tố nào mà về ngữ nghĩa lại có liên quan đến hiện tượng " treo ngược " cả. Trở lên, dù sao cũng chỉ là ý kiến thô thiển của một cá nhân. Ðúng hay sai, xin được sự thẩm xét của các nhà chuyên môn, trước nhất là các nhà Phật học và các nhà Phạn học
    1 like
  20. Vu lan - Rằm tháng bảy trong tinh thần dân tộc Dương Kinh Thành Trước khi đặt bút viết bài này, ngoài một số vốn liếng ít ỏi tri thức Phật học, người viết đã tham cứu nhiều tài liệu, kinh sách có liên quan đến ý nghĩa lễ Vu Lan - Rằm Tháng bảy. Tựu trung và cộng lại, chúng tôi thấy toát lên một điểm sáng lung linh trong khái niệm sống thực tại của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà với những tài liệu phong phú kia, đã nêu bật được chất keo gắn bó giữa ảnh hưởng Phật giáo với xã hội, con người qua nhiều thời đại. Vâng! Những điều đó các bậc thức giả, các bậc sư trưởng đều đã nói hết rồi, không còn khe trống để hàng hậu sinh chúng tôi góp phần tô điểm. Đã đẹp, đã trở thành điều hiển nhiên rồi; hiển nhiên tới mức đôi khi chúng ta quên rằng chính nó đã trở thành ca dao dân tộc: Tháng sáu buôn nhãn bán trâm Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân… Không phải là thứ ca dao biền ngẫu đệm vần cho qua câu để tạo mở, tôn tạo cho ý đồ chính. Không viết đủ hẳn trong chúng ta ai cũng biết đó là ca dao theo kiểu “liên khúc”nói về lịch sinh hoạt 12 tháng trong một năm, mà nền văn minh nông nghiệp của xã hội Việt Nam ta xưa nay không thể chối cãi được. Đã vậy, ”Tháng Bảy Ngày Rằm…” , câu nổi bậc nhất không chỉ vì nó đã nói lên được ý nghĩa về một ngày lễ của Phật giáo, mà còn đưa ra tính nghiêm túc, thể hiện cách sống cộng đồng, ngoài sinh hoạt, vui chơi, ăn uống, mùa màng và thời vụ so với 11 tháng còn lại kia. Nó đã trở thành lịch sinh hoạt hằng năm của dân tộc, kể từ khi dấu chân tích trượng của các Thiền sư đã đến và lưu dấu trên xứ sở Giao Châu này hơn 20 thế kỷ trước. Điều đó cho chúng ta thấy được rằng Phật giáo đã và luôn biết thích ứng để “nhập sông tùy khúc, nhập gia tùy tục” rất tuyệt vời khế lý khế cơ, không gây ra sự dị ứng, đối kháng. Bởi vì, không phải dễ dàng “được” có mặt trong ca dao, tục ngữ, trong tâm khảm đời sống dân tộc, mà bất kỳ sự gượng ép, hoặc cố tình dùng thủ doạn để đạt được sẽ trở thành nạn nhân bị nghiền nát bởi bánh xe lịch sử khắc nghiệt. Đặc biệt hơn, sự có mặt của Phật giáo trong ca dao 12 tháng kia, và ngay trong nếp sống cộng đồng dân tộc, còn mang một ý nghĩa to lớn khác, thể hiện được tính chân lý thực tiễn, vượt lên trên sự tôn kính thời nguyên sơ, khi con người tự cho mình còn nhỏ bé trước thiên nhiên. Đó là thời kỳ dựng nước họ Hồng Bàng mà sách Lĩnh Nam Chích Quái đã kể lại; cái thời mà chính Lạc Long Quân phải dùng đến vạn phép thần thông biến hóa mới đuổi được kẻ xâm lăng phía Bắc dđầu tiên là Đế-Lai ra khỏi bờ cõi. Và cái thời mà mọi thứ yêu tinh thường xuất hiện quấy nhiễu dân lành, để đến nỗi phải tôn lên hàng thần thánh, kể cả tiếng sấm sét. Những Thần sông, thần nước, núi, gió, lửa .v…v.. đã có mặt chễm chệ trước sự quy phục con ngưới thờ lạy. Muốn sống còn, để dựng nước, cứu nước và làm ăn sinh sống, con người lúc ấy khi lên rừng xuống biển, tất phải xâm mình hình ảnh thủy quái,sơn tinh.v…v… Như vậy, lịch sử PGVN có mặt và phát triển chỉ bằng phân nữa lịch sử dựng nước của con cháu Lạc Long Quân mà ngẫu nhiên đánh bại được sơn tinh thủy quái trong truyền thuyết, đời sống lẫn trong tâm khảm con người, thay vào đó tôn tạo được ý sống, cách sống mới, phù hợp với lòng người, với sự khổ đau và với hiện trạng cuộc sống đương thời. Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời, xứng đáng với phạm trù ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC; đó là sự thật được lịch sử chứng minh CÁI PHẬT GIÁO CÓ trong lòng dân tộc mình. Lễ Vu Lan-Rằm Tháng Bảy được xác lập từ trong ý nghĩa đó. Tình cảm và đạo lý dân tộc ta vẫn luôn rộng mở; với thù, với bạn cũng chung cùng “Dòng nước mắt cùng mặn - Dòng máu đỏ” như nhau. Những “Thương người như thể thương thân”, “Mình với ta tuy hai mà một”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng…” v..v…há chẵng phải đạo lý Phật giáo đó sao! Tương tự, khi đứng trước một hoàn cảnh bi thương nào đó, từ trong cửa miệng của dân ta há đã chẵng thốt lên câu đầu tiên “Tội Nghiệp”, bao hàm ý nghĩa to lớn, biểu lộ lòng lân mẫn, tương thân tương ái đó sao? Nói cách khác, Phật giáo đã đáp ứng được một phần rất lớn tình cảm và niềm tin trong cộng đồng dân tộc, trở nên nguồn hòa nhập mật thiết trong mọi lĩnh vực. Cho dù là không Phật giáo, đến rằm tháng bảy, ai ai cũng đều tỏ ra tha thiết với sụ hiếu để, cũng như tỏ lòng ai hoài mong xá tội vong nhân đối với thế giới xa xăm nào đó, tùy theo trình độ nhận thức cảnh giới địa ngục. Nếu hiểu theo quan niệm vượt hóa,chúng ta sẽ dễ dàng đồng cãm những dòng sau đây của cố HT Thích trí Thủ (đăng trong Nội San Bát Nhã số 5 của Tổng vụ Tài Chánh trước năm 1975): “Những cơn mưa dầm tháng bảy, trời âm u, bão và lụt đã bắt đầu, ngày dài của mùa hè rút ngắn lại, trời đất đang xoay tới khoảng thăng bằng, làm nhịp cầu giao cảm thiên thu giữa cõi sống và cõi chết. Người chết đã buông tay rũ sạch những tham vọng của một đời, cho lá vàng rụng xuống. Người sống vẫn tiếp tục lượm nhặt lá vàng, xây những tham vọng cuồng dại mới. Kiếp luân hồi kéo dài bất tận, người sống và kẻ chết nối nhau thành một ”đoàn vô tư lạc loài nheo nhóc”, cùng lang thang vô định trên “con đường bạch dương bóng chiều man mác”. “Rằm tháng bảy, một ngày hội âm thầm của những oan hồn mà sống đã không nói được khát vọng của mình, và chết cũng không có lời để ta thán. Nếu dương gian còn phảng phất một chút tình người,còn tưởng nhớ đến ân tình một thuở, thì một hạt muối và một bát nước trong cũng đủ rửa sạch cái oan khí tương truyền ngàn năm treo ngược. “Vu Lan Thắng Hội, ngày hội cứu đảo huyền ,ngày giải tỏa oan khiên treo ngược tội nhân trên rừng đao, biển lửa. Trong ngày đó, mười phương chư Phật đều nở nụ cười hoan hỷ, vì là ngày tha thứ giữa những người còn sống, biết cởi bỏ hận thù ràng buộc để sống, còn có ngày hội nào vui hơn, trước cái hứa hẹn một thế giới thanh bình có thể có? Oan khiên trở thành ân nghĩa. Ân của trời đất, ân của cỏ cây, ân của đồng loại; ân nghĩa ấy đã thắt chặt tình người qua bao nhiêu kiếp, sao nhất thời lại có thể hờ hững trôi qua? “Trong khoảng trời đất mịt mù, giữa những đên dài lạnh lẽo, người chết còn biết trở lại dương gian xin một bát nước để rửa sạch oan khiên treo ngược, há người còn sống lại không biết âm thầm nở nụ cười hoan hỷ và tha thứ?”. Đọc nhựng dòng trên bằng cả một tấm lòng vị tha rộng mở, chúng ta đã thấy ra được phần nào ý nghĩa to lớn của ngày lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy. Như vậy, địa ngục thường mang ý nghĩa của một vai trò chủ đạo khi nhắc đến Vu Lan - Rằm Tháng Bảy, từ đó chúng ta khởi niệm và đồng cảm với tha nhân một cách dễ dàng, bởi địa ngục có là do sự cảm vời mà ra, như kinh Địa Tạng thường được Đức Phật lập lại nhiều lần. Hay nói như một danh nhân thế giới “Địa ngục là do chân lý được nhìn ra quá trễ”. Do đó,Tagore-một nhà thơ lừng lẫy của Ấn Độ từng biểu cảm bằng ngôn ngữ triết lý qua câu thơ “Trong cái chết thì nhiều biến thành một,trong sự sống thì một biến thành nhiều“. Thương yêu vượt qua biên giới của sự sống chết, mà địa ngục chỉ là phạm trù gạch nối, không phải là dấu chấm hết khẳng định. Cúng rằm tháng bảy có nghĩa là chia sớt sự sống cho cảnh giới khác mà nhân gian thường gọi là “Cô Hồn Uổng Tử” còn vất vưởng chờ định và thọ nghiệp. Từ đó con người khi quay lại cuộc sống thực tại đời thường, chắc rằng không ai là không lân cảm với đồng loại. Ý nghĩa đó là một chân lý tuyệt hảo của nhân loại đã sống và đã thực hành, dù không cùng chính kiến, giai cấp xã hội hay bất kỳ chủ thuyết tôn giáo nào. ”Một ngày mà chúng ta không thắp lên ngọn lửa thương yêu,vì thế có biết bao nhiêu người chết vì giá lạnh“. Francois Mauriac cũng đã phải thốt lên như vậy . Dân tộc chúng ta vốn có truyền thống đạo đức cao thượng, hiếu nghĩa vẹn tròn, khi tiếp nhận tư tưởng Phật giáo nói chung và Lễ Vu Lan nói riêng, đó là sự dung nạp lý tưởng đạo đức thuần nhất để hun đúc nên nếp sống chung cộng đồng. Tuy nhiên sự hòa nhập đó trong qua trình phát triển vẫn không tránh khỏi sự đố kỵ, đôi lúc dẫn đến nguy vong bởi các khuynh hướng Nho - Khổng. Mặc dù hệ tưởng này không mấy khác biệt với Phật giáo, phần lớn chung một nền tảng đạo lý phương Đông, nhưng ở tư tưởng Phật giáo thì cởi mở, phóng khoáng hơn, nên những đối kháng kia chỉ là trở ngại nhất thời trong một giai đoạn lịch sử. Dù vậy khi có ưu thế là quốc giáo - nói đúng hơn khi Phật giáo ở những thời kỳ cực thịnh bởi các hàng từ vua quan đến thứ dân đều tín hướng Phật đà, Phật giáo vẫn không ỷ thế cậy quyền đè bẹp các tư tưởng tôn giáo khác, ngược lại còn chủ trương “Tam Giáo Đồng nguyên”. Những tư tưởng bài xích Phật giáo còn lưu lại điển hình như Trương Hán Siêu ghi trong Linh Tế Tháp Ký, Quang Nghiêm Tự Bi Văn; Hàn Dũ (Trung Hoa,768-823) với bài biểu Can Vua Đón Xương(Xá lợi)Phật; Lê Quát Mai Phong với bài Văn Bia chùa Thiệu Phúc, Thôn Bái, tỉnh Bắc Giang .v..v…đã không đủ sức đánh bạt làn gió đạo đức Phật giáo đang thổi mạnh khắp nơi, từ kinh thành đến những làng quê hẻo lánh. Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi các bài trong Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi - bậc đại công thần nhà Lê ra đời với nội dung “Thương Người Như Thể Thương Thân phủ trùm tinh thần vị tha của Phật giáo. Chưa hết, trong kho tàng truyện cổ tích VN, không hiếm chuyện khắc họa hình tượng Ông Bụt (một dạng phương ngữ hóa từ chữ Phật) làm chủ thể ban thưởng cái thiện, Nhất là chuyện “Cây Nêu Ngày Tết”, chiếc y vàng của Phật với cái bóng ngả dài là dải đất yên bình cho người dân sinh sống. Đó là những tiềm ấn sâu xa minh chứng cho sức sống trường tồn của Phật giáo. Cụ Tố Như Nguyễn Du, trong tuyệt tác truyện Kiều đều lấy triết lý Phật giáo làm nền tảng. Ngay đoạn mở đầu cũng phải dùng đến tư tưởng tài mệnh tương đố và kết thúc bằng sự khẳng định nhân - quả hẳn hoi. Vì vậy nào phải ngẫu nhiên khi Cụ viết rằng: Đã mang lấy nghiệp vào thân Cũng đừng trách lẫn trời gần hay xa Thiện căn ở tại lòng ta Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài (Truyện Kiều,câu 3249-3253) Bên cạnh đó còn phải kể đến bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Đọc bài này, người ta càng ngạc nhiên hơn nếu cho rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều vì ảnh hưởng Phật giáo thì hoàn toàn lầm lẫn. Bởi vì ngôn ngữ, ngụ ý của bài Văn Tế Thập Loại chúng Sinh vô cùng chính xác, tứ cách diễn đạt các thế giới cho đến các từ Phật học, mà nếu không tường tận gốc tích tác giả,người ta dễ ngộ nhận cho đó là của một vị cao tăng nào đó viết. Thí Dụ : Trời tháng bảy mưa dầm sùi sụt Toát hơi mây lạnh ngắt xương khô Nào người thay buổi chiều thu Ngàn lau nhuốm bạc,lá ngô rụng vàng Đường bạch dương bóng chiều man mác Dọc đường đê lác đác sương sa Lòng não lòng chẵng thiết tha Cõi dương còn thế nữa là cõi âm Trong trường dạ tối tăm trời đất Có khí thiêng phảng phất u minh Thương thay thập loại chúng sinh Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người… …Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo Của có chi bát cháo nén nhang Gọi là manh áo thoi vàng Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên Ai đến đây dưới trên ngồi lại Của làm duyên chớ nại bao nhiêu Phép thiêng biến ít thành nhiều Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh Phật hữu tình từ bi tế độ Chớ ngại rằng có của cùng không Nam Mô Phật,Nam Mô Pháp,Nam Mô Tăng Nam Mô nhất thiết siêu thăng thựơng đài. Trên là một vài dẫn dụ cho sức sống PGVN trong lòng dân tộc, đã tạo nên nét đẹp truyền thống văn hóa từ bao nhiêu thế kỷ nay. Vì thế Lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy không còn là của riêng Phật giáo,mà đã trở thành “Lịch Sinh Hoạt” hằng năm của người VN. Theo đánh giá của Giáo sư Hoàng Như Mai thì “Ngày Lễ Vu Lan, Ngày rằm Tháng Bảy, Ngày Xá tội Vong Nhân có thể được coi là NGÀY TÌNH THƯƠNG VIỆT NAM vì con người.vì cuộc sống hiền hòa,an lạc,tiến bộ của con người“ (nguồn: Lễ Vu Lan và Tình Thương của nhân dân ta, Hoàng Như Mai - Tập Văn Vu Lan 2531-1987). Hơn thế nữa,một sự khẳng định tất yếu của lịch sử,ngày 26/01/1995, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao nước CHXHCNVN dõng dạc tuyên bố “…Phật tử Việt Nam là những người yêu nước, luôn luôn gắn bó với dân tộc qua mọi bước thăng trầm của lịch sử, luôn đứng về phía tổ quốc đấu tranh chống ngoại xâm. ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI NGƯỜI VN KHÔNG CHỈ LÀ MỘT TÔN GIÁO MÀ CÒN LÀ MỘT BỘ PHẬN CỦA NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC TRUYỀN THỐNG.” (Nguồn : Báo SGGP-TTXVN ngày 26/01/1995). Với niềm tin son sắt đó, với lòng tín hướng Phật Đà, một lần nữa chúng ta đón mừng ngày Lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy trên đất nước VN thân yêu với đủ đầy niềm tự hào song hành cùng dân tộc
    1 like
  21. Hi! Sư Thiến tui vốn cũng hay đùa giỡn. Thí dụ như mục "Thiên Sứ cười". "Tai nạn Thiên Sứ vào thứ Sáu ngày 13" Thực ra đây là một dự báo thời tiết của Lạc Việt độn toán. Trong 10 ngày Lễ hội kỷ niệm 1000 năm Thăng Long thời tiết nắng đẹp, tiết trời hơi se lạnh. Có thể có mưa nhỏ vào ban đêm. Tình trạng trên kéo dài ít nhất bảy ngày trước và trong ngày lễ hội chính. Tôi chính thức dự báo như vậy và việc cá độ 7,150. 000. 000 đ chỉ là nói đùa. Thành thật xin lỗi.
    1 like
  22. Đàn bà chiêm bao thấy mình sinh là điềm phát đạt. Thấy sinh con trai là chồng sắp được thăng tiến. Thấy sinh con gái là điềm sắp có thông gia tốt đẹp ---------- Trích BÍ ẨN CỦA NHỮNG GIẤC MƠ Tác giả: MICHAEL HALBERT ---------- vui sống vui sống! :D
    1 like
  23. Mẹo dùng nước gừng nóng chữa bệnh, làm đẹp 23/08/2010 09:27 (GMT +7)Nghiên cứu mới đây nhất cho thấy, dùng gừng tươi để chế biến thành nước gừng nóng sau đó dùng để uống cũng là một bài thuốc hay có thể vừa có tác dụng phòng ngừa vừa chữa nhiều chứng bệnh thường gặp.1. Lở loét khoang miệng Dùng nước gừng tươi thay trà để uống và súc miệng thường xuyên, khoảng 2-3 lần mỗi ngày, hiệu quả sẽ khiến bạn thấy bất ngờ, khoảng 60-90% vết lở loét đều biến mất. 2. Viêm nha chu Thường xuyên dùng nước trà tươi nóng để súc miệng hoặc uống đều có hiệu quả chữa trị bệnh viêm nha chu. Nên uống hoặc súc miệng mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng và tối. Dùng gừng tươi để chế biến thành nước gừng nóng sau đó dùng để uống cũng là một bài thuốc hay Nếu cổ họng bị dát, ngứa hoặc đau có thể cho thêm chút muối ăn vào hòa tan và uống nóng, mỗi ngày uống khoảng 2-3 lần.3. Phòng ngừa và trị sâu răng Mỗi buối sáng và tối kiên trì súc miệng bằng nước gừng nóng hoặc uống nước gừng nóng nhiều lần trong ngày có tác dụng bảo vệ răng, phòng ngừa và trị chứng sâu răng hiệu quả. 4. Đau một bên đầu Khi thấy đau một bên hoặc đau nửa đầu, dùng nước gừng nóng xoa đều ra hai tay sau đó bóp đều quanh vùng đầu bị đau khoảng 15 phút, cảm giác đau đớn sẽ nhanh chóng giảm dần, thậm chí có thể tiêu biến hoàn toàn. 5. Say rượu bia Dùng nước gừng nóng để uống không những thúc đẩy quá trình lưu thông máu mà còn giúp tiêu tan lượng cồn trong máu, nhanh chóng đánh bật cơn say sỉn và tình trạng đau đầu lúc tỉnh dậy sau khi uống say. Có thể cho thêm chút mật ong vào nước gừng nóng và uống làm nhiều lần càng tăng thêm hiệu quả giã rượu. 6. Sắc mặt nhợt nhạt Rửa mặt thường xuyên bằng nước gừng nóng vào mỗi buổi sáng và tối có tác dụng làm cho da mặt hồng hào, sắc mặt nhợt nhạt do thiếu chất, thiếu ngủ hay lao lực sẽ nhanh chóng tan biến. Nên duy trì thói quen rửa mặt như vậy trong vòng 60 ngày liên tiếp. Theo đó, rửa mặt bằng nước gừng nóng cũng phát huy tác dụng nhất định đối với những vết thâm nám và làn da khô ráp. 7. Trị gàu Có thể dùng nước gừng nóng thay thế dầu gội đầu để trị gàu. Trước tiên nên thái gừng tươi thành những miếng nhỏ hoặc giã nát, sau đó đắp đều lên da đầu khoảng 10-15 phút, cuối cùng dùng nước gừng nóng gội lại thật sạch. 8. Đau lưng và đau vai Khi bị đau lưng và đau vai, nên dùng nước gừng nóng cho thêm chút muối và giấm ăn. Dùng khăn thấm đều hỗn hợp gừng tươi, mật ong và giấm lên chỗ bị đau làm nhiều lần. Cách làm này giúp cơ bắp được thoải mái, lưu thông máu giảm đau hiệu quả. . 9. Trị giun kim Trước khi đi ngủ, nên vệ sinh hậu môn bằng nước gừng tươi nóng, đồng thời uống khoảng 1-2 cốc nước gừng nóng, kiên trì trong khoảng 10 ngày có tác dụng diệt giun kim hiệu quả. 10. Hôi chân Cho thêm chút muối và giấm ăn vào nước gừng nóng, sau đó ngâm chân khoảng 15 phút, lau khô, để chân thoáng mát, mùi hôi sẽ tự khắc biến mất. 11. Cao huyết áp Khi huyết áp tăng cao đột ngột, có thể dùng nước gừng tươi nóng ngâm chân khoảng 15-20 phút. Nước gừng nóng mặc dù tiếp xúc bên ngoài chân nhưng thông qua các huyệt đạo ở lòng bàn chân sẽ khiến huyết quản giãn nở, theo đó, huyết áp từ từ hạ xuống. Theo Phạm Hằng Dân Trí
    1 like
  24. Số phận là mặc định ,giờ ngày tháng sanh ra không thể thay đổi , dòng đời như dòng sông đang chảy ,phải dựa theo dòng nước mà tiến thủ không thể cưỡng lại mệnh số của mình ,có thể dùng óc thông mính trí óc xét đoán để thuận theo thời thế mà sống , có thể gia hay giảm nhưng không thể nào trốn chạy được số phận của mình ,hãy can đảm mà chấp nhận như người thiếu nợ đến lúc hạn kỳ phải trả ,không thể dùng bùa phép hay ếm đối mà hóa giải được ,nếu được thế gian nầy không ai dại mà ôm chịu cái khổ cả ... cháu cũng chua có hỏi nào xác đáng về cuộc đời của mình ?
    1 like
  25. Rất cụ thể mà: Trời nắng đẹp để quay phim chụp ảnh. Tiết trời se lạnh để có thể mặc ves và thắt cà là vạt. Bắt đầu từ 0h ngày..... đến hết 24h ngày (7 ngày - viết bằng chữ: Bảy ngày :D ). Đúng thế mới lấy tiền.7.150. 000. 000 VND (Bẩy tỷ, một trăm, năm mươi triệu đồng chẵn). Không bớt một xu. Tất cả mọi chi phí liên quan đến số tiền này do bên A chịu, kể cả 11. 000 tiền lẻ chuyển khoản ở ngân hàng và các loại chi phí khác. Tóm lại, tiền vào túi Thiên Sứ đúng như trên. Nhân danh cá nhân - Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương hết hạn giấy phép hoạt động trước lễ 15 ngày. Có thể khuyến mãi thêm vài trận mưa vào ban đêm cho đường phố sạch sẽ. Kinh tế thị trường bi wở cũng phải có khuyến mãi mới phù hợp. Hi. :D :) :)
    1 like
  26. Rubi có thể đem đề tài nghiên cứu của mình sang một topic khác. Ở đây chủ đề là "Kinh Dịch của Trung Quốc?" Chúng ta nên tập trung vào chủ đề này. Rubi có hẳn một topic riêng của mình trong diễn đàn mà. Tôi xóa những bài không liên quan đến chủ đề.
    1 like
  27. Mến tặng huynh Thiên Sứ, Đây là 5 ngôi sao trong chùm sao Kim Ngưu, phía Tây Bạch Hổ, và cũng là những hình trong hang động tại tỉnh Hà Nam huyện An Dương, nơi của vị vua An Dương Vương thời Lạc Việt, phía nam sông Hoàng Hà
    1 like
  28. Chào anh, Vuivui Đây: http://www.vietlyso.com/forums/showthread....3334#post123334 Sapa
    1 like
  29. 1 like
  30. Chào các bạn, Mỗi lần nhìn cái hình Avatar của chú Thiên Sứ, là cứ lại thắc mắc mà tự hỏi thầm: cái hình lưỡng nghi 2 con nòng nọc nó nghộ quá, nguyên lý ở đâu? Sao nó khác với hình lưỡng nghi hai con cá quá nhỉ? :D :rolleyes: :rolleyes: Hôm nay đang ngồi họa cái hình lưỡng nghi để chứng minh là Tiên Thiên Bát Quái từ cái hình lưỡng nghi mà ra. Phía trong vẽ một vòng tròn, sau đó vẽ thêm ba vòng nữa để phân chia phần âm dương làm ba hào, đang vẽ hai con cá thì đụng vào cái vòng tròn ở phía trong, cho nên không ra hình 2 con cá mà ra cái hình âm dương tiêu trưỡng. Tức quá mới vẽ hai con cá vào cái vòng nhỏ ở trong cùng, thế thì trời xuôi đất khiến biến ra hai con nòng nọc :unsure: <_< . Đây chính là cái hình Avatar của chú Thiên Sứ, cái hình lưỡng nghi hai con nòng nọc mà nó cứ chọc tức, thách đố mình mồi lần nhìn thấy chúng. Nay mới biết là cái cấu trúc của nó chính là do vòng âm dương tiêu trưởng ở ngoài và vòng lưỡng nghi ở trong. Nhìn vào hình lưỡng nghi hai nòng nọc thuần túy Việt Nam mà suy luận thì thấy quả thật cao siêu, có Nhật có Nguyệt, Âm Dương đối xứng trong ngoài. Bên ngoài, Dương trưởng Âm tiêu, bên trong Âm trưởng Dương Tiêu. Nhật sáng thì Nguyệt tối, Nguyệt sáng thì Nhật tối, quả thật cao siêu. Thân Mến
    1 like
  31. Chú không bấm quẻ. Nhưng nếu là chú hồi còn trẻ thì không có lý do này. Chú đã yêu thì dù người đó giầu hay nghèo chú không quan tâm. Và bản thân chú nghèo chú vẫn yêu như thường. Lúc chú lấy bà xã bây giờ chú chỉ có một bộ đồ lành lặn thêm một đôi giày Sapo với một công việc ổn định. Vậy thôi. Đợi sự nghiệp ổn định mới lấy vợ? Thế nào là một công việc ổn định? Chú không tán thành cách suy nghĩ này. Dù đây là lý do thì nếu bạn của Dim là con gái chú, chú sẽ chấm dứt ngay và không gả cho anh chàng này.
    1 like
  32. Nhắc đến các môn nghệ thuật truyền thống, có lẽ không môn nào không liên quan đến lý học. Võ thuật cũng không ngoài quy luật đó.Tôi xin trình bày những hiểu biết sơ lược của tôi về mảng này. Hiện nay, những môn gọi là võ cổ truyền tại Việt Nam, có rất nhiều môn nguồn gốc từ Trung Quốc. Để nhận diện ra được bài bản nào là võ Việt đối với một số người là tương đối khó khăn. Theo nhận định cá nhân của tôi, các môn võ cổ truyền ở miền Bắc đa số có nguồn gốc xuất xứ từ Tàu ngoại trừ môn võ Hét (Nhất Nam) ở vùng Thanh Nghệ. Còn ở phía Nam, có nhiều thầy võ tuy khoác lên mình chiếc áo “Thiếu Lâm” nhưng thực sự lại là võ cổ truyền Việt Nam. Bởi vì có những dấu ấn của võ Việt không lẫn vào đâu được. Tôi muốn trình bày vài nét sơ bộ về mảng võ thuật của Đàng trong. Khi nhắc đến võ thuật truyền thống, thông thường người ta nghĩ ngay đến võ Bình Định và cho rằng các bài bản được lưu truyền ở đây là của triều Tây Sơn. Tuy nhiên, đây là một ngộ nhận rất lớn. Theo nhận định của một số bạn bè có hiểu biết của tôi, đa số các bài bản võ đang lưu truyền tại Bình Định là các bài bản của triều đình nhà Nguyến. Thời nhà Nguyễn, dân Bình định vốn giỏi võ nên họ luôn có xu hướng lập công danh theo đường võ nghệ. Mà muốn thi thì phải học các bài bản của triều đình. Những bài bản này gọi là “Võ Kinh” hay “Võ Quan” để đối lập với “Võ Lâm” là võ của giới giang hồ. Tuy nhiên, không phải là võ của Tây Sơn đã thất truyền ở Bình định, nhưng nó được truyền rất hạn chế. Đặc điểm của các bài bản võ Tây Sơn dễ nhận ra là các tên thế võ trong bài (gọi là “thiệu”) là những vần thơ Nôm rất dễ hiểu (khác với thơ võ của nhà Nguyễn là thơ Chữ Hán) như những bài Yến Phi Quyền. Đặc biệu bài Song Tô có lời thiệu là thơ Nôm thất ngôn, mang âm hưởng của lòng yêu nước nồng nàn “Quyết tâm giữ vững cõi bờ giang sơn”. Xin lỗi tôi đã đi quá xa. Xin phép trở lại với phần lý học. Những bài “Võ Quan” của triều Nguyễn luôn mang trong nó những tên gọi mang ý nghĩa của lý học, chẳng hạn như: 1. Âm Dương Quyền: Tên của bài này còn gọi là “Ngọc Trản”, đây là bài quyền bắt buộc phải học trong các môn thi cử nhân võ. Tên “Ngọc Trản” có người cho rằng là tên của cái giếng ngọc nơi Trọng Thuỷ (trong truyền thuyết An Dương Vương) tự tử. Trong dân gian, vốn lưu truyền nhiều phiên bản khác nhau của bài quyền này. Ngày nay, một trong những phiên bản đó đã được Liên đoàn võ cổ truyền Việt Nam đưa vào nội dung bắt buộc trong thi đấu. Để biết thêm chi tiết về bài quyền này. Các bạn có thể xem các links sau: http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%8Dc_tr%E1%BA%A3n_ng%C3%A2n_%C4%91%C3%A0i http://www.vothuat.net.vn/Web/?jumpto=article&articleid=1238 http://www.phucat.net/portal/index.php?option=com_content&task=view&id=50&Itemid=106
    1 like