• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 21/08/2010 in all areas

  1. Theo tôi, chung ta nên mở lại lớp PTLV Cơ bản III, để anh chị em học viên có thể tiếp tục vào đấy trao đổi, tâm sự. Hoặc, hầu hết anh chị em học lớp Cơ Bản III đều theo học khóa nâng cao. Bởi vậy, cũng không có vấn đề gì, coi như sự tiếp tục khóa học. Tôi đề nghị Ban Quản trị cần có một buổi họp vào ngay sáng mai để bàn v/v này.
    3 likes
  2. Anh chị em thân mến. Sửa lại nhà này theo tôi nghĩ chỉ khoảng từ 20 đến 25 triệu. Hay chúng ta góp tiền vào sửa giúp họ và kêu gọi quỹ từ thiện giúp đỡ. Để trấn yểm miếng đất này cũng không khó khăn lắm. Hiện nay, tôi đang chuẩn bị in cuốn Kỷ Yếu hội thảo - giá phát ban đầu là khoảng 11 triệu/ 500 cuốn. Quỹ hội thảo còn 16 triệu. Trước đây tôi có hứa: Số dư của hội thảo bao nhiêu sẽ đưa vào quỹ từ thiện. Chưa in chưa biết chắc, nhưng tôi đề nghị Wildlavender lập một quỹ riêng giúp sửa phong thủy nhà bà này. Bản thân tôi góp 1 triệu, công vởi số dư của hội thảo vài triệu thì cũng có khởi đầu tốt đẹp. Tôi cũng đề nghị là cuốn Kỷ yếu xác định phát không. Nhưng - ngoài những anh chị em trong Trung Tâm và những vị có bài tham luận - thì mọi người tùy tâm ủng hộ trên mỗi đầu sách. Tất cả số tiền thu được cũng sẽ để giúp bà này sửa lại nhà. Nếu Wildlavender và anh chị em đồng ý thì chúng ta lập mục riêng trong mục Từ Thiện cho gia đình bà này. Toàn bộ Kỷ yếu sẽ giao cho quỹ Từ Thiện phát và kêu gọi ủng hộ. Một bà mẹ có đến 10 đưa con đều điên thì cay đắng quá. Nếu sửa chữa còn dư thì cho bà ấy vốn làm gì thì làm. Tôi tin rằng: Nếu không cải thiện được tình trạng bệnh tật thì cũng bán được giá cho bà ta. Tôi cũng kêu gọi những phong thủy gia có chuyên môn cao, cùng chúng tôi tham gia giúp họ. Anh chị em cho ý kiến đóng góp.
    3 likes
  3. Hải quân Trung Quốc lại tổ chức diễn tập tại Hoàng Sa Thứ sáu, 20/08/2010, 15:10(GMT+7) Binh lính Trung Quốc diễn tập tại Hoàng Sa VIT - Bất chấp những phản ứng và tuyên bố chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang nhiên cho tổ chức hoạt động diễn tập quân sự của hải quân tại khu vực này. Một số báo chí Hồng Kong đưa tin, vừa qua Trung Quốc đã cho hàng trăm xe bọc thép lưỡng cư, pháo tự hành, xe chở quân với hàng ngàn binh lính ra quần đảo Hoàng Sa tiến hành diễn tập thực binh. Theo đó, nội dung chủ yếu của cuộc diễn tập lần này đó là diễn tập tấn công và phòng ngự đối với các cụm đảo mà Trung Quốc đã chiếm đóng của Việt Nam tại quần đảo này. Trong đó, báo chí Trung Quốc nhấn mạnh, điều đặc biệt đáng chú ý trong lần diễn tập này đó chính là lần đầu tiên hải quân nước này đưa vào sử dụng tác chiến trên đảo một khối lượng lớn các trang thiết bị vũ khí mới mà trước nay Trung Quốc chưa từng cho vào tham gia các cuộc diễn tập trước đó. Bên cạnh đó, các xe thiết giáp chở quân lưỡng cư tham gia diễn tập này cũng hoàn toàn được trang bị mới. Cũng theo tờ báo này, mục đích của cuộc diễn tập này của hải quân Trung Quốc đó là nhằm “đối kháng” với cuộc diễn tập trên biển Đông sắp tới với sự tham gia của Mỹ và Nhật, bên cạnh đó đây còn là một “lời cảnh báo không lời” của Bắc Kinh. Ngoài ra, cuộc diễn tập lần này còn huy động sự tham gia của một sư đoàn phòng không Trung Quốc đóng tại quân khu Quảng Châu. Theo đó, nội dung mà quân khu này tham gia diễn tập bao gồm khoa mục tiếp dầu trên không, tấn công đánh chiếm đảo, diễn tập phòng không… Việc Trung Quốc tổ chức diễn tập thực binh tại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là hành động vi phạm nghiêm trọng chủ quyền trên biển của Việt Nam. Trung Quốc cần phải tôn trọng Công ước về luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc và Tuyên bố chung ứng xử giữa các bên trong vấn đề biển Đông năm 2002.        var currentday=20; var currentthang=8; var currentnam=2010; Phương Nam ( Theo Panjk) Tin biên dịch
    2 likes
  4. Giảng Giải Chú Đại BiXEM KINH VỚI LÒNG THÀNH Kẻ hậu học khi xem kinh, nên có tâm thái như sau: ba nghiệp tâm, khẩu, ý phải được thanh tịnh. Ba nghiệp trên được lắng trong thì phước huệ tròn đầy. 1. Nên thẳng mình ngồi ngay như ngồi trước đức Phật. Đó là thân nghiệp được thanh tịnh. 2. Miệng không nói lời sai trái, không cười đùa. Đó là khẩu nghiệp được thanh tịnh. 3. ý không tán loạn, dứt sạch tâm phan duyên. Đó là thanh tịnh ý nghiệp. Khi tâm an tịnh thì ngoại cảnh lắng trong, đó là khế ngộ nguồn tâm, diệu nhập pháp lý. Khi nước lắng trong thì vẻ sáng của ngọc tự chiếu soi, mây tan trăng tự hiển bày, đại nguyện thành tựu cũng như nhập vào biển diệu nghĩa. Thấu đạt ý kinh cũng chính là đến được đỉnh núi cao trí tuệ. Nếu hành giả muốn dễ thành tựu, phải gieo trồng Đại nguyện. Khi tâm, pháp đều quên, thì mình cùng pháp giới chúng sinh đều chung lợi lạc. Có được như thế mới mong báo đáp ân sâu của Chư Phật. CHÚ ĐẠI BI (Phần kinh văn ) 1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da 2. Nam mô a rị da 3. Bà lô yết đế thước bát ra da 4. Bồ đề tát đỏa bà da 5. Ma ha tát đỏa bà da 6. Ma ha ca lô ni ca da 7. Án 8. Tát bàn ra phạt duệ 9. Số đát na đát tả 10. Nam mô tất kiến lật đỏa y mông a lị da 11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà 12. Nam mô na ra cẩn trì 13. Hê rị ma ha bàn đà sa mế 14. Tát bà a tha đậu du bằng 15. A thệ dựng 16. Tát bà tát đá, na ma bà tát đa (*) na ma bà già (*) Các bản hiện đang lưu hành, được trì tụng rộng rãi ở Việt Nam thiếu năm chữ này. 17. Ma phạt thị đậu 18. Đát điệt tha, án 19. A bà lô hê 20. Lô ca đế 21. Ca ra đế 22. Di hê rị 23. Ma ha bồ đế tát đỏa 24. Tát bà tát bà 25. Ma ra ma ra 26. Ha hê ma hê, rị đà dựng 27. Cu lô cu lô yết mông 28. Độ lô độ lô phạt già ra đế 29. Ma ha phạt già ra đế 30. Đà la đà la 31. Địa lỵ ni 32. Thất phật ra da 33. Giá ra giá ra 34. Ma ma phạt ma ma 35. Mục đế lệ 36. Y hê di hê 37. Thất na thất na 38. A ra sam phật ra xá lợi 39. Phạt sa phạt sam 40. Phật ra xá da 41. Hô lô hô lô ma ra 42. Hô lô hô lô hê rị 43. Ta ra ta ra 44. Tất lỵ tất lỵ 45. Tô rô tô rô 46. Bồ đề dạ - bồ đề dạ 47. Bồ đà dạ - bồ đà dạ 48. Di đế rị dạ 49. Na ra cẩn tri 50. Địa lỵ sắt ni na 51. Ba dạ ma na 52. Ta bà ha 53. Tất đà da 54. Ta bà ha 55. Ma ha tất đà dạ 56. Ta bà ha 57. Tất đà du nghệ 58. Thất bàn ra dạ 59. Ta bà ha 60. Na ra cẩn trì 61. Ta bà ha 62. Ma ra na ra 63. Ta bà ha 64. Tất ra tăng a mục khư da 65. Ta bà ha 66. Ta bà ma ha a tất đà dạ 67. Ta bà ha 68. Giả cát ra a tất đà dạ 69. Ta bà ha 70. Ba đà ma yết tất đà dạ 71. Ta bà ha 72. Na ra cẩn trì bàn đà ra da 73. Ta bà ha 74. Ma bà lợi thắng yết ra dạ 75. Ta bà ha 76. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da 77. Nam mô a lị da 78. Bà lô kiết đế 79. Thước bàn ra dạ 80. Ta bà ha 81. Án tất điện đô 82. Mạn đà ra 83. Bạt đà dạ 84. Ta bà ha KỆ TỤNG CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH TUYÊN HÓA Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì Chấn động tam thiên thế giới thì Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa Từ bi phổ độ Diêm phù đề http://tinhdo.net/luangiaikinhsach/47-gian...bi.html?start=1
    2 likes
  5. Đây cũng là một sự đóng góp đáng quan tâm, đề nghị BQT lưu ý những yêu cầu trên của Redhat và ACE Hv khác, có thể Ban Điều hành Lớp nên nghiên cứu phương án tốt nhất và thuận lợi tạo điều kiện cho các trường hợp nhiều chiện ở trên.
    2 likes
  6. Kính gửi Ban Quản Trị Diễn đàn, Vì đây là lần đầu tiên, và quy định này không được đề cập đến khi khai giảng lớp học vậy nên sẽ có nhiều người chưa copy về kịp, thậm chí không copy do đi công tác và Red Hat nhớ không nhầm là BQT có khẳng định với các học viên là có thể truy cập và quay lại lớp bất kỳ lúc nào. Thêm nữa là bài giảng nhiều lúc upload lần 1 chưa đầy đủ, hôm sau mới có bổ sung vào chính bài đó mà không có thông báo gì. Do vậy học viên phải quay đi quay lại rà soát từng bài một. Vậy nên Red Hat xin kính đề nghị BQT như sau: Một là tiếp tục duy trì lớp học cũ cho các học viên. Hai là nếu không duy trì thì phải thông báo rõ khi khai giảng lớp học cho các khóa sau vì cũng như PTCB 3, PTCB 4 không thấy đề cập quy định này. Và khi kết thúc khóa học, đề nghị BQT có thông báo trong lớp học là khóa học đã kết thúc, các bài giảng không còn gì bổ sung vào thời điểm kết thúc khóa học và các học viên được phép trong vòng 1 tháng kể từ khi ra thông báo (Ví dụ thế) để copy hoàn tất bài giảng. Trong trường hợp đi công tác không có điều kiện internet thì phải thông báo cho BQT Trường hợp cụ thể của lớp PTCB3, kính đề nghị BQT mở lại lớp học ít nhất 1 tuần và phải có thông báo để các học viên copy hoàn thiện bài giảng. Trân trọng cảm ơn! Red Hat
    2 likes
  7. Lễ hội của trái Tim. Thêm một lần nữa mùa Báo hiếu Vu lan lại về! Vu lan về là dịp để cho toàn thể mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, chủng tộc, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, trí thức, nông dân, thắp sáng ngọn đèn yêu thương đang âm ỉ cháy trong trái tim của mỗi người. Chúng ta có thể gọi Vu lan là "Lễ hội của trái tim"; bởi lẽ, trong giờ phút thiêng liêng này con tim của mọi người cùng đập chung một nhịp, đôi mắt cùng nhìn về một hướng, tâm tư cùng nhớ nghĩ về những bậc ân nhân lớn nhất trong cuộc đời mình: Mẹ và cha! Nhớ nghĩ về mẹ cha là để yêu thương và để được yêu thương! Yêu thương mẹ cha bởi vì người đã ban tặng cho chúng ta sự sống thiêng liêng để được hiện hữu trong cuộc đời này! Yêu thương mẹ cha, vì người đã trao cho chúng ta một gia tài trí tuệ để nhận chân được giá trị của cuộc đời! Yêu thương mẹ cha, vì người đã tặng chúng ta một trái tim nhân ái để nuôi dưỡng mạch nguồn của sự sống! Chúng ta cũng có thể gọi Vu lan là lễ hội tình người, vì hiếu tâm là gốc rễ của tất cả tình cảm tốt đẹp trong cuộc đời, là căn bản của mọi điều thiện. Dường như thi hào Nguyễn Du - danh nhân văn hóa thế giới - cũng quan niệm như thế nên đã viết rằng: " Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay " 1 Có thể nói rằng Vu lan là một trong những hoạt động quan trọng và có ý nghĩa nhất trong các lễ hội của loài người, bởi lẽ không có nền văn hóa, văn minh nào của nhân loại không ca ngợi tình cha, nghĩa mẹ! Không có quốc gia, xứ sở nào lại không giáo dục công dân của mình phải nhớ đến ân nghĩa sinh thành. Đối với người Á Đông, đặc biệt là người Việt Nam, hiếu đạo hay tinh thần tri ân báo ân này đã trở thành đức tính tự nhiên, lưu chuyển trong mạch sống người Việt. Hiếu đạo đã ăn sâu vào tâm khảm của mỗi con người, từ lúc cất tiếng chào đời cho đến khi trăm tuổi. Dĩ nhiên, phẩm chất cao đẹp và thiêng liêng ấy không phải tự nhiên mà có, mà chính là sự kết tinh của một truyền thống văn hóa được un đúc từ lâu đời, và được truyền trao lại con cháu, xứng hợp với phong tục tập quán, bản tính của người Việt. Do vậy, cái gì đi ngược lại với nghĩa sống này, sẽ bị mọi người chối bỏ. Mặc dù thế, có rất ít tôn giáo trên hành tinh này đề cập đến đạo hiếu; thậm chí một số tôn giáo còn cấm thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Vì lý do này, nhiều tôn giáo ngoại nhập đã gặp không ít trở ngại khi truyền bá sang châu Á, cụ thể là Trung Quốc, Việt Nam... Trái lại, từ lúc xuất hiện cho đến nay, đạo Phật du nhập vào xứ sở nào cũng được nhiều người chấp nhận. Đặc biệt, từ đầu thế kỷ XX trở đi, đạo Phật đang được con người của nhiều dân tộc trên thế giới hân hoan chào đón và xem như là một lý tưởng sống cao đẹp, hội đủ cả hai yếu tố vật chất và tâm linh. Nguyên nhân chủ yếu là giáo lý Phật giáo được xây dựng trên nền tảng nhân bản, gắn liền đời sống vật chất với tinh thần, đời với đạo, cá nhân với gia đình, tôn giáo và quốc gia xã hội. Tại Việt Nam, trải qua hơn 2.000 năm cùng tồn tại và phát triển, giáo lý Phật giáo và tư tưởng Việt Nam đã có sự gặp gỡ và tương đồng trong nhiều lãnh vực liên hệ đến triết lý sống, đặc biệt là quan niệm về hiếu đạo. Nếu người Việt cho rằng cha mẹ còn sống như Phật còn sống 2, thờ quỷ thần, trời đất không bằng thờ cha mẹ; Phật giáo cũng dạy cha mẹ là đấng thần linh cao nhất trong các loại thần linh 3. Cả Phật giáo và văn hóa Việt cùng chủ trương rằng ân cha nghĩa mẹ như là núi cao biển rộng, khó có thể nghĩ bàn, khó có thể so sánh. Chín tháng cưu mang, ba năm nhũ bộ, thức khuya, dậy sớm, tảo tần nắng mưa để lo lắng cho con từ khi con lọt lòng đến lúc cha mẹ nhắm mắt là công ơn khó đền trả. Sự hy sinh một cách thầm lặng từ vật chất đến tinh thần để đàn con trẻ có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, thành đạt là một việc làm khó ai có thể kham chịu được, ngoại trừ hai đấng sinh thành. Vì lý do này, Đức Phật tuyên bố rằng có hai hạng người không thể trả ơn: Đó là mẹ và cha 4. Do vậy, hiện thực hóa tâm hiếu, đạo hiếu trong cuộc sống hàng ngày chính là cách tốt nhất để mọi người đáp đền ơn nghĩa muôn một của mẹ cha. Qua việc làm này người ta còn có thể từng bước hoàn thiện được phẩm chất tốt đẹp của một con người chân chính như lời kinh sau đây: "Này các Tỷ kheo, thế nào là chân nhân? Đó người biết tri ân và báo ân" 5. Thêm vào đó, không một ai trong tất cả chúng ta lại không mong ước con cái mình sẽ là những người hiếu thảo. Muốn được như thế, tự thân mỗi chúng ta phải là những người con có hiếu, là những người luôn thể hiện được tinh thần báo hiếu - tri ân, bởi lẽ theo lý nhân quả của Phật giáo và kinh nghiệm của tổ tiên chúng ta: "… Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận, ngỗ nghịch con nào có khác chi Xem thử trước thềm mưa xối nước, Giọt sau giọt trước có sai gì" 6 Càng có ý nghĩa hơn nữa khi đạo Phật chủ trương rằng người nào muốn học đạo giải thoát, giác ngộ, muốn trở thành một Phật tử thì không thể không hiếu với mẹ cha, vì tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Với những ý nghĩa như thế, lễ hội trái tim này có lẽ đã chuyên chở đầy đủ những chất liệu sống cần thiết mà một nền văn hóa tốt đẹp cần phải hội đủ. Đây là lý do tại sao Lễ hội Vu lan Báo hiếu của Phật giáo đã được đại đa số người Việt chấp nhận và đã từng bước xã hội hóa trở thành một ngày lễ trọng đại, thiêng liêng của dân tộc. Bởi vì, việc làm đầy ý nghĩa này đã và đang làm cho lòng người ấm lại, có thể hàn gắn được những khoảng cách tâm lý giữa cha mẹ và con cái do lối sống vật chất thực dụng mang lại, sẽ xóa tan được những mặc cảm tội lỗi do vô tình hay không biết mà người ta đã phạm phải. Hy vọng nghệ thuật sống đạo đức, nhân văn này sẽ mãi lưu chuyển trong nếp tư duy, suy nghĩ của con dân nước Việt, sẽ thắp sáng mãi ngọn lửa văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa cho đến ngàn sau! Thiền thất Từ Mãn Củ Chi- TP.HCM, tháng 8-2010 Viên Trí nguồn giacngo.vn
    2 likes
  8. CHÚ ĐẠI BI Namo Ratha Traya Namo Arya Jnana Sagara Vairochana Byuhara Jara Tathagataya Arahate Samyaksam Budhaya Namo Sarwa Tathagate Bhyay Arahate Bhyah Samvaksam Buddhe Bhvah Namo Arva Avalokite Soraya Bodhi Sattvaya Maha Sattvaya Maha Karunikaya Tadyata Om Dara Dara Diri Diri Duru Duru Itte We Itte Chale Chale Purachale Purachale Kusume Kusuma Wa re Ili Milli Chiti Jvalam Apanaye Shoha Nghe nhạc tụng: Nhạc tụng Chú Đại Bi
    2 likes
  9. 60. Na ra cẩn trì 61. Ta bà ha Na ra cẩn trì. Hán dịch là “ái hộ” nghĩa là thường nỗ lực bảo bọc che chở tất cả chúng sanh. Câu chú này cũng mang ý nghĩa đại Từ Bi. Đây là Bảo bình thủ nhãn ấn pháp. 62. Ma ra na ra 63. Ta bà ha Ma ra. Hán dịch là “Như ý” Na ra. Hán dịch là “Tôn thượng”. Đây là Quyến sách thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng mang lại sự an vui như ý đến cho hành giả, khiến cho các thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu trừ. Quyến sách thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều diệu dụng. Hành giả có thể kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến sách ấn pháp vào sợi dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra, các loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy thoát được. Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây là diệu dụng của ấn pháp này. Mới xem qua thì có vẻ bình thường nhưng công năng thật khó lường. Trong đạo giáo gọi ấn pháp này là “Khổn tiên thằng”. 64. Tất ra tăng a mục khư da 65. Ta bà ha Tất ra tăng. Hán dịch là “thành tựu – ái hộ”. Nghĩa là thường đem hết sức mình để bảo hộ che chở cho tất cả chúng sanh. A mục khư da. Hán dịch là “bất không, bất xả”. Bất không có nghĩa là hữu. Nhưng đây có nghĩa là diệu hữu. Bất xả có nghĩa là “Bất xả nhất pháp”. Không từ bỏ một việc gì, phải thông thạo tất cả các pháp. Nên có câu kệ: “Chân như lý thượng bất lập nhất trần. Phật sự môn trung bất xả nhất pháp”. Nghĩa là: “Trên phương diện bản thể, lý tánh tức chân như, thì không cần lập một thứ gì nữa cả, dù chỉ là hạt bụi. Nhưng về mặt sự tướng, có nghĩa là việc hành trì, tu đạo thì không được bỏ qua một pháp nào cả”. A mục khư da còn có nghĩa nữa là “ái chúng, hòa hợp”. Nghĩa là thương yêu, hòa hợp, thường cứu giúp tất cả chúng sanh. Câu chú này còn có nghĩa khác là trong tự tánh của mỗi chúng sanh đều có đủ tánh tự tại và tánh công đức thường vẫn tròn đầy. Đây là Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì ấn pháp này thành tựu, hành giả có thể tránh được nạn tù tội, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ mọi lúc, hành giả đều không bị vướng phải các chướng nạn về quan quyền nữa. Quý vị sẽ hỏi: “Nếu tôi tu tập ấn pháp này, liệu tôi có thể phạm pháp mà vẫn không bị bỏ tù hay sao?” Không! Là Phật tử, quý vị không được phạm pháp. Nếu quý vị đã thông hiểu Phật pháp và phát tâm tu học Phật pháp rồi, thì làm gì có chuyện phạm pháp nữa? Còn nếu quý vị làm chuyện phạm pháp, tất nhiên phải bị bắt và ở tù. Tuy nhiên, đôi khi có những người vô tội bị bắt ở tù. Đây là vì họ chưa bao giờ tu tập Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp này. 66. Ta bà ma ha a tất đà dạ 67. Ta bà ha Như quý vị đã biết, thế giới chúng ta đang sống là thế giới Ta bà. Ta bà có nghĩa là “kham nhẫn”. Còn được dịch là “nhẫn ái”. Còn dịch là “Thiện thuyết, thiện đáo”. Kham nhẫn có nghĩa là chúng sanh như chúng ta khó có thể chịu đựng nổi những sự thống khổ ở cõi giới Ta bà này. Nhẫn ái có nghĩa là chúng sanh thế giới Ta bà này không những có thể chịu đựng mọi khổ đau mà còn sanh khởi lòng thương yêu mọi loài nữa. Thiện thuyết, thiện đáo nghĩa là, luôn luôn nói lời tốt đẹp, lợi ích khi ở trong thế giới Ta bà. Cùng khuyến khích mọi người hiện thân đến ở cõi giới Ta bà này. Ma ha là lớn. Đây có nghĩa là pháp Đại thừa, tức là Bồ tát đạo. A tất đà dạ. Hán dịch là “vô lượng thành tựu”. Nghĩa là tu tập pháp Đại thừa của hàng Bồ tát có công năng đưa hành giả đến bờ bên kia một cách rốt ráo và thành tựu vô lượng công đức. Đây là Bồ đào thủ nhãn ấn pháp. Khi quý vị tu tập thành tựu ấn pháp này thì trong miệng hành giả thường có vị ngọt của nho, còn hơn vị ngọt của đường. Quý vị hãy chú ý điểm này, trong khi hành trì ấn pháp này mà thấy trong miệng có vị ngọt nghĩa là bắt đầu có sự cảm ứng. Khi thành tựu ấn pháp này rồi, khi quý vị có trồng trọt các loại nông sản, ngũ cốc, thì sâu bọ côn trùng không thể phá hoại mùa màng của quý vị. Còn các loại cây ăn quả như cam, đào, hạnh, lê, … sẽ sinh trưởng rất nhanh và có vị ngọt khác thường. Công năng của Bồ đào ấn pháp này rất lớn và sự thành tựu của pháp Đại thừa là vô lượng vô biên. Tất la tăng a mục khư da. Ở trong đồ hình mạn đà la là hình ảnh biểu tượng cho bổn thể của Dược Vương Bồ tát, người đã dùng vô số phương tiện, dược liệu để chữa bệnh cho chúng sanh. Ta bà ma ha a tất đã dạ ta bà ha là bổn thể của Bồ tát Dược Thượng, người cũng thường dùng vô số phương thuốc để chữa lành bệnh cho chúng sanh. 68. Giả kiết ra a tất đà dạ 69. Ta bà ha Giả kiết ra a tất đà dạ. Hán dịch là “Kim cang luân”. Còn gọi là Kim cang Bạt chiết la. Kim cang luân này có hình tròn nhưng có khác so với Kim cang luân khác. Câu chú này còn có nghĩa là “Hàng phục oán ma”. Khi trong tâm luôn luôn sinh khởi xung khí và bất bình thì gọi là ma. Khi ấy họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường làm những việc sai trái, cho đến hành Bồ tát, A la hán, chư Thiên, Diêm Vương cũng đều như thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn học đối với tất cả mọi điều. “Tất cả đều là tà vạy”. Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý gì đến pháp luật nữa. Họ luôn xung khắc với toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này là điên cuồng. Trong hàng quỷ thần thì hạng người này được gọi là Ma. Nộ khí của loài ma oán này thường xôn g khắp cõi Trời. Nó thường giận dữ: :Ai cũng đều quá vô lễ với ta!”. Hoặc nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ tát hay A la hán ta cũng hạ gục luôn. Còn loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì ta sẽ chà nát dưới gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng ra cho đến chết!” Oán khí loại ma này thật ghê rợn. Đây là Bạt chiết la thủ nhã ấn pháp. Với Kim cang luân, hành giả có thể đập tan các loài thiên ma ngoại đạo, quỷ thần thành từng mảnh vụn. Bất luận đó là loại ma nào, nó đều bị thu phục và vâng lời khi hành giả dùng Kim cang luân để thi hành ấn pháp này. Ma oán sẽ cung kính đảnh lễ hành giả và thưa: “Con nguyện quy phục ấn pháp. Nguyện theo mọi quy luật, không dám xâm hủy”. Kim cang luân ấn pháp không những chỉ có công năng hàng phục thiên ma ngoại đạo, mà còn có công năng phát ra âm thanh chấn động. Đạo giáo gọi âm thanh này là “Ngũ Lôi Oanh Đảnh”. Sấm sét vốn thường phát sinh từ trên Trời, nhưng các Đạo sĩ Lão giáo có thể phóng ra tiếng sấm từ lòng bàn tay khi họ kết một loại ấn gọi là Chưởng tâm lôi. Tiếng sấm sét vang ra khiến cho thiên ma bị chấn động, thậm chí còn có thể khiến thịt da nó bị tan tành từng mảnh. Khi giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tôi có nói về một người bạn thân, có khả năng sử dụng được ấn pháp này. Khi quý vị hành trì thành tựu ấn pháp này rồi, thì sấm sét sẽ vang rền khi quý vị sử dụng ấn pháp và tiếng vang của nó sẽ hàng phục được tất cả các loài ma oán. A tất đà dạ. Hán dịch là “Vô tỷ thành tựu”. Hành giả trì chú này sẽ được thành tựu công đức rất lớn; không có gì so sánh được, cho nên mới khiến cho các loài ma oán đều quy đầu phục thiện. 70. Ba đà ma yết tất đà dạ 71. Ta bà ha Ba đà ma. Hán dịch là “Hồng liên hoa”. Yết tất đà dạ. Hán dịch là “Thiện trắng”. Hồng liên hoa này là siêu việt tất cả mọi loài và thành tựu vô lượng công đức. Khi quý vị tu tập Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp này thành tựu rồi, nếu quý vị muốn sanh ở cõi Trời thì ước nguyện ấy rất dễ thành tựu như ý. 72. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ 73. Ta bà ha Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền thủ”. Hiền là thánh hiền. Thủ là giữ gìn, canh giữ hộ trì. Bàn đà ra dạ dịch nghĩa là Quán Thế Âm, Quán Tự Tại. Đây là Thí vô úy thủ nhãn ấn pháp mà Bồ tát Quán Thế Âm thường dùng để cứu độ chúng sanh, giúp cho mọi loài không còn sợ hãi trong mọi lúc, mọi nơi. 74. Ma bà lợi thắng yết ra da 75. Ta bà ha Ma bà lợi thắng. Hán dịch là “Đại dõng”, cũng dịch là “anh hùng đức”, nghĩa là đức hạnh của bậc đại anh hùng. Bồ tát Quán Thế Âm cũng được gọi như thế. Yết ra da. Hán dịch là “sinh tánh” hoặc là “bổn tánh”. Nghĩa là tự tánh bản hữu của chúng sanh vốn sẵn có đức hạnh của bậc đại anh hùng. Đức hạnh của đại anh hùng chính là do hành trì Tổng nhiếp thiên tý thủ nhã ấn pháp, ấn pháp này có công năng hàng phục mọi loài ma oán không chỉ ở thế giới này mà khắp cả đại thiên thế giới. Hành giả tu tập ấn pháp này nên biết đây là ấn pháp quan trọng nhất trong tất cả bốn mươi hai ấn pháp. Vì khi hành trì ấn pháp này, thì tất cả bốn mươi hai ấn pháp kia đều có đủ trong ấn pháp này. Quý vị có thể thắc mắc: “Thế thì tôi chỉ cần hành trì một ấn pháp này thôi cũng đủ, chẳng cần hành trì bốn mươi mốt ấn pháp kia nữa”. Nếu quý vị lười biếng thì cứ làm. Nếu không phải là kẻ lười biếng, thì nên hành trì tất cả bốn mươi hai ấn pháp. Mặt khác, quý vị muốn làm kẻ lười biếng và thích tu tập để trở thành một vị Bồ tát lười thì cứ tu tập ấn pháp cuối cùng này trong bốn mươi hai ấn pháp kia. Sẽ phải mất khá nhiều thời gian mới thành tựu được. Tuy nhiên, vì quý vị là người lười biếng nên sẽ không được thành tựu sớm là điều hiển nhiên. Thế nên các pháp đều là bất định. Nếu quý vị không muốn trở thành một vị Bồ tát lười, quý vị sẽ chẳng bận tâm thời gian lâu hay mau để tu tập các ấn pháp này. 76. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da Câu này đã được giảng rõ ở phần đầu Kinh văn rồi. Nhưng có trường hợp quý vị bị quên, nên tôi sẽ giảng lại lần nữa. Những người tuy có nhớ, nhưng không được rõ ràng, nghe lại lần này sẽ được rõ thêm. Những người đã nhớ kỹ rồi, nghe được một lần này nữa lại càng hiểu sâu hơn. Nếu tôi giảng chưa rõ, quý vị cứ hỏi tôi ngay tức khắc, vì cách tôi giảng Kinh hoàn toàn khác với các Pháp sư. Tôi không dùng tài liệu hoặc các luận giải. Nam mô có nghĩa là “Quy y”. Quy y gì? Con xin uy y Tam bảo. Hắc ra đát na có nghĩa là “bảo”: quý báu. Đá ra dạ dịch là “Tam”: ba Toàn câu nghĩa là con nguyện quy y Tam bảo. Con nguyện đem cả thân tâm tánh mạng để quy y. Như những Phật tử tại gia đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đó là quy y Tam bảo. Quy y Tam bảo tức là quy y với toàn thể chư Phật trong ba đời, khắp cả mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng tức là quy y với tất cả pháp trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng chính là đem hết thân tâm tánh mạng quy y với tất cả các bậc Hiền thánh tăng trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Hư không, chẳng bao giờ cùng tận. Tất cả các cõi nước đều nằm trong pháp giới này. Có tất cả mười pháp giới, trong đó bốn cõi giới của các bậc Thánh Hiền và sáu cõi giới của chúng sanh phàm phu. Bốn cõi giới của bậc Hiền Thánh là: Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác. Sáu cõi giới phàm phu là: Trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Mười phương là: Bắc, Đông, Nam, Tây, Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam, đó là tám. Thêm phương trên và phương dưới tất cả là mười. Ba đời là quá khứ, hiện ại, vị lai. Chúng ta quy y với Phật bảo trong suốt khắp mười phương ba đời. Những lời đức Phật dạy được gọi là Pháp bảo. Tam tạng Kinh điển được diễn đạt qua mười hai phần Kinh văn (bộ Kinh). Tất cả Kinh điển do đức Phật nói ra được gọi là Pháp bảo. Pháp bảo không chỉ hiện hữu và lưu hành trong nhân gian mà còn lưu hành khắp cả hư không và pháp giới. Khi nào quý vị có được ngũ nhãn, lục thông rồi thì quý vị mới thâm nhập được vào chân Kinh. Có nghĩa là quý vị đọc được “vô tự chân Kinh”. Trong hư không, bất kỳ lúc nào thích, quý vị đều đọc được chân kinh mà không cần hở môi. Lục Tổ đã từng nói: “Khi mê Pháp Hoa chuyển Khi ngộ chuyển Pháp Hoa”. “Vô tự” không có nghĩa là Kinh không có chữ. Mà chính là hàng phàm phu không thấy được chữ. Tuy nhiên, khi quý vị nhìn sâu vào hư không, quý vị có thể thấy được chư Phật đang tụng Kinh. Một số vị đang tụng Kinh Pháp Hoa, một số vị đang tụng Kinh Thủ Lăng Nghiêm và một số vị khác đang tụng Kinh Hoa Nghiêm. Chư Phật đều đang tụng Kinh và trì chú như thần chú Thủ Lăng Nghiêm. Chư Phật luôn luôn hành trì các thời khóa tụng ấy. Nhờ thế nên Pháp bảo được hiện hữu và lưu truyền suốt khắp tận hư không pháp giới. Chúng ta cũng quy y Tăng bảo suốt cả ba đời, cùng tận hư không pháp giới. Thành phần nào tạo thành Hiền Thánh Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la hán, các đại Tỳ kheo tăng. Đá ra dạ có nghĩa là “tam”: ba. Chúng ta quy y với Tam Bảo trong suốt mười phương, ba đời cùng tận hư không pháp giới. Da có nghĩa là “đảnh lễ”. Là quy y và cung kính đảnh lễ trước Tam Bảo. 77. Nam mô a lị da Nam mô. Hán dịch là “quy y”. A lị da. Hán dịch là “Thánh giả”, cũng có nghĩa là “Thánh Hiền”. Câu chú này thể hiện sự quy y với tất cả các Hiền Thánh Tăng. 78. Bà lô kiết đế Bà lô kiết đế. Hán dịch là “quán”. 79. Thước bàn ra da Thước bàn ra da. Hán dịch là “tự tại”. Toàn câu Bà lô kiết đế thước bàn ra da có nghĩa là Quán Tự Tại tức là Bồ Tát Quán Thế Âm. 80. Ta bà ha Bồ tát Quán Tự Tại đã thành tựu tất cả mọi công đức. Ta bà ha có nghĩa là thành tựu công đức vô lượng vô biên. 81. Án tất điện đô Nay phần kinh văn của thần chú đã được tụng rồi. Tiếp theo là phần chân ngôn. Thông thường có chữ Án luôn luôn dẫn đầu cho phần chân ngôn này. Nên chữ Án mang ý nghĩa “dẫn sinh nghĩa”. Tất nghĩa là “thành tựu”. Điện đô. Hán dịch là “ngã giới” là đạo tràng, lãnh thổ, cương vực của mình đã được kiết giới thành tựu. Phạm vi kiết đại giới là 800 do tuần (yojanas) và trung giới là 600 do tuần. Trong phạm vi đã được kiết giới này, hành giả thường được an lạc và yên tịnh, tất cả mọi công đức đều được thành tựu và bản nguyện đều được như ý. Chẳng hạn như khi tôi đã kiết giới đạo tràng trong phạm vi địa hạt San Francisco (Cựu Kim Sơn) thì trong toàn bộ vùng này sẽ không xảy ra động đất hoặc những thiên tai khác. Vì các vị hộ pháp, thiện thần đều phải hộ trì cho nguyện lực của đạo tràng được thành tựu. Phạm vi và ý nghĩa kiết giới lớn làm sao! Một hạt vi trần cũng rộng lớn bao la rồi. Vì một hạt vi trần của hành giả là bao hàm vô lượng vi trần vô lượng thế giới, và vô lượng vi trần trong thế giới cũng chỉ hàm ẩn trong một vi trần. Vì vậy, nếu một vi trần hoại diệt thì vô lượng vi trần đều hoại diệt. Một hạt vi trần tồn tại thì vô lượng vi trần cũng tồn tại. Đó là sự vi diệu của sự kiết giới. 82. Mạn đà ra Mạn đà ra. Hán dịch là “đạo tràng”, cũng dịch là “Pháp hội”. Nghĩa là đạo tràng của hành giả nhất định phải thành tựu. Pháp hội của hành giả nhất định phải thành tựu. 83. Bạt đà da Bạt đà da dịch là “Toại tâm viên mãn”. Chẳng hạn như khi tôi muốn một vi trần kh6ng hoại thì nó sẽ không hoại. Nếu tôi muốn tất cả các vi trần không bị tan hoại thì các vi trần ấy sẽ kết hợp lại với nhau. Khi tôi niệm Án, tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha với tâm nguyện sẽ không có nạn động đất xảy ra ở San Francisco (Cựu Kim Sơn), hoặc nếu có nạn động đất lớn thì nạn ấy biến thành nhỏ, nạn nhỏ thì biến thành không có. Nhờ vậy nên không có nạn động đất, không có ai sợ hãi. Thế nên gọi là sự thành tựu. Tùy theo tâm nguyện mà đều được như ý (toại tâm viên mãn). Nếu quý vị có niềm tin chí thành, thì thấy rất là màu nhiệm. Còn nếu quý vị không tin, là vì quý vị chẳng thích thú gì với những điều mầu nhiệm như trên. 84. Ta bà ha Ta bà ha dịch là “thành tựu”. Thành tựu điều gì? Thành tựu mọi thệ nguyện của hành giả. Bất luận quý vị phát tâm nguyện gì, quý vị sẽ đạt được như ý khi niệm Án tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha. Những vị khi làm lễ thế phát xuất gia cũng trì niệm câu chú này. Có nghĩa là ước nguyện việc xuất gia tu học Phật pháp sẽ được như ý thành tựu viên mãn. Đến đây thì Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni và chú Đại Bi đã được giảng giải xong. Nay tôi cũng đã giảng hết bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó là phần sau của Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni. Còn phần sau nữa là khoa nghi hành trì, là phương pháp tu hành, nay tôi không nhắc lại nữa. Năm trước, một số đệ tử có tâm nguyện được nghe giảng chú Đại Bi. Đến nay quý vị nghe giảng gần một năm. Pháp hội này được xem như thành tựu viên mãn. Tôi nguyện rằng quý vị có phát tâm hành trì điều gì cũng được như ý, tất cả đều được Bạt đà da ta bà ha, tức là thành tựu viên mãn tâm nguyện của mình. Mỗi người có sự phát nguyện khác nhau, nên sự thành tựu cũng không đồng, nhưng đều viên mãn cả. Nguyện cho tất cả Phật tử có duyên được nghe Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni này đều sớm thành tựu quả vị Phật, vì đây là ước nguyện của những người thâm tín chư Phật. Một khi quý vị đã chứng được quả vị Phật tức là mọi việc đều “toại tâm mãn nguyện” rồi. Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
    2 likes
  10. 51. Ba da ma na Ba da ma na có ba ý: Thứ nhất là “danh văn” nghĩa là tên của hành giả được lưu truyền khắp mười phương thế giới. Nghĩa thứ hai là “Hỷ xưng” là mười phương thế giới đều vui mừng khen ngợi công đức của hành giả. Thứ ba là “thành danh”, “nhất thiết nghĩa thành tựu”. Có nghĩa là mọi danh tiếng, mọi công hạnh đều được thành tựu thật nghĩa và rốt ráo. Đây là Bảo tiễn ấn pháp. Nếu quý vị hành trì ấn pháp này thành tựu sẽ liền gặp được thiện hữu tri thức. 52. Ta bà ha Trong chú Đại bi, câu Ta bà ha rất là quan trọng. Câu này được lặp lại đến mười bốn lần. Ta bà ha. Hán dịch có sáu nghĩa. Bất kỳ chữ này xuất hiện ở bài chú nào cũng có đủ sáu nghĩa này. Nghĩa thứ nhất là “thành tựu”. Khi trì niệm câu chú này, tất cả sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu. Nếu quý vị chưa có được sự cảm ứng khi hành trì, là do vì tâm chưa đạt đến sự chí thành. Nếu quý vị có tâm chí thành và có niềm tin kiên cố, thì chắc chắn sẽ được thành tựu. Nhưng chỉ cần móng khởi một chút tâm niệm không tin vào chú này, thì không bao giờ được thành tựu. Nghĩa thứ hai là “Cát tường”. Khi hành giả niệm câu chú này thì mọi sự không tốt lành, đều trở thành tốt lành như ý. Nhưng quý vị phải có lòng thành tín. Nếu quý vị có lòng thành tín hoặc nửa tin nửa ngờ khi trì chú này thì chư Bồ tát đều biết rõ. Vì thế nếu quý vị muốn mọi việc đều được đến chỗ thành tựu thì trước hết phải có niềm tin chắc thật. Ví như khi cha của quý vị có bệnh, muốn cha mình được khỏi bệnh thì quý vị phải hết sức thành tâm và chánh tin. Trì tụng chú này mới có cảm ứng. Hoặc khi quý vị nghĩ rằng: “Từ lâu mình chưa được gặp người bạn thân. Nay rất muốn gặp anh ta”. Quý vị niệm chú này một cách chí thành, liền gặp bạn ngay. Hoặc quý vị nghĩ: “Ta chẳng có người bạn nào cả, muốn có người bạn tốt”. Quý vị trì chú này một cách thành tâm và liên tục, liền có được bạn lành, ngay cả gặp được thiện tri thức. Nghĩa thứ ba của Ta bà ha là “viên tịch”. Khi các vị Tỳ kheo xả bỏ báo thân hoặc nhập Niết bàn thì được gọi là “viên tịch”. Nhưng ở đây, chữ “viên tịch” không có nghĩa là chết. Chẳng phải niệm câu chú Ta bà ha là để cầu sự viên tịch. Thế thì công dụng của câu chú này là gì? “Viên tịch” có nghĩa là “công vô bất viên”. Là công đức của hành giả hoàn toàn viên mãn; “đức vô bất tịch” là đức hạnh của hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm. Chỉ có chư Phật và Bồ tát mới biết được công hạnh rốt ráo tròn đầy ấy chứ hàng phàm phu không suy lường được. Nghĩa thứ tư là “tức tai”, nghĩa là mọi tai nạn đều được tiêu trừ. Nghĩa thứ năm là “tăng ích”, là sự tăng trưởng lợi lạc của hành giả. Khi niệm câu Ta bà ha thì công hạnh đều được tăng trưởng, hành giả sẽ đạt được chỗ lợi lạc an vui. Nghĩa thứ sáu của câu này, tôi thiết nghĩ trong quý vị ít có ai biết được. Vì trước đây tôi chưa từng nói bao giờ. Ta bà hà có nghĩa là “vô trú”. Nghĩa “vô trú” này nằm trong ý nghĩa của câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cang. “Vô trú” nghĩa là không chấp trước, không vướng mắc hay bám chấp một thứ gì cả. Tâm vô trú là không có một niệm chấp trước vào việc gì cả. Không chấp trước nghĩa là tâm tùy thuận với mọi việc, thấy mọi việc đều là tốt đẹp. Đây chính là trường hợp: “Vô vi nhi vô bất vi” (không khởi niệm tác ý nhưng điều gì cũng được thành tựu). Vô trú chính là vô vi theo nghĩa ở trên, và vô vi chính là vô trú. Khi quý vị vừa móng khởi lên một niệm tưởng, đừng nên vướng mắc vào một thứ gì cả, đó là nghĩa thứ sáu của Ta bà ha. Quý vị đừng nên trụ vào các niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu quý vị có tất cả các tâm niệm trên thì phải nhanh chóng hàng phục chúng, chuyển hóa chúng để tâm mình không còn trụ ở một niệm nào cả. Hàng phục, chuyển hóa được những tâm niệm chúng sinh ấy gọi là vô trú. Dùng cái gì để chinh phục chúng? Dùng Bảo kiếm ấn pháp này để hàng phục. Quý vị nói rằng tâm quý vị bị đầy dẫy niệm tham chế ngự. Tôi sẽ dùng Bảo kiếm này để cắt sạch. Nếu tâm quý vị có đầy ma oán, tôi cũng sẽ dùng Bảo kiếm này đuổi sạch. Nếu tâm quý vị bị ma si mê chiếm đoạt, tôi sẽ dùng kiếm trí tuệ này chặt đứt chúng từng mảnh. Tôi sẽ chặt đứt tất cả các loài ma ấy bằng Bảo kiếm Kim cang vương này, tức là dùng kiếm Trí tuệ để hàng phục. Nếu quý vị muốn hàng phục thiên ma ngoại đạo thì trước hết quý vị phải chuyển hóa được mọi vọng tưởng của mình. Khi quý vị chuyển hóa được vọng tưởng trong tâm mình, thì thiên ma ngoại đạo cũng được hàng phục luôn, cho dù chúng có muốn đến để quấy phá, chúng cũng chẳng tìm được cách nào để hãm hại được cả. Trên đây là sáu nghĩa của Ta bà ha. Bất luận câu chú nào dưới đây có chữ Ta bà ha đều mang đầy đủ sáu nghĩa trên. 53. Tất đà da 54. Ta bà ha 55. Ma ha tất đà da 56. Ta bà ha Chữ Tất đà da có năm nghĩa: Thứ nhất là “Thành tựu đốn kiết”. Thứ hai là “thành biện”. Thứ ba là “thành lợi”.Thứ tư là “nhất thiết nghĩa thành tựu” và thứ năm là “sở cung xưng tán”. Thành tựu đốn kiết nghĩa là khi sử dụng thần chú này, thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả liền tức khắc (đốn) được an lành (kiết), toại nguyện. Có người hỏi: “Tại sao tôi cũng trì chú Đại Bi, mà không được toại nguyện tức thì”? Vì sự trì niệm chú Đại Bi đòi hỏi phải có sự tương ứng từ nỗ lực dụng công. Nếu không có sự nỗ lực hành trì tương ứng, thì sẽ không có sự thành tựu. Nếu có sự cảm ứng, dung thông thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu. Tất đà dạ còn có nghĩa là “thành biện”. Nghĩa là hành giả làm bất cứ việc gì thì kết quả đều đạt được viên mãn. Cũng gọi là “thành lợi” là vì mọi việc làm đều được thành tựu lợi ích. Nhất thiết nghĩa thành tựu có nghĩa là làm bất kỳ việc gì cũng đều được thành tựu. Sở cung xưng tán có nghĩa là mọi người đều đến khen ngợi, cung kính tán dương công đức của hành giả. Ma ha tất đà dạ. Ai cũng đều biết Ma ha có nghĩa là lớn. Câu chú này có nghĩa là hành giả đạt được mọi sự nghiệp to lớn, thành tựu được công đức thù thắng và đạo nghiệp viên mãn. Trong mọi việc, hành giả đều đạt được sự thành tựu viên mãn cao tột. Cả hai câu chú hợp lại Tất đà dạ ta bà ha Ma ha tất đà dạ ta bà ha là Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp. Bảo Kinh là sự quý giá vô ngàn của Kinh điển, chính là Pháp bảo. Nếu quý vị tu tập ấn pháp này thì sẽ đạt được lợi lạc vô cùng vô tận. Trong tương lai, trí tuệ và sức ghi nhớ của quý vị sẽ rất tinh anh. Nghĩa là có được khả năng “bác văn cường ký” – nghe nhiều, nhớ kỹ. Ký ức của chúng ta thường hoạt động theo một lối riêng. Cũng như không thể nào đi nếu không có cây gậy. Sau khi đọc được điều gì, chúng ta không thể nhớ rõ ràng hết được. Chỉ khi nào cần cho sự học tập của mình, chúng ta mới lục lại tìm kiếm hay tra cứu lại những ghi chép. Tại sao trí nhớ của mình lại quá kém. Vì quý vị chưa từng hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp này. Nếu quý vị hành trì ấn pháp này, quý vị sẽ đạt được sự hiểu biết thông tuệ và kiến thức rất đa dạng. Giống như Tôn giả A Nan, là đệ tử đa văn đệ nhất của đức Phật. Có thể nói Ngài A Nan đã hành trì Bảo kinh ấn pháp mà chẳng nghi ngờ gì. Ngài đã thành tựu ấn pháp này từ vô lượng kiếp rồi, nên khi nghe được điều gì, thì không còn quên nữa. Ngay cả Ngài có thể nhớ được những điều Ngài chưa từng nghe. Tại sao tôi nói như vậy? Vì Tôn giả A Nan ra đời cùng ngày đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo. Như thế nên hai mươi năm trước, khi A Nan chưa xuất gia, thì những bài thuyết pháp của đức Phật Ngài A Nan chưa được nghe. Thế thì làm sao A Nan có thể kết tập toàn bộ Kinh điển sau khi đức Phật nhập Niết bàn? Vì A Nan được nghe các vị trưởng lão giảng lại những bài Kinh mà đức Phật đã thuyết từ trước, hoặc chính do đức Phật giảng lại cho A Nan nghe khi A Nan nhập định nên A Nan thừa biết rõ nguyên nhân của sự nhớ giỏi này là nhờ đã hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp thành tựu. Có người hỏi tôi: “Làm thế nào để có được trí nhớ tốt?” Câu trả lời đơn giản là hãy hành trì Bảo kinh ấn pháp. Những người nhớ được Kinh rõ ràng là có duyên với ấn pháp này. Ở trong đồ hình mạn đà la, đây là ấn pháp Bồ tát phóng quang. Ngài phóng ra hào quang và tay cầm một tràng phan màu đỏ. Toàn thân Bồ tát phóng ra những luồng hào quang sáng chói biểu tượng cho sự khai mở trí tuệ, sự cường ký, trí lực đa văn quảng kiến và công đức thành tựu viên mãn. 57. Tất đà du nghệ 58. Thất bà ra dạ 59. Ta bà ha Tất đà. Hán dịch là “thành tựu lợi ích”. Du nghệ. Hán dịch là “Vô vi” hay còn gọi là “hư không”. Thất bàn ra dạ. Hán dịch là “Tự tại”. Đây là Bảo hiếp thủ nhãn ấn pháp. Hành giả thành tựu ấn pháp này có thể sử dụng lấy tất cả các thứ châu báo ẩn giấu trong lòng đất để làm lợi ích cho chúng sanh. Ý của câu chú này nói rằng ở nơi thể tánh mà thường được tự tại và thành tựu vô lượng công đức.
    2 likes
  11. 41. Hô lô hô lô ma ra Hô lô hô lô ma ra. Hán dịch là “Tác pháp như ý”. Cũng dịch là “Tác pháp mạc ly ngã”. Đây là Kim trọc ngọc hoàn thủ nhãn ấn pháp. Trong bốn mươi hai ấn pháp, khi hành giả hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này được gọi là “tác pháp”. “Như ý” nghĩa là tùy theo tâm nguyện đều được như ý. Khi hành giả tu tập thành tựu ấn pháp này rồi, thì mọi việc đều được như tâm nguyện nên gọi là “Như ý”. Còn “Tác pháp mạc ly ngã” có nghĩa chính hành giả là người tu tập, không phải người nào khác. Nên khi hành giả tác pháp này, thì ấn pháp không rời khỏi hành giả và hành giả không rời khỏi ấn pháp. Pháp và ngã là một. Thế nên chẳng có pháp và cũng chẳng có ngã, pháp chấp và ngã chấp đều không. Đó là ý nghĩa của “Tác pháp mạc ly ngã”. Hành trì “Kim trọc ngọc hoàn ấn pháp”. Có thể khiến tất cả chúng sanh đều vâng theo sự giáo hóa của hành giả. Dạy họ tu pháp gì, họ đều tu theo pháp môn ấy không sai lệch. 42. Hô lô hô lô hê rị Hô lô hô lô. Hán dịch là “tác pháp vô niệm” cũng dịch là “tác pháp tự tại”. Trong câu chú Hô lô hô lô ma ra đã giảng ở trước có nghĩa là “tác pháp như ý”, khi tác pháp vẫn còn khởi lên ý niệm. Còn trong câu chú Hô lô hô lô hê rị thì vắng bặt sự khởi niệm khi tác pháp. Nếu khi hành trì ấn pháp này, mà còn khởi niệm tức là còn vọng tưởng. Nếu hành giả không khởi niệm, tức là không còn vọng tưởng nên đạt được khả năng “tác pháp tự tại” và trở thành người có năng lực Quán Tự Tại. Đó chính là vị Bồ tát thường quán sát âm thanh ở thế gian để cứu độ một cách tự tại, Bồ tát Quán Thế Âm. Câu chú này là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng giải thoát cho chúng sanh khỏi những tai ương bệnh hoạn. Các vị xuất gia khi gặp người bệnh, trì chú này vào trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể được khỏi bệnh. Nếu bệnh không lành, thì phải quán sát lại toàn bộ nhân duyên. Nếu gặp duyên lành, khi quý vị uống nước có trì chú Đại Bi thì liền được lành bệnh, là do đã đặt hết niềm tin vào Bồ tát Quá Thế Âm. Nếu không được lành bệnh, có thể là do quý vị thiếu lòng tin nơi Bồ tát. Sự thực là như vậy, nay tôi sẽ truyền pháp này cho quý vị luôn. Để cho ly nước có trì chú Đại Bi, có được năng lực như vậy, quý vị không cần phải trì tụng toàn văn bài chú này, mà chỉ cần trì tụng câu Hô lô hô lô hê rị năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba lần búng vào phía trên ly nước. Rồi trao cho người bệnh uống sẽ được khỏi hẳn. Có khi bệnh không lành, có khi bệnh lành hẳn. Tất cả đều tùy thuộc vào nhân duyên giữa hành giả và người bệnh. Nếu quý vị có nhân duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ uống xong nước có trì chú Đại Bi liền được khỏi bệnh. Còn nếu người bệnh không có duyên với hành giả, thì dù họ có uống nước đã trì chú, nhưng vì họ không có niềm tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không được lành hẳn. Nói chung có vô lượng nhân duyên để tạo thành pháp duyên cơ bản này. Nếu người bệnh đã có công phu hành trì và phát tâm chí thành, khi uống nước có trì chú vào là liền khỏi bệnh. Còn nếu quý vị có tu tập nhưng thiếu lòng chí thành, thiếu sự tin tưởng vào chú Đại Bi thì dù uống nước đã trì chú cũng chẳng ích lợi gì. Còn nếu quý vị có tâm chí thành và dù không tu tập đi nữa, thì khi uống nước đã trì chú cũng có được sự lợi ích. Những người vốn đã tạo nghiệp chướng sâu dày, nếu được uống nước đã trì chú vào thì không đủ tạo nên nặng lực để chuyển hóa bệnh của họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước đã trì chú vào thì có thể phát sinh năng lực to lớn. Đó là năng lực do thường xuyên trì niệm chú Đại Bi, đã tạo ra một năng lực cảm ứng đạo giao. Chính năng lực này đã chữa lành bệnh. Thế nên bất luận trường hợp nào, có trùng trùng duyên khởi quyết định sự thành công. Đừng nghĩ rằng: “Tôi đã hành trì Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, tôi đã trì chú Đại Bi vào trong nước, tại sao chẳng có chút nào hiệu nghiệm?” Đó chẳng phải là nước trì chú Đại Bi không có hiệu nghiệm. Chỉ vì công phu của quý vị chưa được đắc lực, nên hiệu quả không được bao nhiêu. Có một số phái ngoại đạo cũng dùng pháp trì chú Đại Bi vào nước để chữa bệnh và đạt được công hiệu linh ứng. Đó là vì họ có sự trợ giúp của loài thiên ma khiến cho người được lành bệnh tin vào họ, rồi dẫn dắt vào hàng quyến thuộc của thiên ma ngoại đạo. Vì thế, tuy cũng hành trì một pháp môn mà có thiên sai vạn biệt kết quả. Dùng nước Đại Bi để chữa bệnh cho người là một pháp môn thực hành Bồ tát đạo. Nhưng quý vị muốn tu pháp này trước hết phải thực hành mọi hạnh nguyện của hàng Bồ tát. Phải luôn luôn giữ tâm niệm “vô ngã”, “vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không còn bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả nữa. Quý vị đừng nghĩ rằng: “Tôi chữa lành bệnh của chúng sanh được, khi tôi trì chú Đại Bi, tôi tạo ra được sự cảm ứng vô cùng lớn lao”. Nếu quý vị khởi niệm như thế, nghĩa là quý vị đã khởi dậy ngã chấp. Với ngã chấp ấy, liền bị rơi vào ma chướng, dù quý vị không có tâm niệm ngã chấp nhưng rất dễ bị gặp ma chướng khi tu tập pháp môn này. Bệnh nào cũng do nghiệp chướng hoặc ma chướng. Nếu bệnh vì nghiệp, thì chẳng có vấn đề gì khi quý vị chữa trị cho họ. Còn nếu bệnh do ma chướng, khi quý vị chữa trị cho họ có nghĩa là quý vị tuyên chiến với ma vương, nó có thể hãm hại quý vị. Nếu đạo lực của quý vị chưa đầy đủ, quý vị có thể bị thu phục vào cảnh giới của ma. Còn nếu quý vị có được đạo lực và tạo được đôi chút ảnh hưởng với chúng, thì chúng sẽ liên tục tìm mọi cách để đánh bại quý vị. Tôi vốn thích chữa bệnh cho mọi người nên khi có ai bị bệnh, tôi tìm mọi cách để chữa cho họ. Nhưng sau đó, tôi phải đối đầu với ma chướng rất trầm trọng. Ở Mãn Châu, có một loài thủy quái muốn dìm chết tôi, nhưng nó thất bại. Tuy vậy, có 50 – 60 người bị chết và hơn 800 căn nhà bị thủy quái này phá hủy. Sau đó, trên đường đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải, loài thủy quái đó lại tìm cách lật thuyền của tôi, chỉ chút xíu nữa là tôi biến thành thức ăn của cá. Từ đó mỗi khi đi hoằng hóa đây đó, tôi thường ít khi chữa bệnh. Thế nên chữa bệnh là cách tốt nhất để kết duyên, nhưng đó cũng rất dễ kết oán với quyến thuộc nhà ma. Nó có điểm tốt và cũng có điểm không hay. Nếu quý vị làm việc đó mà tâm niệm không vướng mắc vào bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì quý vị có thể xoay chuyển mọi tình huống. Còn nếu quý vị không tự chuyển hóa mọi tâm niệm của chính mình khỏi bốn tướng trên thì rất dễ rơi vào ma chướng. Cho nên, kết duyên với chúng sanh qua việc chữa bệnh cho họ là một vấn đề đòi hỏi năng lực tu tập rất cao. 43. Ta ra ta ra Quý vị nghe âm vang của câu chú này rất hùng, phải không? Ta ra Ta ra dịch là “Kiên cố lực”, là thần lực rất mạnh mẽ, không một thứ gì có thể lay chuyển được. Kiên cố lực này có thể phá hủy và hàng phục tất cả các loài thiên ma ngoại đạo. Đây là Kim cang xử thủ nhãn ấn pháp. Công năng của ấn pháp này là hàng phục tất cả các loại ma oán. 44. Tất lỵ tất lỵ Tất lỵ Tất lỵ có ba nghĩa: Thứ nhất là “dõng mãnh” như trong chiến trận, người dõng mãnh là luôn luôn chiến thắng, không hề bị đánh bại. Nghĩa thứ hai là “thù thắng” nghĩa là vượt lên trên tất cả sự hoàn hảo, không bao giờ bị thất bại. Thứ ba nghĩa là “cát tường”. Vì khi hành giả có được sự dõng mãnh mới có được sự thắng vượt mọi chướng ngại, mới có được sự cát tường. Tôi thường nói với các đệ tử của tôi rằng khi làm bất kỳ việc gì, dù ở cương vị nào cũng phải phát tâm dõng mãnh, thắng vượt chứ không bao giờ được thoái thất. Nếu ai lui sụt, đừng trở về gặp mặt tôi nữa. Những người yếu đuối, bại hoại thì có ích gì? Họ chẳng khác gì một thứ mà người Quảng Đông thường gọi là “thủy bì” là túi da đựng nước mềm nhũn. Còn ở Đông Bắc thì gọi là “thảo bao”, là cái túi rơm để đựng hạt giống mềm yếu và vô dụng. Nên hãy nhớ điều này: bất kỳ ai muốn phát nguyện trở thành đệ tử của tôi là phải luôn luôn vượt thắng mọi điều, phải có tâm kiên cố như chùy Kim Cang vậy. Còn như “thủy bì” và “thảo bao” thì không thể nào theo nổi. Tất lỵ tất lỵ là Hợp chưởng thủ nhãn ấn pháp. Có thể khiến cho tất cả long xà, hổ lang, sư tử, nhân cùng phi nhân ph1t tâm kính ngưỡng. Tuy nhiên, hành giả phải thực sự có tâm dõng mãnh, vượt thắng và tâm bất thối chuyển. Công năng của ấn pháp này không phải là ở chỗ ngôn thuyết mà phải bằng nỗ lực hành trì. 45. Tô rô tô rô Tô rô tô rô. Hán dịch là “cam lồ thủy”. Đây cũng chính là Cam lồ thủ nhãn ấn pháp. Trước đây tôi đã giảng về diệu dụng của nước cam lồ rồi. Có thể giúp cho các loài quỷ đói được no đủ và mọi tâm nguyện đều được như ý, làm tiêu tan mọi sự đói khát, thọ nhận được nhiều điều tốt lành khác nữa. Nước cam lồ này còn gọi là “Bất tử dược”. Nếu có người sắp chết uống nước cam lồ này thì sẽ được sống lại. Nhưng không dễ gì gặp được nước cam lồ này nếu không có duyên lành. 46. Bồ đề dạ - Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Hán dịch là “Giác đạo”. Muốn thành tựu giác đạo thì trước hết, quý vị phải có được giác tâm. Nếu không có giác tâm, thì không thể nào tu tập để thành tựu đạo giác ngộ. Hành giả trước hết phải có tâm liễu ngộ chân thực rồi mới có thể tu tập đến chỗ thành tựu đạo nghiệp được. Hai câu chú này gọi là Bất thối kim luân thủ nhãn ấn pháp. Đó chính là tâm bồ đề kiên cố không bao giờ thoái chuyển. Từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị phải phát tâm dõng mãnh ngày càng tinh tất hơn. Đừng nên dừng lại hoặc lui sụt. Chẳng hạn như khi quý vị nghe giảng kinh, hãy khởi tâm niệm rất khó có dịp được nghe giảng kinh Phật. Rất hiếm khi được gặp pháp hội. Mặc dù chuyện này xem có vẻ bình thường, nhưng nếu quý vị lắng lòng suy gẫm kỹ sẽ thấy giá trị vô cùng. Thử xem có nơi đâu trên thế giới này có được một pháp hội tinh tấn như thế này, ngày nào cũng đến đây để nghe giảng kinh? Còn có nơi đâu khác trên thế giới mà pháp âm tuôn trào như thác, như sông mãi không ngừng như ở đây? Nên khi đã có duyên ngặp gỡ được pháp hội, quý vị phải thu xếp công việc, dù có bận rộn bao nhiêu, bất luận pháp sư giảng đề tài gì, người nào giảng cũng phải đến nghe. Đừng có phân biệt giữa pháp sư giảng hay và người giảng kém, rồi chỉ đến nghe người giảng hay. Nếu quý vị vẫn kiên trì đến nghe bất luận pháp sư nào giảng, lâu ngày chày tháng, chắc chắn quý vị sẽ thâm nhập được vào dòng đạo lý chân thật. Dù ai giảng đi nữa, quý vị cũng nên đến nghe để hộ trì cho pháp hội. Nếu một tuần có giảng pháp bảy đêm thì quý vị cũng nên tham dự cả bảy đêm. Đừng nên lười biếng! Pháp môn này khó gặp được đã từng hằng triệu kiếp nay rồi. Một khi đã có duyên được gặp thì phải nên tinh tấn tu học. Sự tinh tấn chính là “tâm Bồ đề” kiên cố dõng mãnh vậy. Nếu bỏ mất tâm Bồ đề mà mong ngày thành đạo thì không khác gì nấu cát mà mong thành cơm. Nên trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Vong thấ Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị chư ma nghiệp”. Nghĩa là: “Bỏ quên tâm Bồ đề dù tu ngàn thiện pháp như làm việ ma vậy”. Về bất thối, có ba dạng: - Thứ nhất là vị bất thối: Nếu hành giả đã chứng quả A la hán tồi, thì không còn trở lại hàng phàm phu nữa, Nếu hành giả đã chứng quả Bồ tát rồi thì không còn rơi lại hàng A la hán nữa. Nếu hành giả đã chứng đắc quả vị Phật rồi thì không còn trở lại hàng Bồ tát nữa. Trừ những vị muốn thị hiện hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Ví dụ như hành giả có thể phát nguyện: “Nay tôi đã thành tựu quả vị Phật rồi, tôi muốn hiện thân Tỳ kheo để giáo hóa chúng sanh”. Điều ấy hoàn toàn đúng. - Thứ hai là niệm bất thối: Đôi khi hành giả phát khởi tâm niệm: “Tu học Phật pháp thật chán, tôi không còn muốn tu hành hoặc đi giảng pháp gì nữa cả!”. Đây là niệm thoái thất. Khi hành giả khởi niệm thoái thất, thì ma chướng liền theo ngay, vì ma vương rất vui khi người tu hành khởi niệm lui sụt. Một khi quý vị đã đạt được “niệm bất thối”, thì càng nghe pháp, càng muốn được nghe nhiều hơn. Niệm bất thối là tâm lượng của hành giả không còn bị trôi lăn trong dòng thức biến “bất giác vọng động nữa”, không còn trải qua bốn tướng sinh trụ dị diệt của niệm khởi nữa. Niệm bất thối luôn được lưu xuất từ Bồ đề tâm, là bạn đồng hành của tâm kiên cố. Kiên cố là nét đặc trưng của tâm Bồ đề. Niệm bất thối và tâm kiên cố là nền tảng của đại nguyện Bồ tát. Niệm bất thối là niệm mà vô niệm. Vô niệm mà tự niệm “niệm vô niệm, vô niệm nhi tự niệm”. Niệm này là niệm vi mật hiện tiền, không thể suy lường. Niệm bất thối luôn luôn đi với hạnh bất thối. - Thứ ba là hạnh bất thối: Nghĩa là thực hành đạo Bồ tát. Tuy làm mọi việc trong vô số cảnh giới mà không hề rời bản tâm, rời đại nguyện, rời niệm bất thối. Niệm Kim cang nguyện, thực hành Kim cang hạnh không thể nghĩ bàn. Đứng trên nhân thừa mà luận, thì hạnh bất thối là sự hành trì tinh tấn, miên mật với tâm tinh tấn dõng mãnh hướng tới Phật thừa. Khi quý vị hành trì Bất thối Kim Luân thủ nhãn ấn pháp, thì từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị sẽ không còn thối chuyển. Nhưng quý vị phải tinh tấn hành trì! 47. Bồ đà dạ - Bồ đà dạ Câu chú này với câu trước giống nhau, chỉ khác âm giữa Bồ đà dạ. Hán dịch là “trí giả” và “tác giả”. - Trí là hiểu biết chân chính, là trí tuệ. - Giác là sự tỉnh thức. Người có được sự hiểu biết chân chính là người đã giác ngộ đích thực và có được trí tuệ. Đây là Đảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp. Chữ hóa Phật trong Dảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp chính là “giác giả”. Vị Bồ tát hành trì thành tựu Đảnh thượng hóa Phật ấn pháp cũng chính là “trí giả”. Cơ bản, “trí” và “giác” vốn chẳng khác nhau. Giác là sự giác ngộ, là giai đoạn sau của cái biết tròn đầy chân thực (trí). Tri là cái biết toàn triệt, là giai đoạn trước của giác ngộ. Nếu quý vị tu tập Đảnh thượng hóa Phật ấn pháp thành tựu rồi thì quý vị sẽ là người có trí tuệ chân chính, là người đã tự mình giác ngộ rồi. Nếu quý vị tu tập ấn pháp này thì mười phương chư Phật sẽ liền đến xoa đầu thọ ký cho quý vị trong tương lai sẽ chứng được quả vị Phật. Trong khi đang niệm Phật hoặc trì chú, hoặc tọa thiền, hành giả đôi khi có cảm giác là lạ trên đỉnh đầu, như thể có một loài côn trùng bò quanh đầu vậy, nhưng khi quý vị lấy tay sờ đầu thì thấy không có gì lạ. Tôi sẽ nói cho quý vị biết đó là gì. Lúc ấy, chính chư Phật trong mười phương đến xoa đầu thọ ký cho quý vị sẽ thành tựu Phật quả trong tương lai. Nhưng vì quý vị chưa có được thiên nhĩ thông nên không nghe được; vì chưa có được thiên nhãn thông nên quý vị không thấy được. Tuy vậy, chư Phật trong mười phương thực sự đã rời bổn độ du hành đến đạo tràng xoa đầu thọ ký cho quý vị. Thế nên nếu quý vị có phước duyên gặp được, thì đây là một cảm ứng xuất phát từ công phu hành trì của quý vị. Nhưng quí vị không được khởi tâm mê đắm, hay ngã mạn mà nghĩ rằng: “À! Chư Phật vừa đến xoa đầu thọ ký hộ trì cho tôi”. Nếu quý vị khởi niệm vui mừng hay hãnh diện vì điều này cũng đều là chấp trước. Dù đây là triệu chứng tốt lành, mà khi quý vị đã khởi tâm đắm chấp rồi, thì cũng trở nên xấu. Trong chương cuối của Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đức Phật trìh bày rất nhiều cảnh giới, tất cả đều là cảm ứng xuất phát từ nỗ lực dụng công tu hành. Nhưng nếu hành giả nghĩ rằng mình đã chứng được cảnh giới vi diệu, thì hành giả trở nên bị chấp trước và liền lạc vào tà ma ngoại đạo, liền bị ma chướng. Do vậy, khi tu tập pháp này, quý vị phải tự an trú trong trạng thái “như như bất động”. Cho dù có gặp cảnh giới tốt hoặc xấu, cũng giữ tâm kôhng dao động. Khi tâm không dao động, là quý vị có được định lực, trí tuệ sẽ phát sinh. Có trí tuệ chân chính, quý vị sẽ trở thành “trí giả” và “tác giả”. 48. Di đế rị dạ Di đế rị dạ. Hán dịch là “ chánh lượng”. Cũng dịch là “đại lượng”; nghĩa là số lượng rất nhiều, không đếm được. Còn dịch là “đại từ bi tâm” nghĩa là tâm từ bi quá rộng lớn, không có ngằn mé. Tâm từ bi này bảo hộ che chở cho tất cả mọi loaì chúng sanh và giúp cho họ được an vui, khiến cho chúng sanh thể nhập với bản tâm của mình, thoát khỏi sợ hãi và tránh xa mọi tai ương. Đây là Tích thượng thủ nhãn ấn pháp. Trên đầu tích trượng có chín vòng tròn bằnh đồng. Lúc xưa, người xuất gia đi đâu cũng mang theo tích trượng. Mỗi khi đi đường, chín vòng kim loại này sẽ tạo nên âm thanh, báo động cho các loài côn trùng tránh xa để khỏi bị dẫm đạp lên mình. Tích trượng là một loại pháp khí trong Phật giáo. Bồ tát Địa Tạng thường dùng tích trượng như là chìa khóa để mở cửa các địa ngục. Vì vậy nên hành giả tu tập ấn pháp này phải nuôi dưỡng lòng từ bi rộng lớn, phát nguyện cứu giúp cho toàn thể mọi loài chúng sanh. 49. Na ra cẩn trì Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền ái” hoặc là “Hiền thủ” cũng dịch là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”. Nghĩa là người đứng đầu trong các bậc Thánh hiền, họ là thượng thủ, là bậc khó tìm cách bảo bọc, che chở cho chúng sanh, khéo độ thoát cho chúng sanh đến quả vị tối cao. Đây là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp. Cũng gọi là Hồ Bình ấn pháp. Bình nước này có thể tẩy trừ mọi uế trược ở thế gian, cứu giúp chúng sanh thoát khỏi bệnh khổ. Bồ tát tu tập thành tựu ấn pháp này sẽ có năng lực hộ niệm cho toàn thể chúng sanh. Khi quý vị tu tập pháp ấn này thành tựu rồi, quý vị sẽ có khả năng cứu giúp mọi loài chúng sanh, giúp họ ngăn ngừa được mọi tai ương, chướng nạn. Nên còn được gọi là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”. 50. Địa lỵ sắt ni na Địa lỵ sắt ni na. Hán dịch là “Kiên lợi”. Còn có nghĩa là “Kiếm”. Đây là Bảo kiếm thủ nhãn ấn pháp. Trước đây khi giảng về bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, tôi có nói rằng ấn pháp này có công năng hàng phục mọi loài ly, mỵ, võng lượng. Khi quý vị utu tập thành tựu ấn pháp này rồi, tất cả các loài thiên ma ngoại đạo, ly mỵ vọng lượng đều ngoan ngoãn quy phục bởi vì họ sợ ấn pháp Bảo kiếm này của hành giả. Ấn pháp này rất oai hùng. Nếu có loài thiên ma ngoại đạo nào không tuân phục ấn pháp, hành giả có thể trừng phạt ngay bằng Bảo kiếm này.
    2 likes
  12. 31. Địa lỵ ni Địa lỵ ni. Hán dịch rất nhiều nghĩa. Thứ nhất là “thậm dõng” nghĩa là dũng khí mãnh liệt. Cũng có nghĩa là “tịnh diệt hoặc khiết tịnh”. “Thậm dũng” là dạng tướng động. “Tịnh diệt” là dạng tĩnh. Còn dịch là “Gia trì và thôi khai”. - “Gia trì” có nghĩa là làm cho các ác pháp đều được chuyển hoá, hướng về phụng hành theo thiện pháp. - “Thôi khai” là làm cho các nghiệp chướng, tai nạn của chúng sinh đều được tiêu trừ. Đây là Cu thi thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Gọi tắt là thiết câu ấn pháp, có công năng làm cho tất cả quỷ thần, thiên long bát bộ đến hộ trì cho hành giả. Nếu quí vị công phu hành trì thành tựu thủ nhãn này, thì có thể bảo thiên long làm mưa và sẽ có mưa ngay, nếu hành giả cần có gió, họ sẽ làm ra gió ngay, khi hành giả muốn mưa gió đừng hoành hành thế gian nữa, mưa gió sẽ hết ngay. Quí vị sẽ nói: “Tôi không tin như vậy”. Đúng vật! Đó chính là lý do mà tôi muốn nói cho quí vị nghe, tất cả chỉ là vì quí vị không tin. Không có niềm tin và không ở trong cảnh giới này thì khó lòng hiểu nổi. Nếu muốn, quí vị có thể hỏi những người vừa mới từ Đài Loan trở về ngày hôm nay về cơn mưa ở Đài Loan. Khi tôi nói chuyện với Phật tử ở Đài Loan qua điện thoại, họ cho biết trời đang mưa và rất lạnh. Họ mong muốn thời tiết được ấm áp và bớt mưa. Tôi bảo họ hãy yên tâm, chuyện đó sẽ xảy ra. Họ lại thắc mắc: - Sư phụ có thể khiến trời hết mưa hay sao? Tôi chỉ nói vắn tắt: - Quí Phật tử hãy đợi xem trời có tạnh mưa hay không? Ngay khi tôi vừa cúp điện thoại, thì trời bắt đầu tạnh ráo. Họ đều cho đó là chuyện lạ kỳ. (Những ai đã đến Đài Loan năm 1969 để dự giới đàn, đều có thể chứng kiến chuyện này. Trời mưa dầm ở Keelong Đài Loan ít nhất cũng là 48 ngày, nhiều nhất là 53 ngày. Chúng tôi đang ở Đài Loan để thọ giới. Cả tự viện không còn chất đốt, một khi củi đã bị ướt rồi, thì không còn cách nào để sưởi cho khô lại được. Tuy nhiên,vào sáng ngày 18/4 như đã nói ở trên, đúng ngay lúc chúng tôi vừa chấm dứt cuộc điện đàm thì mặt trời vừa hiện ra, bầu trời trở nên sáng trong và khí trời trở nên ấm áp liền. Chú thích của người dịch từ Hoa văn sang Anh Ngữ). Thực ra, đó chẳng phải là gì khác, chính là năng lực của thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Quí vị chỉ cần kiết ấn và gọi: “Thiên long, đừng làm mưa nữa!” thì trời sẽ dứt mưa ngay. Loài rồng sẽ chấp hành theo lệnh của quí vị và chỉ khi quí vị đã thành tựu ấn pháp này và đã thông thạo thiết câu thủ nhãn. Rồng phun mưa sẽ tuân theo ấn pháp này và đình chỉ việc làm mưa liền. Quí vị sẽ nghĩ là tôi nói đùa nhưng đúng là như vậy. Bây giờ, tôi đang giảng kinh cho quí vị nghe và tôi đang nói với quí vị bằng chân ngữ. Đây không phải là chuyện nói đùa. 32. Thất phật ra da Mỗi khi quí vị niệm Thất Phật ra da thì toàn pháp giới này có một luồng chớp sáng phát ta. Cứ mỗi niệm Thất Phật ra da là có một luồng quang minh phóng ra bao trùm cả vũ trụ. Thất Phật ra da được dịch là “phóng quang”. Còn dịch là “tự tại”. Phiên âm từ tiếng Phạn “Isara” như trong chữ “Avalokihesvara”. ở đây có nghĩa là “Quán”, vì có quán chiếu thâm sâu rồi mới được “tự tại”. Nếu quí vị không có sức quán chiếu thâm sâu, thì quí vị sẽ không đạt được năng lực tự tại. Quán chiếu nghĩa là hướng vào bên trong tự tâm mà công phu chứ không phải hướng ra ngoại cảnh bên ngoài. Nghĩa là hướng vào bên trong mà quán chiếu không ngừng. Hãy tự hỏi: “Ta có hiện hữu hay không?”. Ông chủ có hiện hữu trong chính tự thân quí vị hay không? Quí vị có làm chủ được mình hay không? Mặt mũi xưa nay của ông chủ có hiện hữu hay không? Thường trụ chơn tâm thể tánh thanh tịnh có hiện hữu hay không? Nếu những cái đó đều hiện hữu, có nghĩa là quí vị đạt được tự tại. Còn nếu không hiện hữu, có nghĩa là quí vị không có được tự tại. Sự phóng quang cũng mang ý nghĩa tự tại. Nếu quí vị đạt được năng lực tự tại, thì quí vị có thể phóng quang. Nếu chưa có được năng lực tự tại, thì không thể phóng quang được. Thất Phật ra da cũng được dịch là “Hoả diệm quang”, cũng gọi là Hoả quang. Đó là lửa, nhưng không phải là lửa phát sinh từ tập khí phiền não, như quí vị thường nói: “Tôi vừa nổi nóng như lửa”. Đó cũng không phải là lửa xuất phát từ sự sân hận, phẫn nộ, căm hờn của quí vị, mà đó chính là lửa trí tuệ. Đó cũng chính là nước từ trí tuệ tiết ra để dập tắt lửa vô minh. Trí tuệ chân chính hiển lộ khi lửa vô minh bị dập tắt. Đó chính là Hoả Diệm Quang. Khi quí vị trì tụng Thất Phật ra da tức là quí vị đang phóng quang. Nhưng trước tiên quí vị phải có được năng lực tự tại. Không có năng lực tự tại thì quí vị không thể nào phóng quang được. Hãy nhớ kỹ điều này. Đây là Nhật Tinh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp này có công năng chữa trị bệnh mắt mờ không thấy rõ. Dùng ấn pháp này khiến cho mắt được sáng lại. 33. Giá ra giá ra Giá ra giá ra dịch nghĩa là “hành động”. Đó là hành động như quân đội thi hành một mệnh lệnh hành quân. Hành quân là một mệnh lệnh nếu quí vị không tuân hành, có nghĩa là chống lệnh. Đây là Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp. Khi quí vị rung chuông, âm thanh vang lên khắp không gian, thông cả thiên đàng, chấn động cả địa giới. Nếu quí vị cần thực hiện việc gì, chỉ cần rung chuông lớn, các loài chư thiên, thiện thần, yêu ma quỷ quái đều tuân theo mệnh lệnh của quí vị. Chẳng hạn như khi có động đất, quí vị chỉ cần rung chuông lên rồi ra mệnh lệnh: “Quả đất không được rung lên như vậy”, trái đất trở về trạng thái yên bình ngay. Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một âm điệu tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu thành tưu rồi, tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian. 34. Ma ma phạt ma la Ma ma. Hán dịch là “ngã sở thọ trì”. Đó chính là một loại mệnh lệnh hành động. Có nghĩa là “mọi việc tôi làm bảo đảm chắc chắn phải được thành tựu”. Ma ma là Bạch phất thủ nhãn ấn pháp. ở Trung Hoa, các đạo sĩ và Tăng sĩ Phật giáo thường sử dụng phất trần, các vị cao tăng thường cầm phất trần khi đăng bảo toạ để thuyết pháp. Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật. Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều công dụng, nhưng người biết cách dùng ấn pháp này lại rất ít. Tôi biết hiện nay có rất ít người sử dụng được ấn pháp này. Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu. Bình thường, tôi chẳng muốn đến phi trường nhưng trong chuyến bay ấy có chở về vài tượng Phật, nên tôi ra phi trường để nghênh đón tượng Phật chứ không phải để đón các đệ tử của tôi. Các đệ tử của tôi cũng không cần tôi đón, cũng chẳng cần đưa. Khi họ đi Đài Loan thọ giới, tôi đã nói với họ rằng: “Khi mê thì thầy độ Khi ngộ rồi tự độ”. Nay họ phải tự độ chính họ, họ đã ra đi, nay lại trở về. Chắc chắn họ phải tự tìm ra con đường từ phi trường về chùa. Họ chẳng cần tôi phải chỉ dẫn: “Quẹo ở đó, đi theo đường này, đó là đường về chùa”. Điều buồn cười nhất là khi họ viết thư báo cho tôi biết họ đã bỏ quên một thùng Kinh. Tôi bảo: “Bỏ quên kinh chẳng có gì quan trọng. Điều quan trọng chính là không có ai trong các con bị bỏ quên”. Năm người đi thọ giới và nay năm người đều đã trở về. Sao vậy? Vì tôi đã mua bảo hiểm ở chư vị Bồ – tát, nên để cho bất kỳ ai bị bỏ sót lại là điều không thể chấp nhận được. Nếu một người không về, tức là chư vị Bồ – tát không thực hiện đúng hợp đồng. Thế nên tôi rất tin tưởng rằng tất cả các giới tử sẽ trở về và dịch vụ bảo hiểm của chư vị Bồ – tát không cần phải thanh toán hợp đồng. Quí vị nên nhớ một điều. Những người thọ giới Cụ túc trở về hôm nay là những vị Tổ khai sơn của Phật giáo Mỹ quốc. Đừng xem việc này đơn giản. Điều này rất chân thực. Đừng như những kẻ tự cho mình là Phật tử, chỉ nằm ở nhà mà thích gọi mình là “Tổ tại gia”. Thực vậy, cách đây vài hôm, có một vị Tổ sư tự phong đến đây và muốn hát tặng cho tôi nghe. Tôi giễu cợt ông ta: “Thật chán khi nghe ông hát”. Ông ta chỉ bật lên: “ồ!”, một tiếng rồi bỏ đi. Phạt ma ra là “Hàng ma kim cang hộ pháp”, tay cầm bánh xe bằng vàng. Vị hộ pháp này có thể hoá thân lớn như núi Tu Di. Phạt ma ra. Hán dịch là “Tối Thắng Ly Cấu”, có nghĩa đó là pháp thù thắng nhất, xa lìa tất cả mọi cấu nhiễm ở thế gian. Còn có nghĩa là “vô tỷ như ý”. Vì không có gì có thể sánh với pháp này và tuỳ tâm nguyện của mình mà mọi điều xảy ra như ý muốn. Đây là Hoá cung Điện thủ nhãn ấn pháp. Nếu quí vị hành trì được ấn pháp này thành tựu, thì đời đời quí vị sẽ được sống cùng một trụ xứ với đức Phật (như trong một cung điện), không còn phải thọ sinh vào các loài thai sinh, noãn sinh và thấp sinh nữa. Công dụng của sự thành tựu ấn pháp này là đời đời được sống cùng chư Phật. 35. Mục đế lệ Mục đế lệ là Dương chi thủ nhãn ấn pháp của đức Phật. Đó là nhánh cây mà quí vị thường thấy Bồ – tát Quán Thế Âm cầm ở một tay, còn tay kia Bồ – tát cầm một tịnh bình. Nhành dương này được Bồ – tát nhúng vào tịnh bình rồi rưới lên cho tất cả mọi chúng sinh bị đau khổ. Nước này không như nước thường. Đó là nước cam lồ. Chúng sinh nào được nước này tưới nhuận sẽ có nhiều lợi lạc. Nước cam lồ có thể giúp cho mọi chúng sinh thoát khỏi khổ luỵ đói khát và bản tâm đạt được thanh lương. Mục đế lệ còn dịch nghĩa là “giải thoát”. Đó là giải thoát khỏi mọi khổ nạn, bệnh tật và chướng ngại. Nên Bồ – tát Quán Thế Âm thường dùng Dương chi thủ nhãn ấn pháp này để giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn và những điều bất như ý. Bề ngoài, chú này dường như không có gì quan trọng lắm, nhưng một khi quí vị công phu hành trì ấn pháp này thành tựu rồi, thì không những quí vị có thể giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi bệnh tật và khổ nạn mà còn có thể hàng phục cả thiên ma ngoại đạo. Khi những thiên ma ngoại đạo được thấm nhuận nước cành dương này, họ tự nhiên hồi tâm hướng thiện, thực hành theo chánh pháp. Do vậy, Dương chi thủ nhãn có diệu dụng vô cùng vô tận, không thể nghĩ bàn. Giọt nước cam lồ từ bàn tay Bồ – tát Quán Thế Âm không những chỉ giúp cho quí vị thoát khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn mà còn có một diệu dụng khác, khi một người sắp chết, nếu có phước duyên, được Bồ – tát Quán Thế Âm rảy nước lồ thì có thể sống lại. Tất cả các loài cây cỏ thảo mộc đã khô héo nếu được nước cam lồ tưới xuống cũng được hồi sinh. Cây cỏ là loài vô tình, mà khi được nước cam lồ tưới tẩm còn được nảy mầm, đơm hoa, kết trái như vậy nên chúng sinh là loài hữu tình sẽ được lợi lạc biết bao. Đó là diệu dụng của Dương chi thủ nhãn ấn pháp. 36. Y hê y hê Y hê y hê là Độc lâu trượng ấn thủ nhãn ấn pháp. Hán dịch là “thuận giáo”. Nghĩa là một khi quí vị nhờ ai làm việc gì đó, họ đều ưng thuận. Khi quí vị dùng chánh pháp để giáo hoá, họ đều vâng lời. Câu chú này còn dịch là “tâm đáo”. Nghĩa là trong tâm hành giả ước nguyện điều gì, nhờ năng lực của chú này đều được thành tựu. Câu chú này khiến cho Ma – hê – thủ – la vương, là một Thiên ma ngoại đạo thường cho rằng mình là vĩ đại nhất, cũng phải cung kính chắp tay đến nghe lời chỉ giáo khi nghe có người trị tụng thần chú này, không dám trái nghịch. Thế nên khi quí vị trì niệm câu Y hê Y hê, thì Ma – hê – thủ – la vương liền đến, bất kỳ tâm nguyện của hành giả như thế nào, vị này liền thi hành ngay, đáp ứng đúng như sở nguyện của người trì chú. 37. Thất na thất na Câu chú này được dịch là “Đại trí tuệ”, cũng dịch là “Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Bảo cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật. Đại trí huệ là gì? Đó là khi chúng sanh không còn dính mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, thì mỗi niệm đều là biểu hiện của trí bát nhã, mỗi tâm niệm đều lưu xuất từ Đại Quang Minh. Nếu quý vị có trí huệ chân chính thì sẽ có được Quang Minh. Còn nếu chưa thể nhập trí tuệ tự tánh, thì vẫn còn trong màn tối tăm của vô minh. Quang minh là ánh sáng dương, còn bóng tối vô minh là âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi vì lực âm trồi lên quá mạnh. Do đâu người ta có trí tuệ sáng suốt? Bởi vì ánh sáng dương lớn mạnh hơn. Những người có trí tuệ không có lối suy nghĩ như những kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rõ ràng chính tà. Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều ngay nơi tự thân của mình. Họ không đi vào con đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và hạ thủ công phu. Trong khi hành trì, trước tiên quý vị phải đạt được trí tuệ. Rồi quý vị phải biết rõ ràng chính tà để rồi mới tiến vào con đường chánh lộ và tránh con đường tà vạy. Nhưng quý vị không thể nào biết rõ việc làm nào hư ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quý vị kôhng thể nào biết được rõ ràng thế nào là phạm giới, nên cứ thế mà làm, ráng hết sức để làm cho được, cứ muốn nhìn cho được dù thực sự đó là những thứ chướng ngại. Những hành vi như thế là sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn toàn sự non yếu trí tuệ. Ồ! Không – Quý vị có thể phản đối – Tôi là người có trí tuệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời thôi! Chỉ sai lầm một lần thôi cũng có nghĩa là vô minh, không có trí tuệ rồi. Người có đại trí tuệ không hề có tư tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đã phát nguyện: Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân. Nghĩa là: “Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong muôn ức kiếp”. Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà chứng ngộ được pháp thân”. Tôn giả đã phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm kiếp nhưng trong vô số kiếp. Nhưng tại sao trong tâm ta lại có quá nhiều vọng tưởng như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng tưởng khác kế tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng sau lại sinh khởi tiếp nối. Giống như sóng trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng đại dương là vật vô tình, nhưng thực sự nó chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị mà có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm của chúng sanh. Sóng biển không ngừng nổi lên rồi chìm xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng tưởng của chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục mãi. Vọng tưởng trước vừa biến mất, vọng tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng này tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần tương tục, nối theo nhau không dứt, như dòng thác không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng nào muốn rơi lại đằng sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng vọt lên phía trước. Vì sao mà quý vị lại mắc phải quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì không có trí tuệ. Nếu quý vị có trí tuệ, thì chẳng còn mảy may vọng tưởng và sóng cũng không còn xao động nữa. Như trong câu thơ: Thanh phong đồ lai Thủy ba bất hưng Nghĩa là: “Gió trong lành thổi đến, Biển không còn sóng xao”. Khi trong công phu mà quý vị đạt được định lực, cũng như sóng biển đã lặng yên. Khi có được định lực thì nước trí tuệ hiển hiện, không còn một gợn sóng, chẳng còn một niệm vọng tưởng nào nữa. Lúc đó là thanh tịnh chân thực. Đó là lúc: “Nhất trần bất nhiễm Vạn lự giai không” Thực vậy, khi một người không còn bị vướng dù chỉ một hạt bụi vô minh thì chẳng còn phải lo nghĩ một điều gì nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó chính là biểu hiện của đại trí tuệ. Người có trí tuệ thường thành công trong bất kỳ mọi việc, còn người thiếu trí tuệu thường bị thất bại trong bất kỳ việc gì mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên trí tuệ là vô cùng quan trọng. Ngu muội là gì? Vô minh chính là ngu muội. Ngu muội cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh khởi, con người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi một người vừa mới làm một việc sai lầm xong thì rõ: - Tại sao anh lại làm việc đó? Họ sẽ trả lời: - Tôi không rõ nữa … Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng suốt, thiếu trí tuệ. Nhưng dù họ hành động mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không chịu từ bỏ vô minh. Họ lại khăng khăng: - Tôi biết chứ. Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con người mê muội chỉ do vì không có trí tuệ, không đạt được Đại viên cảnh trí, vì họ không chịu công phu hành trì Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, thì sẽ không còn ngu muội nữa; bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi: - Phùng quỷ sát quỷ Phùng Phật sát Phật Đây cũng như việc cầm một cây dao thật bén, chặt ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên. Đại trí tuệ cũng như một con dao bén hay còn được ví như thanh gươm. Quý vị có thể nói: “Gươm trí tuệ rất nặng, không, không dễ gì cầm kiếm ấy được”! Đó là vì quý vị chưa từng cầm nó. Thực ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng chút sức lực nào cả. Nếu quý vị chưa từng cầm nó lên thì thấy nó quá nặng. Nếu quý vị đã cầm lên rồi, thì thấy nó nhẹ. Nếu quý vị không chịu cầm lên, thì nhẹ biến thành nặng. Nếu quý vị chịu cầm lên, thì nặng biến thành nhẹ. Sao vậy? Vì quý vị đã cầm lên rồi! Nếu quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí tuệ rất quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi không thể nhấc lên nổi”. Và quý vị không sờ tới gươm. Thế nên gươm trí tuệ càng nặng thật. Nhưng một khi quý vị đã sờ vào kiếm, đã vung gươm lên rồi thì mọi sự hiểu biết đều bén nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn một chút rắc rối nào nữa cả. Thế nên tôi thường nói với quý vị rằng: “Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính là phát xuất từ đạo lý này. Nếu quý vị gặp nhiều việc rắc rối, là vì quý vị không có thanh gươm trí tuệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí tuệ ấy, thì sẽ chẳng còn chuyện gì rắc rối nữa cả. Màu nhiệm là ở điểm này. Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo cũng như chánh báo đều không vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta. Cái gì là thế giới ý báo? Núi sông, đất liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của chúng ta, chính là nơi mà con người chúng ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu được sự báo ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn vô minh nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương: Vật lai tắc ánh Vật khứ tắc không. Nghĩa là: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận điều gì. Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc. Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”. Khi đã tụng một lần rồi là không còn quên nữa, đã tụng được hai, ba lần, vài trăm lần rồi thì chẳng thể nào quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. Còn khi quý vị chỉ cần nhìn hoặc nghe lướt qua một lần rồi nhớ mãi không quên, chẳng cần phải dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí tuệ của quý vị chiếu sáng như một đài gương trong. Người có trí tuệ đều biết rằng mọi hiện tượng đều lưu xuất từ tự tâm của mình. Nếu quý vị hiểu được điều này thì mình sẽ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Sao vậy? Vì mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm mình, nên những thứ vui buồn giận ghét đều là sở hữu của chính mình. Dù nó tốt hay xấu, cũng chẳng có vấn đề gì cả. Mặc dù nói về cảnh giới ấy thì rất dễ, nhưng tiếp xúc với cảnh giới ấy không phải dễ dàng gì, cần phải có công phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những người không có công phu sẽ nói: “Đối với tôi, chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”. Bên ngoài thì như thế, nhưng vấn đề rắc rối đang phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong. Những người có trí tuệ chân chính thì rất hiếm. Quý vị cũng nên phân biệt rõ trí tuệ thế gian và trí tuệ xuất thến gian. Trí tuệ thế gian còn gọi là Thế trí biện thông, là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi nào cần đến. Nơi nào không có đạo lý, họ có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp lý. Những kẻ mê muội nghe họ nói liền nghĩ rằng: “Ồ! Họ đề cập đến những đạo lý rất đúng”. Thực ra, nếu quý vị có được trí tuệ chân chính, quý vị sẽ không bị đắm chìm trong mớ lý luận ngu muội của họ. Người ta thường nói: “Trong dương có âm”. Cũng vậy, trong trí tuệ cũng có sự ngu muội – sự ngu muội một cách trí tuệ. Mặt khác, trong âm có dương. Bên trong sự ngu muội ẩn chứa một trí tuệ. Chẳng hạn như quý vị có thể thấy một người chẳng nói năng gì cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát, nhưng anh ta làm những việc chân chính. Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ mê muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lý. Có rất nhiều người như vậy. Khi quan sát người khác, quý vị sẽ tự chiêm nghiệm ra chính tự thân mình có được trí tuệ sáng suốt hay không. Nếu quý vị có trí tuệ chân chính, thì quý vị không bị người klhác sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm. Còn nếu quý vị không có trí tuệ, quý vị sẽ bị người khác xui khiến làm điều xằng bậy. Trí tuệ và ngu muội có một mối quan hệ trực tiếp. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô minh thì trí tuệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng trí tuệ. Trong vô minh có trí tuệ và chính trong trí tuệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại như thế? Vì trí tuệ và vô minh là một. Nếu quý vị biết vận dụng, thì đó là trí tuệ. Còn nếu không biết vận dụng thì đó là vô minh. Chẳng hạn như khi quý vị nâng thanh gươm trí tuệ lên thì đó chính là trí tuệ; còn khi quý vị buông thanh gươm ấy xuống thì đó là vô minh. Đó không phải là hai mà chỉ là một. Thế nên quý vị đừng bao giờ nói rằng mình đang đi tìm kiếm trí tuệ và đang xua đuổi vô minh. Không ai làm được việc ấy bao giờ. Chủ yếu chỉ là sự “hồi đầu”. Có thể lấy ví dụ của bàn tay để biểu tượng cho trí tuệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu quý vị muốn cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay thì không thể nào làm được cả, nhưng nếu quý vị dùng chính bàn tay của mình thì mới lấy được đồ vật. Việc không lấy được đồ vật là biểu tượng cho vô minh và việc sử dụng bàn tay để lấy được vật là biểu tượng cho trí tuệ. Đó là hai khía cạnh của chỉ một ý nghĩa chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quý vị. Có người lại nói: “Nay tôi đã hiểu rồi. Vô minh và trí tuệ chính là bàn tay của tôi”. Lại sai lầm nữa! Bàn tay chỉ là ví dụ. Đừng nên cho rằng trí tuệ và vô minh chính là bàn tay. Cũng giống như ví dụ ngón tay và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm). Đức Phật lấy ví dụ dùng ngón tay để chỉ cho người thấy mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay chính là mặt trăng. Thất na thất na là “đại trí tuệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện” – là phát nguyện rộng lớn. Khi muốn hoàn thành một việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng. Như đức Phật A Di Đà trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa với hình tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền cũng đã phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô số lời nguyện cũng như các vị Tổ sư đã từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị nghe về việc phát đại nguyện. Còn có lập nguyện được hay không là do ở quý vị. Tôi đưa đề tài này ra giảng vì tôi đoán chắc là quý vị chưa được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi bắt buộc quý vị phải phát nguyện. Nay quý vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện càng lớn thì sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân và chưa ai thành Phật cả, chúng ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”. Thật chứ? Làm sao quý vị có thể độ chúng sanh được. Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi cách để được ăn ngon, mặc đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng sanh trước hết là độ chúng sanh nơi cái miệng chuyên nói lời vọng ngôn của quý vị, độ cái bụng ham ăn, độ cái thân ham thích sung sướng của chính mình trước đã. Cho nên quý vị phải thẳng thắn và minh bạch trong khi phát nguyện. Hiện tại mình phát nguyện gì? Tương lai sẽ ra sao? Như ở trong quá khứ, chúng ta có thể quên lãng những gì đã từng ứng dụng tu hành. Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ thực hành điều gì? Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời phát nguyện. Nay ở trong nhân địa, lời phát nguyện càng lớn thì trong tương lai, kết quả sẽ càng cao. Nếu quý vị đặt tất cả nguyện lực của mình vào một lỗ chân lông, thì quý vị có thể phát một thệ nguyện lớn ngay từ trong lỗ chân lông. Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng dẫn đường đi và nơi đến. Tại sao chư Phật và chư Bồ tát đều phát nguyện khi tu đạo? Vì khi đã phát nguyện rồi, mình mới tự mình hành động tương ứng với nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ tát Địa Tạng khi tu hành ở nhân địa, Ngài đã phát lời nguyện vĩ đại: …“Địa ngục vị không Thệ bất thành Phật Chúng sanh độ tận Phương chứng Bồ đề”. Nghĩa là: “Chúng sanh độ hết Mới chứng Bồ đề Địa ngục nếu còn Con chưa thành Phật”. Nguyện lực này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên phát nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng ngày quý vị thích làm. 38. A ra sam Phật ra xá lợi A ra sam dịch là “Chuyển luân pháp vương”, tức là vị Đại Pháp Vương thường chuyển cỗ xe đại pháp, thường tuyên thuyết diệu nghĩa Đại thừa. Giáo nghĩa này thậm thâm vi diệu, không ai có thể diễn nói tường tận được, nhưng hiện nay quý vị đang được nghe giảng từng chi tiết rõ ràng. Đó là ý nghĩa của câu chú này. Đây là “Chưởng thượng hóa Phật ấn thủ nhãn ấn pháp”. Quý vị nên hành trì ấn pháp này. Khi thành tựu rồi, đời đời khi được sinh ra liền thân cận bên Phật để học hỏi giáo pháp. Có rất nhiều cách để giảng giải chú Đại Bi. Chẳng hạn có một vị pháp sư khác giảng mỗi thủ nhãn này là danh hiệu của một vị Bồ tát. Chẳng hạn vị ấy cho rằng: Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn này là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Đây chính là trường hợp sai một ly đi một dặm. Sao vậy? ở đây hoàn toàn chẳng có một vị Bồ tát nào cả. Quý vị có thể đọc hết cả Tam tạng kinh điển nếu quý vị muốn nhưng sẽ chẳng thấy vị Bồ tát nào có danh hiệu là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát cả. Có thể nói như thế này: Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ tát, chứ không thể gọi đó là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Nếu gọi như thế là một sai lầm. Nên khi nói Bảo bát thủ nhãn ấn pháp quý vị có thể hiểu rằng: Bảo Bát ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ tát. Còn Bảo Bát không phải là danh hiệu của một vị Bồ tát. Mới đây tôi được xem qua bộ “Đại Bi Kinh giảng nghĩa” ở Hồng Kông gửi sang, trong kinh này họ đã giảng bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp là danh hiệu của bốn mươi hai vị Bồ tát. Đó hoàn toàn sai lầm. Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp trong kinh là các pháp tu của hàng Bồ tát. Người học Phật pháp nên ghi nhớ kỹ điểm này, không nên xác tín mà không căn cứ trên sự thực hiển nhiên. Trong khi giải thích Phật pháp cho người nghe, quý vị phải có một lập trường vững chãi, chính xác về những gì mình đưa ra, còn không quý vị sẽ phạm sai lầm. A ra sam là Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp mà các vị Bồ tát đều phải tu hành. Quý vị lại hỏi: “Bồ tát nào?” Đây chẳng phải là một vị Bồ tát nào riêng biệt cả. Bất kỳ người nào hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì người ấy chính là Bồ tát. Bất luận người nào không tu tập bốn mươi hai ấn pháp thì người ấy không phải là Bồ tát. Nếu quý vị tu tập bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp được thành tựu thì có thể minh chứng rõ ràng quý vị đã dự vào hàng Bồ tát rồi. Phật ra xá lợi dịch là “giác thân tử”. Đây là Sở châu thủ nhãn ấn pháp hoặc là Niệm châu ấn pháp, là pháp môn của chư vị Bồ tát tu tập. Khi Bồ tát tu tập thủ nhãn này thành tựu, thì chư Phật trong mười phương nhiếp thọ và tiếp dẫn hành giả đến các thế giới Phật khắp trong mười phương. 39. Phạt sa phạt sâm Phạt sa, phạt sâm dịch là “Hoan ngữ hoan tiếu”. Có nghĩa là rất hoan hỷ khi giảng nói. Còn dịch nghĩa là “Đại trượng phu” và “Vô thượng sĩ”. Đây là Bảo cung thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì thành tựu ấn pháp này, nếu là người tại gia thì có thể được làm quan cận thần, người xuất gia có thể chứng được quả vị A la hán. 40. Phật ra xá da Ở câu trên, Phật ra xá lợi. “Xá lợi”dịch nghĩa là “Giác thân tử”. Còn trong câu Phật ra xá da, “xá da” dịch là “Tượng”: con voi. Nghĩa là khi quý vị đã giác ngộ rồi, thì tâm thể quý vị được ví như một con voi chúa, còn được gọi là Pháp vương tử. Quý vị có thể là Pháp vương tối cao trong tất cả các pháp môn. Nói chung, ý nghĩa của câu chú này là: Tâm giác ngộ như một tượng vương cao quý. Phật ra xá da là nói về bổn thể của đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà là bổn sư của Bồ tát Quán Thế Âm. Vì Bồ tát Quán Thế Âm tỏ lòng tôn kính đức bổn sư của mình nên Bồ tát đã đảnh lễ đức Phật A Di Đà trong khi tuyên thuyết chú Đại Bi. Nên đức Phật A Di Đà phóng hào quang để tiếp độ cho người trì chú này. Phật ra xá da là Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Trong bốn mươi hai thủ nhãn, có Bạch liên hoa thủ nhãn, Thanh liên hoa thủ nhãn, Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì thành tựu các ấn pháp này, hành giả sẽ được diện kiến mười phương chư Phật. Vì vậy Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp rất trọng yếu.
    2 likes
  13. 21. Ca ra đế Ca ra đế dịch là “Bi giả” là người có lòng từ bi rộng lớn, thường cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau và thất vọng. Người mà có thể cứu giúp cho chúng sinh vơi bớt khổ đau là một người “đại bi”. Ca ra đế còn có nghĩa là “tác giả”. Người có thể làm cho đạo nghiệp sinh khởi, giúp cho mọi chúng sinh đều phát tâm bồ - đề, phát nguyện làm những việc khó làm như hành Bồ – tát đạo để tiến tới tựu thành Phật quả. 22. Di hê rị Di hê rị dịch nghĩa là “Thuận giáo”. Khi quí vị trì tụng đến câu chú này, nghĩa là quí vị tự phát nguyện: “Con nhất quyết thực hành theo hạnh nguyện của Bồ – tát Quán Thế Âm, sẽ giáo hoá cho tất cả chúng sanh. Con nguyện nương theo giáo pháp Ngài đã dạy mà tu hành”. Di hê rị còn có nghĩa là “Y giáo phụng hành”. Nương theo lời dạy của Bồ – tát Quán Thế Âm cũng như Quán Thế Âm của tự tâm để thực sự tu trì. 23. Ma ha bồ đề tát đỏa Ma ha có nghĩa là “đại” là to lớn. Bồ - đề có nghĩa là “giác đạo”, là giác ngộ được đạo lý chân chính. Tát đoả. Hán dịch là “đại dũng mãnh giả”. Câu này có nghĩa chư vị Bồ – tát là người phát tâm đại bồ - đề rất dũng mãnh và phát tâm tu hạnh Bồ đề. Phát bồ đề tâm nghĩa là gieo trồng nhân giác ngộ, tu bồ - đề hạnh là vun trồng, tưới tẩm cho hạnt giống bồ - đề đã gieo được nảy mầm, rồi mới mong gặt được quả giác ngộ, tức là quả vị Vô thượng bồ - đề. Đây là ý nghĩa của câu chú Ma ha Bồ đề tát đoả. Câu chú này thuyết minh về công hạnh trang nghiêm viên mãn của chư vị Bồ – tát là do định huệ song tu. Khi Định đã lắng trong thì Huệ cũng được chiếu sáng. Khi Huệ đã viên mãn, thì Định viên dung. Vì Bồ – tát Quán Thế Âm đã đạt được định lực viên mãn, nên xuất sinh trí tuệ sáng suốt. Vì Bồ – tát đã đạt được trí tuệ viên mãn, nên Ngài mới đạt được định lực lắng trong. Không có Định thì chẳng có Huệ và không có Huệ thì chẳng đạt được Định. Nên gọi định huệ không hai là vậy. Do nhờ tu tập vô số công hạnh mà Bồ – tát được trang nghiêm thân tướng nên chư vị không rời bỏ một pháp nào dù nhỏ bé hoặc vô cùng vi tế. Dù một việc thiện nhỏ nhất, cho đến lớn nhất, chư vị Bồ – tát đều hoàn tất chu đáo. Nên kinh có dạy” “Chớ khinh việc thiện nhỏ mà không làm Chớ xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”. Các vị Bồ – tát thường siêng năng làm các điều thiện và dứt khoát từ bỏ các việc ác, chư vị phát bồ - đề tâm và đạt được quả vị giác ngộ Vô thượng bồ - đề. Chư vị trang nghiêm pháp thân bằng vô số công hạnh. Chư vị phát đại bi tâm, thực hành đại pháp vô duyên từ tuỳ theo tâm lượng của chúng sinh mà làm Phật sự. Nhưng chính các vị Bồ – tát, tự bản tánh và bản thể của các Ngài không hề gợn một mảy may tướng trạng của chúng sinh tâm. Các Ngài tự thấy mình và toàn thể chúng sinh có đồng một thể tánh, không hề phân hai. Các Ngài không chỉ chịu khổ cho riêng mình, mà ước nguyện giúp cho chúng sinh thoát khỏi mọi khổ luỵ. Dù các Ngài chuyển hoá tất cả mọi sự thống khổ cho chúng sinh mà không hề dính mắc chút nào vào việc mình có độ thoát cho chúng sinh. Các Ngài không bao giờ tự cho rằng: “Tôi đã cứu độ cho anh rồi, nay anh phải cám ơn tôi. Tôi đã giúp anh thoát khỏi mọi phiền não, anh phải tỏ ra biết ơn tôi”. Chính vì chư vị Bồ – tát không có tâm niệm như vậy, nên các Ngài mới có thể ứng hiện ba mươi hai thân tướng, để kịp thời đáp ứng mọi tâm nguyện của mọi loài chúng sinh. Chẳng hạn như cần ứng hiện thân Phật để độ thoát chúng sinh, thì chư vị Bồ – tát liến ứng hiện thân Phật để giảng dạy giáo pháp cho chúng sinh khiến họ được giải thoát. Nếu cần thiết hiện thân Bích Chi Phật, thì các Ngài liền ứng hiện thân Bích Chi Phật để giáo hoá chúng sinh, giúp họ được giải thoát. Cũng như vậy, các Ngài có thể ứng hiện thân A la hán, vua chúa... để giúp cho chúng sinh được độ thoát. Chư vị Bồ – tát có khả năng hóa hiện thành ba mươi hai ứng thân để cứu độ các loài chúng sinh. Các Ngài cũng có được mười bốn pháp vô uý và bốn pháp bất khả tư nghì. Đó là bốn loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Các Ngài đã chứng đạt được quả vị chân thật viên thông, đã thành tựu quả vị Vô thượng bồ - đề. Đó là sự thành tựu quả vị của Bồ – tát Quán Thế Âm. 24. Tát bà tát bà Tát bà tát bà. Hán dịch là “nhất thiết lợi lạc”. Câu chú này bao hàm cả Bảo thủ nhãn ấn pháp, nghĩa là mang đến mọi thứ lợi lạc cho mọi người. Bằng cách hành trì ấn pháp này, quí vị có khả năng đem sự an vui lợi lạc đến cho hết thảy mọi loài chúng sinh. Thiên vương, Diêm vương, Quỷ vương đều chấp hành theo người trì tụng ấn chú này. Quí vị bảo họ: “Hãy thả tội nhân này ra” thì Diêm vương liền tức khắc thả ra liền. Vì sao vậy? Vì quí vị đã có được Bảo ấn này. Bảo ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống lại. Với Bảo ấn, quí vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là “Nhất thiết lợi lạc”. Người Trung Hoa đều biết có một vị Tiên, biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Người con của Quảng Thành vương cũng có một phiên thiên ấn. Chính là ấn này vậy. Đạo Lão gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ – tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”. Nếu quí vị dụng công hành trì thì nhất định sẽ thành tựu Bảo ấn này. Khi thành tựu rồi, nếu có người vừa mới chết hoặc sắp chết, quí vị chỉ cần trì ấn này vào một tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hãy tha cho anh ta trở về dương gian”. Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng để sử dụng được Bảo ấn này, trước hết quí vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công phu chưa thành tựu thì chẳng có kết quả gì. Thế nào nghĩa là thành tựu công phu tu hành? Cũng giống như đi học. Trước hết, quí vị phải vào tiểu học, rồi lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có thể được học vị Tiến sĩ. Tu tập để thành tựu Bảo ấn này cũng như đạt được học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng tạm ví dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn này không có gì so sánh được. Tát bà tát bà nghĩa là “lợi lạc cho tất cả mọi loài chúng sinh”. Quí vị thấy sự diệu dụng vô biên đến như thế. Nên gọi ấn này là Bảo ấn. Nếu quí vị muốn sử dụng được Bảo ấn này thì phải công phu tu trì qua cả bốn mươi hai thủ nhãn. Tát bà tát bà chỉ là một trong bốn mươi hai ấn pháp ấy mà thôi. Có người nghe tôi giảng như vậy sẽ khỏi nghĩ rằng: “Ta sẽ tu tập Bảo ấn này ngay để bất kỳ lúc nào có người sắp chết, ta sẽ sử dụng ấn này, ra lệnh cho Diêm vương không được bắt người ấy chết”. Quí vị cứ thực hành, quí vị có thể giúp người kia khỏi chết, như ng đến khi quí vị phải chết, thì chẳng có người nào giúp quí vị thoát khỏi chết bằng Bảo ấn này cả. Tôi đã có dịp sử dụng ấn này hai lần. Một lần ở Mãn Châu và một lần ở Hương Cảng. Lần ở Mãn Châu là trường hợp cứu một người sắp chết. Người này chắc chắn sẽ chết nếu tôi không sử dụng Bảo ấn này. Vào một chiều trời mưa ngày 18 tháng 4 âm lịch. Một người tên là Cao Đức Phúc đến chùa Tam Duyên, nơi tôi đang ngụ. Anh ta quỳ trước tượng Phật, cầm một cây dao bọc trong giấy báo, chuẩn bị sẵn sàng chặt tay để cúng dường chư Phật. Quí vị nghĩ sao? Anh ta khôn ngoan hay không? Dĩ nhiên là quá ngu dại. Tuy nhiên sự ngu dại của anh ta lại xuất phát từ lòng hiếu đạo. Quí vị biết không. Mẹ anh ta bị bệnh trầm trọng gần chết. Do vì thường ngày mẹ anh ta nghiện thuốc phiện nặng. Nhưng bệnh bà quá nặng đến mức hút thuốc phiện cũng không được nữa. Bà ta nằm co quắp, chẳng ăn uống gì. Đầu lưỡi đã trở sang màu đen, môi miệng nứt nẻ. Bác sĩ Đông, Tây y đều bó tay, không hy vọng gì còn chữa trị được. Nhưng người con trai của bà nguyện: “Lạy Bồ – tát rất linh cảm, con nguyện đến chùa Tam Duyên chặt tay cúng dường chư Phật. Với lòng chí thành, con nguyện cho mẹ con được lành bệnh”. Ngay khi chàng trai sắp chặt tay, có người nắm tay anh ta lôi lại đằng sau rồi nói: “Anh làm gì thế, anh không được vào đây mà tự sát”. Anh ta trả lời: - “Tôi chỉ chặt tay cúng dường chư Phật, cầu nguyện cho mẹ tôi được lành bệnh. Ông đừng cản tôi”. Chàng trai chống lại, nhưng người kia không để cho anh ta chặt tay nên liền cho người báo cho Hoà thượng trụ trì biết. Hoà thượng cũng không biết phải làm sao, Ngài liền phái cư sĩ Lý Cảnh Hoa, người hộ pháp đắc lực của chùa đi tìm tôi. Dù lúc ấy, tôi vẫn còn là chú Sa – di. Tôi được giao nhiệm vụ như là tri sự ở chùa Tam Duyên, chỉ dưới Hoà thượng trụ trì. Tôi chỉ là một chú tiểu, nhưng không giống như những chú tiểu cùng ăn chung nồi, cùng ngủ chung chiếu. Tôi thức dậy trước mọi người và ngủ sau tất cả mọi người. Tôi làm những việc mà không ai muốn làm và chỉ ăn một ngày một bữa trưa, không ăn phi thời. Tu tập chính là sửa đổi những sai lầm vi tế. Nếu khi chưa chuyển hoá được những lỗi lầm nhỏ nhặt ấy, có nghĩa là mình còn thiếu năng lực trong công phu. Hoà thượng trụ trì giao việc đó cho tôi. Tôi liền đến bạch Hoà thượng: - “Phật tử đến cầu Hoà thượng cứu giúp. Nay Hoà thượng lại giao cho con. Hoà thượng làm cho con thật khó xử”. Hoà thượng trụ trì bảo: - “Con hãy đem lòng từ bi mà cứu giúp họ”. Hoà thượng dạy những lời rất chí lý. Tôi vốn chẳng ngại khó nhọc, nên khi nghe những lời đó, tôi rất phấn khích, tôi thưa: - Bạch Hoà thượng, con sẽ đi. Tôi bảo chàng trai: - Anh hãy về nhà trước, tôi sẽ theo sau. Anh ta nói: - Nhưng thầy chưa biết nhà con? Tôi đáp: - Đừng bận tâm về tôi. Hãy cứ về nhà trước. Lúc ấy là vào khoảng năm giờ chiều, mặt trời vừa xế bóng. Anh ta đi theo đường lộ chính, còn tôi đi theo đường mòn. Nhà anh ta cách chùa chừng sáu dặm. Anh ta quá đỗi sửng sốt khi về đến nơi, anh ta đã thấy tôi ngồi đợi anh trong nhà. - Bạch thầy, sao mà thầy biết nhà con mà đến sớm thế? Tôi nói: - Có lẽ anh vừa đi vừa chơi, hoặc anh ham xem bóng đá hay truyền hình gì đó. Cậu ta đáp: - Thưa không, con cố hết sức đi thật nhanh để về nhà. Tôi nói: - Có lẽ xe đạp của anh đi không được nhanh như xe tôi, nên tôi đến trước. Ngay khi vào thăm bà mẹ, tôi thấy không thể nào cứu sống bà ta được. Nhưng tôi vẫn quyết định cố gắng hết sức để cứu bà. Tôi dùng Bảo ấn viết mấy dòng: “Chàng trai này có tâm nguyện rất trí thành, nguyện chặt tay cúng dường chư Phật để cứu mẹ sống. Tôi đã ngăn cản anh ta chặt tay. Bằng mọi cách, xin cho mẹ anh ta được sống”. Tôi gửi Bảo ấn đi, sáng hôm sau bà ta vốn đã nằm bất động suốt bảy, tám ngày nay, chợt ngồi dậy gọi con trai bằng tên tục. - Phúc ơi... Phúc ờ... mẹ đói quá, cho mẹ tí cháo... Chàng trai suốt bảy, tám ngày nay không nghe mẹ gọi. Nay cực kỳ vui sướng. Anh ta chạy đến bên giường nói với mẹ: - Mẹ ơi, mẹ đã nằm liệt giường suốt tám ngày nay. Nay mẹ khoẻ rồi chứ? Bà ta trả lời: - Chẳng biết bao lâu nữa. Mẹ bị rượt chạy trong một cái hang tối đen thăm thẳm không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng ánh sao hay đèn đuốc gì cả. Mẹ chạy và cứ chạy hết ngày này qua ngày khác để tìm đường về nhà mình. Mẹ có kêu, nhưng chẳng ai nghe. Cho đến đêm hôm qua, mẹ mới gặp một vị sư khổ hạnh mang y cà sa đã mòn cũ, vị này đã dẫn mẹ về nhà... Con cho mẹ ăn tí cháo loãng để cho đỡ đói. Người con nghe mẹ nói đến vị sư, liền hỏi: - Nhà sư mẹ gặp dung mạo như thế nào? Bà đáp: - Ngài rất cao. Nếu mẹ được gặp lại, mẹ sẽ nhận ra ngay. Lúc đó tôi đang nghỉ trên giường. Anh ta liền đến bên tôi, chỉ cho mẹ và hỏi: - Có phải vị sư này không? Bà nhìn tôi chăm chú rồi kêu lên: - Đúng rồi, chính thầy là người đã đưa mẹ về nhà. Lúc đó, toàn gia quyến chừng mười người, gồm cả già trẻ, đều quỳ xuống trước mặt tôi thưa: - Bạch Thầy, Thầy đã cứu mẹ con sống lại. Nay toàn gia đình chúng con cầu xin được quy y thọ giới với Thầy. Bất luận nhà chùa có việc gì, con nguyện đem hết sức mình xin làm công quả, và tuân theo lời chỉ dạy của Thầy để tu hành. Về sau, dân cả làng này đều đến chùa xin quy y và cầu xin tôi chữa bệnh cho họ. Tôi bảo: - Tôi chỉ có phép chữa bệnh bằng cách đánh đòn. Quí vị có chịu thì tôi chữa. Họ đồng ý và tôi phải chữa. Có nghĩa là bắt người bệnh nằm xuống, đánh một người ba hèo bằng cái chổi tre. Đánh xong, tôi hỏi: - Đã hết bệnh chưa? Thật là ngạc nhiên. Họ lành bệnh thật! Đó là một chuyện phiền phức xảy ra ở Mãn Châu. Lần thứ 2 tôi dùng Bảo ấn này là ở Hương Cảng. Khi bố của cô Madalena Lew 79 tuổi bị bệnh. Các vị bói toán đều bảo rằng ông ta chắc chắn sẽ qua đời trong năm nay. Ông ta đến gặp tôi xin quy y Tam Bảo để cầu nguyện gia hộ cho ông được sống thêm ít năm nữa. Ông thưa: - Bạch Thầy. Xin Thầy giúp cho con được sống thêm một thời gian nữa. Tôi bảo: - Thế là ông chưa muốn chết. Tôi sẽ giúp cho ông sống thêm 12 năm nữa? Được chưa? Ông rất mừng vội đáp: - Thưa vâng, được như thế thật là đại phúc. Rồi tôi chú nguyện cho ông ta và ông ta được sống thêm 12 năm nữa. Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói: - Được rồi. Thầy đã giúp cho người ta khỏi chết, nay Thầy phải thế mạng. Đến khi quí vị gặp cơn vô thường; chẳng có ai dùng Bảo ấn này để giúp được cả. Nếu quí vị nghĩ rằng mình có thể sử dụng Bảo ấn để cứu mình khỏi chết là quí vị lầm. Diệu dụng của ấn pháp cũng giống như lưỡi dao, tự nó không thể cắt đứt được chuôi dao của chính nó. Nên khi quí vị gặp bước đường cùng, thì cũng giống như chuyện vị Bồ – tát bằng đất nung: Bồ Tát bằng đất nung đi qua biển. Khó lòng giữ thân được vẹn toàn. Vậy nên nếu quí vị dù đã thông thạo trong khi sử dụng ấn pháp này, cũng phải công phu hành trì thêm. Vì lý do này mà tôi ít để ý đến việc riêng của người khác nữa. 25. Ma ra ma ra Hai câu chú này, Hán dịch là “tăng trưởng”. Cũng có nghĩa là “như ý” hoặc “tuỳ ý”. Đó là công năng của Như ý Châu thủ nhãn, làm tăng trưởng phước huệ, làm cho mọi việc đều được tốt lành như ý. “Như ý” nghĩa là tuỳ thuận với tâm nguyện mà được đáp ứng. Quí vị có thấy lợi ích vô biên của ấn pháp này không? Vì vậy nên công năng ấn pháp này là thứ nhất trong bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Diệu dụng của Như ý Châu thủ nhãn vượt ngoài sự diễn tả bằng ngôn ngữ. Nếu quí vị muốn giàu có, hãy hành trì theo thủ nhãn ấn pháp này. Một khi đã thành tựu rồi, thì quí vị sẽ có được mọi thứ và không còn bận tâm vì nghèo khổ nữa. Quí vị luôn luôn giàu có và được vô lượng phước lạc. 26. Ma hê ma hê rị đà dựng Ma hê ma hê. Hán dịch là “Vô ngôn cực ý” “Vô ngôn” nghĩa là không cần phải nói nữa. “Cực ý” có nghĩa là ý niệm kia đã đạt đến chỗ tối thượng, đã đạt chỗ vi diệu rồi. Ma hê ma hê cũng còn có thể dịch là “tự tại”. Tự tại như Đại Phạm Thiên Vương: không buồn, không phiền, không lo, không giận. Suốt ngày đều được tự chủ và an vui. Đây là “ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên. Rị đà dựng là “Thanh Liên Hoa thủ nhãn”. Có nghĩa là “Liên hoa tâm”. Khi quí vị hành trì ấn pháp này thành tựu, sẽ được mùi hương hoa sen xanh toả ra, và được mười phương chư Phật tán thán. Sự vi diệu thật khó có thể nghĩ bàn. Đúng là: Pháp Phật cao siêu thật nhiệm mầu Trăm ngàn ức kiếp khó tìm cầu! 27. Cu lô cu lô yết mông Cu lô cu lô. Hán dịch là “tác pháp”, hoặc dịch là “tác dụng trang nghiêm”, lại còn có nghĩa là “xuy loa giải giới”. Đây ta chính là Bảo loa thủ nhãn ấn pháp. Nay chúng ta đang sống trong thời mạt pháp. Nhiều người nghĩ rằng chỉ cần trì tụng chú Đại Bi là khế hợp với chân tinh thần Phật pháp rồi, nhưng thực ra không phải thế. Chú Đại Bi là gọi thay cho bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và diệu dụng của chú Đại Bi là diệu dụng của bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó chính là toàn thể của chú Đại Bi. Nếu quí vị chỉ biết trì niệm chú Đại Bi mà không hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì như người có tay mà không có chân, nên không thể đi được. Mặt khác, nếu quí vị chỉ biết hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp mà không trì niệm chú Đại Bi thì cũng như người có chân mà không có tay, không làm gì được cả. Cũng vô dụng mà thôi. Vậy nên để liễu triệt chú Đại Bi, trước hết quí vị phải thông đạt bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp rồi phải trì tụng chú Đại Bi nữa, mới được gọi là người thành tựu rốt ráo diệu pháp này của chư Phật. Không phải chỉ vừa mới nghe pháp sư giảng về chú Đại Bi xong rồi liền nói: - “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”. Hiểu như thế cũng chẳng ích lợi gì cả. Cũng giống như người có thân thể nhưng chẳng có tay chân gì cả. Quí vị đã có đủ cả thân thể, tay chân, phải giúp cho chúng hoạt động phối hợp với nhau mới làm nên phước đức được. Bảo loa thủ nhãn ấn pháp là dùng để tác pháp khi quý vị kiến lập đạo tràng, quý vị nên dùng Bảo loa ấn pháp này. Khi quý vị tác pháp này thì những âm thanh vang lên tận cõi trời, thấu tận địa ngục. Khắp cõi nhân gian, và khắp mọi nơi đều có ảnh hưởng. Bất kỳ mọi nơi nào nghe đến âm thanh này đều ở trong sự điều khiển của người trì ấn pháp. Các loài yêu ma quỷ quái đều phải tuân phục, không thể xâm hại. Đây còn gọi là sự kiết giới. ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này. Nay chúng ta đã hiểu được chú Đại Bi, chúng ta nên chí thành và phát tâm kiên cố hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này. Rồi sẽ có được diệu dụng. Yết mông là tiếng Phạn, vốn là ngôn ngữ của Đại phạm thiên, chứ không phải là ngôn ngữ của ấn Độ, nhưng văn pháp ngôn ngữ ấn Độ cũng căn cứ trên ngôn ngữ của Đại phạm thiên. Yết mông là tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự”, cũng dịch là “công đức”. Có nghĩa là làm tất cả mọi việc có công đức lợi lạc cho mọi người. Làm việc lợi lạc công đức cho mọi người cũng chính là tạo công đức cho chính mình. Bồ – tát thực hành hạnh tư lợi và lợi tha, tự giác ngộ giải thoát cho mình và giác ngộ giải thoát cho người khác. Câu chú này nói đến sự thực hành lục độ và vạn hạnh. Đó chính là Bạch Liên Hoa thủ nhãn ấn pháp. Hãy tưởng tượng quí vị đang cầm trong tay đoá hoa sen trắng. Tay quí vị cầm cành hoa sen và miệng trì niệm chú Yết mông yết mông... Không những quí vị trì tụng chú mà còn hành trì mật ấn. Khi trì tụng cả hai pháp này, quí vị mới có thể tạo nên mọi công đức. Khi quí vị trì tụng chú Đại Bi, đồng thời cũng thông hiểu được cách hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì quí vị mới có thể thành tựu lục độ vạn hạnh. Diệu dụng bất khả tư nghì, không bao giờ nói hết được. Nếu có thể nói được chỗ nhiệm mầu ấy thì nó phải có ngần mé. Mà những điều mầu nhiệm thì không có hạn lượng, không có chỗ khởi đầu và kết thúc. Với sự trì niệm Yết mông, quí vị có thể thành tựu được vô lượng công đức. Trong nhiều đời sau, quí vị mãi mãi được trang nghiêm bởi hương thơm của hoa sen trắng và luôn luôn được hộ trì. Sự vi diệu, mầu nhiệm của chú Đại Bi dù có tán thán cũng không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận. 28. Độ lô độ lô, phạt già ra đế Độ lô độ lô. Hán dịch là “độ hải” nghĩa là vượt qua biển khổ sinh tử. Còn dịch nghĩa “minh tịnh”. Khi đã vượt qua biển khổ sinh tử rồi, quí vị sẽ đạt được trí tuệ sáng suốt, chứng nhập bản thể thanh tịnh, đến được bờ bên kia, tức thể nhập Niết Bàn. Từ trong bản thể sáng suốt thanh tịnh ấy, trí tuệ sẽ được lưu xuất, quí vị sẽ hiểu rõ được tất cả mọi pháp môn, chắc chắn quí vị sẽ chấm dứt được vòng sinh tử. Với đại định, tâm quí vị hoàn toàn thanh tịnh. Đó là định lực, khi quí vị có được định lực chân chánh thì có thể vãng sanh ở cõi tịnh độ tươi sáng, đó là thế giới Cực Lạc. Đây là Nguyệt Tịnh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp, là diệu pháp Đà - la – ni do Bồ – tát Nguyệt Quang tuyên thuyết. ấn pháp Nguyệt Tịnh thủ nhãn này có công năng đưa mọi người đến chỗ sáng suốt và an lạc. Phạt già ra đế là Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp. Phạt Già Ra đế. Hán dịch là “Quảng bác trang nghiêm”, còn có nghĩa là “Quảng đại”. Cũng dịch là “độ sinh tử”. Nếu quí vị tu tập hành trì Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp này thì quí vị có thể vượt qua biển khổ sinh tử, có nghĩa là giải thoát. Nếu quí vị không công phu hành trì ấn pháp bàng bi thủ nhãn này, thì không thể nào vượt thoát bể khổ sinh tử, đến bờ giải thoát, niết bàn được. 29. Ma ha phạt già da đế Câu chú này có nghĩa là “Tối thắng, đạipháp đạo”. Pháp là quảng đại, tối thắng và đạo cũng quảng đại, tối thắng. Pháp đạo là chân lý vượt lên trên tất cả mọi sự thù thắng nhất trên đời. Đây là Bảo Kích thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp này có công năng hàng phục các loại thiên ma và ngoại đạo. Công năng của ấn pháp này rất lớn. Chẳng hạn ấn pháp này có thể bảo vệ quốc gia chống nạn ngoại xâm. Nếu quốc gia của quí vị sắp bị xâm lăng, và nếu quí vị hành trì ấn pháp này thì vô hình trung, quân giặc bắt buộc phải rút lui. 30. Đà la đà la Tiếng Phạn rất khó hiểu. Ngay cả những ai đã học tiếng Phạn thông thạo rồi cũng khó có thể hiểu được mật chú và giảng giải rõ ràng được. Tôi chỉ nhờ hiểu một chút ít thần chú Đại Bi mà thôi. Đà là đà la là Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp. Trong tịnh bình này chứa nước cam lồ. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng cành dương liễu rưới nước cam lồ lên khắp chúng sanh trong sáu đường. Bất luận ai gặp nạn khổ hay bệnh tật gì, nếu được Bồ – tát Quán Thế Âm rưới nước cam lồ thì đều giải thoát khỏi tai nạn ấy. Đà la đà la. Hán dịch là “Năng tổng trì ấn”, là tâm lượng của toàn chúng sinh. Chính là Bồ – tát Quán Thế Âm dùng Cam lồ thủ nhãn ấn pháp, Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp và Dương chi thủ nhãn ấn pháp – tất cả ba ấn pháp ấy để rưới nước cam lồ lên toàn thể chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi tam đồ lục đạo. (còn tiếp)
    2 likes
  14. Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi. Vì kinh văn thần chú này thuộc vào hệ mật ngôn chân ngữ. Nay để giảng giải về thần chú này, trước tiên tôi xin đưa ra một bài kệ để thuyết minh cho ý nghĩa của thần chú: Đại bi đại chú thông thiên địa Nhất bách nhất thiên thập vương hoan Đại từ đại bi năng khử bệnh Nghiệt kính nhất chiếu biến cao huyền. Nghĩa là: Thần chú Đại bi có công năng thông cả thiên đường, thấu cả địa phủ. Người nào thường trì niệm chú này mỗi ngày 108 biến, niệm ngàn ngày như thế thì có thể khiến Thập điện Minh vương hoan hỷ. Năng lực Từ và Bi của thần chú có thể chữa lành tất cả mọi tật bệnh và làm cho đài gương chiếu tội sáng ngời ngời. *Đại bi đại chú thông thiên địa Khi quí vị niệm thần chú này thì trời đất đều chấn động, cả pháp giới chuyển rung. Trên thông cả cõi trời, dưới thấu khắp cả các cõi giới địa ngục. Khắp cả mọi pháp giới trời người đều cảm thông và tán dương công đức. *Nhất bách nhất thiên thập vương hoan Nếu quí vị niệm thần chú này mỗi ngày 108 biến, niệm ngàn ngày như vậy, tức là vào khoảng 3 năm. Niệm thần chú này liên tục trong 3 năm không gián đoạn, không bỏ sót một ngày, bất luận quí vị có bận rộn như thế nào cũng không quên niệm, thì có thể khiến cho mười vị vua điều hành công việc ở chốn địa phủ cũng phải hoan hỷ. Có nghĩa là từ vua Diêm La cai quản điện thứ 10, cùng tất cả các chung sinh đang bị tội báo ở trong 10 địa ngục ấy đều được vui mừng. *Đại từ đại bi năng khử bệnh Năng lực Từ và Bi của thần chú này có thể chữa lành tất cả mọi bệnh tật. Vì sao gọi là chú Đại Bi? Là vì: “Bi năng bạt khổ”. Nghĩa là Bi có công năng làm cho mọi khổ nạn của chúng sinh được tiêu trừ. Còn “Từ năng dữ lạc”. Lòng Từ thường đem lại niềm vui cho chúng sinh. Vì thần chú này khả năng bớt khổ ban vui cho mọi chúng sinh nên gọi là Chú Đại Bi. Chủ yếu nhất là công năng chữa lành mọi bệnh tật. Bất luận quí vị bị bệnh gì, nếu quí vị trì niệm Chú Đại Bi, thì mọi bệnh khổ đều được tiêu trừ. Có người sẽ thắc mắc: “Tôi đã niệm Chú Đại Bi rồi, tại sao không lành bệnh?” Quí vị chưa lành bệnh là vì quí vị chưa vận hết lòng thành trong lúc trì niệm. Với lòng chí thành, chắc chắn quí vị sẽ có được sự cảm ứng khi niệm chú. *Nghiệt kính nhất chiếu biến cao huyền Khi quí vị trì niệm mỗi ngày 108 biến chú Đại Bi, niệm trong 1000 ngày như thế thì Thập điện Minh Vương vui mừng và tất cả mọi bệnh tật đều được tiêu trừ. Trong suốt 1000 ngày, tức 3 năm này, quí vị đ• thành tựu được khá nhiều công đức rồi. Bởi vì trong 3 năm này, mỗi ngày quí vị đều gia tâm trì tụng thần chú nên không có điều kiện để tạo tác nghiệp nhân. Quí vị không uống rượu, không ăn thịt, không ăn ngũ vị tân. Trong địa ngục có một đài gương báo tội gọi là “nghiệt kính đài”, nếu quí vị gây một nghiệp ác nào thì nghiệp ấy sẽ hiện rõ trong đài gương kia. Cũng giống như hình ảnh đang hiện ra trên màn ảnh xi nê vậy. Ví như một người, đời này gây tội sát nhân, thì trong gương báo tội sẽ hiện ra cảnh người ấy đang giết người. Nếu người ấy gây nghiệp trộm cắp thì trong gương sẽ hiện hình người ấy đang đi ăn trộm. Nếu người ấy gây nghiệp đốt phá nhà cửa người khác thì trong gương sẽ hiện ra rõ ràng hành động đốt nhà ấy. Còn nếu quí vị không gây tạo ác nghiệp gì cả thì sao? Thì chẳng có gì hiện ra trong kính đó cả. Vậy nên, nếu quí vị trì tụng thần Chú Đại Bi trong 3 năm thì khi gương nghiệp soi chiếu đến, tội báo của quí vị sẽ được tẩy sạch. Nơi địa ngục ấy sẽ treo lên một tấm bảng ghi rằng: “Người này đã từng trì tụng Chú Đại Bi, tội báo của người này đều đã được hóa giải toàn bộ.” Tất cả các vị quỷ thần trong địa ngục đều cúi đầu lễ bái sùng kính người trì chú này như lễ bái cung kính chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai vậy. Đồng thời các vị quỷ thần ấy sẽ hộ trì người trì chú cũng như họ thường hầu cận chư Phật vậy, và các vị quỷ thần đều thông báo cho nhau biết là không nên quấy nhiễu người trì chú này. Thần lực của chú Đại Bi thật là không thể nghĩ bàn. CÚ GIẢI (Giảng giải từng câu) 1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da Hàng ngày chúng ta vẫn thường tụng Nam mô A – di - đà Phật. Nam mô Bổn sư Thích – ca Mâu – ni Phật. Nhưng quí vị có biết Nam – mô có nghĩa là gì không? Chắc là rất ít người biết được. Cách đây vài năm, có lần tôi đã đặt vấn đề này trong một pháp hội nhưng chưa một người nào có được câu trả lời hoàn chỉnh cả. Nam – mô, phiên âm chữ Nama từ tiếng Phạn. Trung Hoa dịch là “Quy y”; cũng dịch là “Quy mạng kính đầu”. Có nghĩa là: “Con xin đem toàn thể sinh mạng của con về nương tựa vào chư Phật”. Cái bản ngã của chính mình không còn nữa. Mà con xin dâng trọn vẹn thân mạng mình lên chư Phật. Nếu chư Phật cho con sống thì con sống; bảo con chết thì con chết. Con hoàn toàn tin vào chư Phật. Đó gọi là “Quy mạng”. Còn “Kính đầu” có nghĩa là hết sức cung kính và nương tựa vào đức Phật. Đó là ý nghĩa của Nam – mô. Còn “Quy y” có nghĩa là đem hết thân và tâm của mình, đem hết cả mạng sống của mình trở về nương tựa vào đức Phật. Nói tổng quát. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa là “Xin quy y Tam Bảo vô biên vô tận trong khắp mười phương”. Đó chính là bản thể của Bồ – tát Quán Thế Âm. Quí vị nên khởi tâm Từ Bi mà trì niệm. Mặc dù đó là bản thể của Bồ – tát Quán Thế Âm, nhưng cũng có nghĩa là quy y với toàn thể chư Phật trong mười phương, suốt cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi quí vị trì niệm thần chú này. Không những chỉ nhắc nhở mình quy y với Tam Bảo thường trụ trong khắp mười phương vô biên vô tận mà còn khiến cho tất cả mọi loài hữu tình khi nghe được thần chú này cũng đều quay về quy y, kính lễ mười phương ba đời thường trụ Tam Bảo. Quí vị có biết Tam bảo là gì không? Đó là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Quí vị nên biết rằng, trên thế gian này Phật bảo là cao quý nhất. Cũng thế, Pháp bảo và Tăng bảo là điều cao thượng và quý báu nhất. Không những cao quý ở thế gian mà còn cao quý đối với những cảnh giới xuất thế gian, cho đến đối với cõi trời phi tưởng phi phi tưởng nữa. Không còn có gì cao quý hơn Tam bảo trong Phật pháp nữa. Trong mười pháp giới thì cảnh giới Phật là cao nhất. Thế nên chúng ta cần phải cung kính quy ngưỡng và tín thọ nơi Tam bảo cao quý, phát khởi tín tâm kiên cố và thâm sâu, không một mảy may nghi ngờ. Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo. Nhưng khi đã quy y rồi, quí vị phải tự nguyện và tinh tấn thực hành các việc lành, tương ứng với lời dạy của đức Phật thì mới xứng đáng gọi là quy y. Nếu quí vị vẫn còn giữ nguyên các tập khí ngày trước như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh dâm dục, nói dối, nghiện ngập và làm mọi điều mình thích để thỏa mãn ngũ dục thì quí vị không thể nào tránh khỏi đọa vào 3 đường ác (ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh). Bở vì trong Phật pháp không có sự nhân nhượng. Quí vị không thể nói: “Tôi đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng rồi, nên tôi sẽ không bao giờ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh nữa. Vậy nên tôi có quyền làm điều gì tôi muốn…” Quí vị phải thay đổi, chuyển hóa mọi tập khí xấu của mình và tích cực thực hành những việc thiện, dứt khoát không bao giờ làm những việc ác nữa. Nếu quí vị còn tiếp tục làm những việc xấu ác, thì quí vị sẽ bị đọa ngay vào địa ngục. Đạo Phật không giống như ngoại đạo. Họ tuyên bố rằng: “Quan trọng nhất là niềm tin. Nếu có niềm tin thì dù có làm việc ác, cũng có thể vào được thiên đường. Còn ngược lại, nếu ai thiếu lòng tin, dù có gắng sức làm việc phúc đức, thì cũng sẽ rơi vào hỏa ngục”. Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước thiện thì quí vị vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.” Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì quí vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục. “Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?” Chân chính quy y Tam bảo có nghĩa là phải từ bỏ việc ác, quay về đường thiện, sửa đổi mọi lỗi lầm. Như một người được khai sinh lại với tên mới, từ đây chỉ làm thuần túy những việc lành. Không làm những việc xấu ác nữa. Như thế mới đạt được lợi ích thiết thực. Chính vì vậy mà câu chú: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa là: “Quy y Tam bảo vô cùng vô tận trong khắp mười phương”. Khi quí vị trì niệm chú này, cũng có thể giúp tiêu trừ được những ách nạn cho quí vị. Lúc gặp tai chướng, quí vị hay thường trì niệm: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da thì tai chướng ấy liền được tiêu trừ. Tai nạn lớn sẽ biến thành tai nạn nhỏ, và nếu gặp tai nạn nhỏ thì cũng sẽ được tiêu sạch. Chú này được gọi là “Tiêu tai pháp”, là một trong năm bộ chú hộ ma. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da cũng còn được gọi là “Tăng ích pháp”. Nghĩa là từ trước đến nay quí vị đã từng gieo trồng nhiều thiện căn, và vẫn thường trì tụng chú này, thì thiện căn của quí vị sẽ tăng trưởng thêm gấp nhiều lần, lợi lạc không kể xiết. Nên chú này được gọi là “Tăng ích pháp”. Quí vị có thể niệm toàn bộ chú Đại Bi, hoặc chỉ cần niệm câu chú đầu tiên này thôi: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da là “Thành tựu pháp”, bất luận quí vị muốn điều gì, thì sở nguyện sở cầu của quí vị đều được thành tựu như ý muốn. Nếu quí vị không có con trai mà muốn cầu sinh con trai, hay niệm Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da sẽ sinh được con trai. Nhưng quí vị phải trì niệm với tâm trí thành, không phải chỉ niệm một hai ngày rồi thôI, mà phải niệm liên tục ít nhất là trong ba năm. Nếu quí vị không có được bạn tốt, mà muốn gặp được một người, hay niệm Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da thì liền gặp được ngay bạn lành. Nếu quí vị trì niệm được toàn thể bài chú Đại Bi thì quá tốt, nếu không chỉ cần niệm câu đầu tiên Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da, cũng sẽ thành tựu những công đức không thể nghĩ bàn. Câu chú này cũng còn được gọi là “Hàng phục pháp”. Năng lực của câu chú đó có thể hàng phục thiên ma, chế phục ngoại đạo khi nó nghe đến câu chú này. Tuy vậy, câu chú này không phải là “Câu triệu pháp”. Khi quí vị trì niệm một câu chú thuộc trong “Câu triệu pháp” thì tất cả các loại yêu ma quỷ quái khắp nơi đều đến trình diện và có thể bắt giữ, hoặc sai khiến được chúng. Vậy nên, câu chú Nam mô hắc ra đát ra đá ra dạ da này có công năng rất mạnh, không thể suy lường được. Nếu nói chi tiết, thì không thể nào cùng tận được. Tóm lại, trong câu Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da, thì Nam mô có nghĩa là “quy mạng kính đầu”. Hắc ra đát na là “bảo”. Đá ra dạ có nghĩa là “Tam”. Da nghĩa là “Lễ”. Nghĩa toàn câu là: “Xin đem hết thân, tâm, tính mạng của mình quy y và kính lễ Tam Bảo vô tận vô biên trong khắp cả mười phương, suốt cả ba đời”. Chúng ta phải cúi đầu đảnh lễ thường trụ Tam bảo.Vì sao gọi là vô tận vô biên? Vì chư Phật trong thời quá khứ là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời hiện tại là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời vị lai là vô cùng vô tận. Cho nên Tam bảo là vô biên vô tận. 2. Nam mô a rị da Nam mô như đã giảng ở trên, nghĩa là “đem hết thân tâm, tánh mạng quy y và kính lễ, học tập chư Phật và chư Bồ – tát”. A rị có nghĩa là “Thánh giả”. Có nghĩa là người xa lìa tất cả các ác pháp. Nên Nam mô A rị da có nghĩa là kính lễ các bậc Thánh giả, người đã xa lìa tất cả các pháp bất thiện. 3. Bà lô yết đế thước bát ra da Bà lô yết đế có nghĩa là “quán” trong danh hiệu Quán Thế Âm Bồ – tát. Cũng được dịch là “quang” từ danh hiệu Vairocana (Tỳ – lô - giá - na) nghĩa là Quang Minh Biến Chiếu – hào quang chiếu khắp mọi nơi. Còn được dịch là: “Sở quán sát” nghĩa là cảnh giới được quán chiếu, được quán sát đến. Thước bát ra da có nghĩa là “tự tại”. Ý nghĩa toàn câu là quán chiếu quán sát một cách rộng khắp và tự tại. Đó chính là ý nghĩa của danh hiệu Bồ – tát Quán Tự Tại, Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là quan sát, lắng nghe âm thanh ở cõi thế gian để cứu độ một cách tự tại. 4. Bồ đề tát đỏa bà da Mọi người đều biết Bồ đề xuất phát từ tiếng Phạn là Bodhi. Có nghĩa là Giác. Tát đỏa có nghĩa là “độ” là vượt qua (bể khổ) cũng như đưa người khác vượt qua (bể khổ) đến bờ giải thoát. Bồ Đề tát đỏa bà da có nghĩa là một vị Bồ – tát đã tự giác ngộ giải thoát và giúp cho mọi chúng sinh được giác ngộ giải thoát như mình. Bà da có nghĩa là “đảnh lễ”. Da có nghĩa là khấu đầu đảnh lễ. Cúi đầu đảnh lễ ai? Đảnh lễ các vị Bồ – tát đã tự giác ngộ giải thoát cho chính mình rồi, còn giúp cho người khác được giác ngộ giải thoát. Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ – tát Bất Không Quyến Sách áp đại binh. Nghĩa là khi quí vị tụng câu thần chú này thì Bồ – tát Bất Không Quyến Sách đem binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho quí vị. 5. Ma ha tát đỏa bà ha Ma – ha có 3 nghĩa: Đại: lớn; Đa: nhiều; và Thắng: hoàn hảo. Ma – ha với nghĩa là Đại: tức chỉ cho người phát tâm bồ đề rộng lớn. Ma – ha với nghĩa là Đa: tức chỉ cho số lượng. Có rất nhiều người phát tâm bồ đề. Ma – ha với nghĩa là Thắng: tức nói đến những người đã phát tâm bồ đề rộng lớn đều đạt đến chỗ thành tựu viên mãn, được nhiều lợi lạc rất thù thắng. Tát - đỏa nghĩa của chữ Tát - đỏa trong câu chú này không giống như nghĩa trong câu trên. Trong câu chú trên, Tát - đỏa có nghĩa là “độ” – vượt qua bờ bên kia. Có nghĩa là giải thoát. Còn trong câu chú này. Tát - đỏa có nghĩa là “Dõng mãnh giả” là người can đảm, không sợ hãi. Cũng có nghĩa là “Tinh tấn giả”, là người tu hành rất siêng năng. Bà - Da Hán dịch là “Hướng tha đảnh lễ” nghĩa là: “Con xin đê đầu đảnh lễ các vị đại Bồ – tát, là những người rất dõng mãnh, rất tinh tấn, không bao giờ sợ hãi, và nguyện phát tâm bồ đề trước chư vị Bồ – tát này.” Các vị đại Bồ – tát đã tự giác ngộ, giải thoát cho chính mình rồi còn phát nguyện giúp cho vô số chúng sanh khác được giác ngộ và giải thoát như mình. 6. Ma ha ca lô ni ca da Ma – ha có 3 nghĩa: lớn, nhiều và thù thắng như trên đã giảng. Ca – lô Hán dịch là “Bi”. Ni – ca nghĩa là “Tâm”. Hợp lại, Ma ha ca lô ni ca có nghĩa là “Tâm đại bi”. Da có nghĩa là đảnh lễ, như đã giảng ở trên. Toàn câu chú Ma ha ca lô ni ca da có nghĩa là: “Cúi đầu đảnh lễ thần chú Đại bi tâm Đà - la – ni.” 7. Án Án nghĩa là “Bổn mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả mọi thần chú; cũng chính là “Phật mẫu” mẹ của tất cả chư Phật. Mẹ của chư Phật có nghĩa là mẹ của nguồn tâm trong mọi loài chúng sinh, vì nguồn tâm của chúng sinh vốn có sẵn mọi trí tuệ, thường xuất sinh các pháp lành, nên gọi là “Bổn mẫu”. Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày. 1. Pháp môn thứ nhất là “Tự”: là đầu nguồn, làm xuất sinh mọi chủng tự. 2. Thứ hai là “Cú”. Trong kinh văn hoặc trong thần chú, “Cú” có nghĩa là một câu. 3. Thứ ba là “Quán”: là quán chiếu, quán sát, vận dụng năng lực quán chiếu mà hành trì. 4. Thứ tư là “Trí”: là trí tuệ, dùng thanh gươm trí tuệ để cắt đứt tất cả phiền não. Trí tuệ tức là pháp môn lưu xuất từ Bát Nhã Ba La Mật, đó là trí tuệ viên mãn nhất. Còn “quán” là lưu xuất từ pháp môn Thiền định Ba La Mật. 5. Thứ năm là “Hành”: nghĩa là tu tập, nương theo giáo pháp mà hành trì. 6. Thứ sáu là “Nguyện”: nghĩa là cần phải phát nguyện, nương theo giáo pháp chân chính mà tu hành. 7. Thứ bảy là “Giáo”: nghĩa là y cứ theo giáo pháp chân chính mà tu hành. Nếu quí vị không nương theo lời dạy của đức Phật mà tu hành, thì dù quí vị có tu hành đến nhiều kiếp như số cát sông Hằng đi nữa thì vẫn không có kết quả gì cả. Cũng như thể nấu cát mà mong thành cơm vậy. Tuy nhiên, để có thể tu tập xứng hợp với giáo lý chân chính của đức Phật thì trước hết, quí vị phải thông hiểu về giáo pháp đó một cách tường tận. 8. Thứ tám là “Lý”: nghĩa là đạo lý. Nếu quí vị có thể nhập được vào Phật pháp vi diệu thì mới có được sự hiểu biết thông đạt về giáo pháp ấy. Nếu quí vị không khế hội được diệu pháp này, thì quí vị chỉ là người tu tập trong sự mù quáng. Dù quí vị có tu hành bao lâu đi nữa, cũng không đạt được sự thành tựu. 9. Thứ chín là “Nhân”: Trong đời này quí vị phải gieo trồng những nhân thù thắng, nhân tốt lành, nhân thanh tịnh, thì quá khứ quí vị sẽ gặt được quả thù thắng, quả vi diệu và quả thanh tịnh. 10. Thứ mười là “Quả”: Quả tương ứng sẽ đạt được sau khi đã gieo trồng nhân. Đó là diệu quả, quả vị giác ngộ tối thượng. Như vậy từ chữ án, xuất sinh ra mười pháp môn vi diệu. Nên khi quí vị trì niệm thần Chú Đại Bi, niệm đến chữ án thì tất cả các loài quỷ thần đều chắp tay vô cùng cung kính, không dám tỏ ra khinh suất hoặc lơ là khi nghe hành giả trì tụng thần Chú Đại Bi. Chữ án có một năng lực mạnh mẽ mà đến nỗi khiến cho các loài ác quỷ, ác thần đều phải cung kính chấp trì. Công năng của thần chú thật to lớn, thần lực thật không thể nghĩ bàn. 8. Tát bàn ra phạt duệ Tát bàn ra, Hán dịch là “tự tại”. Nghĩa là khi quí vị trì tụng thần chú này, thì Tứ đại thiên vương đều đến làm Hộ pháp cho quí vị. Phạt duệ, Hán dịch là Thế tôn, cũng dịch là Thánh tôn. Nguyên câu chú này có nghĩa là Tự tại Thế tôn. Tự tại Thánh tôn, tức là Đức Phật tự tại, ý là xưng tán Phật bảo. 9. Số đát na đát tả Chữ Số có hai âm là Shù và Shùo. Người ta thường niệm là “Shù”. Số Đát Na có nghĩa là “pháp” (Dharma). Pháp gì? Pháp này còn gọi là “Diệu thắng pháp”. Cũng gọi là “Cao thượng thắng sinh”. Có nghĩa là không có gì vượt trội hơn pháp này nữa. Thắng sinh có nghĩa là từ pháp này xuất sinh ra năng lực rất thù thắng. Còn một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng. Còn có một cách dịch khác nữa của chữ Số, là “Tối thượng thừa địa”. Nghĩa là cảnh giới của hành giả sẽ trải qua sau khi chứng được Thập địa của hàng Bồ – tát. Đát Na là biểu tượng của Pháp bảo. Đát Tả là biểu tượng cho Tăng bảo. Cho nên toàn thể câu chú án tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tả là biểu tượng cho Tam bảo. Có nghĩa là chúng ta phải nên ngưỡng nguyện đến sự gia hộ của Tam bảo. Nên khi trì niệm đến câu thần chú này, có nghĩa là thỉnh cầu, ngưỡng nguyện đến lực gia trì của Tam bảo. Đát tả còn có nghĩa là dùng giáo pháp để răn dạy các loài quỷ thần và dùng thần chú để triệu tập quỷ thần đến mà dạy bảo chúng theo tinh thần chánh pháp. 10. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a lị da Xưa nay dường như quí vị luôn luôn Nam mô với một người nào khác chứ chưa bao giờ Nam mô với chính mình. Người tu hành không cần phải đi Nam mô một khách thể nào khác mà phải Nam mô ngay với chính mình. Nam mô có nghĩa là tôi, chính tôi quay trở về quy y với Tam bảo vô cùng vô tận khắp mười phương. Nam mô còn có nghĩa là đem tự ngã của chính mình thể nhập trọn vẹn vào cả pháp giới khắp cả mười phương. Tức là thể nhập vào Tam bảo vô cùng vô tận khắp cả mười phương. Tất kiến lật có nghĩa là “hoàn toàn”. Tức là đem hết toàn tâm, toàn ý để quy y và đảnh lễ Tam bảo. Đỏa y mông có nghĩa là “Ngã”. Đó chính là cái Ngã của Vô Ngã. Nên quí vị phải đem toàn tâm toàn ý đảnh lễ bản ngã của chính mình, nhưng đảnh lễ cái ngã của vô ngã. Như thế có nghĩa là không có mình hay sao? Ví như khi có người đánh quí vị, quí vị không cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, quí vị không thấy khó chịu; nếu họ nhục mạ, quí vị thấy như thể không có việc gì xảy ra. Quí vị không nhất thiết cần phải nhẫn nhục, vì nếu dùng phép nhẫn nhục, là quí vị đã rơi vào “đệ nhị nghĩa” rồi. Trong trường hợp này, quí vị không nhất thiết cần phải “nhẫn”, vì vốn không có một bản ngã để dùng pháp nhân và không có một bản ngã để cho pháp nhẫn ấy tác động tới. Có nghĩa là quí vị phải hành pháp nhẫn trong “vô nhẫn”. Đó gọi là Ngã của vô ngã vậy. A lị da ở trên đã giảng qua, có nghĩa là “Thánh giả”. ở đây tức là phải hết lòng đảnh lễ “cái ngã” ấy của Thánh giả. Vô lượng vô biên chư Bồ Tát, hết thảy Thiên Long bát bộ đều phải đảnh lễ cái ngã trong vô ngã của bậc Thánh giả. Cái ngã ấy bao trùm khắp vô lượng vô biên vũ trụ. Có rất nhiều bậc Thánh giả. Họ là ai? Dưới đây, tôi sẽ giảng rõ. 11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà Bà lô kiết đế dịch là “Quán”. Thất Phật ra dịch là “Tự tại” hoặc là thế âm. Âm thanh ở trong thế gian. Đây chính là Bồ – tát Quán Thế Âm. Bà lô kiết đế thất Phật ra là Quán Thế Âm, cũng chính là Quán Tự Tại. Hai danh hiệu này không nhất định phải là Bồ – tát Quán Thế Âm mới được gọi là Quán Tự Tại hay Quán Thế Âm, mà nếu khi quí vị đã đạt được tự tại rồi, thì quí vị chính là Bồ – tát Quán Tự Tại. Khi quí vị có được năng lực cứu độ tất cả mọi loài chúng sinh, thì quí vị chính là Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì vậy, một khi quí vị đã thể nhập và vận dụng trọn vẹn pháp này rồi thì chính quí vị là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu tôi đạt được tự tại trong việc vận dụng pháp này thì chính tôi cũng là hóa thân của Bồ – tát Quán Thế Âm. Lăng đà bà dịch là “hải đảo”, chỉ cho núi Phổ Đà (Potala), nơi Bồ – tát Quán Thế Âm thường thị hiện. Có sách nói núi Phổ Đà ở nước Trung Hoa. Phổ Đà có nghĩa là “hoa trắng nhỏ” vì nơi núi ấy có loài hoa trắng nở rất nhiều. Trên núi có một cung điện được kiến tạo ở trong hang đá gọi là “Cung Từ Bi”, đó là nơi Bồ Tát Quan Thế Âm thường thị hiện. Nơi đó được trang hoàng bằng bảy thứ châu báu: vàng, bạc, xà cừ, pha lê, trân châu, ngọc bích, mã não. Nhưng không phải ai cũng đến được nơi cung điện này. Bà lô kiết đế thất Phật ra là vị Bồ – tát có đầy tâm nguyện đại từ bi. Lăng đà bà là cung điện Từ Bi, nơi Bồ – tát Quan Thế Âm thường thị hiện. 12. Nam mô na ra cẩn trì Trong câu chú này, Nam mô vẫn có nghĩa là “quy y” và “quy mạng kính đầu”. Na ra dịch nghĩa là “Hiền” – bậc hiền giả, chỉ cho hàng Bồ Tát. Cẩn trì dịch là “ái”, có nghĩa là tình thương yêu. Trong ý niệm lòng Từ Bi bảo hộ, che chở cho mọi loài. Thế nên lòng từ bi của bậc Hiền giả (Bồ – tát) thường đem đến sự bao bọc, che chở cho chúng sinh. Trước đây tôi đã giảng về 10 loại tâm được đề cập trong Kinh Đại Bi Tâm Đà - la – ni. Quí vị nên y cứ theo mười loại tâm này mà công phu tu tập. Na ra cẩn trì, Hán dịch là “Hiền ái thiện hộ” có liên quan đến nghĩa thứ nhất, nghĩa là thứ 6 và nghĩa thứ 10 trong 10 loại Tâm: Đó chính là Tâm Đại Bi, Tâm Cung Kính và Tâm Vô Thượng bồ đề. Câu chú này đại biểu cho 3 loại tâm như trên. 13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế Hê rị có nghĩa là “Tâm”. Tâm này có ý nghĩa gì trong 10 nghĩa? Nghĩa thứ 4 là vô nhiễm trước tâm. Tâm này giúp cho quí vị duy trì bản tâm thanh tịnh của mình. Khi quí vị khởi tâm niệm tham, sân, si, mạn, nghi… thì tâm quí vị liền bị ô nhiễm, không còn thanh tịnh nữa. Khi tâm quí vị không mong khởi những niệm ô nhiễm ấy, thì tâm quí vị được thanh tịnh. Ma ha có nghĩa là “Đại”, cũng có nghĩa là “Trường”. Bàn đà sa mế nghĩa là sao? Nếu tôi không nói, chắc chắn quí vị chẳng thể nào biết được. Nên quí vị muốn biết thì trước tiên tôi phải giảng. Lúc đó quí vị mới hiểu được. Quí vị mới nói rằng: “Thì ra ý nghĩa của cân chú ấy là như thế”. Bàn đà sa mế có nghĩa là “đại quang minh” nghĩa là hào quang rực rỡ chiếu khắp. Bàn đà sa mế lại còn được dịch là “Trường chiếu mệnh” nghĩa là ánh sáng thường chiếu soi rộng khắp mọi nơi. Nguyên câu Hê rị ma ha bàn đa sa mế có nghĩa là “Tâm đại quang minh”. Nghĩa là ánh sáng của tâm lực, quang minh của tâm lực thường chiếu rộng khắp, mãi mãi siêu việt cả không gian vô cùng, thời gian vô tận; từ một vi trần cho đến vô cùng vô tận thế giới đều có sự hiện hữu của ánh sáng ấy. Quí vị sẽ nói: “à, cái đại quang minh của tâm ấy, tôi đã nghe trong kinh giảng nói rất nhiều rồi, và…” Vâng, nhưng trừ phi quí vị không nghe tôi giảng giải thần Chú Đại Bi thì quí vị không thể nào biết được. Tôi sẽ giảng cho quí vị rõ. Thật là khó gặp được người nào có thể giảng giải về Chú Đại Bi một cách rõ ràng tường tận. Thực vậy, hoàn toàn thực tình mà nói, không mấy người thể nhập được rốt ráo ý nghĩa của thần chú Đại Bi hoặc là chuyển được ý nghĩa của thần chú. Sẽ có người hỏi: “Thế làm sao Sư phụ biết được?” Quí vị khỏi cần phải hỏi tôi. Vì tôi đã không hỏi thì thôi, chứ quí vị đừng nên hỏi tôi tại sao mà tôi biết được. Dĩ nhiên là tôi phải biết. Nếu tôi không biết, tôi không thể nào giảng giải cho quí vị nghe được. Vì thế đừng nên hỏi tại sao tôi lại biết. Thay vì quí vị hỏi tại sao tôi biết, thì quí vị hãy quay trở lại hỏi chính mình. Tại sao mình lại không biết? Nếu quí vị biết được lý do tại sao mình không biết, thì quí vị sẽ rõ được tại sao tôi biết. Trái lại, nếu quí vị không thể nào rõ được tại sao quí vị không biết, thì quí vị cũng không thể nào rõ được lý do tại sao tôi biết. Đó chính là điều làm nên sự kỳ diệu vậy. Chẳng hạn có người đã hỏi tôi rằng: “Tại sao Thầy làm người xuất gia?” Tôi đã không trả lời câu hỏi đó mà hỏi lại rằng: “Tại sao anh lại không làm người xuất gia? Nếu anh biết được lý do vì sao anh không xuất gia, thì anh sẽ hiểu được vì sao tôi lại xuất gia”. Hỏi về đạo lý trong Phật pháp cũng như vậy. Thay vì quí vị hỏi: “Làm sao mà tôi hiểu được đạo lý ấy?”, thì quí vị hãy tự hỏi lại chính mình tại sao mình không hiểu được. Khi quí vị đã hiểu được tại sao mình không biết thì quí vị sẽ hiểu được tại sao tôi lại biết được đạo lý ấy. Nay quí vị đều là những người có nhiều thiện căn nên được dự pháp hội giảng chú Đại Bi. Vậy quí vị phải nên hộ trì, bảo trọng cho thiện căn của mình. Tự mình phải khéo vận dụng thiện căn ấy để tu học và liễu nhập Phật pháp, đừng để hoài phí một phút giây nào cả. Hiện tại chúng ta đang sống vào thời mạt pháp. Chư Phật và Bồ – tát rất ít thị hiện ở thế gian. Thời gian này, lòng người đang tiến dần đến chỗ hoang liêu, điêu tàn, không dễ gì gặp được chánh pháp, cũng không dễ gì gặp được bậc chân thiện tri thức. Có lần tôi bảo các đệ tử rằng: “ở Đài Loan có mở Đại giới đàn, năm huynh đệ các con nên đến đó cầu thỉnh để được thọ giới pháp”. Các đệ tử gửi thư cho tôi biết nhiều người ở Đài Loan nói với họ rằng: “Chẳng cần phải tu hành gì cũng có thể thành tựu đạo nghiệp”. Các đệ tử của tôi trả lời rằng: “Chúng tôi cũng là những con người như những con người khác, nếu không chịu tu hành thì làm sao có thể tựu thành Phật đạo? Nếu không công phu hành trì thì làm sao liễu ngộ được chánh pháp”. Nếu quí vị nói rằng không cần phải dụng công tu tập mà cũng thành Phật, liễu đạo thì trước đây đức Phật chẳng cần vào núi Tuyết tu suốt sáu năm làm gì, rồi sau đó đến ngồi dưới cội bồ đề tinh chuyên thiền định suốt 49 ngày, đến khi sao Mai vừa mọc thì Ngài tựu thành chánh giác. Đức Phật còn phải tu hành mới thành tựu chánh giác. Còn mỗi chúng sinh như chúng ta, nếu không tinh tấn tu hành thì làm sao có thể thành Phật được? Ai ai cũng đều biết phải nhờ vào tu hành mới đạt được Phật quả, nhưng người chân thật tu hành thì rất ít; và ai cũng đều biết nếu không chịu tu hành thì đều có thể bị đọa vào địa ngục, nhưng người không chịu tu hành thì không sao kể xiết. Nghiệp lực thế gian thật là không thể nghĩ bàn! Quí Phật tử! Sống trong thời mạt pháp mà có được điều kiện để nghiên cứu Phật pháp thì nên dõng mãnh tinh tấn lên, không nên biếng nhác, hãy siêng năng công phu, tinh cần đạo nghiệp mới mong có ngày thành tựu. Nếu không tinh tấn dõng mãnh mà mong thành tựu đạo nghiệp thì không thể nào có được.Vì thế nên quí vị đừng ngại gian nan, khổ nhọc, chướng duyên, tai ách… mọi thứ nên quên. Phải đánh trống dõng mãnh lên để cho tinh thần phấn chấn, chỉ một hướng thẳng đến công phu mới mong có ngày thành tựu quả vị Phật. Tôi đang nói về sự vi diệu của Phật pháp. Nếu quí vị không phát khởi niềm tin vào trí tuệ siêu việt thì đạo lý này đối với quí vị cũng chẳng có lợi ích gì. Quí vị có thể thâm nhập Phật pháp từ mọi sinh hoạt trong cuộc sống, từ mỗi bước chân lặng lẽ của thời gian trong toàn thể pháp giới… Trong Phật pháp, điều gì quí vị cũng muốn diễn bày cho rõ ràng minh bạch thì thường bị đánh mất những nghĩa lý sâu mầu vi diệu. Nay tôi dù có trình bày hết về diệu lý của Phật pháp, nhưng nếu quí vị không tin sâu và không hành trì thì điều tôi giảng không còn là diệu pháp nữa. Hơn nữa sự hành trì cần phải thường xuyên vào mọi lúc, mọi nơi với tinh thần tinh tấn, không lui sụt, không biếng nhác. Đây là điều khẩn thiết nhất. Nếu quí vị mọi thời, mọi lúc đều hướng về phía trước mà nỗ lực công phu thì nhất định một ngày kia sẽ trực nhận ra “mặt mày xưa cũ” của chính mình. Bàn đà sa mế dịch nghĩa là “đại quang minh” hay “trường chiếu minh”, tiêu biểu cho nghĩa thứ năm trong mười nghĩa của tâm, đó là “quán tâm không”. Thông qua “quán tâm không”, hành giả mới có được trí tuệ. Với trí tuệ, hành giả mới có được quang minh. Có được quang minh, mới tỏa chiếu, soi sáng khắp mọi pháp giới được. Tức là không còn tối tăm, mê muội, tức là không còn vô minh. Sao gọi là “vô minh”, vì tâm của quí vị không có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, do vì quí vị không có được “đại quang minh”. Nếu quí vị có được “đại quang minh” thì tâm quí vị liền có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, có nghĩa là quí vị đã chuyển hóa được vô minh. Một khi vô minh đã bị chuyển hóa sạch rồi, thì pháp tánh hiển hiện, đây chính là trí tuệ chân thật của quí vị. Thuở xưa vào triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền sư Chí Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không sử sách nào ghi lại song thân của Thiền sư là ai. Người ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người phụ nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài nhi về nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn toàn giống như người nhưng những móng tay, móng chân giống như móng chim ưng. Khi trưởng thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh trong tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng vậy. Thời ấy, vua Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều rất kính trọng và tin phục các Thiền sư. Bất luận khi họ gặp những sự kịên gì trong đời sống, như sinh con, cha mẹ qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các Thiền sư đến để tụng kinh chú nguyện. Một hôm, có một gia đình giàu có thỉnh Thiền sư đến tụng kinh chú nguyện nhân dịp đám cưới người con gái của họ, đồng thời thỉnh Thiền sư ban cho vài lời chúc mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn nhân đều được tốt lành như ý. Thiền sư Chí Công đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô dâu chú rể, Ngài liền nói: “Thật cổ quái, thật cổ quái!” “Cháu cưới bà nội” “Thật cổ quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một việc như vậy. Đây không phải là chuyện xưa nay thường xảy ra. Thật kỳ lạ khi nhìn một đứa cháu cưới bà nội mình làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông đạt những nhân duyên trong thời quá khứ thì không thể nào lý giải được những mối quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi người đều có thể là chồng hoặc vợ của nhau trong đời trước. Một người có thể là cha hoặc là con của nhau trong nhiều đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và con gái của nhau trong đời trước. Ông nội của quí vị trong đời trước lại kết hôn với cháu gái của quí vị trong đời này. Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái sinh làm con gái của quí vị. Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra, và đều chịu sự biến hóa khôn lường. Trong nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn trối lại với toàn gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới vợ và đã có con nối dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không còn bận tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn và đã gạt mọi sự bận tâm qua một bên, ngoại trừ một điều: còn đứa cháu nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó? Liệu người vợ của nó có đảm đang hay không? Ta không thể nào không lo cho nó được!” Bà nắm tay đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo rằng nếu mọi việc đều toại nguyện, lúc lâm chung có được tâm trạng thơ thới thì người chết sẽ nhắm mắt. Còn nếu không, thì người chết không nhắm mắt được. Bà lão nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết không nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà vẫn còn lo âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà ta than khóc, thưa rằng: - Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó. Diêm vương đáp: - Được rồi, bà hay trở lại dương gian chăm sóc cho nó Nói xong, bà ta được đầu thai trở lại trong cõi trần. Khi đến tuổi thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước đây của bà ta. Vì vậy nên nói “cháu lấy bà nội”. Quí vị thấy có phải là cổ quái thật không? Chỉ vì một niệm ái luyến không buông xả được mà tạo nên biết bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ vì bận tâm vì đứa cháu, mà về sau phải làm vợ cho nó. Quí vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là chuyện cổ quái hay sao? Quí vị sẽ hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí Công biết được điều ấy?” Thiền sư biết được là vì Ngài đã đạt được ngũ nhãn và lục thông. Nên chỉ cần nhìn qua, là Ngài liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là bà nội của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải đầu thai trở lại làm người, và làm vợ của đứa cháu nội mình. Một niệm lành còn như thế huống gì là niệm ác, hoặc khởi trùng trùng niệm ác thì luân hồi trong tam đồ lục đạo biết bao giờ dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi. Thiền sư lại nhìn trong số khách đến dự đám cưới, có một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt mẹ”. Vì miếng thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê này vốn là mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà ta đã tạo nghiệp ác quá lớn nên đã phải đọa làm dê. Nay lại bị chính con mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp khởi dậy do vô minh của chúng sinh không lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát thương xót, phát tâm cứu độ chúng sinh là do điểm này. Khi Thiền sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống. Ngài nói: “Con trai đang đánh bố”. Vì cái trống ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính là cha của anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị giết thịt, lấy da làm mặt trống. Thật là đau thương cho kiếp luân hồi. Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp: “Heo dê ngồi ở trên” Ngài thấy có vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu thai trở lại làm người, nay họ đều là bà con thân quyến của nhau nên cũng đến dự đám cưới này. Nhìn trong bếp, Ngài nói: “Lục thân bị nấu trong nồi”. Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do kiếp trước đã sát sinh heo, gà quá nhiều để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở lại; rồi bị giết thịt, bỏ vào nồi chiên nấu trở lại. Ngài nói tiếp: “Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau” Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau. Ngài tự than với mình rằng: “Trông thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta biết đó chính là những oán nghiệp xoay vần vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”. Thiền sư Chí Công biết rõ nhân quả khi nhìn vào gia đình này. Làm sao chúng ta có thể hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia đình với trùng trùng khác biệt nhau ra sao. Cho nên những người tu đạo phải rất cẩn trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng với nhân đã gieo. Tại sao người lại trở lại làm người? Là để trả nợ, trả những món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu quí vị không tìm cách trả món nợ này thì nợ nần vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay của ngân hàng vậy. Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia đình nuôi một con lừa, dùng nó để kéo cối xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá chậm chạp nên thường dùng roi đánh nó để thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài trong cực nhọc cho đến khi chết. Nó được đầu thai làm người. Khi người chủ hay đánh đập lừa chết, lại đầu thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai người này đến tuổi thành hôn thì họ cưới nhau. Quí vị có biết cặp vợ chồng này sống với nhau như thế nào không? Suốt ngày người chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất kỳ lúc nào, bất luận đang cầm vật gì trên tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng đũa. Ông ta vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ chẳng làm điều gì sai trái. Một hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa với Ngài: - Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con qúa chừng mà con không biết tại sao. Bạch Ngài, xin Ngài hãy dùng ngũ nhãn, lục thông bảo cho con biết mối tương quan nhân quả của chúng con đời trước ra sao mà đời này chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy? Thiền sư Chí Công đáp: - Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của hai người cho mà nghe. Trong đời trước, bà là một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh đập chửi mắng con lừa, thúc giục nó phải kéo cối xay bột. Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái chổi tre. Nay ông chủ được đầu thai lại làm người phụ nữ, đó chính là bà. Còn con lừa thì được đầu thai làm người chồng. Nay ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà cũng như kiếp trước bà đã thường đánh chửi ông tức là con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ nhân quả tương quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để chấm dứt vòng oán nghiệp này. Bà hãy cất giấu tất cả mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi đuôi ngựa (chổi dây). Khi người chồng thấy chẳng còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta sẽ cầm chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của bà mới được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân đời trước và quả đời sau báo ứng với nhau rất rõ ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ không còn đánh bà nữa. Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư Chí Công chỉ dạy. Khi người chồng về đến nhà, ông ta liền kiếm vật gì đó để đánh vợ. Chỉ còn thấy chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm lấy và đánh. Thông thường như mọi khi, cô ta tìm cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến khi ông chồng ngừng tay. Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ chạy. Cô ta kể lại việc được Thiền sư Chí Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả của hai người. Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên đánh chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không còn đánh mắng người vợ nữa. Thế nên quí vị phải biết mọi người đều có sự quan hệ với nhau tương ứng với nhân đã tạo. Quí vị chẳng thể nào biết được trong đời trước, ai đã từng là mẹ, là anh, là cha hay là chị em của mình. Cái nhân đã tạo ở đời trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định có liên quan đến bà con quyến thuộc của mình. Nếu quí vị hiểu được đạo lý nhân quả, thì quí vị có thể chuyển hóa, biến cải được nhân bằng cách từ bỏ những việc ác. Còn một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công. Một ngày Ngài ăn hai con chim bồ câu. Ngài rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ rằng món thịt bồ câu chắc là rất ngon nên ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta làm việc này với hai ý nghĩ: một mặt là muốn thử xem thức ăn hôm nay mình làm có ngon hay không? một mặt khác anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào cũng thích ăn bồ câu, nhất định đây là một món ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một chút rồi mới đem đến cho Thiền sư dùng. Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và hỏi: - Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không? Người đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo: - Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm trộm. Hãy nhìn đây! Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu rồi, Ngài liền há miệng rộng, trong đó, một con bồ câu liền vẫy cánh bay ra còn con kia thì bị mất một cánh, không thể bay lên được. Thiền sư mới bảo: - Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao con bồ câu này không thể bay được? Chính là vì ông đã ăn hết một cánh của nó. Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết Thiền sư Chí Công không phải là người thường. Ngài chính là hóa thân của Bồ – tát. Thế nên Ngài có năng lực biến những con bồ câu bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu sống. Không phải là Bồ – tát, không làm chuyện này được. Thiền sư Chí Công còn thường ăn một loại cá gọi là Tuệ Ngư. Cũng đem cá ra nấu nướng rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó Ngài lại há miệng ra làm cá sống lại. Vì vậy, những việc này là rất thường đối với cảnh giới của hàng Bồ – tát. Thiền sư Chí Công là một vị Bồ – tát, nhưng không bao giờ Ngài nói: “Các ngươi biết không, ta là một vị Bồ – tát, ta đang giáo hóa chúng sanh, ta có đại nguyện này, hạnh nguyện kia…” Các vị không bao giờ mong khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng phàm phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ – tát cũng không thể nào nhận biết được. Việc làm của Bồ – tát cũng gần như hành xử của người thường, nhưng thực chất lại không giống nhau. Là vì phàm phu khi hành động chỉ nghĩ đến lợi ích của chính mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho người khác. Còn Bồ – tát thì chỉ nghĩ đến lợi ích của người khác mà không nghĩ đến mình. Khác nhau là ở điểm này. Bồ – tát thì tự làm lợi ích cho mình còn lo làm lợi ích cho người khác. Tự giác ngộ mình xong rồi giúp cho người khác giác ngộ. Tự độ hoàn toàn, lợi tha hoàn toàn. ý nghĩa của chú Đại Bi mà tôi đang giảng cũng nằm trong đạo lý này vậy. 14. Tát bà a tha đậu du bằng Câu chú này chia làm ba phần. Khi trì tụng lên, câu chú có ba nghĩa khác nhau: Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”. A tha đậu dịch nghĩa là “phú lạc vô bần” giàu có, an lạc, không nghèo nàn về tâm linh, đạo lý, Phật pháp. Còn dịch nghĩa là “như ý bất diệt”. “Như ý” nghĩa là ước nguyện điều gì cũng đều được thành tựu. “Bất diệt” nghĩa là sự thành tựu do nguyện ấy vĩnh viễn không tiêu mất. Trong mười loại tâm thì đây là “vô vi tâm” nghĩa là “phú lạc vô bần” và “như ý bất diệt”. Du bằng dịch là “nghiêm tịnh vô ưu”, là thanh tịnh và trang nghiêm. Trang nghiêm lại thêm thanh tịnh, cho nên không có sự lo phiền, ưu não. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ chín “Vô kiến thủ tâm”. Kiến thủ là một trong năm món “ngũ lợi sử”. Nghĩa là khi quí vị vừa trông thấy một vật gì, tâm liền khởi niệm muốn chiếm đoạt, giữ lấy. Nên với tâm thứ chín – vô kiến thủ tâm là trạng thái không có mảy may vọng động về sự chấp thủ đối với pháp và ngã; đối với chủ thể cũng như khách thể; đối với ngoại cảnh cũng như dòng chuyển biến của thức tâm. 15. A thệ dựng A thệ dựng la tiếng Phạn, dịch nghĩa “vô tỷ pháp”. Không có pháp nào có thể so sánh được với pháp này. Còn có nghĩa là “vô tỷ giáo” nghĩa là không có đạo giáo nào có thể so sánh được. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ bảy, được gọi là “ty hạ tâm”, là tâm rất cung kính và tùy thuận bất kỳ người nào mình gặp. Câu chú này còn biểu tượng cho tâm thứ tám, gọi là “vô tạp loạn tâm”. Đây chính là pháp thanh tịnh, không chút cấu nhiễm, chính là pháp bát nhã tâm của Quán Thế Âm Bồ – tát. Mười loại tâm này là tướng của Đà - la – ni, chúng ta phải đem những đạo lý này hành trì không xao nhãng và gián đoạn. Chúng ta tu tập theo tinh thần của kinh Đại bi tâm Đà la ni thì chắc chắn sẽ thành tựu đạo nghiệp, đắc thành chánh quả. 16. Tát bà tátđá, na ma bà tát đa, na ma bà già Tát bà tát đá là tiếng Phạn, dịch là “Đại thân tâm Bồ – tát”. Na ma bà tát đa. Hán dịch là “đồng trinh khai sĩ”, là tên gọi khác của pháp vương tử, cũng là hàng Bồ – tát. “Đồng trinh” biểu tượng cho bản tánh. Còn “khai sĩ” cũng là một danh hiệu khác của Bồ –tát, có nơi gọi là “đại sĩ”. Các vị Bồ – tát lúc sắp thành tựu Phật quả, đều được gọi là pháp vương tử, tên gọi của hàng Thập địa Bồ – tát. Na ma bà già. Hán dịch là “Vô đẳng đẳng”. Giống như ý nghĩa trong Bát nhã tâm kinh “Cố tri Bát – nhã ba – la – mật - đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô lượng chú, vô đẳng đẳng chú”. Quí vị có thể hỏi: “Cái gì không thể sánh bằng?” “Đó là bà già, Hán dịch là Thế tôn”. Bà già là chư Phật thường trụ ở khắp trong mười phương. 17. Ma phạt đạt đậu Ma phạt đạt đậu dịch nghĩa là “Thiên thân, thế hữu”. Câu chú này có nghĩa là: “Kính lạy chư Bồ – tát, xin hãy duỗi lòng từ cứu giúp con. Xin các Ngài hãy là thân quyến ở cõi trời của chúng con và là người bạn ở cõi thế gian này của chúng con, để hộ trì cho mọi thiện pháp được thành tựu”. Câu chú này thỉnh nguyện sự gia trì của mười phương chư Phật và chư Bồ – tát. 18. Đát điệt tha - án Trong Bát nhã tâm kinh có nói: “Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết...” Đát điệt tha Hán dịch là “tức thuyết chú viết”. Còn dịch là “Sở vị”. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng Tâm đại bi mà nói ra chơn ngôn này, nói bằng các chủng tự của Phạm Thiên. Đát điệt tha còn có nghĩa là “thủ ấn” nghĩa là kết ấn bằng tay. Cũng gọi là “trí nhân” nghĩa là khai mở con mắt trí tuệ của chúng sinh. Đát điệt tha lại còn có nghĩa là vô lượng pháp môn tu học và trí huệ nhãn vô lượng. Đó là ý nghĩa của “Sở vị”. Chữ án như đã nói ở trước, khi quí vị trì niệm trì niệm đến chữ án thì quỷ thần đều phải chắp tay cung kính, lắng nghe người niệm chỉ giáo. Chữ án còn có công năng lưu xuất nhiều pháp môn sau đây. 19. A bà lô hê A bà lô hê chính là Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là “quán sát”. Dùng trí tuệ để quán sát mọi âm thanh oqr thế gian. Trong thế gian có nhiều loại âm thanh. Bồ – tát Quán Thế Âm quán sát âm thanh, tiếng kêu than cầu xin cứu khổ của người ở thế gian khi họ không thể vượt qua nổi những khổ nạn. 20. Lô ca đế Lô ca đế nghĩa là “Tự tại” hoặc là “Thế Tôn”. Hợp lại hai câu trên A bà lô hê lô ca đế nghĩa là Bồ – tát dùng trí tuệ để quán sát âm thanh ở thế gian. Chính là danh hiệu của Bồ – tát Quán Thế Âm. (còn tiếp)
    2 likes
  15. Mỹ tiết lộ việc nghiên cứu vũ khí kinh hoàng hơn bom nguyên tử Tintuc Online 23/04/2010 11:23 (GMT +7) Năm 1990, tại căn cứ không quân Glyn, Mỹ, Tiến sĩ Kenis Edward và các cộng sự trong nhóm nghiên cứu phát triển "cải cách vũ khí", Mỹ bắt đầu thực hiện công việc: Nghiên cứu vũ khí phản vật chất (VKPVC). Sau gần 20 năm tìm tòi, gần đây khi Edward tiết lộ loại vũ khí mới này có uy lực vượt xa bom nguyên tử - vài gram sẽ có thể hủy diệt trái đất, khiến người ta kinh ngạc và lo lắng. Ba đại "Bí mật của thế kỷ" Đầu năm 2009, trong cuộc họp với các quan chức cao cấp quân sự Lầu Năm Góc, giới thiệu về tiến triển nghiên cứu phát triển VKPVC, Edward nói: "Ba đại bí mật thế kỷ" đã kích thích những nghiên cứu của tôi". Vệ tinh nghiên cứu phản vật chất Edward cho biết, "bí mật thế kỷ" đầu tiên và nổi tiếng nhất là vụ nổ Tungus, xảy ra sáng sớm ngày 30/6/1908, trong rừng rậm vùng Tungus, Siberia, Nga. Đây là một vụ nổ lớn chưa có tiền lệ trong lịch sử. Uy lực của nó tương đương với 1.000 quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima, Nhật Bản đồng thời nổ, khiến mọi vật và sự sống trong vùng nổ vài trăm kilômét vuông bị hủy diệt. Cho đến nay vẫn chưa ai giải thích được nguyên nhân của vụ nổ này. Vụ thứ hai của "bí mật thế kỷ" xảy ra ngày 22/9/1979. Hôm đó, vệ tinh Mỹ đã chụp được ảnh một vụ "nổ hạt nhân" cực mạnh xảy ra ở bờ biển Tây Phi. Thời kỳ này chỉ có vài nước như Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp, Trung Quốc... có vũ khí hạt nhân, nguyên nhân nổ hạt nhân ở Tây Phi cho đến nay vẫn không rõ. Lần thứ 3 "bí mật thế kỷ" xảy ra lúc 22h ngày 29/4/1984. Lúc đó một số máy bay của Nhật Bản bay đến bầu trời Alaska - Mỹ, Phó cơ trưởng bỗng nhiên phát hiện phía trước có một "đụn mây hình nấm" rất nhanh khuếch tán ra xung quanh... Cơ trưởng của 3 chiếc máy bay khác trên cùng đường bay cũng nhìn thấy hiện tượng lạ này. Nhưng sau khi cả 4 chiếc máy bay này hạ cánh, các nhân viên trên máy bay và trên thân máy bay đều được kiểm tra, đã không phát hiện thấy bất kỳ dấu tích nhiễm phóng xạ nào. Mãi đến năm 1986, sau khi giới khoa học có những nghiên cứu đột phá về phản vật chất, mới có người lên tiếng: Ba vụ nổ trên có thể là kết quả của các cuộc thử nghiệm "điều khiển phát triển phản vật chất". Edward sinh năm 1960, công dân Mỹ. Năm 1990, tốt nghiệp ngành vật lý tại Viện Công nghệ Massa, Mỹ, rồi nhận bằng tiến sĩ, sau đó đến làm việc tại Cơ sở Nghiên cứu máy gia tốc quốc gia Feymi, Mỹ. Tại đây, Edward bắt đầu đi sâu nghiên cứu lý luận phản vật chất. Năm 2000, Edward được giao phụ trách nhóm nghiên cứu "cải cách vũ khí", bắt đầu chuyên sâu nghiên cứu cụ thể VKPVC. Edward cho biết: "Chúng ta đều biết, vật thể trong tự nhiên đều hợp thành từ proton, nơtron và điện tử, nhưng tất cả những hạt vi mô đều có phản hạt của chính nó. Chính uy lực sản sinh ra của những phản vật chất (phản hạt) này đã được bộc lộ qua “3 đại bí mật thế kỷ". Ngày 24/3/2004, trong Hội thảo Những khái niệm tiên tiến do Cục Hàng không vũ trụ Mỹ tổ chức, Edward tới dự và phát biểu những lời tỏ ra bi quan: "Tuy các nước đã đầu tư nhân lực, vật lực to lớn, nhưng việc nghiên cứu phản vật chất vẫn tiến triển chậm chạp, nguyên nhân là vì không có cách nào sử dụng máy gia tốc hạt để sản xuất ra đủ lượng phản vật chất. Hơn nữa, để sản xuất ra 1 phần tỉ gram phản vật chất yêu cầu tiêu tốn vài tỉ USD! Ngoài ra, hoạt động của điện tử dương rất khó khống chế, rất khó lưu giữ chúng trong một dụng cụ đặc biệt; điều đó có nghĩa là, nó không có giá trị quân sự"! Từ sau cuộc họp đó, người ta hầu như không thấy Edward và nhóm cộng sự không xuất hiện nữa. Có lúc người ta cho rằng, có thể Edward thấy khó nên đã sớm rút lui? Kinh hoàng hơn bom nguyên tử? Theo tiết lộ, tháng 8/2008, Edward xuất hiện tại Lầu Năm Góc, báo cáo trước các quan chức cao cấp quân đội Mỹ về thành quả tiến triển nghiên cứu mới nhất của ông ta về VKPVC. "Trên nghiên cứu VKPVC của chúng ta đã có được sự đột phá quan trọng, chúng ta đã thành công trong việc nghiên cứu phát triển một loạt dụng cụ có thể tồn giữ phản vật chất lâu dài có hiệu quả, điều này có nghĩa là việc sử dụng phản vật chất trong quân sự sẽ trở thành hiện thực"! Sau đó, Edward bắt đầu trình bày trước giới quân sự về uy lực của VKPVC. Edward đã chủ trì một cuộc diễn tập mô phỏng qua máy tính điện tử với biệt hiệu: "Tấn công đặc biệt phản vật chất" với giả tưởng: Một ngày vào năm 201X, một binh sĩ Mỹ mang theo một quả bom PVC định giờ tiềm nhập vào thủ đô nước C; vào trong một nhà vệ sinh của tòa nhà Bộ Tổng tham mưu nước C gần trung tâm thành phố, đặt quả bom rồi ung dung đi ra. Đúng như kế hoạch, bom định giờ phản vật chất nổ, tòa nhà Bộ Tổng tham mưu nước C và các công trình phụ cận đổ sụp hết. Quả bom PVC mà binh sĩ này mang chỉ nặng 1 phần 50 triệu gram! Tiếp sau đó, một quả bom xung mạch PVC nổ trên không tại nhà máy điện và mạng thông tin nước C, chỉ trong nháy mắt mọi hoạt động quân sự và xã hội của nước này tê liệt hoàn toàn... Lúc đó, có tướng lĩnh đã thốt lên "nếu vậy, chỉ cần quả bom phản vật chất nặng vài gram sẽ hủy diệt toàn cầu". Kết thúc diễn tập, Edward giải thích: "Quan hệ giữa vật chất và PVC tương tự như học thuyết âm dương cổ đại". Trong tự nhiên, bất cứ một loại "hạt nguyên tử thứ cấp nào (hạt so với nguyên tử còn nhỏ hơn) đều có một loại phản vật chất đối ứng, nếu hai loại vật chất này phát sinh va chạm mãnh liệt, chúng đều tiêu tan, đồng thời giải phóng ra năng lượng cực lớn. Edward còn cho biết, điều kỳ lạ khác với bom nguyên tử là khi bom phản vật chất nổ, sẽ không sản sinh bức xạ, có thể được coi là một loại "bom hydro sạch". Nó có uy lực nổ như bom hydro, nhưng sẽ không gây ô nhiễm bức xạ hạt nhân... Edward nhấn mạnh, đương nhiên, nghiên cứu phản vật chất không phải chỉ dùng cho chiến tranh, ông giải thích: "1 gram phản vật chất đủ cung cấp động lực cho hàng chục máy bay hàng không vũ trụ. Điều này có thể làm thay đổi căn bản mô thức cung ứng nguồn năng lượng, sẽ là một cuộc cách mạng nguồn năng lượng". "Người mở bình ma quỷ" Nhưng, loại vũ khí mới mà Edward gọi là "sạch" này lại khiến các nhà quân sự thế giới hết sức lo lắng. Một số nhà khoa học, nhà sử học, trung tâm nghiên cứu cao cấp Đại học Prinston, Mỹ đã chỉ ra, VKPVC "sạch" khác xa so với vũ khí hạt nhân "bẩn" và nó còn đáng sợ hơn nhiều. Bom nguyên tử thông thường, bom hydro nói chung chỉ coi là thủ đoạn uy hiếp chiến lược, cơ bản không được sử dụng trong chiến tranh thông thường và chiến tranh cục bộ. Vì chúng ngoài uy lực lớn, còn sinh ra bức xạ hạt nhân, gây ô nhiễm thổ nhưỡng, không khí, nguồn nước khu vực chiến tranh, đồng thời tạo ra tổn thương nhiễm phóng xạ đối với sinh vật và thực vật, dẫn đến thảm họa nhân đạo. Giới phân tích cho rằng, sự lo lắng của các chuyên gia quân sự không phải không có lý. Vì ngay từ năm 2004, sau khi Edward công khai kết quả tiến triển nghiên cứu phản vật chất của ông ta, một số nước đã lao vào nghiên cứu phát triển lĩnh vực nhạy cảm này. Pháp và Thụy Điển đã hợp tác xây dựng Trung tâm Nghiên cứu phản vật chất châu Âu; Cơ sở nghiên cứu vật lý cao năng của Nga cũng đang nghiên cứu phản vật chất dùng cho quân sự. Cho nên, giới khoa học Mỹ đã gọi Edward là "Người cha của VKPVC", nhưng có người đã ví Edward như là "người mở bình ma quỷ". Theo Nguyễn Mau
    1 like
  16. Vãng sanh quyết định chơn ngôn. Vãng sanh quyết định chơn ngôn hay Vãng sanh Tịnh độ thần chú là mật ngôn được trì niệm phổ biến trong các khóa lễ Tịnh độ, cầu siêu. Thần chú này có tên đầy đủ là Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sanh Tịnh độ Đà la ni. Cứ vào tên của Đà la ni (Tổng trì, thâu nhiếp vạn pháp, tạm gọi là chơn ngôn hoặc thần chú) cho biết thần chú này có công năng phá trừ tất cả nghiệp chướng căn bản, để được vãng sanh về Cực lạc. Theo kinh Niệm Phật Ba la mật, phẩm thứ 7 (HT.Thích Thiền Tâm dịch), Bồ tát Phổ Hiền vì thương xót chúng sanh thời mạt pháp nên nói Đà la ni này để trợ duyên được mau vãng sanh về Tịnh độ: “Lúc bấy giờ, Ngài Phổ Hiền Đại Bồ tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay vì thương tưởng chúng sanh nơi thời mạt pháp, khi ấy kiếp giảm thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật thần chú Đà la ni này để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng, trừ sạch phiền não, được mau chóng sanh về Cực lạc, gọi là Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sanh Tịnh độ Đà la ni. Liền nói chú rằng: Nam mô a di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha Đức Phật A Di Đà - Ảnh tư liệu Người niệm Phật phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều phải thanh tịnh. Ngày đêm sáu thời, mỗi thời tụng 21 biến. Như vậy, diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác và hủy báng Chánh pháp. Thường được Phật A Di Đà hiện trên đỉnh đầu. Hiện đời an ổn, phước lạc. Khi trút hơi thở cuối cùng được tùy nguyện vãng sanh. Trì tụng đến ba chục ngàn biến liền thấy Phật ngay trước mặt”. Xưa nay, phần lớn những hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ thường trì niệm thần chú Vãng sanh theo phiên âm tiếng Hán. Chúng ta có thể trì niệm theo nguyên văn tiếng Phạn (đã phiên âm) và tìm hiểu đôi chút về “ý nghĩa” của thần chú này. - Namo Amitàbhàya (Na-mô A-mi-ta-pha-gia) Nam mô A di đa bà dạ Quy mạng Vô Lượng Quang (A Di Đà) - Tathàgatàya (Ta-tha-ga-ta-gia) Đa tha già đa dạ Như Lai - Tadyathà (Ta-di-gia-tha) Đa điệt dạ tha Nên nói thần chú - Amrto dbhave (A-mờ-rật-tô đờ-pha-vê) A di rị đô bà tỳ Cam lộ hiện lên - Amrta sambhave (A-mờ-rật-ta sam-pha-vê) A di rị đa tất đam bà tỳ Cam lộ phát sinh - Amrta vikrànte (A-mờ-rật-ta vi-kờ-răm-tê) A di rị đa tỳ ca lan đế Cam lộ dũng mãnh - Amrta vikrànta gamini (A-mờ-rật-ta vi-kờ-răm-ta ga-mi-ni) A di rị đa tỳ ca lan đa già di nị Đạt đến Cam lộ dũng mãnh - Gagana kìrtti kare (Ga-ga-na kít-ti ka-rê) Già già na, chỉ đa ca lệ Rải đầy hư không - Svàhà (Sờ-va-ha) Ta bà ha Thành tựu cát tường. Như vậy, Bồ tát Phổ Hiền trong pháp hội tại Linh Sơn đã vì chúng sanh đời mạt pháp về sau mà xin phép Thế Tôn tuyên thuyết thần chú Vãng sanh. Theo lời dạy của Bồ tát, nếu có người nào phát nguyện sanh về Cực lạc nhưng vì phước mỏng nghiệp dày, niệm Phật chưa đạt đến nhất tâm thì có thể nương nhờ công đức của thần chú Vãng sanh để được như nguyện. Hành giả thực hành trai giới, giữ ba nghiệp: thân, miệng, ý thanh tịnh; mỗi ngày trì niệm 6 thời, mỗi thời 21 biến thì chắc chắn tiêu trừ tất cả nghiệp chướng, cho dù là ngũ nghịch hay thập ác tội chướng. Thần chú Vãng sanh có tầm quan trọng như thế, nên người tu pháp môn Tịnh độ luôn trì niệm nhằm thú hướng Lạc bang. Nhiên Tự nguồn giacngo.vn
    1 like
  17. THỜI GIAN PHẢI CHĂNG CHỈ LÀ MỘT ẢO TƯỞNG? Craig Callender, Cao Chi biên dịch Tạp chí Tia Sáng 11:04' AM - Thứ ba, 03/08/2010 Nhiều thập kỷ qua các nhà vật lý và các triết gia không ngừng suy nghĩ về vấn đề thời gian. Thời gian có tồn tại độc lập hay không? Tại sao thời gian lại phải có nhiều tính chất khác nhau thay đổi từ cơ học cổ điển Newton đến lý thuyết tương đối Einstein rồi lý thuyết lượng tử. GS triết gia Craig Callender trình bày một cách nhìn mới mẻ về thời gian: thời gian chỉ là một phương thức thuận tiện để đo đạc các quá trình trong vũ trụ.Thời gian không tồn tại độc lập, chúng ta chỉ cảm nhận được thời gian vì chúng ta là một hệ con bị ràng buộc với các hệ con khác trong vũ trụ bởi nhiều mối liên quan. Thời gian được ví như tiền tệ vốn chỉ là một phương tiện giao dịch, thuận tiện hơn phương thức trao đổi trực tiếp bằng hiện vật. Bài báo của Craig Callender [1] có thể đem lại nhiều tia sáng mới cho vật lý và triết học trong vấn đề thời gian. Các khái niệm về thời gian và sự thay đổi của thời gian có thể đột sinh từ một vũ trụ mà về cơ bản là phi thời gian tính. Thời diểm hiện tại được cảm nhận là đặc biệt, hiện tại là hiện thực. Song khi bạn hồi tưởng lại quá khứ hay suy tưởng về tương lai, bạn vẫn đang sống trong hiện tại. Lẽ dĩ nhiên thời quãng bạn đọc những dòng chữ này không kéo dài lâu. Nói cách khác ta cảm thấy thời gian đang chảy nhưng thực tế là hiện tại đang liên tục cập nhật. Chúng ta có một cảm nhận trực giác về sự định hình của quá khứ và sự hình thành của tương lai chỉ khi nào hiện tại xuất hiện. Các phương trình vật lý không nói cho chúng ta biết những sự kiện nào đang xảy (điều này trông giống một bản đồ mà không ghi rõ “bạn đang ở nơi nào”). Như vậy thời gian hiện tại không có mặt trong các phương trình do đó cũng không có dòng chảy của thời gian. Thời gian không tồn tại độc lập song là một phương thức mô tả mối quan hệ giữa các đối tượng. Ý tưởng đó đã dẫn họa sĩ Keith Peters đến bức tranh trên trong đó nhiều đường vòng chạy quấn quanh đối tượng này sang đối tượng khác. Sự cách biệt trong suy nghĩ thông thường của chúng ta và cách hiểu thời gian trong khoa học đã làm bối rối nhiều nhà tư tưởng suốt thời gian lịch sử. Nhiều nhà vật lý lý thuyết tin rằng thời gian không tồn tại. Ý tưởng thời gian không tồn tại quả là rất khó hiểu đối với trực giác. Mọi việc chúng ta làm dường như đều thực hiện trong thời gian. Một lý thuyết không có thời gian phải đương đầu với việc giải thích vì sao chúng ta thấy mọi sự thay đổi nếu quả thật trong vũ trụ không có thời gian. Mặc dầu thời gian không tồn tại ở mức cơ bản song thời gian có thể xuất hiện ở những mức cao hơn - hoàn toàn giống như một cái bàn trông như một vật rắn mặc dầu được cấu tạo bởi một tập các hạt kết với nhau trong một không gian gần như trống rỗng. Như vậy tính rắn là một tính tập thể, nói cách khác là một sự đột sinh (emergent) từ tập của các hạt. Tương tự như vậy thời gian chính là một tính chất đột sinh bất kể đối với các thành phần nào của vũ trụ. Khái niệm về sự đột sinh của thời gian là một thế cách mạng biểu diễn sự phát triển của lý thuyết tương đối và cơ học lượng tử. Các nhà vật lý lý thuyết khi đeo đuổi mộng tưởng thống nhất đều xem vấn đề thời gian là vấn đề cơ bản. Họ nghĩ rằng một lý thuyết thống nhất phải là một lý thuyết không có thời gian, và cho rằng nếu không đi sâu vào tìm hiểu thời gian thì khó lòng xây dựng được lý thuyết thống nhất. Sự xuất hiện và biến đi của thời gian Thời gian đã đảm đương nhiều công việc trong vật lý song các công việc đó có thể càng ngày càng biến mất đi. Thời gian cổ điển Chúng ta sẽ lấy làm lạ khi các định luật chuyển động của Isaac Newton đòi hỏi thời gian phải có nhiều tính chất rất đặc biệt. Mọi người quan sát đều công nhận tính kế tiếp của nhiều sự kiện, trong vật lý cổ điển chúng ta có thể nói rằng một sự kiện này xảy ra trước, sau hay đồng thời với một sự kiện khác. Như thế thời gian cung cấp một phương tiện để xếp đặt thứ tự của các sự kiện. Tính đồng thời của hai sự kiện là một điều tuyệt đối độc lập với mọi người quan sát. Hơn nữa thời gian phải liên tục bởi vì có như thế thì chúng ta mới định nghĩa được vận tốc và gia tốc. Thời gian cổ điển đòi hỏi khái niệm thời quãng (duration)-mà các nhà vật lý gọi là metric-như thế chúng ta có thể xác định được khoảng cách giữa hai sự kiện trong thời gian. Cũng giống như thứ tự các sự kiện, thời quãng giữa hai sự kiện là một yếu tố độc lập với mọi người quan sát. Như vậy về thực chất Newton đòi hỏi rằng vũ trụ song hành với sự tồn tại một đồng hồ chủ (master clock). Chiếc đồng hồ này phân vũ trụ thành nhiều thời điểm và vật lý Newton chỉ lắng nghe tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ này mà thôi. Newton cảm nhận dòng chảy thời gian và đồng thời cảm nhận hướng chảy của thời gian đó về tương lai, mặc dầu những tính chất bổ sung này của thời gian không bị đòi hỏi bởi các định luật Newton. Thời gian Newton giống như chiếc mũ cũ của chúng ta song một phút suy nghĩ cho chúng ta thấy những điều lạ lùng. Các tính chất của thời gian: thứ tự (order), liên tục (continuity), thời quãng (duration), tính đồng thời (simultaneity), dòng chảy (flow) và mũi tên thời gian (arrow of the time) đều kết dính với đồng hồ chủ mà Newton gọi là “thời gian”. Toàn thể những tính chất này không thay đổi suốt trong gần hai thế kỷ. Mũi tên thời gian Sau đó những tính chất này bị nhiều cuộc tấn công vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế ký 20. Cuộc tấn công đầu tiên là từ phía nhà vật lý người Áo Ludwig Boltzman: nếu các định luật Newton là đúng cho cả hai chiều của thời gian thì sẽ không có mũi tên thời gian (luôn hướng về tương lai). Thay vì vào đó Boltzman cho rằng hướng mũi tên thời gian không phải là một tính chất nội tại của thời gian mà xuất phát từ tính bất đối xứng của vật chất hình thành trong vũ trụ. Boltzman đã loại được một tính chất của thời gian Newton một cách thuyết phục. Thời gian trong lý thuyết tương đối Tiếp theo là cuộc tấn công của Einstein về ý tưởng đồng thời (simultaneity) tuyệt đối: theo lý thuyết tương đối thì sự đồng thời còn phụ thuộc vào chúng ta chuyển động như thế nào. Sân khấu chính thức của các sự kiện không phải là thời gian mà cũng không phải là không gian mà là đa tạp tích hợp: không-thời gian. Hai quan sát viên chuyển động với hai vận tốc khác nhau không thể đồng ý với nhau rằng một sự cố nào đó xảy ra lúc nào và ở đâu song họ có thể đồng ý với nhau rằng sự cố đó đã xảy ra tại tọa độ nào trong không-thời gian. Hình 1. Một quả bóng chuyển động và đập vào một bức tường nằm trong một khối tạo nên một không-thời gian. Có hai cách cắt lát không-thời gian. A / Trong cách thứ nhất (cách thông thường) ta cắt không- thời gian (cắt ngang ) theo từng thời điểm tạo nên một cuốn phim mô tả chuyển động của quả bóng Mỗi khung ảnh dẫn đến khung ảnh tiếp sau theo đúng các định luật vật lý. B / Nếu dùng phép cắt lát thứ hai (cắt dọc) không theo hướng quá khứ tương lai mà theo hướng từ trái sang phải. Mỗi lát cắt vừa là một phần không gian vừa là một phần thời gian. Bên trái bức tường quả bóng xuất hiện ở hai vị trí còn bên phải bức tường quả bóng không xuất hiện. Một điều tồi tệ nữa lại xảy ra năm 1915 khi Einstein xây dựng xong lý thuyết tương đối tổng quát thống nhất lý thuyết tương đối hẹp với lực hấp dẫn. Hấp dẫn đã làm cong thời gian và như thế thời quãng một giây ở đây không giống thời quãng một giây ở nơi khác. Ta khó lòng nói được một sự kiện này xảy ra trước hay sau một sự kiện khác. Mặc dầu nhiều nhà vật lý cho rằng một lý thuyết thống nhất sẽ có thể loại thời gian, thực tế thời gian đã mất đi từ năm 1915. Cắt lát không-thời gian để thấy thời gian có điểm khác biệt với không gian Chúng ta có thể nghĩ rằng sự khác biệt giữa không gian và thời gian gần như biến mất và kịch trường chính thức của các sự kiện là một đa tạp 4 chiều. Lý thuyết tương đối dường như không gian hóa (spatialize) thời gian: biến thời gian thành một chiều của đa tạp đó. Không-thời gian giống như một ổ bánh mì mà chúng ta có thể cắt lát theo nhiều chiều (Hình 1). Ngay cả trong lý thuyết tương đối tổng quát thời gian vẫn giữ một nhiệm vụ khác biệt để giúp phân biệt hai khái niệm “ đồng dạng thời gian” (timelike) và “đồng dạng không gian” (spacelike). Các sự kiện đồng dạng thời gian là những sự kiện nối liền nhau bởi nguyên lý nhân quả: tồn tại những vật thể hoặc ánh sáng có thể đi từ sự kiện này đến sự kiện kia để gây nên nhân quả. Các sự kiện đồng dạng không gian là những sự kiện không có dính dáng gì với nhau về nhân quả: không tồn tại những vật thể hoặc ánh sáng có thể đi kịp từ sự kiện này đến sự kiện kia để đảm bảo được nguyên lý nhân quả. A/ Hãy cắt lát không thời gian thành từng lát cắt từ quá khứ đến tương lai: mỗi lát cắt là một không gian 3 - chiều tại một thời điểm. Tổng các lát cắt đó làm thành không-thời gian 4-chiều. B/ Song nếu ta cắt theo một kiểu khác theo hướng Đông Tây thì mỗi lát cắt 3-chiều lại là một hỗn hợp lạ lùng của các sự kiện đồng dạng không gian và các sự kiện đồng dạng thời gian. Hai cách cắt lát này giống như cách ta cắt một ổ bánh mì theo chiều thẳng đứng hoặc theo chiều nằm ngang. Cách cắt lát thứ nhất cho những hình ảnh không gian tại những thời điểm kế tiếp của thời gian. Cách cắt lát thứ hai không có một hình ảnh tương tự nào: nó tương ứng với cách cắt không thời gian không phải từ quá khứ đến tương lai mà từ phía Đông sang phía Tây. Ví dụ của một lát cắt này là bức tường phía bắc của nhà bạn cộng với những điều gì sẽ xảy ra trong tương lai trên bức tường đó và từ phép cắt đó bạn có thể áp dụng những quy luật vật lý để tái lập các phần còn lại của cái nhà. Thời gian lượng tử Một mục đích tối thượng của vật lý là thống nhất lý thuyết tương đối rộng với lý thuyết lượng tử để tạo nên một lý thuyết duy nhất: lý thuyết lượng tử của hấp dẫn. Ta gặp thêm nhiều rắc rối: lý thuyết lượng tử nói rằng các vật thể có nhiều cách hành xử khác với trong vật lý cổ điển ví như vận tốc và vị trí. Sự mô tả của một vật thể phải được thực hiện nhờ một hàm sóng biểu diễn trạng thái. Trạng thái này tiến triển liên tục theo thời gian và nhờ đó các nhà vật lý có thể tính được xác suất của điều gì sẽ xảy ra trong tương lai. Những điều này lại cho phép thời gian có những tính chất mới [2]. Thứ nhất thời gian lại cho phép những nghịch lý xảy ra với những xác suất nhất định. Vậy thời gian cho phép sự tồn tại các nghịch lý. Thứ hai tùy theo thứ tự các phép đo mà chúng ta có thể thu được những kết quả khác nhau. Thứ ba cơ học lượng tử dẫn đến hiện tượng liên đới lượng tử (quantum entanglement). Từ đó có hiện tượng ma quái tác dụng từ xa (“spooky action at a distance”) trong nghịch lý ERP (Einstein, Rosen & Podolsky). Như vậy theo Einstein phải tồn tại đồng hồ chủ mà chính lý thuyết tương đối của ông ngăn cấm. Các nhà lý thuyết mong muốn loại bỏ thời gian khi xây dựng một lý thuyết thống nhất nhưng lại bối rối vì vai trò quan trọng của thời gian trong lý thuyết lượng tử: đó chính là nguồn gốc khó khăn trong quá trình hình thành một lý thuyết thống nhất. Vậy thời gian đi đâu? Như chúng ta biết có nhiều phương án thống nhất lý thuyết hấp dẫn với lý thuyết lượng tử: Lý thuyết Dây (String theory), CDT (Causal Dynamical Triangulation ), Hình học không Giao hoán (Non Commutative geometry), LQG (Loop Quantum Gravity)...[3]. Các phương án này được phân chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất lấy lượng tử làm cơ sở như trong lý thuyết dây LTD (còn có thời gian), nhóm thứ hai muốn xuất phát từ lý thuyết hấp dẫn (có thể thời gian bị loại). Thực tế sự khác biệt giữa hai nhóm này rất mờ. Các nhà LTD đang tìm cách loại bỏ thời gian. Hình 2a. Bên trái hình vẽ ta dùng thời gian để đo tốc độ ánh sáng, nhịp đập của quả tim và vận tốc quay của một hành tinh và thu được theo thứ tự: 300.000 km/giây,73 nhịp đập/phút, 1vòng quay/ngày. Bên phải hình vẽ ta không dùng đến thời gian nữa và lấy một nhịp đập của trái tim làm đơn vị thì thu được theo thứ tự: 240.000 km/nhịp đập, 1 nhịp đập và 108.000 nhịp đập/1 vòng quay. Hình 2b. Bên trái hình vẽ ta dùng đồng USD để tính giá trị của một cốc cà phê, 1 đôi giày và một chiếc ô tô đã qua sử dụng và thu được theo thứ tự: 2USD, 100USD và 2000 USD. Bên phải hình vẽ lấy giá trị một cốc cà phê làm đơn vị ta thu được theo thứ tự: 1 cốc cà phê,50 cốc cà phê / 1 đôi giày và 1000 cốc cà phê/một chiếc ô tô đã qua sử dụng. Vào những năm 1950, 1960 khi John Wheeler và Bryce DeWitt tìm cách viết những phương trình Einstein dưới dạng giống như những phương trình của QED (Quantum Electrodynamics-Điện động lực học Lượng tử) cốt để sử dụng những phương pháp lượng tử hóa quen thuộc của QED thì họ đã đi đến một kết quả hết sức bất ngờ: phương trình bây giờ được gọi là phương trình Wheeler-DeWitt hoàn toàn không chứa thời gian. Ký hiệu t biểu diễn thời gian đã bị loại mất. Điều này đã làm bối rối các nhà vật lý trong nhiều thập kỷ. Sao mà thời gian lại biến mất? Song nhìn lại ta thấy điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Như đã nói ở trên thời gian đã gần như biến mất từ lý thuyết tương đối tổng quát trước cả lúc các nhà vật lý có ý định thống nhất với lý thuyết lượng tử. Nếu nói một cách tường minh hơn thì thời gian không tồn tại. Carlo Rovelli (Đại học Marseille, Pháp) cùng với nhà vật lý người Anh Julian Barbour đã tìm cách viết lại lý thuyết lượng tử trong một khuôn khổ không chứa thời gian như lý thuyết tương đối đòi hỏi. Ý tưởng chính của hai tác giả là: nếu không tồn tại một thời gian tổng thể (global time) thì chúng ta cần nối liền một hệ thống vật lý này với một hệ thống vật lý khác. Thay vì theo dõi tóc trên đầu bạn đã bạc đi như thế nào theo thời gian bạn có thể nối liền quá trình bạc tóc của bạn với quỹ đạo của vệ tinh. Thời gian trở nên thừa. Mọi sự thay đổi có thể mô tả không cần thời gian. (xem hình 2a,2b). Tương tự như vậy tiền tệ thuận tiện hơn là trao đổi hiện vật khi phải thanh toán một cốc cà phê: thời gian thuận tiện trong việc nối liền một hệ thống vật lý này với một hệ thống vật lý khác ví như quá trình bạc tóc với quỹ đạo vệ tinh. Và thời gian quả là một ảo giác thuận tiện hơn bất cứ điều gì trong vũ trụ như đồng tiền trong cuộc sống thường nhật. Song nếu loại bỏ thời gian thì chúng ta phải tư duy lại lý thuyết lượng tử.Phục hồi thời gian Một câu hỏi cấp bách là nếu chấp nhận hấp dẫn lượng tử thì phải giải thích vì sao vũ trụ dường như có thời gian? Ngay lý thuyết tương đối rộng khi hấp dẫn yếu và vận tốc nhỏ cũng có nhiều mẫu con thời gian mà tổng thể là một thời gian tựa Newton. Barbour & Rovelli còn gợi ý rằng thời gian (hay ít nhất ảo tưởng về thời gian) có thể xuất hiện từ điều không có gì cả (nothingness). Năm 1931 nhà vật lý người Anh Nevill F.Mott xét sự va chạm của một hạt nhân helium với một nguyên tử. Ông phân hệ thành hai hệ con và sử dụng hạt nhân helium như một “đồng hồ” đối với nguyên tử còn lại. Điều đáng chú ý là nguyên tử xét tương đối với hạt nhân helium tuân theo một phương trình chuẩn phụ thuộc thời gian của lý thuyết lượng tử song ở đây một hàm số của không gian đóng vai trò của thời gian. Tuy rằng toàn hệ là không phụ thuộc thời gian song các hệ con lại phụ thuộc. Như vậy trong toàn hệ thời gian đã ẩn núp trong các hệ con (Hình 2a,2b). Toàn vũ trụ có thể không có thời gian song hãy tưởng tượng vũ trụ bị phân chia thành nhiều hệ con thì một số hệ con lại đóng vai trò “đồng hồ” cho các hệ con khác. Chúng ta cảm nhận thời gian chỉ vì chúng ta theo bản chất là một hệ con. Nhà triết học Pháp Maurice Merleau-Ponty nói rằng thời gian bản thân thực tế không chảy và sở dĩ ta cảm nhận dòng chảy của thời gian vì “ta đã lén đặt vào dòng sông một chứng nhân của dòng chảy”. Như vậy khuynh hướng tin rằng thời gian đang chảy là hệ quả của việc quên mất rằng chúng ta là một hệ con với các mối liên hệ với vũ trụ trong bức tranh chung. Merleau-Ponty đã nói về những trải nghiệm chủ quan của chúng ta về thời gian và đến bây giờ thì chúng ta phải đoán nhận được rằng thời gian khách quan có thể giải thích được như là hệ quả của những mối quan hệ giữa các hệ con của vũ trụ. Thời gian chỉ tồn tại bằng cách phân chia vũ trụ thành những hệ con và tìm ra các mối quan hệ giữa chúng. Trong bức tranh đó thời gian vật lý đột sinh từ việc chúng ta nhận thức bản thân như một hệ tách rời với mọi thực thể khác. Kết luận Vậy thời gian là không tồn tại độc lập. Ta cảm nhận dòng chảy của thời gian chỉ vì ta là một hệ con có nhiều mối quan hệ với các hệ con khác trong vũ trụ. Cách nhìn mới mẻ này có thể giúp các nhà vật lý trong việc xây dựng một lý thuyết thống nhất hấp dẫn và lượng tử và các nhà triết học trong việc xây dựng một nhận thức luận mới đối với không-thời gian và vật chất của thế giới khách quan. --------------------------------------------------- Tài liệu tham khảo [1] Craig Callender, Is time an illusion? Scientific American, tháng 6/ 2010. [2] Cao Chi, Cơ Học Lượng Tử: từ quan điểm Einstein đến quan điểm tương quan, KHTQ số tháng 9 / 2008. [3] Bạn đọc có thể tìm thấy các lý thuyết này trong “Kỷ yếu Max Planck 2009” (Cao Chi , Tồn tại chăng một lý thuyết của tất cả) Nguồn: Tạp chí Tia Sáng
    1 like
  18. Buồn như ly rượu đầy, không có ai cùng cạn. Buồn như ly rượu cạn, không có người cùng say.
    1 like
  19. 8 sinh vật có màu vàng quý hiếm trong tự nhiên 20/08/2010 19:14:25 -Không thể tin nổi trên trái đất lại có những sinh vật giống như thế này. Một sản phẩm kỳ diệu và hoàn hảo của tạo hóa. Chúng thuộc nhiều chủng loại sinh vật khác nhau, có khi là các loài bọ cánh cứng, khi lại là các loài thú, cá hoặc bò sát. Dù là sinh vật nào đi nữa thì đó cũng là món quà tuyệt vời tạo hóa ban cho trái đất. Dưới đây là hình ảnh về chúng: Bọ cánh cứng màu vàng Một loài chim có lông màu vàng ở Châu Phi. Một loài linh trưởng có bờm như sư tử Một loài rắn vàng rất quý hiếm Thằn lằn quý đang trên bờ tuyệt chủng Loài ếch rất độc ở rừng Amazon Cá chép vàng Nhện Nam Mỹ Phú Nguyễn (Theo xinhua)
    1 like
  20. Câu đối ở cửa đền An Duơng Vương ở Cổ Loa: Chiêu lăng tùng bách kim hà xứ Thục quốc sơn hà tự cố cung. Dịch nghĩa Tùng bách Chiêu lăng đâu chốn cũ Non sông nước Thục đó cố cung. Lăng An Dương Vương được gọi là Chiêu lăng. Vua Chủ của Cổ Loa rõ ràng chính là Chiêu hay Chu thiên tứ.
    1 like
  21. Hùng Vương thứ 12- Hùng Chiêu Vương Các nhà khoa học nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa nhận định rằng nền văn minh Lạc Việt của dân tộc Bách Việt cổ đại mà đặc trưng là văn hóa lúa nước,văn hóa trống đồng,văn hóa hình kẻ vạch,văn hóa mẹ rồng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn minh Trung Hoa và văn minh thế giới. Biểu trưng của Lạc Việt quốc cổ đại là trống đồng. Người Lạc Việt cổ đại thờ mặt trời, rồng, chim lạc; sống gần nước, thích bơi chải và có mộ hình thuyền. Lạc Việt cổ quốc thần bí lưu lại vô số vấn đề hóc búa mà đến nay vẫn chưa lý giải được, trong đó có vấn đề đất tổ của người Lạc Việt và kinh đô sớm nhất của Lạc Việt quốc là ở đâu?Những trang sáng lạn của nền văn minh ấy do mưa gió lịch sử và những nguyên nhân con người đã làm cho bị phá vụn,trở nên khó tìm kiếm ký ức xa xưa.Đó là một điều đáng tiếc lớn. Nhưng một dân tộc mất đi ký ức lịch sử thì khó mà cấu thành hiện tại và càng khó nắm định được tương lai. Bởi vậy mà việc tìm hiểu những ký ức lịch sử đã bị mất đi là một tình tiết văn hóa mà một dân tộc không bao giờ tránh né. Do vậy mà từ năm 1974 đến 2007 các nhà khoa học Trung Quốc đã chú trọng khảo sát nghiên cứu lịch sử dân tộc Bách Việt. Ở Quảng Tây đặc biệt chú trọng vùng dân tộc Choang (dân số 17 triệu người, nhóm ngữ Choang-Đồng, tộc ngữ Tày-Thái ) là hậu duệ của người Lạc Việt mà tiền dân của họ đã khai sáng văn minh vùng lưu vực sông Chu Giang (thời nhà Thanh đổi là sông Tây Giang).Trong những vùng có phát hiện trống đồng và khí cụ đồng thau ở Đông Nam Á thì Quảng Tây và Việt Nam là có nhiều nhất, là những nơi có khả năng có kinh đô sớm nhất của Lạc Việt quốc. Nhưng cũng có sách như “Dật Chu thư. Vương Hội giải” phân tích: Lạc Việt thời Thương Chu là một quốc gia nên đất tổ cư của họ phải là nơi có nhiều đồ đồng thau niên đại Thương Chu. Qúi Huyện ở Quảng Tây và Hà Nội ở Việt Nam chỉ khai quật được đồ đồng thau niên đại từ Tam Quốc đến Hán,ít có đồ niên đại Thương Chu do vậy hai nơi này không thể là kinh đô sớm nhất của Lạc Việt quốc. Ngày 11 tháng 3 năm 2007 các nhà khoa học Trung Quốc phát hiện được lượng lớn cổ vật văn hóa Lạc Việt ở sườn tây nam núi Đại Minh Sơn大鳴山 huyện Vũ Minh武鳴縣 tỉnh Quảng Tây (đây là vùng tây nam Quảng Tây là vùng gọi là đất Bá 岜trong “Sử thuyết họ Hùng” của Nhật Nguyên ,là quốc gia Lạc Việt 駱越thời Hùng Vương 雄王thứ 12, gọi là Hùng Chiêu 雄召. Chữ Ba岜 nguyên nghĩa tiếng Choang là núi đá. Đất Ba là đất xưa vua Trụ nhà Ân Thương ban cho ông Tây Bá-Cơ Xương tổ nhà Chu bao gồm Qúy Châu và bắc Quảng Tây). Về địa hình,huyện Vũ Minh là một thung lũng bắc giáp núi Đại Minh Sơn,nơi đó có mỏ đồng trữ lượng lớn bằng 1/3 tổng trữ lượng các mỏ đồng ở Quảng Tây.Nơi đây còn phát hiện được những tảng đá có khắc chữ hình rắn. Dân cư có tập tục thờ mẹ rồng từ thời Thương Chu. Văn hóa thờ Long Mẫu là văn hóa tông giáo của Lạc Việt quốc cổ đại. Những di tích đền thờ Long Mẫu ở Đại Minh Sơn có rất nhiều. Để xác định nơi đây có từng là kinh đô Lạc Việt quốc cổ đại hay không, các nhà khoa học đã khảo sát các mặt như sau: Tìm trong chuyện truyền thuyết và ký ức ngôn từ để xác định các địa danh Lạc Việt. Vùng này có thôn Bản Lục, tiếng Choang là Bản Ô nghĩa là xóm đen ( “Ô” 烏Việt sử đọc biến âm là “ Âu” 鷗). Ở đây có miếu thờ Long Mẫu龍母 cúng ngày 1đến 13 tháng 3 âm lịch, xưa kia miếu có 200 mẫu ruộng hương hỏa ,cho thanh niên trong bản 4 năm một lần rút thăm để giành được vinh dự cày cấy.Thôn Lục Tà, tiếng Choang đọc là luegver nghĩa là Lạc Việt. Thôn Mã Đầu,không có nghĩa là đầu núi Mã Sơn như chữ Hán viết馬頭mà là mã đầu (bến cảng)碼頭 ,người Choang vẫn gọi nó là thôn Cổ Lỗ 古魯theo tiếng Choang nghĩa là nơi thuyền đậu ( “Cổ Lỗ” âm Việt là “Cọc Neo”),thôn này cũng có miếu thờ Long Mẫu.Thôn La Bà 罗婆,theo âm nghĩa là “bà lớn” cũng có miếu thờ Long Mẫu. Trên núi Đại Minh Sơn có miếu Đại Minh Sơn thờ Long Mẫu. Tên các con sông vùng này đều gắn ký ức với Lạc, mà các văn nhân xưa ở huyện Vũ Minh đều giải thích rằng “ Lạc” nghĩa là “nước” (Lạc Việt tức là Nác Việt, Nước Việt, mà quan thoại gọi là Lạc Việt quốc). Đời Thanh có văn nhân Hoàng Quân Cụ viết “Vũ Duyên huyện đồ kinh” có nói: “Nước ở huyện Vũ Duyên có ba dòng lớn là Nam Lưu,Đạt Mông,Đại Lãm”. Nam Lưu còn gọi là Hà Lự,viết là Khả Lự,Vị Long,Vũ Ly đều là do âm “Việt Lạc” mà ra (có nghĩa là dòng nác của người Việt). Sông Đông Giang ở Vũ Minh do ba sông Đạt Á Hà, Cổ Lỗ Hà, Ân Long Hà hợp thành.Bên sông Đông Giang có thôn Lục Lâm陸林 mà người Choang giải thích nghĩa theo âm tiếng Choang là khởi nguồn của nước (vậy thì “Lục Lâm” chính là phiên âm của “nóc nặm” nghĩa là đầu nguồn nước). Người Lạc Việt thân thiết với nước. Thời Hán văn nhân Lưu An viết: “Người dân làm việc dưới nước nên họ xăm mình cho giống như thuồng luồng để tiện đi thuyền hay bơi lội khỏi bị hại”.Người Lạc Việt ở lưu vực Vũ Minh cũng vậy. Thời Thương Chu họ chôn người chết trong mộ hình thuyền,còn tìm thấy ở dốc Ngọc Long nơi có bến Cổ Lỗ.Ở đây còn có đền thờ Long Mẫu mà tiếng Choang gọi là miếu Hắc Đạt ( “Hắc Đạt” chính là âm “nác cập” của tiếng Việt ). Như vậy vùng này xưa kia phải là vùng sông nước mênh mang, thuyền bè tấp nập. Nhưng nay thì nó là vùng bình địa, chỉ có từ lâu rồi người dân vẫn đào cát để bán cho các chủ vựa,đào mãi liên miên lộ ra một dòng sông cát dài từ huyện lỵ Vũ Minh đến tận thị trấn La Bà, lòng sông cát rộng đến gấp 4 lần chiều rộng con sông đã đổi dòng đang còn chảy bây giờ, như là một đại công trường khai thác vật liệu xây dựng vậy. Núi Đại Minh Sơn là tên đặt ra về sau, còn người Choang vẫn nhớ và gọi tên cũ là Ba Thị岜是, nghĩa tiếng Choang là núi gốc (cú pháp Nam Á như tiếng Việt,Thái,Khơ Me). Chữ Ba tiếng Choang nghĩa là núi đá (như Pha, Phia, Pra của tiếng Tày-Thái. Ba 岜này chính là đất Bá 岜trong “Sử thuyết họ Hùng” nói tới). Chữ Thị nghĩa tiếng Choang là gốc (âm tiết “thị” trong tiếng Việt là “phải” là “chợ”, lại có quả “thị” trong chuyện Tấm Cám, không biết có phải do nhớ gốc không mà người Việt mở mang đồng bằng sông Mê Kông đặt tên rất nhiều chợ gọi là “chợ cây thị” mặc dù ở đó chẳng trồng được cây thị có quả.Còn chữ “ thị” thì trong tiếng Việt nó cũng nghĩa là gốc nhưng là gốc đằng mẹ, còn từ “ gốc” nghĩa là gốc đằng cha, “gốc” dẫn đến “trốc” là cái đầu bên trong có “óc” vì nó đã bóc rụng hết các râu ria bên ngoài, từ “trốc” ấy người Thăng Long gọi là “chốc” nghĩa là trên hết - “tôi đặt bát nhang lên chốc bàn thờ” -“chốc” ấy là gốc các từ chủ,chu,chúa ,châu, chiêu, tạo,triệu,triều đều mang nghĩa thủ lĩnh cả .Từ “thị gốc” đã biến thành chữ “thị tộc” 氏族là gốc cả hai đằng mẹ và cha. Người Việt nói “vợ chồng nhà ấy thì ông ta là người đằng Dương tộc-họ Dương,bà ấy người bên Âu thị-họ Âu ”,chẳng ai nói bà ấy người đằng Âu tộc cả, bởi vậy đàn bà Việt có tên lót là chữ “thị”氏, còn nhà thờ họ thì người ta viết là nhà thờ Nguyễn tộc,nhà thờ Lê tộc… chứ không dùng chữ thị vì đã là phụ hệ).Trên núi Ba Thị ở đỉnh Long Đầu có thôn Lộc Khẩu có đền thờ Lạc Việt Vương gọi là Đại Minh Sơn miếu, cũng gọi là Chiêu Vương miếu召王庙 ( Hùng Chiêu trong “Sử thuyết họ Hùng”). Tương truyền trong khu miếu có giếng trời mọc một cây khoai sọ (sọ nghĩa là thủ là cái đầu tiên),đẻ ra 99 cây con.Người Lạc VIệt từ đây tỏa đi bốn phương đều mang theo một cây khoai sọ trồng và ở đó lại dựng một miếu thờ Long Mẫu,ở Quảng Tây (đất Bá) có 99 miếu tất cả (khoai sọ còn gọi là khoai môn, có phải là thành ra 99 tông môn?).Miếu này cúng ngày 3 tháng 3 âm lịch. Miếu đã bị phá từ xưa, lụi tàn dưới cỏ dại, chỉ cong vương vất vài cái cối đá niên đại nhà Đường. Cổ thư chữ Hán có nói Ô điền còn gọi là Lạc điền, có thuyết nói đó là ruộng gần hang núi, có thuyết nói đó là ruộng canh tác theo thủy triều lên xuống. Ở đây người Choang giải thích khác: Ngày xưa gặp lũ lụt lớn, đồng ruộng ở đồng bằng sông Uất Giang của người Choang bị nhấn chìm hết, tổ tiên họ phải chạy lên núi Đại Minh Sơn lúc đó còn đầy rừng rậm âm u, không có ruộng mà làm.Tiếng chim Lộ Ô鹭烏 (một giống chim nước lông đen dẫn họ tìm ra được ven suối nên lại có thể làm ruộng nước, vì vậy người Choang sùng bái loài chim nước (chim nác-chim Lạc) nên khắc chim Lạc lên trống đồng, còn ruộng nước của họ gọi là Ô điền烏田. Ở đây từ thôn Tứ Minh thị trấn Mã Đầu huyện Vũ Minh đi thôn Minh Lượng huyện Thượng Lâm có một con đường cổ xếp bằng bậc đá, còn 400 bậc rộng 4 mét,phía đông con đương có một ngọn núi cao 949 mét, tiếng Choang gọi là Ba Bồ nghĩa là núi tổ mẫu. Đường này bắc thẳng đến Liễu Châu, Quế Lâm, nam thông đến Vũ Minh, Nam Ninh, trước thời Minh Thanh là con đường giao thông huyết mạch. Gần thị trấn Lưỡng Giang huyện Vũ Minh có một hang đá vôi gọi là Tổ Công Động, tiếng Choang là Cảm Đạt Công, hang này cũng gọi là miếu Tổ Công, thực ra là thờ Quyết Vĩ Long掘尾龍, mẹ nuôi của Quyết Vĩ Long là Tổ Mẫu, tiếng Choang gọi là Á Bồ婭浦 ( tức “u phò” là mẹ của bố ). Ở thôn Lý Dân thị trấn Cổ Linh huyện Mã Sơn cũng có miếu thờ Long Mẫu có bia gọi là thần Long Mẫu hay Cao Tổ. Những địa danh khác có miếu thờ Long Mẫu đều có tên gốc gác Lạc Việt như Lâm Bồ tiếng Choang nghĩa là sông mẹ (cũng nghe được ra đó là “nặm Phò”, A Động nghĩa là Tổ Mẫu động ( “động A” là âm “hang U”), nay là huyện lỵ Vũ Minh. La Bà Đàm là đầm Đại Tổ Mẫu (“La Bà” nghĩa là “bà lớn”,”bà lên” tức “bà trên” là mẹ của bà nên gọi là Đại Tổ Mẫu),đầm sâu 46 mét ,bên đầm là thị trấn La Bà.Dòng Lâm Bồ chảy từ bắc núi Ba Thị nhập vào Thanh Thủy Hà ở huyện Tân Dương ,thời Tam Quốc nước Ngô đổi tên là huyện Lĩnh Phương,thời Hán thành huyện Lâm Bồ. Lâm Bồ giang thời cổ là thủy đạo quan trọng nối huyện Tân Dương và Thượng Lâm,sông này nay có hồ chứa nước gọi là hồ Long Mẫu.Trong thôn Lâm Bồ còn giếng núi và miếu Sơn Tỉnh (tức giếng núi) thờ Đế Mẫu帝母 mà người Choang hiểu là thờ “mẹ bản địa” (chữ Đế Mẫu là phiên âm,đúng cú pháp phải là Mẫu Đế là âm của từ “mẹ đẻ”,người Choang giải thích là mẹ bản địa chứ không phải giải thích theo chữ Đế Mẫu là mẹ của vua, “mẹ đẻ” thì chắc là thờ bà Âu Cơ). Trống đồng là biểu trưng văn vật của Lạc Việt quốc. “Hậu Hán thư-.Mã Viện truyện”viết: “Viện hiếu kỵ,thiện biệt danh mã,ư Giao Chỉ đắc Lạc Việt đồng cổ,nãi thọ vi mà thức,hoàn ,thượng chi”.Nhưng trống đồng Lạc Việt mà Mã Viện tịch thu đem đúc ngựa cưỡi chơi lúc ấy là trống đồng Lạc Việt thời nào thì không nói,ta chỉ có thể phán đoán đó không phải là những trống đồng niên đại sớm nhất của Lạc Việt.Những trống đồng khai quật được ở Quảng Tây đều là những trống đồng niên đại Tùy hoặc Nam Triều.Lạc Việt quốc diệt vong vào thời thịnh của Hấn Vũ Đế,theo niên đại đó mà đoán thì trống đồng ở Quảng Tây (tìm được tất cả là 600 cái) chỉ là đúc vào thời kỳ muộn của Lạc Việt quốc (đúng thế, bởi vì thời đất Bá là thời Hùng Vương thứ 12 theo “Sử thuyết họ Hùng”).Vậy Lạc Việt quốc thời sớm nhất là ở đâu?Ba cái đặc trưng nhất để nhận biết là trống đồng Lạc Việt là mặt trời ở tâm,vòng chim Lạc đang bay,vòng người hoạt động và thuyền,ba cái đó là quốc trưng của Lạc Việt quốc cổ đại .Ba đặc trưng này trên trống đồng Quảng Tây đều có.Vùng núi Ba Thị còn có truyền thuyết “Ma Lặc du thiên biên” kể rằng năm đó mặt trời chìm mất, toàn cõi tối tăm không cấy trồng gì được,một mẹ chửa quyết đi về phương đông tìm mặt trời.Đi đường đẻ con ra lại bồng con đi tiếp.Hai mẹ con đem trống đồng gõ gọi trời mọc trở lại…Năm 1974 ở thị trấn Lưỡng Giang dưới chân núi Đại Minh Sơn đào được trống đồng kèm 2 thanh kiếm đồng thau dài 50 cm giống kiếm thời Chiến Quốc.Tháng 3-2004 ở dốc đứng sau xóm Bản Bồ thôn Tam Liên thị trấn Lưỡng Giang khi làm đường lâm nghiệp lại xúc được một trống đồng lớn,không may bị vỡ làm đôi,và một trống đồng nhỏ kèm mootk kiếm đồng thau và một chuông đồng nhỏ chôn trong mộ nằm giữa sông Kiếm và sông Triệu.Vùng này tất cả tìm được 5 trống,cái lớn rộng 80 cm, cao 60 cm, có chim Lạc bay, có 4 tượng cóc quanh mặt trống. Đại Minh Sơn trong cổ thư gọi là Mô Nha Sơn,tương truyền là nơi xưa đúc kiềm hóa rồng nên vùng này còn có nhiều địa danh mang tên kiếm.Ở đây có thôn Mô Nha, thôn Mô Dương (tiếng Choang “dương” nghĩa là kiếm, thì cũng như là “gươm” trong tiếng Việt, “Mô Dương” là âm của“mài gươm”) . Di chỉ An Đẳng Ưowng năm 1985 đào được 85 ngôi mộ cổ, có 15 kiếm đồng thau. Di chỉ Tam Liên Viên Nghệ Trường năm 1974 tìm được một trống đồng và 2 kiếm. Giải mã chữ “Chiêu” chính là “Lạc Việt Vương” Vùng Đại Minh Sơn có thể là một cố đô của Lạc Việt quốc.Nếu là cố đô tất nhiên nó phải có di chỉ của Lạc Việt Vương.Nhưng hậu duệ của người Lạc Việt ở đây hầu như đã mất hết ký ức về Lạc Việt Vương.Khảo cổ các di chỉ ở vùng này không còn phán đoán được đâu là di tích của Lạc Việt Vương.Ngẫu nhiên được thông tin từ bài viết của học giả Hà Chính Bình khi nghiên cứu gia phả của hậu duệ quân đội của Nùng trí Cao ở Vân Nam,phát hiện ra hậu duệ bộ đội của Nùng Trí Cao có cách xưng hô độc đáo với Nùng Trí Cao,đó là họ gọi Nùng Trí Cao là “Nùng Nam Chiêu”.Đời sau của Nùng Trí Cao có các họ Nông,Việt, Đao.Mà Chiêu, Việt, Đao trong tiếng Choang cổ đều có nghĩa là đầu lĩnh.Điều này gợi ý tìm ra di tích của Lạc Việt Vương ở Đại Minh Sơn.Chuyên gia nổi tiếng về lịch sử dân tộc Bách Việt là ông Vi Khánh Ổn韋慶穩 trong bài “Thí luận ngữ ngôn của dân tộc Bách Việt” đã khảo chứng bài “Việt nhân ca” chỉ ra rằng các từ Việt ngữ ghi bằng chữ Hán như Châu州, Chiếu昭, Triều朝, đều có ý nghĩa trong Việt ngữ thượng cổ là Vương Tử王子 hoặc Vương Phủ 王府.Từ Vương thì đã mất trong tiếng Choang ngày nay.Còn lại ở vùng Đại Minh Sơn có rất nhiều địa danh “Chiêu”, “Triệu” “Triều”, “Sào”.Vậy thì các di tích ở vùng này như miếu “Chiêu Vương” chính là miếu Lạc Việt Vương, sông “Triệu” chính là sông của Lạc Việt Vương, miếu “Nam Triều” chính là miếu Lạc Việt Vương, suối “Nam Sào” ở thôn Phụng Lâm chính là suối của Lạc Việt Vương.Đại Minh Sơn miếu có người còn viết là Thương Thốn miếu, điều này là không thể,vì cái tên Đại Minh Sơn miếu là cái tên mới đổi thời nhà Thanh do ông tri phủ Lỳ Ngạn Chương đặt,nếu lúc đó là đang thờ Thương Thốn Vương là một hôn quân bạo ngược tàn dân thì ông quan đó không thể đặt tên cho miếu được,tên bị đổi của miếu phải là Chiêu Vương Miếu hoặc là Thủy Tiên Vương Miếu đều nghĩa là Lạc Việt Vương Miếu uy nghi trên đỉnh Long Đầu của Ba Thị là núi gốc của người Choang.Triệu giang có dòng hợp lưu là Kiếm giang, tiếng Choang là Đạt Ương, “đạt” tiếng Choang nghĩa là nước (cũng như “đắc” của tiếng Ba Na, Mơ Nông hay “nác”của tiếng Việt), “ương” tiếng Choang là Kiếm (cũng như “gươm” của tiếng Việt), vùng này tìm được rất nhiều đồ đồng niên đại Chiến Quốc, ở thượng lưu dòng Kiếm Giang là một mỏ đồng nổi tiếng của Quảng Tây.Dân vùng này vẫn nhặt đá quanawngj đồng dưới lòng sông bán cho các chử vựa quặng.Có thể phán đoán vùng này là nơi xưa Lạc Việt Vương luyện đồng đúc kiếm.Thú vị là ở venTriệu giang và chi lưu của nó là Hán Khê có nhiều hang đá có đá mài, dân đều nói là đó là nơi lính của Lạc Việt Vương mài kiếm.Tất nhiên điều này còn thiếu điển tịch, nhưng nhìn những đá mài ngồn ngang rất giống công cụ thời đồ đá mới cho ta liên tưởng đến hàng vạn quân của Lạc Việt Vương mài kiềm chống trả quân Tần Thủy Hoàng một thời bi tráng.Trong các thôn xóm vùng Triệu giang lưu truyền nhiều chuyện cổ về Lạc Việt Vương.Người ta nói Độc Sơn là do con ngựa của Lạc Việt Vương biến thành.Núi Mã Vĩ ở thôn Tụ Quần là do đuôi ngựa của Lạc Việt Vương biến thành.Năm đó đại quân của Tần Thủy Hoàng truy thì thần Long Mẫu từ trên đỉnh núi quăng xuống hai giải vải đỏ,biến thành hai con đường rộng đón quân của Lạc Việt Vương vào núi .Khi quân Tần đuổi đến nơi thi hai giải vải đỏ đó biến thành hai đỉnh Long Đầu Sơn chặn lại,quân Tần hết đường chỉ còn cách đứng đó mà than.Truyện dân gian lưu truyền chỉ là cái bóng của lịch sử.Nhưng nhiều chuyện lưu truyền chứng tỏ Lạc Việt Vương đã từng sống và chiến đấu ở vùng này và được dân Lạc Việt ở đây che chở.Còn một tình tiết nữa là ở vùng này có Tết “Đạt Vương” tức tết Vua Nước, cũng còn gọi là “Đại Vương Tiết” tổ chức vào ngày 20 tháng 7 âm lịch gọi là ngày giỗ Vua Nước tạ thế.Về cái chết của Đạt Vương tức Vua Nước ,ở vùng Ba Thị có câu ngan ngữ: “17 Đạt Vương bị thương, 18 Đạt Vương chết, 19 làm quan tài, 20 chôn Đạt Vương”,chứng tỏ người Choang nhớ thương Đạt Vương đến mức nào.Đạt Uông tức vua nước còn phải khảo sát xem có phải là Lạc Việt Vương hay không, nhưng mỗi năm ngày13 đến 20 tháng 7 âm lịch người Choang ở Đại Minh Sơn đều làm giỗ vong hồn gọi là “Qủi Tiết” kéo dài đến ngày “Đạt Uông Tiết” là cao trào,lúc đó như là tiết quốc tang cùa người Choang.Các địa danh miếu Đại Vương,bến Đại Vương, núi Đại Vương.có nhiều ở Quang Tây cho thấy Đại Vương tức Đạt Uông tức vua Nước có ảnh hưởng hết sức sâu sắc trong người Choang. Văn vật và cổ kinh thư tiết lộ diện mạo của Lạc Tướng và Lang Binh. Lạc Việt là một nước xưng hùng ở Lĩnh Nam.Trong “Sử ký.Nam Việt úy đà liệt tuyện” Tư Mã Trinh đã viết: “Giao Chỉ có lạc điền theo thủy triều mà làm,người ăn ruộng ấy gọi là lạc nhân,có Lạc Vương, Lạc Hầu, Chư huyện xưng là Lạc Tướng có triện đồng”. Người Lạc Việt có Vương, Hầu, Tướng.Sự thực này sử bất tuyệt thư.Những danh xưng cụ thể này không giống Trung Nguyên.Từ “Vương” người Choang gọi là “Chiêu”, cũng viết thành “Triệu”, “Triều”, “Chu”, “Sào”, “Tạo”, “Đao” nghĩa là “Đầu”.Lạc Việt Vương xưng là Chiêu Hùng,Chiêu Lào ( “hùng” tiếng Choang nghĩa là lớn, đó là âm “hồng” hay “rộng” của tiếng Việt, tiếng Việt còn có từ “rộng lớn”; “lào” tiếng Choang nghĩa là lớn, nó là từ còn trong nôi của Việt ở cái nôi LÉP…LỚN-LAO…LÃNH, lép trong xóm thì không thể hiểu được lãnh thổ văn hóa là nó rộng mênh mông), Từ “chiêu lào” trong tiếng Choang hiện đại nghĩa là “thời viễn cổ”( “chiêu lào” tức “chu-cha lâu” của tiếng Việt).Lạc Việt Vương của Việt Nam , sử thư dịch là Hùng Vương tức Đại Vương.Ở vùng Đại Minh Sơn có bài ca “Xướng cổ thế gian” trong đoa có câu ca rằng: “Ba Thị cao là cao. Công Lang quản thượng phương. Chúng bối song tiễn nỗ. Thủ Công Lang lãnh địa” tức là “Núi gốc cao cao là. Ông Làng quản từ trên. Dân đeo nỏ hai tên. Giữ đất của Ông Làng”. Công Lang trong “Bố lạc đà kinh thi” cũng gọi là Lang Lào tức Vua Lớn.Trong “Kinh Thư”có nói thời cổ có một lần đại hồng thủy tức đại nước rộng ngập hết tất cả chỉ còn núi Lang Lào, núi Ngao Sơn, núi Châu Mi (Ngao Sơn và Châu Mi ở đâu thì không rõ chứ núi Lang Lào chính là vùng Đại Minh Sơn ngay nay.”Lang” tiếng Choang nghĩa là một quẩn thể có liên lạc với nhau ( đó là từ “làng” của tiếng Việt).Công Lang là thủ lĩnh của Lang (tức Ông Làng, người Việt vẫn nói “mày đi mà hỏi ông làng,ông xã ấy,tao không biết”).Lang Lào là đại thủ lĩnh ( tức Ông Làng Lớn, người Việt vẫn nói “sống lâu lên lão làng”). Qua bài “Xướng cổ thế gian” cũng thấy rõ là vùng Đại Minh Sơn diện tích nhỏ, mới chỉ có Công Lang hoặc Lang Lào.Ở đây người Choang có điệu múa “Lạc Động” có người đóng vai tướng quân và người đóng vai nữ thần. Trong Viêt Nam Cổ Sử “Hồng Bang thị truyện”có viết: “Thời cổ ,Lạc Việt tôn Hùng Trưởng làm chúa,hiệu là Hùng Vương,quốc hiệu là Văn Lang quốc,dưới có tướng là Lạc Tướng,vương tử là quan Lang,nữ là Mị Nương”. Vương tử của Hùng Vương gọi là “Quan Lang” đồng âm với “Công Lang” ở Đại Minh Sơn, “Lạc Tướng” đồng nghĩa với “Lạc Động”.Rõ ràng là Lạc Việt dù có thiên đô đi nơi nào thì các tên Vương, Hầu, Tướng, Tương cơ bản vẫn giống nhau.Diện mạo Lạc Động của Lạc Việt ở Đại Minh Sơn thì cổ thư ghi rất thiếu.Nhưng căn cứ vào di vật đào được lượng lớn ở đây và theo truyền thuyết thì có thể đại thể đoán định: Các đồ tùy chôn theo ít,không có mộ lớn của Lạc Việt Vương nhưng khẳng định là có mộ của Lạc Động tức Lạc Tướng. Đáng chú ý là mộ chôn ở hang núi đá vôi ở Lương Giang huyện Vũ Minh có đồ chôn theo bằng đông thau 12 thứ,cách chôn đơn giản,thể hiện dáng mạo là mộ của một Lạc Tướng. Ngày 26 tháng 7 năm 2006 tại Độc Sơn, tiếng Choang là Ba Độc là một ngọn núi lớn,sông Kiếm tử hướng tây bắc chảy qua như con rồng ôm lấy núi.Độc Sơn giống con chiến mã ngoẹo đầu lại bảo vệ Bản Phan thôn Tam Liên,ở đây đào được 5 trống đồng và các đồ khác.Trên núi có miếu Thánh Đường Tự, có bia đá được sửa năm Quang Tự (1898).Trên đường nhỏ lên núi tình cờ phát hiện một rìu đá thời đá mới,như vậy Độc Sơn có tầng văn hóa rất sâu.Năm 1986 ở núi này có phát hiện mộ cổ được 14 vật trong đó có 4 kiếm đồng dài 30 cm,qua đồng,khiên đồng,tên đồng xếp dưới chân chủ mộ,vú khí đã cũ tàn nhưng còn khá sắc,đây chính là mộ của một Lạc Tướng.Trong lời hát của bài “Xướng cổ thế gian” thì dân chúng Lạc Việt quốc vừa là binh vừa là dân làm ruộng,người nào lưng cũng đeo cung nỏ bắn được một lần hai mũi tên,họ gọi là Lang Binh hay lính của Công Lang.Quân đội là tiêu chí quyền lực của quốc gia. Tướng soái Lạc Việt đều tinh thành sùng võ,vũ khí của Lang Binh tinh xảo chứng tỏ quân đội Lậc Việt đương thời có trình độ chính qui hóa rất cao.Đại Minh Sơn có tinh binh cường tướng chứng tỏ đây là một trung khu của vương quốc. Trích: http://www.rauz.net.cn/article/faenzcieng/...200703/327,html Đối chiếu “Sử thuyết họ Hùng” Nhật Nguyên. Tóm tắt: Hùng Chiêu Vương – Quốc Tiên Lang cũng là ông Tây Bá; Cơ Xương , Chu Văn Vương cũng là Lang Liêu, An Dương Vương, cổ Thục và bà Âu Cơ trong truyền thuyết Bọc trăm trứng . Chiêu vương và Chu vương là cận âm rất dễ nhận ra , truyền thuyết chỉ thêm chữ Hùng vào để xác định dòng giống mà thôi. Văn Lang và Âu Lạc là 2 tên của 1 quốc gia và chính là ‘Trung Hoa’ của thiên hạ thời nhà Chu. Bài 24 - Hùng thứ 12: Hùng Chiêu - 1* Nước Cao-Ly hay Cao- Lê của Sùng Lãm. - Hoa văn dịch là nước Sùng , Kinh Thư gọi là nước Lê là phần tây bắc ( xưa) của Hồng bang thời nhà Hạ , cũng là đất Giữa thời lập quốc ngày nay là đất Bắc và bắc trung Việt. - 2 * Nước Đào hay nước Thao., là phần phía đông của Hồng bang thời nhà HẠ còn được gọi là đất Đông Hạ nay là Quảng đông Trung quốc. - 3 * Đất phong của Tây bá Xương thường gọi tắt là đất Bá cổ sử Việt gọi là Âu biến âm của ‘ô’ nghĩa là màu đen , ‘phương Ô’ đồng nghĩa với ‘Huyền phương’ trong cửu thiên tức phương Nam (xưa) nay là tây nam Quảng tây. - 4 * Nước Mật tu ký âm sai của Mặt tây nay là Vân nam Trung quốc. - 5 * Nước Thục còn gọi là đất Quý đất gốc tổ của nhà Chu nay là Quý châu Trung quốc. Hoa sử thường ghép nước Thục với đất Bá ông tây bá Xương thành đất Ba- Thục . - 6 * đất trung tâm của nhà Thương hay ‘trung Hoa’ thời Thương , sử Việt gọi là Việt Thường sau là đất Đường-Ngô nay là Hồ nam và Giang tây Trung quốc. - 7 * Nước Việt , đất dành riêng thờ Sơn tinh quốc chúa hay Hạ vũ nay là Phúc kiến- Chiết giang Trung quốc. - 8 * đất trung tâm của nhà Ân- Thương nay là Hà nam Trung quốc , đây là phần đất cực Nam ( xưa) của Trung –Hoa , nơi có đất Hà nội là mảnh đất duy nhất vượt Hoàng hà về phía bắc (phương hiện nay), nơi đây Trụ vương đã xây biệt đô Triều ca. - 9 * Nước Qủy phương là nước đã được nói đến trong kinh Dịch , chính xác là nước Cửu phương , phương số 9 là phương tây của Hà thư , cửu còn biến âm thành ‘cẩu’ nghĩa là con chó vì dân nhà Tần chọn chó Sói làm thần thú tượng trưng cho tộc mình , Quỷ phương còn được gọi là Xuyên Thục nghĩa là đất tây-nam (xưa) , Hoa sử thường gọi tắt là đất Thục gây ra sự lẫn lộn với Ba thục ;việc này ảnh hưởng rất lớn khi tìm hiểu về lịch sử Trung hoa , đất Qủy phươngnay là Tứ xuyên Trung quốc. ********* Vua khai sáng : – Quốc Tiên Lang dị bản : Lang Liêu lang Danh hiệu khác trong sử Việt : An dương vương , Thục vương tử. Danh hiệu khác trong sử Hoa : Cơ xương , Chu Văn Vương Quốc hiệu : Văn Lang – Âu Lạc Niên đại : cách đây 3.100 năm Lưu tồn vật chất là những hiện vật khảo cổ thuộc nền văn hóa Đông sơn sớm ,Việt nam . Theo truyền thuyết dân gian Quốc tiên lang còn được gọi là : Lang Liêu , Cổ Thục. Văn lang đồng nghĩa với Văn vương ; trong thiên khảo luận này đã nhiều lần ban đến , khi ta nói nước Văn lang tức là nói nước của vua Văn , là danh xưng cổ xưa của nước Việt ngày nay. Quốc tiên lang nghĩa là vua khai quốc.
    1 like
  22. Tàu sân bay của Mỹ chưa thể áp sát Trung Quốc BAODATVIET Cập nhật lúc :10:48 AM, 20/08/2010 Hàng không mẫu hạm USS George Washington sẽ không dự cuộc tập trận với Hàn Quốc ở Hoàng Hải, gần Trung Quốc vào đầu tháng sau, quân đội Mỹ ở Hàn Quốc sáng nay thông báo. >> Trung Quốc phản pháo 'cáo buộc sức mạnh quân đội' của Mỹ Thông báo của Mỹ có đoạn: “Tàu USS George Washington không có kế hoạch tham gia tập trận chống tàu ngầm”. Theo thông báo trước đó từ Bộ Quốc phòng Hàn Quốc, Washington và Seoul tập trận chống tàu ngầm tại Hoàng Hải, gần Trung Quốc và Triều Tiên, tại khu vực vừa xảy ra vụ chìm tàu Cheonan hôm 26/3 khiến 46 người thiệt mạng. Tàu sân bay của Mỹ chưa vào Hoàng Hải. Trong khi Mỹ, Hàn "rục rịch" chuẩn bị tập trận, Trung Quốc tiếp tục phản đối mạnh các cuộc diễn tập tại Hoàng Hải gần lãnh thổ của họ, nhất là khi có sự xuất hiện của hàng không mẫu hạm USS George Washington, một trong những vũ khí mạnh nhất của Mỹ. Bắc Kinh cáo buộc các cuộc tập trận Mỹ, Hàn Quốc làm tình hình trên bán đảo Triều Tiên thêm căng thẳng và đe dọa an ninh Trung Quốc, bất chấp hai nước này khẳng định các cuộc diễn tập của họ chủ yếu tập trung vào phòng thủ. Thông tin về cuộc tập trận sắp tới được tiết lộ nhỏ giọt. Phải tới tuần sau, các chi tiết như phạm vi, các loại tàu tham gia luyện tập …mới được công bố. Đây là lần thứ 2 trong hai tháng liên tiếp, Mỹ phải thay đổi kế hoạch triển khai tàu USS George Washington tới vùng biển gần Trung Quốc. Tháng trước, Mỹ cũng có kế hoạch cử tàu USS George Washington tập trận với Hàn Quốc tại Hoàng Hải, giống như cuộc tập trận sắp diễn ra vào tháng 9 tới. Tuy nhiên, sau khi Trung Quốc, Triều Tiên phản đối gay gắt, Mỹ buộc phải rời địa điểm diễn tập sang biển Nhật Bản. Lần này chưa rõ lý do khiến Mỹ rút tàu USS George Washington khỏi cuộc tập trận vào đầu tháng sau nhưng có khả năng, Washington lo ngại USS George Washington khiến Bắc Kinh tức giận nếu siêu chiến hạm tiến vào Hoàng Hải giống như tháng trước. Cơ sở cho lo ngại này chính là việc Hoàng Hải là cửa ngõ từ Thái Bình Dương tiến vào Bắc Kinh và Thiên Tân. Nếu tàu sân bay Mỹ (phạm vi hoạt động của máy bay trên tàu sân bay vào khoảng 700-1.000 km) vào Hoàng Hải thì bí mật quân sự của Trung Quốc tại vùng cửa ngõ chiến lược này sẽ bị Mỹ khám phá. Đáng ngại hơn, Thủ đô Bắc Kinh khi đó sẽ nằm gọn trong tầm hoạt động của máy bay Mỹ bởi thành phố này chỉ cách Hoàng Hải chưa tới 1.000 km. Tờ Global Times cho rằng: “Mỹ và Hàn Quốc có thể lập luận rằng, cuộc tập trận không nằm trong lãnh hải Trung Quốc nên Bắc Kinh không có quyền phê phán. Tuy nhiên, dù không trong lãnh hải Trung Quốc thì nó vẫn nằm trong vùng biển thuộc lợi ích Trung Quốc vì sát khu vực đặc quyền kinh tế của Trung Quốc. Do đó, Bắc Kinh không thể cứ im lặng khi tàu chiến Mỹ bước vào vùng ảnh hưởng của mình. Hoàng Hải không có chỗ cho tàu sân bay Mỹ!”. Trung Quốc phản đối Mỹ tập trận gần lãnh thổ của họ. Trong khi phải đợi tới tuần sau mới biết rõ thông tin chi tiết về cuộc tập trận Mỹ và Hàn Quốc, hiện xuất hiện nhiều tin đồn Trung Quốc phóng thử loại tên lửa đạn đạo có tên gọi là "sát thủ của hàng không mẫu hạm". Theo BBC, đây có thể là tên lửa đạn đạo chống tàu chiến tối tân nhất mà chưa quốc gia nào sử dụng. Nếu loại tên lửa này được mang ra thử, thì đó sẽ là hành động gây quan ngại cho các nước trong khu vực. BBC dẫn nguồn từ South China Morning Post cho rằng, loại tên lửa này có thể là một dạng cải tiến của tên lửa tầm trung DF-21D mang đầu đạn tối tân, có khả năng tự vận hành nhằm vào mục tiêu. Trung Quốc có thể đã bắn thử "siêu tên lửa". Ảnh minh họa. Theo chuyên gia quốc phòng Mỹ là Tiến sỹ Andrew Erickson, tên lửa này được bắn từ bệ phóng lưu động, có sức công phá rất lớn và sẽ khiến Mỹ phải cân nhắc lại hoạt động của các hàng không mẫu hạm, nhất là số tàu mà nước này duy trì ở Hạm đội 7 tại Nhật Bản. Nhiều chuyên gia quân sự trong khu vực cho rằng, ngay cả khi loại tên lửa đạn đạo mới này không được “trình làng” trong lần tập trận vừa qua, nó cũng sẽ sớm được ra mắt bởi Bắc Kinh chắc chắn muốn "răn đe" các nước bằng cách thể hiện năng lực tự vệ của mình. Dong Feng 21D là tên lửa tầm trung có tầm bắn 1.300 - 1.800 km và có thể mang 6 đầu đạn nặng tổng cộng 450 kg. Nó được coi là “kẻ hủy diệt tàu sân bay” do có khả năng đánh chìm ngay lập tức hàng không mẫu hạm, sau khi vượt qua “lưới phòng vệ” của tàu và khi lọt vào tàu, nó phát nổ từ bên trong. Tên lửa Trung Quốc ngày một mạnh. Trong khi Mỹ, Hàn gấp rút chuẩn bị tập trận, đơn vị tuần tra biển lớn nhất của Trung Quốc hôm qua rời Thanh Đảo để tới thành phố Vladivostok, Nga tham gia cuộc tập trận chung với nước chủ nhà. Đây là cuộc diễn tập kéo dài 6 ngày, từ 22 tới 27/8, với mục tiêu “nâng cao năng lực xử lý các hoạt động phi pháp đe dọa an ninh hàng hải của hai nước”. Chỉ huy đơn vị tuần tra số 11 Wu Shaojun cho biết: “Cuộc tập trận chung chủ yếu nhằm vào các hoạt động buôn bán vũ khí, nhập cư bất hợp pháp; cũng như các bài tập tìm kiếm, đột nhập và kiểm tra các tàu tình nghi”. Nam Việt (tổng hợp)
    1 like
  23. Xin ủng hộ ý kiến của Sư phụ và Hoàng Anh tham gia đóng góp vào quỹ này
    1 like
  24. 1 like
  25. Na - vị thuốc hạ khí tiêu đờm. Cây na tùy thuộc vào từng địa phương còn gọi là mãng cầu, mãng cầu ta, màng cầu dai, tên khoa học Annona squamosa L. Bộ phận dùng làm thuốc là rễ, lá, quả và hạt. Đông y cho rằng quả na vị ngọt, chua, tính ấm; có tác dụng hạ khí tiêu đờm. Quả xanh làm săn da, tiêu sưng. Hạt na có vị đắng, hơi hôi, tính lạnh, có tác dụng thanh can, giải nhiệt, tiêu độc, sát trùng. Lá cũng có tác dụng kháng sinh tiêu viêm, sát trùng. Rễ cầm ỉa chảy. Có công dụng chữa kiết lỵ, tiết tinh, đái tháo, bệnh tiêu khát. Quả xanh dùng chữa lỵ và tiêu chảy. Quả na điếc dùng trị mụn nhọt, đắp lên vú bị sưng. Hạt thường được dùng diệt côn trùng, trừ chấy rận. Lá na dùng trị sốt rét cơn lâu ngày, mụn nhọt sưng tấy, ghẻ. Rễ và vỏ cây dùng trị ỉa chảy và trục giun.Để tham khảo và áp dụng, dưới đây là những gợi ý những phương thuốc trị liệu từ cây na. Đi lỵ ra nước không dứt: 10 quả na ương (chín nửa chừng) lấy thịt ra, còn vỏ và hạt cho vào hai bát nước, sắc còn một bát, ăn thịt quả và uống nước sắc. Nhọt ở vú: Quả na điếc mài với dấm bôi nhiều lần. Trị mụn nhọt sưng tấy: Lá na, lá bồ công anh, cùng giã đắp. Sốt rét cơn lâu ngày: Vò một nắm lá (20-30g) giã nhỏ, chế thêm nước sôi vào vắt lấy một bát nước cốt, lọc qua vải, phơi sương, sáng hôm sau thêm tí rượu quấy uống trước lúc lên cơn hai giờ. Mỗi ngày uống một lần, uống liền 5-7 ngày. Trị giun đũa chòi lên ợ ra nước trong: Dùng một nắm rễ na mọc về hướng Đông, rửa sạch, sao qua, sắc uống thì giun ra. BS. Hoàng Xuân Đại (Sức Khỏe & đời sống)
    1 like
  26. Thế giới này còn nhiều điều cần khám phá. Phong thủy chỉ là một trong những yếu tố thôi. Tuy nhiên chúng có những mối liên hệ giữa nghiệp chướng và Âm trạch.
    1 like
  27. Vấn đề ở đây là tài chính và câu hỏi đặt ra là, liệu với khoảng vài chục, thậm trí là trăm triệu thì kết quả cuối cùng là thế nào mà thôi. Có thể Bà Nở sẽ bớt khổ nhưng liệu con cái có ..hết điên và về đoàn tụ hay không ?
    1 like
  28. Nhà này nhìn sơ qua thì đã thấy tệ rồi. Quẻ Hưu lưu Niên nói rất đầy đủ tình trạng gia đình nhà cửa này. Bế khí, thoái khí, tạp khí, âm khí đều có đủ. Cũng có thể đây là đất dữ, có âm vong, đất có xương cốt người chết mà không biết. Sửa nhà này...khó à. Tài chính cũng khó luôn. Chắc phải chờ qưới nhơn. Thiên Đồng
    1 like
  29. Đây là bản vẽ nhà , phân cung bát trạch theo PTLV,
    1 like
  30. Khởi hành từ Hà Nội lúc 1h30 chiều, chúng tôi tới Hải Phòng lúc 3h kém và cũng không mấy khó khăn tìm tới ngôi nhà của bà Nở. Con ngõ khá sâu, và càng vào sâu càng hẹp. Nhà bà NỞ ở gần trong cùng của ngõ, chỉ thêm vài chục mét nữa là tới phần ngõ cụt. Đây là Mickey , phía xa là phóng viên Dương. Tôi cùng chủ nhà. Ngoài bà Nở, còn có cô con Gái mới từ Viện về. Cô này ngoài bị tâm thần còn bị gan và mới ở bện Viện về. Mỗi năm thì thường xuyên phải vào viện tâm thần một lần. Sau khi về thì chỉ một thời gian lại phát bệnh. Thấy có khách, cô gái chùm chăn kín mít và tránh mặt chúng tôi trong suốt quãng thời gian chúng tôi ở đây. Sau khi chào hỏi Chủ nhà và tự giới thiệu, tôi bắt tay vào công việc. Đo hướng, kiểm tra đất bằng con lắc, xem hình thể xung quanh, và cùng Mickey đo nhà để vẽ sơ đồ. Việc khẳng định đầu tiên sau khi đo con lắc chính là dưới lòng đất của ngôi nhà này có nhiều tạp chất, hóa chất hoặc kim loại xấu. Toàn bộ xung quanh ngôi nhà đều cho kết quả tương tự. Khi đo đất của nhà hàng xóm thì lại bình thường. (đoạn này mickey có quay video lại nhưng vì khá lớn nên tôi chưa upload lên đây). Ngôi nhà này bị thoát khí bởi cống thoát nước ở cổng và cửa, nhưng không có thương xung sát, thương xạ sát. Hình thể thì không có gì đặc biệt. Cạnh nhà có một ngõ nhỏ dẫn vào một khu có 3 nhà nữa Cửa ra sân, và cửa phía xa là cửa nhà VS + Bếp đi qua cửa, bên trái là bể nước Tôi hỏi han rất kỹ lưỡng thì được biết chủ trước của ngôi nhà này , hai vợ chồng sau một thời gian cũng phát bệnh điên và hiện giờ thì cũng ở quanh đó, bệnh tình cũng không biết còn bị điên hay không Sau khi làm xong công việc cơ bản, tôi hỏi thêm về gia đình và được biết em chồng của bà Nở cũng bị điên, hiện đang ở Hà Nôi. Như vậy ở đây còn có thể liên quan tới Âm trạch của dòng họ nội , chồng bà Nở và phần phong thủy ngôi nhà hiên nay cũng không phải là một yếu tố ảnh hưởng cho dù phạm phong thủy. (phần thiết kế phong thủy ngôi nhà này tôi đang vẽ, sẽ đưa lên ngay sau bài viết này). Với hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi có thể giúp đỡ bà Nở bằng cách trấn yểm nhưng các yếu tố quan trọng khác như khu nhà VS, bể phốt (hầm cầu), bể nước..vv cũng là gần như phải làm lại hoàn toàn ngôi nhà này, là một khoản chi phí đáng kể. Tuy nhiên, nếu nó có thể giúp Bà Nở thay đổi tình hình thì chắc chúng ta có thể kêu gọi đóng góp, bên cạnh sự hỗ trợ tối đa về truyền thông từ báo VTC. Sau khi xác định tư tưởng như vậy cùng Mickey và phóng viên Dương, chúng tôi xin phép chủ nhà ra về. Trước khi ra cửa, tôi gieo 1 quẻ xem liệu rằng với sự sửa chữa như vậy có thể nào thay đổi cục diện...... Quẻ KINH -LƯU NIÊN. .... Vậy có nghĩa số phân, là nghiệp chướng..... Tôi thực sự buồn, và chia sẻ cùng Mickey. Chúng tôi cùng rút tiền đưa biếu bà Nở 500 ngàn rồi tạm biệt bà Nở. Tôi gọi điện thông báo tình hình với Sư Phụ, và trở về trong tâm trạng trái ngược với lúc xuât phát. Tôi cũng có dự định sẽ quay lại để trấn yểm cùng đá thạch anh, than hoạt tính và gương. Tuy nhiên, công việc nhiều hơn thế nữa chính là bể phốt và.....tận sâu gốc rễ của vấn đề .....là Định Mệnh
    1 like
  31. Thuyết Âm Dương Ngũ hành được phục hồi nhân danh văn hiến Lạc Việt trải gần 5000 lịch sử, xác định thời gian là khái niệm quy ước của con người và phụ thuộc vào vận tốc của các vật thể. Với tốc độ tuyệt đối thời gian bằng /0/.
    1 like
  32. Học tập là tốt, cứ việc học thôi vợ xấu hoăc mà vẫn phải khen xinh, lùn thường thôi mà vãn phải ca ngợi như người mẫu. Nghe thấy chán quá, bỏ đi lấy vợ lần thứ 3 mới đậu. cuộc đời làm chân ngoại giao, tìm minh chủ mà thờ thì sẽ vinh hiển, còn muốn làm ông nọ bà kia, thể nào cũng bị nhân viên/cấp dưới cho vào rọ đốt chơi.
    1 like