• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 11/08/2010 in all areas

  1. Ông Khiết - Một biểu tương minh triết của văn minh Lạc Việt. Sự xác định phát minh ra la bàn thuộc về văn minh Việt cổ. Website Lý học Đông Phương Hướng dẫn: Thiên Sứ Biên soan: Achau Bổ sung: Thiên Đồng Trong hội thảo "Tính khoa học của Phong thủy", do Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương tổ chức tại Hanoi, ở khách sạn La Thành ngày 15 - 12 - 2009, Hoàng Triều Hải là một thành viên nghiên cứu và hiện là trưởng đại diện Văn Phòng Hanoi của Trung tâm đã giới thiệu "Ông Khiết" - một vật trấn yểm độc đáo của Phong Thủy Lạc Việt. Ông Khiết chính là một món quà tặng của Trung Tâm cho các vị khách quí tham dự hội thảo. Đây cũng chính là một biểu tượng đầy tính minh triết của nền văn Lạc Việt, một thời huyền vĩ ở miến nam sông Dương tử.... Ông Khiết - quà tặng của Trung tâm trong hội thảo. Ảnh: TTNCLHĐP Tính minh triết Việt qua biểu tượng Ông Khiết Có lẽ, hầu hết người Việt Nam khi bước vào đời, trước nhưng khó khăn của cuộc sống đầy bon chen, sát phạt, thì thường tự an ủi với câu thành ngữ rất phổ biến: "Ngậm miệng ăn tiền". Hoặc trước những bất công xã hội, những sự ức chế thì ông cha ta cũng thường nói: "Cóc cũng phải mở miệng". Hay trong đời thường, trước những khó khăn không thể vượt qua, người ta thường thách đố nhau: "Đợi đến cóc mọc râu" mới làm được việc đó. Đã từ lâu, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, đã phát hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa những câu thành ngữ lưu truyền trong dân gian Việt Nam, những giá trị văn hóa phi vật thể của nền văn hiến Việt liên hệ đến hình tượng "Ông Khiết", qua những tác phẩm của ông: "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam", "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại", "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp"; "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt"…nhằm phục hồi hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc về nền văn hiến Việt 5000 năm huyền vĩ phía Nam Dương Tử. Có thể nói rằng: Trong suốt lịch sử trải gần 5000 năm đó, hình tượng "Ông Khiết" - cụ Cóc - luôn gắn bó với nền văn hóa truyền thống Việt. Chúng ta có thể nhận thấy ngày hình ảnh "Ông khiết" Việt trong nền văn hiến Việt qua những di sản khảo cổ từ hàng ngàn năm trước: Đây là những di vật khảo cổ của người Việt, đã làm thế giới phải ngạc nhiên và thú vị trước một nền văn minh và kỹ thuật phát triển thể hiện một đỉnh cao không những trong kỹ thuật đúc đồng mà ngay cả trong nghệ thuật khắc nổi và hình họa. Những chi tiết trên trống đồng phản ánh một hình thái xã hội với chiều sâu của nó, xác định một nền văn minh Văn Lang rực rỡ của Việt tộc. Một trong những chi tiết độc đáo, được đắp nổi trên tang trống Lạc Việt từ hàng ngàn năm trước là những những con vật bình dị, nhưng rất thân thuộc trong xã hội văn minh lúa nước, đó là hình ảnh con Cóc. Trống đồng Lạng Sơn, loại Heger II, trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn và hình tượng cóc - Ông Khiết. Tượng cóc trên trống đồng Đông Sơn Tượng cóc trên mặt trống Heger II Đã có nhiều học giả có những cách lý giải khác nhau về con Cóc trong các nghiên cứu khoa học. Có thuyết cho rằng Cóc là biểu hiện cho tình trạng thời tiết trong mùa màng, như “Cóc nghiến răng thì trời sẽ mưa”. Những hình ảnh Cóc trên trống đồng xuất hiện rất thường xuyên trong các di vật khảo cổ và người ta càng khó hiểu khi có những hình tượng Cóc giao hoan, không những giữa hai cá thể mà những ba cá thể (!). Nhiều học giả có ý kiến cho đó là biểu trưng cho tính ngưỡng phồn thực cổ xưa của văn hóa Việt!? Tượng 3 cóc giao phối. Không chỉ ở nhưng di vật khảo cổ xác định hình tượng Ông Khiết đã tồn tại từ lâu trong nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, mà hình tượng này còn tồn tại trong văn hóa truyền thống dân gian Việt Nam cho đến tận bây giờ. Những chuyện liên quan đến Cóc là nhân vật chính có thể kể ra đây là: Chuyện Trê Cóc, Cóc kiện trời, Thày đồ Cóc...Trong văn học dân gian Việt thì có thể nói ông Cóc có một vị trí đặc biệt được tôn trong: Con cóc là cậu ông trời. Ai mà đánh nó thì trời đánh cho Ông Trời - Thượng Đế - cai quản cả vũ trụ mà nhân loại phải kính trọng, nhưng cóc lại còn là "Câu ông Trời" thì đủ hiểu cóc có địa vị như thế nào! Không những thế, cóc còn là thầy dậy, là sự truyền đạt văn hóa và chỉ mình Cóc làm được chuyện này. Lão Oa độc giảng - Thày Đồ Cóc - Tranh dân gian làng Đông Hồ. Ông Trời chính là biểu tượng của sức mạnh vũ trụ, cóc là Cậu ông Trời và là độc quyền giảng dậy, truyền đạt văn hóa! Phải chăng con cóc là hình tượng muốn gợi mở một suy nghiệm liên quan đến những bí ẩn vũ trụ được ẩn chưa trong nền văn minh Khoa Đểu - đó là loại chữ hình con nòng nọc - con của cóc. Trong ca dao tục ngữ Việt, còn những câu thành ngữ liên quan đến ông Cóc và đặc biết là Ông Khiết - một biểu tượng cách điệu của con Cóc - một cách kỳ lạ, mà chúng tôi lần lượt trình bày với bạn đọc dưới đây: "Ngậm miệng ăn tiền". Một câu thành ngữ độc đáo của nền văn hóa dân gian Việt. Các nhà nghiên cứu, phê bình cho rằng câu thành ngữ này có một nội dung ích kỷ, thiếu tính đấu tranh, chỉ biết lợi cho mình....Nhưng kỳ lạ thay! Đây chính là biểu tượng của Ông Khiết: Hình tượng Ông Khiết - "Ngậm miệng ăn tiền". Thế gian này chẳng ai có thể ngậm miệng ăn tiền cả. Câu thành Ngữ Việt "Ngậm miệng ăn tiền" chỉ mang tính hình tượng, nhằm miêu tả một nội dung khác. Nhưng với hình tượng "Ông Khiết" thì đúng cả đến nghĩa đen. Các thày bà còn khuyên thân chủ mua Ông Khiết về để thờ và cứ phải" sáng quay ra, tối quay vào" để ông mang tiền về cho gia chủ. Hàng ngàn năm đã trôi qua - kể từ khi nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử, hình tượng Ông Khiết "ngậm miệng ăn tiền" vì có khả năng "mang tiền về cho thân chủ" - nên mãi mãi lưu truyền đến ngày nay - phải chăng đã hàm chứa sự gìn giữ những bí ẩn của nền văn minh Khoa Đẩu? Hình tượng Ông Khiết nguyên thủy thì đồng tiền trong miệng có thể tháo rời ra được. Nhưng ngày nay, để tiện vận chuyển và sản xuất, người ta đã hàn dính đồng tiền vào miệng Ông Khiết, hoặc đúc dính liền đồng tiền và mình Ông Khiết thành một khối. Tuy nhiên, vẫn còn có những nơi làm hình tượng này theo đúng truyền thống - họ không đúc liền đồng tiền vào miệng Ông Khiết. Và điều này lại liên quan một cách kỳ lạ đến câu thành ngữ "Cóc mở miệng". "Cóc mở miệng" Câu thành ngữ lưu truyền trong dân gian Việt Nam này có nội dung nói đến những chuyện hy hữu, bất khả kháng. Cả đời, hiếm khi ai nghe được tiếng cóc. Có đánh chết, cóc cũng im, không một tiếng kêu. Các cụ gọi là "gan cóc Tía". Nhưng với hình tượng Ông Khiết, nếu rút đồng tiền ra khỏi miệng cóc thì ta thấy ngay "Cóc mở miệng". Ngậm miệng ăn tiền...và..... Cóc mở miệng! Chính vì mối liên hệ chặt chẽ giữa hình tượng của Ông Khiết và những câu thành ngữ trong văn hóa dân gian Việt, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã tiến hành dùng con lắc cảm xạ kiểm tra và phát hiện ở miệng Ông Khiết, khi bỏ đồng tiền ra, có một hiệu ứng bức xạ rất mạnh. Hiện tượng này được nhà cảm xạ Dư Quang Châu - Trưởng ban cảm xạ Trung Tâm nghiên cứu tiềm năng con người - dùng máy đo xác định: Ở các bộ phận khác nhau trên mình Ông Khiết, đèn báo không sáng toàn phần.... Trung bình có bẩy đơn vị đèn sáng..... Chỗ ít nhất chỉ có ba đơn vị đèn sáng...... Nhưng tại miệng Ông Khiết, đèn sang toàn phần, đã chứng tỏ có một bức xạ rất mạnh ở đây. Một hiện tượng cần lưu ý là: Nếu ta để đồng tiền trở lại vào miệng Ông Khiết thì hiện tượng bức xạ yếu hẳn. Hiện tượng "Cóc mở miệng" nói lên điều gì? Phải chăng những điều gần như không tưởng trở thành có thể? Trong thành ngữ dân gian Việt Nam có câu "Bao giờ cóc mọc râu". Một câu thành ngữ có tính ví von với hình tượng so sánh với những việc gần như không tưởng. Cóc thì chẳng bao giờ mọc râu cả, vậy thì những việc làm sẽ chẳng bao giờ thành công ví như chờ đến khi "cóc mọc râu" vậy. Nhưng kỳ lạ thay! Một lần nữa câu thành ngữ dân gian Việt này lại liên hệ rất cụ thể với hình tượng Ông Khiết: Bạn đọc hãy nhìn kỹ xem: Ở hai bên mép Ông Khiết có hai sơi râu thật..... " Cóc mọc râu" đúng cả nghĩa đen với hình tượng Ông Khiết. Phải chăng, chính hình tượng Ông Khiết muốn nhắc nhở hậu thế rằng: Những điều không tưởng vẫn có khả năng trở thành hiện thực?! Trong bài "Hòn Vọng Phu" của nhạc sĩ Lê Thương có câu: Ta cố đợi ngàn năm. Một ngàn năm nữa sẽ qua.... Nhạc sĩ Lê Thương sáng tác bài hát nổi tiếng này của ông, khi mà tất cả các nhà nghiên cứu văn hóa sử Việt còn sống ngày nay chưa sinh ra ở trên đời..... Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, kể từ khi nền văn hiến huyền vĩ Việt sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử, ông Khiết đã "Ngậm miệng ăn tiền". Đến nay, Ông Khiết đã mở miệng và thể hiện những điều mà trước đây gần như không tưởng - "Cóc mọc râu". Qua hình tượng Ông Khiết, đã xác định một nền văn hiến huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử - nền văn minh Khoa Đẩu - đã sở hữu một lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang mơ ước. Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Ông Khiết và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Ngay trên đầu ông Khiết, đã đội Âm Dương, cho chúng ta thấy hình tượng Ông Khiết có mối liên hệ chặt chẽ với thuyết Âm Dương Ngũ hành. Do đó hình tượng này phải là một sự lựa chọn liên quan mật thiết đến học thuyết này. Nếu chúng ta có thể cách điệu hóa hình tượng ông Khiết ba chân đầy huyền bí này thành hình kỷ hà thì sẽ có hình tam giác cho thân ông Khiết với đỉnh ở miệng Ông Khiết và một hình tam giác khác có đỉnh là chân sau ông Khiết. Và đây chính là biểu tượng của Do Thái giáo - một tôn giáo cổ xưa nhất của nhân loại và nay chính là lá cờ của quốc gia Isarael. Đồng thời đây cũng chính là biểu tượng của đồ hình Hậu Thiên Lạc Việt với sự kết hợp hai quái Đoài Tốn và Cấn Chấn thành đồ hình tam âm, tam Dương. Xin xem hình minh họa dưới đây: Không ai có thể phủ nhận sự liên quan giữa bát quái với Ngũ hành trong ứng dụng. Biểu tượng của ông Khiết liên quan đến Thuyết Âm Dương Ngũ hành là việc rất rõ ràng không cần phải bàn cãi, ít nhất với xoáy Âm Dương mà Ông Khiết mang trên đầu. Nhưng vấn đề cũng chưa dừng lại ở đấy, mà biểu tượng này còn liên quan mật thiết với những tri thức vũ trụ và xác định: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là sự tổng hợp của những tri thức vũ trụ, khi mà trên lưng Ông Khiết chính là hình tượng của chòm sao Đại Hùng Tinh - Chòm sao Thiên cực Bắc của bầu trời Thái Ất trong lý học Đông phương. Bạn đọc có thể so sánh hình dưới đây: Chòm sao Đại Hùng tinh trên bầu trời Thái Ất hiện nay (Chấm đen trên hình minh họa). So sánh với các chấm trên lưng ông Khiết...... Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng: Ông Khiết chính là biểu tượng hoàn hảo của nền văn minh Khoa Đẩu (Con ông Khiết chính là nòng nọc - Khoa Đẩu tự - văn tự chính thống của nền văn minh Lạc Việt), miêu tả một cách cô đọng nhất những nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành và một thực tại mà học thuyết này phản ánh: Đó chính là những quy luật vũ trụ tương tác với Địa cầu, mà chòm sao Thiên Cực Bắc chính là chòm sao định vị căn bản cho mọi sự vận động, tương tác đó. Nhưng vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây, hình tượng Ông Khiết còn xác định rằng: La bàn chính là sản phẩm có từ lâu trong nền văn minh cổ nhân loại và không phải do người Trung Quốc phát minh. Biểu tượng Ông Khiết - Xác định la bàn là phát minh của người Việt cổ. Từ hàng ngàn năm nay, cả thế giới này vẫn ngộ nhận la bàn là phát minh của nền văn minh Hoa Hạ, cũng như cho rằng Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành của người Trung Hoa vậy. Có thể nói rằng trên hầu hết những website nghiên cứu đều thống nhất nói về điều này. Nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim chép trong Việt Nam Sử Lược "... và ông Chu Công Ðán lại chế ra xe chỉ Nam để đem: "... và ông Chu Công Ðán lại chế ra xe chỉ Nam để đem xứ Việt thường về nước." (quyển 1, trang 13). Còn theo sự khảo cứu của Châu Âu cho rằng la bàn từ dùng kim nam châm được các nhà hàng hải Trung Hoa dùng khoảng năm 1100 Tây lịch. Theo học giả Alexander Neckam viết trong sách Desutensilibus (Nói về các dụng cụ) thì các thủy thủ Anh,vào năm 1190, đã từng dùng la bàn cho những chuyến hải hành trên cách đại dương. Khoảng từ năm 1220 người Arập đã bắt đầu dùng la bàn và khoảng 1250 thì người Viking cũng đã biết dùng loại công cụ định hướng này một cách thường thức. Họ còn trưng ra nhưng cái gọi là "di vật khảo cổ" để xác định la bàn là phát minh của người Hoa Hạ: Chiếc thìa chỉ Nam - một di vật được coi là phát minh của người Hoa Hạ vào thế kỷ II BC. Thế giới theo thói quen nhận thức đó, mặc nhiên ngộ nhận sự phát minh La Bàn là của người Trung Quốc. Nhưng một bí ẩn còn chưa được giải thích, một câu hỏi còn đang bỏ lững, khi đặt cho câu hỏi rằng những công trình kim tự tháp của Ai Cập, Hy Lạp, Inca, Maya, Zoque ở Trung Mỹ, được xác định phương hướng để xây dựng hay các cấu trúc công năng của tháp cũng thể hiện khả năng, công dụng xác định được phương hướng, xác định được sao Cực Bắc, các hướng chính Bắc, chính Nam, chính Đông, chính Tây - với độ sai biệt siêu việt hơn độ sai biệt lý tưởng cho phép của xây dựng thời hiện đại - thì thời đó các nền văn minh hơn 5000 năm này họ xác định hướng bằng gì? Nếu cho rằng: Các nền văn minh cổ xưa đã dùng sao Thiên Cực Bắc để tìm hướng Bắc, thì chúng ta đều biết rằng: Hướng Bắc của chòm sao Thiên cực Bắc không hoàn toàn trùng khớp với phương Bắc của Địa cầu. Sự chính xác của các công trình kiến trúc nổi tiếng thời cổ đại, như Kim Tự Tháp Kim tự tháp Keop nổi tiếng của Ai Cập có đường chéo góc trùng khớp hoàn toàn với kinh tuyến Bắc Nam của địa cầu và là kinh tuyến đi qua đất liền dài nhất thế giới. Làm thế nào để họ xác định chính xác trục Bắc Nam mà xây nên Kim Tự tháp vĩ đại này? Cũng có ý kiến cho rằng: Người Ai Cập căn cứ vào sao Bắc Đẩu để xác định phương Bắc. Mới nghe thì có vẻ có lý và có nhiều ngươi đồng tình. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là trục Địa cầu nối kinh tuyến dài nhất theo hướng Bắc Nam, chứ không phải phương Bắc. Làm sao người Ai Cập biết trục Địa Cầu nằm đúng phương Bắc Nam mà nhìn sao Bắc Đẩu, nếu không có la bàn - hoặc một cái gì đó tương tự như vậy - để xác định phương hướng các vì sao trên bầu trời với một kiến thức thiên văn vượt trội . Điều này đã chứng tỏ qua vị trí các vì sao tương quan với các Kim Tự Tháp. Chúng ta xem lại hai tư liệu liên quan đến sự phát minh ra la bàn vốn được coi là của người Trung Hoa. 1 - Truyền thuyết ghi nhận trong trận đánh Hoàng Đế Xuy Vưu tại Trác Lộc (Trên 5000 năm cách ngày nay). Xuy Vưu làm phép khiến trời đất mù mịt. Một vị đại thần của Hoàng Đế phát minh ra cái xe chỉ nam và nhờ cái xe này, Hoàng Đế chỉ huy quân đội, phá tan đạo quân của Xuy Vưu. 2- Sứ giả Việt Thường đến kinh đô cống vua Nghiêu một con rùa lớn (3000 năm cách ngày nay), trên mai rủa có ghi việc trời đất mở mang bằng Khoa Đẩu tự. Vua Nghiêu sai tặng sứ Việt thường chiếc La bàn để định hướng về nước.Sau hai tư liệu trên thi không có một tác giả Trung Hoa nào tự giới thiệu là người phát minh ra la bàn. Chúng ta cũng biết rằng: Chính các nhà sử học Trung Quốc cũng cho rằng lịch sử văn minh Hoa Hạ chỉ rõ ràng trong khoảng thế kỷ thứ VIII BC. Huyền thoại thì không phải là cơ sở để tin cậy như một chứng cứ thuyết phục, nếu không giải thích được những vấn đề liên quan đến nó. Khoa phong thủy đã được chứng minh rằng: Nó thuộc về nên văn hiến Lạc Việt một thời huy hoàng bên bờ nam Dương Tử. Tất yếu cái la bàn là vật bất ly thân của môn này không thể ra đời trong văn minh Hán.Quí vị cũng cần quán xét một hiện tượng là: Ở đây, tôi cũng cần lưu ý thêm quý vị là: Sử Ký Tư Mã Thiên dành hẳn một truyện cho những thày chuyên coi ngày, tựa là "Nhật giả liệt truyện", nhưng lại không hể nhắc tới khoa Phong Thủy vốn được coi là xuất hiện từ thế kỷ thứ III BC - tức là trước cả Tư Mã Thiên hàng 100 năm - như tài liệu trên ghi nhận. Ông ta cũng không hề có một chữ nào nói đến sự ứng dụng khoa Phong thủy trong các công trình xây cất của triều đình Hán. Tất nhiên, ông cũng không hề xác nhận la bàn là do phát minh của văn minh Hoa Hạ. Những chứng cứ trên xác định việc phát minh la bàn không thuộc về văn minh Hán cổ. Cóc với đôn cố định. Hình tượng Cóc thật sự là bình dị và phổ thông như đã thấy, nhưng kết cấu lại đưa đến những sự trùng hợp mang tính tương đồng hay định hướng cho một sự suy nghiệm hợp lý giữa các hiện tượng liên quan. 1 - Ông Khiết được đặt trên đôn tròn có thể xoay các hướng tương làm cho miệng nhọn của hình tượng như một mũi tên chỉa về các phương tương tự mũi kim nam châm luôn xoay tít và chỉ hướng Bắc Nam khi đã ổn định. Do vậy, đôn đế thường được thiết kế tròn và bằng vật liệu không phải là kim loại, tương đồng với việc thiết kế vỏ la bàn bằng vật liệu không tạo sự nhiễm từ. 2 - Miệng Ông Khiết ngậm một đồng tiền tròn - theo quan điểm Lý học Đông Phương thì tượng tròn thuộc kim - Hình tượng này cho thấy tính hút kim loại - tiêu biểu là sắt - của La bàn. Những hình ảnh tiền bạc mà tượng cóc ngồi lên, cũng có thể tượng trưng cho tượng Kim, kim loại bị từ trường hút giữ. Như vậy tính từ lực được thể hiện qua hình tượng ẩn dụ mang tính thường thức phổ thông qua ý nghĩa cầu tài chiêu lộc. Nhưng đó là ẩn ngữ nhằm miêu tả một tri thức bị che lấp bởi hàng ngàn năm Hán hóa. Cấu trúc của miệng Ông Khiết hơi nghiêng chếch lên, nên khi ta chỉ cần cho đồng tiền vào đúng miệng là tự nó vào sâu tiếp trong miệng Ông Khiết, nói lên khi cho kim loại tới gần nam châm sẽ hút được nó. 3 - Lưng ông Khiết mang chòm sao Bắc Đẩu và nhìn lên trời, cho thấy ông nhìn về hướng Bắc..... 4 - Chân ông Khiết có nhiều đồng tiền nhỏ xung quanh, hình tượng thuộc kim một lần nữa được tái hiện, cho ta thấy nam châm có thể hút được kim loại từ rất nhiều chiều. Trong khi đế lại được chế tác hình tròn và bằng loại vật liệu khác và tách rời với ông khiết, muốn nói rằng, vỏ của la bàn phải được làm bằng loại vật liệu khác mang dáng dấp của hình tròn và không phải là kim loại, không phải là nam châm thì la bàn mới hoạt động được. 5 - Qua tác nghiệp đo xung khí bằng máy RFI của Nhà cảm xạ học Dư Quang Châu, cũng như sử dụng đo xung xạ bằng con lắc của nhà nghiên cứu lý học Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho thấy rằng: Khi Ông Khiết ngậm đồng tiền, không tạo xung khí, trời đất giao thoa, nói lên trái đất vẫn chịu sự tưong tác của thiên văn. Khi rút đồng tiền ra, miệng Ông Khiết tạo ra một xung khí phát thẳng, có thể coi là chỉ dấu chiều từ trường trái đất Đương nhiên ông cha ta không muốn bị thất truyền, nên ngoài việc mang tính chiêu tài để lưu truyền, ông cha ta thêm chùm sao Đại Hùng tinh trong tranh dân gian Việt in hình của chòm sao trên lưng trong tượng ông Khiết. Trong buổi hội thảo về "Tính khoa học của phong thuỷ trong kiến trúc và xây dựng", nhà tổ chức đã trao tặng các đại biểu tượng Ông Khiết trên đế tròn. Đây cũng là biểu tượng và mong muốn phổ biến một hình tượng minh triết Việt đến với mọi người. Chúng tôi luôn tuân thủ nguyên tắc: Không sử dụng sử giải mã những biểu tượng, truyền thuyết làm bằng chứng khoa học để minh chứng cho Việt sử 5000 năm vắn hiến. Nhưng, chúng tôi vẫn trân trọng giới thiệu một cách nhìn về tính minh triết Việt qua di sản của tổ tiên Lạc Việt để lại. Ẩn truyền của ông cha ta khi nói: “Con cóc là cậu ông Trời” thật là ý nghĩa. Và một điều thú vị khác nữa là: Trong cuốn "Cội nguồn trăm họ" của giáo sư Bùi Văn Nguyên, tác giả cho rằng - Kinh Dương Vương tên húy là Nguyễn Minh Khiết. Như vậy, danh từ "Khiết" chính là thủy tổ khai sáng nền văn minh Lạc Việt - Nền văn minh Khao Đẩu một thời huyền vĩ ở miến nam sông Dương tử.. Achau
    5 likes
  2. Khi tham gia biên soạn bài về cụ Cóc, Thiên Đồng thường xác định: mỏ cóc chỉ hướng Nam, là hình tượng của Kim chỉ Nam. Phù hợp với những mật ngữ " Tọa bắc triều Nam", "Dương trước âm sau". Như vậy thì đuôi mông và một chân sau ở phía Bắc, đầu mỏ phía Nam. Thanhphuc thêm ý là cặp chân mày Cóc có hình Hỏa là ẩn ý tượng trưng phương Nam là rất hợp lý. Nhưng nếu lưu ý kỹ hơn vòng tròn Âm Dương được bao bọc cũng bởi hình tượng Hỏa, ở hai chân trước ngay bả vai cũng hình tượng Hỏa, hợp nhất với đôi chân mày cũng hình tượng Hỏa, nghĩa là nửa phần thân trên của Cóc mang tượng Hỏa, và đây là hình tượng rỏ ràng nhất của ánh sáng rực rỡ, tượng của quẻ Ly, đích thực là phương Nam, phù hợp với nguyên lý lý thuyết Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ và cũng phù hợp hoàn toàn với thói quen của người xưa,khi vẽ Bát quái, Hà Đồ đều đưa hành Hỏa lên trên, Thủy xuống dưới. Cần lưu ý thêm rằng hình tượng thủy cũng có thể được biểu trưng một cách nhẹ nhàn tinh tế qua hình ảnh 2 tua rua của đầu 2 xâu đồng tiền được trải sau mộng ông Khiết như 2 dòng suối, và hình tượng uốn lượng là tượng của Thủy hình. Vậy là Thủy Hỏa đối trục, Nam Bắc đối cực một cách triệt để rỏ ràng phù hợp với ý niệm mỏ ông Khiết chỉ hướng Nam, là biểu tượng của Kim chỉ Nam. Vì mỏ chỉ về hướng Nam nên lưng ngược lại với Bắc, mà bầu trời Bắc phương có chòm Đại Hùng Tinh ngự ở đấy nên lưng Cóc mang Thất tinh để ngầm chỉ sau lưng là Bắc phương. Như vậy nửa phần thân sau gồm Thất tinh Đại Hùng và 2 tua rua đại diện cho nửa phần sau phương Bắc.
    5 likes
  3. Anh chị em lớp Phong Thủy Lạc Việt thân mến. Từ nay về sau, nếu chúng ta có thể đặt làm ông Khiết ở những cơ sở sản xuất và dùng trong yếu tố thứ 5 của Phong thủy Lạc Việt thì cố gắng đề nghị họ bỏ hai cái chấm trên đầu ông Khiết, để biểu tượng Âm Dương mang tính thuần Việt. Trên tượng ông Khiết này, còn một biểu tượng bí ẩn nữa. Anh chị em có nhận thấy biểu tượng này không? Và nội dung nó nói lên điều gì?
    3 likes
  4. Chuyện "hậu cung" trong thế giới đạo Hồi Hậu cung dưới thời các lãnh chúa ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng được xây dựng theo các quy tắc của đạo Hồi và là một nơi vô cùng cấm kỵ. Nó là nơi tuyệt mật đối với nam giới nhưng cũng là nơi ẩn chứa nhiều khao khát nhất đối với những người phụ nữ. "Hậu cung" trong tiếng Ả Rập là “haram” và nó có nghĩa là "cấm". Chỉ có những chủ nhân của cung điện, người được gọi là Sultan, và các con trai của họ mới được phép đặt chân tới khu vực này. Còn đối với tất cả những người đàn ông và phụ nữ bình thường khác đó là một điều cấm kỵ. Chỉ có những Sultan, và các con trai của họ mới được phép đặt chân tới khu vực hậu cung Sự cấm ky nghiêm ngặt tới mức một nhà chép sử người Thổ Nhĩ Kỳ có tên là Dursun Bay đã ghi lại rằng: "Nếu mặt trời là một người đàn ông thì thậm chí nó cũng bị cấm soi sáng vào hậu cung". (Trong tín ngưỡng của người Thổ Nhĩ Kỳ, mặt trời là thực thể cái). Dưới đế chế Ottoman, một đế chế hùng mạnh tồn tại từ thế kỷ 11 tới đầu thế kỷ 20 ở Thổ Nhĩ Kỳ, cung điện được gọi là Serail. Theo truyền thống của những người Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, những người đặt chân đầu tiên vào hậu cung không ai khác chính là vợ và con gái của Sultan và của các con trai ông ta. Trong hậu cung, họ được học múa, học nhạc và thơ Hồi giáo cùng những loài hình nghệ thuật khác. Tất cả các thê thiếp của Sultan bất kể nguồn gốc xuất thân đều phải chuyển sang đạo Hồi khi nhập cung. Trong hậu cung, họ được học múa, học nhạc và thơ Hồi giáo Sau khi đọc 3 lần câu: “Không có vị thiên Chúa nào ngoài Thánh Allah và nhà tiên tri Mohammed của tôi”, họ sẽ trở thành một “nô lệ”, được đặt tên gọi mới và sẽ phải quên đi hoàn toàn cuộc sống trước kia. Hậu cung cũng có hệ thống cấp bậc và mỗi cấp bậc đều có tên gọi riêng cho những người sống trong đó. Trong hậu cung của các Sultan ở Constantiople – thủ phủ của nhiều đế chế suốt thời Trung Cổ, quyền lực cao nhất thuộc về mẹ của Sultan hay còn được gọi là Walid. Sultana có thể là tên gọi chung của một bà mẹ, các chị em và các con gái của Suntal. Cấp bậc thứ hai dành cho 7 bà vợ chính của Sultan những người được gọi là Kadin. Dưới họ là các Gediklik, những người con gái luôn sẵn sàng phụ vụ Sultan và những cô gái còn lại được gọi là Odalik. Dưới Kadin một bậc trong hệ thống phân cấp là một nhóm người phự nữ đặc biệt. Họ cũng là những người được sủng ái trong hậu cung và được gọi là những Iqbal. Họ không thể bước lên vị trí của Kadin nhưng họ được chu cấp tiền bạc, có phòng và người hầu riêng. Cấp bậc thứ hai dành cho 7 bà vợ chính của Sultan Họ không chỉ là những "tình nhân" xinh đẹp giỏi chuyện chăn gối mà còn là những "lá bài" thông minh và xinh đẹp của các chính trị gia. Thông qua những Iqbal này mà nhiều quan lại tham ô trong quá khứ của Thổ Nhĩ Kỳ có thể làm hài lòng các sultan để đạt được mục đích cũng như tham vọng của mình. Những phụ nữ trong hậu cung Thổ Nhĩ Kỳ xưa lại rất thạo những việc triều chính và họ cũng đóng một vai trò quan trọng trong các quyết định của lãnh chúa, nhưng vai trò của họ luôn được ẩn giấu ở phía sau để tránh con mắt tò mò của mọi người. Theo Đức Thành VTC
    2 likes
  5. Chuyện khó tin về 2 người đàn ông đổi vợ cho nhau Họ từng là những người bạn thân thiết. Nhưng đến một ngày, vì yêu vợ của nhau nên họ đã quyết định chuyện... đổi vợ lẫn nhau. Câu chuyện đổi vợ có thật 100% này xảy ra tại huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang. Lấy vợ từ năm 1993, có những bốn đứa con nên cuộc sống gia đình vợ chồng anh Đoàn Văn Thắng, chị Quan Thị Bình, người bản Tùn, xã Năng Khả (huyện Na Hang, Tuyên Quang) gặp rất nhiều khó khăn. Để có tiền nuôi con và cho con ăn học, vợ chồng anh Thắng phải thay nhau đi làm phu hồ. Mấy năm trước, trong một dịp làm phu hồ xây dựng trong trạm kiểm lâm, gần trụ sở ủy ban xã, anh Thắng quen với Hoàng Văn Quan, cũng là thợ phu hồ người bản Nà Vai, cùng xã Năng Khả. Gia đình hiện tại của anh Đoàn văn Thắng- (Ảnh Nguyễn Tuyến). Hai người đàn ông đã có gia đình và cùng cảnh nghèo khó, vất vả nên nhanh chóng trở nên thân thiết. Nhiều lần, Thắng đã vào gia đình Hoàng Văn Quan dùng cơm, uống rượu nên quan hệ của họ càng gắn bó hơn. Đầu tháng Chạp năm 2009 vừa rồi, chị Quan Thị Bình, vợ anh Thắng thay chồng đi làm phu hồ để kiếm thêm ít tiền tiêu tết. Và lần đi làm phu hồ này, chị Bình cũng trở nên thân quen với Hoàng Văn Quan như hai chị em. Nhưng thật oái oăm, bởi chỉ sau khi quen biết không lâu, người đàn bà sinh năm 1974, hơn Hoàng Văn Quan đến một con giáp (Quan sinh năm 1986) lại nảy sinh tình cảm yêu đương. Rồi, chỉ một tháng sau, họ đã bỏ trốn sang một bản ở xã khác, cách nhà mấy chục cây số để sinh sống như vợ chồng. Anh Thắng bên người vợ "mới đổi" được, dù chịu nhiều lời đàm tiếu nhưng họ vẫn sống với nhau rất hạnh phúc - (Ảnh Nguyễn Tuyến). Anh Thắng cho biết: Sau khi vợ bỏ đi cùng người bạn, dù rất buồn và giận bạn, nhưng lâu lâu, nỗi tức giận ấy cũng nguôi ngoai. Khi ấy, nghĩ đến người vợ bạn vẫn vò võ ở nhà chăm sóc bố mẹ chồng đau ốm, anh Thắng cảm phục vô cùng nên đã gọi điện hỏi thăm. Qua nhiều lần trò chuyện và chia sẻ, người đàn ông mất vợ và người dàn bà mất chồng cảm phục và mến nhau, đến độ, họ đã nghĩ rằng, họ sẽ không thể sống được nếu thiếu nhau. Sau 3 tháng chuyện trò qua điện thoại, đến một ngày, anh Đoàn Văn Thắng đánh bạo tìm đến nhà ông Hoàng Văn Hỏn, bố đẻ của Quan và là bố chồng của chị Bàn Thị Pham để nói chuyện xin cưới chị Pham, người vợ có hôn thú đàng hoàng của Hoàng Văn Quan, hiện vẫn sống ở nhà ông Hỏn về làm vợ. Cứ tưởng sau lời đề nghị kỳ quặc này, anh Thắng sẽ bị đuổi thẳng ra ngoài ngõ. Nhưng trái lại, ông Hỏn lại vui ra mặt, gọi chị Pham ra, nhận làm con gái và quyết định… gả chồng cho con dâu. Sau quyết định gả chồng cho con dâu, ông Hỏn cho người đi gọi con trai về thông báo và bắt con trai sau này phải gọi vợ là chị và gọi anh Thắng - tình địch của mình bằng anh rể. Hai con người từng bất hạnh, cô đơn, nhưng họ đã tìm đến với nhau và trở thành một gia đình hạnh phúc - (Ảnh Nguyễn Tuyến). Cứ nghĩ Hoàng Văn Quan sẽ phản đối chuyện vợ đi lấy chồng ghê gớm lắm. Nhưng hóa ra, Quan lại vui sướng vô cùng khi biết được tin này. Bởi ngay sau đó, Quan đã tìm đến nhà anh Thắng xin lỗi chuyện đã lôi kéo vợ anh trước đó và chính thức gọi anh Thắng là anh rể và gọi chị Pham, vợ cũ của mình bằng… chị gái. Đám cưới của anh Thắng, chị Pham được tổ chức vào một ngày đẹp trời cuối tháng tư âm lịch vừa qua. Trong ngày cưới, một điều kỳ lạ khác nữa lại diễn ra. Ấy là việc Hoàng Văn Quan cùng nhiều anh chị em của mình chở vợ cũ đến nhà anh Thắng theo tục lệ đưa dâu ở đây. Trưởng bản Ma Văn Trường: Tôi cảm thấy rất buồn cười, nhưng phải công nhận đó là một chuyện kỳ lạ và kỳ diệu nữa - (Ảnh Nguyễn Tuyến) Sau khi chở chị Pham đến nhà anh Thắng, Quan còn ở lại uống rượu chúc mừng cho "chị gái và anh rể" trăm năm hạnh phúc một cách rất vui vẻ. Từ ngày lấy chị Pham về làm vợ, rất nhiều lần anh Thắng đã trở lại nhà ông Hỏn uống rượu nên quan hệ giữa anh và Quan càng trở nên rất thân thiết. Anh Thắng cho rằng, nếu sau này vợ chồng ông Hỏn chết thì vợ chồng anh cũng phải có đóng góp và trách nhiệm như con cái trong nhà vậy. Ông Ma Văn Trường, Trưởng bản Tùn, người cùng nhiều chức sắc trong bản được mời tham dự đám cưới của anh Đoàn Văn Thắng cho biết, chuyện “đổi vợ” của anh Thắng là có thật. Ông Trường khẳng định anh Thắng từng lấy vợ từ năm 1993, có mấy đứa con, nhưng không hề có hôn thú. Trước khi cưới, anh Thắng có đến hỏi xem việc cưới vợ của mình có vi phạm luật hay không, bởi chị Pham và Hoàng Văn Quan lại là vợ chồng hợp pháp, có hôn thú đàng hoàng. Vì vậy, để đám cưới diễn ra đúng pháp luật, ông khuyên chị Pham cần sớm làm đơn ly dị. Một khi tòa đã xử xong thì chuyện cưới xin này mới là hợp pháp. Tuy nhiên, theo ông Trường, việc hợp thức hay không chỉ là vấn đề sớm hay muộn. Bởi vợ chồng anh Thắng, chị Pham đang sống với nhau rất hạnh phúc. Các con cái anh Thắng cũng quý chị Pham lắm, đi đâu chúng cũng muốn đi theo. Cũng như thế, cuộc sống của vợ chồng Hoàng Văn Quan và chị Bình nghe nói cũng hạnh phúc và họ còn sắp sửa có con. Chuyện đổi vợ kỳ lạ của Đoàn Văn Thắng và Hoàng Văn Quan đã diễn ra được mấy tháng. Và, bản thân hai người đàn ông này không có bất kỳ một bản giao kèo nào, cho dù đó chỉ là một bản giao kèo bằng miệng. Nhưng, với những gì họ đã thể hiện thì bản thân Thắng và Quan cùng gia đình của họ đều rất hài lòng với việc tráo đổi này. Ngay cả dư luận của người dân trong vùng, dù nhiều người còn ngỡ ngàng nhưng đa phần đều rất cảm thông và cho đó là... một kết cục có hậu! Theo Nguyễn Tuyến VietNamNet
    2 likes
  6. Nền khoa học ngay nay đã tạo ra rất nhiều kỳ tích trong công nghệ vũ trụ với ước mơ tìm hiểu và khám phá thế giới tự nhiên, đặc biệt là các hành tinh xa xôi và sự sống ngoài trái đất nhưng cho tới thời điểm hiện nay ta thấy còn có một số các giới hạn chưa thể vược qua: - Chưa tìm thấy sự sống ngoài trái đất trong vòng 50 năm qua mặc dù thế giới nỗ lực không biết mệt mỏi. - Con người bao gồm cơ thể vật lý và tinh thần. Giả sử ta có thể dùng sức mạnh tinh thần tiếp cận được không gian xa xôi thì việc di chuyển cơ thể vật lý vẫn là nan giải. - Chưa tìm ra nguyên lý thống nhất vũ trụ theo khoa học hiện đại. Vũ trụ ngày càng giãn nở với vận tốc ngày càng gia tăng theo thời gian và lớn gấp nhiều lấn vận tốc ánh sáng. - Vận tốc tàu vũ trụ là quá nhỏ bé so với vấn tốc ánh sáng. - Lý thuyết âm dương ngũ hành có thể là thuyết thống nhất vũ trụ nhưng hiện tại nó chưa tiếp cận được với các nhà khoa học Phương Tây từ nguyên bản gốc, xuất phát từ nền văn minh Lạc Việt nhằm phối hợp nghiên cứu, phát triển.
    2 likes
  7. Kính thưa quí vị quan tâm. Đối khi thân chủ đến xem một lá số Tử Vi thường hỏi người tư vấn:"Thầy xem giúp tôi nên chọn nghề gì thích hợp?". Còn bài viết dưới đây thì chứng tỏ thày thuốc cũng có chức năng tương tự thày bói. Phải chăng Tử Vi chính là bảng mã hóa những thành tựu trong y khoa liên quan đến những tương tác từ vũ trụ? ----------------------------------------- Chụp cắt lớp não giúp chọn nghề nghiệp phù hợp 28/07/2010 11:01 (GMT +7) Trong tương lai, kỹ thuật chụp cắt lớp có thể được sử dụng để xác định khối lượng chất xám ở những vùng khác nhau của não bộ, giúp con người có thể lựa chọn nghề nghiệp phù hợp nhất với năng lực của họ. v ảnh minh họa Tiến sĩ Richard Haier, trưởng nhóm nghiên cứu thuộc trường Đại học Y tại bang California của Mỹ đã tiến hành phân tích các dữ liệu não bộ của hơn 40 người ở độ tuổi từ 18-35, từng trải qua tám thử nghiệm về năng khiếu tại Quỹ Nghiên cứu Johnson O"Connor để hướng nghiệp. Những người tham gia nghiên cứu được chụp cắt lớp não để xác định khối lượng chất xám ở từng vùng khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy chụp cắt lớp có thể bổ trợ cho các thử nghiệm năng khiếu giúp mọi người tự tin hơn trong việc lựa chọn hoặc quyết định nghề nghiệp lý tưởng cho mình. Theo Tiến sĩ Richard Haier, mối liên hệ giữa não bộ và nghề nghiệp cho phép người này có ưu thế hơn hẳn người khác về một nghề nào đó. Mọi người đều có thể học lái xe, nhưng không phải ai cũng trở thành người lái xe đua vì điều đó cần có những nhận thức đặc biệt liên quan đến việc xử lý xe ở tốc độ cực cao Theo VietNamnet
    2 likes
  8. SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI I. VÀI NHẬN ĐỊNH KHI HỌC LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT 1. Ngài là một vị Đại Bồ tát ra đời vì bản nguyện độ sanh, vì lẽ đó, lịch sử của Ngài có tính cách siêu việt hơn người thường. 2. Vì lòng từ bi lợi tha và tự chủ trong sự thọ sanh, nên mỗi cử động trong đời Ngài đều hướng về sự giáo hóa trên đường giải thoát. 3. Nên nhận rõ ý nghĩa của lịch sử hơn là câu nệ từng chi tiết nhỏ. II. THÂN THẾ CỦA NGÀI Đức Phật Thích ca nguyên tên là Tất đạt đa. Họ Ngài là Thích ca, một chi nhánh của họ Kiều tất la, là một quý tộc. Tên Ngài nói đủ là Kiều tất la Thích ca Tất đạt đa (Kosala akya Siddhrtha). Còn Mâu ni là đức tính trong sạch, vắng lặng của Ngài, chỉ là tiếng để khen ngợi. Ngài là con vua Tịnh Phạn nước Ca tỳ la vệ (Kapilavastu), mẹ Ngài là Hoàng hậu Ma da. Nước Ca tỳ la vệ tức là xứ Pipaova ở phía Bắc thành Ba la nại (Bénares) ngày nay. III. NGÀY VÀ CHỖ SINH CỦA NGÀI Thái tử sinh lúc mặt trời vừa mọc, nhằm ngày trăng tròn tháng hai Ấn Độ, tức là ngày mồng tám tháng tư lịch Tàu. Ngài sinh vào khoảng 563 năm trước Tây lịch. Theo tục lệ Ấn Độ đàn bà có chồng lúc sinh nở phải trở về nhà cha mẹ. Bà Hoàng hậu Ma da trở về ngang qua vườn Lâm tỳ ni của vua Thiện Giác thì sinh Ngài dưới cây vô ưu. Khi mới sinh, Ngài đứng trên hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, miệng nói: "Trên trời dưới trời chỉ một mình ta là lớn." IV. TƯỚNG MẠO VÀ TÀI NĂNG CỦA THÁI TỬ Thái tử sinh ra có nhiều điềm lạ: quả đất rung động, vừa sinh ra Ngài đã đi bảy bước,... mọi người đều hân hoan đón mừng vị cứu tinh xuất hiện. Thái tử sinh ra đã có 32 tướng tốt báo trước Ngài là một vị xuất chúng và Ngài sẽ thành Phật để dìu dắt muôn loài. Ngài sinh ra vừa được bảy ngày, mẹ Ngài từ trần. Bà dì Ngài là bà Ma ha Ba xà ba đề nuôi nấng chăm sóc Ngài. Ngài rất thông minh, các vị giáo sư danh tiếng dạy Ngài đều phải bái phục. V. ĐỜI SỐNG CỦA THÁI TỬ Thái tử sống trong cảnh cực kỳ sung sướng và được sự nuông chiều hết sức của vua cha. Xung quanh Ngài luôn luôn có vũ nữ ngày đêm đờn ca xướng hát để làm vui lòng Ngài. Tuy nhiên, Thái tử vẫn trầm tư mặc tưởng. Trên mặt luôn luôn lộ nét buồn kín đáo và, một đôi khi Ngài đã tỏ với vua cha xin đi xuất gia để tìm phương cứu mình, cứu đời. Đoán biết ý con, vua Tịnh Phạn sinh sợ sệt và tìm đủ mọi cách tăng thêm dục lạc, mong làm khuây được chí nguyện xuất gia của Ngài. VI. CHÍ NGUYỆN XUẤT GIA CỦA THÁI TỬ Sau nhiều lần mục kích những thảm trạng già, đau, bệnh, chết và sự bất công mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, trong những cuộc du ngoạn ở bốn cửa thành. Thái tử Tất đạt đa cảm nhận được những nỗi thống khổ của con người. Lòng thương chúng sanh bồng bột nổi dậy, Thái tử không còn vui được nữa. Với một ý chí cương quyết tìm chân lý, nên trong một đêm kia sau buổi yến tiệc linh đình, Ngài đã cưỡi ngựa Kiền Trắc vượt thành xuất gia với tên hầu cận trung thành Xa nặc; giữa lúc mọi người đang chìm trong bóng tối và mê man theo giấc ngủ. Ngài ra đi lúc 19 tuổi, ngày mồng tám tháng hai vào lúc giữa đêm. VII. TÌM CHÂN LÝ VÀ TU ĐẠO Đi sâu vào rừng đến bờ sông Anoma, Ngài cắt tóc và thay đổi y phục trao lại bảo Xa nặc đem về dâng Phụ hoàng và tỏ rõ sự tình. Từ đây, Thái tử đã trở thành một đạo sĩ và dấn thân trên đường tìm đạo. Ngài đi đến thành Vương xá (RajagrÌha) xứ Ma kiệt đà, tìm đến các vị Đạo sĩ Bà la môn mà tham khảo phương pháp tu hành. Sau một thời gian tu luyện, Ngài không thỏa mãn vì cho rằng chưa được rốt ráo. Ngài liền vào rừng Ưu lâu tần loa xứ Phật đà già da (Bouddhagaya) tu hạnh ép xác, một ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt gạo và suy nghĩ trong sáu năm, song vẫn thấy vô hiệu. Ngài nhận thấy lối tu khổ hạnh ấy không phải là lối tu giải thoát. Và sau khi nhận bát sữa của nàng Tu xà đề dâng cúng, thân thể bình phục, tâm hồn sảng khoái, Ngài đến dưới gốc cây bồ đề ngồi trên thảm tọa và phát nguyện: "Nếu không tìm ra chân lý thì thà chết ta không rời thảm tọa này". Trải một thời gian thiền quán, Ngài đã chiến thắng được tất cả những tật xấu xa của thân thể và nội tâm. Ngài lại uốn dẹp được mọi sự phá rối của ma vương bên ngoài. Đầu đêm, Ngài chứng được Túc mạng minh, thấy rõ ràng những đời quá khứ, hiện tại, vị lai; nửa đêm, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy được cả vũ trụ bao la; cuối đêm vào lúc sao mai mọc, Ngài chứng được Lậu tận minh, nhận chân nguồn gốc sanh tử luân hồi là sự mê mờ gọi là vô minh, và hoàn toàn giác ngộ. Ngài đã thành đạo vào lúc sao mai mọc, ngày 8 tháng Chạp. Sau khi thành đạo, Ngài đã than: "Than ôi! Chúng sanh vốn đầy đức tướng trí huệ Như lai, nhưng chỉ vì vô minh che lấp nên phải sanh tử luân hồi đấy thôi!". VIII. THUYẾT PHÁP ĐỘ SANH Sau đó, Ngài liền đến vườn Lộc uyển nói pháp Tứ đế độ cho năm ông tỳ kheo (Kiều trần như, Ac bệ, Thập lục ca diếp, Ma ha nam Câu ly và Bạc đề). Từ đó đạo Ngài truyền khắp xứ Trung Ấn Độ và lan mãi khắp hoàn cầu. IX. NHẬP DIỆT Trải qua 49 năm trên đường giáo hóa, Ngài đã tận lực gieo rắc ánh đạo vàng khắp đó đây, hóa độ chúng sanh. Vô số người đã được mang ơn pháp nhũ của Ngài mà trở về với chánh đạo. Nhơn duyên đã mãn, những người nên độ đều đã độ xong. Ngài vào niết bàn tại rừng Ta la song thọ, để lại những nỗi thương tiếc tràn ngập cả lòng người. Ngài nhập diệt lúc 81 tuổi, nửa đêm ngày Rằm tháng hai âm lịch. X. VÀI Ý NGHĨA CẦN NHẬN THỨC TRONG LỊCH SỬ PHẬT 1. Vì lòng từ bi, Ngài ra đời cốt để vạch cho chúng sanh một con đường cao quý ý nghĩa hơn, so với kiếp sống mong manh hiện tại. 2. Tuy sống trang đài danh vọng, Ngài vẫn cảm thấy những nỗi vô vị của vật chất. Và Ngài đã nói rằng: "Hạnh phúc không phải chỉ tìm trong khoái lạc của vật chất". 3. Những cuộc du ngoạn và nhiều lần mục kích những thảm cảnh của con người, Ngài đã cho ta thấy rằng: "Đời là một bể khổ đầy dẫy những bất công, tội lỗi, nếu ta duy trì mãi tình trạng mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, và thiếu một lòng thương thành thật". 4. Anh sáng có thể trở lại với những tâm hồn vị tha rộng rãi, biết hy sinh dục vọng riêng tư. Và chỉ có chân lý Ngài đã tìm ra, sau bao cuộc thử thách chiến đấu với ma chướng mời là phương pháp cứu khổ độ lạc. 5. Sự hy sinh liên tiếp trong vô số kiếp của Ngài, đã làm cho Ngài trở nên một đức Phật đầy đủ phước đức và trí huệ. Muốn cảm thông và được sức gia hộ của Ngài, chúng ta phải thường niệm đến danh hiệu của Ngài và làm theo lời Ngài dạy. Ban Tu Thư Phật Học
    1 like
  9. Xét lại vụ án Hoàng đế ... Sử sách Trung hoa ngày nay đều cho rằng : có năm vị vua thái cổ được dân chúng nhắc đến nhiều nhứt, được tôn là Thánh Vương, vì đã có nhiều công lớn trong việc phát minh những điều hữu ích quan trọng để giáo hóa dân chúng. Năm vị Thánh Vương được gọi chung là Ngũ Đế: - Phục Hy - Thần Nông - Hoàng Đế- Đường Nghiêu - Ngu Thuấn. Thần nông còn được biết dưới tên là Viêm đế làm vua năm 2737 trước Tây lịch kỷ nguyên. Hoàng đế nghĩa là Đế màu vàng , màu vàng là sắc ở trung tâm trong ngũ sắc lên ngôi năm 2697 trước Tây lịch kỷ nguyên . Dã sử Trung hoa viết Hoàng đế và Viêm đế có quan hệ thân tộc , vùng đất cạnh lãnh thổ 2 vị có Xuy vưu thủ lãnh của bộ tộc Cửu lê rất hung dữ , xuy vưu toan lấn đất của bộ tộc Viêm đế , Viêm đế cầu cứu Hoàng đế , Hoàng đế đã huy động nhiều bộ lạc theo mình mở trận huyết chiến diệt Xuy vưu , một thời gian sau Hoàng đế chiếm luôn đất đai của Viêm đế thống nhất các bộ tộc lập nên đất nước và dân tộc Trung hoa , diễn biến lịch sử này lướt qua thì có vẻ hợp lý vì Thần nông trị vì chỉ 40 năm thì bị Hoàng đế thay thế ... Chính vì những thông tin lịch sử này mà nhiều tư liệu thư tịch thành văn cũ (ngọc phả, thần tích...) lưu truyền ở Việt nam cho Hoàng đế là tên : trò phản thày tôi thí chúa đã chiếm đất diệt tộc người Việt khi làm ...đảo chánh kết thúc triều Đại Thần nông Viêm đế , sở dĩ vậy là vì truyền thuyết lịch sử Việt nhận Thần nông là cao tổ của dòng tộc mình , đế MINH ông tổ dòng giống Việt được ghi là cháu 3 đời của Viêm đế . Có thực như thế không ? Truyền thuyết trong dân gian cần phải được soi rọi cặn kẽ , xem sét 1 cách tỉnh táo vì có thể ở thời điểm mà câu chuyện được thêu dệt không có những thông tin chính xác thậm chí sai lạc rồi với nhận định chủ quan ...(đó là chưa kể đến dã tâm của kẻ thù) người ta đã dựng nên những chuyện tưởng là đúng nhưng thực ra hoàn toàn sai … rồi cứ như thế với sự cả tin truyền lan mãi trong không gian và thời gian gây ra hậu qủa tai hai lớn lao không lường nổi , những tình tiết liên quan giữa Viêm đế thần Nông với Hoàng đế và đế Minh là 1 thí dụ điển hình cho sự cả tin nguy hại này : Xin hỏi 1 điều : Cứ theo dã sử và những điều đang lưu truyền thì : Người Trung hoa nhận mình là ‘Viêm – Hoàng tử tôn’ tức là con cháu của Viêm đế và Hoàng đế trong khi đó đế Minh tổ của người Việt lại là cháu những 3 đời của Viêm đế ...nên nếu qủa đúng như thế thì hoá ra .... về vai vế tộc Việt là thuộc hàng chút chít của người Hoa à ? Điều kỳ quái này người Việt có thể chấp nhận được hay không ? Soi rọi cặn kẽ 1 chút , cẩn thận tỉnh táo 1 chút : Nhìn vào đồ hình Cửu thiên : Ta nhận ra : chính Cửu thiên của Dịch học là cái nền tạo ra Ngũ đế Trung hoa : Phục hy tương ứng với Thanh thiên . Viêm đế tương ứng với Viêm thiên . Thiếu Hạo tương ứng với Hạo thiên. Xuyên húc tương ứng với Huyền thiên . Hoàng đế tương ứng với Quân thiên . Phục hy người Việt gọi là đế Thần , thần là biến âm của Thìn là con rồng chỉ phương đông , màu xanh , muà Xuân . Sự liên quan :Viêm đế –Viêm thiên , Thiếu hạo –Hạo thiên đã qúa rõ . Xuyên là sông tượng của phương nam theo dịch học , ‘húc’ là biến âm của ‘hắc’ đồng nghĩa với huyền trong Huyền thiên nghĩa là màu đen hay u tối . Hoàng là sắc vàng chỉ trung tâm ngũ sắc tương hợp hoàn toàn với Quân thiên là vùng trời ở giữa . Sở từ viết về ngũ đế cũng đưa ra điều tương tự coi 5 đế là những vua cai quản 4 phương và trung tâm nhưng phương hướng đảo ngược tất cả : Thiếu Hạo (đông) Xuyên Húc (bắc) Hoàng Đế (trung) Phục Hi (tây) Thần Nông (nam) Sách Lã thị xuân thu do Lã bất vi soạn đưa ra 1 bảng chỉ dẫn rõ ràng về sự tương ứng giữa các sự vật xét theo dịch lý , thông tin trong sách có độ tin cậy rất cao vì Lã bất Vi đã cho treo ở chợ và hứa thưởng ...vàng cho bất kỳ ai chỉ ra được 1 chữ sai . Phục Hy , muà xuân-phương đông-màu xanh-số 8 Hà thư –Mộc thần . Thần Nông ; mùa hạ-phương nóng xích đạo –màu đỏ – số 2 hà thư-Hỏa thần Thiếu hạo ;mùa thu – phương tây –màu trắng – số 4 Hà thư- Kim thần . Xuyên húc ; mùa đông – phương đông – màu đen – số 6 Hà thư-thủy thần . Lã thị xuân thu không nói tới Hoàng đế , nhưng căn cứ vào những Dịch tượng thì Hoàng đế có thể biểu thị : Hoàng đế (hoàng –màu vàng) ; mùa : không mùa , phương : trung tâm – màu vàng – số 5 Hà thư – thổ thần . Đối chiếu với cửu thiên thì sự chỉ định của sách Lã thị xuân thu là hoàn toàn tương hợp và kỳ lạ hơn nữa những điều này còn hoàn toàn khớp đúng với truyền thuyết lịch sử Việt . Thanh thiên ; Phục hy - thái Cao – đế Thần . Viêm thiên ; Viêm đế - Thần Nông- Viêm đế còn gọi là đế Khôi .( ? ). Hạo thiên ;Thiếu hạo – thái Khang . Huyền thiên ; Xuyên húc –thái Tiết – Tiên đế . Quân thiên ; Hoàng đế – thái Công – đế Minh . Tại sao tương ứng với 5 thiên thì 4 đế có danh hiệu là Thái nghĩa là thủy tổ ...riêng Viêm đế thì vẫn chỉ là Đế ?, đây là sự khập khiễng và sai lầm rất rõ ; dựa trên Cửu thiên thì vị đế tương ứng với Viêm thiên phải là ‘Thái Viêm - thần Nông’ chứ dứt khoát trong Tam hoàng - Ngũ đế không có ‘Viêm đế’ như những sách Tàu và Ta đã chép . Lầm lẫn Thái Viêm - thần Nông tỉ tổ của người Việt với Viêm đế là anh em cùng cha khác mẹ với Hoàng đế (cả 2 là con của Hùng quốc quân - Thiếu Điển) là 1 sai lầm lớn lao tệ hại vô cùng khiến cổ sử Việt quay 180 ₫ trở thành đầu mối cho những sai lầm chồng chất về sau . Không cần uyên bác thông thái gì cũng có thể thấy : -Xét về Lịch đại : Kết cấu 5 đế trong lịch sử Trung hoa mang tính lịch đại chứ không phài đồng đại , đế muà xuân , đế mùa Hạ , đế muà thu .v.v. rõ ràng chỉ các triều đại tuần tự kế tiếp nhau trong thời gian nên truyền thuyết mới viết Thần nông là con của Phục hy tức có ý nói thời Thần Nông thị kế tiếp Phục hy thị . Căn cứ vào biểu ngũ đế theo lã thị Xuân thu đã được dịch học kiểm chứng trên thì Hoàng đế không thể nào là kỷ kế tiếp Thần Nông được , kỷ của đế mùa Hạ qua rồi buộc phải đến Thu đế , rồi Đông đế kế tiếp chứ không có chỗ cho Hoàng đế chen vào vì vậy không thể có chuyện triều Hoàng đế thay thế Thần nông như sách Tàu viết ...làm nền cho ai đó thêu dệt nên chuyện Hoàng đế phản chủ thí chúa ... -Xét các bước Tiến hoá : Thời Hoàng đế thủy tổ Hoa tộc tồn tại cách nay khoảng 5000 năm là điều không phải bàn nữa , đây là niên đại mọi người mặc nhiên công nhận ; như thế Viêm đế cũng tồn tại trong quãng thời gian này nhưng xét Trong dòng thời gian của lịch sử thì Thần Nông không chỉ có nghĩa là 1 vị vua mà còn có nghĩa là 1 thời đại, thời đại con người bước từ nền văn minh hái lượm sang thời văn minh trồng trọt, khai thác kinh tế sản xuất, có gieo – có gặt , câu ‘Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc’ đã chỉ rõ điều này mà Theo các nghiên cứu khoa học thì thời gieo trồng ở Đông Nam Á bắt đầu vào hơn 10.000 trước Công nguyên. Tiêu biểu cho thời này, khảo cổ học gọi chung là thời văn hóa Hòa Bình tên địa điểm tìm ra di chỉ khảo cổ ; xét ra khoảng lệch 5000 năm giữa 2 thời Viêm đế- Hoàng đế và Thần nông thực trưng ra ở đây là bằng chứng rõ ràng khẳng định : nhân vật Viêm đế đã bị Hoàng đế diệt trong sử Trung hoa không phải là Thần nông cao tổ của người Việt , danh hiệu của Thần nông phải là ‘Thái Viêm’ nghĩa là Thủy tổ tộc người sống ở vùng nhiệt đới –xích đạo , vua Thần nông cũng là nhà phát minh vĩ đại bậc nhất khi đem lại của ăn cho loài người . Sử thuyết họ HÙNG đã chỉ ra : Theo truyền thuyết thời cổ đại nước của người Việt có tới 3 vị đế mang danh hiệu có chữ Viêm (viêm chỉ sức nóng , ngọn lửa) : 1-Thủy tổ Thái Viêm –thần Nông - Hùng Hiển vương . 2-Viêm đế là thủ lãnh của tộc người đã hoà nhập với bộ tộc của Hoàng đế kiến lập Hữu Hùng quốc tức Trung hoa thời xưa . 3-Viêm lang – Hùng Hy vương tức đế Nghi con cả của đế Minh anh cùng cha khác mẹ với Lộc tục trong huyền sử Việt cũng chính là đế Nghiêu của cổ sử Trung hoa. Xét như vậy không thể có vụ án Hiên viên Hoàng đế diệt quốc chiếm dân của vua Thần Nông như đã chép trong 1 số thần tích thần phả Việt , truyền nhân dòng Việt phải tỉnh táo cẩn trọng phân biệt thực hư khi nhìn nhận qúa khứ dân tộc mình . Hữu HÙNG quốc hay nước của người họ HÙNG ghi chép rõ ràng trong cổ sử Trung hoa là 1 bằng chứng sáng gía giúp ‘hiện thực hóa’ truyền thuyết 18 đời Hùng vương của cổ sử Việt , sự kết hợp hoàn chỉnh Hùng vương là vua của Hùng quốc loại trừ hẳn hàng chữ mập mờ vớ vẩn mà nhiều người đã viện dẫn để xác định thời điểm lập quốc của người Việt ‘ ....vào đời Trang vương nhà Chu ...có người dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc chung quanh tự xưng là Hùng vương ....’, Sử thuyết họ HÙNG đã trưng bằng chứng chỉ ra Hùng vương là tổ của cả dòng Bách Việt chứ không phải là tổ riêng của người Lạc Việt và Bách Việt chính là Trung hoa xưa , hàng ngàn năm rồi kể từ khi Mã Viện thu Trống đồng đúc ngựa là mọi chuyện đã lộn ngược ...kẻ cướp biến thành chủ nhân , bao nhiêu điều trái khoáy đã phơi bày mà cả thiên hạ không nhận ra ...kẻ chuyên đi ngựa lại phát minh ra thuyền bè ....chắc dùng để chạy ...trên đồng cỏ hay sa mạc ...Kẻ chưa hề biết đến bờ ruộng nước mà lại tạo ra được chữ ‘Điền’ thì đúng là ‘siêu tưởng’ ...cỡi voi trên bờ Hoàng hà thì đúng là ‘siêu thực’ chỉ có trong chuyện thần tiên ....không ở bên bờ biển Đông thì làm sao có thể tạo ra được quẻ chấn sấm sét và quẻ Tốn gió bão trong kinh Dịch ? làm gì có Rồng lượn trên ngọn cỏ ? hình tượng rồng không thể nào thoát ra khỏi sấm chớp gío bão nơi biển đông được vậy mà... ...đặc biệt hơn nữa đến cả chuyện ông Bàn cổ thủy tổ người Trung hoa cũng phải đi mượn của người phương nam ( chuyện Bàn Hồ của người Dao ) cốt chuyện hoàn toàn là ý rút ra từ vũ trụ luận của Dịch học ...chỉ riêng điều này thôi cũng đã đủ để xem sét lại những thông tin về quê hương của kinh dịch và địa bàn gốc tổ Trung hoa xưa . Trong cái lớn là cả chiều dài lịch sử Việt người viết bài này mong 1 điều nhỏ : xin mọi người bình tâm suy gẫm xét lại vụ án Hoàng đế –Thần Nông tránh sự cả tin vô cùng nguy hại như hiện nay .
    1 like
  10. Lựa chọn là ở quý khách ạ ! Ăn nhậu cũng phải có s-lô-gân nó mới sung Lưu ý đến thế này là cấm có lộn đi đâu được hít Cạnh tranh với toàn tuyến Gà già nấu phở mới ngon ??! Phim Hàn quốc Miễn bình lựng
    1 like
  11. Trong tham luận “Từ bao giờ và bằng cách nào, người Nhật thoát khỏi quỹ đạo tư tưởng của Trung Quốc” gửi Hội thảo hè năm 2010 tại Philadelphia (Mỹ), GS Cao Huy Thuần đã phân tích những biến hóa tư tưởng của hai học giả Nhật Sorai và Norigana, để tìm hiểu tại sao, vào thế kỷ 17-18, xã hội Nhật còn đóng, cô lập với thế giới nhưng tư tưởng lại có thể mở, đi trước thời đại và chính nhờ đó, vua Minh Trị đã dám quả quyết mở nước Nhật cho thế giới bên ngoài. Nhận thấy đây là một công trình nghiên cứu công phu, mang lại nhiều kiến thức hữu ích, Diễn đàn VNR500 trân trọng giới thiệu tới độc giả toàn văn bài tham luận này, như một tài liệu tham khảo giá trị. Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc không thua gì Việt Nam. Cũng như ở ta, Khổng giáo đã từng là khuôn vàng thước ngọc chính thống trong tư tưởng của nước ấy. Nhưng người Nhật đã sớm ra khỏi quỹ đạo tư tưởng của Trung Quốc. Họ bắt đầu giải phóng tư tưởng của họ từ bao giờ? Bằng cách nào? Do trường phái nào? Bằng lý luận gì? Đó là câu hỏi mà tôi mong nhiều bạn sẽ cùng đặt ra với tôi, và bài viết này chỉ là một câu trả lời rất khiêm tốn. Công việc của tôi, thật vậy, rất khiêm tốn: tôi chỉ đọc một quyển sách và trình bày lập luận của tác giả. Quyển sách là một tác phẩm có tiếng và tác giả là một giáo sư đại học lừng danh, ở Nhật cũng như trên quốc tế. Xuất bản lần đầu tại Nhật năm 1952 và gây tranh luận sôi nổi sau đó, quyển sách của Masao Maruyama, rất bác học và khó đọc, được dịch ra tiếng Anh năm 1974, rồi tiếng Pháp năm 1996, khi ông mất, dưới nhan đề: "Essais sur l'histoire de la pensée politique au Japon" ("Luận về lịch sử tư tưởng chính trị tại Nhật"). Giới học thuật Pháp đặc biệt chú ý đến lập luận của Maruyama, một lập luận độc đáo làm họ ngạc nhiên: người Nhật đã thoát ra khỏi sự nô lệ văn hóa đối với Trung Quốc trước khi tiếp xúc với Tây phương. Họ đã giải phóng tư tưởng của họ tự bên trong, chứ không phải dưới áp lực của bên ngoài. Hiện đại hóa trong tư tưởng của người Nhật đã diễn ra trong một quá trình tranh luận giữa các tín đồ Khổng giáo với nhau, chứ không phải giữa họ với "ánh sáng mới" đến từ Tây phương. Nói khác, hiện đại hóa trong tư tưởng của người Nhật đã xảy ra trước khi Minh Trị hiện đại hóa nước Nhật để bắt kịp Tây phương. Giải phóng tư tưởng đi trước giải phóng chính trị.Đó là điểm đặc biệt mà ít người nói đến, nhất là ở phương Tây. Tây phương ưa làm người ta nghĩ rằng nguồn gốc hiện đại là đến từ họ. Đó cũng là điểm đặc biệt mà chúng ta, người Việt Nam, nên chú ý. Vì hai lẽ. Một là: trong cùng một hệ thống tư tưởng đến từ Trung Quốc, tại sao họ biết đặt lại vấn đề để phủ định, để hiện đại hóa, còn ta thì không? Hai là: tại sao ta vẫn lấy tư tưởng Trung Quốc làm tư tưởng của ta? Nếu ta không thiếu những cái đầu để suy nghĩ thì cái gì đã không cho phép ta làm cái việc mà Nhật đã làm hồi thế kỷ 17-18, tức là phê phán tư tưởng chính thống tự trong lòng tư tưởng ấy, bởi những tín đồ của tư tưởng ấy? Người Nhật không hơn gì ta đâu về phương diện triết lý: họ cũng không có những lý thuyết gia xuất sắc. Vậy mà họ có được những trường phái, những tranh luận đưa dần đến sự thành hình một tư tưởng chính trị mang sắc thái đặc trưng của Nhật. Quyển sách của Masao Maruyama nghiên cứu sự thành hình đó. Ông đưa ra hai nhân vật tiêu biểu: Ogyù Sorai và Motoori Norinaga. Sorai (1666-1728) là kết tụ của một quá trình đánh giá lại Khổng giáo, hay nói cho chính xác hơn là Tống Nho. Norinaga đi xa hơn, đả kích Tống Nho, xây dựng cả một trường phái đề cao quốc học. Trong phạm vi nhỏ bé của bài này, tôi chỉ có thể giới hạn vào hai tác giả đó mà thôi, nhất là Sorai. Đối tượng xét lại của Sorai: Tống Nho Khổng giáo du nhập vào đất Nhật rất sớm, cuối thế kỷ thứ 4 sau Tây lịch, và đặc biệt được tôn quý nhất dưới thời Tokugawa, nghĩa là từ đầu thế kỷ 17 đến khi Minh Trị thiết lập lại uy quyền của Vua năm 1868. Sử Nhật xem khoảng thời gian đó như là thời hoàng kim của Khổng giáo. Cũng lạ, đó là khoảng thời gian mà người Nhật gọi là cận đại (kindai). Họ dịch "modernisation" là cận đại hóa. Thời hoàng kim của Khổng giáo ở Nhật là thời cận đại! Nhưng tại sao lại hoàng kim? Lý do thứ nhất là cấu trúc xã hội và chính trị ở Nhật dưới chế độ phong kiến Tokugawa có thể so sánh với cấu trúc ở Trung Quốc hồi Khổng giáo bắt đầu phát triển: đất giống nhau, mùa màng tươi tốt như nhau. Nông dân thời Tokugawa không được phép mang kiếm bên mình, chỉ được sống với đất, tách biệt rạch ròi với giai cấp võ sĩ. Giai cấp võ sĩ lại tách biệt rạch ròi với đất đai, từ giã đất, kéo nhau lên đô thị làm gia nhân cho các lãnh chúa. Giữa họ với nhau, võ sĩ lại tách biệt rạch ròi thành đẳng cấp, tôn ty trên dưới phân minh. Cũng sĩ nông công thương như ở ta, nhưng "sĩ" (võ sĩ) tách biệt với ba giai cấp kia và tách biệt giữa nhau, phân chia trên dưới chặt chẽ, dưới phải tuân trên. Từ trên cùng là Đại Tướng Quân (Shogun) với các tướng quân chư hầu chung quanh, cho đến các samourai thấp kém nhất ở dưới, giai cấp võ sĩ thống trị tuyệt đối trên ba giai cấp khác. Tôn ty trật tự ấy tìm được nơi đạo lý Khổng giáo ý thức hệ tuyệt hảo để làm cơ sở lý thuyết. Ý thức hệ ấy thấm nhuần khắp xã hội, vì các giai cấp ở dưới có khuynh hướng bắt chước đạo lý sống của giai cấp trên đầu. Lý do thứ hai là Khổng giáo khoác bộ áo mới dưới thời Tống nhờ tài ba sáng tác của Chu Hy, và Tống Nho được vị Shogun đầu tiên của thời Tokugawa là Ieyasu (1542-1616) đặc biệt sủng ái. Trước đó, Khổng giáo chỉ được quảng bá ở chốn cung đình, bây giờ Tống Nho được phổ biến rộng rãi trong dân gian qua các thầy đồ mở lớp dạy học trong quần chúng. Chẳng phải ông Đại Tướng Quân này sính gì đạo lý, văn chương. Ông biết ông đã ngồi trên lưng ngựa để được thiên hạ, nhưng ông cũng biết mất thiên hạ như chơi nếu chỉ cai trị với cái lưng ngựa. Tống Nho giúp ông chính đáng hóa quyền hành. Cả một học phái Nhật quảng bá tư tưởng Chu Hy được ông tích cực nâng đỡ. Nhưng Tống Nho là gì? Trước hết, dưới mắt Sorai, đó là một sự trở về nguồn, lấy gương sáng của năm ông vua truyền thuyết thời thượng cổ (Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ, Chu Công) hợp với Khổng, Mạnh, làm kim chỉ nam, đặt trọng tâm trên Tứ Thư (Đại học, Luận ngữ, Trung dung, Mạnh Tử) thay vì Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu). Thứ hai, đó là một siêu hình học vừa được sáng chế, kết nối con người với vũ trụ, lấp đi một lỗ trống lớn trong tư tưởng của Khổng giáo, quá thiên về mặt hình nhi hạ. Toàn bộ là một hệ thống triết lý chặt chẽ bao gồm cả đạo đức hằng ngày của con người lẫn quan niệm về bản thể của vũ trụ. Tôi khỏi phải dông dài về siêu hình học của Chu Hy, về thái cực, âm dương, ngũ hành… Chỉ nói rằng Chu Hy phát triển học thuyết Lí và Khí của hai anh em họ Trình, Trình Hạo và Trình Di, lí là phần siêu hình, khí là phần vật chất, hai phần ấy không tách rời nhau, hễ có khí thì có lí, nhưng lí có trước, khí có sau, lí có trước cả khi có Trời Đất, nghĩa là siêu việt vũ trụ và muôn loài. Mọi vật trong vũ trụ đều được tạo thành do sự hợp nhất của lí và khí; lí là bản chất của mọi vật, khí là hình thể của mỗi vật. Bản chất của mọi vật là giống nhau vì cùng do lí mà ra, nhưng dưới hoạt động của khí, mỗi vật đều dị biệt. Con người khác con vật là vì vậy: bản chất lí giống nhau nhưng nhận khí khác nhau, nên người làm chủ vạn vật. Cũng vậy, giữa người với người cũng khác nhau, vì tuy bình đẳng về bản chất, về lí, người này với người kia khác nhau về khí, về trình độ. Cho nên phàm thánh khác nhau, thánh hiền bẩm thụ khí trong, phàm phu bẩm thụ khí đục. Vũ trụ quan của Chu Hy kéo dài để trở thành lý thuyết về bản chất của con người. Nơi mỗi người vừa có "bản chất nguyên thủy" (lí) vừa có "bản chất riêng"(khí). Nơi thánh hiền, "bản chất riêng" trong suốt, hiển lộ bản chất trong suốt nguyên thủy. Nơi phàm phu, bản chất riêng vẩn đục vì ham muốn che lấp bản chất nguyên thủy. Cho nên "nhân dục" đối lập với "thiên lí". Từ chỗ vẩn đục ấy, tính ác sinh ra. Thế nhưng… nhân chi sơ tính bản thiện, tánh thiện ẩn sâu trong bản tính của con người hơn tánh ác, vì tánh thiện là do lí mà ra, tánh ác là do khí mà đến. Làm sạch được những yếu tố của bản chất riêng thì phục hồi lại được bản chất nguyên thủy. Vì vậy, vấn đề là làm sao làm tốt hơn lên cái khí riêng của mình: tất cả luân lý của Tống Nho nằm trên đó. Làm sao? Một là phải giáo dục luân lý. Lí học thánh hóa đạo đức của Khổng học, đưa Khổng học lên thành tôn giáo. Hai là phải dùi mài trí tuệ: cách vật trí tri. Tu thân là bước đầu tiên phải thực hiện trước khi tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Tu tề trị bình, ta đã từng học thuộc như cháo. Nhắc lại là cốt để nói: tất cả đều lệ thuộc vào luân lý, từ vũ trụ, thiên nhiên, đến văn hóa, lịch sử. Lịch sử không có gì khác hơn là bài học về luân lý, là tấm gương sáng về luân lý. Vũ trụ không có gì khác hơn là phản ánh bản tính của con người và bản tính đó là thiện vì lí là tuyệt đối chân và thiện. Từ một quan niệm siêu hình lạc quan về bản tính của con người, Tống Nho đi đến một kết luận về luân lý cực kỳ khe khắt, tất cả đều là luân lý, tất cả ước muốn của con người đều bị đặt dưới tòa án của phán quan luân lý. Nếu đây là lĩnh vực của cá nhân thì chẳng sao cả; vấn đề đặt ra là khi Nhà nước phóng tay lãnh đạo luân lý. Lý thuyết siêu hình lạc quan ấy rất hợp với một xã hội ổn định như xã hội Nhật dưới thời Tokugawa, tức là thời kỳ tiếp theo sau một khoảng thời gian đại loạn kéo dài từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17. Lý thuyết đó đem lại quân bình trong dân chúng và đồng thuận trong xã hội. Nhưng xã hội đâu có đứng yên mãi một chỗ, ổn định đâu có bất biến, tính lạc quan khởi đầu thời đại Tokugawa đâu có mãi mãi bền vững? Cả một loạt câu hỏi bắt đầu được đặt ra, khởi động phong trào đặt lại vấn đề. Lí có thật là bản tính nguyên thủy của con người? Con người có thể tự mình dẹp bỏ được "nhân dục" hay bắt buộc phải dẹp bỏ? Lí có phải là toàn năng đến mức cai trị tất cả? Tu tề có thật sẽ đưa đến trị bình? Nghi ngờ này tiếp theo nghi ngờ khác, rốt cuộc tất cả hệ thống dần dần tan rã dưới cách đặt lại vấn đề của Sokô (1622-1685), Jinsai (1627-1705), rồi Ekiken (1630-1714) như là những nhà đại Nho tiêu biểu. Họ vẫn ở trong hệ tư tưởng của Tống Nho, nhưng họ nghi ngờ. Một câu nói của đồ đệ Ekiken biểu trưng tình trạng đó: "Thầy tôi càng tin mãnh liệt chừng nào vào tư tưởng của Chu Trình thì càng nghi ngờ mạnh mẽ chừng ấy". Quá trình đặt lại vấn đề kết thúc với Sorai. Sorai là mở đầu của đoạn tuyệt. Thế giới trí thức Nhật bàng hoàng với những lập luận mới của ông, nhưng rất nhanh bị ông thu hút. Sorai xét lại Đâu là mới trong lập luận của Sorai? Quan trọng nhất là phương pháp nhìn và phân tích vấn đề của ông. Với phương pháp đó, ông vẫn đứng trong hệ tư tưởng của Tống Nho, nhưng ông đã suy nghĩ với một cái đầu khác. Thú thật, tôi không bị hấp dẫn vì nội dung trong tư tưởng của Sorai bằng phương pháp ông đã dùng trong thời đại của ông. Hai trường hợp cụ thể sau đây cho thấy cái nhìn mới của ông khi ông mới bắt đầu hành trình xét lại. Trường hợp thứ nhất xảy ra năm 1696 khi Sorai giúp việc cho một quan chức lớn. Một anh nông dân cùng khổ bỏ nhà, bỏ vợ, cạo đầu làm thầy tu dưới tên Dônyû, dẫn mẹ đi lang thang kiếm ăn. Dọc đường, bà mẹ bị đau, anh chàng gửi mẹ tại chỗ, tìm đường lên kinh đô. Mặc dù bà mẹ được cư dân ở đấy chăm nom và gửi trả về nguyên quán, anh chàng vẫn bị bắt với tội phạm "từ bỏ cha mẹ". Ông quan hỏi ý kiến các nhà Nho cố vấn: trị tội với hình phạt gì? Luật nhà Minh không có chỗ nào nói về mục này, luật lệ bản xứ cũng không có, các Nho gia đề nghị xem trường hợp Dônyû như chỉ là trường hợp người đi ăn xin; Đi ăn xin thì đâu có phải từ bỏ cha mẹ? Huống hồ anh chàng đã bỏ vợ trước đó mấy ngày mà vẫn cung dưỡng mẹ già dù phải đi ăn xin - một thái độ đáng khen, nhất là đối với một người cùng khổ. Vợ thì bỏ, mà mẹ thì vẫn cưu mang: vậy thì anh chàng có ý định bỏ mẹ đâu? Đó là lối lý luận hợp với tinh thần Tống Nho, cái gì cũng dựa vào lí, lí đó luôn luôn hiện diện trong đầu con người và hiển lộ qua ý định đưa đến hành động. Viên quan không bằng lòng với lập luận đó. Dưới mắt ông, bỏ cha mẹ là tội không tha thứ được, dù con đi ăn xin. Ông hỏi ý kiến Sorai. Đây là lần đầu trong đời, ông lập thuyết công khai: "Nếu có một nạn đói xảy ra nơi nào đó, chắc chắn nơi khác cũng có nhiều người đói như vậy. Bỏ cha mẹ là điều không tưởng tượng được. Nếu ta xét hành động của Dônyû là như vậy và phạt tội, ta sẽ tạo ra một tiền lệ mà tòa án các nơi khác sẽ xử theo. Nhưng tôi nghĩ rằng trách nhiệm dồn một người đến cái mức tàn tệ như Dônyû trước hết phải quy cho các quan địa phương từ cấp thấp đến cấp cao rồi lên cao hơn và ngay cả lên cao hơn nữa. Bởi vậy, tội của Dônyû, nếu đem ra so sánh, là không đáng kể". Thượng cấp của Sorai khen phải. Ông cho phép Dônyû trở về nguyên quán và cấp dưỡng thóc gạo để nuôi mẹ. Lời tự sự sau đây của Sorai đáng ghi lại nguyên văn: "Từ thuở bé, tôi đã sống ở nông thôn; năm 13 tuổi, tôi dời đến Kazusa và nếm đủ mùi khổ cực, thấy đủ mọi cảnh. Chính tại vì tôi là dân quê mùa cục mịch, vừa chui ra khỏi nông thôn, nên tôi mới dám nói với quan lớn thứ ngôn ngữ mà người thường không dám bắt chước… Ở mãi trong phủ chúa, người ta tất nhiên nhiễm thói quen sống và suy nghĩ để trở thành những kẻ nói sao cũng được và tựu trung chẳng biết gì. Nghĩ cho kỹ, các quan lớn hoặc các quý tộc sống mãi trong đó chẳng biết gì cả và chẳng bao giờ nói được câu gì khác với các ý kiến nghe đến nhàm tai". Lời tự sự đó hé ra cho thấy ý muốn cải cách chính trị của Sorai. Nhưng quan trọng không kém là cách nhìn vấn đề của ông. Nho gia nhìn mọi việc qua lí, gò bó tư tưởng trên ý định chủ quan đã đưa Dônyû đến hành động để xem hành động đó "đáng khen" hay không. Sorai, đặt vấn đề trên bình diện khách quan, hướng vấn đề qua trách nhiệm chính trị của quyền lực để tha bổng. Đúng hay không, không phải là chuyện để nói ở đây. Chuyện để nói là cái nhìn đã đổi. Phân biệt hai lĩnh vực, khách quan và chủ quan, là một khía cạnh quan trọng trong phương pháp luận của Sorai. Chuyện thứ hai lý thú hơn nữa, gợi hứng cho những tranh luận kéo dài đến thế kỷ 19. Sáng ngày rằm tháng chạp năm 1702, dân chúng ở kinh đô hoảng kinh khi nghe kể 46 cựu samourai của lãnh chúa Akô tấn công tư thất của Kira Yoshinaka, cắt đầu ông này để trả thù cho chủ cũ. Dư luận bàn tán xôn xao về thái độ phải đối xử trong sự việc tối quan trọng này vì nó liên quan đến mối quan hệ phong kiến giữa chủ và tớ, nền tảng của chế độ Tướng Quân. Sự việc cũng động đến cơ sở của Khổng giáo trong chừng mực luân lý đức Khổng đặt ngang hàng quan hệ chủ tớ với bốn quan hệ khác, có tính cách tư, cha-con, vợ-chồng, anh-em, bạn bè. Nho gia bối rối. Phần đông đòi tha cho các samourai. Rốt cuộc, phán quan của Tướng Quân xử như sau: "Nếu ta lý luận theo các lý do đã thúc đẩy các samourai đó hành động, hành động của họ là thích đáng vì họ là những người mà cuộc đời là ngủ trên chiếu, gối trên gươm, báo thù cho chủ, giết kẻ thù của chủ không đội trời chung. Luật sống của samourai buộc họ không được tha thiết với đời sống, cấm họ nuốt nhục. Nếu ta lý luận theo quan điểm của luật pháp, ai làm trái luật đều phải trị tội. Dù các samourai đã hành động theo lời trối trăn của chủ cũ, họ đã vi phạm luật của Nhà nước. Tội đó đáng phải xử trảm để làm gương cho thế hệ bây giờ và mai sau. Hai quan điểm đó [lý do và luật pháp] có vẽ hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng vẫn có thể sống chung với nhau mà không phản lại nhau. Chỉ cần, trên thượng đỉnh, có một minh quân cai trị với những cố vấn minh triết, làm sáng tỏ luật pháp và ban bố sắc lệnh, và ở dưới, có những chư hầu trung thành và những samourai đạo hạnh, xả thân theo tình cảm của mình, sống trọn với ham muốn, rồi sau đó quyết định tuân theo luật pháp, chấp hành bản án xét xử". Một lập luận hàng hai, nhưng cho phép áp dụng cả hai thứ luật: luật của Nhà nước và luật của võ sĩ đạo. Chuyện đáng nói ở đây là sự phân biệt giữa ý định ở bên trong và luật pháp ở bên ngoài báo hiệu sự tan rã của lý thuyết về lí, đặt tất cả trên nền tảng luân lý, xem mọi nguyên tắc của lĩnh vực công đều bắt nguồn ở luân lý cá nhân, tu thân vi bổn, trị nước là hậu quả kéo dài. Sorai cũng kết án như thế, nhưng với một lập luận khác, chặt chẽ hơn: "Sự việc 46 samourai trả thù cho chủ chứng tỏ rằng các người này tôn trọng danh dự giống như bất cứ samourai chân chính nào khác. Hành động trung thực như vậy, đã đành họ đi theo con đường mà bổn phận của họ đã vạch ra, nhưng sự lựa chọn đó chỉ liên quan đến họ, và, tựu trung, đó là một vấn đề có bản chất riêng tư. Đối với luật, thái độ đó không chấp nhận được. Nếu, bây giờ, ta tuyên bố rằng 46 người đó có tội mà lại kết án họ mổ bụng theo luật võ sĩ đạo của họ thì các võ sĩ ấy có sợ gì mà không mổ bụng theo bổn phận trung thành của họ? Có thể biện pháp đó thích hợp nhất với ích lợi chung, nhưng nếu ta vi phạm ích lợi chung bằng những lập luận về ích lợi riêng như thế, rốt cuộc sẽ không thể làm luật gì được cho Nhà nước". Khác nhau chỉ ở câu cuối. Sorai cũng công nhận hành động của các samourai là có cơ sở, nhưng, bằng mọi giá, phải hạn chế sự công nhận đó vào lĩnh vực tư, như là những quan điểm riêng tư, chủ quan, cá nhân, khi các quan điểm ấy trái với ích lợi chung, hoặc khi một luân lý cá nhân tràn vào lĩnh vực công. Phân biệt hai lĩnh vực công và tư, lãnh địa của luân lý và lãnh địa của luật pháp, lãnh địa của tu thân và lãnh địa của trị quốc, tư tưởng của Sorai nhắm vào một điểm căn bản: chính trị hóa Khổng giáo, đặt ưu tiên trên yếu tố chính trị. Từ điểm căn bản này, Sorai dần dần phá vỡ tất cả kiến trúc của tư tưởng Tống Nho, với một phương pháp luận sắc bén, chặt chẽ. Điểm khởi hành của phương pháp đó là: "nghiên cứu những từ cổ và những câu cổ". Sorai gây dựng cả một học phái đi chuyên sâu vào nghiên cứu này. Ông nói: không hiểu chữ cho đúng thì không hiểu Đạo được. Tại sao? Tại vì một ngôn ngữ luôn luôn thay đổi theo thời gian. Nếu ta giải thích những tài liệu xưa theo nghĩa của chữ mà ta dùng ngày nay, có khi ta hiểu sai ý của người xưa. Tinh túy của nghiên cứu, ông nói, là khiêm tốn giới hạn vào việc tìm hiểu từ và sự việc. Đừng quan tâm đến những biện luận tinh tế về bản chất của đời sống. Cụ thể, nghĩa là gì? Là nghiên cứu những định chế và sự kiện văn hóa mà Nghiêu Thuấn để lại cho thời hoàng kim của Tam Đế Hạ, Thương, Chu. Thay vì Tứ Thư như Chu Hy xem trọng nhất, Sorai đặt trọng tâm trên Ngũ Kinh, vì theo ông, Ngũ Kinh diễn tả những định chế và những sự kiện lịch sử. Nghiên cứu cặn kẽ từng chữ, từng câu trong Ngũ Kinh để hiểu rõ cụ thể những định chế của thời thượng cổ, xong rồi mới bắt qua Luận Ngữ để hiểu ý nghĩa thực sự những gì Khổng Tử viết, chứ không phải chỉ hiểu Khổng Tử qua giải thích của người đời sau. Nếu Sorai sống vào thế kỷ 19 ở châu Âu hoặc thế kỷ 20 ở nhiều nước khác, chắc ông sẽ nói: hãy hiểu Mác bằng cách đọc thẳng Mác, chứ đừng đọc qua chữ nghĩa của những người nhân danh ông. Mục đích mà Sorai nhắm đến là gì? Là cắt đứt sự liên tục giữa Thánh nhân và người thường và gạt bỏ dần dần tính chủ quan - mà ông gọi là "minh triết riêng tư" - nhờ chuyển việc nghiên cứu từ lí qua cổ tự, cổ ngữ. Ông lập luận thế nào? Sorai lập luận Trước hết, Đạo chỉ bao gồm những nguyên tắc liên quan đến con người, chứ không phải bao gồm cả trật tự tự nhiên, liên quan đến Nhân, chứ không mắc mớ gì đến Thiên với Địa. Khi người ta nói đến "Đạo Trời" là vì liên tưởng đến "đạo của Thánh nhân", thế thôi, chứ chẳng ai biết Trời là gì. Trời là bí mật, không thể biết được. Thánh nhân sợ Trời, kính Trời, nhưng không bao giờ nói rằng mình biết Trời là gì. Trời không phải là đối tượng của hiểu biết, Trời là đối tượng của kính sợ. Các ông đại Nho giải thích "Trời là một thể với Lí" là tán dóc, là "minh triết riêng tư". Đạo, duy nhất là Đạo của Thánh nhân. Đạo của Thánh nhân là gì? Sorai phân biệt tinh túy với nội dung. Ông nói: Người xây dựng nên Đạo là Nghiêu và Thuấn, mà Nghiêu và Thuấn là vua. Vậy Đạo của Thánh nhân bao gồm duy nhất Đạo của chính quyền, Đạo của Nước. Và bởi vì Nghiêu Thuấn là vua, Đạo của Thánh nhân cũng được gọi là Đạo của các Vua Thời Xưa. Đạo đó có mục đích đem lại thái bình cho Nước. Trong tinh túy, Đạo đó có bản chất chính trị: trị quốc để bình thiên hạ. Chính trị tách rời với luân lý. Chính trị tách rời với tu thân. Dây liên kết tu tề trị bình bị chặt đứt. Còn nội dung là gì? Là lễ, nhạc, luật và nghệ thuật cai trị, những yếu tố mà các Vua Thời Xưa đã sáng chế; Ngoài ra không có gì khác. Đạo là khách quan và cụ thể. Lễ, nhạc, luật, và nghệ thuật cai trị là những định chế và sự kiện văn hóa của thời thượng cổ, không có liên quan gì đến bản tính con người. Nếu ta ăn mặc như Nghiêu, nói năng như Nghiêu, cư xử như Nghiêu thì ta là Nghiêu, chẳng cần nhờ vả gì đến lý thuyết nhân chi sơ tính bản thiện. Vì Đạo không có liên hệ ràng buộc gì của luân lý, bàn luận về tính thiện, tính ác là tốn nước bọt. Vậy thì nền tảng của Đạo là sáng chế của các Thánh nhân hoặc của các Vua Xưa. Tuân theo Đạo của các Vua Xưa là thiện, không tuân theo là ác. Đến cái mức này, tôi nghĩ, các Vua Thánh nhân đã được Sorai siêu việt hóa, thần linh hóa, nâng lên ngang Trời, thành đối tượng tôn giáo. Bởi vậy, trái với Chu Hy cho rằng con người có thể tu thân để trở thành thánh nhân, Sorai quả quyết ta có thể học Thánh nhân nhưng ta không bao giờ thành Thánh nhân. Thánh nhân tách biệt với con người, một bên là tối hảo, một bên là đầy nhân dục, không thay đổi được. Thánh nhân là tối hảo, nên các định chế của họ cũng tối hảo. Nhưng những định chế đó không phải là những nguyên tắc bất biến. Thánh nhân siêu việt, nhưng những nguyên tắc đó không siêu việt mà, trái lại, bị điều kiện hóa theo thời gian và không gian. Hiểu như vậy thì mới hiểu được lịch sử. Lịch sử không phải là một chuỗi dài thưởng phạt, mà là sự kiện. Sự kiện là khách quan, bình chú là chủ quan. Chủ quan thì y theo nguyên tắc. Sự kiện thì thay đổi. Ngôn ngữ cũng vậy. Định chế cũng vậy. Từ đó, Sorai bắt qua chuyện học. Ông nói: thuở đầu, kiến thức bao gồm việc học Đạo của các Vua Xưa để trị quốc. Đạo của các Vua Xưa là Ngũ Kinh. Bây giờ, học còn là quan sát càng rộng càng tốt các sự kiện, không những lịch sử mà tất cả các lĩnh vực khác, văn chương, luật pháp, quân sự, kể cả âm nhạc, nghĩa là những gì liên quan đến văn hóa. Ông gọi lĩnh vực thứ nhất là công, lĩnh vực thứ hai là tư. Quan niệm của Sorai về công và tư khá độc đáo, cần nói rõ thêm để hiểu ý muốn chính trị hóa Khổng giáo đã nêu lên từ đầu. Câu chuyện sau đây làm sáng thêm vấn đề: Hai samourai thông đồng với nhau để lật đổ chế độ tướng quân. Việc bại lộ vì anh này đi tố cáo anh kia với nhà chức trách. Thưởng công cho anh đi tố cáo là việc mà dư luận phản đối, vì ai cũng cho anh này là hèn, sao không tự tay chém phứt cái đầu của anh kia mà phải mượn tay Nhà nước. Sorai không nghĩ thế. Ông thấy một duyên cớ khác: nếu anh ta tố cáo vì trung thành với Nhà nước thì sao? Ông nói: trong việc cai trị một nước, nhiều khi những bổn phận riêng tư phải tuân theo những nguyên do hợp lý, nhưng nếu những bổn phận đó trái với trật tự công đến mức vi phạm trật tự công thì không được viện dẫn bổn phận riêng tư. Trong chuyện vừa kể, cũng như hai chuyện trước, "công" có nghĩa là chính trị, xã hội, cái gì ở bên ngoài; "tư" là cái gì ở bên trong, là cá nhân. Hiểu như vậy là đồng nghĩa với cách hiểu hiện nay, nhưng không dễ gì tư tưởng "tiền hiện đại" đi đến chỗ đó. Trước hiện đại, người ta không thấy gì chống đối, phân biệt, giữa công và tư. Ông quan, đã là phụ mẫu chi dân thì ông làm gì cũng vừa là quan vừa là phụ mẫu. Cả cái nước cũng là của ông. Phân biệt giữa công và tư, và giải phóng cho "tư", là công trình của hiện đại. Trong "tiền hiện đại", không phải người ta hoàn toàn không có khái niệm gì về công và tư, nhưng người ta hiểu một cách khác, dựa trên luân lý. "Công" là tốt, là thiện. "Tư" là xấu, là ác. Trong Tống Nho, "công" là lí, "tư" là nhân dục. Sorai cũng đặt "công" trước "tư". Nhưng ông không bác bỏ "tư". Người cầm quyền cũng có quyền có những quan tâm tư. Nhưng người cầm quyền chính đáng phải đặt quyền lợi công trên quyền lợi tư. Chừng đó, tư tưởng của Sorai đã là cách mạng. Càng cách mạng hơn nữa khi ông bênh vực những cảm thụ tự nhiên của con người, chống lại luân lý gò bó của Khổng giáo. Từ đó, sự phân biệt công/tư trong Sorai đưa đến sự phân biệt giữa quy tắc và tính tự nhiên (norme/nature). Ông viết: "Các đại Nho hiện tại say sưa với nguyên tắc lí, các ngài mở miệng ra là toàn luân lý, bổn phận, thiên mệnh, nhân dục. Mỗi khi nghe vậy, tôi buồn nôn đến nỗi phải chạy đi nơi khác cầm ống sáo mà thổi". Đừng thay đổi tính tự nhiên của con người, phát triển cá tính của mỗi người, giải phóng cá tính đó ra khỏi luân lý chi hồ dã giả, học phái của Sorai thu hút không biết bao nhiêu là trăm hoa trong hội trường của ông. Sau lịch sử, sau chính trị, đến lượt văn chương cũng được ông giải phóng ra khỏi luân lý. Kinh Thi, theo ông, không cốt khuyến thiện trừng ác. "Có rất nhiều bài thơ nhá nhem đạo đức trong đó. Những bài thơ ấy, nếu Chu Hy bình chú là đã được sáng tác để trừng ác, thì tôi quả quyết ngược lại rằng đó là những bài thơ sáng tác để đưa vào đường trắc nết hư thân. Tuyệt đối không có gì khác giữa những bài thơ trong Kinh Thi và những tác phẩm về sau. Phải đánh giá những bài thơ trong Kinh Thi như là những bài thơ và chỉ là những bài thơ". Thơ là để diễn tả tình cảm của con người, do đó thuộc về lĩnh vực tư. Tóm lại, trên tất các vấn đề căn bản, Sorai phá vỡ thành trì Khổng giáo tuy vẫn ở trong Khổng giáo. Một tư tưởng trổi dậy như vậy, được trí thức hưởng ứng, gây nên thanh thế, tất phải có cơ sở xã hội. Cơ sở xã hội này tất không phải nền tảng trên đó triều đại Tokugawa xây dựng quyền hành lúc đầu. Vậy đó là cơ sở xã hôi gì? Cơ sở xã hội của tư tưởng Sorai Trong 80 năm đầu củng cố quyền lực, ổn định xã hội, tiếp theo một thời gian cực loạn, triều đại Tướng Quân Tokugawa đã lấy Tống Nho làm hệ ý thức, cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài, biệt lập với thế giới, bế môn tỏa cảng. Xã hội được ổn định thật đấy, nhưng với thời gian xã hội nào mà không biến chuyển? Trước hết là biến chuyển về văn hóa. Tướng Quân thứ năm, Tsunayoshi, ra sắc lệnh buộc các samourai phải học văn chương chữ nghĩa, ngoài phép tắc lễ nghĩa trên dưới. Ý của Tướng Quân là dựng lên một chính quyền nho sĩ. Khổng Miếu được xây ở Phủ chúa, Edo, giáo dục được mở mang, thơ phú được diễn giảng khắp nơi, chúa tôi hồ hỡi đàm luận chữ nghĩa trong các hội trường, nhà nhà vang dội thánh điển Khổng Mạnh. Được Tướng Quân yêu chuộng, khuyến khích, thơ và nghệ thuật phát triển rất nhanh, trổ ra thành nhiều trường phái độc lập, tranh đua nhau phản ứng lại truyền thống. Bashô xuất hiện trong thơ. hài cú phô sắc. Văn chương bắt đầu có dấu hiệu hiện thực với Saikaku mô tả thế giới ăn chơi ở Edo. Kịch nghệ vụt trưởng thành, mở ra cho giới thị dân có tiền thú tiêu khiển mới. Hội họa khoác áo tươi mát, cởi mở hơn, đáp ứng thị hiếu mới của giới ăn chơi. Tóm lại, trong mọi lĩnh vực của văn hóa, tính sáng tạo nảy nở, đơm bông kết trái. Những hình thái văn hóa mới đó đem vui đến cho đời sống trở nên thoải mái hơn của dân thị thành, nhưng rốt cuộc lại bị dân thị thành biến đổi, và dân thị thành ở đây, đặc biệt là ở ba thành phố lớn nhất, Edo, Kyôto, Osuka, là giai cấp mới đang lên, nhờ kinh tế mở mang. Có tiền, họ phung phí tiền vào những chuyện ăn chơi quá lố, văn hóa rốt cuộc rồi cũng lố lăng. Phụ nữ diện rất sang, bắt chước các cô gái ở khu ăn chơi, áo quần đắt tiền từ ngoài đến trong, phấn son lược là cực kỳ đỏm đáng, trương của trên khắp thân hình, mệnh phụ phu nhân ngày xưa nằm mơ cũng không dám thế. Giới samourai bắt chước theo. Trước, các vị ấy không có cả chiếu trải nhà. Bây giờ, nhà cao cửa rộng, áo lụa xênh xang, đầu chải dầu, gươm nạm vàng bạc, kẻ dưới ăn diện không thua bậc trên, kể cả các chú võ sĩ trẻ hầu hạ trong các gia trang, xa hoa hỗn tạp. Dưới đã vậy, trên khỏi nói. Cách ăn, cách ở, cách đầy tớ gia nhân hầu hạ, cung phụng, bái rước mỗi khi ra đường, nghi lễ đám cưới, đám tang hoành tráng không thua gì chốn cung đình, nhất cử nhất động tiền vung như nước. Các chỗ ăn chơi phồn vinh như trúng số, ban ngày là thiên đường, ban đêm là lạc cung, giới võ sĩ cũng lân la đến nếm mùi, cả trên lẫn dưới. Ăn chơi đã trở thành mục tiêu của đời sống, mọi quan tâm khác, nhất là chính trị, tan biến trong đầu, đầu ai còn tơ tưởng đến đổi mới với cải tổ, tướng quân chỉ cần kín đáo tặng một nhát gươm. Nhất trí, võ sĩ và giai cấp thị dân mới giàu cùng vui chơi, cùng hưởng thụ một thời đại thanh bình, văn hóa phát triển, chính trị ổn định, đỉnh cao nhất của triều đại Tokugawa. Nhưng đó là bộ mặt phồn vinh ở bên ngoài. Ở bên trong, biến đổi cứ âm thầm tiến tới, bước từng bước chậm nhưng chắc nịch, phá hủy dần dần quyền lực của chế độ phong kiến Tokugawa dựa trên sự phân chia giữa giai cấp võ sĩ với ba giai cấp kia. Bắt đầu là biện pháp thả lỏng việc phong đất cho chư hầu và tình trạng các võ sĩ tập trung về thành phố. Đặc điểm của chế độ phong kiến là kết hợp quyền lực và sở hữu đất đai. Bây giờ, tách rời quyền lực ra khỏi việc quản trị trực tiếp đất đai tức là đào mồ cho cả chế độ. Anh chư hầu được phong đất còn có chút liên hệ với đất thông qua đất được phong và phẩm vật phải cống cho thượng cấp, nhưng bây giờ, đối với phần đông giới võ sĩ, toàn là võ sĩ cấp dưới cả, chút liên hệ với đất đai đó chỉ còn tính cách rất tượng trưng qua việc hưởng lương trên thóc của nông dân nộp. Chưa hết, Nhà nước đã bắt đầu đúc tiền, kinh tế bắt đầu đi vào kinh tế tiền tệ, mà tiền thì càng ngày càng phải đúc thêm để trả lương cho các samourai càng ngày càng tập trung về kinh đô và thành phố. Đời sống của các samourai lúc trước dựa trên lợi tức của đất, vững chắc, bây giờ dựa trên tiền càng ngày càng mất giá. Đến nhà thổ, đâu có vác thóc đi theo để trả cho các em? Tiền đâu để xài sang? Tướng Quân Tsunayoshi hào phóng hậu đãi chư hầu và võ sĩ được một thời phồn vinh, nhưng sau ông, khó khăn về kinh tế và tiền tệ trở thành bất trị, ngân sách Nhà nước cứ chi bội thu. Các Tướng Quân không có biện pháp gì khác ngoài việc cứ đúc thêm tiền, cả tiền vàng tiền bạc. Càng đúc, giá càng lên, samourai càng cạn túi, tiền càng đổ xô chui vào hầu bao của giới thương nhân. Võ sĩ đem thóc ra đổi tiền, ban đầu đổi ra tiền vàng, sau tiền vàng mất giá, đổi ra tiền đồng để tiêu hàng ngày. Gạo cơm mắm muối ngày nào cũng chừng ấy, không giảm, mà tiền đồng thì khan, có nghĩa là tiền đồng lên giá, võ sĩ càng túng. Các Tướng Quân giải quyết bằng cách đúc tiền "nặng", giá gấp mười lần đồng tiền cũ. Nhưng dân không ưa tiền ấy, không chịu dùng, chính quyền ép mấy cũng không được, dọa nạt cũng bằng thừa. Đến một lúc thì chuyện lạ ắt phải xảy ra: dân không nghe nữa. Tướng Quân chết giữa cơn hỗn loạn tiền tệ, nào vàng, nào bạc, nào đồng mà tỷ hối cứ thay đổi bất thường, chưa kể vàng bạc cũng biết tìm đường vượt biên ra khỏi nước, định cư nơi nào đắt giá hơn. Tình trạng bất lực kéo dài cho đến Tướng Quân thứ 8, Yoshimune (1684-1751). Ông này áp dụng một chính sách khắt khổ, giảm chi, giảm tiêu, từ Tướng Phủ đến dân chúng. Nhưng tình trạng vẫn không khá, Nhà nước phá sản, không đủ tiền để trả lương cho chư hầu. Rốt cuộc, để cứu nguy, ông phải nuốt nhục dùng đến một biện pháp cùng đường: buộc các chư hầu (daimyô) có một lợi tức bằng hoặc cao hơn 10 000 koku phải biếu ông một "tặng phẩm bằng thóc" tương ứng với 1% của lợi tức. Ngược lại, ông miễn cho họ một nửa nghĩa vụ phải ở kinh đô. Chế độ phong kiến ở Nhật buộc chư hầu phải thay đổi chỗ ở, một nửa thời gian ở địa phương, một nửa thời gian ở kinh đô. Bây giờ cột trụ phong kiến ấy sụp đổ (từ 1722 đến 1730) chỉ vì khó khăn ngân sách. Họa vô đơn chí, khổ vì chuyện tiền, võ sĩ còn khổ vì chuyện thóc. Giá thóc cứ tụt, rồi đến năm 1728 thì rơi tõm vì… quá được mùa. Nhưng giá gạo cơm mắm muối thì không tụt mà cứ thăng thiên. Tiền thì túi rỗng mà ăn chơi xả láng thì quen thói, võ sĩ không trở về lại được nữa với thời yên ngựa thanh gươm, dần dần lệ thuộc vào giới ngân hàng, giới cho vay, phất lên giàu sụ nhờ khai thác tỷ hối lên xuống giữa vàng và bạc, nhờ giá hàng của vật phẩm tiêu dùng lên vọt như pháo bông. Đồng thời, chính sách xây nhà, nhất là sau những thiên tai, tạo ra bổng lộc béo bở cho các nhà thầu, cho các tay buôn gỗ. Chưa bao giờ giới thương gia thượng phong đến thế! Trật tự trên dưới giữa hai giai cấp, võ sĩ và phú thương, đảo ngược, trời nằm dưới, đất ở trên. Chư hầu cao cũng như chư hầu thấp cúi rạp đầu trước phú thương để xin ân huệ, xin tha những lỗi đã phạm, xin khất nợ, xin vay thêm tiền để tiếp tục xa hoa. Trước, võ sĩ xưng hô trịch thượng với thị dân; bây giờ, gặp phú thương đều phải gọi "ngài" như nhau, ngài này với ngài kia, bình đẳng. Trước mắt phú thương, khách hàng là khách hàng, ai cũng như ai, gươm đeo bên hông hay không cũng vậy. Họ nói: võ sĩ có gươm, ta đây có gái geisha, ai làm ai lác mắt? Họ lại nói: gươm chém đầu được, nhưng chém tiền thử coi! Tiền vào là gươm tè ra nước! Tuy nhiên… tuy nhiên cũng phải nói điều này: tất cả giới phú dân vừa phất lên ấy đều ăn bám vào quyền lực phong kiến, tất cả đều là "tư bản thương gia" chẳng có khả năng gì sáng tạo ra những phương thức sản xuất mới, phần đông làm giàu chỉ nhờ cho vay nặng lãi một cách hợp pháp. Nương vào quyền lực phong kiến mà phất, phất lên nhờ hút máu từ thuế của nông dân nộp cho lãnh chúa, kiếp giàu của họ rất mong manh. Họ ý thức chứ: Tướng Quân nổi giận là họ đi đời. Cho nên, ăn chơi cho hả là triết lý sống, vất tiền vào thanh lâu như vất rác, yến tiệc hơn cung đình, xe ngựa lầu son tang bồng phỉ chí. Tất cả giới phú thương đó không tạo ra nổi cái bóng mờ của "giai cấp trung lưu", "bourgeois", đầu óc chẳng có chút lý tưởng gì tương tự giới doanh nhân đồng thời lúc ấy ở bên kia trời Âu như Weber mô tả. Sĩ nông công thương… vị thế tương quan giữa sĩ và thương là như vậy. Còn cột trụ thứ hai của chế độ phong kiến - nông dân - thì sao? Thì âm thầm chịu đựng, như chịu đựng từ bao thế kỷ. Từ đầu, các Tướng Quân Tokugawa đã nghĩ ra mọi biện pháp để thu thuế, thuế là cơ sở kinh tế của quyền lực họ nắm. Mọi biện pháp đều tốt dù xâm phạm vào đời sống riêng tư, ăn uống mặc ngủ… Nông dân phải ăn thế nào? Ăn ngũ cốc hạng bét, ít gạo. Uống làm sao? Cấm uông sakê, cấm uống trà. Một trà một rượu, hai thứ ấy cấm. Mặc sao đây? Cho phép mặc áo bông, nhưng cấm đụng đến vải sang, dù để làm cổ áo hoặc thắt lưng cho đẹp. Trồng trọt thế nào? Để dành đất mà trồng ngũ cốc, không được trồng thuốc lá. Còn vợ con phu thê, cái thứ ba lăng nhăng ấy, tha hồ chứ? Luật dạy: được rẫy vợ khi vợ không săn sóc chồng đàng hoàng, khi vợ có thói uống trà nhiều quá, thích vui chân dạo chơi nơi này nơi nọ. Ngược lại, dù vợ xấu như ma lem mà sửa túi nâng khăn tươm tất thì phải thương yêu hết mực. Tất cả những cấm kỵ răn bảo đó đều được luật quy định. Và luật phê: như thế thì nông dân sẽ có một đời sống yên lành, vô tư, sau khi đã làm xong nghĩa vụ nộp thuế. Giả dụ như có anh nông dân nào chịu cường hào ác bá không nổi, muốn bỏ làng mà đi, qua sống làng khác, được chăng? Được chứ! Thoải mái, sau khi đã nộp thuế không thiếu một hạt thóc. Ấy, nông dần âm thầm… Nhưng có cái gì mà không biến đổi, kể cả cái âm thầm chịu đựng của anh nông dân? Kinh tế thương mại, kinh tế tiền tệ phát triển vào tận nông thôn, ảnh hưởng lên đời sống của nông dân. Việc thu thuế càng ngày càng khe khắt vì giới võ sĩ càng ngày càng nghèo túng. Kinh tế đổi chác, đổi thóc lấy hiện vật nhường chỗ cho tiền, khí cụ trao đổi. Nhưng ảnh hưởng kinh tế, dù lớn, cũng không lý thú bằng ảnh hưởng văn hóa, cái thứ văn hóa ăn chơi xa xỉ của phú dân thành thị. Bị siết chặt đủ thứ trong đời sống riêng tư, anh nông dân rướn cổ tìm chút không khí tươi mát bằng cách bắt chước ăn chơi ở thị thành, mặc cho Tướng Quân ban thêm sắc lệnh nhắc nhở bổn phận ăn mặc ngủ nghỉ. Nông dân gánh trên vai hai thúc bách mâu thuẫn: vai này nhắc thuế nặng hơn, vai kia xúi dại ăn chơi chút đỉnh. Hậu quả tất nhiên là thế: giữa nông dân và lãnh chúa "địa chủ", hận thù chồng chất. Đã thế, thâm nhập của tư bản thương mại vào nông thôn tất phải đưa đến việc thu hút đất đai vào quy trình tiền tệ. Trên nguyên tắc, đất đai trồng trọt cấm không được mua bán; nhưng luật đó bị cả trăm biện pháp vô hiệu hóa. Rốt cuộc, một mặt, trên nguyên tắc, đất bị tập trung; một mặt, trên thực tế, đất bị phân tán. Nông dân, cùng đường, chỉ còn có cách duy nhất thôi, quá quen thuộc trong lịch sử, là nổi loạn. Từ 1704 đến 1735, đếm sơ sơ 40 vụ nổi loạn, gấp đôi so với trước. Đến 1750 thì tình trạng nông dân bi đát đến mức đe dọa cả chế độ phong kiến. Bức tranh xã hội kể trên đưa đến nhận định gì? Đàng sau lớp son tráng lệ của văn hóa thời Tsunayoshi (thường gọi là văn hóa Gensoku) dâng lên, ở thành phố cũng như nông thôn, một thái độ chống đối, nơi này tiêu cực, nơi kia tích cực, tất cả hợp lại thành nước thủy triều làm nứt đê, đẩy chế độ phong kiến đến chỗ phải xét lại. Nhưng chống đối, tiêu cực hoặc tích cực, đều không đủ mạnh để đập vỡ chế độ. Dù lung lay, phong kiến Tokygawa vẫn tồn tại. Nói cách khác, đây đúng là tình trạng chuyển tiếp, giao thời. Đúng là bối cảnh xã hội để Sorai "chính trị hóa" Khổng giáo. Thật vậy, nếu xã hội vững chắc, ổn định, một tư tưởng xét lại sẽ không có chỗ đứng, tâm lý con người lúc đó ai cũng thấy lạc quan. Chỉ khi nào xã hội biến đổi, giai cấp thống trị cảm thấy bị đe dọa, khi đó một vài đầu óc nhạy bén mới cảm thấy có khủng hoảng, mới đặt vấn đề tư tưởng chính trị lên hàng đầu. Nhưng, mặt khác, nếu xã hội tham nhũng, nhầy nhụa, xáo trộn đến mức vô phương cứu chữa thì hoạt động trí thức cũng bầy nhầy, nhem nhuốc, lấp liếm rỗng tuếch trong phê phán bằng tiếu lâm với ngụ ngôn. Chính ở giữa hai tình trạng đó, hai giới hạn đó, một tư tưởng chính trị có tính chiến đấu, có khả năng đốp chác với thực tại, mới có thể trổi dậy. Sorai đúc kết được tư tưởng của ông, chối từ lạc quan của Tống Nho, "chính trị hoá" Khổng giáo", chính là nhờ ông đã sống ở giữa hai giới hạn ấy. Sorai là "nhà tư tưởng về khủng hoảng" lớn đầu tiên mà xã hội Tokugawa đã sản xuất. Bênh vực ông hay chống lại ông, trí thức sau ông đều là con đẻ của ông, bởi vì đều chịu ảnh hưởng vô cùng lớn của ông, nhất là trên mặt phương pháp. Sau Sorai: Norinaga Sau Sorai, một học phái khác xuất hiện, chế ngự thế giới trí thức của Nhật: học phái "nghiên cứu quốc học" mà chủ xướng là Motoori Norinaga (1730-1801). Hai ông khác nhau như hai thái cực, nhưng ông này có thể được xem như sợi dây nối dài của ông kia trên mặt lập thuyết. Học phái "nghiên cứu quốc học" đả kích Khổng giáo tận cội rễ, thay thế bằng việc đề cao lịch sử và văn học của Nhật. Họ nói: Thánh nhân hoặc Vua Xưa của Tàu là Vua và Thánh nhân của Tàu, bởi vậy giáo huấn của họ chẳng thích hợp gì để hiểu đặc điểm riêng của lịch sử Nhật. Thay vì Thánh ấy và Vua ấy, Norinaga đề cao các vị thần đã tạo ra nước Nhật. Thay vì thánh điển của Tàu, ông đưa ra thi và thư, đầy diễm lệ, đã kể chuyện nguồn gốc, đã sinh thành ra văn hóa của nước ông. Ta có thể đoán trước: học phái "nghiên cứu quốc học" góp phần tạo ra cơ sở ý thức hệ cho phong trào phục hưng lại quyền của Vua đã bị Tướng Quân tước đoạt, và, sau đó, của chủ nghĩa dân tộc đã đưa nước Nhật đến chiến tranh. Chuyện đó không nói ở đây. Ở đây chuyện để nói là: qua tư tưởng của Sorai và Norinaga, chính trị, lịch sử và văn chương, trước đây bị Khổng giáo buộc chặt thành hệ thống, bây giờ bị tách biệt ra với nhau. Từ sự tách biệt đó, ý thức về hiện đại manh nha. Tuy vậy, lịch sử vẫn luôn luôn đòi hỏi phải cắt nghĩa. Phải giải thích cho bằng được ý nghĩa ẩn nấp sau các sự kiện. Không còn là tấm gương luân lý nữa thì nó là cái gì? Cái gì còn giữ mãi hoài niệm về một quá khứ hài hòa đã mất? Ước muốn tìm lại sự thống nhất nguyên thủy giữa quyền lực và lễ nghi, sự gần gũi giữa người và thần, sẽ đưa đến việc thành lập chính quyền Minh Trị, đặt cơ sở trên cá nhân của Thiên Hoàng, người nắm mọi uy quyền, người có nguồn gốc thần linh, như thuở trước. Nhưng trước khi đi đến kết luận đó, hãy trở về với mối liên hệ giữa Sorai và Norinaga. Có thể nói là có liên hệ không, khi Norinaga chỉ trích học thuyết của Sorai là vẫn còn nô lệ tư tưởng của Tàu? Có thể. Đó là liên hệ vừa đối nghịch vừa tiếp nối. Trước hết là về vấn đề thần đạo ở Nhật. Sorai không nói gì về thần đạo. Và đúng là ông đã nâng các Thánh nhân và các Vua Xưa của Trung Quốc lên hàng thần thánh, đối tượng của tín ngưỡng. Học phái của Norinaga nói: hạ bệ Lí, nhưng sùng bái Thánh nhân của Tàu, như vậy là Sorai mới đi được nửa đường. Huống hồ, cái nhìn của Sorai về Vua Xưa tựu trung vẫn là cái nhìn chính trị: một uy quyền chính trị đâu có ví được với uy quyền của thần linh? Uy quyền chính trị bị hạn chế trong thời gian và không gian, thời gian đó là thượng cổ, không gian đó là nước Trung Hoa. Cực kỳ nghiêm khắc, họ viết: "Người ta gọi Đạo là những gì do Thánh nhân lập ra. Như vậy, cái mà ta gọi là Đạo của người Trung Hoa, trong ý định sâu thẳm nhất, giới hạn vào hai việc: một là đi xâm chiếm lân bang, hai là không để cho lân bang xâm chiếm". Chính trị chẳng phải là như vậy sao? Lý luận của Sorai bị lật ngược. Sorai nói: Đạo là tuyệt đối vì đó là sáng tạo của Thánh nhân. Phái Norinaga nói: chính vì đó là sáng tạo của Thánh nhân nên nó chỉ có giá trị với người Trung Quốc. Về Thần đạo, hồi đầu thời Tokugawa, Khổng giáo được nâng lên bậc nhất, các vị Nho gia đòi triệt hạ Phật giáo, và cách triệt hạ tinh tế nhất là giải phóng Thần đạo ra khỏi ảnh hưởng Phật giáo và ghép tín ngưỡng này vào Khổng giáo. Điển hình là giải thích sau đây của một Nho gia đầu đàn (Nobuyoshi): "Thần đạo của Nhật cũng sửa tâm con người, cũng có ý định tối hậu là trải lòng thương xót ra đến mọi người, cũng thực hiện lòng nhân. Đạo của Nghiêu Thuấn cũng đáp ứng ý định đó. Điều đó, ở Trung Hoa thì gọi là Đạo Khổng, ở Nhật Bản thì gọi là Thần đạo: tên gọi khác nhau, ý định chỉ một". Sorai không chấp nhận sự cưỡng hôn đó. Đạo của Thánh nhân là Đạo của Thánh nhân; Thần đạo không việc gì mà xía vào. Người Nhật thờ phụng thần linh của nước mình là phải, Thánh nhân cũng muốn thế. Và ông đóng cửa, không cho Thần đạo len vào hội trường của ông. Ở hai thái độ đối nghịch, Norinaga tiếp nối Sorai: một bên không muốn Khổng giáo của Trung Hoa làm bẩn Thần đạo của Nhật; một bên không muốn Thần đạo xen vào Khổng giáo. Đi xa hơn nữa, Norinaga phục hưng lại cái mà ông gọi là "Thần đạo nguyên thủy", giải phóng Thần đạo ra khỏi triết lý Khổng giáo: "Thần linh, trong cái nước kia - nghĩa là Trung Hoa - chỉ là một nguyên tắc trống rỗng, chẳng có chút bản chất gì; thần linh trong nước ta là tổ tiên của Thiên Hoàng, của chúng ta, chẳng liên hệ gì đến cái nguyên tắc trống rỗng ấy cả". Mối liên hệ nối dài thứ hai giữa Sorai và Norinaga liên quan đến cái nhìn về lịch sử. Sorai, như đã nói, bác bỏ lối đọc lịch sử qua lăng kính đạo đức. Norinaga, đi xa hơn, bác bỏ luôn cách đọc lịch sử như tuân theo những nguyên tắc siêu nhân loại, kiểu thiên mệnh, ý muốn của Trời, Đạo, thần linh… Ông trích ra nhiều ví dụ cho thấy kẻ ngay bị diệt, kẻ gian được tôn. Bởi vì thiện ác, ông nói, không có ăn nhậu gì với tư cách thần linh. Trong Thần đạo, có thần ác (Magatsubi no kami) chuyên môn mang tai họa và bệnh tật, và ngay đến cả thần thiện cũng không phải chỉ làm toàn chuyện tốt. "Các ông Khổng Nho nói cái gì cũng phải hợp lý, cho nên các ông không để cho các thần thiện dính một chút bụi dơ. Còn ta, ta phải biết rằng thần linh chỉ là những người cao hơn người thường mà thôi". Noranaga cũng từ khước đọc lịch sử theo lối hoài cổ, lý tưởng nằm ở sau lưng, xa tít tận thời Nghiêu Thuấn, lịch sử càng đi càng tiến đến chỗ xấu hơn. Cái lối ngoái cổ lại đàng sau để nhìn, ông nói, và nhìn theo một nguyên tắc chỉ đạo đã vạch sẵn, là lối suy nghĩ của Tàu. Chả nhẽ ở thời Nghiêu Thuấn cái gì cũng tốt cả? Sao lại bảo rằng sau thời Tam Hoàng thì con người bị dơ bẩn vì ham muốn? Chả nhẽ con người dưới thời Nghiêu Thuấn chẳng ai ham muốn cả sao? Từ đó, mối liên hệ nối dài thứ ba liên quan đến việc giải phóng tính tự nhiên của con người bị Tống Nho cho mang gông dưới khái niệm "nhân dục". Sorai đã mở đầu bằng cách chặt đứt tu thân với trị quốc, tu thân là tư, trị quốc là công. Norinaga đi xa hơn: không những ông chấp nhận tính tự nhiên mà còn chính đáng hóa nó. Đạo không phải do học mà biết; nó nằm trong tim chân thật của con người ngay từ khi sinh, trái tim chân thật là trái tim có khi sinh ra, dù tốt hay xấu. Tuy vậy, ông nói tiếp: "Con người ở những thời đại về sau, vì cứ mãi mê hướng theo tư tưởng của Tàu, và do đó mất đi trái tim chân thật, cho nên không còn biết Đạo là gì nữa nếu không học". Vậy thì Đạo là tính tự nhiên của "ham muốn trong con người". Một trong những tác giả sáng chói đầu thời Minh Trị (Tsuda Manichi) tiếp nối ý tưởng của Norinaga theo một quan điểm tiến bộ hơn: "Tại sao chối bỏ, không nhận ham muốn của con người cũng là thành phần của Lí? Hoài bảo thấu hiểu bản chất của sự vật, ý muốn tìm tòi cái gì mới, hưởng thụ tự do, khao khát hạnh phúc: tất cả những đam mê đó, tiêu biểu cho những ý muốn cao đẹp nhất của con người, chẳng phải là cần thiết cho bản tính của con người hay sao?Tất cả chẳng hợp lại để bảo đảm cho tiến bộ hay sao?" Không ở đâu sự giải phóng đó hiển lộ rõ bằng trong quan niệm về văn chương. Sorai giải phóng thơ ra khỏi luân lý và chính trị. Kinh Thi cũng giống như thơ Nhật, chẳng có chỗ nào liên quan đến tốt xấu, cũng chỉ là thở than và reo vui. Có điều là hiểu thơ tinh tế thì có lợi cho ai ngồi trên chóp bu thiên hạ. Norinaga cũng nói vậy: "Mục đích của thơ chẳng phải là để tu thân trị quốc gì cả, chỉ là để diễn tả tình cảm của trái tim… Ba trăm bài thơ trong Kinh Thi yểu điệu thật, cũng chỉ diễn tả tình cảm thôi, cho nên, giống như lời nói thốt ra từ miệng các cô thiếu nữ, thơ ấy cũng vẩn vơ, chẳng có gì sâu sắc". So sánh thơ Nhật với thơ Tàu, ông cho thơ Nhật không thua. Đi xa hơn, ông trân trọng đặt thơ vào vị trí trung tâm của Thần đạo, cho rằng hồn của thơ (mono no aware) cũng là hồn của chính Thần đạo. Đạo của các thần, ông viết, chẳng những không vướng chút vết tích nào của lối biện luận tăn măn tỷ mỷ trong Khổng giáo, mà còn tràn đầy phong phú, diễm lệ. Cái duyên dáng ấy tạo ra hồn thơ vô cùng thích hợp với Đạo ấy. Trường phái của Norinaga xem hồn thơ đó trong thơ của Nhật có thể mang đến bình yên và hài hòa cho con người và cho xã hội. Quan niệm đó đưa đến bao nhiêu tranh cãi: vậy thơ cũng có chức năng xã hội và chính trị hay sao? Vậy thơ là thuộc lĩnh vực công hay tư? Vấn đề này lớn quá, không bàn ở đây. Chỉ trích thêm một câu của Norinaga để chấm dứt: "Lửa tự nó nóng, nước tự nó lạnh. Không thể hiểu được vì nguyên tắc gì mà chúng nóng lạnh như thế. Để làm cho thiên hạ tưởng rằng ta có thể biết nguyên nhân, người ta bày đặt ra âm dương, thái cực, rồi đưa thái cực lên hàng thánh của tất cả các thánh, hoặc thiêng liêng hóa những đối cực, lí là lửa, phương đông, mùa xuân, khôn là nước, phương tây, mùa thu, khiến cho ai muốn nói cái gì cũng được, tả cũng được, hữu cũng xong. Tát cả những chuyện đó chỉ là đầu óc vặn vẹo do tưởng tượng của các ông thánh Trung Hoa mà ra". ♦ ♦ ♦ Tôi có hai điều muốn nói trước khi kết thúc: Trước hết, mục đích của tôi không phải là để tán dương hai nhà học giả Nhật. Không phải cái gì các ông ấy nói tôi đều tán thành, kể cả về mặt cấu trúc tư tưởng. Tư tưởng của Sorai rất vững chắc trên lý tính, rất hợp với lý tính, rất rationnel. Mà ai cũng biết, rationalisme là một đặc tính thiết yếu của hiện đại. Thế nhưng, từ tính hợp lý trong phương pháp, lập luận của ông đi đến tính bất hợp lý, irrationnel, trong kết luận, khi ông đặt lòng tin tuyệt đối vào các Thánh nhân. Người đọc bỡ ngỡ tự hỏi: thay Trời Phật bằng Thánh nhân, tư tưởng triết lý có cao hơn lên hay thấp xuống bớt? Norinaga lại càng đi xa hơn trong tính bất hợp lý: phục hưng lại Thần đạo, thần quyền của Thiên Hoàng, tin tưởng tuyệt đối vào các thần trong đạo ấy, thế chẳng phải là thay thế một tín ngưỡng bằng một tín ngưỡng khác chẳng phổ quát gì hơn? Cả hai ông nhiều khi nhuộm tư tưởng của mình với màu sắc thần bí (mystique) đến độ làm phương hại cho phương pháp thực nghiệm (positiviste) rất hiện đại của mình. Tuy vậy, đó chưa phải là quan tâm của người viết. Câu hỏi chính là: tại sao người Nhật biết xét lại vấn đề từ hồi thế kỷ 17-18 còn ta thì không? Còn ta thì phải đợi đến Phan Khôi của những năm 1930 khi Khổng học đã chiều tà xế bóng? Đọc Sorai, người đọc thấy ông sùng bái văn hóa Trung Hoa không thua gì các nhà nho của ta, vậy mà ông vẫn đặt lại vấn đề. Đặt lại vấn đề, như vậy, đâu có bị phong kiến đương thời coi là chống đối? Là phản loạn? Hóa ra phong kiến cũng nhận biết rằng đặt lại vấn đề là chuyện bình thường của cái đầu. Cái gì đã khiến ta không làm thế? Cái gì đã khiến ta khác Nhật? Đầu óc nô lệ chăng? Hay là xã hội ta ở thời đại đó bị chiến tranh liên miên, nào Lê, nào Trịnh, nào Mạc, nào Tây Sơn, nào Nguyễn, chỉ mỗi vấn đề chính thống đã làm kiệt quệ hết tư tưởng? Thứ hai, xã hội Nhật thời Tokugawa là một xã hội đóng, cô lập với thế giới, cả Sorai lẫn Norinaga đều không biết mô hình nào khác mô hình phong kiến, cả hai đều không có ý đả phá chế độ phong kiến, cả hai đều phò tá các tướng quân. Vậy mà, trong xã hội đóng ấy, tư tưởng vẫn có thể mở, hai trường phái chính mà hai ông là thủ lãnh vẫn thu hút đông đảo trí thức Chính nhờ tư tưởng đã đi trước thời đại như vậy tự bên trong, không cần có bên ngoài tác động, mà vua Minh Trị mới dám quả quyết khi mở nước Nhật ra cho thế giới bên ngoài: duy tân là giữ hồn Nhật, chỉ mượn phương Tây về kỹ thuật mà thôi. Họ biết đâu là hồn của họ khi mở cửa. Xã hội ta ngày nay, ngược lại, là một xã hội mở, mở loạn xà ngầu, thế mà tư tưởng thì đóng, sinh hoạt trí thức rách rưới, bần hàn. Ai có chút suy nghĩ đều không thể tự đặt câu hỏi: tình trạng ấy có bình thường không? ----------------------------- Chú thích: Quyển sách của Maruyama, xuất bản lần đầu tại Nhật năm 1952, tập hợp những nghiên cứu ông viết trong khoảng thời gian 1940-1944 Chi tiết này rất quan trọng để hiểu tư tưởng của tác giả và những tranh luận sau đó. Đó là khoảng thời gian mà nước Nhật phát xít lao vào đại chiến thứ hai. Trí thức tiến bộ, Maruyama không vui vẻ gì với chế độ quân phiệt. Về điểm này, cũng như về tư tưởng của Maruyama, một trong những trí thức đầu đàn thời hậu chiến, có thể xem: - Mary L. Hanneman: The Old Generation (Mid) Showa Japan: Hasegawa Nyosekan, Maruyama Masao, and Post-War Thought, Historian, Vol. 69, N° 3, Fall 2007. - Andrew E. Barshay: Imagining Democracy in Post-War Japan: Reflections on Maruyama Masao and Modernism, Journal of Japanese Studies, Vol. 18, N° 2, Summer 1992.- -… - Laura Hein, điểm sách, Tadashi Karube: Maruyama Masao and the Fate of Liberalism in Twentieth Century, American Historican Review, Vol. 114, N° 1, Feb. 2009. (Nguon Thời đại mới)
    1 like
  12. Rin86 xin góp bài hát đầu tiên, Ave Maria, mọi người hãy vào sàn nhạc thu âm và post lên chơi đi :lol: http://sannhac.com/r2696961/Ave-Maria-rin1986.htm Xem ai là ca sĩ diễn đàn lý học nào :rolleyes:
    1 like
  13. đại hạn 28 vào phúc đức sát phá tham hãm được song lộc kèm đào hồng nguyệt hỷ chiếu nên tạm gọi là yên ổn! tiểu hạn năm dần vào phụ mẫu nhật sáng nhưng bị địa kiếp xung chiếu kèm song hao! tóm lại năm nay tiền tài thì có thể vào tay này ra tay kia! làm thì nhiều nhưng sợ bị lừa đảo hay trộm cướp mà dẫn đến mất của, thậm chí là thương tật!!! có thể sẽ ở tay chân và phần mặt hay đầu! tình duyên thì tuy đến nhưng e sẽ khó bền vì đào hoa thiên không cùng hợp chiếu! cha mẹ bạn có vẻ như năm nay hình như chia của hay làm giấy tờ gì đó cho bạn!
    1 like
  14. Sô-lô-khốp từng đánh Mỹ ở Tây Nguyên?! BEE.NET 14/06/2010 11:29:31 Trong quá trình chấm thi, có lẽ giám khảo bộ môn Văn là những người chịu “vất vả, nhọc nhằn” hơn tất cả. Bởi lẽ, số bài thi thể hiện kiến thức chắc chắn, diễn đạt mạch lạc, có cảm nhận văn chương tinh tế, sâu sắc rất ít, chưa tới 10%. Nhiều giám khảo có kinh nghiệm chấm môn Văn lâu năm chia sẻ, phần lớn bài thi của thí sinh năm nay bộc lộ rõ sự hụt hẫng, yếu kém, hạn chế về kiến thức lẫn kỹ năng diễn đạt, trình bày, chữ viết. Dù không phải là lần đầu tiên bắt gặp những bài văn “cười ra nước mắt”, song trong 5 ngày chấm thi vừa qua, nhiều giám khảo môn Văn vẫn “ngã ngửa người” trước những câu văn ngô nghê, kinh dị. Có thể liệt kê thành 4 nhóm lỗi: Nhầm từ Âu sang Á - Sô-lô-khốp chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên thời chống Mỹ, sáng tác tác phẩm "Mặt đường vô vọng". - Sô-lốp-khốp có một người vợ và 2 đứa con nhưng do chiến tranh tàn khốc đã cướp đi vợ và con ông, chính vì thế mà cuộc són (sống) của ông k (không) bao giờ cười mà chỉ biết khót (khóc) ban ngày thì những giọt nước mắt kèm (kiềm) nén đóng khô lại trong trái tim ông còn ban đêm thì giọt nước nc (nước) leo lên trên gối uơc (ướt). Sau một thời gian ông lão đi kéo xe bò để kiếm sống. - Bài thơ “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Thi trong tập truyện Tây bắc. - Khi gia nhập vào bộ đội, việt (Việt) học tập chăm chỉ để theo anh Quyết sau này làm cán bộ thay anh. Vì vậy, khi việt học chữ thua mai thì việt tức quá, đập đầu vào đá cho đến khi chảy máu hết tức mới xong. Khi bị giặc bắt thì việt nút (nuốt) thông tin vào bụng, địch dùng mọi thủ đoạn để uy hiếp, tra tấn dã man để lấy thông tin nhưng việt thà chết chứ không tiết lộ ra bất cứ thông tin nào, dù là nhỏ nhoi nhất. (Khi nói về quê hương của Sô-lô-khốp, nhiều em viết ông sinh ra ở Sông Hồng. Khi phân tích về đoạn thơ Sóng của Xuân Quỳnh, cả bài làm của một số thí sinh từ đầu đến cuối toàn nói là của Xuân Diệu). Giám khảo chấm thi môn văn đau đầu với những câu văn kinh dị của học sinh trong kỳ thi tốt nghiệp THPT 2010. Dùng từ ngữ ngây ngô - Xuân Quỳnh đã "phơi" bài văn của mình ra như vậy mà không sợ bị "giảm giá". - Mổ xẻ trái tim để tìm ra hóc môn yêu. - Khát nước thì uống nước rồi khỏi bị khát ngay nhưng khát tình thì uống gì đây cho đỡ khát thèm. - Khi yêu nhau mà người yêu của mình đi nghĩa vụ thì thối óc - Việt rất dũng căm không sợ chết, đối với việt chết là cái hồn rời khỏi các lên nóc nhà chơi - Sóng của Xuân Quỳnh là một cội nguồn của Văn học Việt Nam. - Lúc đầu chờ đợi trog sự lạc quan càng ngày càng trở thành bi quan. Họ muốn chạy tới nơi xa để gặp lại người yêu của mình chứng đó đủ thấy được sự thiệt thòi của người đàn bà khi trai gái, bồ bịch. So sánh, liên tưởng... “siêu hạng” - Tình yêu như 1 thanh sô cô la dễ chảy nước, đen xì xì nhưng lại rất thơm và ngon. - Tôi - đứa con của một tình yêu mang tên Si đa. Tôi là đứa con bị gia đình ruồng bỏ là nỗi thất vọng của dòng họ, và họ bỏ tôi, bơ vơ, lạc lỏng giữa cuộc đời đầy mưu sinh và phức tập. Đâu còn ai nhớ đến tôi đâu. (câu 2, nghị luận xã hội) - Đúng vậy, chúng ta là những con chim chiếc lá kia, sống trong cs (cuộc sống) hòa bình này thì phải cất cao giọng hót trong sáng cao 1 chết của mình và đem màu xanh tươi tắn hy vọng tô điểm cho cuộc đời. Với một sự thật mà mỗi chúng ta phải hiểu đó là "có vay, có trả" khi bạn cho đi một cái gì đó dù bé nhỏ. - Sóng như một chàng trai khù khờ, dại dột, một thân một mình, thế cô, thân cô, tự mò ra tận bể để tìm người đàn bà mà mình chót yêu. Sóng là thứ Tình yêu lúc thì trào lên, lúc thì tụt xuống như cục đá tan từ từ. Diễn đạt trùng lặp, luẩn quẩn, rối rắm - Các bạn ở, các bạn hỡi, các bạn, các em có biết không. Các bạn của lớp chúng ta, có thấu hiểu cho ý chí, nghị lực, tình thương của con người không. Nhà tôi nghèo. Ba, mẹ anh chị tôi đều ngèo (nghèo) nhưng chẳng thèm làm điều tàn ác. Lúc nào cũng tội nghiệp, thương yêu nhau đến hết cỡ. Đến con gà của hàng xóm chạy sang vườn nhà tôi, tôi, các anh chị tôi cũng không dòm ngó nữa là. (câu 2, nghị luận xã hội) - Ở câu 3a, (5 điểm), phân tích nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi. Một thí sinh chỉ viết được đúng gần 200 chữ với những câu cú tối nghĩa, luẩn quẩn như: "Những đứa con trong gia đình hôm nay em rất sướng vừa qua cuộc sống em rất vui sướng. Vui sướng, bạn bè của quan tâm cuộc sống rất đẹp. Nhân vật viết truyện ngắn những đứa con trong gia đình hôm nay bạn bè của cuộc sống, cuộc sống vui sung sướng khi quan tâm giúp đỡ bạn bà, giúp đỡ lẫn nhau bạn bè việt truyện ngắn hôm nay bạn bè quan tâm nhân vật Việt… ". Thầy Trần Đức Vinh, THPT chuyên Lê Khiết (Quảng Ngãi) chấm bài thi này nói: “Tôi thật sự bị "sốc vì không hiểu thí sinh này đang viết gì!”. (Theo Báo Đất Việt)
    1 like
  15. Số phận thị nữ trong hậu cung Hồi giáo (kỳ 2) Việc có nhiều thê thiếp xuất hiện dưới sự cai trị của đế chế Caliphate, khi người Hồi giáo coi việc một người đàn ông có nhiều vợ đẹp là thước đo của sự giàu có cũng như quyền lực. Còn về mặt tôn giáo, nhà tiên tri Mohammed không cho phép đàn ông có quá 4 vợ để giảm thiểu chế độ đa thê. >> Chuyện "hậu cung" trong thế giới đạo Hồi Các thị nữ sống trong hậu cung ở Thổ Nhĩ Kỳ thường được mua từ những khu chợ nô lệ Hoàng gia rồi sau đó được đưa vào Hoàng cung. Tuy nhiên, chỉ những người con gái còn trinh tiết mới xứng đáng được bước chân vào khu vực này. Trong số các Odalik cũng có rất nhiều người xuất thân từ tầng lớp quý tộc. Họ được dạy cách để trở thành người nổi bật trong đám đông như cách nháy mắt gợi tình hay có những cử chỉ lời nói thu hút được sự chú ý giữa hàng ngàn phụ nữ, vì Sultan sẽ không thể nhận ra một ai đó nếu họ không đặc biệt. Trong thế kỷ 19, hình ảnh các Odalik ở trong các hậu cung Thổ Nhĩ Kỳ là một đề tài khá phổ biến đối với các họa sĩ châu Âu Sultan cũng có thể nhận những cô gái đẹp như một món quà bày tỏ lòng kính trọng đối với mình. Trong đó có trường hợp lãnh chúa Algeria Mohammed bin Osman đã dâng lên Sultan Selim III một phụ nữ người Pháp tên là Emma de Beauharnais, bà chính là em họ của vợ Napoleon Bonaparte đã bị những kẻ cướp biển bắt cóc. Để được đặt chân vào hoàng cung của Thổ Nhĩ Kỳ, một nữ nô lệ buộc phải hoàn thành một bài kiểm tra sự trong trắng ngây thơ bằng cách bị bắt buộc phải ôm hôn một người đàn ông Hồi giáo. Các thị nữ (Odalik) được tuyển chọn từ tuổi 13, độ tuổi những bé gái bắt đầu dậy thì, trở nên xinh đẹp và đã đủ sức thu hút sự chú ý của các Sultan. Chính từ các Odalik mà người chủ hậu cung sẽ chọn ra 7 người làm vợ (gọi là Kadin). Họ sẽ là người gánh trọng trách sinh con trai nối dõi. Ở khía cạnh nào đó có thể hiểu việc bước chân vào một hậu cung cũng giống như trở thành một nữ tu, nơi những người phụ nữ sẽ dồn hết tâm trí trong quãng đời còn lại để phục vụ cho người người đàn ông của mình. Họ thường được miêu tả là những cô gái trẻ đẹp ở trong tư thế nửa trần, ngả mình trên đệm hoặc múa bụng biểu diễn trước các chủ nhân. Các Kadin và Odalik buộc phải cắt đứt mọi mối liên hệ với thế giới bên ngoài, được đặt tên mới và học cách sống biết vâng lời. Họ sẽ sống và sẽ chết ở chính nơi này. Các Odalik còn lại không có nhiều đặc ân từ Sultan và mỗi người trong số họ đều có ước vọng được trở thành Kadin. Để đạt được điều đó cũng không phải là không thể. Tất cả đều phụ thuộc vào tài năng và tính cách của các cô gái để giúp họ có thể leo lên bậc thang quyền lực cao hơn trong hệ thống phân cấp thứ bậc ở hậu cung. Nó không chỉ cần tới diện mạo đẹp đẽ mà còn cần tới trí thông minh, sự quyết tâm và sự khôn ngoan của các Odalik. Tuy nhiên, sự cạnh tranh ở mọi nơi đều giống nhau, ở hậu cung Hồi giáo cũng vậy. Những người phụ nữ Hồi giáo cũng bước vào một cuộc cạnh tranh với nhau một cách nghiêm túc và họ có thể dùng bất kỳ một thủ đoạn nào giúp họ đạt chiến thắng. Họa sĩ Jean Auguste Dominique Ingres của Pháp đã có hơn 100 bức tranh với chủ đề này. Mặc dù các Odalik là cấp bậc cao hơn một nô lệ nhưng họ vẫn chỉ được là phương tiện giải trí của các Sultan. Mọi chuyện chỉ thay đổi kể từ triều đại của Sultan Bayezid II (1481-1512) là người đã đưa một trong số các Odalik của mình lên hàng Kadin. Tuy nhiên trên thực tế, người phụ nữ này vẫn không có nhiều quyền lực so với 7 người Kadin (vợ) chính thức. Về mặt lý thuyết, một Odalik cũng không khác với một nô lệ nhưng họ có cơ hội được leo lên bậc thang danh vọng nếu sinh được một đứa con trai. Với đứa con, các Odalik sẽ được hưởng những đặc quyền cao quý khác. Nhưng cơ hội như thế cũng không phải là nhiều. Bởi nguyên nhân đầu tiên là, nếu sống trong hậu cung cùng 1.000 Odalik khác thì cơ hội được chú ý và được quan hệ với Sultan không phải là nhiều. Thứ hai, một khi nếu Sultan có đoái hoài tới họ thì xác xuất mang thai chỉ trong một lần quan hệ cũng không lớn và hơn nữa cũng không tránh khỏi khả năng có thể bị sảy thai. Tranh của Jean Auguste Dominique Ingres giống như vẽ về một Ba Tư thu nhỏ với những màu sắc mang đậm phong cách phương Đông Và dù nếu may mắn có con trai đi ữa thì những "hòn máu" của các thị nữ sẽ rất khó được lên ngôi bởi chúng phải xếp hàng sau so với những hoàng tử chính thất khác. Ngoài ra, còn có một bảng xếp hạng dành riêng cho các Odalik nữa và nó có thể thay đổi bất kỳ lúc nào phụ thuộc vào tâm trạng của Sultan. Hậu cung lớn nhất trong lịch sử Hồi giáo là hậu cung Dar-ul-Seadet ở Istanbul nơi từng có tới hơn 1.000 cung tần mỹ nữ cùng sinh sống. Mặc dù phải đối mặt với rất nhiều âm mưu, nhưng những Odalik mang thai sẽ được bảo vệ cho tới khi sinh nở thành công. Họ sẽ nhận được sự phục vụ tốt nhất bởi những người nô lệ là "thái giám" và những kẻ hầu cận khác. Tuy nhiên, đối với những người phụ nữ ở bậc dưới trong hậu cung họ rất ít được hưởng hạnh phúc. Ví dụ như họ chỉ có rất ít quyền hạn và sau nhiều năm phục vụ cũng như tôn thờ chồng một số rất ít có thể được trả tự do với một số tiền chỉ tạm đủ sống. Khi Sultan chết, tất cả các phi tần sẽ được sắp xếp lại vị trí theo giới tính của con cái họ. Mẹ của một công chúa có thể tái giá nhưng mẹ của hoàng từ thì nhất quyết sẽ được giữ lại để tiếp tục phục vụ cho chủ nhân mới của gia đình Sultan. Vì vậy nó lại nảy sinh một cuộc chiến mới. Các bà mẹ có thể dùng thuốc độc trộn vào thức ăn để hạ gục đối thủ cũng như con trai của họ. Theo Đức Thành VTC
    1 like
  16. Phát hiện di hài của 1 tiên nữ Được tìm thấy tại miền quê hẻo lánh ở Derbyshire, bộ xương khẳng khiu dài 20 cm với nguyên vẹn da, răng, tóc và đặc biệt là đôi cánh tiên bé xíu đã được các nhà nhân chủng học và chuyên gia giám định pháp y ở Anh khẳng định là di hài đích thực, tuy nhiên không-phải-của-người. Tiên nữ - nhân vật tưởng chừng chỉ tồn tại trong truyền thuyết - nay đã được khẳng định là có thật bằng những chứng cứ xác thực đầu tiên. Một người đàn ông (xin được giấu tên) ở Derbyshire đã phát hiện di hài huyền thoại trên con đường cổ xưa từ thời La mã, nằm giữa hai làng Duffield and Belper. “Hôm đó như thường lệ, tôi dắt chó đi dạo qua khu mộ cổ Iron Age thì bất chợt con vật cưng cất tiếng sủa và tỏ thái độ khác thường. Nó cứ quay đầu về phía ngôi mộ mà sủa và nhất định không chịu rời bước, bất chấp tôi có lôi kéo thế nào. Thật là điều bất thường vì hàng ngày chúng tôi vẫn đi qua đây, mà nó có bao giờ hành xử khác lạ như thế. Tò mò, tôi tiến lại gần khu mộ... Đập vào mắt tôi là cảnh tượng ngỡ như trong truyện cổ: một mô đất sạt xuống, mở ra một đường hầm đen ngòm rộng chừng nửa mét. Chắc chắn là trước đây, tôi chưa nhìn thấy hầm tối này bao giờ. Tôi quỳ gối xuống để quan sát rõ hơn, cảm nhận rõ làn gió hun hút lạnh buốt phả vào mặt - chứng tỏ, hầm rất sâu. Tôi bấm đèn pin ở chìa khóa xe và căng mắt nhìn cho rõ. Chính lúc ấy, vật thể lọt vào tầm quan sát làm tôi giật nảy mình: cách tôi chưa đầy 3 bước chân, một thi hài nhỏ xíu còng queo nằm trơ trọi trên đất. Phản xạ đầu tiên, tôi toan chạy đi báo cảnh sát - rất có thể đó là một đứa bé chết non. Nhưng khoan, thi hài này nhỏ hơn nhiều so với 1 đứa bé sơ sinh, và quan trọng hơn cả, sau lưng nó còn một đôi cánh tiên mỏng dính. Tôi dùng que khều nó lên, như vẫn không tin nổi vào mắt mình rồi bỏ vào cái túi nylong (định để dành đựng phân chó)”. Không do dự, người đàn ông rút điện thoại gọi cho vợ. Hai vợ chồng thận trọng đặt xác “tiên nữ” vào trong 1 hộp thiếc đựng bánh, sau đó giấu trong ga-ra ôtô. Ngày hôm sau, cảnh sát ngay sau khi được thông báo đã tới đem thi hài đi giám định và phân tích. Không chỉ một xác tiên “Là một trong số ít những chuyên gia hiện tượng kỳ bí ở Derbyshire, tôi không bất ngờ khi cảnh sát viếng thăm nhờ giám định một thi thể lạ lùng - mặc dù lúc đó sự việc vẫn còn giấu kín nhằm tránh những rùm beng từ phía phương tiện truyền thông đại chúng. Đích thân người đàn ông phát hiện ra khu mộ bí ẩn đã dẫn tôi trở lại nơi tìm ra thi hài. Thật bất ngờ, càng tìm kiếm chúng tôi càng phát hiện ra nhiều xác tiên nữ - tất thảy trên 2 chục xác với các mức độ khô cứng khác nhau. Không hiểu bằng cách nào mà chúng được bảo quản nguyên vẹn một cách đáng ngạc nhiên, tới mức có thể thấy rõ cả những chiếc móng tay và lông mi bé xíu. Kỳ lạ hơn nữa khi một lần tình cờ, tôi chợt nhận ra dường như có bàn tay ai đó đang cố gắng lấp lại đường hầm bí hiểm Những bức chụp X-quang tiết lộ những điều vô cùng thú vị: về cấu tạo sinh học, di hài tiên nữ chẳng khác gì bộ xương của một bào thai vừa mới thành hình, tuy nhiên, những đốt xương rỗng tuếch khiến trọng lượng cơ thể chúng nhẹ nhàng hơn nhiều. Đáng ngạc nhiên, “tiên nữ” cũng có rốn - điều này cho thấy những sinh vật này cũng duy trì nòi giống theo cách của con người, mặc dù chúng không có bộ phận sinh dục hoàn chỉnh. Không dám khẳng định chính xác những xác khô này đã tồn tại bao lâu, nhưng mức độ ướp khô cho thất chúng ít nhất phải trên 400 năm tuổi. Nhưng do đâu mà những sinh vật kỳ bí này luôn bị coi chỉ là nhân vật hoang đường trong truyền thuyết. Các chuyên gia sinh vật bí hiểm cho rằng, khả năng hòa trộn với môi trường quá tốt đã giúp chúng lọt khỏi tầm mắt con người cho đến tận ngày nay. Sắc tố đặc biệt trên cánh và da khiến chúng như “tan” vào những tán lá xanh cao chót vót - nơi chúng cư ngụ thường xuyên và hầu như không bao giờ mạo hiểm sà xuống dưới đất. Vào mùa đông lạnh giá, chúng rút lui vào hang động sâu trong lòng đất. Những di hài phát hiện ở Derbyshire là bằng chứng hiển hiện rằng, truyền thuyết không hoàn toàn là những điều tưởng tượng.khoahockythu.blogspot.com
    1 like
  17. Một ngôi chùa có ba điều lạ [04.06.2008 11:50] Chùa Phước Kiểng Tự, tọa lạc tại xã Hòa Tân, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp có khuôn viên không lớn cũng không bé, nằm ngoảnh mặt ra hướng bờ sông nổi danh bởi những chuyện lạ về sen, về rùa (quy) và cả chim hạc... Sen "cõng" được người Đến vùng chợ Nha Mân (Đồng Tháp), nơi nổi tiếng bởi câu "Gái Nha Mân, thuốc Cao Lãnh" hỏi chùa Phước Kiểng có người biết người không. Không phải là vì chùa không nổi tiếng, mà bởi người dân quen gọi chùa với cái tên chùa Sen, nên nhiều người lạ lẫm bởi cái tên thật của chùa. Từ chợ Nha Mân, rẽ trái khoảng 15 cây số sẽ đến chùa. Hòa thượng Thích Huệ Từ trụ trì chùa Phước Kiểng nói ngôi chùa này vốn dĩ là của bác ruột ông, Hòa thượng Thích Huệ Trí. Năm Thích Huệ Từ lên 8 tuổi đã vào tu ở chùa. Ngày ấy, phía trước chùa có cái ao sen nhỏ, toàn loại sen Bá Biển (hay còn gọi là sen trăm cánh). Rồi nhiều sự biến xảy ra, loại sen Bá Biển được thay bằng một loại sen lạ khác. Cho đến nay, loại sen lạ vẫn chưa có tên, nên ai thích gọi là sen gì cũng được. Năm 1966, chùa là nơi Tỉnh đội tạm dùng làm xưởng đúc súng đạn để trang bị chống lại quân địch. Có dạo, viên Đại tá ngụy Huỳnh Ngọc Diệp cho máy bay rải truyền đơn và phát loa liên tục kêu gọi người dân di tản để chuẩn bị "làm cỏ" chùa bằng bom. Trước tình cảnh ấy, các sư trong chùa bắt buộc dời tượng đi sơ tán. 3 ngày sau, một trận không kích dữ dội đã khiến san bằng ngôi chùa! Ao sen trong chùa Phước Kiểng. Năm 1970, Hòa thượng Thích Huệ Từ sau thời gian sơ tán đã hồi cư và bắt đầu dựng lại chùa. Chùa được dựng với cột bằng tre gai, lợp mái lá... và tiếp tục là địa điểm bí mật để các cán bộ cách mạng hội họp. Người dân trong vùng tiếp tế cho cách mạng bằng cách mang gạo, đường, hoa quả lấy cớ là đi dâng Phật. Ngày đất nước thống nhất, Hòa thượng Thích Huệ Từ cho dọn lại các hố bom trong chùa để trồng súng, sen... Thời gian trôi, mãi cho đến cuối năm 1992 (Hòa thượng Thích Huệ Từ nhớ là vào ngày 8/1/1992 Âm lịch - PV), khi nhổ bông súng đi bán, trụ trì phát hiện đóa sen lạ. Lá của loại sen này khác hẳn loài sen hiện có, lá sen dày, có nhiều gai nhọn quanh tán lá. Ngay cả cuống sen cũng có gai, rất sắc. Càng lớn, lá sen càng to. Rồi sen nở hoa. Hoa sen bên ngoài đỏ thắm, trong có màu trắng tuyết, bề mặt phía dưới hoa sen chứa rất nhiều gai. Hoa sen thay đổi màu tùy theo từng khoảng thời gian trong ngày. Lúc 6 giờ tối sen nở có màu trắng, thơm suốt đêm đến 6 giờ sáng thì khép lại. Đến 12 giờ trưa, hoa sen chuyển sang màu hồng. Khoảng 3 giờ chiều, sen nở lần thứ hai đến 4 giờ thì chuyển sang màu tím nhạt. Từ khoảng 5 đến 6 giờ chiều, sen đổi thành màu hồng. 3 ngày sau, hoa sen chuyển sang màu tím than và bắt đầu tàn. Đến mùa nước nổi khoảng tháng 9 đến tháng 10 (âm lịch), sen no nước nên phát triển rất nhanh. Hòa thượng Thích Huệ Từ khẳng định, lắm khi lá sen to hơn cả cái nia cho tằm ăn, đường kính khoảng 2,5m, lá rất dày. Một lần, ông lấy tấm ván gỗ lót thử lên lá sen, rồi đứng trên bề mặt tấm ván xem lá sen có chịu nổi trọng lượng của mình hay không. Nào ngờ, vòng ngoài lá sen chỉ uốn lên chút xíu, chứ không chìm. Nhiều người dân trong vùng nghe tin có loài sen lạ, vội bảo nhau đến... đứng thử. Rồi một đồn mười, mười đồn trăm, phút chốc người dân ở các tỉnh lân cận rủ nhau đi xem sen và chụp ảnh lưu niệm. Anh xe ôm hôm chở tôi vào chùa, khoe, đến mùa nước nổi, du khách đến xem sen rất đông, khiến cánh xe ôm không thiếu việc. Kêu giá cao bao nhiêu, hét đến đâu khách vẫn đi. Lắm khi, khách này còn cãi nhau với khách kia để tranh đi xe. Đơn giản, đường vào chùa ngày đó chỉ xe ôm mới vào được. Song song với tin đồn về khả năng sen có thể “cõng" người, còn một tin đồn khác. Nhiều người nói Hòa thượng Thích Huệ Từ xây một khối gạch dưới hồ, rồi lót lá sen lên, chứ bản thân lá sen đụng vào là rách, làm sao có thể "cõng" được người. Nghe chuyện, ông trụ trì già chỉ biết cười buồn. Số là có vị khách nữ ở tỉnh bạn đến tham quan chùa, thấy lá sen to, thay vì phải lót ván rồi mới đứng lên, vị khách nữ ấy lại thản nhiên mang giày cao gót bước xuống sen, vậy là lá sen rách. Mãi cho đến khi có các vị khách ở Vĩnh Long xuống tham quan chùa, mang theo máy chụp ảnh loại "xịn", Hòa thượng mới nhờ một khách đứng giữa lá sen, các vị khách còn lại thay nhau chụp ảnh để "minh oan". Thấy loài sen quý hiếm, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã lặn lội đến chùa xin đem giống về trồng thử. Loại sen lạ này nghe đâu phải gieo hạt mới sống. Thầy trụ trì nói hạt sen nằm ở trong nhụy sen, hạt thì nhỏ như hạt thanh long, lớn như hạt ổi, có màu trắng tươi, bóp thử thấy rất mềm. Các nhà nghiên cứu lấy hạt sen, đem phơi khô rồi trộn lẫn hạt với nhiều loại hóa chất khác nhau đem gieo thử nhưng thất bại. Tiếp đến, họ lấy bùn và nước trong ao của nhà chùa về gieo, sen vẫn không nảy mầm. Cứ như sen chỉ có thể mọc ở chùa Phước Kiểng vậy. Hòa thượng Thích Huệ Từ cho biết thêm, do kinh phí của nhà chùa không đủ để đầu tư, chứ nếu có tiền, ông sẽ thường xuyên cung cấp nước cho sen để xem thử sen sẽ phát triển đến mức nào. Nguyên do sen lạ là loài thực vật "uống" nước nhiều, nên cứ vào mùa khô của vùng Tây Nam Bộ (khoảng tháng 3 âm lịch), nước trong hồ xuống đến mức thấp, sen không phát triển hoặc chết khô. Nếu có lớn, cũng chỉ bằng cái nón lá chứ không đẹp như khi đủ nước. Đợt mùa khô năm 1998, toàn bộ sen trong chùa chết hết. Thầy trụ trì xót lắm, cứ tưởng là đã tuyệt chủng giống sen lạ, nhưng may thay vào năm sau, sen lại đùng đùng lớn dậy. Hôm chúng tôi vào thăm chùa không phải là dịp nước ròng, nên lá sen chỉ to gần bằng... cái nong dùng cho tằm ăn một chút. Đáng tiếc, dẫu là loại thực vật có nhiều gai bao bọc, sen vẫn bị ốc bươu vàng tấn công. Nhiều lá sen bị rách nát tả tơi, trên mặt lá còn bám rất nhiều mảng trứng ốc bươu vàng. Chùa nghèo, thầy trụ trì không đủ tiền để ngăn lưới chống ốc bươu vàng, cứu sen. Một điểm đặc biệt khác, cắt thử cuống để đưa một lá sen lên bờ nhằm xem phần mặt dưới của nó ra sao. Thật bất ngờ, phần dưới lá sen là những khối ô vuông được liên kết với nhau tạo thành. Thầy trụ trì nói chính nhờ những khối ô vuông này nên sen mới có thể chịu trọng lượng khoảng trên 50 kg đặt lên mà không chìm. Con rùa thông minh Ngoài chuyện sen lạ, chùa Phước Kiểng còn hai linh vật khác rất được khách thập phương mến mộ là quy và hạc. Nói theo kiểu nhà Phật, cả hạc lẫn rùa đã được siêu thoát, hiện nay không còn ở chùa nữa. Linh vật quy đang được thờ tại chùa. Rùa hay còn gọi là Quy và được người dân gọi là "ông Quy", về chùa ở với thầy trụ trì từ năm 1948. Quy là loại rùa nước ngọt, con lớn nhất cũng chỉ bằng cái nón lá. Ở chùa gần 20 năm, binh biến xảy ra, chùa sơ tán khẩn cấp, quy cũng thơ thẩn bò ra đường tránh bom đạn. Không may, một người dân gần đấy bắt được quy.Mà cũng ngặt, chùa nằm trong vùng bị đánh phá, quy lại bò ra ngay vùng địch chiếm. Vậy là quy bị bắt. Người bắt được quy khoét mai, lấy dây xích sắt xỏ qua, cột quy vào góc nhà để làm kiểng. Có lần, thầy trụ trì đi ngang, quy nghe hơi, cứ chồm lên đòi bứt dây xích, nhưng bứt thế nào được. Thầy trụ trì nhìn cảnh ấy mà ứa nước mắt. Năm 1970, chùa được dựng lại. Không hiểu làm thế nào mà quy lại có thể tự thoát, tìm đường về chùa. Khi gần đến chùa, quy lại bị bắt lần nữa. Một chị gần chùa bắt quy về giam trong nhà để đòi tiền chuộc. Thầy trụ trì nói, tiền chuộc chị đưa ra là 1.500 đồng, thầy vét hết túi chỉ có 1.000 đồng. Chị nhất định không cho chuộc và đòi mang quy ra chợ bán. May mà khi chị chở quy ngang qua cửa chùa, thầy trụ trì đã kiếm được đúng 1.500 đồng để chuộc quy về. Thế rồi quy ở hẳn trong chùa từ đó. Chuyện như giai thoại. Có lần, tên Mười Phu, trung đoàn trưởng quân ngụy đóng bên kia sông nghe tin chùa có con quy rất khôn, bèn dắt lính mang súng sang "thử thách". Mười Phu nói với thầy trụ trì: "Nghe nói ông có con quy rất khôn, giờ ông bồng nó ra trước sân chùa, nếu nó bò ngược trở vào chùa được thì tui đi. Nó bò lệch đường, tui bắn bỏ, đem về làm mồi nhậu chơi". Thầy kể là lúc nghe tên Mười Phu nói thế, thầy cũng ngại vì không biết quy thông minh đến mức nào. Nhưng tình thế không cho phép thầy làm khác. Quy được mang ra sân chùa, khi đặt quy xuống đất, rất chậm rãi, quy ngước đầu nhìn xung quanh rồi chậm chạp bò vào chùa trước những cặp mắt mở to của bọn lính. Chưa bằng lòng, Mười Phu hạ lệnh cho tên đàn em bắt quy mang ra tận mép sông để thử lần nữa. Lần này, hắn cẩn thận bảo đàn em đắp một con đường bằng bùn dẫn xuống sông với hy vọng quy lâu ngày sống trên cạn, sẽ nhớ nước mà bò theo hướng khác. Ngờ đâu, quy vẫn lặng lẽ quay đầu bò vào chùa. Thấy vậy, tên Mười Phu văng tục rồi dắt lính vượt sông đi về. Nghe đâu, trước khi đi, hắn còn đốt nhang khấn xin trời phật tha tội vì lỡ nói lời xúc phạm linh vật. Hạc hiểu tiếng người Quy ở trong chùa đến năm 1999 thì có bạn. Bạn quy là con hạc được một người dân gần đấy bán cho thầy trụ trì với giá 3,1 triệu đồng. Thầy trụ trì mua hạc với ý định sẽ cắt dây phóng sinh. Ngờ đâu, khi cắt dây, hạc chẳng đi đâu mà chỉ sống quấn quýt trong chùa. Hạc rất hiểu tiếng người. Thầy bảo hạc bay là bay. Bảo vỗ cánh là vỗ cánh. Bảo che sương là lập tức xòe cánh che ngang đầu thầy khi kinh kệ. Có lần, thầy nhờ người ghi lại cảnh hồ sen. Thợ chụp ảnh muốn có hạc cho đẹp, thầy bảo: “Hạc, con đứng trên lá sen để chụp ảnh. Nhưng đừng bấu vuốt chặt quá, kẻo rách lá sen”. Lập tức, hạc đậu rất nhẹ nhàng. Thợ bảo, hạc bay từ trên cao xuống lá sen hình mới đẹp. Thầy truyền lại lời, tức khắc, hạc làm theo. Tiếng đồn về hạc lan nhanh còn nhanh hơn cả gió. Ngay ngày hôm sau, nhiều lượt người kéo vào chùa để xem hạc đứng trên lưng quy nghe thầy tụng kinh. Tiếc thay, hạc ở chùa không lâu. Vài tuần sau, hạc bỏ chùa mà đi. Hình như là có lệnh mang hạc về Trung tâm bảo vệ động vật hoang dã gì đấy. Hạc đi ít lâu, quy cũng mất. Thầy trụ trì tiếc cả hai con vật thông linh, bèn ướp xác quy, đeo vào cổ một chuỗi tràng hạt, đặt trong lồng kính thờ trong chùa. Trên mai quy còn khắc năm vào chùa và ngày mất: 1948 - 29/7/2002. Hai linh vật mất đi, chùa chỉ còn lại loài sen lạ. Mà sen, thì hiện tại cũng đang bị tấn công bởi ốc bươu vàng. Tiếc thay, chuyện bảo vệ sen dường như chưa được mọi người nghĩ là việc chung mà chỉ là việc riêng của chùa. Theo tôi, đây là một trong những loại sen quý nhất nước ta tính đến thời điểm hiện tại, cần phải được chăm bón và trồng thêm ở nhiều nơ Nguồn: Phật Giáo Việt Nam Net (phatgiaovnn.com) (Theo CAND)
    1 like
  18. Bí ẩn USO (Kỳ2): Vật thể lạ giống người khổng lồ 25/05/2009 17:31 (GMT +7) Tại hồ Issyk Kul ở phía đông Curoguxtan thuộc dãy Ala Tau, mùa hè năm 1982, chuyên gia bơi lặn Mark Shteynberg và trung tá Gennady Zverev cùng các học viên người nhái đang thực hiện một khóa huấn luyện thường kỳ tại đây. >> Đêm kinh hoàng ở làng chài Shag Harbour Sự xuất hiện của thiếu tướng V. Demyanko, chỉ huy lực lượng người nhái Bộ Quốc phòng Liên Xô khiến mọi người cảm thấy rất bất ngờ. Hơn một cuộc viếng thăm bình thường, tướng Demyanko tới đây còn mang theo một cảnh báo quan trọng. Đó là sự xuất hiện của vật thể lạ hình người khổng lồ ở một số nơi có địa hình tương tự Issyk Kul. Theo tướng Demyanko, khi thực hành lặn ở vùng hồ Baikal và khu vực quân sự Tây Xibêri, những người nhái bắt gặp những vật thể dưới nước, trông rất giống người nhưng có hình dáng khổng lồ, cao gần 3 mét. Chúng mặc bộ đồ màu bạc bó sát cơ thể, bất chấp nhiệt độ nước lạnh như băng. Tuy ở độ sâu 50 mét so với mặt nước, nhưng chúng không hề sử dụng đồ lặn hay bất kỳ một thiết bị hỗ trợ nào khác, chỉ đội duy nhất một chiếc mũ hình cầu để che đầu. Một góc hồ Baikal ở Nga Quyết tâm bắt lấy một trong số vật thể lạ đó, viên chỉ huy quân đội địa phương đã tổ chức một đội người nhái đặc biệt. Khi đang cố tóm vật thể lạ bằng lưới, cả nhóm đột nhiên bị một lực rất mạnh hất tung lên mặt nước. Sự thay đổi đột ngột về áp suất đã khiến họ phải đối mặt với chứng khí ép, trong khi đó ở hiện trường chỉ huy có duy nhất một buồng áp lực dành cho 2 người còn hoạt động được. Trong hoàn cảnh cấp bách, viên chỉ huy đành phải cho cả 4 người nhái vào một buồng áp lực. Hậu quả ba người chết, người còn lại bị liệt. "Cần tránh những thảm kịch tương tự", đó là thông điệp chính của tướng Demyako trong chuyến thăm đội người nhái luyện tập tại hồ Issky Kul. Không lâu sau, trụ sở khu vực quân sự ở Tuốcmênixtan cũng nhận được mệnh lệnh từ Tổng tư lệnh lực lượng mặt đất, trong đó có phân tích chi tiết sự việc xảy ra ở hồ Baikal và kèm theo là một vài lời khiển trách, cảnh báo phải thận trọng với những vùng nước sâu. Nội dung câu chuyện của tướng Demyanko đã được chuyên gia bơi lặn Mark Shteynberg ghi chép lại. Shteynberg còn cho biết nơi căn cứ quân sự mà anh phục vụ toạ lạc có một đập nước. Đó là đập nước hồ Sarez, nằm ở khu vực núi Pamir. Nó chỉ sâu hơn 1.500 mét và có thể nhìn thấy từ trên trạm theo dõi vệ tinh bằng rada ở núi Pamir. Những thiết bị siêu mạnh của quân đội Liên Xô đã liên tục ghi nhận hoạt động ngoi lên, lặn xuống của những vật thể giống hình đĩa. Năm 1992, khi đọc những dòng ghi chép của Shteynberg. Mikhail Demidenko - một tác giả nổi tiếng người Nga - chợt nhớ lại rằng hồi năm 1986 - khi đang được Hội nhà văn gia nhiệm vụ ở Irkutsk (Xiberi), ông đã tới vãn cảnh hồ Baikal. Ở đây, Demidenko được dân chài địa phương kể rằng mấy năm trước họ thấy một nhóm người nhái của Liên Xô đột ngột vọt lên khỏi mặt nước hồ tới 10 - 15 mét. Họ không bao giờ biết tại sao những người nhái này lại có hành động kì quặc như thế... Bờ phía nam của hồ Issyk Kul Liệu trong hồ Issyk Kul có vật thể lạ giống như ở hồ Baikal hay không? Đầu những năm 1970, trong cuốn sách viết chung với một đồng nghiệp mang tên "Những điều bí ẩn về lịch sử cổ đại", nhà sử học Xô Viết A.Gorbovsky đã kể lại câu chuyện được nghe tận tai từ một nhân chứng. Theo nhân chứng này, khi đi khám phá một cái hang gần hồ Issyk Kul, anh ta và bạn bè phát hiện thấy ba bộ xương người, mỗi bộ cao hơn 3 mét. Chúng được trang trí bằng những vật làm bằng bạc trông như những con dơi. Họ đã rất sợ và giữ yên lặng về những gì mình nhìn thấy trong một thời gian dài. Họ đã nung chảy những con dơi bằng bạc nhưng giữ lại một mẩu nhỏ. Các nhà khoa học Liên Xô nghiên cứu những mảnh còn sót lại đó, nhưng không thể xác định được niên đại. Trước đó vào đầu những năm 1900, cũng có người đề cập đến những sinh vật khổng lồ tương tự. Mấy cậu bé ở Grudia (bấy giờ còn thuộc Nga) đã phát hiện ra một cái hang trong núi chứa đầy xương giống xương người. Mỗi bộ cũng cao khoảng 3 mét. Để vào cái hang này, bọn chúng cũng phải lặn xuống một cái hồ... Câu chuyện về những vật thể lạ không xác định dưới nước còn xuất hiện cả trên bản tin của Bộ Quốc phòng Liên Xô. Ở đó, người ta liệt kê hàng loạt hồ nước sâu xảy ra những hiện tượng dị thường như: các sinh vật dưới nước giống như ở Baikal xuất hiện, các khối cầu và vật thể dạng đĩa khổng lồ lặn và nổi lên mặt nước, ánh sáng từ dưới nước sâu chiếu lên...Những tài liệu này được cất giữ theo chế độ bảo mật và chỉ một số quan chức quân sự cấp cao mới có thể được tiếp cận. Mục đích của những tài liệu đó là "để tránh những vụ đụng độ không cần thiết". (Còn nữa) Theo Thúy Dương Nhời bàn của Thiên Sứ Ở Việt Nam có vài chỗ xương người to lớn đầy ra. Dân chúng địa phương thờ cùng hẳn hoi. Nếu cứ ước chừng độ dài của xương chân và tay thì chiều cao của họ cũng cỡ 3 m hơn. Nhưng chẳng ma nào để ý tới.Khi nào có điều kiện Thiên Sứ tôi sẽ chụp ảnh đưa lên đây. Thấy mà ghê, cả đồng xương các loại. Híc! Tha hồ lựa chọn để chứng minh "pha học".
    1 like
  19. Tôi cho rằng đây là một trường hợp họ Lạc Duyên nhau, hoặc sự nhầm lẫn của Ông Tơ Bà Nguyệt nay trở về đúng với người của họ.
    1 like
  20. http://www22.24h.com.vn/su-kien-ngay/nguoi...433a274220.html (24h) - Ông Trần Ngọc Lâm vốn bị bệnh ung thư phổi, bị bệnh viện trả về chờ chết. Tuy nhiên, nhờ có kỳ duyên với các thiền sư Tây Tạng, ông đã học được bài thuốc bí truyền, nên vẫn sống khỏe đến ngày hôm nay. Mới đây, ông Trần Ngọc Lâm, người sống hơn 10 năm nay trên đỉnh Fansipan, xuống núi thông báo với tôi rằng, ông đã phát hiện một bãi đá có hình khắc trong đại ngàn Hoàng Liên Sơn. Ông Lâm đề nghị tôi lập tức vào trong rừng để tìm hiểu, viết bài, nhằm kêu gọi các nhà khoa học nghiên cứu, bảo tồn trước khi nó biến mất. Ông Trần Ngọc Lâm vốn bị bệnh ung thư phổi, bị bệnh viện trả về chờ chết. Tuy nhiên, nhờ có kỳ duyên với các thiền sư Tây Tạng, ông đã học được bài thuốc bí truyền, nên vẫn sống khỏe đến ngày hôm nay. Để có thuốc chữa bệnh, ông phải định cư trong một cái hang nhỏ trên độ cao 2.900m, gần đỉnh Fansipan. Hàng ngày, ông ngồi thiền trong giá lạnh để cái lạnh âm độ hạn chế sự phát triển của khối u, rồi lang thang đi khắp đại ngàn Hoàng Liên Sơn tìm những cây thuốc quý. Hơn 10 năm trời lang thang trong Vườn Quốc gia Hoàng Liên Sơn, ông Lâm đã phát hiện ra nhiều điều thú vị trong khu rừng ít dấu chân người này. Trong những lần xuyên rừng đi tìm các loài kỳ hoa dị thảo cùng ông Lâm, đôi lúc, ông cứ úp mở nói với tôi rằng, các nhà khoa học, từ thời Pháp đến bây giờ, vẫn chưa phát hiện hết được bãi đá cổ Sapa. Đâu đó trong khu vườn rộng lớn này, vẫn có những hòn đá có hình khắc cổ… Vài lần tôi gặng hỏi, nhưng ông Lâm chỉ im lặng. Cho đến gần đây, ông bất ngờ gọi điện bảo tôi lên gấp để đi xem bãi đá cổ có hình khắc trong rừng. Theo ông Lâm, ông phát hiện bãi đá cổ này từ 3 năm trước, trong một chuyến đi vòng sang bên kia đỉnh Fansipan, sang đất Lai Châu, rồi vòng về Trạm Tôn. Khi xuyên qua cách rừng vân sam, với những thân cây ngàn tuổi, gốc mấy người ôm, cao 40-50m để tìm nấm phục linh, một loại nấm ngàn năm, giá trị hơn vàng, ông đã phát hiện ra một bãi đá cổ, mà trên mặt những khối đá đều có hình khắc. Những khối đá này nằm dưới tán rừng pơ-mu ngút ngát tầm mắt. Những khối đá cổ đen xì đen xịt, ẩm ướt có những hình khắc loằng ngoằng, sâu hoắm, đã gây sự chú ý cho “người rừng” Trần Ngọc Lâm. Ông Lâm bảo, ông đã từng vài lần đi theo các nhà khoa học vào bãi đá cổ Sapa ở thung lũng Mường Hoa, thuộc các xã Hầu Thào, Tả Van. Ông cũng đã tận mắt cả chục hòn đá có hình khắc ở bãi đá này, nên hiểu đôi chút về những viên đá cổ và những hình khắc cổ xưa. Do đó, ngay khi tận mắt những khối đá đen xì giữa đại ngàn Hoàng Liên Sơn, ông Lâm biết ngay đây là những hình khắc cổ. Với kinh nghiệm đi rừng, sống với đồng bào dân tộc nhiều năm, ông cũng chắc chắn rằng, những hình khắc này không phải do con người thời hiện đại tạo nên. Đại ngàn Hoàng Liên Sơn rộng mênh mông, ngút tầm mắt. Những dãy núi đá vôi trập trùng, những thung lũng hiểm trở chỉ có vết chân thú, không có dấu chân người. Những hòn đá cổ đã nằm im lìm giữa sườn núi, trong đại ngàn hàng triệu năm nay. Ông Lâm cũng chính là người đã dẫn tôi đi thăm bãi đá cổ Sapa từ mấy năm trước và ông lên án mạnh mẽ cái cách bảo tồn bảo tàng thiếu trách nhiệm của ta. Những hòn đá tuổi đời trăm triệu, những hình khắc đã có từ ngàn năm, vậy mà chỉ vài năm đã tan nát bởi du lịch, bởi sự thiếu ý thức của con người. Vì lẽ đó, khi phát hiện bãi đá cổ có hình khắc trong đại ngàn Hoàng Liên Sơn, ông Lâm đã yên lặng. Ông không kể chuyện này cho bất kỳ ai, kể cả lãnh đạo Vườn Quốc gia Hoàng Liên, kể cả các đồng chí kiểm lâm, những người hàng ngày xuyên rừng, ngủ hang cùng ông nhiều năm trời. Ông Lâm sợ rằng, khi những hòn đá cổ có hình khắc này được công bố, các nhà khoa học tìm vào nghiên cứu, rồi các dự án bảo tồn, rồi phát triển du lịch… Và rồi, những hình khắc sẽ biến mất. Các nhà khoa học vẫn chưa tìm được câu trả lời. Và như vậy, ông sẽ là người có lỗi với tổ tiên. Ngay cả chuyện ông phát hiện, rồi hì hục mở ra con đường lên Fasipan ngắn nhất, nhanh nhất, dễ đi nhất, tưởng là chiến công được người đời ghi tạc, nhưng thực tế, người ta đã bỏ quên ông. Nhưng điều ông thấy đau nhất, đó là, khi con đường mở ra, du lịch phát triển, Nhà nước thu lợi chẳng bõ bèn, nhưng rừng bị tàn phá từng ngày, những con thú cuối cùng đang bị tiêu diệt, những cây thuốc quý chảy tuồn tuột ra nước ngoài… Nhưng bí mật về bãi đá cổ có hình khắc trong đại ngàn Hoàng Liên Sơn ấy ông không giữ được mãi. Bởi vì, mới đây, khi xuyên qua đại ngàn vân sam, ông đã giật mình khi thấy một con đường mòn mới mở. Trên con đường mòn ấy, lâm tặc cùng với trâu mộng rồng rắn kéo gỗ như đàn kiến nhẩn nha suốt ngày đêm. Những bước chân bầm dập của đàn trâu, những cú va chạm của những súc gỗ, đến núi cũng mòn, đá cũng nát, nói chi đến những hình khắc mềm mại, dễ vỡ kia! Ông Lâm đã chết lặng khi thấy con đường kéo gỗ ấy đè nghiến lên những khối đá cổ có hình khắc kỳ lạ. Ông lại phải đau lòng mà rằng, nếu không công bố để các nhà khoa học nghiên cứu, thì những hình khắc trên bãi đá sẽ vĩnh viễn biến mất dưới bước chân đàn trâu mộng. Vậy là, tôi cùng ông Lâm, với cơm nắm, bánh mỳ, thịt hộp, túi ngủ… lên đường vào đại ngàn Hoàng Liên Sơn.
    1 like
  21. @ thanhnhien, quẻ Thương vô vong Vây a giúp em là em có cơ hội thay đổi tình thế và phát triển ở cơ quan hiện tai hay không? Luân: chưa thể có cơ hội thay đổi và không thể có cơ hội từ 8 tháng đến một năm sau. Kệ nó đi! Thiên Đồng
    1 like
  22. Thưa chị, Số này lấy chồng muộn tốt hơn, tình duyên đến sớm nhưng khó thành. Mà người lấy làm chồng, lúc yêu đương rồi đến quyết định cưới thì rất nhanh, qua một vụ tai nạn hoặc trục trặc gì đó mà sẽ thành nhanh hơn. Số chồng chị dễ phải đổi công việc/nghề nghiệp vì vợ đấy. Số này cứ công chức mà làm, chứ buôn bán chỉ phụ thêm vào thôi, không phải là nghề chính được. Huyencodieuly
    1 like
  23. Võng Đào mẹ ru . Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt nam có bài ca dao vẻn vẹn 4 câu 22 chữ có nghĩa : Gió Động Đình mẹ ru con ngủ trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh bống bồng bông, bống bồng bông võng Đào mẹ bế con rồng cháu tiên.Đây là tuyệt phẩm thơ ca gợi tả cảnh người mẹ nằm võng bế và ru con ngủ trong đêm trăng thanh gió mát , tình mẹ thương con như trời như bể tràn lấp trong khung cảnh thiên nhiên êm ả đầy hương thơm ngọt ngào ;cả 2 đã kết quyện với nhau tạo thành cái nôi hạnh phúc tuyệt vời cho buổi đầu đời của trẻ thơ Việt . Trong 4 câu thơ thì câu : bống bồng bông bống bồng bông là tiếng ru ...là sự ghép nhạc vào lời ru của mẹ quay quanh chữ bồng đồng nghĩa với bế ...đấy cũng là cung điệu trầm bổng của quê hương , còn lại 3 câu là cô đọng đến hết mực thông tin về lịch sử và quê hương dòng giống Việt . Ý bài ca dao tuyệt tác trên chỉ có thể thấu hiểu dưới ánh sáng dịch học . Dưới đây là đồ hình Hà thư ( dịch học Tàu gọi là Hà đồ ) được vẽ với số đếm thay cho những nút thắt nguyên thủy và đặt nằm ngang theo chiều xích đạo và cực Bắc hiện nay ( cực Nam xưa theo dịch học) . Ta thấy cặp số 2/7 nằm về hướng Xích đạo và cặp 1/6 ở hướng đối nghịch . Vì hướng bắc - nam xưa đã bị đảo ngược nên trong bài sẽ dùng ‘Giang’ và ‘hồ’ là 1 cặp đối theo dịch lý để thay thế , Hồ hình tròn giang hay sông nét thẳng , hồ nước tụ giang nước chảy , Giang – hồ tạo thành 1 trục tương đương trục bắc –nam của địa lý ngày nay, trục này được xác định trên Hà thư bằng số 1 và số 2 . Trong 12 tháng của Việt nam thì tháng giêng là tháng đầu kế đến là tháng hai , tháng giêng cũng là tháng 1 ta có giêng là từ đồng nghĩa với 1. - Số 1 cũng là Giêng , giêng →giang (sông) →giăng (trăng) - Số 2 hai → hà - hồ – hạ – hè Trục (1 – 2 )→ (giang – hồ , sông – bể ). Hồ ở hướng xích đạo và giang ở hướng bắc cực ( nay ). Đọc câu : Gió Động đình mẹ ru con ngủ . Có thể nói ngay không chút ngần ngại : mẹ ở đây là Long mẫu , Long mẫu khi chưa kết duyên cùng Kinh dương vương gọi là Long nữ con gái Động đình quân tức vua vùng Động đình hồ , Long mẫu chính là tổ mẫu dòng Hùng Việt hay Bách Việt ; vì chỉ Long mẫu mới có thể nằm ru con Hồng cháu Lạc ở Động đình hồ đúng như truyền thuyết lịch sử . Khi áp thực địa Việt nam và Hoa nam vào đồ hình Hà thư thì nhận ra ngay Động đình hồ là Biển đông chính là hướng ‘hồ’ vì theo trục : “1 - 2 , giang – hồ” ta đã có Giang ở phía đối nghịch , Giang là tên gọi khác của Trường giang , Động đình hồ và Trường giang cấu thành trục giang – hồ của địa lý Trung hoa và cũng chính trục ‘giang – hồ’ này đã phủ nhận việc ấn định Động đình hồ là đầm Vân mộng xưa vì nếu ‘hồ’ ở đấy thì ‘giang’ ở nơi nào ?, không thể nào là Hoàng hà được vì Hoàng hà còn có tên riêng là HÀ , không lẽ đất Trung hoa có Trục phương hướng ... “hồ – hà” vừa vô nghĩa vừa vô lý . Rất có thể đầm Vân mộng xưa nay gọi là hồ nam , nghĩa là cái hồ nằm ở phía nam (xưa theo dịch lý) của Giao châu tức là vùng Trung tâm và vùng đất có cái hồ ấy được đặt tên là tỉnh Hồ nam (cấu trúc Việt ngữ ) , tương tự ở hạ lưu Trường giang có 1 hồ rất lớn tên là Pò Dương nghĩa là cái hồ lớn ở phía đông ( Giao châu ? ) Tới đây đã xác định được hướng ‘hồ’ của lãnh thổ Bách Việt là Biển đông , câu tiếp theo là : ‘Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh’ cũng giúp xác định phần lãnh thổ hướng ‘giang’ là sông Tiền Đường , con sông chảy qua ranh giới 2 tỉnh An huy và Giang tây rồi vào tỉnh Triết giang Trung quốc ngày nay , Chiết giang cũng là tên gọi khác của sông Tiền Đường . Trăng hay giăng và giang tất cả chỉ là biến âm của từ ‘giêng-1’ chỉ phía Nam xưa của Hà thư (nay đảo là bắc) . Khi so chiếu những thông tin địa lý trong bài ca dao trên với trục ‘giang – hồ’ thì xác định được lãnh thổ Bách Việt : bắc (xưa) là Động đình hồ hay biển đông , nam (xưa ) là sông Tiền đường hay Chiết giang . Thực tuyệt vời khi chỉ với thông tin mang trong bài ca dao ngắn ngủi này đã đủ để xác định lãnh thổ của người Hùng Việt hay bách Việt là gồm toàn bộ phía nam ( nay )Trường giang cho tới đất Việt nam ngày nay . Vùng Chiết giang là lãnh thổ nước Việt xưa , nơi thờ vua Hạ vũ tức Hùng Việt vương –Tuấn lang trong sử thuyết họ HÙNG cũng là nơi các học giả Trung hoa cho là phát tích văn hoá Việt và Trên vùng lãnh thổ bao la ấy câu : ‘võng Đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên’ chỉ ra tên gọi tổ quốc thiêng liêng của người Việt là ‘HỒNG BANG ’; hồng là màu đỏ đồng nghĩa với đào , bang đồng nghĩa với ‘quốc’ với ‘nước’ nếu viết sai thành ‘Hồng bàng’ là mất hết ý nghĩa . Bài ca dao 22 chữ là 1 tuyệt phẩm thơ ca vì chỉ với 3 câu thơ ngắn gọn đã gói trọn những thông tin ngàn năm của nước Việt : Cái Võng mẹ nằm ru con là cùng hình tượng với chiếc nôi mà ngày nay hay dùng để chỉ quê hương , võng Đào đồng nghĩa với Hồng bang quốc hiệu đầu tiên của vương quốc Việt . Truyền thuyết lịch sử Việt và cổ sử Trung hoa nhìn dưới ánh sáng dịch lý có sự đồng nhất hoàn toàn : Hồng bang - Đất Đào – nhà Hạ –Hùng Hoa (Hoả) vương – Hải lang tất cả đều chỉ những tố chất của ‘mặt trời’ ; hướng xích đạo –quẻ ly tức lửa – màu đỏ , vùng Hồ - hải hay biển cả , những dịch tượng này về phương diện địa lý là chỉ vùng nhiệt đới –xích đạo còn trong quan niệm triết học dùng chỉ sự văn minh sáng sủa ngược với chốn man dã tối tăm . Sổ 1 = Giêng →Trăng - giăng –giang cộng với 5 canh –tiền Đường (Thường ) tất cả là dịch tượng chỉ phương Nam của dịch học (ngược với phương hiện nay) , Sông Đường hay Thường cộng với tên nước Việt gợi cho ta danh hiệu nước Việt Thường trong truyền thuyết lịch sử . Hồng bang ở hướng ‘hồ’ hợp với Việt Thường hướng ‘giang’ thật là trọn vẹn 1 đất nước không thể nào cô đọng giản lược câu chữ hơn được nữa , tuyệt vời hơn khi chỉ với 3 chữ ‘gió Đông đình’ đã chỉ rõ cả 1 thời gian dài lịch sử kết tạo cô đúc nên dòng giống Việt : - Gió chỉ đức Tản viên hay Tốn lang-Tốn vương ; quẻ Tốn là tượng của phong – gió ; trong phả hệ 18 đời Hùng vương là Hùng Việt vương – Tuấn lang tổ các vương triều Việt , Chữ Phong còn liên quan tới Phong châu quốc đô thời Hùng vương dựng nước . - Động Đình hồ là quê của của Long nữ là tổ mẫu của dòng giống Việt . Sự kết hôn lập thành gia đình trong truyền thuyết lịch sử Việt luôn là sự phản ánh việc hoà nhập 2 dòng tộc, từ 2 thành phần khác biệt đã hoà huyết và đúc kết văn hoá tạo thành 1 cộng đồng dân tộc thống nhất trong thực tế lịch sử , cộng đồng Bách Việt đã ra đời từ hôn nhân lịch sử giữa vị Kinh dương vương tức vương cai trị phương nam cuối cùng thời lập quốc là Hùng Việt vương Tuấn lang với con gái của Động đình quân vua vùng biển đông . Lạc long quân nghĩa là vua chung của cả 2 thành phần Lạc và Long , danh xưng của vương quốc là Hồng bang , lãnh thổ trung tâm gọi là đất Đào nay là đất Việt và Quảng đông – Quảng tây ., những thông tin lịch sử này được ghi chép trong cổ sử Trung hoa với nhân danh địa danh khác :...Hạ vũ lấy vợ là Đồ sơn thị sinh ra ông Khải , Khải lập nên vương triều đầu tiên của Trung hoa là triều Đại Hạ , ông Hạ Vũ được tôn là tổ nhà Hạ và đất Cối Kê được dành riêng để thờ cúng , thực ra vũ chỉ là ký âm Hán ngữ của từ Vua trong tiếng Việt , Hạ vũ nghĩa là vua Hạ chính là Hùng Việt vương trong lịch sử Việt nam vì thế nhà nước lập ở Cối kê mang tên là nước ‘Việt’ . Võng Đào trong bài ca dao này khi liên kết với truyền thuyết Hồng bàng thị giúp khẳng định Lãnh thổ nước Việt gồm :Giao châu tức đất Việt ngày nay là đất gốc của dòng giống Hùng và Quảng đông Quảng tây là phần đất mở rộng về sau ( từ quảng nghĩa là mở rộng ra) , đất Đào là đất trung tâm của vương quốc họ HÙNG thời Hùng Hoa vương - Hải lang , Hoa sử gọi là nhà Hạ , Hải nam hay Nam hải chỉ là biến âm của Hải lang hay lang Hải tức Hải vương mà thôi . Đất Đào cũng là lãnh thổ nước Nam Việt , triệu Đà chỉ là chữ viết sai của triệu Đào nghĩa là vua đất Đào chứ không có ai họ Triệu tên Đà cả . Hiện nay trong giới sử học Việt nam , còn không ít người cho nước Việt xa xưa chỉ tồn tại trên phần đất bắc và bắc trung phần ngày nay , 3 câu thơ trong bài ca dao bất hủ này đã loại bỏ hoàn toàn ý nghĩ sai lầm đó , vì làm sao giải thích được các điạ danh ....tiền Đường , Động đình cũng như những chữ ... võng Đào .v.v lại có mặt trong bài ca dao mang nặng tình tự dân tộc này : ‘Gió Động Đình mẹ ru con ngủ trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh bống bồng bông, bống bồng bông võng Đào mẹ bế con rồng cháu tiên. Bài : -Nôm na là cha mách qué . -Hướng nhìn mới về cuộc nam tiến . -Thời Hùng vương dựng nước . Xin đọc ở Diễn đàn lý học Đông phương phần thử bút .
    1 like
  24. Điều cần nói .. Trích vài hàng Việt nam sử lược của Trần trọng Kim .... ...Nhân dịp Thái-tông nhường ngôi cho Thánh-tông, vua Mông-cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh-tông, và tuy không bắt nước Nam phải đổi phục-sắc và chính-trị, nhưng định cho ba năm phải một lần cống. Mà lệ cống thì phải cho nho-sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán-số và thợ-thuyền mổi hạng ba người, cùng với các sản-vật như là sừng tê, ngà voi, đồi-mồi, châu-báu và các vật lạ... Thực kỳ lạ ...Mông cổ đã là chủ Trung nguyên ...tại sao còn bắt ‘An Nam ’ cống nho sĩ , thầy thuốc , thầy toán số .v.v. .? Việc này chỉ ra ....vua Mông cổ biết rất rõ cái gốc của văn minh Trung hoa nằm ở đâu . Thật trớ trêu vì không phải chỉ người ngoài mà chính người Việt cũng không mấy ai biết điều ấy nên vẫn ...‘nặng bên ngoại nhẹ bên nội’ thường xem những gì ‘sưu tầm’ được ở bên Tàu là quan trọng là đáng tin hơn những gì tìm thấy trong nước ; thậm chí chẳng ai thèm để ý đến những gì ghi chép trong thần tích thần phả nói riêng và nói chung là hết thảy những gì tìm kiếm được trong dân gian ..., nếu có người nêu ra vấn đề gì đó ...thì các nhà ‘ngâm cứu’danh gía cũng chỉ lướt qua như cơn gió thoảng mà thôi , có khi còn tra vặn lại ...như quan án xử tội nhân vậy , nguy hại biết mấy khi không phải chỉ giới có ‘máu mặt’ mà dân gian cũng thế , ‘bác sĩ Trung y’ thì trọng vọng còn ‘thày lang’ nhà ta thì chẳng mấy ai nể ...thậm chí còn khinh khỉnh coi thường châm chích bằng từ ‘ lang vườn’ do chẩn đoán và bốc thuốc không có vẻ gì là... khoa học (?) ;tương sinh tương khắc vớ vẩn mà là cơ sở để chẩn và trị bệnh sao ?. - ‘nhà Nho’ngày nay xem ra vẫn còn giữ được chút ‘danh gía’nhưng lại coi như đó là cái bóng của văn minh Trung hoa ...có ai nghĩ đến Việt Nho và nền văn minh Việt đâu . Thể tạng người Việt tương đối nhỏ mà ngàn năm qua chúng ta mấy khi được yên ...vậy cha ông ta làm sao giữ được nước trước đám giặc thù hung bạo dữ dằn như hổ báo nếu không có 1 nền võ học cực kỳ tinh diệu cương mãnh bên cạnh tinh thần yêu nước và chí quật cường ; xin hỏi hiện nay có 1 cơ quan hay bộ phận nào đó của nhà nước đứng ra thu thập và hệ thống hoá nghiên cứu 1 cách có bài có bản để bảo tồn và phát huy tinh hoa võ thuật Việt nam ? Tâm lý ... ‘học trò’ của Tàu ăn sâu trong đầu óc đã khiến nhiều người tự xếp vào hàng dưới không dám trèo cao tranh hơn với thày là điều vô cùng nguy hại cho tương lai dân tộc , làm sao có thể chấn dân - hưng quốc với bộ não bẹp dí như thế ? Người Việt ơi ; hãy xem việc vua Mông cổ bắt chúng ta phải cống các bậc anh tài trong khi họ đã là chủ Trung nguyên ‘người tài như sao trên trời’ thì mới đánh gía đúng tài trí của cha ông mình , nếu không xếp kèo trên ...thì ít nhất cũng chẳng kém gì ai , đã đến lúc phải lượng giá lại những gì ta đang có ; tự cân nhắc lại tầm vóc của chính mình , nhiều người với nhiều công trình nghiên cứu đang chứng tỏ cái gốc Dịch học nằm trên giải đất này như thế chắc chắn đỉnh cao của Nho Y Lý Số và võ thuật cũng đang chứa giữ ở đây , quan trọng là có biết cách khơi đào để nước từ nguồn mạch chảy ra hay không , việc này không 1 cá nhân hay 1 nhóm người nào có thể làm được mà phải xem là quốc sách , toàn dân tham gia mọi người hành động thì mới có cơ may thành công ., Tương lai ra sao được quyết định từ ngày hôm nay .
    1 like
  25. Hồng nhan bạc phận, khó có thể là giờ Tị được. 23 tuổi âm mà mất cái ngàn vàng thì quay lại diễn đàn nói chuyện tiếp. Nếu ko thì xem lại giờ sinh.
    1 like
  26. Tất nhiên là ông Khiết này là do một cơ sở sản xuất nào đó đúc ra ("Ai đúc mới") và muốn có thì phải ra chợ mua. Nhưng nó là một tồn tại khách quan với người viết bài này và là một thực tế lưu truyền được mặc nhiên thừa nhận. Còn v/v bỏ đồng tiền ra tài lộc nhiều hay ít thì chúng tôi đang tìm hiểu.
    1 like
  27. tuấn dương vừa xủ được quẻ thương -xích khẩu với quẻ này rin sẽ đi được thôi nhưng có vẻ ko đúng như kế hoạch,có thể rin sẽ đi sớm hơn tuấn dương đoán là tháng 9 al (bính tuất)rin sẽ đi,tức khoảng cuối tháng 10 dl quẻ sinh-tốc hỷ vào giờ nhâm tý thì e rằng bệnh của bạn rin sẽ có chuyển biến xấu mong rằng tuấn dương đoán sai
    1 like
  28. Chào bạn! Bạn có thể vào khu vực tư vấn với các mục tương ứng để hỏi. Mục trao đổi học thuật chỉ dành để trao đổi và chia sẽ kiến thức, gửi các bài viết mang tính nghiên cứu. BabyWolf. Chào bạn! Gửi 100 bài chỉ là tiêu chuẩn cơ bản để xét duyệt chứ không có nghĩa là cứ 100 bài thì được vào. Tuy nhiên, cũng không nhất thiết bạn phải tìm cách gửi đủ 100 bài mà có thể đăng ký bất kỳ lúc nào. Trước khi đăng ký thì bạn cần có một số bài chất lượng (gửi ở những mục được phép gửi) hoặc tư vấn cho người khác nhằm thể hiện trình độ chuyên môn trong học thuật. Trường hợp nếu như bạn không được duyệt sau khi đăng ký thì vẫn có thể tiếp tục tham gia ở các mục khác và xin đăng ký lại khi bạn cảm thấy đủ điều kiện. Rất mong bạn thông cảm vì đây là nội quy diễn đàn. BabyWolf
    1 like
  29. Sử thuyết họ HÙNG-những điều mới biết . Để dẫn chứng cho những dòng sử sắp viết Xin trích 1 phần bài viết về phiên thiết chữ Hán của tác gỉa Nhạn nam Phi .. Sách “Thuyết-Văn” còn gọi là “Thuyết văn giải tự”do Hứa Thận thời Đông Hán biên soạn, bao gồm 2 phần là Thuyết văn và Trọng Văn. - ........ - Sách Thuyết văn dùng 2 phương pháp “Phản” và “Thiết” để tra chữ, rồi giải thích nghĩa, tạo ra tiền lệ và trở thành quyển từ điển đầu tiên. Các từ điển sau nầy là phỏng theo phương cách của Thuyết văn. - -“Phản” là cách nói phản-nghịch (nói lái): dùng từ phản (nói lái) để đọc ra phát âm của chữ cần tra cứu. Ví dụ: - Phát âm chữ “Thiên 天” là theo cách nói lái của “Tha-Tiền 他前”, là “Thiên Tà”, thì sẽ biết “Thiên” là phát âm của chữ “Thiên 天”: 天 = 他前. - -“Thiết” là nhất thiết, là tất cả: chữ đầu lại dùng luôn âm vần của chữ thứ 2 để phiên âm ra giọng đọc của chữ cần tra cứu. Ví dụ: - Phát âm chữ “Thiên 天” là dùng chữ “Tha-Tiền 他前”. Với cách đánh vần chữ “Tha 他” dùng luôn âm “iên” của chữ “tiền前” thì sẽ được Tha-iên-Thiên: 天=他前. - Hai phương pháp “phản” và “thiết” có cách dùng trái ngược nhau, nhưng nhập chung lại thì cách nào cũng được, và gọi chung là “phương pháp phản-thiết” để phiên âm. Có hiện tượng “không bình thường” là khi dùng tiếng Hoa ngày nay để đọc “Hán ngữ” cổ thì khó khăn, không thích hợp, còn dùng tiếng Việt ( phát âm hán việt ? ) để đọc lại dễ dàng. Từ đó rút ra kết luận: đọc Thuyết văn theo tiếng Việt thì đúng, mà đọc theo tiếng Hoa thì nhiều khi sai vì không hoặc khó phiên âm đúng. Thí dụ : chữ “Hạ夏”. –Hồ nhã thiết . -Phiên âm theo cách phản: Hồ nhã = Hà nhỗ, âm : “Hạ” -Phiên âm theo cách thiết: Hồ-nhã=Hồ-a-ha , âm : “Hạ”. Một đoạn ngắn nêu trên khi tra chữ Hạ 夏 cho thấy thời cổ đại cho đến thời nhà Hán thì chữ 夏xia của tiếng Hoa bây giờ, ngày xưa đọc là “Hạ夏”. Như vậy, rõ ràng là dùng tiếng “Hoa” khi tra Thuyết văn là trật, là không thích hợp. “Hồ nhã” không bao giờ phiên âm ra thành “Xia”. Đặc biệt: “Hồ nhã-胡雅” đọc theo Mân Việt “雅Nhã” là “Nghé”, “nghe” hay “nghè” thì “phản thiết pháp” cuả Hạ夏 trở thành âm Hè夏 theo tiếng Triều Châu và Việt Nam. ................. Hết phần trích . Chữ NHO mà người Hán phải phiên thiết mới đọc được thực là lạ ...ngộ nghĩnh hơn là phải phát âm theo giọng đọc của Bách Việt mới chính xác . Điều này tưởng nhỏ nhưng thực sự không nhỏ chút nào ...vì chính nó giúp xác định Trung hoa xưa là người Bách Việt ở Hoa nam , văn minh Trung hoa là văn minh Việt người Hán Hoàng hà chỉ ‘ăn theo’mà thôi ,nhưng về sau họ chiếm đoạt luôn biến người Việt thành kẻ ăn nhờ ở đậu như thiên hạ đang tưởng . Người Hán không chỉ phiên thiết để đọc chữ Nho mà họ đã ứng dụng tạo từ để dịch những từ nước ngoài mà bản thân Hán văn không có chữ đây là điều mới . Vận dụng phép phiên thiết bỗng hiểu ra nhiều điều bất ngờ và thú vị : Nước India ngày nay được cổ thư Trung hoa gọi là nước ‘Đại Thực’ chính xác phải đọc là đại THỤC biến âm của từ Thụt tiếng Việt , bên đông là Dâng nghĩa là mặt trời lên Hoa ngữ là dương , bên tây mặt trời thụt xuống biến âm hoa ngữ là thiệp. Từ Thục phiên thiết Hán văn là : -Thiên Trúc thiết là Thúc đọc thành Thục . -Thận độc thiết là Thộc cũng đọc thành Thục . Tên nước Thiên trúc - Thận độc ...cả về nghĩa và thanh đều không liên quan gì đến india .... Thì ra người Trung hoa gọi nước India là nước lớn phía tây ....chỉ đơn giản thế thôi . Sau 1 chút dành cho ngôn ngữ học mời bạn đọc cùng xem Bản đồ Đại Việt nam trước thời Pháp thuộc . Bản đồ trên chỉ ra : Toàn bộ Miền Trung và hạ Lào nằm trên cao nguyên AN NAM , tất cả nằm trong lãnh thổ Đại Việt nam , tên quản hạt hành chánh các vùng là Trấn Ninh , Trấn Tĩnh ,Trấn Định ; trong các từ này :Trấn là đơn vị hành chánh , Ninh- Tĩnh - Định lấy nghĩa từ Dịch học là không thay đổi quẻ Ly chỉ phương tây ngược với Đông là động ., Trấn Ninh trấn Tĩnh trấn Định đều có nghĩa là trấn hay vùng lãnh thổ phía tây . Cực nam của cao nguyên An nam là tỉnh Champassak của Lào ngày nay , bằng vào tên gọi có thể đoán định trước đây nơi này là vùng đất của người Cham , thuộc lãnh thổ nước Champa . Tóm lại khi chia lại lãnh thổ 3 nước Đông dương Thực dân pháp đã cắt 1 phần lãnh thổ rất lớn phía tây Việt nam chuyển sang lãnh thổ Lào , với người Pháp đây là chuyện ‘lấy của làng làm ơn cho ông Xã...’ vô thưởng vô phạt đâu cũng là thuộc địa của Pháp ...nhưng việc này lại là tội ác vô cùng lớn đối với người Việt vì khi xoá bỏ chế độ thực dân trên bán đảo Đông dương các nước trên thế giới đã lấy bản đồ phân chia địa giới dùng cho mục đích quản lý hành chánh nội bộ Của nhà cầm quyền mà thực dân Pháp tự ý tự quyền phân chia không hề dựa trên nền tảng lịch sử để áp đặt cương giới lãnh thổ thực sự được quốc tế công nhận cho 3 nước Việt - Miên -Lào độc lập . Đây là 1 bất công lớn lao người Việt phải gánh chịu khi bước vào thế giới văn minh hiện đại , lãnh thổ mất trắng tính ra ít nhất cũng trên 100.000 km2 , cũng may vì sự vận động khách quan của lịch sử tất yếu sẽ dẫn đến 1 cộng đồng Đông nam Á , khi ấy lãnh thổ của các nước thành viên không còn là ‘của riêng ai’ , ai cũng là người Đông nam Á đất nào cũng là đất Đông nam Á cả nên người Việt kiên trì theo lời chỉ bảo của Dịch học ... “ bỏ cái nhỏ để được cái lớn ” , hành sử như thế không tạo can qua mà anh hồn tiền nhân những người đã lấy thịt xương chất thành cao nguyên An nam để lại cho con cháu cũng không phải tủi hổ . Giờ thì chẳng cần cổ thư Trung hoa , chỉ cần nhìn vào bản đồ cũng biết được quốc gia của người Việt trước đây là nước Lạc hay quốc gia Lạc . Nhiều nhà khoa học đã kiến giải : Lạc biến âm ngày nay là nước , lạc →nác →nước . , nước là yếu tố vật chất nền tảng tạo thành mọi sinh vật , nhưng với dịch học thì không dừng lại ở đấy mà nước chính là dịch tượng chỉ phương NAM , từ quốc hiệu “Lạc-Nước” 1 danh từ riêng về sau trong Việt ngữ Nước biến thành danh từ chung đồng nghĩa với từ bang , quốc trong Hoa ngữ . Nước Lạc đồng nghĩa với NAM BANG đã được nói đến trong những câu đối ở đền HÙNG là nhà nước của người Lạc Việt 1 chi của Bách Việt ; dòng tộc làm chủ miền đất phía nam sông Dương tử và Đông nam á từ thời thái cổ . - Bản đồ Đại nam trên chỉ ra : địa danh Lạc biên và Cam môn cạnh nhau đã xác định ranh giới nam Lạc và bắc Cam là Hoành sơn hay đèo Ngang , Cam môn nghĩa là cửa vào nước Cam xác định lãnh thổ nước Cam phía bắc bắt đầu từ chỗ này kéo dài về phía nam tới Cam ranh , Cam ranh chỉ nghĩa là ranh giới nước Cam ta có thể khẳng định nghĩa ấy vì cạnh Cam ranh là Phan rang , chữ rang là chữ viết sai đúng ra phải viết là Phan ranh cũng như chữ Cam ranh trước đây có tư liệu viết là Cam rang . Dựa trên thông tin chứa trong bản đồ tiền Pháp thuộc trên ta xác định : nước Việt nam ngày nay hình thành trên cái nền của 3 nước Lạc –Cam - Phan cũ và mất đi phần lãnh thổ rộng lớn ở phía tây bắc Việt . Một số điều mới biết : 1 / nước Lạc . - Nước Lạc ngoài phần lãnh thổ phía tây mới mất thời hậu thực dân trước đó cả 1 vùng rộng lớn ở phía bắc đã bị giặc Tàu cưỡng chiếm khi vua quan nhà Mạc ‘mãi quốc cầu vinh’, lãnh thổ phía bắc Đại Việt trước đây lên tới tận miền nam Quảng Tây và tây Quảng Đông ....xa hơn nữa thời Đại Việt - Đại Hưng ( người Tàu cố tình gây nhiễu đã biến đại Hưng ra Đại Hán )cả Quảng đông và Quảng tây đều là đất Việt với tên gọi Việt đông và Việt tây. Cổ sử nước Việt có 1 điều hoàn toàn mới và rất lớn : Tùy thư -Liệt truyện -Lâm Ấp Tổ tiên của Lâm Ấp, nhân có loạn người đàn bà Trưng Trắc ở Giao Chỉ cuối thời Hán, con của Công tào trong huyện là Khu Liên giết Huyện lệnh, tự hiệu làm Vương. Không có con, cháu ngoại của mình là Phạm Hùng nối tiếp lập, chết, con là Dật lập. Người Nhật Nam là Phạm Văn nhân loạn làm phó của Dật, rồi dạy xây cung điện, làm khí giới. Dật rất tín nhiệm, sai Văn cầm binh, rất được lòng dân chúng. Văn nhân đó tra hỏi con em của Dật, người thì chạy người thì trốn. Đến lúc Dật chết, nước không có người nối nghiệp, Văn tự lập làm Vương . Đọc đoạn sử trên ta không thể hiểu khác là khởi nghĩa Hai bà Trưng xảy ra vào cuối thời Đông Hán , đồng thời hay ngay trước thời điểm Khu liên giết huyện lệnh Tượng lâm và xưng vương . Khu Liên trong sử sách là tên gọi của quốc vương đầu tiên của Lâm Ấp, ngoài ra còn có các tên gọi khác như: Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương. Người ta cho rằng ông lập ra vương quốc Lâm Ấp (sau này là Chăm Pa) năm 192 ...như thế Mã viện không thể hành quân dẹp “loạn người đàn bà Trưng Trắc ở Giao Chỉ” chiếm đất việt trong thời gian năm 39-42 như Việt sử và Hán sử đã chép . Thông giám tập lãm của triều đình nhà Thanh dọn lại các sách của Tư Mã Thiên, Ban Cố , Tư Mã Quang và Chu hy, làm năm 1768, cũng chép một đoạn trong đời Tần Thủy Hoàng rằng: “Năm Đinh Hợi (214 tr. T.C.)… nhà Tần lấy đất Nam Việt đặt Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận…”. Dưới chữ Nam Việt chua “tức Bách Việt, cũng gọi là Dương Việt”; Nhiều ‘thư’ khác của trung hoa cũng cho Nam việt là Bách Việt ....phải chăng 9 quận Hiếu vũ đế chia đất Nam Việt như sử hiện nay chính là 9 phần đất của cả khối Bách Việt , nếu cho đấy là 9 quận của Nam việt thì sẽ lộ ra sự vô lý ở chỗ ...đảo Hải nam bao lớn , thời đó có được bao nhiêu dân mà chứa cả 2 quận Chu nhai và Đạm nhĩ của Trung hoa ? , cách đây chục năm , Hải nam vẫn chỉ là 1 huyện đảo của tỉnh Quảng đông mà thôi . Người Tàu với mưu đồ thoán đoạt lịch sử và văn minh Bách Việt đã tạo ra 1 mớ bòng bong các thông tin lịch sử thật giả lẫn lộn quấn chặt chồng chéo lên nhau cơ hồ không thể gỡ ra được . Dựa trên những thông tin mang trong chính tên các quận ta có thể xác lập Bản đồ 9 quận Trung hoa trên đất Hoa nam thời Hiếu vũ đế (Tây Hán ). - Giao chỉ là đất Lạc Việt xưa nay . - Lâm Ấp cũng là Uất lâm nay còn dấu là thành phố Uất lâm tỉnh Quảng tây . . - Cửu Chân thực ra là Cửu châu chỉ đất phía tây đồng nghĩa với Qúy châu . - Nhật nam là Nhất nam , nhất số 1 là dịch tượng chỉ nước cũng là chỉ phương nam không phải Nhật nam nghĩa là phía nam xích đạo . - Thương ngô là đất chính của nhà Thương cũng là nước Ngô thời Chiến quốc . - Hợp phố chỉ là biến đổi của Hợp phì thủ phủ của tỉnh An huy . - Hải nam hay Nam hải xưa nay vẫn là đất Quảng đông . - Chu nhai là Phúc Kiến ngày nay , vì sách xưa chép Chu nhai là đảo lớn sau này Đường triều đặt bộ tư lệnh hạm đội biển nam của Trung quốc . (sử Trung hoa cho Chu nhai là Đảo Hải nam ?). - Đạm nhĩ là tên Quận sau cùng nên đặt vào đất chưa có tên . Chính cổ thư Trung hoa đã xác nhận sự ấn định trên khi chép : Phù nam cách Lâm ấp 3000 lý , cách Nhật nam 7000 lý tức khảng gần 1500 km và 3500 km . Người Hán đã cố ý ép 9 quận của cả vùng đất Bách Việt rộng lớn dồn vào thành 9 quận đất Nam Việt của Triệu Đà ; Cửu châu biến thành Cửu chân , Uất lâm hay Lâm uất thành Lâm ấp , Nhất nam thành Nhật nam , Hợp phì thành Hợp phố .v.v .Cố ý gây nhiễu loạn lịch sử để không người nào còn có thể nhận ra cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng chính là khởi nghĩa Hoàng cân đã diễn ra trên toàn cõi Hoa nam , điều này cũng nghĩa là không có thời bắc thuộc lần thứ nhất như sách sử đang lưu hành , chính cuộc hành binh do Mã Viện chỉ huy mới đặt nước Việt vào vòng nô lệ . Việc thay đổi 9 châu làm nhiễu loạn lịch sử không phải là lần đầu , trước đó những người muốn ‘bẻ cong bẻ quẹo’ lịch sử đã thủ tiêu đi quận Tam xuyên của nhà Tần , thủ pháp rất đơn giản ...thay tất cả tên Tam xuyên trong sách sử địa Trung hoa sau đời Tần bằng tên Tượng quận mặc cho Ung thành thủ phủ quận Tam xuyên vẫn còn đứng đấy (nay là thành phố Nam ninh.), Tượng quận thực ở vùng Vân nam bị ‘hô biến’ thành huyện Tượng lâm nghĩa là 1 huyện ở tây Quế lâm ... Tất cả mọi sự chồng chéo đổi thay ....là do hàng chữ không thể tẩy xoá : Tần lấy đất 2 nhà Chu lập quận Tam xuyên...trong Sử ký Tư mã Thiên mà thôi . 2 / nước Cam . Nước Cam viết theo Phạn ngữ là Campanagara là nhà nước của người Hời cổ sử Việt gọi là Hồ tôn , Hồ và Tôn là những Dịch tượng chỉ hướng Xích đạo ; Hồ là quẻ Đoài , Tôn là can Tân của Thập can , qua Cam môn 1 quãng suôi về nam là tới thành phố Đồng Hới ...rõ ràng đây là tên tiếng Việt nhưng bản thân người Việt cũng không hiểu địa danh ấy mang ý nghĩa gì ....thưa ...nếu phát âm theo đúng giọng Bình trị thiên là Động Hời thì ra nghĩa chính xác ngay, động là đơn vị hành chánh việt nam thời xưa , Hời ở đây là người Hời sách vở Trung hoa phiên âm thành Hu hay Ho . Vua Hồ tôn hay Hồ Tân gọi là Lang Tân hay Tân lang (lang là vương) , nếu viết bằng Hán văn thì Tân lang đồng âm với tân lang nghĩa là cây cau...;vì vậy nước Cam còn được biết đến dưới tên dân gian là Chàm cau ....sách vở Tàu ghi là Tân lang tộc . - Ghi nhận : Người Việt xưa đã gọi và ghi chép 1 cách chính xác tên nước CAM trên bản đồ không dùng tên theo Hoa ngữ là Chiêm thành hay Chiêm bà. Phiên thiết Hán văn cho ta : Chiêm bà thiết là CHÀ , Chà Biến âm thành Trà còn lưu dấu trong các địa danh như Trà bồng đặc biệt là kinh đô Trà kiệu của Chiêm thành , nhiều người vẫn lầm lẫn khi cho cụm từ : ‘Chà già ấn độ’ là chỉ người nước India thực ra cụm từ này chính xác là ‘Java-Indo’ tức chỉ đảo Java nước Indonesia ngày nay , rất có thể CHÀ là tên người Việt gọi chung những người thuộc loại hình nhân chủng Nam đảo hay indonesien . Từ Chà ngoài ‘Trà’ còn có các biến âm khác như : Đà trong địa danh Đà nẵng , (chữ Đà này hán văn phiên thiết là Đồ bà ). Rất có thể Chà còn biến âm thành Sa trong địa danh Sa Huỳnh và tên 2 quần đảo Trường Sa- Hoàng sa , Huỳnh là từ thay thế cho Hoàng do kỵ húy chúa Nguyễn Hoàng , Sa hoàng là chúa hay vương của người Chà nghĩa rất rõ . Tân Đường thư viết : người Lâm ấp ưa đạo ‘phù đồ’...suy mãi mới ra : -Phù đồ thiết là Phồ Hán Việt đọc là Phật . Phật gíao đã du nhập vào Trung hoa từ đầu công nguyên , chắc trong Hoa ngữ từ Phật phải có lâu lắm rồi vậy mà sao mãi tới đời Đường còn gọi là đạo Phù đồ ... Thực Trung hoa luôn kỳ bí , khi tìm ra sự độc đáo này người viết vẫn đang tự hỏi ...tại sao ? Liên quan tới lâm ấp -Chiêm thành còn nhiều điều chưa hiểu nổi như chép trong: Chư phiên chí -Bắc Tống - Nước Chiêm Thành - Triệu Nhữ Thích chép : Chiêm Thành , phía đông đi biển đến Quảng Châu, phía tây tiếp Vân Nam , phía nam đến Chân Lạp, phía bắc đến Giao Chỉ, thông Ung Châu . Từ Tuyền Châu đến nước này theo chiều gió đi thuyền hơn hai mươi trình. Đất này đông tây 700 dặm, nam bắc 3,000 dặm. Kinh đô nước này gọi là Tân Châu, tức là tên huyện trấn.. Cứ theo sách này thì Chiêm thành có lẽ gồm cả đất Xiêm la ...? hay 2 tên là 1... Xiêm nào cũng là Xiêm ...? - Về quốc hiệu Lâm ấp trong sách vở trung hoa xin đưa ra 2 giả thuyết : - Thứ 1- Lâm ấp là chữ viết sai của LAM ÁP. Lĩnh nam trích quái phần chuyện Nam Chiếu cho biết : vùng đất từ cửa Thần phù tới Hoành sơn tức đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh có tên là Lâm An , Lâm là chữ ký âm sai của Lam viết tắt của Thanh lam tên gọi đất Thanh hóa trước đây , An là gọi tắt của Nghệ an , Lam áp nghĩa là phần đất sát với đất Lam tên gọi tắt của vùng Thanh nghệ tĩnh , đối chiếu với bản đồ trên ta nhận ra Lam áp chính là lãnh thổ nước Cam của người Hời . - Thứ 2 - Lâm ấp thực ra là Ấp lâm . Ấp lâm thiết là ÂM đọc thành Ân –Yên chính là nước Yên thời chiến quốc . Biến cố lịch sử ở Lâm uất hay Uất lâm đem trộn lẫn với những sự kiện xảy ra ở Lâm ấp tức nước Yên thành mớ bòng bong ....nên cột đồng Mã Viện có ‘thư’ viết là ở nam Quảng Tây ‘thư’ khác lại cho là ở biên giới Giao chỉ và Cham pa ...2 nơi cách nhau bằng cả chiều dài Lạc Việt ... Xin chép lại 1 phần trong bài viết về Hùng triều thứ 15 –Hùng Định Chân lang . Sử ký của Tư Mã Thiên, truyện Tần Thủy Hoàng có đoạn nói rằng: “Thủy Hoàng… chiếm lấy đất Lục Lương, đặt làm Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải”. Dưới chữ Tượng Quận có chua sáu chữ nhỏ là: “Vi Chiêu viết, kim Nhật Nam”, nghĩa là Vi Chiêu cắt nghĩa Tượng Quận đời Tần tức là Nhật Nam đời Vi Chiêu. (Sử ký; Tần Thủy Hoàng bản kỷ, q.6, tờ 3a). Như thế Tượng quận tức đất Nhật nam là miền trung Việt ngày nay cũng chính là lãnh thổ nước Cam . Nhưng : Thông giám tập lãm của triều đình nhà Thanh dọn lại các sách của Tư Mã Thiên, Ban Cố , Tư Mã Quang và Chu hy, làm năm 1768, cũng chép một đoạn trong đời Tần Thủy Hoàng rằng: “Năm Đinh Hợi (214 tr. T.C.)… nhà Tần lấy đất Nam Việt đặt Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận…”. Dưới chữ Nam Việt chua “tức Bách Việt, cũng gọi là Dương Việt”; dưới chữ Tượng Quận chua “đất ấy rộng xa, nay phủ Liêm, phủ Lôi, tỉnh Quảng Đông, phủ Khánh Viễn, phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây và cả nước An Nam” (Ngự phê thông giám tập lãm, q.11, tờ 6b) Học giả Cát Kiếm Hùng có ý kiến tương tự về vị trí Tượng quận là ở phía tây Quảng Tây. Vậy là Tượng quận không dính gì đến Nhật nam mà ở xa về phía bắc tuốt Quảng đông Quảng tây . Kỳ quái nhất là : Cựu Đường Thư, một đàng tin Tượng Quận là Nhật Nam đời Hán, mà di tích hãy còn gần Nhật Nam tức lãnh thổ nước Cam , còn một đàng lại cho cho An Nam đô hộ phủ đời Đường thuộc về Tượng Quận như thế lại là đất Lạc Việt ...? - Thực càng đọc ...càng rối cứ như là các triều đại Trung quốc là các nước khác nhau không liên thông tiếp nối chi cả mỗi nước có sách sử riêng mà đôi khi thông tin mang trong các ‘thư’ chửi bố nhau và hoàn toàn phi lý như việc nhà Tần đánh Nam Việt năm -214 lúc đấy lấy Nam Việt ở đâu ra mà đánh ....vì mãi tới năm -207 Triệt đà mới xưng vương và đặt tên nước là Nam Việt ... ; cả 1 Tượng quận của Tần to lớn đến thế mà mãi tới tận hôm nay các sử gia Trung quốc vẫn đang đi tìm ....chưa rõ ‘nó’ nằm ở đâu thì thật là bất thường , địa lý Trung quốc mà còn thế huống hồ gì các nước ngoại biên thí dụ như Chiêm thành – Nhật nam dẫn ở trên . Sử Việt có sách cho Lâm ấp là vùng Bình Trị Thiên như thế nước Lâm ấp cắt đôi đế quốc Tàu chia tách hẳn 2 quận Cửu chân và Nhật nam .... liệu người Tàu có để cho sự việc xảy ra hay không ? hơn nữa làm sao mà miền cực nam quận Nhật nam lại ở đấy ? phải là cực bắc chứ ? Có sách lại cho Lâm ấp –Tượng lâm là vùng Bình định Phú yên của Việt nam hiện nay , điều này không có sách vở nào ghi cả ... 3 /- nước Phan . Phía nam nước Cam là nước Phan ...quốc danh chưa từng ghi nhận trong lịch sử nhưng lại được xác nhận rõ ràng trên bản đồ Việt nam bằng địa danh Phan rang tức Phan ranh tức ranh giới nước Phan .. Dùng phép Phiên thiết của người Hán thì nhận ra : Phù nam thiết đọc thành Pham . Pham biến thành Phan và Phạm ... Phan là tên nước , Phạm là họ của vua nước Phan . Có người kiến giải : Pham là phiên âm một từ gốc Khmer và Nam Đảo là PHUN, PHỎM, chỉ người đứng đầu- thủ lĩnh- vua , điều này tương tự như từ Hãn biến thành Hán ; Hãn quốc biến thành nước Hán người Hán vậy , từ Phạm nghĩa là vua rất hữu lý khi rất nhiều vua Lâm ấp-Chiêm thành và Phù nam mang danh hiệu có chữ đầu là Phạm ...; như vậy : Phạm phật nghĩa là vua tên Phật , phạm Hùng là vua tên Hùng ...v.v.. Về Sự liên hệ giữa Phù nam và Chân lạp thì nhiều sách hiện nay cho đó là 2 nước nhưng nếu phân tích dựa trên truyền thuyết bà chúa Phù nam là Liễu diệp sau khi chiến bại phải lấy Hỗn Điền và nhường ngôi cho chồng làm vua từ đó tên nước Phù nam đổi thành Chân lạp . Theo Sử Phù nam thế kỷ thứ IV có vì vua gọi là Thiên trúc Chiên đàn . Nếu dùng phép phiên thiết Hán văn thì : Chiên đàn thiết là chàn có thể đọc là chân Liễu diệp thiết là liệp - lạp . qua phiên thiết Hán văn thì cặp đôi : Chiên đàn – Liễu diệp trở thành tên nước Chân lạp . Xét như vậy thì Chân Lạp chỉ là tên khác của Phù nam trong thời kỳ ‘bị’ 1 ông vua người India cai trị mà thôi chứ không phải là 2 nước khác nhau . Ngoài 3 nước đã bàn trên , xếp vào phía nam Giao chỉ cổ thư Trung hoa còn 1 nước nữa xưa nay chưa nghe nói đến . Theo Ngô thư thì vào tháng chạp năm Xích Ô thứ sáu (243), Vua Phù Nam là Phạm Chiên sai sứ dâng nhạc công và phương vật. Sau đó, khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, Vua Ngô đã sai người đến các nước phương Nam, Vua các nước Phù Nam , Lâm Ấp và Minh Đường đều sai sứ dâng cống. Minh đường là nước nào ? Minh đường thiết là...Mường . Tên gọi nước Mường chỉ rõ là 1 nước của giống Việt ...vậy mà xưa nay người Việt không hề biết . Phải chăng đó là nước của Đoài lang vương mà Lĩnh nam trích quái phần chuyện Nam Chiếu viết sai thành Đào lang vương ? , phương Đoài là phương tây nước Đoài lang nghĩa là quốc gia của vua phía Tây ( lấy đất Đất giao hay đất ‘giữa’làm chuẩn ), Hoặc Cổ sử Trung hoa có nói đến 1 nước ở phía tây tên là Đốn Tốn lãnh thổ trải dài từ biên giới Thiên trúc tới Giao chỉ ? - Còn Theo sử thuyết họ Hùng thì phía tây Giao chỉ đất của thiên tử là nước Lỗ phong Chu công ? Rất có thể chỉ là những tên khác nhau của 1 nước đã được ghi chép bởi những dòng sử khác biệt . - Để có thể làm sáng tỏ những gì đã xảy ra trong quá khứ tức Lịch sử ở vùng đất đông nam Á cầm chắc còn phải tốn rất nhiều công sức và thời gian . Việc có thể làm ngay để tỏ lòng tôn kính tiền nhân là trong các văn bản sử địa người Việt từ nay chỉ dùng tên Việt ngữ đúng như cha ông ta đã làm không dùng những tên phiên thiết Hán văn nữa .
    1 like
  30. Bách Việt ...sử vài dòng . Kinh Thư , thiên Nghiêu điển chép : ....Bèn sai ông Hy Hoà Kính theo trời cao , làm lịch làm tượng về mặt trời ,mặt trăng và các vì sao , cẩn thận truyền cho dân về mùa . Vua sai ông Hy Trọng đến đóng ở Ngung di, gọi là Dương cốc ,cẩn thận xem từ lúc mặt trời mọc , định các việc làm về mùa xuân .Xem nhật trung tinh Điểu để định tháng trọng xuân..... ....lại sai ông Hy Thúc đến đóng ở Nam Giao ( theo ông Tăng tinh Lạp phải thêm vào 3 chữ :viết Minh đô ), định các việc làm mùa hạ , kính cẩn ghi ngày Hạ chí , ngày dài , sao Hỏa khi chập tối thấy ở đỉnh đầu , lấy đó để chính thức định trọng hạ . ....sai ông Hoà Trọng đến đóng ở miền tây gọi là Muội cốc , cẩn thận xem từ lúc mặt trời lặn định các việc làm mùa thu ,. xem tiêu trung tinh Hư để định tháng trọng thu . ....Lại sai ông Hoà Thúc đến đóng ở Sóc phương , gọi là U đô , xét các việc thay đổi mùa đông xem nhật đoản tinh Mão để chính thức định tháng trọng đông . Ta thấy kinh Thư đã chỉ ra mốc giới ở 4 phương thời khởi thủy của Trung hoa là : - Miền Ngung di – Dương cốc-mùa xuân , xem lúc mặt trời mọc tức buổi sáng ở phương Đông . - Miền Nam giao –Minh đô – mùa Hạ . - Miền tây là Muội cốc phía mặt trời lặn – mùa Thu . - Miền Sóc phương –U đô – mùa Đông . Về Phía đông của thời Khởi thủy Trung hoa người ta dễ dàng nhận ra là vùng Quảng Đông Trung quốc hiện nay với các dấu tích ngôn ngữ : - Ngung di bảo lưu trong tên gọi thành Phiên Ngung là Quảng châu ngày nay . - Dương cốc còn dấu vết ở Dương thành cũng ở Quảng châu ngày nay , Dương thành này chính là kinh đô thứ 3 của nhà Hạ . Ở miền Nam giao ông Tăng tinh Lạp thêm vào bản gốc thiếu 3 chữ ....’ viết Minh đô ’ là hoàn toàn chính xác . Tại đền thờ quốc tổ Hùng vương ở Phú thọ có câu đối : Vế phải: “Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ”. Vế trái: “Quang nhạc hiệp linh cố cung thành tụy miếu, tam giang khâm đái thượng triều tôn”. Dịch nghĩa: “Sách trời đã định chính thống dựng kinh đô non sông Bách Việt đã có tổ. Núi sáng linh thiêng cố cung lập thành miếu, ba sông một dải hướng về nguồn”. (Dịch và hiệu đính: Nguyễn Hữu Mùi, Đỗ Thị Hảo - Viện nghiên cứu hán nôm). Như vậy đã đủ bằng cứ để khẳng định : - đất phía bắc Việt nam ngày nay là 1 phần của cái nôi đã thai nghén Trung hoa từ thời Nghiêu – Thuấn và Bách Việt cũng chính là Trung Hoa cổ xưa . - điều khẳng định quan trọng thứ 2 là : vua Hùng không chỉ là quốc tổ của riêng chi Lạc Việt mà là tổ tiên chung của cả khối Bách Việt tức Trung Hoa như quen gọi . Đã xác định được 2 mốc giới Dương cốc và Minh đô , 2 mốc giới còn lại là Muội cốc và U đô chắc chắn cũng chỉ nằm trong phần đất liền kề với Bắc Việt nam và Quảng đông ; có phần chắc là chúng nằm loanh quanh ở vùng Quảng tây và Vân Nam ngày nay vì cái nền khoa học kĩ thuật lúc đó không cho phép có 1 lãnh thổ quốc gia rộng lớn hơn . Thêm 1 bằng cứ nữa về lãnh thổ Trung hoa thuở ban đầu , Cổ sử Trung hoa viết : Năm 2188 TCN, vua Khải (vua lập nên nhà Hạ) mất, con là Thái Khang lên thay. Thái Khang ham chơi bời, thích săn bắn, không quan tâm việc chính sự. Hậu Nghệ thường đi theo phục vụ Thái Khang. Thấy Thái Khang bỏ triều chính, Hậu Nghệ nảy sinh ý định giành ngôi. Một hôm Thái Khang rời kinh đô đi săn ở đất Lạc. Hậu Nghệ bí mật điều quân từ nước Hữu Cùng sang tập kích kinh đô nhà Hạ, chiếm được kinh thành. Sau đó ông mang quân ra chặn bờ sông, phong toả lối về của Thái Khang. Nghe tin kinh thành thất thủ, Thái Khang vội mang quân trở về, nhưng đến bờ sông đã thấy quân Hữu Cùng đông đảo chặn đánh. Thái Khang biết không địch nổi quân Hậu Nghệ bèn bỏ chạy sang nước chư hầu. Ngoài thông tin nơi Thái Khang đi săn là đất LẠC ( sông Lạc ?) còn có những thông tin khác ; Trong kho tàng văn học cổ Trung hoa có tích Hậu Nghệ - Hằng nga .... Nguyên ở gò Đất cuối biển Đông có hang Dương. Nơi đây 10 con quạ vàng vâng lệnh Thượng Đế thay nhau ban ánh sáng cho vạn vật. Trên hang có cây Phù tang cao vút tận trời. Chín con quạ ở cành dưới, một con quạ ở cành trên. Từ ngàn xưa chỉ có một con ra khỏi biển hóa thành mặt trời, ngày ngày tháng tháng chiếu ánh sáng xuống mặt đất làm cho mưa hòa, gió thuận, vạn vật sinh hóa. Nhưng bất ngờ, một hôm bốn biển chuyển động, đất lở núi rung, cây Phù tang quay cuồng, vì 10 con quạ vàng tranh nhau xuất hiện một lượt. Thế là nắng như lửa thiêu, đốt cháy cả vạn vật. Ban đầu, người ta còn ngâm mình dưới nước, núp trong hang núi ... nhưng rồi, đầm nước, dòng suối đều hóa thành những vạc nước sôi. Đất bằng bỗng chốc lửa dậy làm cho nhân dân điêu đứng, đời người biến thành địa ngục. Trông thấy 10 con quạ vàng hoành hành dữ tợn làm cho nhà cửa tiêu tan, đồng ruộng khô cháy, Nghệ vừa hoảng kinh vừa tức giận, đem lòng thương xót sinh linh, và nghĩ đến mối liên hệ với thân mạng mình nên mang 10 mũi tên thần, giương cung 10 tạ lên quyết bắn 10 con quạ vàng cho tiêu ra tro bụi. Nhưng ánh sáng rạng chói làm cho mắt đổ hào quang, không thể nhìn lên được. Nghệ bực tức, đứng tựa góc biển chân trời không do dự bắn luôn mấy phát. Những nơi có tên của Nghệ bắn tới thì nóng cháy nguội dần, ánh sáng êm dịu. Những lông cánh sắc màu của lũ quạ đua nhau rớt xuống. Một làn không khí mát mẻ bắt đầu. Trông thấy chín con quạ chết, Nghệ lại muốn giương cung bắn nữa, nhưng Phùng Mông ngăn lại: - Thưa thầy! Nếu thầy bắn chết cả thì vũ trụ sẽ trở nên đen tối mất. Nghệ "à" một tiếng, hạ cung xuống. Bấy giờ núi sông trở lại như xưa, cây cỏ tươi tốt. Đâu đâu cũng vang dậy tiếng hò reo hoan lạc. Nhân dân ca tụng công ơn vĩ đại của Hậu Nghệ, tôn thờ Nghệ là một vị cứu tinh, trọng quý Nghệ hơn mẹ cha. Sơn hào hải vị, họ đem dâng cho Nghệ dùng. Hậu Nghệ lên làm Hoàng đế. Hang Dương nơi Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời cứu dân ở đâu ? Theo "Sơn hải kinh", trên hang Dương phía bắc nước Răng Đen có cây Phù tang to lớn sống ở dưới nước, 9 mặt trời ở cành dưới; 1 mặt trời ở cành trên. Theo sách của Hoài Nam Tử, đời vua Nghiêu, 10 mặt trời cùng mọc một lần làm cây cỏ khô héo, vua Nghiêu sai Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời. Những chi tiết ...đất Lạc , nước răng đen , gò đất cuối biển đông ( theo kinh Thư ...phía đông của 9 châu đất nhà Hạ là Biển ) đủ để xác định lãnh thổ nhà Hạ Trung hoa phần chính là đất Việt nam ngày nay . Tới đây có thể khẳng định đất Việt Nam và vùng lân cận là cái nôi đã thai nghén người họ HÙNG hay Bách Việt cũng chính là Trung hoa theo cách gọi sai lầm hiện nay , Sự khẳng định này được kiện chứng bởi những kết qủa nghiên cứu mới nhất về gen di truyền người Bách Việt : Từ đất Bắc Đông dương nối đến Quảng đông Trung quốc là vùng hình thành và khởi phát dòng người mang gen Bách Việt sau đó đã phát tán ra 4 phương 8 hướng lên đến tận miền Hoa bắc và trở thành 1 trong những nguồn gen tạo nên người Hoa bắc , thậm chí dòng di truyền nhiễm sắc thể Y này còn len lỏi cả vào đặc điểm nhân thể người Ngũ Hồ ( chính xác phải gọi là Ngũ Man ).... Những bằng chứng trên là sự bổ chứng quan trọng cho những luận điểm trong sử thuyết họ HÙNG ; thực vậy theo chính sử Trung quốc thì Trung hoa lập quốc ở phía bắc Hoàng hà tới thời Thương thì vượt Hoàng hà , thời Chu vượt Trường giang xuống khai hóa phương nam ...liên tiếp sau đó từ trung cổ , trung đại tới cận đại dòng gen Hán tộc theo chân những tộc người chủng Mongoloid chỉ chảy 1 chiều luôn luôn từ bắc xuống nam ....như vậy cái khoảng 10% đặc điểm gen Bách Việt ( công bố của tiến sĩ Lý Huy tỷ lệ đột biến M119Hà Nam 11%, Sơn Đông 9%, Tứ Xuyên 7% ), trong cư dân nam Hoàng hà ngày nay ở đâu ra ? chưa kể sự đóng góp của người Hmông –Giao vào đặc điểm nhân thể và ngôn ngữ cũng như văn hóa nói chung ở vùng bắc Trung hoa vì tiến sĩ Lý Huy đã tùy tiện vô cớ loại người Hmông –Giao và những tộc người thuộc ngữ hệ Nam Á ra khỏi dòng Bách Việt trái hẳn với cổ thư trung hoa và những chứng cớ khác của dân tộc và ngôn ngữ học ; phải chăng là vì di truyền học ngày nay đã tìm ra sự vô cùng gần gũi giữa gen di truyền của người Hoa bắc và người Hmông- Dao ? ; di truyền gen Y (Y-haplogroup O) tiêu biểu cho người H'mông-Miên (O3a3, O3a4) rất giống với O3a5 của những người sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ Hán-Tạng . Trước đây hệ ngôn ngữ Hmong –giao được xếp loại như một bộ phận của ngữ hệ Hán-Tạng, và hiện vẫn tồn tại trong một số bảng phân loại của Trung Quốc, nhưng các nhà ngôn ngữ học phương Tây đã thống nhất xếp chúng thành một ngữ hệ riêng , gần đây nhiều nhà ngôn ngữ học xếp ngôn ngữ Hmông – Giao là 1 nhánh của ‘đại’ ngữ hệ Nam Thái , ngữ hệ này cùng với ngữ hệ Nam á bao trùm hết miền Bách Việt xưa ở nam Trung hoa và trọn Đông nam Á ngày nay . Sử thuyết họ HÙNG cho là người Hmông-Dao cổ sử gọi là Man-Kinh là tộc người đã theo vua Bàn Canh vượt Trường giang lên phía bắc ngày nay lập nên nhà Ân Thương tức triều đại Thương thứ 2 ( ơn đồng nghĩa với nhị là số 2 trong số đếm của người Trung hoa ) qua bao biến cố lịch sử chà đi xát lại dành giật giữa 2 nhánh tộc người Mongoloid và Mongoloid phương nam người Hmông đã cộng cư và hòa huyết , giao lưu gen cũng như giao lưu hoà trộn văn hóa với rợ Ngũ Hồ ( Ngũ Man ) kết qủa tạo nên bộ mặt Hoa bắc ngày nay cả về nhân thể lẫn văn hóa văn minh . Cố giáo sư Kim Định dựa trên bộ sưu tập về gốm cổ Trung hoa đã khẳng định ....: mái nhà vùng bắc Hoàng hà chỉ bắt đầu cong lên từ thời nhà Đường , nhà Đường theo sử thuyết họ HÙNG chính xác phải gọi là là nước Việt Thường , con người và văn hóa chủ đạo là văn hóa DƯƠNG VIỆT tức nước NGÔ xưa , tương tự : nhà TÙY là nước VIỆT TỦY một triều đại của người nước SỞ xưa ; tùy –tủy - sủy - sở nghĩa là nước chỉ là trò chơi chữ nghĩa ....chữ tác đánh chữ tộ mà thôi , 3 triều đại Bắc chu của vua Vũ văn Giác và Tùy - Đường là những triều đại người Bách Việt làm chủ Trung hoa đã tạo dòng chảy ngược của gen Bách Việt tới tận vùng đông ALTAI , triều Đường là triều duy nhất của Trung hoa làm chủ miền Đông bắc Trung hoa tới tận Triều tiên ngày nay . Phát hiện của cố giáo sư Kim Định là điều vô cùng quan trọng nó đã xác định vùng Sơn tây-Hà bắc đất gốc của Đông Hán ....không phải là Trung hoa đúng như sử thuyết họ HÙNG đã nói . Đọc lại vài dòng trong lộ sử của La Bí đời Tống nói về kinh đô Lạc dương xưa : “Ngô Việt Sở Thục đều là đất man, các đất Tần Lũng Tấn ngụy đều đã thành đất của người địch, Hà Nam là đất man, Hà Tây là đất địch, Hoài thì có các rợ thư, Ngụy thì có các rợ nguy, chỗ nào cũng đầy dãy (Man địch ?), chỉ một Vương Thành ở Lạc Dương mà những người Nhung, Dương Cự, Tuyền Cao, Lục Hồn, Y Lực cũng ơ xen lẫn, trong ấy người “Quan Tộc”không có bao nhiêu ” Từ cái nền ....” đầy dãy Man-Địch” đến thời Nguyên Mông thống trị thì thành phần cư dân Trung hoa bắc –nam đã khác biệt rõ nét đến độ Mông nguyên đã phân hẳn thành 2 loại người HÁN và NAM , vài trăm năm sau...đến ngày nay thì chỉ còn sấp xỉ 10% người mang gen Bách Việt ...thực là sự thụt giảm thê thảm . ....suy gẫm cho kỹ ta mới thấm hết ý câu “nước mất nhà tan” , gia đình là sự kết hợp giữa chồng với vợ ...nhà tan là cả cánh đàn ông tiêu vong ....ngoài những anh hùng hy sinh nơi chiến trường phần còn lại phải lao nhọc khổ sai chịu mọi sự hành hạ chết dần chết mòn , đau khổ nhất là bị cách ly với gia đình với vợ ....như thế dân tộc coi như không còn sự truyền giống . Đế quốc Mãn Thanh được giới sử học cả thế giới coi là nhà cai trị hết sức khoan hoà với người Trung hoa bị trị ....( chỉ bắt người trung hoa cải tạo cách ăn cách mặc ...cạo đầu thắt bím cho giống người Mãn văn minh thôi ? ) vậy mà : Người Hmông có câu ...’chỉ sợ rừng không đủ sâu , núi không đủ cao....’ rừng thiêng nước độc ...hầu như nắm chắc nửa phần chết nhưng còn cơ may bảo toàn nòi giống vẫn hơn là chịu sự hành hạ để rồi phải tuyệt nòi, bồng bế nhau lên ở non là vì thế ...còn lại biết bao người Hoa phải tha phương cầu thực ; thực ra ....tha phương thì có còn cầu thực thì không vì thời cận kim những người thoát chạy khỏi một Trung hoa đau thương ngoài tâm lực trí lực còn buộc phải có tài lực ....không có phương tiện vật chất thì không thể vượt ngàn dặm trùng khơi được , những người ra đi đều thuộc tầng lớp trên của xã hội ...họ đâu có nghèo đến nỗi phải ...”cầu thực “, dưới móng ngựa bắc phương người Trung hoa nếu không vào rừng không vượt biên phải ở lại sống chung với quân cướp nước thì chống chọi 1 cách tiêu cực nhưng không kém phần quyết liệt trước làn sóng đồng hóa của lũ ác ôn....dứt khoát không gả con gái cho người nước ngoài điều này dần dà trở thành đặc trưng văn hoá của người Hoa , đặc biệt là người Hoa nam ... Những định luật toán học thì luôn đúng nhưng khi vận dụng những định luật đó để giải 1 bài toán cụ thể thì kết qủa có thể đúng có thể sai tương tự như thế những số liệu về phân tích di truyền học thì không sai nhưng khi vận dụng những kết qủa đó vào lĩnh vực lịch sử thì chưa chắc trúng nó tùy thuộc rất nhiều vào tính khách quan và sự trung thực của người thực hiện . Tiến sĩ Lý Huy trong bài nghiên cứu về gen người Bách việt (xin đọc bài đăng lại nguyên văn trong phần tham khảo của trang web này) đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi loại người Kinh –Mường, người bách bộc và đặc biệt là người Hmong-Dao ra khỏi cộng đồng Bách Việt dù ngay trong hình vẽ ( hình dưới) nơi phát sinh tập đoàn Bách Việt của ông ...kẻ dốt địa lý nhất cũng nhận ra phía tây là nơi cư trú của tiền nhân dân tộc Kinh và Mường....ông tiến sĩ họ Lý .... đã cố tình cắt bỏ 1 nửa người Bách Việt để có thể ép cho vừa vào khung lý thuyết ‘nhất sinh ....nhị phân ...’ do ông đẻ ra . Phần đậm ở giữa là nơi phát sinh khối Bách Việt ( ghi chú của người viết) khớp đúng với bản đồ hình thành và thiên di của những tộc người dựa trên cơ sở di truyền Khi cho Quảng đông là nơi phát sinh dòng Bách Việt sau đó mới toả ra những nơi khác ...là tác gỉa đã phạm sai lầm rất ấu trĩ ....lấy biên giới ngày nay làm ranh giới cho lịch sử ngàn vạn năm trước ....sở dĩ vậy là vì nhà ‘khoa học’ còn nặng óc ‘đại Hán’ đã không nuốt nổi sự thực ...tiền nhân người Việt cũng chính là tổ tiên người Bách Việt –Hoa nam nói chung và càng ngày người ta càng nhận rõ hơn chính người Bách Việt Hoa nam mới là chủ thể sáng tạo ra nền văn minh Trung hoa vì văn hóa văn minh Trung hoa mang trong lòng nó đầy dãy các nhân tố của 1 phương nam nóng và ẩm , sông và nước điều này khiến ta hiểu tại sao người Hoa phương nam vẫn nhận mình là ‘Thoòng dành’ tức Đường nhân hay Việt Thường nhân , Hán quốc –Hán tộc là của đám sử gia và vua quan nhà Hán-nước Hán còn ‘Thoòng Dành ’ là sự tự xưng của nhân dân ....mà nhân dân thì không bao giờ sai ... Mọi người phải cảnh giác , cẩn thận xem xét những gì mà các nhà khoa học và Sử học Trung quốc công bố kẻo ...đã lầm lại chồng thêm sai .
    1 like
  31. Con người bắt buộc phải nghĩ ra cách tồn tại ngay trên trái Đất này. Hai là chấp nhận làm lại từ đầu - bắt đầu từ thời đại....đồ đá. Bởi vì nó không thể lên hành tinh khác sống cho dù là hai trăm năm nữa. Nếu có nguồn năng lượng đủ để đưa cả loài người lên hành tinh khác thì lượng năng lượng đó đủ để cả nhân loại sống thêm vài ngàn năm nữa, ngay trên trái đất này. Ông SW. Hawking về già bị lẫn rồi.
    1 like
  32. Suy tưởng tiếp cận Tâm Linh Nguyễn Tất Thịnh Giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia [Thế kỉ 21 không phải là Thế kỉ của Khoa học – Công nghệ! Con người dường như đã đạt đến đỉnh cao của nghiên cứu phát hiện ra những Qui luật cũng như những Tri thức về Khoa học cơ bản và ứng dụng, từ đó có sẵn những nguyên lí để làm ra những thiết bị, phương tiện khác nhau phục vụ sản xuất, đời sống và những mưu cầu khác ! Con người đã đưa thiết bị lên Sao Hỏa, đã vẽ nên Bản đồ Gen của chính mình… Nhưng chính vì vậy Con đường bí mật đi đến tìm hiểu ý niệm về Thượng Đế - Thế giới Tuyệt đối – có vẻ như gần hơn, lại càng làm Con người khát vọng hơn bao giờ hết! Để ít nhất cũng ngộ ra một điều rằng : Bản thân Khoa học Công nghệ, dù phát triển đến đâu nhưng là quá hữu hạn để thỏa mãn khát vọng đó: Sức mạnh Vật chất, các Qui luật của Thế giới Vật chất dù đến ghê gớm cũng chỉ tạo ra những lò lửa Nhiệt hạch trên Mặt Trời Khổng lồ, hay đưa trí tuệ của Con người ( trong bộ Não dù phi thường của mình ) đi đến hình dung hình ảnh vĩ đại về cái Black Hole ( Hố Đen ) mà thôi! Thế còn trước đó và trong nó như thế nào? Thách thức cho khát vọng đó của Con người hiện nay là tìm kiếm những khả năng có thể vượt qua chính những hạn chế của mình ( Bản thể & Xã hội & Công nghệ ), vươn đến những phạm vi tối cao của Vũ Trụ…Bởi vậy Thể kỉ 21 – xét theo xu hướng Tri thức – là thế kỉ Con người biết chắc rằng mình phải tìm kiếm những phương thức và cách tiếp cận phi truyền thống và cố gắng lý giải xác thực hơn để càng ngày càng thấy mình tiệm cận đến Thế giới Tâm Linh !….Không phải ngẫu nhiên mà cái Vòng tròn này quay trở lại : Ngày xửa ngày xưa….bằng Văn Thơ, Âm Nhạc, Mĩ Thuật….Con người đã có thể du hành lên Mặt Trăng, đã bay vào Vũ Trụ với những siêu tưởng mà đến hôm nay Khoa học và Công nghê mới dần từng bước thực chứng mà vẫn chưa vươn tới hoàn toàn được như thế. Trước Công Nguyên Triết học Phương Đông đưa ra ý niệm Âm Dương, Ngũ Hành…dường như một ‘Tôn giáo Tuyệt đối Chuẩn tắc’ ( Chữ của tôi dùng ) mà toàn bộ thành quả của Khoa học đến hôm nay không hề xung đột, mà cũng chỉ đang tiệm cận đến mà thôi…. Trong khuôn khổ bài này, tôi đưa ra cách hiểu thế nào là cách tiếp cận Phi truyền thống đó ? Là không dựa vào ý thức hệ cũ, những luận cứ khoa học đã được xác tín, những cách nhìn dựa trên sự hiểu các qui luật Vật Lý đối với Sự vật Hiện tượng – Sự tiếp cận Phi truyền thống đó luôn bắt đầu bởi những câu hỏi mang màu sắc hướng tới Tâm Linh. Ví dụ 1: Khi Một Người đi trên chuyến xe bình thường thì anh ta đến nơi anh ta định muốn đến, ở tương lai đó sẽ xảy ra những điều anh ta dự kiến bởi kế hoạch, và có thể lường trước bởi một số dự liệu nhờ tiên đoán ( chọn giờ xuất hành, những cảnh báo… Chẳng hạn, thầy Tướng nói : anh ta đi xe hơi có nguy cơ bị đánh bom, anh ta bèn đi bằng xe bọc thép rất kiên cố - là phương tiện tối thiểu đi được qui luật Vật lí do bom nổ tác động vào anh ta )! Nhưng nếu anh ta đi trên con tàu mà giả định rằng hơn rất nhiều xe bọc thép nói trên - ở đó các qui luật Vật lí và qui luật sống bình thường không mảy may ảnh hưởng nữa ( ví như con tàu tốc độ ánh sáng ) thì nó có đưa anh ta đi đến Tương lai chắc chắn như vốn hoạch định cho mình như thế nữa không? Nếu đi trên con tàu đó thì hẳn anh ta sẽ không là anh ta như một thực thể như đang nhìn thấy mà sẽ là một ‘dạng khác’ ? Đó là gì ? Tương lai của anh ta lúc đó thực ra là gì ? Chắc chắn là không còn là câu chuyện của Mạng sống nữa – sẽ là ‘điều khác’ ! Ví dụ 2 : Nếu có con tàu thời gian thì Con Mèo Con 3 tuổi có thể quay ngược về thời điểm nó sinh ra mà nó vẫn là nó đang 3 tuổi nữa không ? Ở thời điểm quay lại quá khứ như thế, Bố nó đâu, là gì? Nhỡ nó du côn mà giết Bố nó thì liệu có còn nó nữa không.?... Hoặc nếu con tàu đó chạy đến tương lai của nó thì có thể dẫn nó đến rất nhanh cái thời điểm nó 100 tuổi không ? Trong khi đời sống sinh học của nó chỉ khoảng 15 năm ? Trên hành trình đó nó có gặp phải những điều đáng phải xảy ra như sẽ xảy ra khi nó sống bình thường trong một căn nhà nào đó không ? Ví dụ 3 : Có những Vì Sao đã tắt tàn, nhưng đến hôm nay ánh sáng từ nó mới vượt được những Tỉ năm ánh sáng đến với Trái đất chúng ta. Nhờ vậy chúng ta vẫn thây nơ hiện hữu, nhận dạng và hiểu được diễn tiến của nó cho dù nó đã biến mất từ lâu…Thực chất, bằng suy tưởng, tư duy ( là cách duy nhất như chúng ta từng hiểu có thể đi xuôi ngược trục Thời gian với vận tốc trên ánh sáng – chính là vận tốc của Thời Gian như tôi đã trình bày trong bài Bí Mật của Thời gian… ), thì chúng ta có thể quay ngược về Vì Sao đó nhanh hơn tốc độ ánh sáng…đến được nó khi nó, ở đó thấy nó còn đang tồn tại….cho dù thực chất nó đã không hiện hữu nữa ( nếu nhờ tín hiệu về nó được phát đi của ánh sáng ) Ví dụ 4 : Nhờ Khoa học và Công nghệ, một Tế bào Gốc, một Phôi Thai, một Con người được bảo quản đông lạnh…cho đến rất 5000 năm sau được hoạt sinh hóa trở thành một thực thể sống . Nhưng anh ta, ở tương lai đó, trong thể chất, tinh thần của mình cũng chỉ là một Sinh Thể lưu giữ hiện trạng mọi mặt của quá khứ và thời đại hôm nay ( thời điểm được đông lạnh ) mà thôi ? Trong 5000 năm chờ đợi ấy anh ta không là anh ta? Anh ta chết ? Hay anh ta đang là mình?... rõ ràng là không phải thế! Cho dù dòng thời gian vẫn trôi chảy ( 5000 năm qua đi cơ mà )…5000 năm ấy tuy có bao nhiêu biến cố, nhưng liêu có gì để tiên đoán cho anh ta khi đang được đông lạnh như vậy ? Hóa ra mọi sự tiên đoán, như người ta vẫn muốn thế, là gắn với quá trình sống thực mà thôi !? Bản chất là dẫn dắt Bản thể đi vào Ý niệm về Thời Gian sống chậm lại tối thiểu như có thể ! Nhờ vậy đỡ hao tổn và rủi ro ! Ví dụ 5: Nhưng Con Gấu ngủ đông ( nghĩa là thời gian mấy tháng rét mướt đó, sự sống của nó trở về trạng thái tối thiểu ), nó vẫn sống, nó không thể và không dự đoán gì cả về những điều xảy ra, mà Con người sẽ dự đoán thay cho nó – chẳng hạn nhờ khoa học mà biết sẽ có núi lở…Con người sẽ vác nó đến chỗ khác để tránh…do đó Tương lai của nó không tùy thuộc vào nó nữa. Vấn đề nó phải lộ diện để Con người nhận ra nó, nó phải hữu ích để Con người muốn cứu nó….Đến lượt Con người cũng vậy ( lộ diện và để ‘thương được’…với Lực lượng nào đó trong Siêu nhiên – Thượng Đế !? ) Quả thực : Tôi tư duy là Tôi tồn tại ! Nhưng Tư duy diễn ra trong Bộ Não – một cấu trúc sinh học siêu tinh tế! Nhưng không chỉ là mức độ phức tạp của nó mà chắc hẳn có ‘Thế Lực Tuyệt đối Siêu nhiên Nào đó’ can dự vào quá trình Sống của Con người, đi vào Tư duy đó…sinh thành, tác động , lưu giữ những tinh hoa, kết quả của nó…và chuyển hóa sang những Bộ não khác, những Sinh Thể khác…kết hợp vào sự Nhân Bản bởi quá trình sinh lý duy trì nòi giống của Con người. Chúng ta thấy những kết quả Tư duy ( Tư tưởng ) của Các Bậc Tiền Bối Vĩ đại được lưu giữ và truyền lại đời sau dưới dạng trước tác, thành quả vật chất…do đó chúng ta nói : Các Vị đó không chết, cho dù Các Vị đã chết ! Nhưng kết quả Tư duy đó của Các Vị có vào hết cuộc sống của mọi người đâu, mà chỉ một nhóm hay bộ phận thôi – điều quan trọng là vẫn còn được chuyển hóa, truyền tiếp đến đời sau ( một dạng thức của Tái Sinh vậy! )…Và hãy hình dung khi Toàn bộ Nhân Loại vì Nạn Đại Hồng Thủy nào đó mà chết hết cả, thì Tư duy đó nó đi đâu ? Hoàn trả lại Thế giới Tuyệt đối mà thôi ! Chờ đợi Thượng Đế tạo ra một Sinh Vật Khác mà đưa lại can dự để đưa dần các Tư duy đó vào chúng…sau này…Cũng bởi vậy và Đại Từ ‘Tôi’ nới trên rất có thể là từ Con người A -> B -> …Z -> Và đến một Con Nào Đó, Loài Nào đó…ở đâu đó, có thể không hẳn ở trên Trái Đất này…. Nhưng Thế Kỉ 21 thực ra sẽ là Thế kỉ của điều gì ? Vẫn của Con người thôi, nhưng là Con người hướng tới Tâm Linh…không đi đến sự mê tín hay cuồng tín ( bởi đã đứng trên những nền tảng quá vững chắc của Văn minh Khoa học – Công nghệ ) nhưng dẫn đắt Cuộc sống của mình chủ động hơn trong Dòng Sông Thời Gian - Bí Mật của Thượng Đế - để có thể đi được ngược xuôi trên dòng Sông đó – Tương lai & Quá khứ : Tái sinh + Hoạt sinh + Hoàn sinh! Muốn vậy tôi xin nhắc lại câu tôi viết ở trên : Lộ diện với Trời Đất + Phải có tư tưởng + Trời thương được! Tôi viết như trôi đi, không phải trên từng câu chữ…tự nhiên phát ra từ sâu thẳm…từ đâu không biết…chỉ cảm thục được mà không hiểu mấy…những ai…nhưng tôi đang biết rõ thời điểm này : Tôi là Tôi…xung quanh…Vũ Trụ…
    1 like
  33. Dạo này coi World Cup mình chả chịu đội nào hết, chỉ chịu mỗi bé bạch tuộc Paul, nổi tiếng ai cũng biết, đi đâu cũng thấy bàn tán quá trời. Zdui ghê :). Liệu khả năng "tiên tri" của bạch tuộc Paul là bẩm sinh hay do 1 quá trình luyện tập gian khổ mà chú "cảm ứng" 1 cái là phán đúng như thần ??? Nếu mà nó cảm ứng tài vậy, coi bộ nó có duyên học Lý học đông phương đó. Mời bà con cùng xúm dzô bàn chơi. ‘Tây Ban Nha có thể cử quân đội sang Đức bảo vệ bạch tuộc Paul’ VnExpress - cách đây 6 tiếng In ra Ý tưởng này do đích thân Thủ tướng Tây Ban Nha, Jose Luis Rodriguez Zapatero, đưa ra. Paul là chú bạch tuộc được nuôi trong một viện Hải dương học ở Đức. Nó đang nổi lên như một “nhà tiên tri” đại tài, khi đoán đúng kết cục của sáu trận đã qua có đội tuyển Đức tại World Cup năm nay. Nhưng cũng chính vì khả năng tiên đoán như thần đó mà Paul đang bị nguy hiểm đến tính mạng. Ở trận tứ kết nó chọn hộp thức ăn có hình quốc kỳ Đức. Và trận đấu đó “cỗ xe tăng” đánh bại Argentina. “Giận cá chém thớt” người hâm mộ Argentina quay sang đổ tại cho Paul và dọa sẽ làm thịt con vật 8 chân này. CĐV Đức hiện tại cũng đang rất bực tức với Paul. Thực tế đã diễn ra đúng như nó dự đoán, khi Tây Ban Nha đánh bại Đức 1-0 trong trận bán kết. Trên nhiều diễn đàn, cũng như khi xuất hiện trên báo chí, truyền hình… nhiều người dân Đức đã yêu cầu làm thịt Paul, ném nó vào chảo mỡ. “Không gì ngon bằng món bạch tuộc nướng“, một CĐV có tên Dolores Lusch nói. “Thái nó thành từng miếng mỏng, rồi nướng nó với chanh, dầu olive và tỏi“. Trong khi đó CĐV của đội tuyển Tây Ban Nha lại xem Paul như một điềm lành. Mới đây Thủ tướng Jose Luis Rodriguez Zapatero nửa đùa nửa thật trên một đài phát thanh rằng: “Tôi đang lo lắng cho Paul… Không biết chừng tôi sẽ gửi một đội quân sang Đức để bảo vệ cho nó“. Không những vậy Bộ trưởng Môi trường và Nuôi trồng thủy sản Tây Ban Nha, Elena Espinosa, còn khẳng định: “Sắp tới tôi sẽ có mặt ở Hội nghị Bộ trưởng châu Âu, tôi sẽ đề nghị một lệnh cấm để người Đức không được ăn thịt Paul“. Tây Ban Nha sẽ gặp Hà Lan trong trận chung kết ngày 11/7, trong khi Đức tranh giải ba với Uruguay một ngày trước đó. (Theo VnExpress)
    1 like
  34. Cần phải bảo vệ Paul. Đây là một thiên tài. Một ví dụ cho các lý thuyết "pha học" phải xem xét lại về tính ngẫu nhiên được lặp lại liên tiếp cho những kết quả đúng của một sinh vật bị coi là vô ý thức. Hay đó là một ví dụ về những mối liên quan của những tương tác vũ trụ cho kết quả có thể tiên tri thông qua cảm ứng vô thức của thiên tài Paul, mà tình cờ con người biết được? Người Hà Lan ủng hộ Tây Ban Nha ý tưởng này, trong đó có Thiên Sứ tôi. Trận Hà Lan - Tây Ban nha sẽ lầ một trận đấu đầy thận trọng. Hòa ở hiệp đầu. Bàn thắng chênh nhau 1 trái.
    1 like
  35. Tôi muốn nhắc một câu chuyện giữa tôi và Wildlavender.Ngày ấy cách đây khoảng vài năm, khi tân bộ trưởng Giáo Dục lên nhậm chức. Winldlavender hồ hởi cho rằng vị tân bộ trưởng sẽ có những cải cách giáo dục thành công. Tôi hơi buồn mà nói với Wild: - Còn em và còn anh đây. Sẽ không thể thành công trong cải cách giáo dục, nếu như sách giáo khoa các cấp còn dạy học sinh "Thời Hùng Vương chỉ là một liên minh bộ lạc", hoặc cùng lắm là "một nhà nước sơ khai" với những người dân "Ở trần đóng khố". Tôi có thể phân tích rất cụ thể tác nhân từ lý do này theo phương pháp luận khoa học - hoàn toàn không nhân danh cảm ứng tâm linh. Tất nhiên nếu có thời gian. --------------------------- PS: Xin lưu ý rằng: Những v/d cải cách giáo dục đã đặt ra từ lâu. Lâu đến nỗi khái niệm "cải cách giáo dục" khiến người ta cảm tưởng nó gắn liền với nền giáo dục vì năm nào cũng nói đến nó từ ....hơn.....15 năm nay. Nhưng chính thức thì từ khi sách Giáo khoa giảng rằng "Thời Hùng Vương chỉ là liên minh 15 bộ lạc....."
    1 like
  36. Không nên ngưỡng mộ ai ngoài ngưỡng mộ chính bản thân mình. Làm được việc này rất khó. Vì sao khó? Vì ngưỡng mộ chính bản thân mình dễ đưa mình tới ảo tưởng. Ngưỡng mộ chính bản thân mình mà mình không ảo tưởng về vị thế của mình, về kiến thức của mình, đó chính là bản lĩnh. None can judge you, except yourself. Sư chưa bao giờ đủ năng lực để làm Bề Trên. Đây không phải là lời báng bổ kẻ tu hành mà đó là sự thực. Việc thả chim, thả cá rồi đem việc đó kể lể với Bề Trên rằng tôi đã làm việc đó, hãy để tôi yên sẽ khiến Bề Trên cười ngất. Bởi những việc làm như thế chỉ có tính chất đối phó, chỉ có tính chất nhất thời và có phần giả tạo gượng gạo khi gán cho cái mác Phúc Đức. "Mặc Cả với Bề Trên" không phải là một cuộc đối thoại như kiểu mặc cả ngoài chợ. Hình thái của sự "mặc cả" này rất vi tế - nó nằm ngay trong những hành động, suy nghĩ, lời ăn tiếng nói của mỗi người trong cuộc sống thường nhật. Bản lĩnh và kiến thức đó là gì? Câu hỏi này hay nhưng mới chỉ dừng ở mức tò mò. Thiên hạ hay nói câu: "Không Thầy đố mày làm nên" tức là phải có Thầy dẫn dắt mới nên người. Bao giờ nghĩ được rằng: "Không Mày đố Mày làm nên" thì sẽ biết bản lĩnh và kiến thức là gì.
    1 like
  37. Tôi vẫn hoài nghi cách giải thích trên.Cho dung dịch axit vào mới có chỉ thôi ra và làm ngọt cảm giác. Nhưng thức ăn có vị ngọt trong bảt thì không phải axit, hoặc nước cho vào bát. Cách giải thích trên có thể đúng về nông độ chì - do xác định bằng phương tiện. Nhưng vấn đề là đó có phải nguyên nhân duy nhất không? Chí thôi ra trong bát là chì nguyên chất hay là hợp chất chì như Mieumap nói: Nếu tôi làm thì nghiệm này và được sự đồng ý của chủ nhân. Tôi cần ngâm bát trong dung dịch axit đủ nồng độ và thời gian để chì thôi ra hết. Nếu bát vẫn còn vị ngọt thì chứng tỏ nó có nguyên nhân khác. Còn hết vị ngọt thì chứng tỏ kết luận trên đúng.
    1 like
  38. Kết luận trên của ông Tiến sĩ có vài điểm khiến tôi thắc mắc: Theo tôi hiểu thì khi sản xuất người ta làm hàng loạt hàng chục, hoặc hàng trăm cái bát. Bởi vậy khi trộn men thì cũng có số lượng lớn để dùng cho nhiều cái bát. Không lẽ chỉ có một cái bát ngọt? Hơn nữa, tôi chưa tin rằng do hàm lượng chì cao trong men bát tạo ra độ ngọt của thực phẩm chứa trong bát. Ngay bây giờ, nếu chúng ta làm một cái bát bằng chì - hàm lượng chì tính bằng 100gram chứ không phải bằng miligam, chúng ta cũng chẳng thấy ngọt đâu cả. Hơn nữa, khi trộn chí làm men thì chì đã kết hợp với các nguyên tố khác thành một chất tổng hợp. Vậy vấn đề chất tổng hợp đó là chất gì?
    1 like
  39. Qua đó mới thấy rằng: "Tại tấm lý sùng ngoại ám ảnh. Rõ ràng là Việt Nam nhiều cái giỏi hơn so với cả thế giới này". Có điều là chúng ta phải biết cách tiếp thị.
    1 like
  40. Làm ruộng thì phải có trâu, làm giàu phải có vợ Thịt gà, xôi nếp, đàn bà Cả ba thứ đó phải là dùng tay Yêu nhau cởi áo cho nhau. Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay. (Gió bay cầu thấp cầu cao. Gió bay cầu nào con chỉ mẹ xem ) Đàn bà tốt tóc thì sang, Đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu Vợ dại thì đẻ con khôn Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm Bé thì nhờ mẹ nhờ cha, Lớn lên nhờ vợ, già thì nhờ con Có con phải khổ vì con, Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng Thà ngủ đất với cô hàng hương Hơn nằm giuờng với cô hàng cá Chồng em áo rách em thương, Chồng người áo gấm xông hương mặc người Thuyền ơi có nhớ bến chăng, Bến thì 1 dạ khăng khăng đợi thuyền. Ba đồng một mớ đàn ông Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha Ba trăm một mụ đàn bà Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi Cô kia cắt cỏ một mình, Cho anh cắt với chung tình làm đôị Cô còn cắt nữa hay thôi, Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng. Lỗ mũi thì tám gánh lông, Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời chọ Đêm nằm thì ngáy o o, Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà. Đi chợ thì hay ăn quà, Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm. Trên đầu những rác cùng rơm, Chồng yêu chồng bảo hoa thơm giắt đầụ
    1 like
  41. Vẫn còn một thế giới vô hình tồn tại song song với thế giới hữu hình. Điều này dù không muốn thừa nhận nhưng mọi người vẫn tin.
    1 like
  42. Mỹ là nơi tập trung rất nhiều chuyên ma Và người mỹ rất tin váo nó Có lần đang ngồi hoc lớp lecture giáo sư của cháu thấy ma Cô ấy nói " I have just .... ghost" Vậy là tụi em phải chuyen qua phồng khác học Tuy không biết giải thích sao về vấn đề này Nhưng bên này chuyện găp ma rất hay thường xảy ra Tuy có vẻ vô lý Đúng ra thời nay la hiện đại thì mức độ chết oan giảm xuống Thì hiện tượng găp ma cung giảm . Nhưng không hiểu sao lại vậy Và bên này cung có rất nhiêug ngôi nha ma bỏ hoang Nhìn nó rất âm u Tuy nhiên đó là vấn đề về tâm linh Không biết có ai tin như vậy không
    1 like
  43. Người Việt vẽ vòng xoáy Âm Dương không có hai chấm nhỏ. Tôi đã chứng minh điều này.
    1 like
  44. Hổng có chi! Ấy là vì chú bất tài nên phát biểu cái ý kiến cá nhân vậy. Thế gian này thiếu gì cao thủ. Cứ xem họ chê chú thì biết. Đầy ra trên mạng. Ấy là mới ở Việt Nam, chứ hẳn bên Tàu thì chắc đông lắm.Thế quái nào mà mấy ông thày ở Hớn Coỏng, Pê Canh tầm cỡ như Thiệu Vĩ Hoa, thày Lo chẳng lên quẻ.
    1 like
  45. “Ngạc nhiên, thán phục và bất ngờ”, đó là những cảm xúc của hàng trăm phóng viên, nhà báo và các bậc phụ huynh chứng kiến buổi thuyết trình của em Cao Thanh Xuân Yên (học sinh lớp 2, Trường tiểu học Hiệp Bình Phước, Thủ Đức) tại vòng bán kết và chung kết cuộc thi sáng tạo dành cho thanh thiếu nhi TP. Hồ Chí Minh lần IV năm 2009 diễn ra cuối tuần qua. Bé Xuân Yên đang thuyết trình về mô hình chống ngập do mình thiết kế Là học sinh nhỏ tuổi nhất trong số các thí sinh tham dự cuộc thi, Xuân Yên (năm nay vừa tròn 7 tuổi) đã khiến cả khán phòng ồ lên trầm trồ thán phục với những dẫn giải tự tin về mô hình chống ngập cho thành phố do em tự thiết kế và thực hiện. Với dáng vóc nhỏ bé, lọt thỏm trước bàn đặt mô hình nhưng giọng nói của em thì rành rọt và rất “người lớn” - Một thành viên Ban giám khảo nhận xét. Đặc biệt, khi được hỏi: “Nguồn năng lượng để vận hành mô hình là gì?”. Tưởng rằng câu hỏi này quá khó đối với một học sinh lớp 2, tuy nhiên Xuân Yên tự tin đáp: “Cháu sẽ nhờ các bác kỹ sư dùng nguồn năng lượng mặt trời đặt trên đỉnh ống truyền dẫn nước và gắn một bóng đèn phía trên để nhận diện”. Đến đây thì cả hội trường ai nấy đều phải vỗ tay thán phục về câu trả lời thông minh của em. Trò chuyện với chúng tôi, chị Nguyễn Ánh Tâm, mẹ của Xuân Yên tâm sự: “Ngay từ lúc cháu mới bước vào lớp 1, tôi rất ngạc nhiên khi hàng ngày đưa cháu đi học, cháu thường hỏi tôi những câu như: “mẹ ơi sao nước ngập trường con vậy mẹ?”, “sao các chú môi trường không múc nước đi chỗ khác hở mẹ?. Lúc đó tôi cũng không để ý lắm. Chỉ đến khi về nhà, tôi thấy cháu tự xếp các mô hình đồ chơi thành các đoạn ống hút nước mới vỡ nhẽ ra là cháu có khả năng thiết kế. Chúng tôi đã mang mô hình của cháu tới trung tâm khoa học công nghệ Thành đoàn và được các anh chị ở đây động viên, khuyến khích cháu tham gia cuộc thi”. Anh Lê Công Tĩnh, Giám đốc Trung tâm phát triển khoa học công nghệ Thành đoàn, Trưởng ban tổ chức cuộc thi cho biết thêm: “Năm nay, đa số các thí sinh tham gia cuộc thi đều có độ tuổi trung bình từ 7–15 tuổi, trong đó Xuân Yên là thí sinh nhỏ tuổi nhất 2 lần liên tiếp tham dự cuộc thi. Xuân Yên (hàng đầu) là thí sinh nhỏ tuổi nhất tham dự cuộc thi Năm 2008, Xuân Yên cũng đã xuất sắc vượt qua gần 2.200 bài thi lý thuyết và gần 30 mô hình, sản phẩm sáng tạo để trở thành thí sinh nhỏ tuổi nhất đoạt giải Ba với mô hình “Thiết kế thùng rác dành cho các bạn nhỏ” và được chọn là một trong những thí sinh đại diện cho thành phố tham gia Hội thi sáng tạo dành cho thanh thiếu niên và nhi đồng toàn quốc lần thứ IV tại Hà Nội”. Với thành tích “7 tuổi làm công trình chống ngập cho thành phố” – Xuân Yên là trường hợp tiêu biểu trong cuộc thi sáng tạo dành cho thiếu nhi TP. Hồ Chí Minh. Theo
    1 like
  46. Thanhphuc thân mến. Trước trận lũ lụt miền Trung năm nay không lâu, có bạn đưa lên hiện tượng ốc và sò biển xuất hiện tràn ngập bãi biển một xã ở Thừa Thiên Huế. Tôi có lý giải rằng: Thủy khí dâng lên, nên sò ốc theo đó tràn vào bờ. Tất sẽ có lũ lụt. Quả nhiên sau đó lũ lụt lớn ở miền trung và Thừa Thiên Huế (Tin các báo). Bây giờ lại có hiện tượng ong núi bay tràn về đồng bằng. Tất cũng giải thích bằng khí núi tạp loạn, nên loài côn trùng do Thấp khi (Khí ẩm) sinh ra không sống được phải di tản. Bởi vậy, đề phòng khí lạnh tăng cường - như kinh nghiệm của một lão nông đã nói trong bài báo - và lũ lụt. Thuyết Âm Dương Ngũ hành giải thích rằng: Do thấp khí vùng sơn cước tạp loạn, Thiên nhất sinh Thủy - nên lũ lụt sẽ xảy ra khó kiểm soát, kèm theo lở đất rất phiền toái. Bởi vậy, lời khuyên là: Đề phòng lũ quét, lở đất và trời lạnh đột ngột. Thiên nhiên vốn rất cân đối. Ong rừng bay về là thể hiện sự điều tiết của thiên nhiên. Nếu giết chúng thì thiên nhiên không cân đối được, cực kỳ rắc rối. Nên cấm giết ong rừng trong trường hợp này. Nếu chỉ một vài tổ thì không nói làm gì, có thể do những nguyên nhân cụ thể khó đoán, Nay nhiều như vậy thì cần bảo vệ. Ngày xưa - dưới thời Hùng Vương - ông cha ta có những điều luật bảo vệ thiên nhiên rất chặt chẽ. Thanhphuc có học lớp Phong Thủy Lạc Việt không? Nếu có sẽ được giảng rất kỹ về khí.
    1 like
  47. Những kho báu vô giá thời tiền sử Đó là những địa điểm ghi lại nhiều dấu tích của lịch sử loài người: những bức họa đặc sắc trên các vách đá, những dấu chân rõ nét của người và động vật, những vết khói ám từ những ngọn đuốc... Tất cả là những kho báu vô giá của loài người được thời gian lưu giữ và bảo tồn cho đến ngày nay. Được mệnh danh là “nhà nguyện thời tiền sử", động Lascaux - một quần thể hang động thuộc miền Tây Nam nước Pháp - sở hữu một trong số những bức họa trên vách đá quý giá nhất trên thế giới. Những kiệt tác nghệ thuật trên các vách đá trong hang động này có tuổi thọ ít nhất là 15.000 năm. Hang động này được phát hiện vào ngày 12/9/1940 bởi 4 thanh niên có tên Marcel Ravidat, Jacques Marsal, Georges Agnel, Simon Coencas, và chú chó Robot của Ravidat. Sau Thế chiến thứ 2, công chúng mới có cơ hội dễ dàng tham quan khu hang động này. Cho đến năm 1955, Lascaux thu hút trung bình 1.200 du khách đến tham quan mỗi ngày khiến cho các tác phẩm hội họa bị hủy hoại khá nhiều bởi khí he carbon dioxide. Cuối cùng, vào năm 1963, người ta quyết định đóng cửa hang động, không cho phép khách du lịch vào thưởng lãm nhằm bảo tồn các bức họa này. Động Altamira độc đáo nhờ những bức họa trên vách đá mà theo như câu nói nổi tiếng của Picasso thì "sau Altamira, tất cả chỉ là sự suy đồi". Altamira tọa lạc gần Santilliana del Mar ở Cantabria, phía Bắc Tây Ban Nha, cách Santander 30 km về phía Tây. Cũng giống như những hang động khác, Altamira cũng tình cờ được phát hiện ra. Vào năm 1868, một thợ săn có tên Modesto Cubillas bị trượt ngã khi đi ngang qua khu hang động này nhưng mãi 7 năm sau, một nhà quý tộc từ Santander có tên Marcellino Sanz de Santuola mới chính thức khám phá ra Altamira. Nhưng, vào năm 1879, người phát hiện ra những bức họa trên vách đá trong hang động này lại là cô con gái của nhà quý tộc trên, Maria de Santuola. Hai cha con họ quyết định giữ bí mật nhằm bảo tồn và gìn giữ những bức tranh đá đẹp tuyệt vời, mãi cho đến khi họ qua đời, các chuyên gia vẫn còn nghi ngờ về tính xác thực của khu động này. Đến đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học và các chuyên gia khảo cổ học mới phát hiện ra khu hang động nhờ vào những vết tích từ thời kỳ đồ đá còn sót lại xung quanh khu vực đó. Những bức họa của Altamira là bằng chứng rõ nét về nền văn hóa của người Magdaléni (cách đây gần 16.000 năm) sinh sống tại phía Nam châu Âu. Động Chauvet nằm ở phía Nam nước Pháp cũng sở hữu rất nhiều tác phẩm nghệ thuật đặc biệt. Hang động này trở nên nổi tiếng vào năm 1994 sau khi một nhóm gồm 3 nhà nghiên cứu hang động phát hiện ra những vách đá của hang động này được trang trí bằng những bức họa mô phỏng cuộc sống của con người vào thời kỳ đồ đá cũ. Hơn thế nữa, những bức tường trong hang động vẫn còn lưu giữ những phần hóa thạch còn sót lại của rất nhiều loài động vật trong đó có những loài ngày nay đã tuyệt chủng. Trên sàn động cũng còn lưu lại khá nhiều dấu chân của động vật và con người từ thời tiền sử. Chauvet nhanh chóng được xem là một trong những bảo tàng tự nhiên về nghệ thuật thời tiền sử quan trọng nhất thế giới. Hang động này là nơi cư ngụ của con người trong suốt 2 thời kỳ: Aurignacian (cách đây khoảng 32.000 đến 30.000 năm trước Công nguyên) và Gravettian (cách đây khoảng 28.000 đến 22.000 năm trước Công nguyên). Hầu hết các tác phẩm nghệ thuật thuộc thời kỳ Aurignacian đều nguyên vẹn cho đến tận ngày nay trong khi đó vết tích của thời Gravettian còn sót lại chỉ là một dấu chân trẻ con, một khoảng hang đá nhuốm khói carbon từ những cây đuốc mà họ đốt cháy trong hang động. Động Magura nằm ở phía Tây Bắc Bulgary, cách thủ đô Sofia 180 km. Điểm có một không hai của hang động này là những bức tranh trên đá được hình thành từ... phân rơi. Những bức tranh này bao gồm rất nhiều lớp, hình thành từ nhiều thời kỳ khác nhau: Epupaleolith, Neolith, Eneolith, giai đoạn đầu của thời kỳ Đồ đồng. Những bức họa trong hang động Magura miêu tả cảnh nhảy múa của những cô gái, cảnh săn bắn của những người đàn ông, cảnh hóa trang trong các lễ hội và rất nhiều hình ảnh động vật, mặt trời, các ngôi sao, nông cụ và những cây cối. Rất nhiều các sự kiện và lễ hội tôn giáo qua các thời kỳ được phản ánh bằng những biểu tượng, những nhân vật quan trọng trên nền vách đá. Một số hình ảnh miêu tả rõ nét và phong phú các mặt đời sống tinh thần, vật chất của con người thời kỳ tiền sử. Độc đáo nhất trong số tất cả các hang động được nhắc đến trong bài này có lẽ là động Cosquer bởi đây là một hang động dưới nước, cách đây 27.000 năm. Cosquer thuộc vùng Calanque de Morgiou gần Marseille, Pháp, cách Cap Morgiou không quá xa. Cửa vào hang động này đến nay vẫn ngập trong nước, dưới mực nước biển 37 m. Năm 1991, Henri Cosquer đã khám phá ra chiếc hang đặc biệt này và vì vậy mà tên của ông được đặt cho địa danh này. Du khách có thể vào tham quan khu hang động thông qua một đường ống dài 175 m nối thẳng vào cửa hang. Động có rất nhiều tác phẩm hội họa và điêu khắc có từ thời kỳ tiền Paleolithic: những khuôn vẽ có cách đây 27.000 năm; những dấu vết của động vật và con người cách đây 19.000 năm (thời kỳ Solutrean); những bức vẽ các loài động vật từ bò rừng bizon, dê rừng núi An-pơ, ngựa đến những sinh vật biển như hải cẩu, chim anca và sứa. Động Font de Gaume là nơi cư ngụ của con người sinh sống quanh khu vực thung lũng Dordogne cách nay khoảng 25.000 năm trước Công nguyên. Miệng hang là nơi định cư của con người trong khoảng vài nghìn năm sau đó. Tuy nhiên, sau đó thì hang động này bị lãng quên mãi cho đến thế kỷ thứ 19, người dân địa phương mới bắt đầu phát hiện ra Font de Gaume. Năm 1901, Denis Peyrony, một giáo viên đến từ Les Eyzies, khám phá ra những bức họa bên trong Font de Gaume, có niên đại khoảng 17.000 năm, thuộc thời kỳ Magdaléni. Font de Gaume gìn giữ hơn 200 bức họa đa sắc miêu tả rất nhiều loài động vật như bò rừng bizon, ngựa và voi ma-mút. (Theo Anh Nguyễn, Dân Trí/Dailymai)
    1 like
  48. Chạm trán quái vật khổng lồ ở biển Cát Bà Ông Nguyễn Đình Hùy (ảnh nhỏ, góc trái) đang kể chuyện về lần chạm trán quái vật Giadinh.net - Người dân khu vực đảo Cát Bà (Hải Phòng) đang trở nên "nổi tiếng" bởi có một tài liệu (đã công bố) nói rằng vùng biển này có một loài quái vật khổng lồ, trông giống như mãng xà, kích thước như một tàu cỡ lớn, mỗi khi nhô lưng lên không khác gì một hòn đảo chìm... Rất nhiều thuỷ thủ, nhà buôn, thậm chí những ngư dân chỉ quen “đánh bắt ven bờ” cũng đã từng tận mắt chứng kiến (?). Và câu chuyện về loài quái vật khổng lồ, lạ lùng trên đã được chúng tôi cùng những ngư dân ở chính đảo Cát Bà lật lại... Lần theo manh mối Đúng như chúng tôi dự đoán, sự lan toả của thông tin về loài quái vật trên đã làm dư luận đảo Cát Bà nóng lên. Trên vụng Tùng Dinh, ngoài bãi biển nơi cả trăm tàu thuyền đang neo đậu, đâu đâu người ta cũng xôn xao bàn tán về loài... quái vật lạ kỳ này. Và cũng chính bởi những “thông tin không chính thống” ấy, loài quái vật ấy bỗng hoá thành... dữ tợn. Nào là, chỉ một cái quẫy đuôi, quái vật có thể đánh đắm cả một chiếc tàu cỡ lớn. Nào là, mắt chúng to và sáng như đèn pha ô tô, răng to chắc, nhọn hoắt như khủng long bạo chúa... Ai cũng mô tả vô cùng tỉ mỉ, rõ nét, kèm theo vẻ mặt hoang mang, sợ hãi, như thể mới đây thôi, chính họ đã tận thấy loài hải tinh ghê gớm ấy. Người đầu tiên chúng tôi tìm gặp là ông Nguyễn Đình Khượng, Trưởng phòng NN và PTNT huyện đảo Cát Hải. Ông Khượng phụ trách mảng đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản của huyện, đồng thời, chúng tôi biết ông xuất thân từ một gia đình ngư dân, trưởng thành từ một xã có truyền thống đi biển lâu đời bậc nhất ở đảo. Ông Khượng cho biết, ngư trường Cát Bà là nơi tồn tại rất nhiều loài hải sản. Đặc biệt, trong số ấy, có nhiều loài có kích thước ngoài sức tưởng tượng của các ngư dân. Về loài quái vật biển cả khổng lồ trên, ông Khượng cho biết, thông tin cụ thể, chính xác thì ông chưa nắm chắc, nhưng ở làng chài quê ông, từ trước, đã có rất nhiều ngư dân tận mắt thấy những loài “hải tinh” vóc dáng to lớn, hình thù kỳ lạ. Và, theo như mô tả của họ, thì con vật khổng lồ ấy có hình dáng giống với loài quái vật mà nhiều người đang xôn xao bàn luận bây giờ. Ông bảo, những hộ này trước đây là xã viên của hợp tác xã Phù Long, đơn vị đánh bắt cá thiện nghệ nhất của huyện đảo ngày trước. Bởi là thành viên hợp tác xã, nên những ngư dân đó có tầu lớn để vươn ra khơi xa. Trên hành trình đánh bắt xa bờ của mình, họ đã gặp những loài hải sản mà chưa ai được thấy bao giờ. Khi chia tay, ông Khượng đã dặn rất kỹ càng, nếu muốn tìm hiểu về những nội dung trên, thì nên đến gặp họ ngay, bởi theo như ông được biết, những xã viên của HTX hùng mạnh ngày trước, phần lớn giờ đã không còn. Đồng thời, ông Khượng đã xin lại số điện thoại của chúng tôi để hễ có thông tin gì ông sẽ báo ngay cho chúng tôi được biết. Gặp người đã chạm trán “hải tinh” Xã Phù Long nằm ngay sát bờ biển. Hôm chúng tôi đến, dân trong xã đang làm lễ để rước tượng từ Hải Phòng vào. Cờ, phướn lập loè, trống, chiêng rộn rã. Theo chỉ dẫn của ông Khượng, chúng tôi đã tìm đến nhà lão ngư dân Nguyễn Đình Hùy ở xóm Ngoài. Tuy ở tuổi xưa nay hiếm nhưng trông ông Hùy vẫn còn tráng kiện lắm. Ông bảo, cả đời lênh đênh trên biển, sóng gió đại dương đã cho ông sức vóc dẻo dai, tinh thần minh mẫn. Đang chuyện trò sôi nổi, ông Hùy bỗng giật mình, kinh ngạc khi chúng tôi bất ngờ hỏi lần chạm trán với con vật khổng lồ giữa đại dương thủa trước. Sau ít phút trấn tĩnh, ông nói giọng nghe như đã lạc đi. Ông bảo, chúng tôi là người may mắn bởi tìm hiểu về loài vật khổng lồ trên, tìm đến ông là đã chọn đúng người. “Kỷ niệm không thể nào quên” ấy giờ ở xã Phù Long, chỉ có ông và bà Nguyễn Thị Thại (cũng ở xóm Ngoài) là còn nắm chắc, bởi những người cùng ra khơi năm đó, và cùng tận mắt thấy con vật kinh hoàng trên đều đã thành người thiên cổ cả rồi. Năm ấy, ở HTX đánh bắt Phù Long, ông được phân công làm việc ở đội đánh bắt do ông Bùi Đình Bé làm đội trưởng. Đội có 6 người, gồm ông, ông Bé, bà Thại (vợ ông Bé), ông Chứ, ông Đống, ông Hổi. Tất cả đều là những ngư dân cự phách, lớn lên từ sóng gió đại dương. Năm đó, chỉ ít lâu trước khi HTX Phù Long giải thể (HTX giải thể năm 1982), đội của ông được phân công đánh bắt cá Nhâm (một loài cá đặc sản của Cát Bà) ở khu biển Rãng Le, gần với đảo núi Đại Thành. Với đặc tính của cá Nhâm thì đội phải đi từ đêm để đến khi nước đứng chúng mới nổi lên và từ trên cao, quan sát hướng đi của bầy cá, đội trưởng Bé mới vạch hướng cho các thuyền viên “tác nghiệp”. Hôm ấy, trời cũng bắt đầu chuyển từ xuân sang hạ, như mọi khi, thuyền đánh bắt của ông lại ra khơi. Mới 9h sáng mà giữa đại dương, mặt trời đã ném những tia nắng bỏng rát. Từ trên cao, nơi ngọn cột buồm, đội trưởng Bé bắt đầu công việc quan sát của mình. Khi thuyền đang chầm chậm lao về phía núi đảo Đại Thành, bất chợt đội trưởng Bé gào anh em cho thuyền chuyển hướng. “Có đảo ngầm! Rẽ ngay sang trái! Rẽ ngay!”. Tiếng hô như lạc giọng của ông Bé khiến anh em đang chuẩn bị đồ nghề đánh bắt ở dưới khoang thuyền hết sức ngạc nhiên. Cả mấy chục năm lênh đênh ở hải phận này, đến từng con sóng mọi người còn thông thạo huống chi lại không biết sự hiện diện của một đảo ngầm. Vô lí! Thế nhưng, trước sự khẩn khoản của người đội trưởng mẫn cán, mọi người cũng vội dừng tay, ngước mắt theo hướng chỉ của ông Bé. “Đảo ngầm thật!”. Mọi người ồ lên kinh ngạc. Phía trước, cách thuyền có vài chục mét, giữa sóng biển ộp oặp, một khối đen nổi lên sừng sững. Thấy vật cản, ông Hùy vội vàng chạy vào khoang máy, nói với thợ máy rẽ trái để thuyền vòng qua “chướng ngại vật”. Quay ra, chưa hết ngạc nhiên về sự xuất hiện bất thường của “hòn đảo” trên thì ông đã giật mình bởi từ trên cao, tiếng ông Bé gào lên trong sợ hãi: “Các chú ơi! Con gì ấy! To lắm...!”. Ngư trường Cát Bà “Hòn đảo chìm” di động Nói chưa dứt câu thì ông Bé đã vội vàng tụt đánh phịch xuống khoang thuyền. Ông ra lệnh cho thợ máy dừng thuyền để tránh gây ra tiếng động. Khi mọi người còn chưa kịp hiểu chuyện gì thì từ phía xa, “hòn đảo ngầm” bỗng chuyển động, cứ từ từ nhằm hướng thuyền lao tới. Trên khoang, mặt ai nấy tái xanh. Hồi ấy, để đảm bảo an toàn cho mỗi chuyến ra khơi, trên truyền các ông đều mang theo súng. Thế nhưng, trong cơn hoảng loạn đó, chẳng ai còn nhớ đến “món đồ” ấy nữa. Sợ hãi, mắt ai cũng nhắm nghiền đợi chờ giây phút khủng khiếp nhất trong đời ngư phủ của mình. Cứ ngỡ chiếc thuyền sẽ vỡ tan tành, và tất cả thuyền viên sẽ biến thành miếng mồi ngon cho con vật lạ lùng ấy. Nhưng lạ thay, khi khoảng cách chỉ còn vài mét, chẳng hiểu vì sao bỗng dưng nó dừng lại. Lúc này, lấy hết can đảm ông Hùy và mọi người trên khoang thuyền mới dám mở mắt ra nhìn. Bởi hướng gió, thuyền đã trôi theo hướng song song với con vật. Từ trên khoang, ông Hùy thấy lưng con vật nhô cao lên khỏi mắt nước cỡ gần 1 mét. Và, theo phỏng đoán của ông, thân con vật ấy rất dài, bởi chỉ riêng phần nhô lên ấy, một khoảng chừng 5 mét khô cong, không mảy may có một vệt nước. Tấm lưng ấy được phủ một lớp vảy dày. Mỗi vảy to như chiếc mâm con, màu vàng nhạt. Nhìn xuyên qua nước biển, ông thấy đầu con vật lạ như đầu cá heo, với đôi mắt to như hai chiếc bát cỡ lớn, sáng rực. Với bao nhiêu năm đi biển của mình, ông Hùy và tất thảy những người trên thuyền hôm đó đều khẳng định, trong đời, không một ai từng thấy loài vật nào như thế. Bởi không biết vị khách không mời ấy lành, dữ ra sao, không thể ngồi yên chờ chết, nên trong tích tắc, ông quyết định chọn phương án tấn công đối thủ.
    1 like
  49. Hì! Anh Trần Phương thân mến ơi! Sau này chính người phát hiện ra những "di hài " này đã thừa nhận đây chỉ là trò đùa dai của ông ấy.
    1 like
  50. Hiện tượng lạ trên bãi biển Australia Trong ảnh dưới đây, đuổi theo em nhỏ không phải là những cuộn sóng nước tràn bờ thường thấy ở mọi bãi biển trên khắp thế giới, mà là tầng tầng lớp lớp bọt kem. Hiện tượng thiên nhiên độc đáo này xảy ra dọc 50km bờ biển phía bắc Sydney. ảnh minh họa Bọt nhấn chìm toàn bộ bờ biển và một nửa những tòa nhà gần đó. Hiện tượng này đã từng xảy ra ở Yamba bang New Saouth Wales, Australia cách đây hơn ba thập kỷ. Như quên hẳn những lâu đài cát, những đứa trẻ này vùi mình trong những đám bọt trắng. Có lẽ chúng sẽ xây lâu đài bằng bọt sáp. Theo các nhà khoa học, bọt sáp tạo ra từ các chất cặn bẩn ở trong đại dương như các hạt muối, hóa chất, cây chết, cá bị thối rữa và các chất bài tiết từ rong biển. Dù có bẩn hay không, nhưng đứa trẻ này cũng không quan tâm. Cũng theo các nhà khoa học, các chất cặn bẩn bị các dòng biển rất mạnh khấy tung lên và đánh thành thứ như kem như thế này. Một chuyên gia về biển giải thích trên tờDaily Mail của Anh rằng hiện tượng này giống như hiện tượng xảy ra khi bạn đánh bọt một tách cafe Cappuccino vậy. Bạn càng đánh mạnh thì càng nhiều bọt nổi lên trên và bọt cũng càng nhẹ hơn.
    1 like