• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 10/08/2010 in all areas

  1. Ông Khiết - Một biểu tương minh triết của văn minh Lạc Việt. Sự xác định phát minh ra la bàn thuộc về văn minh Việt cổ. Website Lý học Đông Phương Hướng dẫn: Thiên Sứ Biên soan: Achau Bổ sung: Thiên Đồng Trong hội thảo "Tính khoa học của Phong thủy", do Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương tổ chức tại Hanoi, ở khách sạn La Thành ngày 15 - 12 - 2009, Hoàng Triều Hải là một thành viên nghiên cứu và hiện là trưởng đại diện Văn Phòng Hanoi của Trung tâm đã giới thiệu "Ông Khiết" - một vật trấn yểm độc đáo của Phong Thủy Lạc Việt. Ông Khiết chính là một món quà tặng của Trung Tâm cho các vị khách quí tham dự hội thảo. Đây cũng chính là một biểu tượng đầy tính minh triết của nền văn Lạc Việt, một thời huyền vĩ ở miến nam sông Dương tử.... Ông Khiết - quà tặng của Trung tâm trong hội thảo. Ảnh: TTNCLHĐP Tính minh triết Việt qua biểu tượng Ông Khiết Có lẽ, hầu hết người Việt Nam khi bước vào đời, trước nhưng khó khăn của cuộc sống đầy bon chen, sát phạt, thì thường tự an ủi với câu thành ngữ rất phổ biến: "Ngậm miệng ăn tiền". Hoặc trước những bất công xã hội, những sự ức chế thì ông cha ta cũng thường nói: "Cóc cũng phải mở miệng". Hay trong đời thường, trước những khó khăn không thể vượt qua, người ta thường thách đố nhau: "Đợi đến cóc mọc râu" mới làm được việc đó. Đã từ lâu, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, đã phát hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa những câu thành ngữ lưu truyền trong dân gian Việt Nam, những giá trị văn hóa phi vật thể của nền văn hiến Việt liên hệ đến hình tượng "Ông Khiết", qua những tác phẩm của ông: "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam", "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại", "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp"; "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt"…nhằm phục hồi hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc về nền văn hiến Việt 5000 năm huyền vĩ phía Nam Dương Tử. Có thể nói rằng: Trong suốt lịch sử trải gần 5000 năm đó, hình tượng "Ông Khiết" - cụ Cóc - luôn gắn bó với nền văn hóa truyền thống Việt. Chúng ta có thể nhận thấy ngày hình ảnh "Ông khiết" Việt trong nền văn hiến Việt qua những di sản khảo cổ từ hàng ngàn năm trước: Đây là những di vật khảo cổ của người Việt, đã làm thế giới phải ngạc nhiên và thú vị trước một nền văn minh và kỹ thuật phát triển thể hiện một đỉnh cao không những trong kỹ thuật đúc đồng mà ngay cả trong nghệ thuật khắc nổi và hình họa. Những chi tiết trên trống đồng phản ánh một hình thái xã hội với chiều sâu của nó, xác định một nền văn minh Văn Lang rực rỡ của Việt tộc. Một trong những chi tiết độc đáo, được đắp nổi trên tang trống Lạc Việt từ hàng ngàn năm trước là những những con vật bình dị, nhưng rất thân thuộc trong xã hội văn minh lúa nước, đó là hình ảnh con Cóc. Trống đồng Lạng Sơn, loại Heger II, trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn và hình tượng cóc - Ông Khiết. Tượng cóc trên trống đồng Đông Sơn Tượng cóc trên mặt trống Heger II Đã có nhiều học giả có những cách lý giải khác nhau về con Cóc trong các nghiên cứu khoa học. Có thuyết cho rằng Cóc là biểu hiện cho tình trạng thời tiết trong mùa màng, như “Cóc nghiến răng thì trời sẽ mưa”. Những hình ảnh Cóc trên trống đồng xuất hiện rất thường xuyên trong các di vật khảo cổ và người ta càng khó hiểu khi có những hình tượng Cóc giao hoan, không những giữa hai cá thể mà những ba cá thể (!). Nhiều học giả có ý kiến cho đó là biểu trưng cho tính ngưỡng phồn thực cổ xưa của văn hóa Việt!? Tượng 3 cóc giao phối. Không chỉ ở nhưng di vật khảo cổ xác định hình tượng Ông Khiết đã tồn tại từ lâu trong nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, mà hình tượng này còn tồn tại trong văn hóa truyền thống dân gian Việt Nam cho đến tận bây giờ. Những chuyện liên quan đến Cóc là nhân vật chính có thể kể ra đây là: Chuyện Trê Cóc, Cóc kiện trời, Thày đồ Cóc...Trong văn học dân gian Việt thì có thể nói ông Cóc có một vị trí đặc biệt được tôn trong: Con cóc là cậu ông trời. Ai mà đánh nó thì trời đánh cho Ông Trời - Thượng Đế - cai quản cả vũ trụ mà nhân loại phải kính trọng, nhưng cóc lại còn là "Câu ông Trời" thì đủ hiểu cóc có địa vị như thế nào! Không những thế, cóc còn là thầy dậy, là sự truyền đạt văn hóa và chỉ mình Cóc làm được chuyện này. Lão Oa độc giảng - Thày Đồ Cóc - Tranh dân gian làng Đông Hồ. Ông Trời chính là biểu tượng của sức mạnh vũ trụ, cóc là Cậu ông Trời và là độc quyền giảng dậy, truyền đạt văn hóa! Phải chăng con cóc là hình tượng muốn gợi mở một suy nghiệm liên quan đến những bí ẩn vũ trụ được ẩn chưa trong nền văn minh Khoa Đểu - đó là loại chữ hình con nòng nọc - con của cóc. Trong ca dao tục ngữ Việt, còn những câu thành ngữ liên quan đến ông Cóc và đặc biết là Ông Khiết - một biểu tượng cách điệu của con Cóc - một cách kỳ lạ, mà chúng tôi lần lượt trình bày với bạn đọc dưới đây: "Ngậm miệng ăn tiền". Một câu thành ngữ độc đáo của nền văn hóa dân gian Việt. Các nhà nghiên cứu, phê bình cho rằng câu thành ngữ này có một nội dung ích kỷ, thiếu tính đấu tranh, chỉ biết lợi cho mình....Nhưng kỳ lạ thay! Đây chính là biểu tượng của Ông Khiết: Hình tượng Ông Khiết - "Ngậm miệng ăn tiền". Thế gian này chẳng ai có thể ngậm miệng ăn tiền cả. Câu thành Ngữ Việt "Ngậm miệng ăn tiền" chỉ mang tính hình tượng, nhằm miêu tả một nội dung khác. Nhưng với hình tượng "Ông Khiết" thì đúng cả đến nghĩa đen. Các thày bà còn khuyên thân chủ mua Ông Khiết về để thờ và cứ phải" sáng quay ra, tối quay vào" để ông mang tiền về cho gia chủ. Hàng ngàn năm đã trôi qua - kể từ khi nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử, hình tượng Ông Khiết "ngậm miệng ăn tiền" vì có khả năng "mang tiền về cho thân chủ" - nên mãi mãi lưu truyền đến ngày nay - phải chăng đã hàm chứa sự gìn giữ những bí ẩn của nền văn minh Khoa Đẩu? Hình tượng Ông Khiết nguyên thủy thì đồng tiền trong miệng có thể tháo rời ra được. Nhưng ngày nay, để tiện vận chuyển và sản xuất, người ta đã hàn dính đồng tiền vào miệng Ông Khiết, hoặc đúc dính liền đồng tiền và mình Ông Khiết thành một khối. Tuy nhiên, vẫn còn có những nơi làm hình tượng này theo đúng truyền thống - họ không đúc liền đồng tiền vào miệng Ông Khiết. Và điều này lại liên quan một cách kỳ lạ đến câu thành ngữ "Cóc mở miệng". "Cóc mở miệng" Câu thành ngữ lưu truyền trong dân gian Việt Nam này có nội dung nói đến những chuyện hy hữu, bất khả kháng. Cả đời, hiếm khi ai nghe được tiếng cóc. Có đánh chết, cóc cũng im, không một tiếng kêu. Các cụ gọi là "gan cóc Tía". Nhưng với hình tượng Ông Khiết, nếu rút đồng tiền ra khỏi miệng cóc thì ta thấy ngay "Cóc mở miệng". Ngậm miệng ăn tiền...và..... Cóc mở miệng! Chính vì mối liên hệ chặt chẽ giữa hình tượng của Ông Khiết và những câu thành ngữ trong văn hóa dân gian Việt, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã tiến hành dùng con lắc cảm xạ kiểm tra và phát hiện ở miệng Ông Khiết, khi bỏ đồng tiền ra, có một hiệu ứng bức xạ rất mạnh. Hiện tượng này được nhà cảm xạ Dư Quang Châu - Trưởng ban cảm xạ Trung Tâm nghiên cứu tiềm năng con người - dùng máy đo xác định: Ở các bộ phận khác nhau trên mình Ông Khiết, đèn báo không sáng toàn phần.... Trung bình có bẩy đơn vị đèn sáng..... Chỗ ít nhất chỉ có ba đơn vị đèn sáng...... Nhưng tại miệng Ông Khiết, đèn sang toàn phần, đã chứng tỏ có một bức xạ rất mạnh ở đây. Một hiện tượng cần lưu ý là: Nếu ta để đồng tiền trở lại vào miệng Ông Khiết thì hiện tượng bức xạ yếu hẳn. Hiện tượng "Cóc mở miệng" nói lên điều gì? Phải chăng những điều gần như không tưởng trở thành có thể? Trong thành ngữ dân gian Việt Nam có câu "Bao giờ cóc mọc râu". Một câu thành ngữ có tính ví von với hình tượng so sánh với những việc gần như không tưởng. Cóc thì chẳng bao giờ mọc râu cả, vậy thì những việc làm sẽ chẳng bao giờ thành công ví như chờ đến khi "cóc mọc râu" vậy. Nhưng kỳ lạ thay! Một lần nữa câu thành ngữ dân gian Việt này lại liên hệ rất cụ thể với hình tượng Ông Khiết: Bạn đọc hãy nhìn kỹ xem: Ở hai bên mép Ông Khiết có hai sơi râu thật..... " Cóc mọc râu" đúng cả nghĩa đen với hình tượng Ông Khiết. Phải chăng, chính hình tượng Ông Khiết muốn nhắc nhở hậu thế rằng: Những điều không tưởng vẫn có khả năng trở thành hiện thực?! Trong bài "Hòn Vọng Phu" của nhạc sĩ Lê Thương có câu: Ta cố đợi ngàn năm. Một ngàn năm nữa sẽ qua.... Nhạc sĩ Lê Thương sáng tác bài hát nổi tiếng này của ông, khi mà tất cả các nhà nghiên cứu văn hóa sử Việt còn sống ngày nay chưa sinh ra ở trên đời..... Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, kể từ khi nền văn hiến huyền vĩ Việt sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử, ông Khiết đã "Ngậm miệng ăn tiền". Đến nay, Ông Khiết đã mở miệng và thể hiện những điều mà trước đây gần như không tưởng - "Cóc mọc râu". Qua hình tượng Ông Khiết, đã xác định một nền văn hiến huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử - nền văn minh Khoa Đẩu - đã sở hữu một lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang mơ ước. Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Ông Khiết và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Ngay trên đầu ông Khiết, đã đội Âm Dương, cho chúng ta thấy hình tượng Ông Khiết có mối liên hệ chặt chẽ với thuyết Âm Dương Ngũ hành. Do đó hình tượng này phải là một sự lựa chọn liên quan mật thiết đến học thuyết này. Nếu chúng ta có thể cách điệu hóa hình tượng ông Khiết ba chân đầy huyền bí này thành hình kỷ hà thì sẽ có hình tam giác cho thân ông Khiết với đỉnh ở miệng Ông Khiết và một hình tam giác khác có đỉnh là chân sau ông Khiết. Và đây chính là biểu tượng của Do Thái giáo - một tôn giáo cổ xưa nhất của nhân loại và nay chính là lá cờ của quốc gia Isarael. Đồng thời đây cũng chính là biểu tượng của đồ hình Hậu Thiên Lạc Việt với sự kết hợp hai quái Đoài Tốn và Cấn Chấn thành đồ hình tam âm, tam Dương. Xin xem hình minh họa dưới đây: Không ai có thể phủ nhận sự liên quan giữa bát quái với Ngũ hành trong ứng dụng. Biểu tượng của ông Khiết liên quan đến Thuyết Âm Dương Ngũ hành là việc rất rõ ràng không cần phải bàn cãi, ít nhất với xoáy Âm Dương mà Ông Khiết mang trên đầu. Nhưng vấn đề cũng chưa dừng lại ở đấy, mà biểu tượng này còn liên quan mật thiết với những tri thức vũ trụ và xác định: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là sự tổng hợp của những tri thức vũ trụ, khi mà trên lưng Ông Khiết chính là hình tượng của chòm sao Đại Hùng Tinh - Chòm sao Thiên cực Bắc của bầu trời Thái Ất trong lý học Đông phương. Bạn đọc có thể so sánh hình dưới đây: Chòm sao Đại Hùng tinh trên bầu trời Thái Ất hiện nay (Chấm đen trên hình minh họa). So sánh với các chấm trên lưng ông Khiết...... Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng: Ông Khiết chính là biểu tượng hoàn hảo của nền văn minh Khoa Đẩu (Con ông Khiết chính là nòng nọc - Khoa Đẩu tự - văn tự chính thống của nền văn minh Lạc Việt), miêu tả một cách cô đọng nhất những nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành và một thực tại mà học thuyết này phản ánh: Đó chính là những quy luật vũ trụ tương tác với Địa cầu, mà chòm sao Thiên Cực Bắc chính là chòm sao định vị căn bản cho mọi sự vận động, tương tác đó. Nhưng vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây, hình tượng Ông Khiết còn xác định rằng: La bàn chính là sản phẩm có từ lâu trong nền văn minh cổ nhân loại và không phải do người Trung Quốc phát minh. Biểu tượng Ông Khiết - Xác định la bàn là phát minh của người Việt cổ. Từ hàng ngàn năm nay, cả thế giới này vẫn ngộ nhận la bàn là phát minh của nền văn minh Hoa Hạ, cũng như cho rằng Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành của người Trung Hoa vậy. Có thể nói rằng trên hầu hết những website nghiên cứu đều thống nhất nói về điều này. Nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim chép trong Việt Nam Sử Lược "... và ông Chu Công Ðán lại chế ra xe chỉ Nam để đem: "... và ông Chu Công Ðán lại chế ra xe chỉ Nam để đem xứ Việt thường về nước." (quyển 1, trang 13). Còn theo sự khảo cứu của Châu Âu cho rằng la bàn từ dùng kim nam châm được các nhà hàng hải Trung Hoa dùng khoảng năm 1100 Tây lịch. Theo học giả Alexander Neckam viết trong sách Desutensilibus (Nói về các dụng cụ) thì các thủy thủ Anh,vào năm 1190, đã từng dùng la bàn cho những chuyến hải hành trên cách đại dương. Khoảng từ năm 1220 người Arập đã bắt đầu dùng la bàn và khoảng 1250 thì người Viking cũng đã biết dùng loại công cụ định hướng này một cách thường thức. Họ còn trưng ra nhưng cái gọi là "di vật khảo cổ" để xác định la bàn là phát minh của người Hoa Hạ: Chiếc thìa chỉ Nam - một di vật được coi là phát minh của người Hoa Hạ vào thế kỷ II BC. Thế giới theo thói quen nhận thức đó, mặc nhiên ngộ nhận sự phát minh La Bàn là của người Trung Quốc. Nhưng một bí ẩn còn chưa được giải thích, một câu hỏi còn đang bỏ lững, khi đặt cho câu hỏi rằng những công trình kim tự tháp của Ai Cập, Hy Lạp, Inca, Maya, Zoque ở Trung Mỹ, được xác định phương hướng để xây dựng hay các cấu trúc công năng của tháp cũng thể hiện khả năng, công dụng xác định được phương hướng, xác định được sao Cực Bắc, các hướng chính Bắc, chính Nam, chính Đông, chính Tây - với độ sai biệt siêu việt hơn độ sai biệt lý tưởng cho phép của xây dựng thời hiện đại - thì thời đó các nền văn minh hơn 5000 năm này họ xác định hướng bằng gì? Nếu cho rằng: Các nền văn minh cổ xưa đã dùng sao Thiên Cực Bắc để tìm hướng Bắc, thì chúng ta đều biết rằng: Hướng Bắc của chòm sao Thiên cực Bắc không hoàn toàn trùng khớp với phương Bắc của Địa cầu. Sự chính xác của các công trình kiến trúc nổi tiếng thời cổ đại, như Kim Tự Tháp Kim tự tháp Keop nổi tiếng của Ai Cập có đường chéo góc trùng khớp hoàn toàn với kinh tuyến Bắc Nam của địa cầu và là kinh tuyến đi qua đất liền dài nhất thế giới. Làm thế nào để họ xác định chính xác trục Bắc Nam mà xây nên Kim Tự tháp vĩ đại này? Cũng có ý kiến cho rằng: Người Ai Cập căn cứ vào sao Bắc Đẩu để xác định phương Bắc. Mới nghe thì có vẻ có lý và có nhiều ngươi đồng tình. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là trục Địa cầu nối kinh tuyến dài nhất theo hướng Bắc Nam, chứ không phải phương Bắc. Làm sao người Ai Cập biết trục Địa Cầu nằm đúng phương Bắc Nam mà nhìn sao Bắc Đẩu, nếu không có la bàn - hoặc một cái gì đó tương tự như vậy - để xác định phương hướng các vì sao trên bầu trời với một kiến thức thiên văn vượt trội . Điều này đã chứng tỏ qua vị trí các vì sao tương quan với các Kim Tự Tháp. Chúng ta xem lại hai tư liệu liên quan đến sự phát minh ra la bàn vốn được coi là của người Trung Hoa. 1 - Truyền thuyết ghi nhận trong trận đánh Hoàng Đế Xuy Vưu tại Trác Lộc (Trên 5000 năm cách ngày nay). Xuy Vưu làm phép khiến trời đất mù mịt. Một vị đại thần của Hoàng Đế phát minh ra cái xe chỉ nam và nhờ cái xe này, Hoàng Đế chỉ huy quân đội, phá tan đạo quân của Xuy Vưu. 2- Sứ giả Việt Thường đến kinh đô cống vua Nghiêu một con rùa lớn (3000 năm cách ngày nay), trên mai rủa có ghi việc trời đất mở mang bằng Khoa Đẩu tự. Vua Nghiêu sai tặng sứ Việt thường chiếc La bàn để định hướng về nước.Sau hai tư liệu trên thi không có một tác giả Trung Hoa nào tự giới thiệu là người phát minh ra la bàn. Chúng ta cũng biết rằng: Chính các nhà sử học Trung Quốc cũng cho rằng lịch sử văn minh Hoa Hạ chỉ rõ ràng trong khoảng thế kỷ thứ VIII BC. Huyền thoại thì không phải là cơ sở để tin cậy như một chứng cứ thuyết phục, nếu không giải thích được những vấn đề liên quan đến nó. Khoa phong thủy đã được chứng minh rằng: Nó thuộc về nên văn hiến Lạc Việt một thời huy hoàng bên bờ nam Dương Tử. Tất yếu cái la bàn là vật bất ly thân của môn này không thể ra đời trong văn minh Hán.Quí vị cũng cần quán xét một hiện tượng là: Ở đây, tôi cũng cần lưu ý thêm quý vị là: Sử Ký Tư Mã Thiên dành hẳn một truyện cho những thày chuyên coi ngày, tựa là "Nhật giả liệt truyện", nhưng lại không hể nhắc tới khoa Phong Thủy vốn được coi là xuất hiện từ thế kỷ thứ III BC - tức là trước cả Tư Mã Thiên hàng 100 năm - như tài liệu trên ghi nhận. Ông ta cũng không hề có một chữ nào nói đến sự ứng dụng khoa Phong thủy trong các công trình xây cất của triều đình Hán. Tất nhiên, ông cũng không hề xác nhận la bàn là do phát minh của văn minh Hoa Hạ. Những chứng cứ trên xác định việc phát minh la bàn không thuộc về văn minh Hán cổ. Cóc với đôn cố định. Hình tượng Cóc thật sự là bình dị và phổ thông như đã thấy, nhưng kết cấu lại đưa đến những sự trùng hợp mang tính tương đồng hay định hướng cho một sự suy nghiệm hợp lý giữa các hiện tượng liên quan. 1 - Ông Khiết được đặt trên đôn tròn có thể xoay các hướng tương làm cho miệng nhọn của hình tượng như một mũi tên chỉa về các phương tương tự mũi kim nam châm luôn xoay tít và chỉ hướng Bắc Nam khi đã ổn định. Do vậy, đôn đế thường được thiết kế tròn và bằng vật liệu không phải là kim loại, tương đồng với việc thiết kế vỏ la bàn bằng vật liệu không tạo sự nhiễm từ. 2 - Miệng Ông Khiết ngậm một đồng tiền tròn - theo quan điểm Lý học Đông Phương thì tượng tròn thuộc kim - Hình tượng này cho thấy tính hút kim loại - tiêu biểu là sắt - của La bàn. Những hình ảnh tiền bạc mà tượng cóc ngồi lên, cũng có thể tượng trưng cho tượng Kim, kim loại bị từ trường hút giữ. Như vậy tính từ lực được thể hiện qua hình tượng ẩn dụ mang tính thường thức phổ thông qua ý nghĩa cầu tài chiêu lộc. Nhưng đó là ẩn ngữ nhằm miêu tả một tri thức bị che lấp bởi hàng ngàn năm Hán hóa. Cấu trúc của miệng Ông Khiết hơi nghiêng chếch lên, nên khi ta chỉ cần cho đồng tiền vào đúng miệng là tự nó vào sâu tiếp trong miệng Ông Khiết, nói lên khi cho kim loại tới gần nam châm sẽ hút được nó. 3 - Lưng ông Khiết mang chòm sao Bắc Đẩu và nhìn lên trời, cho thấy ông nhìn về hướng Bắc..... 4 - Chân ông Khiết có nhiều đồng tiền nhỏ xung quanh, hình tượng thuộc kim một lần nữa được tái hiện, cho ta thấy nam châm có thể hút được kim loại từ rất nhiều chiều. Trong khi đế lại được chế tác hình tròn và bằng loại vật liệu khác và tách rời với ông khiết, muốn nói rằng, vỏ của la bàn phải được làm bằng loại vật liệu khác mang dáng dấp của hình tròn và không phải là kim loại, không phải là nam châm thì la bàn mới hoạt động được. 5 - Qua tác nghiệp đo xung khí bằng máy RFI của Nhà cảm xạ học Dư Quang Châu, cũng như sử dụng đo xung xạ bằng con lắc của nhà nghiên cứu lý học Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho thấy rằng: Khi Ông Khiết ngậm đồng tiền, không tạo xung khí, trời đất giao thoa, nói lên trái đất vẫn chịu sự tưong tác của thiên văn. Khi rút đồng tiền ra, miệng Ông Khiết tạo ra một xung khí phát thẳng, có thể coi là chỉ dấu chiều từ trường trái đất Đương nhiên ông cha ta không muốn bị thất truyền, nên ngoài việc mang tính chiêu tài để lưu truyền, ông cha ta thêm chùm sao Đại Hùng tinh trong tranh dân gian Việt in hình của chòm sao trên lưng trong tượng ông Khiết. Trong buổi hội thảo về "Tính khoa học của phong thuỷ trong kiến trúc và xây dựng", nhà tổ chức đã trao tặng các đại biểu tượng Ông Khiết trên đế tròn. Đây cũng là biểu tượng và mong muốn phổ biến một hình tượng minh triết Việt đến với mọi người. Chúng tôi luôn tuân thủ nguyên tắc: Không sử dụng sử giải mã những biểu tượng, truyền thuyết làm bằng chứng khoa học để minh chứng cho Việt sử 5000 năm vắn hiến. Nhưng, chúng tôi vẫn trân trọng giới thiệu một cách nhìn về tính minh triết Việt qua di sản của tổ tiên Lạc Việt để lại. Ẩn truyền của ông cha ta khi nói: “Con cóc là cậu ông Trời” thật là ý nghĩa. Và một điều thú vị khác nữa là: Trong cuốn "Cội nguồn trăm họ" của giáo sư Bùi Văn Nguyên, tác giả cho rằng - Kinh Dương Vương tên húy là Nguyễn Minh Khiết. Như vậy, danh từ "Khiết" chính là thủy tổ khai sáng nền văn minh Lạc Việt - Nền văn minh Khao Đẩu một thời huyền vĩ ở miến nam sông Dương tử.. Achau
    11 likes
  2. Lựa chọn là ở quý khách ạ ! Ăn nhậu cũng phải có s-lô-gân nó mới sung Lưu ý đến thế này là cấm có lộn đi đâu được hít Cạnh tranh với toàn tuyến Gà già nấu phở mới ngon ??! Phim Hàn quốc Miễn bình lựng
    1 like
  3. Trong tham luận “Từ bao giờ và bằng cách nào, người Nhật thoát khỏi quỹ đạo tư tưởng của Trung Quốc” gửi Hội thảo hè năm 2010 tại Philadelphia (Mỹ), GS Cao Huy Thuần đã phân tích những biến hóa tư tưởng của hai học giả Nhật Sorai và Norigana, để tìm hiểu tại sao, vào thế kỷ 17-18, xã hội Nhật còn đóng, cô lập với thế giới nhưng tư tưởng lại có thể mở, đi trước thời đại và chính nhờ đó, vua Minh Trị đã dám quả quyết mở nước Nhật cho thế giới bên ngoài. Nhận thấy đây là một công trình nghiên cứu công phu, mang lại nhiều kiến thức hữu ích, Diễn đàn VNR500 trân trọng giới thiệu tới độc giả toàn văn bài tham luận này, như một tài liệu tham khảo giá trị. Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc không thua gì Việt Nam. Cũng như ở ta, Khổng giáo đã từng là khuôn vàng thước ngọc chính thống trong tư tưởng của nước ấy. Nhưng người Nhật đã sớm ra khỏi quỹ đạo tư tưởng của Trung Quốc. Họ bắt đầu giải phóng tư tưởng của họ từ bao giờ? Bằng cách nào? Do trường phái nào? Bằng lý luận gì? Đó là câu hỏi mà tôi mong nhiều bạn sẽ cùng đặt ra với tôi, và bài viết này chỉ là một câu trả lời rất khiêm tốn. Công việc của tôi, thật vậy, rất khiêm tốn: tôi chỉ đọc một quyển sách và trình bày lập luận của tác giả. Quyển sách là một tác phẩm có tiếng và tác giả là một giáo sư đại học lừng danh, ở Nhật cũng như trên quốc tế. Xuất bản lần đầu tại Nhật năm 1952 và gây tranh luận sôi nổi sau đó, quyển sách của Masao Maruyama, rất bác học và khó đọc, được dịch ra tiếng Anh năm 1974, rồi tiếng Pháp năm 1996, khi ông mất, dưới nhan đề: "Essais sur l'histoire de la pensée politique au Japon" ("Luận về lịch sử tư tưởng chính trị tại Nhật"). Giới học thuật Pháp đặc biệt chú ý đến lập luận của Maruyama, một lập luận độc đáo làm họ ngạc nhiên: người Nhật đã thoát ra khỏi sự nô lệ văn hóa đối với Trung Quốc trước khi tiếp xúc với Tây phương. Họ đã giải phóng tư tưởng của họ tự bên trong, chứ không phải dưới áp lực của bên ngoài. Hiện đại hóa trong tư tưởng của người Nhật đã diễn ra trong một quá trình tranh luận giữa các tín đồ Khổng giáo với nhau, chứ không phải giữa họ với "ánh sáng mới" đến từ Tây phương. Nói khác, hiện đại hóa trong tư tưởng của người Nhật đã xảy ra trước khi Minh Trị hiện đại hóa nước Nhật để bắt kịp Tây phương. Giải phóng tư tưởng đi trước giải phóng chính trị.Đó là điểm đặc biệt mà ít người nói đến, nhất là ở phương Tây. Tây phương ưa làm người ta nghĩ rằng nguồn gốc hiện đại là đến từ họ. Đó cũng là điểm đặc biệt mà chúng ta, người Việt Nam, nên chú ý. Vì hai lẽ. Một là: trong cùng một hệ thống tư tưởng đến từ Trung Quốc, tại sao họ biết đặt lại vấn đề để phủ định, để hiện đại hóa, còn ta thì không? Hai là: tại sao ta vẫn lấy tư tưởng Trung Quốc làm tư tưởng của ta? Nếu ta không thiếu những cái đầu để suy nghĩ thì cái gì đã không cho phép ta làm cái việc mà Nhật đã làm hồi thế kỷ 17-18, tức là phê phán tư tưởng chính thống tự trong lòng tư tưởng ấy, bởi những tín đồ của tư tưởng ấy? Người Nhật không hơn gì ta đâu về phương diện triết lý: họ cũng không có những lý thuyết gia xuất sắc. Vậy mà họ có được những trường phái, những tranh luận đưa dần đến sự thành hình một tư tưởng chính trị mang sắc thái đặc trưng của Nhật. Quyển sách của Masao Maruyama nghiên cứu sự thành hình đó. Ông đưa ra hai nhân vật tiêu biểu: Ogyù Sorai và Motoori Norinaga. Sorai (1666-1728) là kết tụ của một quá trình đánh giá lại Khổng giáo, hay nói cho chính xác hơn là Tống Nho. Norinaga đi xa hơn, đả kích Tống Nho, xây dựng cả một trường phái đề cao quốc học. Trong phạm vi nhỏ bé của bài này, tôi chỉ có thể giới hạn vào hai tác giả đó mà thôi, nhất là Sorai. Đối tượng xét lại của Sorai: Tống Nho Khổng giáo du nhập vào đất Nhật rất sớm, cuối thế kỷ thứ 4 sau Tây lịch, và đặc biệt được tôn quý nhất dưới thời Tokugawa, nghĩa là từ đầu thế kỷ 17 đến khi Minh Trị thiết lập lại uy quyền của Vua năm 1868. Sử Nhật xem khoảng thời gian đó như là thời hoàng kim của Khổng giáo. Cũng lạ, đó là khoảng thời gian mà người Nhật gọi là cận đại (kindai). Họ dịch "modernisation" là cận đại hóa. Thời hoàng kim của Khổng giáo ở Nhật là thời cận đại! Nhưng tại sao lại hoàng kim? Lý do thứ nhất là cấu trúc xã hội và chính trị ở Nhật dưới chế độ phong kiến Tokugawa có thể so sánh với cấu trúc ở Trung Quốc hồi Khổng giáo bắt đầu phát triển: đất giống nhau, mùa màng tươi tốt như nhau. Nông dân thời Tokugawa không được phép mang kiếm bên mình, chỉ được sống với đất, tách biệt rạch ròi với giai cấp võ sĩ. Giai cấp võ sĩ lại tách biệt rạch ròi với đất đai, từ giã đất, kéo nhau lên đô thị làm gia nhân cho các lãnh chúa. Giữa họ với nhau, võ sĩ lại tách biệt rạch ròi thành đẳng cấp, tôn ty trên dưới phân minh. Cũng sĩ nông công thương như ở ta, nhưng "sĩ" (võ sĩ) tách biệt với ba giai cấp kia và tách biệt giữa nhau, phân chia trên dưới chặt chẽ, dưới phải tuân trên. Từ trên cùng là Đại Tướng Quân (Shogun) với các tướng quân chư hầu chung quanh, cho đến các samourai thấp kém nhất ở dưới, giai cấp võ sĩ thống trị tuyệt đối trên ba giai cấp khác. Tôn ty trật tự ấy tìm được nơi đạo lý Khổng giáo ý thức hệ tuyệt hảo để làm cơ sở lý thuyết. Ý thức hệ ấy thấm nhuần khắp xã hội, vì các giai cấp ở dưới có khuynh hướng bắt chước đạo lý sống của giai cấp trên đầu. Lý do thứ hai là Khổng giáo khoác bộ áo mới dưới thời Tống nhờ tài ba sáng tác của Chu Hy, và Tống Nho được vị Shogun đầu tiên của thời Tokugawa là Ieyasu (1542-1616) đặc biệt sủng ái. Trước đó, Khổng giáo chỉ được quảng bá ở chốn cung đình, bây giờ Tống Nho được phổ biến rộng rãi trong dân gian qua các thầy đồ mở lớp dạy học trong quần chúng. Chẳng phải ông Đại Tướng Quân này sính gì đạo lý, văn chương. Ông biết ông đã ngồi trên lưng ngựa để được thiên hạ, nhưng ông cũng biết mất thiên hạ như chơi nếu chỉ cai trị với cái lưng ngựa. Tống Nho giúp ông chính đáng hóa quyền hành. Cả một học phái Nhật quảng bá tư tưởng Chu Hy được ông tích cực nâng đỡ. Nhưng Tống Nho là gì? Trước hết, dưới mắt Sorai, đó là một sự trở về nguồn, lấy gương sáng của năm ông vua truyền thuyết thời thượng cổ (Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ, Chu Công) hợp với Khổng, Mạnh, làm kim chỉ nam, đặt trọng tâm trên Tứ Thư (Đại học, Luận ngữ, Trung dung, Mạnh Tử) thay vì Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu). Thứ hai, đó là một siêu hình học vừa được sáng chế, kết nối con người với vũ trụ, lấp đi một lỗ trống lớn trong tư tưởng của Khổng giáo, quá thiên về mặt hình nhi hạ. Toàn bộ là một hệ thống triết lý chặt chẽ bao gồm cả đạo đức hằng ngày của con người lẫn quan niệm về bản thể của vũ trụ. Tôi khỏi phải dông dài về siêu hình học của Chu Hy, về thái cực, âm dương, ngũ hành… Chỉ nói rằng Chu Hy phát triển học thuyết Lí và Khí của hai anh em họ Trình, Trình Hạo và Trình Di, lí là phần siêu hình, khí là phần vật chất, hai phần ấy không tách rời nhau, hễ có khí thì có lí, nhưng lí có trước, khí có sau, lí có trước cả khi có Trời Đất, nghĩa là siêu việt vũ trụ và muôn loài. Mọi vật trong vũ trụ đều được tạo thành do sự hợp nhất của lí và khí; lí là bản chất của mọi vật, khí là hình thể của mỗi vật. Bản chất của mọi vật là giống nhau vì cùng do lí mà ra, nhưng dưới hoạt động của khí, mỗi vật đều dị biệt. Con người khác con vật là vì vậy: bản chất lí giống nhau nhưng nhận khí khác nhau, nên người làm chủ vạn vật. Cũng vậy, giữa người với người cũng khác nhau, vì tuy bình đẳng về bản chất, về lí, người này với người kia khác nhau về khí, về trình độ. Cho nên phàm thánh khác nhau, thánh hiền bẩm thụ khí trong, phàm phu bẩm thụ khí đục. Vũ trụ quan của Chu Hy kéo dài để trở thành lý thuyết về bản chất của con người. Nơi mỗi người vừa có "bản chất nguyên thủy" (lí) vừa có "bản chất riêng"(khí). Nơi thánh hiền, "bản chất riêng" trong suốt, hiển lộ bản chất trong suốt nguyên thủy. Nơi phàm phu, bản chất riêng vẩn đục vì ham muốn che lấp bản chất nguyên thủy. Cho nên "nhân dục" đối lập với "thiên lí". Từ chỗ vẩn đục ấy, tính ác sinh ra. Thế nhưng… nhân chi sơ tính bản thiện, tánh thiện ẩn sâu trong bản tính của con người hơn tánh ác, vì tánh thiện là do lí mà ra, tánh ác là do khí mà đến. Làm sạch được những yếu tố của bản chất riêng thì phục hồi lại được bản chất nguyên thủy. Vì vậy, vấn đề là làm sao làm tốt hơn lên cái khí riêng của mình: tất cả luân lý của Tống Nho nằm trên đó. Làm sao? Một là phải giáo dục luân lý. Lí học thánh hóa đạo đức của Khổng học, đưa Khổng học lên thành tôn giáo. Hai là phải dùi mài trí tuệ: cách vật trí tri. Tu thân là bước đầu tiên phải thực hiện trước khi tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Tu tề trị bình, ta đã từng học thuộc như cháo. Nhắc lại là cốt để nói: tất cả đều lệ thuộc vào luân lý, từ vũ trụ, thiên nhiên, đến văn hóa, lịch sử. Lịch sử không có gì khác hơn là bài học về luân lý, là tấm gương sáng về luân lý. Vũ trụ không có gì khác hơn là phản ánh bản tính của con người và bản tính đó là thiện vì lí là tuyệt đối chân và thiện. Từ một quan niệm siêu hình lạc quan về bản tính của con người, Tống Nho đi đến một kết luận về luân lý cực kỳ khe khắt, tất cả đều là luân lý, tất cả ước muốn của con người đều bị đặt dưới tòa án của phán quan luân lý. Nếu đây là lĩnh vực của cá nhân thì chẳng sao cả; vấn đề đặt ra là khi Nhà nước phóng tay lãnh đạo luân lý. Lý thuyết siêu hình lạc quan ấy rất hợp với một xã hội ổn định như xã hội Nhật dưới thời Tokugawa, tức là thời kỳ tiếp theo sau một khoảng thời gian đại loạn kéo dài từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17. Lý thuyết đó đem lại quân bình trong dân chúng và đồng thuận trong xã hội. Nhưng xã hội đâu có đứng yên mãi một chỗ, ổn định đâu có bất biến, tính lạc quan khởi đầu thời đại Tokugawa đâu có mãi mãi bền vững? Cả một loạt câu hỏi bắt đầu được đặt ra, khởi động phong trào đặt lại vấn đề. Lí có thật là bản tính nguyên thủy của con người? Con người có thể tự mình dẹp bỏ được "nhân dục" hay bắt buộc phải dẹp bỏ? Lí có phải là toàn năng đến mức cai trị tất cả? Tu tề có thật sẽ đưa đến trị bình? Nghi ngờ này tiếp theo nghi ngờ khác, rốt cuộc tất cả hệ thống dần dần tan rã dưới cách đặt lại vấn đề của Sokô (1622-1685), Jinsai (1627-1705), rồi Ekiken (1630-1714) như là những nhà đại Nho tiêu biểu. Họ vẫn ở trong hệ tư tưởng của Tống Nho, nhưng họ nghi ngờ. Một câu nói của đồ đệ Ekiken biểu trưng tình trạng đó: "Thầy tôi càng tin mãnh liệt chừng nào vào tư tưởng của Chu Trình thì càng nghi ngờ mạnh mẽ chừng ấy". Quá trình đặt lại vấn đề kết thúc với Sorai. Sorai là mở đầu của đoạn tuyệt. Thế giới trí thức Nhật bàng hoàng với những lập luận mới của ông, nhưng rất nhanh bị ông thu hút. Sorai xét lại Đâu là mới trong lập luận của Sorai? Quan trọng nhất là phương pháp nhìn và phân tích vấn đề của ông. Với phương pháp đó, ông vẫn đứng trong hệ tư tưởng của Tống Nho, nhưng ông đã suy nghĩ với một cái đầu khác. Thú thật, tôi không bị hấp dẫn vì nội dung trong tư tưởng của Sorai bằng phương pháp ông đã dùng trong thời đại của ông. Hai trường hợp cụ thể sau đây cho thấy cái nhìn mới của ông khi ông mới bắt đầu hành trình xét lại. Trường hợp thứ nhất xảy ra năm 1696 khi Sorai giúp việc cho một quan chức lớn. Một anh nông dân cùng khổ bỏ nhà, bỏ vợ, cạo đầu làm thầy tu dưới tên Dônyû, dẫn mẹ đi lang thang kiếm ăn. Dọc đường, bà mẹ bị đau, anh chàng gửi mẹ tại chỗ, tìm đường lên kinh đô. Mặc dù bà mẹ được cư dân ở đấy chăm nom và gửi trả về nguyên quán, anh chàng vẫn bị bắt với tội phạm "từ bỏ cha mẹ". Ông quan hỏi ý kiến các nhà Nho cố vấn: trị tội với hình phạt gì? Luật nhà Minh không có chỗ nào nói về mục này, luật lệ bản xứ cũng không có, các Nho gia đề nghị xem trường hợp Dônyû như chỉ là trường hợp người đi ăn xin; Đi ăn xin thì đâu có phải từ bỏ cha mẹ? Huống hồ anh chàng đã bỏ vợ trước đó mấy ngày mà vẫn cung dưỡng mẹ già dù phải đi ăn xin - một thái độ đáng khen, nhất là đối với một người cùng khổ. Vợ thì bỏ, mà mẹ thì vẫn cưu mang: vậy thì anh chàng có ý định bỏ mẹ đâu? Đó là lối lý luận hợp với tinh thần Tống Nho, cái gì cũng dựa vào lí, lí đó luôn luôn hiện diện trong đầu con người và hiển lộ qua ý định đưa đến hành động. Viên quan không bằng lòng với lập luận đó. Dưới mắt ông, bỏ cha mẹ là tội không tha thứ được, dù con đi ăn xin. Ông hỏi ý kiến Sorai. Đây là lần đầu trong đời, ông lập thuyết công khai: "Nếu có một nạn đói xảy ra nơi nào đó, chắc chắn nơi khác cũng có nhiều người đói như vậy. Bỏ cha mẹ là điều không tưởng tượng được. Nếu ta xét hành động của Dônyû là như vậy và phạt tội, ta sẽ tạo ra một tiền lệ mà tòa án các nơi khác sẽ xử theo. Nhưng tôi nghĩ rằng trách nhiệm dồn một người đến cái mức tàn tệ như Dônyû trước hết phải quy cho các quan địa phương từ cấp thấp đến cấp cao rồi lên cao hơn và ngay cả lên cao hơn nữa. Bởi vậy, tội của Dônyû, nếu đem ra so sánh, là không đáng kể". Thượng cấp của Sorai khen phải. Ông cho phép Dônyû trở về nguyên quán và cấp dưỡng thóc gạo để nuôi mẹ. Lời tự sự sau đây của Sorai đáng ghi lại nguyên văn: "Từ thuở bé, tôi đã sống ở nông thôn; năm 13 tuổi, tôi dời đến Kazusa và nếm đủ mùi khổ cực, thấy đủ mọi cảnh. Chính tại vì tôi là dân quê mùa cục mịch, vừa chui ra khỏi nông thôn, nên tôi mới dám nói với quan lớn thứ ngôn ngữ mà người thường không dám bắt chước… Ở mãi trong phủ chúa, người ta tất nhiên nhiễm thói quen sống và suy nghĩ để trở thành những kẻ nói sao cũng được và tựu trung chẳng biết gì. Nghĩ cho kỹ, các quan lớn hoặc các quý tộc sống mãi trong đó chẳng biết gì cả và chẳng bao giờ nói được câu gì khác với các ý kiến nghe đến nhàm tai". Lời tự sự đó hé ra cho thấy ý muốn cải cách chính trị của Sorai. Nhưng quan trọng không kém là cách nhìn vấn đề của ông. Nho gia nhìn mọi việc qua lí, gò bó tư tưởng trên ý định chủ quan đã đưa Dônyû đến hành động để xem hành động đó "đáng khen" hay không. Sorai, đặt vấn đề trên bình diện khách quan, hướng vấn đề qua trách nhiệm chính trị của quyền lực để tha bổng. Đúng hay không, không phải là chuyện để nói ở đây. Chuyện để nói là cái nhìn đã đổi. Phân biệt hai lĩnh vực, khách quan và chủ quan, là một khía cạnh quan trọng trong phương pháp luận của Sorai. Chuyện thứ hai lý thú hơn nữa, gợi hứng cho những tranh luận kéo dài đến thế kỷ 19. Sáng ngày rằm tháng chạp năm 1702, dân chúng ở kinh đô hoảng kinh khi nghe kể 46 cựu samourai của lãnh chúa Akô tấn công tư thất của Kira Yoshinaka, cắt đầu ông này để trả thù cho chủ cũ. Dư luận bàn tán xôn xao về thái độ phải đối xử trong sự việc tối quan trọng này vì nó liên quan đến mối quan hệ phong kiến giữa chủ và tớ, nền tảng của chế độ Tướng Quân. Sự việc cũng động đến cơ sở của Khổng giáo trong chừng mực luân lý đức Khổng đặt ngang hàng quan hệ chủ tớ với bốn quan hệ khác, có tính cách tư, cha-con, vợ-chồng, anh-em, bạn bè. Nho gia bối rối. Phần đông đòi tha cho các samourai. Rốt cuộc, phán quan của Tướng Quân xử như sau: "Nếu ta lý luận theo các lý do đã thúc đẩy các samourai đó hành động, hành động của họ là thích đáng vì họ là những người mà cuộc đời là ngủ trên chiếu, gối trên gươm, báo thù cho chủ, giết kẻ thù của chủ không đội trời chung. Luật sống của samourai buộc họ không được tha thiết với đời sống, cấm họ nuốt nhục. Nếu ta lý luận theo quan điểm của luật pháp, ai làm trái luật đều phải trị tội. Dù các samourai đã hành động theo lời trối trăn của chủ cũ, họ đã vi phạm luật của Nhà nước. Tội đó đáng phải xử trảm để làm gương cho thế hệ bây giờ và mai sau. Hai quan điểm đó [lý do và luật pháp] có vẽ hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng vẫn có thể sống chung với nhau mà không phản lại nhau. Chỉ cần, trên thượng đỉnh, có một minh quân cai trị với những cố vấn minh triết, làm sáng tỏ luật pháp và ban bố sắc lệnh, và ở dưới, có những chư hầu trung thành và những samourai đạo hạnh, xả thân theo tình cảm của mình, sống trọn với ham muốn, rồi sau đó quyết định tuân theo luật pháp, chấp hành bản án xét xử". Một lập luận hàng hai, nhưng cho phép áp dụng cả hai thứ luật: luật của Nhà nước và luật của võ sĩ đạo. Chuyện đáng nói ở đây là sự phân biệt giữa ý định ở bên trong và luật pháp ở bên ngoài báo hiệu sự tan rã của lý thuyết về lí, đặt tất cả trên nền tảng luân lý, xem mọi nguyên tắc của lĩnh vực công đều bắt nguồn ở luân lý cá nhân, tu thân vi bổn, trị nước là hậu quả kéo dài. Sorai cũng kết án như thế, nhưng với một lập luận khác, chặt chẽ hơn: "Sự việc 46 samourai trả thù cho chủ chứng tỏ rằng các người này tôn trọng danh dự giống như bất cứ samourai chân chính nào khác. Hành động trung thực như vậy, đã đành họ đi theo con đường mà bổn phận của họ đã vạch ra, nhưng sự lựa chọn đó chỉ liên quan đến họ, và, tựu trung, đó là một vấn đề có bản chất riêng tư. Đối với luật, thái độ đó không chấp nhận được. Nếu, bây giờ, ta tuyên bố rằng 46 người đó có tội mà lại kết án họ mổ bụng theo luật võ sĩ đạo của họ thì các võ sĩ ấy có sợ gì mà không mổ bụng theo bổn phận trung thành của họ? Có thể biện pháp đó thích hợp nhất với ích lợi chung, nhưng nếu ta vi phạm ích lợi chung bằng những lập luận về ích lợi riêng như thế, rốt cuộc sẽ không thể làm luật gì được cho Nhà nước". Khác nhau chỉ ở câu cuối. Sorai cũng công nhận hành động của các samourai là có cơ sở, nhưng, bằng mọi giá, phải hạn chế sự công nhận đó vào lĩnh vực tư, như là những quan điểm riêng tư, chủ quan, cá nhân, khi các quan điểm ấy trái với ích lợi chung, hoặc khi một luân lý cá nhân tràn vào lĩnh vực công. Phân biệt hai lĩnh vực công và tư, lãnh địa của luân lý và lãnh địa của luật pháp, lãnh địa của tu thân và lãnh địa của trị quốc, tư tưởng của Sorai nhắm vào một điểm căn bản: chính trị hóa Khổng giáo, đặt ưu tiên trên yếu tố chính trị. Từ điểm căn bản này, Sorai dần dần phá vỡ tất cả kiến trúc của tư tưởng Tống Nho, với một phương pháp luận sắc bén, chặt chẽ. Điểm khởi hành của phương pháp đó là: "nghiên cứu những từ cổ và những câu cổ". Sorai gây dựng cả một học phái đi chuyên sâu vào nghiên cứu này. Ông nói: không hiểu chữ cho đúng thì không hiểu Đạo được. Tại sao? Tại vì một ngôn ngữ luôn luôn thay đổi theo thời gian. Nếu ta giải thích những tài liệu xưa theo nghĩa của chữ mà ta dùng ngày nay, có khi ta hiểu sai ý của người xưa. Tinh túy của nghiên cứu, ông nói, là khiêm tốn giới hạn vào việc tìm hiểu từ và sự việc. Đừng quan tâm đến những biện luận tinh tế về bản chất của đời sống. Cụ thể, nghĩa là gì? Là nghiên cứu những định chế và sự kiện văn hóa mà Nghiêu Thuấn để lại cho thời hoàng kim của Tam Đế Hạ, Thương, Chu. Thay vì Tứ Thư như Chu Hy xem trọng nhất, Sorai đặt trọng tâm trên Ngũ Kinh, vì theo ông, Ngũ Kinh diễn tả những định chế và những sự kiện lịch sử. Nghiên cứu cặn kẽ từng chữ, từng câu trong Ngũ Kinh để hiểu rõ cụ thể những định chế của thời thượng cổ, xong rồi mới bắt qua Luận Ngữ để hiểu ý nghĩa thực sự những gì Khổng Tử viết, chứ không phải chỉ hiểu Khổng Tử qua giải thích của người đời sau. Nếu Sorai sống vào thế kỷ 19 ở châu Âu hoặc thế kỷ 20 ở nhiều nước khác, chắc ông sẽ nói: hãy hiểu Mác bằng cách đọc thẳng Mác, chứ đừng đọc qua chữ nghĩa của những người nhân danh ông. Mục đích mà Sorai nhắm đến là gì? Là cắt đứt sự liên tục giữa Thánh nhân và người thường và gạt bỏ dần dần tính chủ quan - mà ông gọi là "minh triết riêng tư" - nhờ chuyển việc nghiên cứu từ lí qua cổ tự, cổ ngữ. Ông lập luận thế nào? Sorai lập luận Trước hết, Đạo chỉ bao gồm những nguyên tắc liên quan đến con người, chứ không phải bao gồm cả trật tự tự nhiên, liên quan đến Nhân, chứ không mắc mớ gì đến Thiên với Địa. Khi người ta nói đến "Đạo Trời" là vì liên tưởng đến "đạo của Thánh nhân", thế thôi, chứ chẳng ai biết Trời là gì. Trời là bí mật, không thể biết được. Thánh nhân sợ Trời, kính Trời, nhưng không bao giờ nói rằng mình biết Trời là gì. Trời không phải là đối tượng của hiểu biết, Trời là đối tượng của kính sợ. Các ông đại Nho giải thích "Trời là một thể với Lí" là tán dóc, là "minh triết riêng tư". Đạo, duy nhất là Đạo của Thánh nhân. Đạo của Thánh nhân là gì? Sorai phân biệt tinh túy với nội dung. Ông nói: Người xây dựng nên Đạo là Nghiêu và Thuấn, mà Nghiêu và Thuấn là vua. Vậy Đạo của Thánh nhân bao gồm duy nhất Đạo của chính quyền, Đạo của Nước. Và bởi vì Nghiêu Thuấn là vua, Đạo của Thánh nhân cũng được gọi là Đạo của các Vua Thời Xưa. Đạo đó có mục đích đem lại thái bình cho Nước. Trong tinh túy, Đạo đó có bản chất chính trị: trị quốc để bình thiên hạ. Chính trị tách rời với luân lý. Chính trị tách rời với tu thân. Dây liên kết tu tề trị bình bị chặt đứt. Còn nội dung là gì? Là lễ, nhạc, luật và nghệ thuật cai trị, những yếu tố mà các Vua Thời Xưa đã sáng chế; Ngoài ra không có gì khác. Đạo là khách quan và cụ thể. Lễ, nhạc, luật, và nghệ thuật cai trị là những định chế và sự kiện văn hóa của thời thượng cổ, không có liên quan gì đến bản tính con người. Nếu ta ăn mặc như Nghiêu, nói năng như Nghiêu, cư xử như Nghiêu thì ta là Nghiêu, chẳng cần nhờ vả gì đến lý thuyết nhân chi sơ tính bản thiện. Vì Đạo không có liên hệ ràng buộc gì của luân lý, bàn luận về tính thiện, tính ác là tốn nước bọt. Vậy thì nền tảng của Đạo là sáng chế của các Thánh nhân hoặc của các Vua Xưa. Tuân theo Đạo của các Vua Xưa là thiện, không tuân theo là ác. Đến cái mức này, tôi nghĩ, các Vua Thánh nhân đã được Sorai siêu việt hóa, thần linh hóa, nâng lên ngang Trời, thành đối tượng tôn giáo. Bởi vậy, trái với Chu Hy cho rằng con người có thể tu thân để trở thành thánh nhân, Sorai quả quyết ta có thể học Thánh nhân nhưng ta không bao giờ thành Thánh nhân. Thánh nhân tách biệt với con người, một bên là tối hảo, một bên là đầy nhân dục, không thay đổi được. Thánh nhân là tối hảo, nên các định chế của họ cũng tối hảo. Nhưng những định chế đó không phải là những nguyên tắc bất biến. Thánh nhân siêu việt, nhưng những nguyên tắc đó không siêu việt mà, trái lại, bị điều kiện hóa theo thời gian và không gian. Hiểu như vậy thì mới hiểu được lịch sử. Lịch sử không phải là một chuỗi dài thưởng phạt, mà là sự kiện. Sự kiện là khách quan, bình chú là chủ quan. Chủ quan thì y theo nguyên tắc. Sự kiện thì thay đổi. Ngôn ngữ cũng vậy. Định chế cũng vậy. Từ đó, Sorai bắt qua chuyện học. Ông nói: thuở đầu, kiến thức bao gồm việc học Đạo của các Vua Xưa để trị quốc. Đạo của các Vua Xưa là Ngũ Kinh. Bây giờ, học còn là quan sát càng rộng càng tốt các sự kiện, không những lịch sử mà tất cả các lĩnh vực khác, văn chương, luật pháp, quân sự, kể cả âm nhạc, nghĩa là những gì liên quan đến văn hóa. Ông gọi lĩnh vực thứ nhất là công, lĩnh vực thứ hai là tư. Quan niệm của Sorai về công và tư khá độc đáo, cần nói rõ thêm để hiểu ý muốn chính trị hóa Khổng giáo đã nêu lên từ đầu. Câu chuyện sau đây làm sáng thêm vấn đề: Hai samourai thông đồng với nhau để lật đổ chế độ tướng quân. Việc bại lộ vì anh này đi tố cáo anh kia với nhà chức trách. Thưởng công cho anh đi tố cáo là việc mà dư luận phản đối, vì ai cũng cho anh này là hèn, sao không tự tay chém phứt cái đầu của anh kia mà phải mượn tay Nhà nước. Sorai không nghĩ thế. Ông thấy một duyên cớ khác: nếu anh ta tố cáo vì trung thành với Nhà nước thì sao? Ông nói: trong việc cai trị một nước, nhiều khi những bổn phận riêng tư phải tuân theo những nguyên do hợp lý, nhưng nếu những bổn phận đó trái với trật tự công đến mức vi phạm trật tự công thì không được viện dẫn bổn phận riêng tư. Trong chuyện vừa kể, cũng như hai chuyện trước, "công" có nghĩa là chính trị, xã hội, cái gì ở bên ngoài; "tư" là cái gì ở bên trong, là cá nhân. Hiểu như vậy là đồng nghĩa với cách hiểu hiện nay, nhưng không dễ gì tư tưởng "tiền hiện đại" đi đến chỗ đó. Trước hiện đại, người ta không thấy gì chống đối, phân biệt, giữa công và tư. Ông quan, đã là phụ mẫu chi dân thì ông làm gì cũng vừa là quan vừa là phụ mẫu. Cả cái nước cũng là của ông. Phân biệt giữa công và tư, và giải phóng cho "tư", là công trình của hiện đại. Trong "tiền hiện đại", không phải người ta hoàn toàn không có khái niệm gì về công và tư, nhưng người ta hiểu một cách khác, dựa trên luân lý. "Công" là tốt, là thiện. "Tư" là xấu, là ác. Trong Tống Nho, "công" là lí, "tư" là nhân dục. Sorai cũng đặt "công" trước "tư". Nhưng ông không bác bỏ "tư". Người cầm quyền cũng có quyền có những quan tâm tư. Nhưng người cầm quyền chính đáng phải đặt quyền lợi công trên quyền lợi tư. Chừng đó, tư tưởng của Sorai đã là cách mạng. Càng cách mạng hơn nữa khi ông bênh vực những cảm thụ tự nhiên của con người, chống lại luân lý gò bó của Khổng giáo. Từ đó, sự phân biệt công/tư trong Sorai đưa đến sự phân biệt giữa quy tắc và tính tự nhiên (norme/nature). Ông viết: "Các đại Nho hiện tại say sưa với nguyên tắc lí, các ngài mở miệng ra là toàn luân lý, bổn phận, thiên mệnh, nhân dục. Mỗi khi nghe vậy, tôi buồn nôn đến nỗi phải chạy đi nơi khác cầm ống sáo mà thổi". Đừng thay đổi tính tự nhiên của con người, phát triển cá tính của mỗi người, giải phóng cá tính đó ra khỏi luân lý chi hồ dã giả, học phái của Sorai thu hút không biết bao nhiêu là trăm hoa trong hội trường của ông. Sau lịch sử, sau chính trị, đến lượt văn chương cũng được ông giải phóng ra khỏi luân lý. Kinh Thi, theo ông, không cốt khuyến thiện trừng ác. "Có rất nhiều bài thơ nhá nhem đạo đức trong đó. Những bài thơ ấy, nếu Chu Hy bình chú là đã được sáng tác để trừng ác, thì tôi quả quyết ngược lại rằng đó là những bài thơ sáng tác để đưa vào đường trắc nết hư thân. Tuyệt đối không có gì khác giữa những bài thơ trong Kinh Thi và những tác phẩm về sau. Phải đánh giá những bài thơ trong Kinh Thi như là những bài thơ và chỉ là những bài thơ". Thơ là để diễn tả tình cảm của con người, do đó thuộc về lĩnh vực tư. Tóm lại, trên tất các vấn đề căn bản, Sorai phá vỡ thành trì Khổng giáo tuy vẫn ở trong Khổng giáo. Một tư tưởng trổi dậy như vậy, được trí thức hưởng ứng, gây nên thanh thế, tất phải có cơ sở xã hội. Cơ sở xã hội này tất không phải nền tảng trên đó triều đại Tokugawa xây dựng quyền hành lúc đầu. Vậy đó là cơ sở xã hôi gì? Cơ sở xã hội của tư tưởng Sorai Trong 80 năm đầu củng cố quyền lực, ổn định xã hội, tiếp theo một thời gian cực loạn, triều đại Tướng Quân Tokugawa đã lấy Tống Nho làm hệ ý thức, cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài, biệt lập với thế giới, bế môn tỏa cảng. Xã hội được ổn định thật đấy, nhưng với thời gian xã hội nào mà không biến chuyển? Trước hết là biến chuyển về văn hóa. Tướng Quân thứ năm, Tsunayoshi, ra sắc lệnh buộc các samourai phải học văn chương chữ nghĩa, ngoài phép tắc lễ nghĩa trên dưới. Ý của Tướng Quân là dựng lên một chính quyền nho sĩ. Khổng Miếu được xây ở Phủ chúa, Edo, giáo dục được mở mang, thơ phú được diễn giảng khắp nơi, chúa tôi hồ hỡi đàm luận chữ nghĩa trong các hội trường, nhà nhà vang dội thánh điển Khổng Mạnh. Được Tướng Quân yêu chuộng, khuyến khích, thơ và nghệ thuật phát triển rất nhanh, trổ ra thành nhiều trường phái độc lập, tranh đua nhau phản ứng lại truyền thống. Bashô xuất hiện trong thơ. hài cú phô sắc. Văn chương bắt đầu có dấu hiệu hiện thực với Saikaku mô tả thế giới ăn chơi ở Edo. Kịch nghệ vụt trưởng thành, mở ra cho giới thị dân có tiền thú tiêu khiển mới. Hội họa khoác áo tươi mát, cởi mở hơn, đáp ứng thị hiếu mới của giới ăn chơi. Tóm lại, trong mọi lĩnh vực của văn hóa, tính sáng tạo nảy nở, đơm bông kết trái. Những hình thái văn hóa mới đó đem vui đến cho đời sống trở nên thoải mái hơn của dân thị thành, nhưng rốt cuộc lại bị dân thị thành biến đổi, và dân thị thành ở đây, đặc biệt là ở ba thành phố lớn nhất, Edo, Kyôto, Osuka, là giai cấp mới đang lên, nhờ kinh tế mở mang. Có tiền, họ phung phí tiền vào những chuyện ăn chơi quá lố, văn hóa rốt cuộc rồi cũng lố lăng. Phụ nữ diện rất sang, bắt chước các cô gái ở khu ăn chơi, áo quần đắt tiền từ ngoài đến trong, phấn son lược là cực kỳ đỏm đáng, trương của trên khắp thân hình, mệnh phụ phu nhân ngày xưa nằm mơ cũng không dám thế. Giới samourai bắt chước theo. Trước, các vị ấy không có cả chiếu trải nhà. Bây giờ, nhà cao cửa rộng, áo lụa xênh xang, đầu chải dầu, gươm nạm vàng bạc, kẻ dưới ăn diện không thua bậc trên, kể cả các chú võ sĩ trẻ hầu hạ trong các gia trang, xa hoa hỗn tạp. Dưới đã vậy, trên khỏi nói. Cách ăn, cách ở, cách đầy tớ gia nhân hầu hạ, cung phụng, bái rước mỗi khi ra đường, nghi lễ đám cưới, đám tang hoành tráng không thua gì chốn cung đình, nhất cử nhất động tiền vung như nước. Các chỗ ăn chơi phồn vinh như trúng số, ban ngày là thiên đường, ban đêm là lạc cung, giới võ sĩ cũng lân la đến nếm mùi, cả trên lẫn dưới. Ăn chơi đã trở thành mục tiêu của đời sống, mọi quan tâm khác, nhất là chính trị, tan biến trong đầu, đầu ai còn tơ tưởng đến đổi mới với cải tổ, tướng quân chỉ cần kín đáo tặng một nhát gươm. Nhất trí, võ sĩ và giai cấp thị dân mới giàu cùng vui chơi, cùng hưởng thụ một thời đại thanh bình, văn hóa phát triển, chính trị ổn định, đỉnh cao nhất của triều đại Tokugawa. Nhưng đó là bộ mặt phồn vinh ở bên ngoài. Ở bên trong, biến đổi cứ âm thầm tiến tới, bước từng bước chậm nhưng chắc nịch, phá hủy dần dần quyền lực của chế độ phong kiến Tokugawa dựa trên sự phân chia giữa giai cấp võ sĩ với ba giai cấp kia. Bắt đầu là biện pháp thả lỏng việc phong đất cho chư hầu và tình trạng các võ sĩ tập trung về thành phố. Đặc điểm của chế độ phong kiến là kết hợp quyền lực và sở hữu đất đai. Bây giờ, tách rời quyền lực ra khỏi việc quản trị trực tiếp đất đai tức là đào mồ cho cả chế độ. Anh chư hầu được phong đất còn có chút liên hệ với đất thông qua đất được phong và phẩm vật phải cống cho thượng cấp, nhưng bây giờ, đối với phần đông giới võ sĩ, toàn là võ sĩ cấp dưới cả, chút liên hệ với đất đai đó chỉ còn tính cách rất tượng trưng qua việc hưởng lương trên thóc của nông dân nộp. Chưa hết, Nhà nước đã bắt đầu đúc tiền, kinh tế bắt đầu đi vào kinh tế tiền tệ, mà tiền thì càng ngày càng phải đúc thêm để trả lương cho các samourai càng ngày càng tập trung về kinh đô và thành phố. Đời sống của các samourai lúc trước dựa trên lợi tức của đất, vững chắc, bây giờ dựa trên tiền càng ngày càng mất giá. Đến nhà thổ, đâu có vác thóc đi theo để trả cho các em? Tiền đâu để xài sang? Tướng Quân Tsunayoshi hào phóng hậu đãi chư hầu và võ sĩ được một thời phồn vinh, nhưng sau ông, khó khăn về kinh tế và tiền tệ trở thành bất trị, ngân sách Nhà nước cứ chi bội thu. Các Tướng Quân không có biện pháp gì khác ngoài việc cứ đúc thêm tiền, cả tiền vàng tiền bạc. Càng đúc, giá càng lên, samourai càng cạn túi, tiền càng đổ xô chui vào hầu bao của giới thương nhân. Võ sĩ đem thóc ra đổi tiền, ban đầu đổi ra tiền vàng, sau tiền vàng mất giá, đổi ra tiền đồng để tiêu hàng ngày. Gạo cơm mắm muối ngày nào cũng chừng ấy, không giảm, mà tiền đồng thì khan, có nghĩa là tiền đồng lên giá, võ sĩ càng túng. Các Tướng Quân giải quyết bằng cách đúc tiền "nặng", giá gấp mười lần đồng tiền cũ. Nhưng dân không ưa tiền ấy, không chịu dùng, chính quyền ép mấy cũng không được, dọa nạt cũng bằng thừa. Đến một lúc thì chuyện lạ ắt phải xảy ra: dân không nghe nữa. Tướng Quân chết giữa cơn hỗn loạn tiền tệ, nào vàng, nào bạc, nào đồng mà tỷ hối cứ thay đổi bất thường, chưa kể vàng bạc cũng biết tìm đường vượt biên ra khỏi nước, định cư nơi nào đắt giá hơn. Tình trạng bất lực kéo dài cho đến Tướng Quân thứ 8, Yoshimune (1684-1751). Ông này áp dụng một chính sách khắt khổ, giảm chi, giảm tiêu, từ Tướng Phủ đến dân chúng. Nhưng tình trạng vẫn không khá, Nhà nước phá sản, không đủ tiền để trả lương cho chư hầu. Rốt cuộc, để cứu nguy, ông phải nuốt nhục dùng đến một biện pháp cùng đường: buộc các chư hầu (daimyô) có một lợi tức bằng hoặc cao hơn 10 000 koku phải biếu ông một "tặng phẩm bằng thóc" tương ứng với 1% của lợi tức. Ngược lại, ông miễn cho họ một nửa nghĩa vụ phải ở kinh đô. Chế độ phong kiến ở Nhật buộc chư hầu phải thay đổi chỗ ở, một nửa thời gian ở địa phương, một nửa thời gian ở kinh đô. Bây giờ cột trụ phong kiến ấy sụp đổ (từ 1722 đến 1730) chỉ vì khó khăn ngân sách. Họa vô đơn chí, khổ vì chuyện tiền, võ sĩ còn khổ vì chuyện thóc. Giá thóc cứ tụt, rồi đến năm 1728 thì rơi tõm vì… quá được mùa. Nhưng giá gạo cơm mắm muối thì không tụt mà cứ thăng thiên. Tiền thì túi rỗng mà ăn chơi xả láng thì quen thói, võ sĩ không trở về lại được nữa với thời yên ngựa thanh gươm, dần dần lệ thuộc vào giới ngân hàng, giới cho vay, phất lên giàu sụ nhờ khai thác tỷ hối lên xuống giữa vàng và bạc, nhờ giá hàng của vật phẩm tiêu dùng lên vọt như pháo bông. Đồng thời, chính sách xây nhà, nhất là sau những thiên tai, tạo ra bổng lộc béo bở cho các nhà thầu, cho các tay buôn gỗ. Chưa bao giờ giới thương gia thượng phong đến thế! Trật tự trên dưới giữa hai giai cấp, võ sĩ và phú thương, đảo ngược, trời nằm dưới, đất ở trên. Chư hầu cao cũng như chư hầu thấp cúi rạp đầu trước phú thương để xin ân huệ, xin tha những lỗi đã phạm, xin khất nợ, xin vay thêm tiền để tiếp tục xa hoa. Trước, võ sĩ xưng hô trịch thượng với thị dân; bây giờ, gặp phú thương đều phải gọi "ngài" như nhau, ngài này với ngài kia, bình đẳng. Trước mắt phú thương, khách hàng là khách hàng, ai cũng như ai, gươm đeo bên hông hay không cũng vậy. Họ nói: võ sĩ có gươm, ta đây có gái geisha, ai làm ai lác mắt? Họ lại nói: gươm chém đầu được, nhưng chém tiền thử coi! Tiền vào là gươm tè ra nước! Tuy nhiên… tuy nhiên cũng phải nói điều này: tất cả giới phú dân vừa phất lên ấy đều ăn bám vào quyền lực phong kiến, tất cả đều là "tư bản thương gia" chẳng có khả năng gì sáng tạo ra những phương thức sản xuất mới, phần đông làm giàu chỉ nhờ cho vay nặng lãi một cách hợp pháp. Nương vào quyền lực phong kiến mà phất, phất lên nhờ hút máu từ thuế của nông dân nộp cho lãnh chúa, kiếp giàu của họ rất mong manh. Họ ý thức chứ: Tướng Quân nổi giận là họ đi đời. Cho nên, ăn chơi cho hả là triết lý sống, vất tiền vào thanh lâu như vất rác, yến tiệc hơn cung đình, xe ngựa lầu son tang bồng phỉ chí. Tất cả giới phú thương đó không tạo ra nổi cái bóng mờ của "giai cấp trung lưu", "bourgeois", đầu óc chẳng có chút lý tưởng gì tương tự giới doanh nhân đồng thời lúc ấy ở bên kia trời Âu như Weber mô tả. Sĩ nông công thương… vị thế tương quan giữa sĩ và thương là như vậy. Còn cột trụ thứ hai của chế độ phong kiến - nông dân - thì sao? Thì âm thầm chịu đựng, như chịu đựng từ bao thế kỷ. Từ đầu, các Tướng Quân Tokugawa đã nghĩ ra mọi biện pháp để thu thuế, thuế là cơ sở kinh tế của quyền lực họ nắm. Mọi biện pháp đều tốt dù xâm phạm vào đời sống riêng tư, ăn uống mặc ngủ… Nông dân phải ăn thế nào? Ăn ngũ cốc hạng bét, ít gạo. Uống làm sao? Cấm uông sakê, cấm uống trà. Một trà một rượu, hai thứ ấy cấm. Mặc sao đây? Cho phép mặc áo bông, nhưng cấm đụng đến vải sang, dù để làm cổ áo hoặc thắt lưng cho đẹp. Trồng trọt thế nào? Để dành đất mà trồng ngũ cốc, không được trồng thuốc lá. Còn vợ con phu thê, cái thứ ba lăng nhăng ấy, tha hồ chứ? Luật dạy: được rẫy vợ khi vợ không săn sóc chồng đàng hoàng, khi vợ có thói uống trà nhiều quá, thích vui chân dạo chơi nơi này nơi nọ. Ngược lại, dù vợ xấu như ma lem mà sửa túi nâng khăn tươm tất thì phải thương yêu hết mực. Tất cả những cấm kỵ răn bảo đó đều được luật quy định. Và luật phê: như thế thì nông dân sẽ có một đời sống yên lành, vô tư, sau khi đã làm xong nghĩa vụ nộp thuế. Giả dụ như có anh nông dân nào chịu cường hào ác bá không nổi, muốn bỏ làng mà đi, qua sống làng khác, được chăng? Được chứ! Thoải mái, sau khi đã nộp thuế không thiếu một hạt thóc. Ấy, nông dần âm thầm… Nhưng có cái gì mà không biến đổi, kể cả cái âm thầm chịu đựng của anh nông dân? Kinh tế thương mại, kinh tế tiền tệ phát triển vào tận nông thôn, ảnh hưởng lên đời sống của nông dân. Việc thu thuế càng ngày càng khe khắt vì giới võ sĩ càng ngày càng nghèo túng. Kinh tế đổi chác, đổi thóc lấy hiện vật nhường chỗ cho tiền, khí cụ trao đổi. Nhưng ảnh hưởng kinh tế, dù lớn, cũng không lý thú bằng ảnh hưởng văn hóa, cái thứ văn hóa ăn chơi xa xỉ của phú dân thành thị. Bị siết chặt đủ thứ trong đời sống riêng tư, anh nông dân rướn cổ tìm chút không khí tươi mát bằng cách bắt chước ăn chơi ở thị thành, mặc cho Tướng Quân ban thêm sắc lệnh nhắc nhở bổn phận ăn mặc ngủ nghỉ. Nông dân gánh trên vai hai thúc bách mâu thuẫn: vai này nhắc thuế nặng hơn, vai kia xúi dại ăn chơi chút đỉnh. Hậu quả tất nhiên là thế: giữa nông dân và lãnh chúa "địa chủ", hận thù chồng chất. Đã thế, thâm nhập của tư bản thương mại vào nông thôn tất phải đưa đến việc thu hút đất đai vào quy trình tiền tệ. Trên nguyên tắc, đất đai trồng trọt cấm không được mua bán; nhưng luật đó bị cả trăm biện pháp vô hiệu hóa. Rốt cuộc, một mặt, trên nguyên tắc, đất bị tập trung; một mặt, trên thực tế, đất bị phân tán. Nông dân, cùng đường, chỉ còn có cách duy nhất thôi, quá quen thuộc trong lịch sử, là nổi loạn. Từ 1704 đến 1735, đếm sơ sơ 40 vụ nổi loạn, gấp đôi so với trước. Đến 1750 thì tình trạng nông dân bi đát đến mức đe dọa cả chế độ phong kiến. Bức tranh xã hội kể trên đưa đến nhận định gì? Đàng sau lớp son tráng lệ của văn hóa thời Tsunayoshi (thường gọi là văn hóa Gensoku) dâng lên, ở thành phố cũng như nông thôn, một thái độ chống đối, nơi này tiêu cực, nơi kia tích cực, tất cả hợp lại thành nước thủy triều làm nứt đê, đẩy chế độ phong kiến đến chỗ phải xét lại. Nhưng chống đối, tiêu cực hoặc tích cực, đều không đủ mạnh để đập vỡ chế độ. Dù lung lay, phong kiến Tokygawa vẫn tồn tại. Nói cách khác, đây đúng là tình trạng chuyển tiếp, giao thời. Đúng là bối cảnh xã hội để Sorai "chính trị hóa" Khổng giáo. Thật vậy, nếu xã hội vững chắc, ổn định, một tư tưởng xét lại sẽ không có chỗ đứng, tâm lý con người lúc đó ai cũng thấy lạc quan. Chỉ khi nào xã hội biến đổi, giai cấp thống trị cảm thấy bị đe dọa, khi đó một vài đầu óc nhạy bén mới cảm thấy có khủng hoảng, mới đặt vấn đề tư tưởng chính trị lên hàng đầu. Nhưng, mặt khác, nếu xã hội tham nhũng, nhầy nhụa, xáo trộn đến mức vô phương cứu chữa thì hoạt động trí thức cũng bầy nhầy, nhem nhuốc, lấp liếm rỗng tuếch trong phê phán bằng tiếu lâm với ngụ ngôn. Chính ở giữa hai tình trạng đó, hai giới hạn đó, một tư tưởng chính trị có tính chiến đấu, có khả năng đốp chác với thực tại, mới có thể trổi dậy. Sorai đúc kết được tư tưởng của ông, chối từ lạc quan của Tống Nho, "chính trị hoá" Khổng giáo", chính là nhờ ông đã sống ở giữa hai giới hạn ấy. Sorai là "nhà tư tưởng về khủng hoảng" lớn đầu tiên mà xã hội Tokugawa đã sản xuất. Bênh vực ông hay chống lại ông, trí thức sau ông đều là con đẻ của ông, bởi vì đều chịu ảnh hưởng vô cùng lớn của ông, nhất là trên mặt phương pháp. Sau Sorai: Norinaga Sau Sorai, một học phái khác xuất hiện, chế ngự thế giới trí thức của Nhật: học phái "nghiên cứu quốc học" mà chủ xướng là Motoori Norinaga (1730-1801). Hai ông khác nhau như hai thái cực, nhưng ông này có thể được xem như sợi dây nối dài của ông kia trên mặt lập thuyết. Học phái "nghiên cứu quốc học" đả kích Khổng giáo tận cội rễ, thay thế bằng việc đề cao lịch sử và văn học của Nhật. Họ nói: Thánh nhân hoặc Vua Xưa của Tàu là Vua và Thánh nhân của Tàu, bởi vậy giáo huấn của họ chẳng thích hợp gì để hiểu đặc điểm riêng của lịch sử Nhật. Thay vì Thánh ấy và Vua ấy, Norinaga đề cao các vị thần đã tạo ra nước Nhật. Thay vì thánh điển của Tàu, ông đưa ra thi và thư, đầy diễm lệ, đã kể chuyện nguồn gốc, đã sinh thành ra văn hóa của nước ông. Ta có thể đoán trước: học phái "nghiên cứu quốc học" góp phần tạo ra cơ sở ý thức hệ cho phong trào phục hưng lại quyền của Vua đã bị Tướng Quân tước đoạt, và, sau đó, của chủ nghĩa dân tộc đã đưa nước Nhật đến chiến tranh. Chuyện đó không nói ở đây. Ở đây chuyện để nói là: qua tư tưởng của Sorai và Norinaga, chính trị, lịch sử và văn chương, trước đây bị Khổng giáo buộc chặt thành hệ thống, bây giờ bị tách biệt ra với nhau. Từ sự tách biệt đó, ý thức về hiện đại manh nha. Tuy vậy, lịch sử vẫn luôn luôn đòi hỏi phải cắt nghĩa. Phải giải thích cho bằng được ý nghĩa ẩn nấp sau các sự kiện. Không còn là tấm gương luân lý nữa thì nó là cái gì? Cái gì còn giữ mãi hoài niệm về một quá khứ hài hòa đã mất? Ước muốn tìm lại sự thống nhất nguyên thủy giữa quyền lực và lễ nghi, sự gần gũi giữa người và thần, sẽ đưa đến việc thành lập chính quyền Minh Trị, đặt cơ sở trên cá nhân của Thiên Hoàng, người nắm mọi uy quyền, người có nguồn gốc thần linh, như thuở trước. Nhưng trước khi đi đến kết luận đó, hãy trở về với mối liên hệ giữa Sorai và Norinaga. Có thể nói là có liên hệ không, khi Norinaga chỉ trích học thuyết của Sorai là vẫn còn nô lệ tư tưởng của Tàu? Có thể. Đó là liên hệ vừa đối nghịch vừa tiếp nối. Trước hết là về vấn đề thần đạo ở Nhật. Sorai không nói gì về thần đạo. Và đúng là ông đã nâng các Thánh nhân và các Vua Xưa của Trung Quốc lên hàng thần thánh, đối tượng của tín ngưỡng. Học phái của Norinaga nói: hạ bệ Lí, nhưng sùng bái Thánh nhân của Tàu, như vậy là Sorai mới đi được nửa đường. Huống hồ, cái nhìn của Sorai về Vua Xưa tựu trung vẫn là cái nhìn chính trị: một uy quyền chính trị đâu có ví được với uy quyền của thần linh? Uy quyền chính trị bị hạn chế trong thời gian và không gian, thời gian đó là thượng cổ, không gian đó là nước Trung Hoa. Cực kỳ nghiêm khắc, họ viết: "Người ta gọi Đạo là những gì do Thánh nhân lập ra. Như vậy, cái mà ta gọi là Đạo của người Trung Hoa, trong ý định sâu thẳm nhất, giới hạn vào hai việc: một là đi xâm chiếm lân bang, hai là không để cho lân bang xâm chiếm". Chính trị chẳng phải là như vậy sao? Lý luận của Sorai bị lật ngược. Sorai nói: Đạo là tuyệt đối vì đó là sáng tạo của Thánh nhân. Phái Norinaga nói: chính vì đó là sáng tạo của Thánh nhân nên nó chỉ có giá trị với người Trung Quốc. Về Thần đạo, hồi đầu thời Tokugawa, Khổng giáo được nâng lên bậc nhất, các vị Nho gia đòi triệt hạ Phật giáo, và cách triệt hạ tinh tế nhất là giải phóng Thần đạo ra khỏi ảnh hưởng Phật giáo và ghép tín ngưỡng này vào Khổng giáo. Điển hình là giải thích sau đây của một Nho gia đầu đàn (Nobuyoshi): "Thần đạo của Nhật cũng sửa tâm con người, cũng có ý định tối hậu là trải lòng thương xót ra đến mọi người, cũng thực hiện lòng nhân. Đạo của Nghiêu Thuấn cũng đáp ứng ý định đó. Điều đó, ở Trung Hoa thì gọi là Đạo Khổng, ở Nhật Bản thì gọi là Thần đạo: tên gọi khác nhau, ý định chỉ một". Sorai không chấp nhận sự cưỡng hôn đó. Đạo của Thánh nhân là Đạo của Thánh nhân; Thần đạo không việc gì mà xía vào. Người Nhật thờ phụng thần linh của nước mình là phải, Thánh nhân cũng muốn thế. Và ông đóng cửa, không cho Thần đạo len vào hội trường của ông. Ở hai thái độ đối nghịch, Norinaga tiếp nối Sorai: một bên không muốn Khổng giáo của Trung Hoa làm bẩn Thần đạo của Nhật; một bên không muốn Thần đạo xen vào Khổng giáo. Đi xa hơn nữa, Norinaga phục hưng lại cái mà ông gọi là "Thần đạo nguyên thủy", giải phóng Thần đạo ra khỏi triết lý Khổng giáo: "Thần linh, trong cái nước kia - nghĩa là Trung Hoa - chỉ là một nguyên tắc trống rỗng, chẳng có chút bản chất gì; thần linh trong nước ta là tổ tiên của Thiên Hoàng, của chúng ta, chẳng liên hệ gì đến cái nguyên tắc trống rỗng ấy cả". Mối liên hệ nối dài thứ hai giữa Sorai và Norinaga liên quan đến cái nhìn về lịch sử. Sorai, như đã nói, bác bỏ lối đọc lịch sử qua lăng kính đạo đức. Norinaga, đi xa hơn, bác bỏ luôn cách đọc lịch sử như tuân theo những nguyên tắc siêu nhân loại, kiểu thiên mệnh, ý muốn của Trời, Đạo, thần linh… Ông trích ra nhiều ví dụ cho thấy kẻ ngay bị diệt, kẻ gian được tôn. Bởi vì thiện ác, ông nói, không có ăn nhậu gì với tư cách thần linh. Trong Thần đạo, có thần ác (Magatsubi no kami) chuyên môn mang tai họa và bệnh tật, và ngay đến cả thần thiện cũng không phải chỉ làm toàn chuyện tốt. "Các ông Khổng Nho nói cái gì cũng phải hợp lý, cho nên các ông không để cho các thần thiện dính một chút bụi dơ. Còn ta, ta phải biết rằng thần linh chỉ là những người cao hơn người thường mà thôi". Noranaga cũng từ khước đọc lịch sử theo lối hoài cổ, lý tưởng nằm ở sau lưng, xa tít tận thời Nghiêu Thuấn, lịch sử càng đi càng tiến đến chỗ xấu hơn. Cái lối ngoái cổ lại đàng sau để nhìn, ông nói, và nhìn theo một nguyên tắc chỉ đạo đã vạch sẵn, là lối suy nghĩ của Tàu. Chả nhẽ ở thời Nghiêu Thuấn cái gì cũng tốt cả? Sao lại bảo rằng sau thời Tam Hoàng thì con người bị dơ bẩn vì ham muốn? Chả nhẽ con người dưới thời Nghiêu Thuấn chẳng ai ham muốn cả sao? Từ đó, mối liên hệ nối dài thứ ba liên quan đến việc giải phóng tính tự nhiên của con người bị Tống Nho cho mang gông dưới khái niệm "nhân dục". Sorai đã mở đầu bằng cách chặt đứt tu thân với trị quốc, tu thân là tư, trị quốc là công. Norinaga đi xa hơn: không những ông chấp nhận tính tự nhiên mà còn chính đáng hóa nó. Đạo không phải do học mà biết; nó nằm trong tim chân thật của con người ngay từ khi sinh, trái tim chân thật là trái tim có khi sinh ra, dù tốt hay xấu. Tuy vậy, ông nói tiếp: "Con người ở những thời đại về sau, vì cứ mãi mê hướng theo tư tưởng của Tàu, và do đó mất đi trái tim chân thật, cho nên không còn biết Đạo là gì nữa nếu không học". Vậy thì Đạo là tính tự nhiên của "ham muốn trong con người". Một trong những tác giả sáng chói đầu thời Minh Trị (Tsuda Manichi) tiếp nối ý tưởng của Norinaga theo một quan điểm tiến bộ hơn: "Tại sao chối bỏ, không nhận ham muốn của con người cũng là thành phần của Lí? Hoài bảo thấu hiểu bản chất của sự vật, ý muốn tìm tòi cái gì mới, hưởng thụ tự do, khao khát hạnh phúc: tất cả những đam mê đó, tiêu biểu cho những ý muốn cao đẹp nhất của con người, chẳng phải là cần thiết cho bản tính của con người hay sao?Tất cả chẳng hợp lại để bảo đảm cho tiến bộ hay sao?" Không ở đâu sự giải phóng đó hiển lộ rõ bằng trong quan niệm về văn chương. Sorai giải phóng thơ ra khỏi luân lý và chính trị. Kinh Thi cũng giống như thơ Nhật, chẳng có chỗ nào liên quan đến tốt xấu, cũng chỉ là thở than và reo vui. Có điều là hiểu thơ tinh tế thì có lợi cho ai ngồi trên chóp bu thiên hạ. Norinaga cũng nói vậy: "Mục đích của thơ chẳng phải là để tu thân trị quốc gì cả, chỉ là để diễn tả tình cảm của trái tim… Ba trăm bài thơ trong Kinh Thi yểu điệu thật, cũng chỉ diễn tả tình cảm thôi, cho nên, giống như lời nói thốt ra từ miệng các cô thiếu nữ, thơ ấy cũng vẩn vơ, chẳng có gì sâu sắc". So sánh thơ Nhật với thơ Tàu, ông cho thơ Nhật không thua. Đi xa hơn, ông trân trọng đặt thơ vào vị trí trung tâm của Thần đạo, cho rằng hồn của thơ (mono no aware) cũng là hồn của chính Thần đạo. Đạo của các thần, ông viết, chẳng những không vướng chút vết tích nào của lối biện luận tăn măn tỷ mỷ trong Khổng giáo, mà còn tràn đầy phong phú, diễm lệ. Cái duyên dáng ấy tạo ra hồn thơ vô cùng thích hợp với Đạo ấy. Trường phái của Norinaga xem hồn thơ đó trong thơ của Nhật có thể mang đến bình yên và hài hòa cho con người và cho xã hội. Quan niệm đó đưa đến bao nhiêu tranh cãi: vậy thơ cũng có chức năng xã hội và chính trị hay sao? Vậy thơ là thuộc lĩnh vực công hay tư? Vấn đề này lớn quá, không bàn ở đây. Chỉ trích thêm một câu của Norinaga để chấm dứt: "Lửa tự nó nóng, nước tự nó lạnh. Không thể hiểu được vì nguyên tắc gì mà chúng nóng lạnh như thế. Để làm cho thiên hạ tưởng rằng ta có thể biết nguyên nhân, người ta bày đặt ra âm dương, thái cực, rồi đưa thái cực lên hàng thánh của tất cả các thánh, hoặc thiêng liêng hóa những đối cực, lí là lửa, phương đông, mùa xuân, khôn là nước, phương tây, mùa thu, khiến cho ai muốn nói cái gì cũng được, tả cũng được, hữu cũng xong. Tát cả những chuyện đó chỉ là đầu óc vặn vẹo do tưởng tượng của các ông thánh Trung Hoa mà ra". ♦ ♦ ♦ Tôi có hai điều muốn nói trước khi kết thúc: Trước hết, mục đích của tôi không phải là để tán dương hai nhà học giả Nhật. Không phải cái gì các ông ấy nói tôi đều tán thành, kể cả về mặt cấu trúc tư tưởng. Tư tưởng của Sorai rất vững chắc trên lý tính, rất hợp với lý tính, rất rationnel. Mà ai cũng biết, rationalisme là một đặc tính thiết yếu của hiện đại. Thế nhưng, từ tính hợp lý trong phương pháp, lập luận của ông đi đến tính bất hợp lý, irrationnel, trong kết luận, khi ông đặt lòng tin tuyệt đối vào các Thánh nhân. Người đọc bỡ ngỡ tự hỏi: thay Trời Phật bằng Thánh nhân, tư tưởng triết lý có cao hơn lên hay thấp xuống bớt? Norinaga lại càng đi xa hơn trong tính bất hợp lý: phục hưng lại Thần đạo, thần quyền của Thiên Hoàng, tin tưởng tuyệt đối vào các thần trong đạo ấy, thế chẳng phải là thay thế một tín ngưỡng bằng một tín ngưỡng khác chẳng phổ quát gì hơn? Cả hai ông nhiều khi nhuộm tư tưởng của mình với màu sắc thần bí (mystique) đến độ làm phương hại cho phương pháp thực nghiệm (positiviste) rất hiện đại của mình. Tuy vậy, đó chưa phải là quan tâm của người viết. Câu hỏi chính là: tại sao người Nhật biết xét lại vấn đề từ hồi thế kỷ 17-18 còn ta thì không? Còn ta thì phải đợi đến Phan Khôi của những năm 1930 khi Khổng học đã chiều tà xế bóng? Đọc Sorai, người đọc thấy ông sùng bái văn hóa Trung Hoa không thua gì các nhà nho của ta, vậy mà ông vẫn đặt lại vấn đề. Đặt lại vấn đề, như vậy, đâu có bị phong kiến đương thời coi là chống đối? Là phản loạn? Hóa ra phong kiến cũng nhận biết rằng đặt lại vấn đề là chuyện bình thường của cái đầu. Cái gì đã khiến ta không làm thế? Cái gì đã khiến ta khác Nhật? Đầu óc nô lệ chăng? Hay là xã hội ta ở thời đại đó bị chiến tranh liên miên, nào Lê, nào Trịnh, nào Mạc, nào Tây Sơn, nào Nguyễn, chỉ mỗi vấn đề chính thống đã làm kiệt quệ hết tư tưởng? Thứ hai, xã hội Nhật thời Tokugawa là một xã hội đóng, cô lập với thế giới, cả Sorai lẫn Norinaga đều không biết mô hình nào khác mô hình phong kiến, cả hai đều không có ý đả phá chế độ phong kiến, cả hai đều phò tá các tướng quân. Vậy mà, trong xã hội đóng ấy, tư tưởng vẫn có thể mở, hai trường phái chính mà hai ông là thủ lãnh vẫn thu hút đông đảo trí thức Chính nhờ tư tưởng đã đi trước thời đại như vậy tự bên trong, không cần có bên ngoài tác động, mà vua Minh Trị mới dám quả quyết khi mở nước Nhật ra cho thế giới bên ngoài: duy tân là giữ hồn Nhật, chỉ mượn phương Tây về kỹ thuật mà thôi. Họ biết đâu là hồn của họ khi mở cửa. Xã hội ta ngày nay, ngược lại, là một xã hội mở, mở loạn xà ngầu, thế mà tư tưởng thì đóng, sinh hoạt trí thức rách rưới, bần hàn. Ai có chút suy nghĩ đều không thể tự đặt câu hỏi: tình trạng ấy có bình thường không? ----------------------------- Chú thích: Quyển sách của Maruyama, xuất bản lần đầu tại Nhật năm 1952, tập hợp những nghiên cứu ông viết trong khoảng thời gian 1940-1944 Chi tiết này rất quan trọng để hiểu tư tưởng của tác giả và những tranh luận sau đó. Đó là khoảng thời gian mà nước Nhật phát xít lao vào đại chiến thứ hai. Trí thức tiến bộ, Maruyama không vui vẻ gì với chế độ quân phiệt. Về điểm này, cũng như về tư tưởng của Maruyama, một trong những trí thức đầu đàn thời hậu chiến, có thể xem: - Mary L. Hanneman: The Old Generation (Mid) Showa Japan: Hasegawa Nyosekan, Maruyama Masao, and Post-War Thought, Historian, Vol. 69, N° 3, Fall 2007. - Andrew E. Barshay: Imagining Democracy in Post-War Japan: Reflections on Maruyama Masao and Modernism, Journal of Japanese Studies, Vol. 18, N° 2, Summer 1992.- -… - Laura Hein, điểm sách, Tadashi Karube: Maruyama Masao and the Fate of Liberalism in Twentieth Century, American Historican Review, Vol. 114, N° 1, Feb. 2009. (Nguon Thời đại mới)
    1 like
  4. Võng Đào mẹ ru . Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt nam có bài ca dao vẻn vẹn 4 câu 22 chữ có nghĩa : Gió Động Đình mẹ ru con ngủ trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh bống bồng bông, bống bồng bông võng Đào mẹ bế con rồng cháu tiên.Đây là tuyệt phẩm thơ ca gợi tả cảnh người mẹ nằm võng bế và ru con ngủ trong đêm trăng thanh gió mát , tình mẹ thương con như trời như bể tràn lấp trong khung cảnh thiên nhiên êm ả đầy hương thơm ngọt ngào ;cả 2 đã kết quyện với nhau tạo thành cái nôi hạnh phúc tuyệt vời cho buổi đầu đời của trẻ thơ Việt . Trong 4 câu thơ thì câu : bống bồng bông bống bồng bông là tiếng ru ...là sự ghép nhạc vào lời ru của mẹ quay quanh chữ bồng đồng nghĩa với bế ...đấy cũng là cung điệu trầm bổng của quê hương , còn lại 3 câu là cô đọng đến hết mực thông tin về lịch sử và quê hương dòng giống Việt . Ý bài ca dao tuyệt tác trên chỉ có thể thấu hiểu dưới ánh sáng dịch học . Dưới đây là đồ hình Hà thư ( dịch học Tàu gọi là Hà đồ ) được vẽ với số đếm thay cho những nút thắt nguyên thủy và đặt nằm ngang theo chiều xích đạo và cực Bắc hiện nay ( cực Nam xưa theo dịch học) . Ta thấy cặp số 2/7 nằm về hướng Xích đạo và cặp 1/6 ở hướng đối nghịch . Vì hướng bắc - nam xưa đã bị đảo ngược nên trong bài sẽ dùng ‘Giang’ và ‘hồ’ là 1 cặp đối theo dịch lý để thay thế , Hồ hình tròn giang hay sông nét thẳng , hồ nước tụ giang nước chảy , Giang – hồ tạo thành 1 trục tương đương trục bắc –nam của địa lý ngày nay, trục này được xác định trên Hà thư bằng số 1 và số 2 . Trong 12 tháng của Việt nam thì tháng giêng là tháng đầu kế đến là tháng hai , tháng giêng cũng là tháng 1 ta có giêng là từ đồng nghĩa với 1. - Số 1 cũng là Giêng , giêng →giang (sông) →giăng (trăng) - Số 2 hai → hà - hồ – hạ – hè Trục (1 – 2 )→ (giang – hồ , sông – bể ). Hồ ở hướng xích đạo và giang ở hướng bắc cực ( nay ). Đọc câu : Gió Động đình mẹ ru con ngủ . Có thể nói ngay không chút ngần ngại : mẹ ở đây là Long mẫu , Long mẫu khi chưa kết duyên cùng Kinh dương vương gọi là Long nữ con gái Động đình quân tức vua vùng Động đình hồ , Long mẫu chính là tổ mẫu dòng Hùng Việt hay Bách Việt ; vì chỉ Long mẫu mới có thể nằm ru con Hồng cháu Lạc ở Động đình hồ đúng như truyền thuyết lịch sử . Khi áp thực địa Việt nam và Hoa nam vào đồ hình Hà thư thì nhận ra ngay Động đình hồ là Biển đông chính là hướng ‘hồ’ vì theo trục : “1 - 2 , giang – hồ” ta đã có Giang ở phía đối nghịch , Giang là tên gọi khác của Trường giang , Động đình hồ và Trường giang cấu thành trục giang – hồ của địa lý Trung hoa và cũng chính trục ‘giang – hồ’ này đã phủ nhận việc ấn định Động đình hồ là đầm Vân mộng xưa vì nếu ‘hồ’ ở đấy thì ‘giang’ ở nơi nào ?, không thể nào là Hoàng hà được vì Hoàng hà còn có tên riêng là HÀ , không lẽ đất Trung hoa có Trục phương hướng ... “hồ – hà” vừa vô nghĩa vừa vô lý . Rất có thể đầm Vân mộng xưa nay gọi là hồ nam , nghĩa là cái hồ nằm ở phía nam (xưa theo dịch lý) của Giao châu tức là vùng Trung tâm và vùng đất có cái hồ ấy được đặt tên là tỉnh Hồ nam (cấu trúc Việt ngữ ) , tương tự ở hạ lưu Trường giang có 1 hồ rất lớn tên là Pò Dương nghĩa là cái hồ lớn ở phía đông ( Giao châu ? ) Tới đây đã xác định được hướng ‘hồ’ của lãnh thổ Bách Việt là Biển đông , câu tiếp theo là : ‘Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh’ cũng giúp xác định phần lãnh thổ hướng ‘giang’ là sông Tiền Đường , con sông chảy qua ranh giới 2 tỉnh An huy và Giang tây rồi vào tỉnh Triết giang Trung quốc ngày nay , Chiết giang cũng là tên gọi khác của sông Tiền Đường . Trăng hay giăng và giang tất cả chỉ là biến âm của từ ‘giêng-1’ chỉ phía Nam xưa của Hà thư (nay đảo là bắc) . Khi so chiếu những thông tin địa lý trong bài ca dao trên với trục ‘giang – hồ’ thì xác định được lãnh thổ Bách Việt : bắc (xưa) là Động đình hồ hay biển đông , nam (xưa ) là sông Tiền đường hay Chiết giang . Thực tuyệt vời khi chỉ với thông tin mang trong bài ca dao ngắn ngủi này đã đủ để xác định lãnh thổ của người Hùng Việt hay bách Việt là gồm toàn bộ phía nam ( nay )Trường giang cho tới đất Việt nam ngày nay . Vùng Chiết giang là lãnh thổ nước Việt xưa , nơi thờ vua Hạ vũ tức Hùng Việt vương –Tuấn lang trong sử thuyết họ HÙNG cũng là nơi các học giả Trung hoa cho là phát tích văn hoá Việt và Trên vùng lãnh thổ bao la ấy câu : ‘võng Đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên’ chỉ ra tên gọi tổ quốc thiêng liêng của người Việt là ‘HỒNG BANG ’; hồng là màu đỏ đồng nghĩa với đào , bang đồng nghĩa với ‘quốc’ với ‘nước’ nếu viết sai thành ‘Hồng bàng’ là mất hết ý nghĩa . Bài ca dao 22 chữ là 1 tuyệt phẩm thơ ca vì chỉ với 3 câu thơ ngắn gọn đã gói trọn những thông tin ngàn năm của nước Việt : Cái Võng mẹ nằm ru con là cùng hình tượng với chiếc nôi mà ngày nay hay dùng để chỉ quê hương , võng Đào đồng nghĩa với Hồng bang quốc hiệu đầu tiên của vương quốc Việt . Truyền thuyết lịch sử Việt và cổ sử Trung hoa nhìn dưới ánh sáng dịch lý có sự đồng nhất hoàn toàn : Hồng bang - Đất Đào – nhà Hạ –Hùng Hoa (Hoả) vương – Hải lang tất cả đều chỉ những tố chất của ‘mặt trời’ ; hướng xích đạo –quẻ ly tức lửa – màu đỏ , vùng Hồ - hải hay biển cả , những dịch tượng này về phương diện địa lý là chỉ vùng nhiệt đới –xích đạo còn trong quan niệm triết học dùng chỉ sự văn minh sáng sủa ngược với chốn man dã tối tăm . Sổ 1 = Giêng →Trăng - giăng –giang cộng với 5 canh –tiền Đường (Thường ) tất cả là dịch tượng chỉ phương Nam của dịch học (ngược với phương hiện nay) , Sông Đường hay Thường cộng với tên nước Việt gợi cho ta danh hiệu nước Việt Thường trong truyền thuyết lịch sử . Hồng bang ở hướng ‘hồ’ hợp với Việt Thường hướng ‘giang’ thật là trọn vẹn 1 đất nước không thể nào cô đọng giản lược câu chữ hơn được nữa , tuyệt vời hơn khi chỉ với 3 chữ ‘gió Đông đình’ đã chỉ rõ cả 1 thời gian dài lịch sử kết tạo cô đúc nên dòng giống Việt : - Gió chỉ đức Tản viên hay Tốn lang-Tốn vương ; quẻ Tốn là tượng của phong – gió ; trong phả hệ 18 đời Hùng vương là Hùng Việt vương – Tuấn lang tổ các vương triều Việt , Chữ Phong còn liên quan tới Phong châu quốc đô thời Hùng vương dựng nước . - Động Đình hồ là quê của của Long nữ là tổ mẫu của dòng giống Việt . Sự kết hôn lập thành gia đình trong truyền thuyết lịch sử Việt luôn là sự phản ánh việc hoà nhập 2 dòng tộc, từ 2 thành phần khác biệt đã hoà huyết và đúc kết văn hoá tạo thành 1 cộng đồng dân tộc thống nhất trong thực tế lịch sử , cộng đồng Bách Việt đã ra đời từ hôn nhân lịch sử giữa vị Kinh dương vương tức vương cai trị phương nam cuối cùng thời lập quốc là Hùng Việt vương Tuấn lang với con gái của Động đình quân vua vùng biển đông . Lạc long quân nghĩa là vua chung của cả 2 thành phần Lạc và Long , danh xưng của vương quốc là Hồng bang , lãnh thổ trung tâm gọi là đất Đào nay là đất Việt và Quảng đông – Quảng tây ., những thông tin lịch sử này được ghi chép trong cổ sử Trung hoa với nhân danh địa danh khác :...Hạ vũ lấy vợ là Đồ sơn thị sinh ra ông Khải , Khải lập nên vương triều đầu tiên của Trung hoa là triều Đại Hạ , ông Hạ Vũ được tôn là tổ nhà Hạ và đất Cối Kê được dành riêng để thờ cúng , thực ra vũ chỉ là ký âm Hán ngữ của từ Vua trong tiếng Việt , Hạ vũ nghĩa là vua Hạ chính là Hùng Việt vương trong lịch sử Việt nam vì thế nhà nước lập ở Cối kê mang tên là nước ‘Việt’ . Võng Đào trong bài ca dao này khi liên kết với truyền thuyết Hồng bàng thị giúp khẳng định Lãnh thổ nước Việt gồm :Giao châu tức đất Việt ngày nay là đất gốc của dòng giống Hùng và Quảng đông Quảng tây là phần đất mở rộng về sau ( từ quảng nghĩa là mở rộng ra) , đất Đào là đất trung tâm của vương quốc họ HÙNG thời Hùng Hoa vương - Hải lang , Hoa sử gọi là nhà Hạ , Hải nam hay Nam hải chỉ là biến âm của Hải lang hay lang Hải tức Hải vương mà thôi . Đất Đào cũng là lãnh thổ nước Nam Việt , triệu Đà chỉ là chữ viết sai của triệu Đào nghĩa là vua đất Đào chứ không có ai họ Triệu tên Đà cả . Hiện nay trong giới sử học Việt nam , còn không ít người cho nước Việt xa xưa chỉ tồn tại trên phần đất bắc và bắc trung phần ngày nay , 3 câu thơ trong bài ca dao bất hủ này đã loại bỏ hoàn toàn ý nghĩ sai lầm đó , vì làm sao giải thích được các điạ danh ....tiền Đường , Động đình cũng như những chữ ... võng Đào .v.v lại có mặt trong bài ca dao mang nặng tình tự dân tộc này : ‘Gió Động Đình mẹ ru con ngủ trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh bống bồng bông, bống bồng bông võng Đào mẹ bế con rồng cháu tiên. Bài : -Nôm na là cha mách qué . -Hướng nhìn mới về cuộc nam tiến . -Thời Hùng vương dựng nước . Xin đọc ở Diễn đàn lý học Đông phương phần thử bút .
    1 like
  5. tôi lại cho rằng, quý cô này mà đi buôn, thể nào cũng nhá vạt áo thay cơm dài hạn. nếu ôm vị trí kho, quỹ, trông xe, coi hàng, v.v... các công việc mang tính chất như vậy còn có của ăn của ấm. 2 hướng việc làm mà quý cô này đang lựa chọn phân vân thì nên mua 1 bó hương, 2 cái lọ giống hệt nhau. Đốt hương khấn vái. đặt 2 cái lọ cạnh nhau, dứng xa 3 mét, sau khi khấn vái xong thì phi bó hương vào giữa 2 cái lọ. Sau đó ngồi đếm xem lọ nào nhiều hương thì chọn theo hướng đó. đương nhiên mỗi lọ tương ứng với 1 hướng đi. đừng thay lọ bằng chai 75 kẻo miệng chai bé quá khó lọt chân nhang. Sau này, nếu quý cô cảm thấy mình thất bại trong cuộc sống, công việc thì nhớ ơn tôi nhé, còn thành công thì cứ mỉa chơi thôi. he he Phúc đức tốt, vậy mà anh em hưởng hết, may cha mẹ ko bạc.
    1 like
  6. Anh chị em lớp Phong Thủy Lạc Việt thân mến. Từ nay về sau, nếu chúng ta có thể đặt làm ông Khiết ở những cơ sở sản xuất và dùng trong yếu tố thứ 5 của Phong thủy Lạc Việt thì cố gắng đề nghị họ bỏ hai cái chấm trên đầu ông Khiết, để biểu tượng Âm Dương mang tính thuần Việt. Trên tượng ông Khiết này, còn một biểu tượng bí ẩn nữa. Anh chị em có nhận thấy biểu tượng này không? Và nội dung nó nói lên điều gì?
    1 like
  7. Đọc một thôi hồi mới thấy choáng vì em Đủ Cả này, cứ nghĩ em là bạn ngang hàng với cả anh GiaBack nữa cơ… Em Đủ Cả ơi, anh Giaback còn nhiều tuổi hơn cả anh người yêu của em đấy, em nên xem lại cách xưng hô và ăn nói với các anh chị trong diễn đàn đi, còn có cả các chú các bác nữa đấy, các cụ có câu lời nói chả mất tiền mua…. mà em Cứ nghĩ là thế hệ 7x như bọn chị mới có chuyện các cụ không nhớ chính xác giờ sinh, thế mà thế hệ 9x của Đủ Cả cũng vậy thì lạ thật??? Sorry Đủ Cả vì không phải việc của mình nhưng vẫn tham gia vì…….bản tính của mình nó xấu thế đấy
    1 like
  8. Tháng 7 âl này chị ta có cơ hội tốt nhiều người giúp đỡ thuận lợi cho việc chuyển chỗ làm, nếu không chị ta không chịu thì đúng là cuối năm mới đi
    1 like
  9. Lưu Thái tuế ở cung Di, Cơ Âm vượng địa hội họp nhiều cát tinh hợp chiếu: di chuyển thuận lợi
    1 like
  10. Topic này thuộc về nội dung của Phong Thủy. Ông Chủ Tịch Tập đoàn Vinashin không thể mời thấy phong thủy loại cơm gạo rồi. Tất nhiên phải rất giỏi. Sự thất bại của Vinashin không thể kết luận là Phong Thủy sai. Hơn nữa, trong lúc đang đắc thời, chưa chắc người ta đã tin vào điều mà ngườii ta không hiểu lắm. Điều này cũng chứng tỏ rằng: Phong Thủy cũng chỉ là một phương pháp tác động, một thứ công cụ hỗ trợ cho cuộc sống bởi những tri thức về quy luật tương tác mà con người nằm bắt được, rồi qui ước trong phương pháp ứng dụng. Cho dù nó thuộc về một trí thức cao cấp và vượt trội thì cũng không nằm ngoài định lệ này. Nó cũng tương tự như các phương pháp ứng dụng của khoa học hiện đại, làm phong phú thêm cho định lượng cuộc sống của con người, nhưng không thể thay đổi định tính của những quy luật thăng trầm - quen gọi là định mệnh. Vận đã suy thì phong Thủy cũng chỉ đỡ được phần nào mà thôi. Phong thủy của một ngôi gia, của trụ sở của cả một tập đoàn, thậm chí của cả một thành phố....vẫn phải lệ thuộc vào điều kiện thinh suy của cả khu vực môi trường nó tọa lạc. Cả cái môi trường ấy - với vị trí một quốc gia - thì còn lệ thuộc vào quy luật tương tác của vũ trụ lên Địa cầu này. Có điều là biết trước thì sự tiến thoái dễ dàng hơn mà thôi. Lý học Đông phương là một tri thức cực kỳ cao cấp. Nhưng dù có tài đến như Tề Thiên Đại thánh thì vẫn không vượt qua được quy luật của tạo hóa. Bàn tay của Phật tổ chụp Đại Thánh trong truyện Tây Du Ký cho thấy một biểu tượng của Âm Dương Ngũ hành - Đại thánh không vượt qua được.
    1 like
  11. Sáng mai, Quốc hội sẽ bàn thảo về Quy hoạch Hà Nội tại hội trường. Chương trình thảo luận này sẽ không được truyền hình trực tiếp trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam. Đành chờ nghe các PV thuật lại vậy! Ngày mai, chắc Quốc hội sẽ bàn chủ yếu về Trục Thăng Long và TTHCQG sẽ đưa lên Ba Vì vì đó là hai vấn đề cộm cán gây bức xúc trong dư luận nhất..Tôi được biết có một số đại biểu Quốc hội thường xuyên ghé đọc Blog này (trong đó có 3 vị nói trực tiếp với tôi điều này). May mắn đêm nay, có đại biểu nào lạc vào đây trong một đêm khó ngủ, đọc đến những dòng chữ này, thì là điều tôi mong đợi nhất. Trước đây, tôi đã phát biểu về việc làm ngược đời của Bộ Xây Dựng (mà chủ yếu là anh em ông Bộ trưởng Nguyễn Hồng Quân và Thứ trưởng Nguyễn Đình Toàn). Bộ này thay mặt Chính phủ VN thuê nhà tư vấn nước ngoài PPJ làm đồ án quy hoạch. Nhà tư vấn lại thuê lại 2 Viện của Việt Nam làm cho họ(1 của Bộ Xây dựng và 1 của UBND TP Hà Nội). Có lẽ vì thế mà anh em ông Bộ trưởng cứ xông lên Truyền hình và báo chí để bảo vệ quyết liệt cho đồ án này (?). Có lẽ vì đồ án quy hoạch do người Việt Nam làm, nên nhất định phải đưa vào một tí tâm linh cho nó đậm đà truyền thống, vì thời gian qua người ta nói về cái chiếu dời đô của Lý Công Uẩn rất nhiều (?). Trục Tâm linh (sau gọi tránh là Trục Thăng Long) vừa được bày ra tức thì đất hai bên trục này và cả vùng núi Ba Vì sôi lên ùng ục. GS. Trần Trọng Hanh gọi trục đường này là cái mũi tên đã được đặt lên cái cung để bắn vào TTHCQG Ba Vì. Cách nói rất hình ảnh của GS Trần Trọng Hanh làm tôi nhớ đến một câu chuyện đã xảy ra cách đây khoảng 1000 năm mà tôi có dịp đọc trong tài liệu và khảo sát trên thực địa. Đó là khi triều đình nhà Lý xây dựng chùa Dạm trên núi Lãm Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh), quy mô hoành tráng, là một trong những "chùa hoàng gia"(Chữ dùng của PGS. Chu Quang Trứ) nối tiếng trong lịch sử. . Cột đá Chùa Dạm hoành tráng vẫn đang thách thức hậu thế. Hiện nay không ai khẳng định được đây là cái gì. Khi chùa dựng xong, nhà vua nghe theo ai đó xui bậy, cho đào một con ngòi để tiện bề thuyền ngự của nhà vua và hoàng gia ghé vào bến nước tận chân núi trước cửa chùa. Nhưng, chỉ một thời gian ngắn, chùa Dạm trở thành phế tích. Nay chỉ còn một cột đá (có phiên bản đặt tại Bảo tàng Mỹ Thuật VN, Hà Nội), một tấm bia mờ hết chữ nghiêng ngả trong tàn hoang bụi rậm, và mấy chục tấm tảng kê chân cột. Còn con ngòi - tên gọi là NGÒI CON TÊN - tức Ngòi Mũi Tên) thì vẫn còn đó. Nay, lên núi Lãm Sơn, đứng ở nền phế tích chùa Dạm nhìn xuống, vẫn là ngòi CON TÊN, nước trắng xóa như chiếc mũi tên bằng thép đang lăm lăm bắn vào phế tích! Hoang tàn bia đá ngả nghiêng Chùa hoàng gia giờ chỉ còn những tảng kê chân cột Tôi cũng phân tích rằng: Trong lịch sử, xứ Đoài chính là nơi nhà Lý nhốt giữ tù binh; là nơi ẩn cư của các kẻ sĩ lánh đời, chán đời, bất đắc chí, bất lực và quay lưng với thời cuộc. Còn nay thì sao? Xứ Đoài hiện là nơi nhà nước xây dựng những trung tâm giáo dưỡng phục hồi nhân phẩm, trung tâm cai nghiện. Hơn thế Ba Vì còn là nơi người ta xây dựng siêu nghĩa trang có thể giải quyết việc an táng của thành phố chục triệu dân. .Xứ Đoài chưa bao giờ là vùng kinh tế năng động. Nơi này chỉ thích hợp để bảo tồn văn hóa, làm du lịch văn hóa và du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Đã 12 năm nay, Khu Công nghệ Cao Hòa Lạc đặt ở đây nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được bao nhiêu. Đại học Quốc gia cũng vậy. Hình như, tự vùng đất này đã có cơ chế tự bảo vệ rồi! Sấm Trạng Trình nói rằng: “Đoài phương tĩnh nhất khu”(xứ Đoài là một phương yên tĩnh”) là vì thế. Nếu đưa Trung tâm Hành chính Quốc gia về chân núi Ba Vì, tức là đặt Chính phủ và các cơ quan của chính phủ vào trạng thái nghỉ ngơi, không năng động, không linh hoạt… thì rất tai hại. .Ngoài ra, chúng ta đều biết vùng Sơn Tây là nơi Bộ Quốc Phòng đặt các trường đào tạo sỹ quan cho quân đội, cũng là nơi đóng quân của nhiều đơn vị quân đội, nhà máy quốc phòng. Ở đấy là vùng khí hậu khắc nghiệt (dân gian nói “Chó ăn đá, gà ăn sỏi”, và “nắng Sơn Tây, mây Ba Vì”) và địa hình địa vật tự nhiên phù hợp với việc thao diễn, luyện tập của quân đội. Vì thế, đưa Trung tâm Hành chính quốc gia về đây sẽ gây xáo trộn nơi này! Các bản đồ địa chất cũng cho thấy vùng núi Ba Vì có nhiều vết đứt gãy. Tại khu vực mà đồ án quy hoạch dự kiến đặt TTHCQG lại là vùng có hai đường đứt gãy giao nhau, càng tăng thêm lo ngại nếu đặt ở đây các công trình xây dựng lớn. Vì những lẽ trên, tôi rất mong các đại biểu Quốc hội nước ta không nên biểu quyết đưa TTHCQG lên vùng Ba Vì nói chung và lên xã Yên Bài nói riêng. Và chúng ta cần phải nói KHÔNG với cái Trục Tâm linh (Trục Thăng Long) đã được nhà tư vấn PPJ và Bộ Xây Dựng vẽ ra. Nguyễn Xuân Diện. Nguồn:nguyenxuandien.blogspot.com
    1 like
  12. TÍNH KHOA HỌC CỦA PHONG THỦY LẠC VIỆT ỨNG DỤNG TRONG XÂY DỰNG DÂN DỤNG. Kỹ sư Đào Công Minh P.Giám đốc Cty cổ phần xây lắp Hạ Tầng – TP. HCM Thành viên nghiên cứu Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Vài năm trở lại đây, cùng với nhiều môn lý học đông phương, phong thủy đã có sự hồi phục mạnh mẽ trong cuộc sống. Ờ mảng văn hóa, thì nhiều nhà xuất bản đã cho in đến gần trăm đầu sách của nhiều tác giả trong và ngoài nước, đương đại cũng như cổ đại về đề tài phong thủy phục vụ người đọc. Nhiều tờ nhật báo, tuần báo hay đặc san chuyên ngành đã mở những chuyên mục bàn về phong thủy. Trên phương diện báo tiếng, đã có một số đài phát thanh địa phương cũng mở chuyên mục định kỳ cho đề tài phong thủy. Và đặc biệt trên phương tiện truyền thông mạnh nhất, tiện ích nhất, phong phú đa dạng hiện nay là internet thì đề tài về phong thủy được phổ biến rất nhiều và mạnh. Một phần được tiếp xúc thông qua các phương tiện thông tin văn hóa nói trên, một phần do nhu cầu “ tìm lành tránh dữ” thì một bộ phận lớn người dân đã tìm và áp dụng phong thủy vào cuộc sống của mình. Chuyện lớn thì từ làm một căn nhà ( chọn phương hướng, tổ chức kiến trúc….) rồi việc bài trí nội thất( hướng giường nằm, tủ thờ, đặt bể cá , treo tranh ảnh kính gương…. ); Tu chỉnh ngoại thất ( màu sắc sơn, cây cảnh sân vườn…). Nhỏ hơn là việc chọn số xe, số điện thoại, màu sắc quần áo, phương hướng xuất hành năm mới….vv. Do có điều kiện công tác trong ngành xây dựng, chúng tôi đã thực hiện một khảo sát nhỏ dạng bỏ túi để thăm dò quan điểm với áp dụng phong thủy trong việc xây dựng nhà cửa ở 100 người có độ tuổi từ 25 – 50 thuộc nhiều thành phần có trình độ chính trị xã hội, tri thức khoa học khác nhau ( như bác sĩ, kỹ sư, kinh doanh, viên chức, dân thường ) hiện là chủ đầu tư công trình, trong đó nữ 28 người; Nam 72 người. 80% đã có gia đình riêng và đều là chủ gia đình. Kết quả : * Với câu hỏi : Bạn biết gì về Phong thủy? . Có 17% hiểu khá rõ về một số khái niệm của phong thủy, 83% số còn lại đều có nghe, có biết là đó môn sắp đặt nhà cửa sao cho phù hợp và tốt cho chủ nhà. Trong khi hỏi Tử bình, Tử vi là gì thì chỉ có 52% biết là môn bói toán về cuộc đời con người, còn lại là hình như là hoặc mới nghe tên lần đầu. * Với câu hỏi : Nếu làm nhà, bạn có muốn áp dụng phong thủy không ? Có 94% muốn áp dụng phong thủy trên quan điểm cầu lành tránh dữ; tốt thôi vì nhà nhiều khi lại đẹp thêm chứ ko xấu đi… 2% lưỡng lự có cũng tốt,không cũng được; 4% không cho là cần thiết, là lằng nhằng phúc tạp. * Với câu hỏi : Muốn ứng dụng phong thủy cho mình thì phải làm sao ? Có 45% cho rằng phải nhờ người có chuyên môn tư vấn; 12% cho rằng mình có thể tự mày mò bằng đọc sách báo rồi áp dụng. Ngoài 4 trường hợp không tham gia vì cho rằng phong thủy không cần thiết ở trên, thì số còn lại là 39% chưa biết sử lý thế nào vì thiếu thông tin. Kết quả tuy khiêm tốn, nhưng có thể đã phần lớn phản ánh nhu cầu, điều kiện và hoàn cảnh ứng dụng phong thủy hiện nay trong cuộc sống dân sinh, đó là tình trạng nhiều người biết mặt chỉ tên phong thủy, muốn áp dụng thì gặp lúng túng nhất định, chưa biết làm sao? Thêm nữa tình hình ứng dụng phong thủy hiện nay đang tồn tại những tình huống mâu thuẫn, tréo ngoe là quan điểm của nhiều trường phái, nhiều thầy có những mâu thuẫn trái ngược nhau, khiến khó xử, nghi ngại thậm chí là hoang mang cho gia chủ trong một số tình huống. Sau một thời gian ngắn được tiếp xúc và ứng dụng phong thủy Lạc Việt, tác giả xin có một vài trao đổi về một vài phương pháp cơ bản của phong thủy Lạc Việt khi ứng dụng thực tế đã biểu lộ đưiợc tính khoa học và nhất quán hơn hẳn. Đồng thời xin nêu một vài kinh nghiệm và đề xuất trong việc định hướng áp dụng phong thủy trong xây dựng công trình dân dụng theo phong thủy Lạc Việt. I – ĐỐI TƯỢNG CHỦ HỘ CHO MỘT CĂN NHÀ TRONG PHONG THỦY LẠC VIỆT. Trong nhiều lĩnh vực cuộc sống, xác định về đối tượng là Chủ rất quan trọng, vì có xác định được chính chủ thì mới có định hướng về đường lối, cách thức ứng xử sau đó. Ví như trong giao tế có Chủ - Khách; Lãnh đạo có Chủ tịch, Chủ nhiệm; Quản lý nhân khẩu có Chủ hộ; Tài sản có Chủ sở hữu; Họp hành triển khai thì có Chủ trì; Chi tiêu mua sắm có Chủ chi; Trong án luật có Chủ thể - Khách thể, chủ mưu - tòng phạm… Do Phong thủy là sự tương tác từ môi trường đến con người một cách có định hướng. Một định hướng đầu tiên rất quan trọng là đối tượng chịu ảnh hưởng trước nhất, rồi từ đó mới ảnh hưởng đến toàn gia đình, đó chính là Chủ nhà. Vì vậy khi áp dụng Phong thủy trong xây dựng dân dụng, việc chọn chủ cho căn nhà hay công trình đó là việt rất cần thiết và quan trọng, nhất là ở phần Bát Trạch (1). Một số trường phái phong thủy lâu nay đang có những lúng túng, mâu thuẫn, thiếu nhất quán về vấn đề chọn chủ hộ cho nhà đất cần áp dụng phong thủy. Trong một gia đình chỉ có vợ chồng con cái, người ta lấy ông chồng làm chủ nhà để lập phong thủy cho căn nhà đó, điều này thật đơn giản rất thuận lý và phù hợp. Nhưng ở một số trường hợp phức tạp hơn, người ta sử dụng các tiêu chí quan hệ xã hội khác để chọn như : Người chủ nhà là người đứng tên sổ đỏ, bìa hồng. Hay là chủ nhà là người đã bỏ tiền ra mua tài sản đó. Thậm chí là người đang ăn lên làm ra nhât trong gia đình đó bất kể vị trí thứ bậc gì trong quan hệ gia đình. Ví dụ : Một gia đình có con cái trưởng thành, người con trai bỏ tiền ra mua thêm đất bên cạnh, phá nhà cũ đi làm nhà mới to lớn hơn thì người con đó do bỏ tiền ra lên được thày phong thủy chọn là chủ hộ, trong khi cha mẹ còn tại hiện thì không được kể đến. Chính những quan điểm không thống nhất như vậy đã gây sai lầm trong việc áp dụng phong thủy vào căn hộ đó, từ đấy dẫn đến những tác hại xấu cho cả gia đình. Hoặc cũng có quan niệm cho rằng: Nhà thì theo tuổi chồng, bếp thì theo tuổi vợ.....vv..... Phong Thủy Lạc Việt đã giải quyết khúc mắc này bằng những qui tắc rất thuyết phục và khoa học. Đó là nguyên tắc ( được đặt lục bát như sau): Âm thì phải thuận tùng Dương Dương luôn là trước, Âm thường là sau. Tác động từ môi trường tới con người sinh sống trên căn nhà đó, được định hướng qua đối tượng “chủ hộ” của nhà đất đó. Chủ hộ ở đây không phải là người đứng tên pháp lý căn hộ hay chủ sổ hộ khẩu, cũng không phải là người có kinh phí đầu tư mua sắm, mà là người Dương nhất trong quan hệ gia đình sinh sống trên mảnh đất đó. Với nguyên tắc Dương trước Âm sau thì quan hệ trong gia đình được xác định: Cha mẹ là Dương, con cái là Âm; chồng là Dương, vợ là Âm; anh chị là dương em là Âm… Và Âm phải luôn tuân theo dương (Âm thuận tùng Dương). Nguyên tắc này thể hiện sự nhất quán, phù hợp với lý Âm Dương trong vũ trụ cũng như lẽ Đạo của Đông phương lâu nay. Nhận thấy tính hợp lý, thống nhất mang tính khoa học, chúng tôi đã có những ứng dụng: a/ Áp dụng nguyên tắc này, đã giải thích được một số tồn nghi như trường hợp gia chủ là con, đang cùng sống với cha mẹ. Khi làm nhà có áp dụng phong thủy theo tuổi của mình , nhưng khi chuyển gia đình vào sinh sống đã xảy ra những trục trặc … mà nguyên nhân được nhân định là do Phong thủy căn nhà đó không hợp với tuổi người bố (hoặc mẹ), đó mới là người chủ định hướng tương tác của phong thủy căn nhà đó. Từ đó đã sử dụng tuổi của người bố( mẹ) này để bài trí phong thủy lại cho căn nhà, việc làm đã đem lại những kết quả tích cực. *Một trường hợp điển hình: Vào đầu năm 2007, gia đình anh Phạm văn M 35 tuổi (công tác ờ ngành Dầu khí tại Vũng Tàu) gom tiền bán căn nhà của cha mẹ ngoài quê ( Nghệ An) cùng với khoản tích cóp mua đất xây nhà mới. Sau đó anh ta đưa toàn bộ gia đình gồm mẹ cùng vợ con vào Bà Rịa định cư. Sau khi nhập trạch vê nhà mới một thời gian, tất cả phụ nữ trong nhà đều ốm bệnh liên miên, khiến gia cảnh rất bối rối. Thông qua một chủ thầu nhận làm nhà cho anh M, nhờ giúp chúng tôi kiểm tra và phát hiện: anh M mua đất làm nhà từ 2 nguồn kinh phí 500 triệu tiền tích cóp và vay mượn của vợ chồng anh và 120 triệu từ tiền bán căn nhà cũ của người mẹ ngoài quê cho. Anh ta người tham gia giao dịch mua bán, đứng tên sổ đất, lại đứng ra lo toan xây cất nên đương nhiên quan niệm mình là chủ hộ, chù đất và phong thùy theo tuổi mình. Anh này tuổi Qúi Sửu phi cung là Đoài - Tây tứ mạng (Theo Phong thủy Lạc Việt - Sách Tàu là Ly), được một thầy tư vấn mua nhà hướng Tây Bắc – Tây Tứ Trạch, xây cất và bài trí theo đúng Tây trạch. Vậy căn nhà nếu chỉ có vợ chồng con cái anh ta sinh sống thì đây là sự phù hợp – tốt. Tuy nhiên, nhà ngoài quê đã bán, anh ta lại là con trai độc, mẹ già góa bụa, đúng lẽ đạo lý anh ta phải mời mẹ về ờ cùng để phụng dưỡng đến cuối đời là phù hợp. Trường hợp này phong thùy Lạc Việt xác định bà mẹ mới là Chủ hộ là đối tượng tương tác của căn nhà. Trong khi bà mẹ anh M tuổi Tân Tỵ ( 1941 ) phi cung Khảm Đông tứ mạng, ở trong căn nhà Tây tứ trạch, bài trí bếp nước, nơi thờ phụng hoàn toàn theo Tây trù. Việc sai lệch đó dẫn đến bà mẹ ốm đau là điều đương nhiên và đơn giản dễ hiểu. Do tính đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu bà mẹ là nữ sẽ kéo theo tất cả những người nữ trong gia đình gồm con dâu, cháu nội gái ốm bệnh theo. Từ phát hiện đó, chúng tôi đã điều chỉnh lại hướng bếp, bàn thờ và một vài cách bài trí phù hợp với Đông Tứ Trạch để hợp tuồi người mẹ. Sau một thời gian kết quả được cải thiện rất tốt, gia đình hết bệnh, người con dâu xin được việc làm tốt ở gần nhà. b/ Áp dụng nguyên tắc này, đã có những tháo gỡ tạm thời cho những gia đình mà tuổi của gia chủ hiện không hợp hướng nhà đang ở bằng cách mời cha mẹ có tuổi hợp hướng nhà về ở cùng đề hóa giải. Việc này ngoài phong thủy đã có tác dụng tích cực là nối kết tình cảm giữa cha mẹ và con cái trong gia đình thắm thiết hơn. * Trường hợp điển hình: Gia đình chị Hoàng thị M tuổi Đinh Dậu ( 1957) ở TP.HCM, Chồng tuổi Nhâm Thìn 1952 phi cung Chấn Đông Mệnh, nhà hướng chính Nam, phù hợp phong thủy. Năm 2005 chồng đột ngột qua đời. Do không có thông tin về phong thủy vì vậy cũng không quan tâm, nên bài trí sắp xếp trong nhà giữ nguyên như cũ. Đến đầu năm 2008 chị cho biết trong gia đình có nhiều biến động về sức khỏe cũng như tính nết con cái khiến rất buồn rầu. Sau khi kiểm tra phong thủy phát hiện nhà chị ta là Đông tứ trạch, bài trí thuận theo đông trạch là phù hợp với tuổi chồng chị ta là chủ. Nay chồng chết, thì tương tác của phong thùy đến chủ là chị ta,trong khi chị ta là Dinh Dậu phi cung Cấn - Tây tứ Mạng. Điều trái ngược này đã gây xáo trộn về sức khỏe và tính nết cô con gái ham chơi… Sau khi tìm hiểu được biết, gia đình chị có người mẹ chồng, trước đây đã có thời kỳ ở cùng vợ chông chị. Do quan hệ mẹ chồng nàng dâu có xích mích, bà này không ở được với con trai mà chuyền về ờ ở cùng vợ chồng cô gái út mấy năm nay. Bà mẹ này tuổi Nhâm thân 1932 phi cung Khảm Đông tứ trạch, xác định rất hợp với căn nhà này. Chúng tôi đã phân tích hiện tượng và dự báo nguy cơ, đồng thời đưa ra cách khắc phụ là khuyên chị M làm lành với bà mẹ chồng, mời bà về sống cùng cho vui và ấm cúng. Sau 2 tháng thuyết phục bà mẹ chấp thuận về ở cùng con dâu và cháu ngoại. Tương tác phong thủy phù hợp, đạo lý thông suốt qua hơn một năm trở lại sống chung tình cảm giữa bà mẹ và chị M từ mẹ chồng nàng dâu thành mẹ đẻ con gái, bà cháu quấn quýt nhau gia đình không ai bệnh tật. Con gái chị M trước bỏ học ham chơi, đua đòi mất kiểm soát …. Sau một thời gian điều chỉnh, tu chí thì nay đang du học tự túc tại Úc về quản trị kinh doanh. Đứa con trai học lớp 11 rất tốt và ngoan. Sau ngày chồng chết, mất hơn 2 năm làm ăn trục trặc, từ ngày có sự điều chỉnh trên, chị M trúng được nhiều hợp đồng cung cấp vật tư cho các công trình xây lắp trên địa bàn, thu nhập còn tốt hơn ngày chồng chị còn tại thế. II- ĐỊNH TÂM VÀ PHÂN CUNG CỦA PHONG THỦY LẠC VIỆT. Như chúng ta đều biết khi thực hiện phong thủy cho một ngôi nhà, thì việc đầu tiên là các việc định tâm của mặt bằng ngôi nhà đó từ đó mới có cơ sở phân cung phân cung và điểm hướng cho toàn công trình. Việc làm này có tính quyết định trong việc bố trí mặt bằng kiến trúc cho công trình. Vì nếu đúng và chính xác thì các kết quả sau sẽ đúng, còn nếu có sai lệch thì tất cả các kết quả sau sẽ sai sót lệch. Hiện đa phần các trường phái Phong Thuỷ lưu truyền từ xưa cho đến nay, vấn đề định tâm này được đưa ra rất chung chung và đơn giản. Đối chiếu với các qui tắc của toán lý học, thì còn là sự xuề xòa thiếu chính xác. a/ Với các căn nhà, khu đất có mặt bằng thuộc dạng hình học đơn thuần như : Chữ nhật, hình vuông, bình hành, tam giác hay hình tròn thì tâm nhà đất là tâm hình học của hình đó b/ Với một số mặt bằng có hình zichzắc thì thông thường là cách dùng hình biểu kiến bao quanh đồ hình mặt bằng nhà để định tâm. c/ Hoặc chuyển từ hình đa giác phức tạp trở về hình tứ giác đơn giàn để xác định tâm. Nét bao đậm là đồ hình mặt bằng nhà. Nét nhạt là hình biểu kiến bao quanh đồ hình mặt bằng nhà để định tâm. Sở dĩ một phần có thể do thất truyền những lý thuyết căn bản và phần nữa có thể do xuất phát từ hình thù công trình kiến trúc xây dựng theo kiến trúc Đông phương cổ phần lớn đều tuân theo những hình kỷ hà mang tính cân đối. Bởi vậy sự định tâm đã được mặc nhiên xác định. Hậu thế cũng mặc nhiên áp dụng. Trong khi phong thuỷ là sự tương tác từ không gian sẽ cần đến vị trí đúng trong không gian của vật chịu tương tác. Đó chính là trọng tâm của vật Trọng tâm là một điểm thể hiện tâm của một hình, đôi khi được coi là “tâm hữu hình” của thuộc tính.Theo vật lý hiện đại thì trọng tâm của một vật là điểm đặt của trọng lực tác dụng lên vật khi nó đặt trong trọng trường. Như vậy không kể các trường hợp đơn thuần (a) thì 2 trường hợp (b và c xét về mặt toán hình học là không chính xác khi xác định tâm của miếng đất hay căn nhà. Phong thủy Lạc Việt đã rất khoa học trong việc định tâm cho căn nhà hay khoảnh đất bằng cách áp dụng toán học và vật lý : Trọng tâm của hình thể mặt bằng diện tích nhà hoặc đất trong phong thuỷ Lạc Việt chính là điểm tạo sự cân bằng cho đồ hình đồng dạng của nó trong không gian: Nếu hình thể đồng dạng của diện tích nhà hoặc đất, được thể hiện bằng vật thể đồng chất thì trọng tâm của nó chính là điểm cân bằng khi ta treo nó trong không gian chính vào điểm ấy. Dưới đây là hình vẽ so sánh hai phương pháp định tâm trên cùng một miếng đất có hình chử L – nở hậu. Chính sự sai khác này dẫn đến hàng loạt sai lệch hệ quả khác khi bố trí kết cấu, kiến trúc cho căn nhà và cuối cùng là đem lại hậu quả xấu cho gia chủ. a/ Định tâm theo Phong Thủy Lạc Việt b/ Định tâm theo phương pháp thông thường. Trong nghiên cứu áp dụng Phong thủy chúng ta đều biết, tâm nhà và trung cung căn nhà có vị trí tối quan trọng trong việc bố trí kiến trúc, hệ thống kỹ thuật. Ví dụ như việc đặt để hầm hố, trụ cột tại trung cung và tâm nhà là điều tối kỵ. Như vậy qua việc định tâm, phân cung bằng các ví dụ so sánh ở trên cho thấy phương pháp của Phong thủy Lạc Việt sẽ chính xác hơn, từ đó giúp việc phân biệt các khu vực tốt xấu trong khuôn viên đất để bố trí sắp xếp kết cấu kỹ thuật, nội thất kiến trúc phù hợp, tránh hung xấu. Đặc biệt áp dụng với các căn hộ đô thị ngày nay qũy đất có ít nhiều hạn chế. Chúng tôi đã áp dụng phương pháp định tâm này để giải quyết một số vướng mắc cho những căn nhà có mặt bằng đất hình chữ L. ( là một dạng nhà đất được coi là tốt, đắc lợi vì nở hậu theo quan điển dân gian ở các đô thị hiện nay) Cụ thể là anh Nguyễn Côn H 50 tuổi, ở Long Khánh – Đồng Nai, xây nhà năm 2000 trên mảnh đất 5*20 nở hậu ngang 3m hình L. Theo cách định tâm cũ, anh được hướng dẫn bố trí 01 hầm tự hoại vào góc L trong của mảnh đất để tránh trung cung có hầm hố. Sau khi xây nhà anh đổ bệnh tiểu đường, cao huyết áp tính nết bẳn gắt, hay ăn nhậu say xỉn về quậy phá vợ con. Năm 2007 sau khi gặp chúng tôi, căn nhà được định tâm và phân cung lại theop Phong Thủy Lạc Việt, xác định trung cung nhà bị phạm hầm hố, tư vấn cho gia chủ lấp chuyển và hầm. Từ cuối năm 2007, anh H gặp được người bày bài thuốc nam, rất chịu khó uống, kèm theo là tập luyện thể dục buổi sáng. Tuy còn ăn nhậu, tuy say xỉn nhưng về nhà hiếm khi quậy phá vợ con. Trong gia đình người vợ bị đau bao tử nhiều năm chạy chữa thuốc đông tây mà không giảm, sau khi sửa nhà gặp người chỉ cho ăn trường kỳ bài thuốc lá mơ lông trứng gà mà bệnh thuyên gảm rõ rệt. III/ CÁC TRƯỜNG HỢP CỦA KHÍ VÀ ĐỀ XUẤT ỨNG DỤNG: Khoa học cổ Đông Phương với một khái niệm Khí là một yếu tố rất bao trùm và quan trọng cho nhiều bộ môn từ thiên văn địa lý; y học, võ thuật dưỡng sinh, kiến trúc xây dựng; nhân trắc dự đoán… Phong thủy cũng đã không nằm ngoài, trong phong thủy cổ tryuyền đã có hẳn một trường phái ứng dụng Khí gọi là Loan Đầu ( Hình Lý Khí) là dựa vào hình thể và khí chất của cảnh quan môi trường để bàn định và sắp xếp phong thủy. Theo Phong thủy Lạc Việt : Khí là một dạng tồn tại của vật chất, được hình thành bởi sự tương tác và vận động của những vật thể vật chất, đồng thời tương tác lên các vật thể vật chất ấy. Tính chất của khí phụ thuộc vào tính chất cấu trúc và tương tác của các vật thể vật chất. Sự vận động của khí được định hình tùy theo vị trí các dạng cấu trúc vật thể vật chất tương tác hình thành nên nó. Việc phân định các tình trạng của khí như: Tà khí, Sinh khí, Âm khí, Vô khí; Vượng khí; Cường khí ; Nhược khí; Tụ khí ; Tán khí ; Bế (ủng) khí; thoái khí; thoát khí,…….để giải thích hiện tượng và đưa ra hướng giải quyết. Vì điều kiện thời gian và tránh sự trùng lặp, ở đây tác giả không đi sâu vào toàn bộ các trạng thái của khí ở trong một căn nhà mà chỉ nêu 2 tình trạng bế khí và thoái khí thường hay gặp trong kiến trúc ở các căn hộ hiện đại. Trước nhất tìm hiểu trạng : * Bế Khí: Bế là ngưng, bí , không chuyển động được… Bế khí là ngưng đọng không vận động thông thoát được của dòng khí. * Thoái Khí: Thoái là lui lại, trượt khỏi, lùi xuống, đi ra khỏi… Ở đây thoái khí được hiểu gần với sự đi ra khỏi, đi mất dẫn đến không tham dự của Khí. Trong quá trình tiếp nhận dòng khí tương tác từ môi trường vào đến căn hộ, điều kiện lý tưởng nhất là được dòng khí Tốt ( Sinh Vượng Khí ), bình ổn ( không Cường hay Nhược), Đầy Đủ ( không bị mất mát - Thoái) qua trình lưu chuyển thuận lợi không bị vướng mắc cản trở ( bố cục kiến trúc thuận khí), và kết thúc chu trình sinh trường Sinh.. Vượng … Mộ phải thông thoát. Bế khí và Thoái khí là hai trạng thái không tốt cho căn hộ. 1/ Bế khí : thường gặp ở các căn hộ nhà ống,nhà chung cư cao tầng có thiết kế các căn hộ liền sát lưng nhau. Khiến phòng cuối cùng ( đây thường được sử dụng làm phòng bếp,công trình phụ ) không thể trổ cữa thông thoáng ra bên ngoài. Sinh Khí sau khi chu trình sinh trưởng là Sinh.. Vượng … Mộ đáng lý phải được thoát đi thì không có lối ra bị ngưng bí lại ( Bế), lâu ngày thành tù đọng từ dương khí biến thành âm khí rất bất lợi cho gia chủ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã từng chứng kiến những căn hộ có tình trạng bị bế khí tại Hà nội mà những người phụ nữ ở trong căn hộ đó lâu ngày đều phát bệnh thần kinh, nhiều người không lấy được chồng vì lãnh cảm. Năm 2008 nhóm Phong thủy Lạc Việt phía nam thuộc Trung tâm nghiên cứu lý học đông phương, đã có buổi điền dã khảo sát khu biệt thự nhà Chú Hỏa nổi tiếng một thời tọa lạc tại số 97 đường Phó Đức Chính (Q.1), nay là Bảo tàng Mỹ thuật thành phố đây nguyên là một công trình kiến trúc cổ kính và hoành tráng, một trong những “khu đất vàng” của quận 1 trung tâm TP. Hồ Chí Minh, để tìm hiểu tình trạng những người phụ nữ làm việc tại đây đều vất vả khó khăn về đường chồng con, gia thất sau loạt bài phóng sự Những ngôi nhà “dị thường” trong thành phố của báo Người lao động và một lời đề xuất của một người trong cuộc trên Internet. Căn nhà này nằm ở khu tứ giác với bốn mặt đường Phó Đức Chính - Lê Thị Hồng Gấm - Calmette - Nguyễn Thái Bình, nên khí rất vượng. Nhưng do kiến trúc có những chi tiết và phòng ốc tạo ra hiện tượng bế khí, nhiều khu vực khí bế nặng những sân giữa, lâu ngày tù đọng thành âm khí vượng sẽ là nguyên nhân của các hiện tượng: “ Các nữ nhân viên vào làm ở đây nếu đã có gia đình rồi thì không sao, còn không thì sẽ bị ế dài dài, nếu có lập gia đình cũng là rổ rá cạp nhau hoặc sứt đôi gãy gánh. Nếu không tin, có thể tìm hiểu, hiện tại các nữ thuyết minh tranh trên lầu đang ế dài, người nhỏ nhất cũng trên 30, còn lớn thì gần 50 rồi, cũng không quá tệ nhưng không hiểu tại sao?Còn các nam nhân viên kể các sếp nam thì chẳng có mặt nào đáng bậc quân tử : tính đàn bà, chi li, lấy vợ thì vợ đã có 2 con rồi mà cũng không biết, hoặc bỏ vợ.. Hiện nay, sếp toàn quyền Bảo tàng này là nữ, cũng không có con cái gì hết, lại đau ốm liên miên.” _ trích lời tường thuật của một cựu nhân viên ở đây, lấy biệt hiệu chimboica Cũng như trong xây dựng kiến trúc việc thông gió, thoáng khí cho căn phòng nói chung và căn bếp, khu vệ sinh là những không khí có độ ẩm cao, môi trường hơi khói, thức ăn dễ trở thành nơi lý tưởng cho vi khuẩn phát triển. Việc thông gió để thải độc, làm sạch hạn chế tác động xấu đảm bảo vệ sinh môi trường sống là cần thiết. Kết hợp với tiêu chí tránh cho một căn phòng bị bế khí trong phong thủy, rất cần có thiết kế cửa thoát khí cho căn phòng cuối cùng của căn hộ. Cũng có nhiều cách để làm thoát khí ( khí phong thùy cũng như không khí) như mở cửa sổ, quạt hút gió vào hộp gen kỹ thuật, thậm chí dùng ngay phòng vệ sinh… Nhưng giải pháp để một khoảnh sân trời cuối nhà có vẻ hợp lý hơn cả. Vì vậy chúng tôi gợi ý và đề xuất đến các nhà qui hoạch, kiến trúc sư lưu ý các giải pháp thiết kế, nên bố trí một phần qũy đất để tạo các khoảng sân trời ở cuối những căn nhà hình ống, các căn hộ trung cư liền vách trong xây dựng hiện nay ở các đô thị lớn. 2/ Thoái khí : Có nhiều kiểu thiết kế kiến trúc khiến các phòng vệ sinh, cửa, chậu rửa ….. là nơi gây ra thoái khí cho cả một căn hộ hay một căn phòng. Trong đó mẫu kiến trúc bố trí phòng vệ sinh nằm ngay gần cửa chính ra vào căn hộ là trường hợp vừa gây thoái khí mạnh nhất. Trong một số tài liệu phong thủy trên thị trường, thường có nhận xét các căn hộ có phòng vệ sinh ngay cửa ra vào là không tốt, nhưng không giải thích tại sao. Thực tế xấu là do do phòng vệ sinh ngay kế cửa làm thoái khí. Cứ thử tượng tượng căn nhà như là mảnh ruộng đang tiếp nhận dòng nước tươi mát từ sông chày vào, thế mà ngay ở cửa ruộng lại có một lỗ rò to tướng dốc ra con mương bên cạnh, như vậy nước vào ruộng thì ít thất thoát ra ngoài thì nhiều, ruộng tất khô héo hơn những mảnh không bị rò nước. Tương tự một căn hộ , căn phòng bị thoái khí thì cũng không phát triển tốt đẹp được. Kết hợp với yếu tố vệ sinh, cảm quan việc đặt phòng vệ sinh ngay kế cửa ra vào căn hộ tạo cảm giác không sạch sẽ cho lắm với cả căn nhà. Nên chăng trong thiết kế các căn hộ chung cư, phòng nghỉ khách sạn xin các kiến trúc sư lưu ý vấn đề này. IV - KẾT LUẬN : Bằng những phân tích nêu trên, cho thấy một số phương pháp và tiêu chí để xác định đối tượng của Phong thủy Lạc Việt có tính khoa học là sự thống nhất, có cơ sở bằnglý thuyết toán lý và nguyên tắc cấu tạo kiến trúc trong xây dựng. Việc áp dụng các phương pháp này sẽ loại trừ sự đại khái, mù mờ, lung mung gây bất an cho đối tượng sử dụng cũng như người thực hiện ứng dụng phong thủy. Nhân qua tham luận tại hội thảo này cũng xin đề nghị Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phuơng cùng nhà Nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh ( người có công lớn trong việc phục hồi các phương pháp đã thất truyền của lý học cổ Lạc Việt) công bố xác nhận các phương pháp định tâm và xác định phương pháp rất khoa học này này thuộc về Phong Thủy Lạc Việt. ----------------------------------- (1) Bát trạch chia 2 nhóm người là Đông Tứ mạng và Tây Tứ mạng để ứng với Đông tứ Trạch và Tây Tứ trạch của tám hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc và Tây Nam ứng với 8 quái trong bát quái. Như vậy trong cùng một hướng nhà đất nếu là hướng tốt đối với người Đông Tứ mạng thì sẽ xấu đối với người Tây Tứ mạng và ngược lại.
    1 like