-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 09/08/2010 in all areas
-
Trung Quốc cấm ăn thịt chó Thịt chó vốn là món khoái khẩu ở miền nam Trung Quốc, nhưng một dự luật mới sẽ khiến những người khoái món này chưng hửng. Một nhà hoạt động xã hội vì quyền động vật ở Quảng Đông vừa lập một trung tâm chăm sóc những con chó hoang. Mao Mao, 30 tuổi, cho biết cô dành thời gian để cứu những con vật này thoát khỏi cảnh kết thúc cuộc đời trên đĩa nhậu, CNA cho hay. Mao Mao cũng tìm chủ mới cho các con chó và mở các lớp tăng cường hiểu biết về chó cho người dân địa phương. Hồi đầu năm, Trung Quốc ra dự luật về quyền động vật trong đó cấm ăn thịt chó mèo. Những cá nhân vi phạm sẽ bị tù 15 ngày và nộp phạt 730 USD. Những cửa hàng kinh doanh thịt chó mèo bị phạt 73.000 USD. Tuy nhiên, các nhà hoạt động xã hội Trung Quốc cho rằng mức độ nghiêm khắc như thế vẫn chưa đủ. Họ kêu gọi các chính quyền địa phương ra lệnh cấm người dân giết vật nuôi làm cảnh trong nhà. Trung Quốc có rất nhiều nhà hàng bán thịt chó. Nhiều người dân nước này tin rằng món này giúp giữ ấm cơ thể, tăng chức năng của thận, dạ dày và lưu thông khí huyết. "Thịt chó làm nóng cơ thể và giúp bạn giữ ấm trong mùa đông. Có cả những người ăn thịt chó vào mùa hè nữa", một người đàn ông nói. Quan điểm về việc ăn thịt chó trong giới trẻ rất khác nhau. Một cậu bé cho biết cậu muốn thử món ăn này vì "tất cả mọi người đều làm vậy". Một bé gái nói rằng sau khi xem các chương trình về vật nuôi, cô không muốn ăn thịt chó. "Cháu cảm thấy như phạm tội nếu ăn thịt chó", bé nói. Các nhà hoạt động vì quyền động vật nói rằng dự luật mới cho thấy chính phủ sẵn sàng loại món thịt chó khỏi bàn ăn. Trung Quốc cấm người dân ăn thịt chó trong thời gian diễn ra Olympic Bắc Kinh năm 2008 và hy vọng người dân Quảng Đông cũng thực hiện yêu cầu đó khi tỉnh này chủ trì Asian Games vào cuối năm nay. Tuy nhiên, theo Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, lệnh cấm ăn thịt chó mèo có thể mất cả thập kỷ mới được thông qua. Ngọc Sơn nguồn: Vnexpress.net2 likes
-
Tàu sân bay Mỹ USS George Washington đậu ngoài khơi Đà Nẵng Chủ nhật, 08/08/2010, 13:59(GMT+7) VIT - Bản tin sáng 8/8 của AP cho biết, tàu sân bay USS George Washington - tàu lớn nhất và là niềm tự hào của quân đội Mỹ thuộc biên chế Hạm đội Thái Bình dương đóng căn cứ tại Nhật Bản, đã đỗ lại ngoài khơi Việt Nam, vùng biển giáp Đà Nẵng. USS George Washington. Sự có mặt của USS George Washington, theo AP là một sự kiện trùng với thời điểm Việt Nam và Mỹ kỷ niệm 15 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Nhưng nó cũng thể hiện sự quan tâm đang tăng nhanh của Mỹ đối với tình hình khu vực. Tàu USS George Washington được mệnh danh là một thành phố trên biển, có sức mạnh quân sự thuộc loại hàng đầu trong hải quân Mỹ hiện nay. Tàu có sức chở 70 máy bay chiến đấu các loại, hơn 5.000 thủy thủ và nhân viên, khoảng 1,8 triệu kg bom. Tàu USS George Washington tới Việt Nam ngay sau cuộc tập trận chung kéo dài 4 ngày giữa Mỹ và Hàn Quốc. Cuộc tập trận thể hiện tinh thần đồng đội này xảy ra ngay sau khi chiếc tầu chiến Cheonan nặng 12000 tấn của Nam Triều Tiên bị đánh chìm. Phía Bắc Triều Tiên và Trung Quốc không ngừng lên án cuộc tập trận, và đặc biệt là việc Mỹ đưa tầu USS George Washington tới vùng biển này của Thái Bình Duơng. Không chỉ khó chịu trước việc Mỹ quan tâm đến Biển Đông, báo chí Trung Quốc còn lộ rõ sự khó chịu trước sự kiện bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam, đặc biệt là sự kiện Mỹ và Việt Nam ký kết các thỏa thuận hạt nhân dân sự. Phía Mỹ đánh giá cao tiềm năng khai thác năng lượng hạt nhân dân sự của Việt Nam, nhưng phía Việt Nam cho biết hiện tại chưa có kế hoạch làm giầu quặng của mình. Phản ứng trước việc Mỹ và Việt Nam vừa ký kết bản "Hợp tác hạt nhân dân sự", ngày 7/8, Người phát ngôn bộ ngoại giao Trung Quốc, bà Jiang-Yu, đã cho biết quan điểm của Trung Quốc. Theo bà Jiang-Yu, "Các nước có quyền tự do phát triển và hợp tác đối với vấn đề hạt nhân. Song các bên cần phải có nghĩa vụ trong việc không phổ biến các công nghệ đối với vấn đề này." Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc đang gặp phải những trở ngại do phía Trung Quốc liên tục bắt bớ ngư dân Việt Nam giam cầm đánh đập họ và đòi tiền chuộc khi họ đang làm ăn sinh sống đánh bắt cá trên vùng lãnh hải của Việt Nam, như họ vẫn làm từ hàng trăm năm nay. Những người vợ, mẹ của ngư dân bị Trung Quốc bắt ở Hoàng Sa ngóng chờ tin tức. Ảnh: Trí Tín Sự kiện ngày 8/8, Tàu USS George Washington tới Đà Nẵng chắc chắn kích lệ ngư dân nghèo Việt Nam bám biển làm ăn sinh sống.Theo dòng sự kiện. Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam tháng 1/1974, rồi sau đó từ 1988 đến 1995, chiếm thêm một số đảo đá ngầm thuộc chủ quyền của Việt Nam. Hiện Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố chủ quyền biển theo đường “lưỡi bò” chiếm đến 80% diện tích Biển Ðông. Từ cuối tháng 5/2010 đến nay, phía Trung Quốc đã sử dụng nhiều tàu bảo vệ tiến hành khảo sát địa chấn tại khu vực đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa, và tiến hành san lấp, mở rộng đảo Tri Tôn với mục đích xây dựng công trình trên đảo này. Về sự kiện này, ngày 5/8/2010, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga đã yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt ngay và không để tái diễn các hoạt động vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, góp phần giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông, thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển ổn định, lành mạnh. Tin đăng lại Nguồn tin: Centredaily - Nongnghiep2 likes
-
Sáng nay chủ nhật ngày 8/8/2010 chúng tôi gồm: Yeuphunu, khanhhoang, Anthanh, Thiên Đồng, Trung Nhân, Cháu AnThanh, Wild. đã đến thăm Chị Hà tại Bệnh Viện Chợ rẫy. Chị vừa trãi qua cuộc giãi phẫu cột sống do bướu chèn tủy thần kinh, nhưng theo Chị kể lại vẫn còn nhiều bướu trong người. Hiện Wild sờ vẫn nhận biết được rất to ở ngực. Chúng tôi đã trao tặng Chị 8,000,000 đ(tám triệu đồng) phần nào hổ trợ Chị trong việc điều trị, bên cạnh đó Wild có yêu cầu Anh Tuấn vẽ giúp bản sơ đồ nhà nơi anh ở, có thể chúng ta giúp anh chị nếu phần can thiệp Phong Thủy thay đổi được bệnh tình của anh chị. Wild đã thăm hỏi sức khỏe Chị Hà sau giãi phẩu. Wild trao tặng chút quà hổ trợ điều trị cho bệnh tình của Chị. Anh Tuấn đã trao lá thư cảm ơn Trung Tâm. Anh Tuấn đã kiểm tra số tiền chúng ta trao tặng. Đặc biệt hôm nay chúng tôi nhận được số áo in Logo Trung Tâm LHDP do yeuphunu làm tặng. Chuyến đi từ thiện này đã khai trương số đồng phục này, qua hình ảnh các bạn sẽ nhận thấy chúng tôi một lòng một tâm để đến với những mãnh đời khốn khó.2 likes
-
Khí Công Dưỡng Sinh Từ Thiện Nhằm giúp cho mọi người lợi lạc về sức khỏe, niềm vui và tâm hồn, Khí công sư Bùi Long Thành sẽ trực tiếp phát công và thị phạm hành công trong 2 tuần, từ ngày 16/8/2010 đến 26/82010, tại Tp HCM. Chương trình: Mục đích: Trị bệnh, gia tăng sức khỏe. Hình thức: học tập trung và miễn phí hoàn toàn. Thời gian: Từ thứ 2 đến thứ sáu của 2 tuần 16/8/2010 và 23/8/2010. Giờ học: từ 20g00 đến 21g30. Địa điểm: Nhà thi đấu Rạch Miễu, số 1 đường Hoa Phường, (Đi từ đường Phan Xích Long vô, hỏi tiếp, từ phía chợ Tân Định đi qua). Quý vị biết thông tin này, cũng nên cho những người bệnh, những người muốn cải tạo sức khỏe cùng biết, đây cũng là một cách làm từ thiện cụ thể, lợi lạc cho đồng bào. Thiên Đồng1 like
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Khi Kha Luân Bố dẫn đầu hải đội đi vòng quanh thế giới tìm ra Châu Mỹ bổ sung cho tri thức địa lý của người Châu Âu (Còn người Châu Mỹ thì không cần ông Kha Luân Bố tìm ra mình) thì lúc đó, những kẻ háo danh, hợm hĩnh và bần tiện vì luôn sợ người khác hơn mình lại cho rằng: "Chuyện đó cũng tầm thường, chẳng có gì đáng khen ngợi cả". Kha Luân Bố bèn đố ai có thể để quả trứng đứng trên mặt bàn. Chẳng ai làm được cả. Ông ta bèn đập nhẹ quả trứng cho dập một đầu thế là nó đứng được. Những kẻ phản đối lại nháo nhác lên" Như thế thí ai mà chẳng làm được?". Kha Luân Bố trả lời: "Đúng như vậy! Nhưng vấn đề là nghĩ ra để mà làm!". Qua đó thấy rằng để quả trứng đứng được, nhất là quả trừng sống thì thật là điều kỳ dị. Vậy mà ở Việt Nam chuyện đó thật như cơm bữa. Thiên Sứ tôi chứng kiến không dưới 10 lần. Bài viết dưới đây nói về anh Phạm Khắc Khải (Một hội viên của chúng ta, đã có buổi nói chuyện với học viên lớp Phong Thủy Lạc Việt I và II - có đề mục riêng trên web lyhocdongphuong.org.vn về quả trứng đứng trên.....gương. -------------------------------------------------------------------- Quả trứng đứng không theo quy luật vật lý 06/08/2010 09:20:36 - Việc anh Phạm Khắc Khải làm quả trứng đứng được trên mặt phẳng và áp vong vào để tìm mộ khiến Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người phải chú ý. TIN LIÊN QUAN Dựng quả trứng đứng nhiều giờ trên gương Tận mắt khảo nghiệm “trứng đứng” và uốn dẻo Sau một ngày làm việc tại nhà bà Nguyễn Thị Sim (Thanh Oai, Hà Nội), anh Khải đã thực hiện việc áp vong và tìm được 8 ngôi mộ. Bà Sim chia sẻ: "Tôi chưa bao giờ nhìn thấy quả trứng sống đứng trên gương hay chiếc đũa. Đây là trứng và gương, đũa của nhà nên hoàn toàn tin vào khả năng đặc biệt của anh Khải. Các cháu nhỏ, không bao giờ ra mộ và đương nhiên sẽ không thể "nói dựa" nên những điều đó mình phải tin". Anh Khải cho biết, theo lý thuyết cân bằng, việc dựng quả trứng trên gương là khó, nhưng ở đây là để hướng mọi người chú ý tới một việc gì đó và thành tâm vào mục đích trước mắt... Ông Nguyễn Phúc Giác Hải (Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người): Tiếp tục nghiên cứu Khi biết thông tin về khả năng của anh Khải, Trung tâm đã mời anh tới thể hiện. Tôi không dùng quả trứng và gương của anh Khải, vì sợ một số ý kiến lại cho rằng anh cho hồ, băng dính vào gương để trứng có thể đứng. Tôi đã cho nhân viên đi mua 5 quả trứng gà sống và 2 chiếc gương mới. Anh Khải thắp hương và trong vòng 10 giây đã dựng 5 quả trứng đứng trên gương, mặt phẳng đồng hồ rồi dùng vật nặng gõ vào thành, nhưng trứng không đổ. Để thử nghiệm tiếp, tôi bảo anh dùng quả trứng vịt lộn sống và trứng đã luộc... và tất cả 9 quả trứng đã đứng im hàng giờ trước sự chứng kiến của nhiều người. Đây là hiện tượng phi vật lý và khoa học chưa thể lý giải được, chúng ta không làm được nhưng họ làm được, vậy bí mật nằm ở đâu thì ta phải tiếp tục nghiên cứu. BS Đặng Văn Quế (nguyên chuyên viên pháp y, Bệnh viện Việt Đức): Khi nào mình thấy... mới tin Tôi đã chứng kiến nhiều nhà ngoại cảm và người có khả năng đặc biệt, tôi tin điều họ làm được. Còn lý giải thì thật khó, bởi trình độ khoa học của mình còn khiêm nhường, mà cái gì mình chứng minh được mình mới tin. Việc áp vong vào quả trứng để tìm mộ, hay cho quả trứng đứng... tất cả đều có thể. GS.TSKH Nguyễn Văn Trị (Viện Vật lý Kỹ thuật, Đại học Bách khoa Hà Nội): Quả trứng đứng được khi xác định tiết diện của gương, đũa Theo nguyên lý cân bằng, khi trọng tâm của một vật chiếu và rơi xuống đúng chân đế - gọi là tiết diện thì vật đó sẽ đứng được. Cụ thể, trọng tâm của quả trứng phải chiếu đúng vào tiết diện của gương hoặc chiếc đũa thì nó sẽ đứng được, song đòi hỏi người làm phải thật khéo léo và nếu quả trứng rỗng ruột thì đứng tốt hơn. Còn đây là dụng cụ của mình và quả trứng sống thì đòi hỏi phải khéo léo vô cùng, phải biết xác định tiết diện của vật thể. Điều này cũng lý giải như một số người làm xiếc, họ có thể đi trên dây bởi họ xác định đúng trọng tâm của chiếc dây đó. Phạm Hằng1 like
-
Xét lại vụ án Hoàng đế ... Sử sách Trung hoa ngày nay đều cho rằng : có năm vị vua thái cổ được dân chúng nhắc đến nhiều nhứt, được tôn là Thánh Vương, vì đã có nhiều công lớn trong việc phát minh những điều hữu ích quan trọng để giáo hóa dân chúng. Năm vị Thánh Vương được gọi chung là Ngũ Đế: - Phục Hy - Thần Nông - Hoàng Đế- Đường Nghiêu - Ngu Thuấn. Thần nông còn được biết dưới tên là Viêm đế làm vua năm 2737 trước Tây lịch kỷ nguyên. Hoàng đế nghĩa là Đế màu vàng , màu vàng là sắc ở trung tâm trong ngũ sắc lên ngôi năm 2697 trước Tây lịch kỷ nguyên . Dã sử Trung hoa viết Hoàng đế và Viêm đế có quan hệ thân tộc , vùng đất cạnh lãnh thổ 2 vị có Xuy vưu thủ lãnh của bộ tộc Cửu lê rất hung dữ , xuy vưu toan lấn đất của bộ tộc Viêm đế , Viêm đế cầu cứu Hoàng đế , Hoàng đế đã huy động nhiều bộ lạc theo mình mở trận huyết chiến diệt Xuy vưu , một thời gian sau Hoàng đế chiếm luôn đất đai của Viêm đế thống nhất các bộ tộc lập nên đất nước và dân tộc Trung hoa , diễn biến lịch sử này lướt qua thì có vẻ hợp lý vì Thần nông trị vì chỉ 40 năm thì bị Hoàng đế thay thế ... Chính vì những thông tin lịch sử này mà nhiều tư liệu thư tịch thành văn cũ (ngọc phả, thần tích...) lưu truyền ở Việt nam cho Hoàng đế là tên : trò phản thày tôi thí chúa đã chiếm đất diệt tộc người Việt khi làm ...đảo chánh kết thúc triều Đại Thần nông Viêm đế , sở dĩ vậy là vì truyền thuyết lịch sử Việt nhận Thần nông là cao tổ của dòng tộc mình , đế MINH ông tổ dòng giống Việt được ghi là cháu 3 đời của Viêm đế . Có thực như thế không ? Truyền thuyết trong dân gian cần phải được soi rọi cặn kẽ , xem sét 1 cách tỉnh táo vì có thể ở thời điểm mà câu chuyện được thêu dệt không có những thông tin chính xác thậm chí sai lạc rồi với nhận định chủ quan ...(đó là chưa kể đến dã tâm của kẻ thù) người ta đã dựng nên những chuyện tưởng là đúng nhưng thực ra hoàn toàn sai … rồi cứ như thế với sự cả tin truyền lan mãi trong không gian và thời gian gây ra hậu qủa tai hai lớn lao không lường nổi , những tình tiết liên quan giữa Viêm đế thần Nông với Hoàng đế và đế Minh là 1 thí dụ điển hình cho sự cả tin nguy hại này : Xin hỏi 1 điều : Cứ theo dã sử và những điều đang lưu truyền thì : Người Trung hoa nhận mình là ‘Viêm – Hoàng tử tôn’ tức là con cháu của Viêm đế và Hoàng đế trong khi đó đế Minh tổ của người Việt lại là cháu những 3 đời của Viêm đế ...nên nếu qủa đúng như thế thì hoá ra .... về vai vế tộc Việt là thuộc hàng chút chít của người Hoa à ? Điều kỳ quái này người Việt có thể chấp nhận được hay không ? Soi rọi cặn kẽ 1 chút , cẩn thận tỉnh táo 1 chút : Nhìn vào đồ hình Cửu thiên : Ta nhận ra : chính Cửu thiên của Dịch học là cái nền tạo ra Ngũ đế Trung hoa : Phục hy tương ứng với Thanh thiên . Viêm đế tương ứng với Viêm thiên . Thiếu Hạo tương ứng với Hạo thiên. Xuyên húc tương ứng với Huyền thiên . Hoàng đế tương ứng với Quân thiên . Phục hy người Việt gọi là đế Thần , thần là biến âm của Thìn là con rồng chỉ phương đông , màu xanh , muà Xuân . Sự liên quan :Viêm đế –Viêm thiên , Thiếu hạo –Hạo thiên đã qúa rõ . Xuyên là sông tượng của phương nam theo dịch học , ‘húc’ là biến âm của ‘hắc’ đồng nghĩa với huyền trong Huyền thiên nghĩa là màu đen hay u tối . Hoàng là sắc vàng chỉ trung tâm ngũ sắc tương hợp hoàn toàn với Quân thiên là vùng trời ở giữa . Sở từ viết về ngũ đế cũng đưa ra điều tương tự coi 5 đế là những vua cai quản 4 phương và trung tâm nhưng phương hướng đảo ngược tất cả : Thiếu Hạo (đông) Xuyên Húc (bắc) Hoàng Đế (trung) Phục Hi (tây) Thần Nông (nam) Sách Lã thị xuân thu do Lã bất vi soạn đưa ra 1 bảng chỉ dẫn rõ ràng về sự tương ứng giữa các sự vật xét theo dịch lý , thông tin trong sách có độ tin cậy rất cao vì Lã bất Vi đã cho treo ở chợ và hứa thưởng ...vàng cho bất kỳ ai chỉ ra được 1 chữ sai . Phục Hy , muà xuân-phương đông-màu xanh-số 8 Hà thư –Mộc thần . Thần Nông ; mùa hạ-phương nóng xích đạo –màu đỏ – số 2 hà thư-Hỏa thần Thiếu hạo ;mùa thu – phương tây –màu trắng – số 4 Hà thư- Kim thần . Xuyên húc ; mùa đông – phương đông – màu đen – số 6 Hà thư-thủy thần . Lã thị xuân thu không nói tới Hoàng đế , nhưng căn cứ vào những Dịch tượng thì Hoàng đế có thể biểu thị : Hoàng đế (hoàng –màu vàng) ; mùa : không mùa , phương : trung tâm – màu vàng – số 5 Hà thư – thổ thần . Đối chiếu với cửu thiên thì sự chỉ định của sách Lã thị xuân thu là hoàn toàn tương hợp và kỳ lạ hơn nữa những điều này còn hoàn toàn khớp đúng với truyền thuyết lịch sử Việt . Thanh thiên ; Phục hy - thái Cao – đế Thần . Viêm thiên ; Viêm đế - Thần Nông- Viêm đế còn gọi là đế Khôi .( ? ). Hạo thiên ;Thiếu hạo – thái Khang . Huyền thiên ; Xuyên húc –thái Tiết – Tiên đế . Quân thiên ; Hoàng đế – thái Công – đế Minh . Tại sao tương ứng với 5 thiên thì 4 đế có danh hiệu là Thái nghĩa là thủy tổ ...riêng Viêm đế thì vẫn chỉ là Đế ?, đây là sự khập khiễng và sai lầm rất rõ ; dựa trên Cửu thiên thì vị đế tương ứng với Viêm thiên phải là ‘Thái Viêm - thần Nông’ chứ dứt khoát trong Tam hoàng - Ngũ đế không có ‘Viêm đế’ như những sách Tàu và Ta đã chép . Lầm lẫn Thái Viêm - thần Nông tỉ tổ của người Việt với Viêm đế là anh em cùng cha khác mẹ với Hoàng đế (cả 2 là con của Hùng quốc quân - Thiếu Điển) là 1 sai lầm lớn lao tệ hại vô cùng khiến cổ sử Việt quay 180 ₫ trở thành đầu mối cho những sai lầm chồng chất về sau . Không cần uyên bác thông thái gì cũng có thể thấy : -Xét về Lịch đại : Kết cấu 5 đế trong lịch sử Trung hoa mang tính lịch đại chứ không phài đồng đại , đế muà xuân , đế mùa Hạ , đế muà thu .v.v. rõ ràng chỉ các triều đại tuần tự kế tiếp nhau trong thời gian nên truyền thuyết mới viết Thần nông là con của Phục hy tức có ý nói thời Thần Nông thị kế tiếp Phục hy thị . Căn cứ vào biểu ngũ đế theo lã thị Xuân thu đã được dịch học kiểm chứng trên thì Hoàng đế không thể nào là kỷ kế tiếp Thần Nông được , kỷ của đế mùa Hạ qua rồi buộc phải đến Thu đế , rồi Đông đế kế tiếp chứ không có chỗ cho Hoàng đế chen vào vì vậy không thể có chuyện triều Hoàng đế thay thế Thần nông như sách Tàu viết ...làm nền cho ai đó thêu dệt nên chuyện Hoàng đế phản chủ thí chúa ... -Xét các bước Tiến hoá : Thời Hoàng đế thủy tổ Hoa tộc tồn tại cách nay khoảng 5000 năm là điều không phải bàn nữa , đây là niên đại mọi người mặc nhiên công nhận ; như thế Viêm đế cũng tồn tại trong quãng thời gian này nhưng xét Trong dòng thời gian của lịch sử thì Thần Nông không chỉ có nghĩa là 1 vị vua mà còn có nghĩa là 1 thời đại, thời đại con người bước từ nền văn minh hái lượm sang thời văn minh trồng trọt, khai thác kinh tế sản xuất, có gieo – có gặt , câu ‘Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc’ đã chỉ rõ điều này mà Theo các nghiên cứu khoa học thì thời gieo trồng ở Đông Nam Á bắt đầu vào hơn 10.000 trước Công nguyên. Tiêu biểu cho thời này, khảo cổ học gọi chung là thời văn hóa Hòa Bình tên địa điểm tìm ra di chỉ khảo cổ ; xét ra khoảng lệch 5000 năm giữa 2 thời Viêm đế- Hoàng đế và Thần nông thực trưng ra ở đây là bằng chứng rõ ràng khẳng định : nhân vật Viêm đế đã bị Hoàng đế diệt trong sử Trung hoa không phải là Thần nông cao tổ của người Việt , danh hiệu của Thần nông phải là ‘Thái Viêm’ nghĩa là Thủy tổ tộc người sống ở vùng nhiệt đới –xích đạo , vua Thần nông cũng là nhà phát minh vĩ đại bậc nhất khi đem lại của ăn cho loài người . Sử thuyết họ HÙNG đã chỉ ra : Theo truyền thuyết thời cổ đại nước của người Việt có tới 3 vị đế mang danh hiệu có chữ Viêm (viêm chỉ sức nóng , ngọn lửa) : 1-Thủy tổ Thái Viêm –thần Nông - Hùng Hiển vương . 2-Viêm đế là thủ lãnh của tộc người đã hoà nhập với bộ tộc của Hoàng đế kiến lập Hữu Hùng quốc tức Trung hoa thời xưa . 3-Viêm lang – Hùng Hy vương tức đế Nghi con cả của đế Minh anh cùng cha khác mẹ với Lộc tục trong huyền sử Việt cũng chính là đế Nghiêu của cổ sử Trung hoa. Xét như vậy không thể có vụ án Hiên viên Hoàng đế diệt quốc chiếm dân của vua Thần Nông như đã chép trong 1 số thần tích thần phả Việt , truyền nhân dòng Việt phải tỉnh táo cẩn trọng phân biệt thực hư khi nhìn nhận qúa khứ dân tộc mình . Hữu HÙNG quốc hay nước của người họ HÙNG ghi chép rõ ràng trong cổ sử Trung hoa là 1 bằng chứng sáng gía giúp ‘hiện thực hóa’ truyền thuyết 18 đời Hùng vương của cổ sử Việt , sự kết hợp hoàn chỉnh Hùng vương là vua của Hùng quốc loại trừ hẳn hàng chữ mập mờ vớ vẩn mà nhiều người đã viện dẫn để xác định thời điểm lập quốc của người Việt ‘ ....vào đời Trang vương nhà Chu ...có người dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc chung quanh tự xưng là Hùng vương ....’, Sử thuyết họ HÙNG đã trưng bằng chứng chỉ ra Hùng vương là tổ của cả dòng Bách Việt chứ không phải là tổ riêng của người Lạc Việt và Bách Việt chính là Trung hoa xưa , hàng ngàn năm rồi kể từ khi Mã Viện thu Trống đồng đúc ngựa là mọi chuyện đã lộn ngược ...kẻ cướp biến thành chủ nhân , bao nhiêu điều trái khoáy đã phơi bày mà cả thiên hạ không nhận ra ...kẻ chuyên đi ngựa lại phát minh ra thuyền bè ....chắc dùng để chạy ...trên đồng cỏ hay sa mạc ...Kẻ chưa hề biết đến bờ ruộng nước mà lại tạo ra được chữ ‘Điền’ thì đúng là ‘siêu tưởng’ ...cỡi voi trên bờ Hoàng hà thì đúng là ‘siêu thực’ chỉ có trong chuyện thần tiên ....không ở bên bờ biển Đông thì làm sao có thể tạo ra được quẻ chấn sấm sét và quẻ Tốn gió bão trong kinh Dịch ? làm gì có Rồng lượn trên ngọn cỏ ? hình tượng rồng không thể nào thoát ra khỏi sấm chớp gío bão nơi biển đông được vậy mà... ...đặc biệt hơn nữa đến cả chuyện ông Bàn cổ thủy tổ người Trung hoa cũng phải đi mượn của người phương nam ( chuyện Bàn Hồ của người Dao ) cốt chuyện hoàn toàn là ý rút ra từ vũ trụ luận của Dịch học ...chỉ riêng điều này thôi cũng đã đủ để xem sét lại những thông tin về quê hương của kinh dịch và địa bàn gốc tổ Trung hoa xưa . Trong cái lớn là cả chiều dài lịch sử Việt người viết bài này mong 1 điều nhỏ : xin mọi người bình tâm suy gẫm xét lại vụ án Hoàng đế –Thần Nông tránh sự cả tin vô cùng nguy hại như hiện nay .1 like
-
Lựa chọn là ở quý khách ạ ! Ăn nhậu cũng phải có s-lô-gân nó mới sung Lưu ý đến thế này là cấm có lộn đi đâu được hít Cạnh tranh với toàn tuyến Gà già nấu phở mới ngon ??! Phim Hàn quốc Miễn bình lựng1 like
-
Chiều 18g00, ngày 3/8/2010, Thiên Đồng cùng một học viên của diễn đàn là anh Yeuphunu đến khoa thần kinh ở bệnh viện Chợ Rẫy để thăm một trường hợp khó khăn theo như đề nghị của cô Wildlavender. Chị Nguyễn Thị Hà, 44 tuồi, quê ở Huế, có chồng và 2 con trai, một tên là Cao Xuân Hùng, đang là sinh viên Trung cấp ngành Tài chính ngân hàng, ở Tp HCM, một là Cao Xuân Trung vẫn đang là học sinh lớp 9 ở quê. Trước đây chị Hà là y tá của cơ quan đường sắt Huế, là nguồn kinh tế chính của gia đình. Sau khi phát hiện mình bị ưng thư đa u xơ thì nghỉ việc, vì mất sức và vì phải chăm lo cho chồng cũng bị ung thư. Chồng chị tên Cao Đình Tuấn, 49 tuổi, làm nghề thợ nề, nghỉ làm từ lâu do bị mất sức, vì bệnh ung thư quai hàm và đã xạ trị. Bậy giờ đang chờ hóa trị. Nhập viện liên tục và gia đình trở nên khốn khó túng bấn. Chị Hà cũng thân bệnh ung thư, nhưng liên tục chăm lo cho chồng. Khi căn bệnh trở nên nặng nề chị phải vào nhập viện ở Bệnh viện Chợ Rẫy. Bác sĩ bảo là chị bị ung thư đa u xơ khắp người. Hiện tại mối nguy hiểm lớn nhất là khối u ở ngay xương sống và não. Khối u ở não thường làm chị nhức đầu, chóng mặt. Khối u ở xương sống hay làm chị mệt mỏi, tê bại, nếu không mổ khối u này trước thì rể của nó sẽ chèn tủy sống và dẫn đến liệt nửa ngưới. Vì vậy đợt phẩu thuật khối u này sẽ được thực hiện vào ngày 5/8/2010 này. Nhưng đến giờ chị vẫn không có tiền trang trải cho cuộc phẩu thuật đó. Chị đã đóng trước 6 Triệu đồng cho chi phí phẩu thuật sắp tới nhưng các phần phí khác thì vẫn không có, mọi cái đều bế tắc. Theo như lời chị nói thì đợt mổ khối u ở não nếu có thì chi phí cũng phải lên đến 100 triệu đồng. Trước ngày chị mổ khối u ở cột sống thì chồng chị phải từ Huế vào Tp HCM để chăm cho chị. Hai bệnh nhân chăm cho nhau. Đứa con trai út ở nhà tự lo cho mình. Phòng của bệnh nhân ở thật chật chội. Theo lời chị Hà thì 3 người bệnh chung một giường (loại giường cho 1 người nằm). (?) Chúng tôi đến đó thì có anh Đông là hàng xóm cùng quê với chị ở đó, nhiệt tình đón tiếp chúng tôi và cung cấp thông tin về chị Hà và gia đình. Mong rằng sẽ có những bàn tay thiện, tấm lòng vàng hoan hỉ mà giúp chị Hà qua cơn bỉ cực, khốn khó này. Bệnh nhân Nguyễn Thị Hà bên cái giường dành cho 3 bệnh nhân. anh yeuphunu hỏi thăm tình hình sức khỏe. yeuphunu, chị Hà, con trai lớn, anh Đông hàng xóm. Thiên Đồng1 like
-
Hiểm họa quốc gia: "90% gói thầu trọng điểm rơi vào tay doanh nghiệp Trung Quốc" VITINFO Thứ bảy, 07/08/2010, 06:26(GMT+7) Bà Phạm Thị Loan, Ủy viên Ủy ban tài chính và ngân sách Quốc hội, cho hay "Từ nay đến năm 2025, Việt Nam cần 117 tỷ USD phục vụ cho các công trình xây dựng hạ tầng. Việt Nam cần xây dựng nhiều dự án hạ tầng lớn. Nếu các gói thầu trọng điểm tiếp tục rơi vào tay Trung Quốc thì vấn đề an ninh năng lượng, an ninh quốc gia thực sự đang rất đáng lo ngại," Trong cuộc chạy đua giành giật thị phần, hàng nội vẫn chưa thắng trên sân nhà. Những gói thầu lớn của Việt Nam đều rơi vào tay doanh nghiệp ngoại đặc biệt là các nhà thầu Trung Quốc. Tại hội thảo người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam diễn ra ngày 6/8, bà Phạm Thị Loan đưa ra con số khiến nhiều người giật mình. Theo bà Loan, hiện có tới 90% các dự án tổng thầu EPC (tư vấn, thiết kế - cung cấp thiết bị - xây lắp, vận hành; hay nói cách khác là thực hiện dự án theo phương thức chìa khoá trao tay) của Việt Nam do nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm, trong đó chủ yếu là dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim. Có tới 30 doanh nghiệp Trung Quốc đang thực hiện các dự án trọng điểm quốc gia. Xét riêng về điện, đã có nhiều dự án tỷ USD rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc. Tiêu biểu phải kể đến dự án điện Quảng Ninh 1,2 với giá trị 400 triệu USD, điện Mỹ Tân 2 với số vốn 1,3 tỷ USD, điện Duyên Hải 1 là 4,4 tỷ USD... Theo chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành, nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên là hồ sơ mời thầu các dự án lớn thường được giao cho các tư vấn nước ngoài soạn thảo. Các tiêu chuẩn được đưa vào hồ sơ một cách máy móc, sao chép lại từ các tài liệu được đánh giá là đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy, rất ít doanh nghiệp Việt Nam lọt qua vòng sơ tuyển để dự thầu. Ví dụ như trong lĩnh vực điện năng, ông Thành minh họa, ngoại trừ những trường hợp được chỉ định thầu, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ còn khả năng làm thầu phụ. Thậm chí nếu đơn vị Trung Quốc trúng thầu, doanh nghiệp Việt Nam khó có khả năng làm thầu phụ, vì nhà thầu nước bạn đã cung ứng hầu như tất cả vật tư, kể cả các bu-lông, ốc vít, và lao động phổ thông. "Đối với các gói thầu với quy mô nhỏ, việc soạn thảo hồ sơ mời thầu có phần mềm hơn. Một số doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện để dự thầu lại vướng phải các vấn đề chi phí lập hồ sơ đúng tiêu chuẩn và chi phí quan hệ vô cùng lớn", ông Thành nói. Ông Thành nhấn mạnh, chính việc thất thoát chi phí công có khi lên tới 30%, chi phí quan hệ của Việt Nam lớn đã tạo ra thất thế cho hàng nội hiện nay. Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong, nhà nước cần có quy định cụ thể hơn trong cơ chế đấu thầu, khuyến khích các doanh nghiệp dùng hàng nội. Các chỉ tiêu của hàng Việt cần phải được quy định rõ ràng trong các văn bản, bởi thực tế chưa có tiêu chí rõ ràng về hàng nội và hàng ngoại. Ông Phong minh họa, không ít mặt hàng sử dụng linh kiện ngoại, nhưng lắp ráp ở Việt Nam vẫn được nhiều người coi là hàng nội. Các chuyên gia kinh tế tham dự hội thảo này cũng bày tỏ, việc sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước không được quan tâm đúng mức, khiến hàng hóa nước ngoài thường được ưu tiên sử dụng và doanh nghiệp ngoại có cơ hội thắng thầu. Khi gói thầu lớn rơi vào doanh nghiệp nước ngoài, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ nhập siêu ngày càng lớn hơn. Trong khi đó, nhập siêu là vấn đề lớn nhất của kinh tế trong nước năm 2010. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, 7 tháng qua, nhập siêu hàng hóa đạt 7,4 tỷ USD, bằng 19,4% kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu trong tháng 7 ước tính đạt 1,15 tỷ USD, chiếm 19,8% kim ngạch xuất khẩu, con số này khiến nhiều người lo ngại khi cận kề mức cho phép 20% (chỉ tiêu mà Chính phủ đặt ra). Trong đó, nhập siêu về máy móc lên tới 60-70% tổng cơ cấu nhập siêu. var Theo VnExpress.net Tin đăng lại1 like
-
Đường lối ngoại giao song kiếm hợp bích cứng mềm đều có đủ TQ lập căn cứ tên lửa ở tỉnh Quảng Đông Hỏa tiễn Trung Quốc có thể vươn tới các nước Đông Nam Á Tin cho hay Trung Quốc vừa lập căn cứ tên lửa mới ở phía bắc tỉnh Quảng Đông, với tầm che phủ vươn tới Đông Nam Á, trong khi căng thẳng quanh chủ đề Biển Đông gia tăng. Báo chí địa phương Trung Quốc cho hay căn cứ mới đặt tại khu vực miền núi có tên Thiều Quan và thuộc quản lý của đoàn 96166 binh chủng pháo binh số hai, tức binh chủng chuyên trách hỏa tiễn chiến lược của Giải phóng quân Trung Quốc. Thời điểm thiết lập căn cứ này không được thông báo rõ ràng, chỉ được nói rằng một vài tuần trước ngày Bát nhất (0/08), ngày thành lập Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa. Giới quan sát cho rằng tại căn cứ này quân đội Trung Quốc sẽ đặt các hỏa tiễn đạn đạo DF-21C hoặc hỏa tiễn hành trình tầm xa CJ-10. Cả hai loại này đều có tầm che phủ trên 2.000 cây số, tức vươn tới tận quần đảo Trường Sa. Trong những ngày gần đây, người ta lại thấy căng thẳng gia tăng quanh các bất đồng liên quan tới Biển Đông, nhất là sau khi Hoa Kỳ ngỏ ý quan tâm tham gia tiến trình giải quyết xung đột. Báo chí Trung Quốc còn tiết lộ quân đội nước này đã lập một căn cứ tương tự tại Thanh Viễn, một huyện miền núi khác thuộc tỉnh Quảng Đông, từ hồi tháng Sáu năm ngoái. Viện Nghiên cứu Project 2049 đặt tại Washington DC, Mỹ, trong khi đó cáo giác Bắc Kinh đang có kế hoạch lập một căn cứ hỏa tiễn thứ ba tại Tam Á trên đảo Hải Nam. Hỏa tiễn chống tàu chiến Giới quan sát quân sự đồn đoán căn cứ Thiều Quan có thể được trang bị tên lửa đạn đạo chống tàu chiến DF-21D, có khả năng tấn công tàu thuộc loại lớn như hàng không mẫu hạm. Trung Quốc được cho là đã có trong tay công nghệ, nhưng thực sự nước này đã sản xuất và sử dụng DF-21D hay chưa thì còn chưa ai dám nói chắc. Hoa Kỳ và Liên Xô cũ đã từng có thỏa thuận không sử dụng loại vũ khí này từ hồi Chiến tranh lạnh. Viện Project 2049 nói việc lập căn cứ tại Thiều Quan có thể sẽ gây phức tạp thêm tình hình ở châu Á, "nhất là khu vực Biển Đông". Báo Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng đặt tại Hong Kong trích lời Giáo sư Alexander Huang Chieh-cheng từ Viện Nghiên cứu Các vấn đề Đối ngoại và Chiến lược tại Đại học Tamkang, Đài Bắc, nói các nước Đông Nam Á chắc sẽ lo lắng trước thông tin này. "Mỗi bước tính toán của quân đội Trung Quốc đều có ý nghĩa chiến lược đặc biệt." "Lần này, tôi không cho họ có ý định đe dọa Đài Loan. Tên lửa DF-21 có thể vươn tới nhiều nơi ở Đông Nam Á, nên những quốc gia có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc sẽ cảm thấy bị đe dọa." Chuyên gia quân sự Trung Quốc Ni Lexiong từ Thượng Hải thì được dẫn lời nói các động thái mới cho thấy Bắc Kinh có thể sẽ sử dụng tên lửa trong việc bảo vệ "quyền lợi cốt lõi" ở Biển Đông. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng còn quá sớm để nói liệu việc lập các căn cứ ở Quảng Đông là nhằm vào Đông Nam Á. Theo BBC1 like
-
Người Triều Châu Triều Châu là một huyện của tỉnh Quảng Đông Trung Quốc, bắc giáp Phúc Kiến. Người Triều Châu cổ đại là một phân chi của dân tộc Bách Việt, gọi là người Mân Việt. Theo tương truyền trong gia phả của người Triều Châu ở Phúc Kiến thì tổ tiên họ xưa từ vùng Hoàng Hà (Trung Nguyên ) di cư xuống Phúc Kiến. Huyện lỵ Triều Châu đã hưng thịnh từ rất sớm, thời nhà Tùy là quản hạt của cả Việt Đông ( tỉnh Quảng Đông ngày nay). Người Triều Châu hiện nay có ở Triều Châu, Phúc Kiến, Sán Đầu, Hồng Kông, Áo Môn, Đài Loan và nhiều nơi trên thế giới như Việt Nam,Thái Lan, Sigapo, Malaixia (72-73 vạn người, đứng hàng thứ 4 các sắc dân quốc tịch Malaixia), Indonexia và các nước phương Tây, với tổng số khoảng 20 triệu người và vẫn nói tiếng Triều Châu. Những từ gốc trong tiếng Triều Châu có rất nhiều từ như tiếng Việt (Ví dụ vuông chữ = “vuông dìa”, tắm ướt= “chan ét”, khen= “khẹn”, thím= “thím” …). Người Triều Châu giỏi buôn bán, ở Trung Quốc người Triều Châu được mệnh danh là “Do Thái của Trung Quốc”. Cộng đồng người Triều Châu đề nghị thành lập ngân hàng thương mại cổ phần Triều Châu ở Trung Quốc nhưng chưa được phép vì ở Trung Quốc chỉ có hệ thống ngân hàng nhà nước. Ở Việt Nam thì cộng đồng người Triều Châu có đủ, ngân hàng thương mại, trường học, bệnh viện… và đang xúc tiến lập trường đại học quốc tế. Người Triều Châu di cư ra nước ngoài là từ thời nhà Minh, nhưng ồ ạt nhất là thời nhà Thanh. Sau thời Ung Chính, Càn Long, đời sống xã hội và sản xuất nông nghiệp ở Triều Châu cực kỳ khốn khó, người Triều Châu di cư xuống các nước ĐNÁ làm thuê cho các hầm mỏ đồn điền thực dân, nhiều đến nỗi dân số còn lại ở huyện Triều Châu giảm hẳn, còn 1.405.180 người ( theo thống kê thời Khang Hy 19 , năm 1680, thực tế thì còn khoảng gần 2 triệu người). Đến thời Quang Tự thì dân số ở Triều Châu tăng lên 4.300.000 người. Người Triều Châu có truyền thống trọng chữ Tín, trọng đạo học ( ở Malaixia người Triều Châu thành lập được 39 trường phổ thông, 60% các tác phẩm của người Hoa ở đó là của người Triều Châu), trọng đạo hiếu ( sùng Tổ kính Tiên), một năm có tám Tết lớn để tưởng nhớ tổ tiên: Tết Nguyên Đán có cúng Tổ, ăn tất niên sum họp gia đình, câu đối , đốt pháo, cúng thầy dạy học.Tết Nguyên Tiêu rằm tháng Giêng có treo đèn lồng, thả hoa đăng, dạm mặt, bói đèn.Tết Thanh Minh trong tháng ba.Tết Đoan Ngọ 5 tháng 5 có bánh trôi. Rằm tháng bảy gọi là Tết Phổ Độ ngoài cúng Tổ còn có cúng bố thí cô hồn.Tết Trung Thu gọi là cúng nàng trăng có bánh trung thu, tặng bánh cho thầy dạy học ( “ơn bằng giọt nước, cũng coi bằng suối tuôn mà đáp đền” 滴水之恩, 當涌泉相報 đích thủy chi ân, đương dũng tuyền tương báo) .Tết Đông Chí là một trong 34 lễ thời tiết. Sinh hoạt văn nghệ của người Triều Châu phổ biến nhất là ngâm hát “Triều Châu ca sách”, đã hình thành từ thời Minh, đến nay là 640 năm. Lời ca trong sách chỉ dùng câu 7 chữ (có phải dấu ấn của hệ đếm thất phân từ thời cổ đại?) khi ngâm thì kéo dài âm tiết cuối. Nội dung gồm diễn nghĩa lịch sử, truyền thuyết thần thoại, chuyện dân gian như:Tùy Đường diễn nghĩa,Tam Quốc diễn nghĩa,Thủy Hử truyện, Hàn Tương Tử tam độ Hàn Công Văn,Tô Lục Nương…bài ngắn nhất cũng vài trăm câu, ngâm hát cũng mất 10 phút, bài dài nhất như Song Bạch Yến có tới 29 quyển gồm 4 vạn dòng chứa 30 vạn chữ. Lãn Miên1 like
-
Tính chất đặt quả trứng cân bằng trên gương và cơ chế cân bằng của vị nghệ sĩ này không giống nhau. Mặc dù có những điểm tương đồng.1 like
-
Nên cưới vợ muộn để vợ chồng được bền duyên và hạnh phúc (sau 30). Vợ chồng hòa thuận, giúp đỡ nhau trong công việc, gia đình 2 bên có quen biết nhau từ trước. Khi cưới có chạy tang thì càng tốt. Vợ người hơi thấp, người đầy đặn, khuôn mặt tròn, chân tay ngắn, nước da trắng. Năm nay quen bạn gái có sự ngăn cản của gia đình nên trong lòng có hơi buồn phiền. Cẩn thận trong quan hệ nam nữ nếu không muốn làm ông bố trẻ, còn nếu muốn thì khỏi cẩn thận :rolleyes:. Năm sau có thể chuyện tình cảm nhiều điều không vui, dẫn đến chia tay. 32 tuổi lấy vợ cũng được rùi hen? Nhớ feed back nhé. Thks1 like
-
Chữ "thoại"
Thiên Bồng liked a post in a topic by Lãn Miên
Từ “THOẠI” là từ Việt gốc Hán hay là từ Việt gốc Huế? Lãn Miên. Ngày nay ta quen dùng từ “đối thoại” mà các nhà hàn lâm nói đó là từ Hán-Việt tức từ Việt gốc Hán. Từ “đối” thì trong tiếng Việt, vì có nhiều lối đếm , trong đó có lối đếm “đếch”=0, “đứa”=1 , “đôi”=2, có đôi (như đôi đũa của nền văn minh lúa nước thì ắt có “đối”, Quan Thoại nói “soang” dép chứ không nói đôi dép, còn đôi câu đối thì nó là sản phẩm của chữ Nho, câu đối hay bài thơ Đường mà đang đọc giọng Việt 越=粤 nghe đúng vần điệu vậy mà nếu đọc như giọng Quan Thoại thì chẳng còn gì là luật âm vận cả) vậy “đối” là gốc Việt rõ ràng (tiếng Quan Thoại tương ứng là “líng”=0, “yi”=1, “ar”=2). Còn từ “thoại”? Muốn tìm nó gốc từ đâu ra trước hết hãy hiểu rằng trong tiếng Việt mỗi âm tiết là một từ có nghĩa và nó không phân biệt nó là động từ, tính từ hay trạng từ như trong tiếng Tây, mà nó gì cũng là cả. Ví dụ: “Bác ấy có nói mời cụ sang xơi cơm ạ” = “Bác ấy có lời mời cụ sang xơi cơm ạ” = “Bác ấy có nói lời mời cụ sang xơi cơm ạ” = “Bác ấy có lời nói mời cụ sang xơi cơm ạ”, tức là NÓI=LỜI=NÓI LỜI=LỜI NÓI chứ không phải phân tích “nói” là động từ,"lời" là trạng từ như ngữ pháp Tây. Ta phải đi từ “NA” nghĩa là “nói”,nó là cổ xưa nhất từ thời cổ đại trong từ NÔM NA nghĩa là người Nam nói, tức người Bách Việt ở phía nam sông Dương Tử nói, NÔM NA nghĩa là tiếng người Nam tức tiếng Bách Việt. Từ NA ấy trong tiếng Đài Loan thì gọi là LA, ở Việt Nam nhiều vùng cũng gọi là LA, trong tiếng Nhật thì gọi là HA-NA-XƯ nghĩa là nói, mà khi đem nó VÔ trong nôi Âm Dương của người Lạc Việt (giống cái vật chứa là cái VỎ hình bầu, như cái VÒ chứa rượu, như cái VÓ chứa cá, như cái VŨ 宇 là bầu không gian của vũ trụ chứa hết tất cả, như cái VÚ là bầu chứa sữa nơi người mẹ, như cái RỔ, cái RỌ, cái BỒ, cái TÔ chứa canh, cái MO chửa chứa cái nang cau…) để VO thì nó bị VÒ rụng mất đầu HA và rụng mất đuôi XƯ đi còn lại NA là nói của Bách Việt. NA trong nôi Âm Dương Lạc Việt đẻ ra: NÍN…NẢY-NÒI…NÓI ( NÍN là không nói, NÍN=0, đương nhiên NÓI=1, NẢY-NÒI là khi NA đang tự tách đôi trong nôi, cặp Âm-Dương dính nhau này có nghĩa là “bắt đầu nói”, ví dụ: “mày lại nảy-nòi yêu sách gì đấy?” = “mày lại bắt đầu nói yêu sách gì đấy?”). Vì NA còn gọi là LA, nên LA trong nôi Âm Dương Lạc Việt đẻ ra: LẶNG…LẤP-LỬNG…LỜI (LẶNG là không nói, im lặng, LẶNG=0, đương nhiên LỜI=1, LẤP-LỬNG là chưa rõ vì nó đang còn dính nhau trong nôi, nó chưa hẳn thành lời). LỜI lại đẻ ra: LỊM…LẬP-LỜ…LỐI (LỊM là không nói gì, ngất lịm là ngất không nói gì, LỊM=0, LỐI là "nói rõ ràng từng từ một”, chỉ lối tức chỉ cho rõ ràng từng từ một, đường lối tức đường được nói rõ ràng từng từ một, nói lối hay hát lối là đoạn trong hát trong chèo ,đang hát theo điệu thì đào hay kép chuyển sang nói rõ ràng từng từ một; LẬP-LỜ là nói chưa rõ ràng vì chúng đang còn dính nhau trong nôi, chưa trường thành). Ta có các từ ghép NÓI LỜI=LỜI NÓI= LA LỐI và có từ ghép NÓI LỐI ở khái niệm khác. Nhưng NA còn dẫn đến NHẢ cũng nghĩa là nói, “nhả lời châu ngọc” = “nói lời châu ngọc”. NHẢ đẻ ra: NHỊN…NHẤP-NHỔM…NHẮN (NHỊN là không nói, NHỊN=0, đương nhiên NHẮN=1, NHẤP-NHỔM là đang chuẩn bị nhắn chứ chưa tới nhắn vì nó đang nảy nở trong nôi). NHẮN dẫn đến DẶN đều là các hình thái của nói cả, (chưa kể đến còn NHẮN-NHỦ rồi DẶN-DÒ) và dẫn đến NGÔN viết bằng chữ Nho là 言. NA còn dẫn đến NGẢ nghĩa là nói, “ngả lời chào hỏi” = “nói lời chào hỏi”, “ngả giá bao nhiêu” = “nói giá bao nhiêu”. NGẢ đẻ ra: NGẬM…NGẬP-NGỪNG…NGỎ (NGẬM là không nói, NGẬM=0, đương nhiên NGỎ=1, “ngỏ lời mời” = “nói lời mời”; NGẬP-NGỪNG là rất muốn NGỎ nhưng vì đang còn trong nôi chưa lớn tới NGỎ). NGỎ đẻ ra: NGHẸN…NGỌNG-NGHỊU…NGỮ (NGHẸN là không nói, “nghẹn giọng” là không thành tiếng, “nghẹn lời” là không thành lời, NGHẸN=0, đương nhiên NGỮ=1=nói, NGỌNG-NGHỊU là chưa nói được rõ lời vì nó đang còn nằm trong bọc nôi. NGỎ là nói, nó còn dẫn đến là “GÔ” trong tiếng Nhật, là “GÍ” trong tiếng Đài Loan, là GỌI trong tiếng Việt, và tất cả các âm tiết ấy đều viết bằng một chữ Nho là NGỮ 語. "Ni-hon Go" 日 本 語 là Nhật Bản Gọi tức Nhật ngữ, "Đài Gí" 台 語 là Đài Gọi tức Đài ngữ,cũng còn gọi là "Đài la" 台 罗. Đến đây thì ta thấy rõ là NGÔN NGỮ=LỜI NÓI=NGỮ NGÔN=NÓI LỜI là do từ NA của Bách Việt mà ra, NGỮ NGÔN 語 言 là từ Việt gốc Bách Việt ,chứ không phải là từ Hán- Việt như vẫn quan niệm.(Quan Thoại dùng hai chữ đó 語 言 và phát âm là “ủy yán”). NA còn dẫn đến THẢ cũng là nói, “thả lời ong bướm” = “nói lời ong bướm”. THẢ đẻ ra: THÍT…THẦM-THÌ…THÓI (THÍT là không nói, “nín thít”, THÍT=0, THÓI là nói, “thói hư tật xấu” = “nói thì không đúng, hành vi thì xấu”, “quen tật quen thói” = “quen hành vi và lời nói”, THẦM-THÌ là nói rất nhỏ vì đang còn nằm trong bọc nôi. Từ THÓI nầy người Huế phát âm là “thoái”, cũng như từ NÓI thì họ phát âm là “noái”, lại do giọng nặng nữa nên thành ra “thoái” họ phát âm ra “thoại”. Vào kinh đô Huế đi thi mà thầy phát âm là “thoại” thì trò cũng phải cắn răng mà theo không thì rớt điểm, bởi vậy mới có chữ 話 là lời nói bị phát âm là THOẠI . Đó là một từ Việt gốc Bách Việt mà phát âm theo giọng Huế. THÓI đẻ ra: THIN…THỦ-THỈ…THỐT (THIN là không nói, “im thin thít”, THỦ-THỈ là nói nhỏ vì còn trong nôi, THỐT là nói, “biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”). THỐT đẻ ra: THINH…THẼ-THỌT…THUYẾT (THINH là không nói, làm thinh, lặng thinh; THẼ-THỌT là nói nhỏ vì đang còn trong nôi, THUYẾT là nói dài dòng). Chữ THUYÊT 說 là một từ Việt gốc Bách Việt. Người Quan Thoại dùng chữ THUYẾT THOẠI 說 話 là hai chữ Nho và họ phát âm là “sua họa” nghĩa là nói lời. THUYẾT đẻ ra: THÔI…THỎ-THẺ…THÉT (THÔI là không nói nữa,THÔI=0, đương nhiên THÉT=1=nói to, còn THỎ-THẺ là nói còn nhỏ vì nó đang còn dính trong nôi). Hóa ra những từ mà người ta vẫn gọi là từ Hán- Việt lại là từ do Nôm na mà ra vì chữ Nôm có trước chữ Hán. Trong bảo tàng Cố Cung ở Bắc Kinh Trung Quốc có một bản đồ minh họa khởi nguồn văn tự toàn thế giới, trong đó chữ viết sớm nhất là chữ Ai Cập. Chữ Hán đến năm 1300 BC mới có, đến nay mới được 3300 năm, tức là 1300 BC về trước thì mới chỉ là sử tiền sử vì chưa có văn tự. Nhưng chữ Hán là trên nền của chữ Nho. Khổng Tử là người đầu tiên dùng chữ Hán viết nên bộ sách sử đầu tiên gọi là “Xuân Thu”, Ông sinh năm 551BC, mất năm 479 BC, tức Ông sinh ra cách nay khoảng 2600 năm. Ngược về trước,thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, Nghiêu, Thuấn … là lịch sử của Bách Việt . Chữ khoa đẩu và chữ rắn thì ngày nay mới sáng tỏ ra là nó có cách nay 5000-6000 năm, sau nó là chữ Nho. Lãn Miên1 like -
Tận mắt khảo nghiệm “trứng đứng” và uốn dẻo 05/08/2010 06:25:36 - Cuộc khảo nghiệm về những người có khả năng đặc biệt đã được báo Khoa học & đời sống và Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người tổ chức sáng 4/8. 4 nhà ngoại cảm đã thể hiện khả năng đặt các quả trứng đứng trên gương phẳng và gương nghiêng, 15 độ mà trứng không đổ. Em Đặng Sử Bắc thể hiện khả năng uốn dẻo, lái xe, chữa bệnh… dù không qua trường lớp nào. Chứng kiến cuộc khảo nghiệm là TS Hoàng Thị Dung, Giám đốc Trung tâm Medicare Hà Nội, ông Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc UIA, Ông Nguyễn Phúc Giác Hải, Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người, Nhà ngoại cảm Doãn Phú chủ nhiệm Tiểu ban Phong Thủy, bộ môn Thông tin dự báo, Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, phóng viên Nguyễn Hằng- Báo Lao động, Nguyễn Thành- VTC, Hiền Lê VTC News… Màn 1: Dựng đứng trứng trên mặt phẳng Nhằm tránh tình trạng cho rằng, trứng sống có khả năng cân bằng nên ngoài trứng gà, trứng vịt sống, trứng gà, vịt luộc chín, trứng vịt lộn sống và chín cũng được chuẩn bị. Bốn nhà ngoại cảm Phạm Khắc Khải, Trần Văn Lưu, Nguyễn Văn Thỉnh, Nguyễn Cường đã dựng được tất cả các loại trứng đứng được trên gương, trên đĩa, thậm chí đứng cả trên gương nghiêng. Anh Nguyễn Cường với những quả trứng bị dựng đứng Anh Phạm Khắc Khải, cho biết, anh đã làm được điều này từ hơn 10 năm nay. Anh khẳng định: “Tôi không thần thánh hoá quả trứng nhưng khi dồn tâm vào thì làm được". Nhà ngoại cảm Trần Văn Lưu thì nói, hơn 10 năm miệt mài làm “đài báo bão” cho ngư dân đi biển mà không thu được sóng của Đài Tiếng nói VN – một công việc tự phát và không tính toán, bỗng dưng tôi phát hiện ra mình có khả năng tìm bia cổ và dự báo tương lai. Việc dựng trứng là một trong những khả năng để tôi tiếp xúc với những người ở thế giới bên kia. Màn 2: Tại buổi khảo nghiệm, trên một chiếc bàn dài và hẹp, em Đặng Sử Bắc đã trình diễn khả năng uốn dẻo của mình với “đôi chân lạ” Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cho biết: Chân em Đặng Sử Bắc trước đây như củ khoai lùi, nó cháy xém, đen nhẻm. Hơn 10 năm chữa trị các nơi không khỏi. Em được nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lưu chữa trị. Bản thân em cũng tự xoa vào đầu gối và thấy đỡ. Một lần, đang ở viện điều trị chân, em đã dùng tay xoa cho 1 bệnh nhân trong viện, bệnh nhân này sau đó khỏi bệnh, từ đó nhiều người tìm đến nhờ em xoa giúp. Nhóm PV1 like
-
Dựng quả trứng đứng nhiều giờ trên gương 04/08/2010 20:50:36 - Trong một lần đến Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người, ông Nguyễn Phúc Giác Hải đã kể về trường hợp của anh Phạm Khắc Khải có khả năng cho quả trứng đứng trên mặt phẳng như gương hàng giờ đồng hồ , một việc phi vật lý mà hiếm ai có thể làm được. Tò mò trước lời kể của ông, tôi đã tìm đến nhà anh Khải để "mục sở thị". Từ bộ đội, nhà điều hành du lịch... Qua nhiều lần hẹn, cuối cùng tôi cũng gặp được anh Khải trong căn nhà nhỏ tại phố Quan Nhân, Thanh Xuân, Hà Nội. Mở đầu câu chuyện về cuộc đời mình, anh kể: "Đời tôi lắm truân chuyên, từng làm nhiều nghề, nhưng không thành. Như ai mách bảo, xui khiến khiến tôi trở thành như ngày nay.... Nhà tôi cả họ nội và ngoại bị mất 13 ngôi mộ, đã có lúc tôi nghĩ phải chăng chính điều này khiến tôi làm ăn không thuận lợi? Đau đáu trước việc tìm kiếm mộ các cụ và tự nhiên có linh tính nào đó mách bảo cho tôi nơi các cụ yên nghỉ. Tôi không tin vào những điều mình cảm nhận được, tôi lặn lội tới nhờ nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên (Tứ Kỳ, Hải Dương) vẽ sơ đồ tìm mộ cho gia đình. Đối chiếu lại những gì suy đoán, cảm nhận của tôi là chính xác. Từ đó tới nay đã khoảng 15 năm, tôi thấy những gì mình nghĩ, mình thấy đều đúng và cũng từ đó niềm yêu rồi tới ham đọc, tìm hiểu trên các phương tiện thông tin đại chúng, tôi thấy mình có năng lượng bằng tay, cảm nhận được vùng đất tốt qua đôi tay. Vì có người tin, người không và để chứng minh cho mọi người, tôi đã tự học môn cảm xạ học và mua đồ như đũa, con lắc, sơ đồ bovis... áp dụng theo. Đây là các dụng cụ mà ở Pháp dùng để đo đạc phong thủy, bệnh tật trong con người... Khi thấy đất xấu tôi hóa giải bằng thạch anh, với điều kiện đá phải được truyền năng lượng, những năng lượng tốt thu từ vũ trụ... ...đến việc làm được điều kỳ diệu Theo chân anh Khải, tôi được mục sở thị cách áp vong vào quả trứng để tìm mộ. Tháng 7/2010, gia đình bà Nguyễn Thị Sim (Thanh Oai, Hà Nội) mời anh Khải về tìm mộ. Anh yêu cầu bà Sim viết danh sách những ngôi mộ bị mất. Sau đó, anh lấy chiếc gương cùng quả trứng mà con gái bà Sim vừa mua về và dựng quả trứng đứng thẳng chỉ trong vòng 3 giây... Quả trứng và chiếc gương do PV mua để anh Khải làm thí nghiệm. Chỉ sau khoảng 5 phút, bất chợt con, cháu gái, cháu nội và em dâu của bà Sim tự nhiên mê, khóc... Anh Khải cho biết, các cụ đã về áp vào con cháu. Người nhà bà Sim ra hỏi cụ tên tuổi, một số việc riêng của gia đình để kiểm chứng. Sau khi "vong" chỉ nơi chôn, mọi người đưa vong (người nhà bị nhập) ra đồng và chỉ ngôi mộ mình nằm. Khi đó, anh Khải cắm chiếc đũa và quả trứng sống của nhà bà Sim mang theo, quả trứng nằm trên chiếc đũa, điều đặc biệt khi anh Khải nói: Nếu là các cụ nhà mình thì hiển linh báo cho con cháu biết, lập tức quả trứng chuyển sang màu hồng... Theo sự chứng kiến của tôi, người nhà bị áp vong vào có người nói được, có người chỉ mê và khóc. Anh Khải bảo: "Những người này không hợp các cụ hoặc gia đình chưa nhất tâm...". Phạm Hằng1 like
-
Tất cả học Viên của Khóa I,II,III đã hoàn thành lớp PT Cơ bản đủ điều kiện để đăng ký lớp nâng cao.1 like
-
Hai người dân ở Lục Yên, Yên Bái tìm thấy hai thanh kiếm cổ. Một tìm thấy trong hang trên núi Chuông. Một tìm thấy ở dòng suối trên núi Lung Chạng. Từ ngày tìm thấy hai thanh kiếm ấy, hai người này gặp phải nhiều chuyện bí ẩn chưa thể giải thích nổi. Kiếm người âm hại người dương Một cán bộ xã Tân Lĩnh dẫn tôi đến gia đình bà Nguyễn Thị Hoa. Bà Hoa cho biết: Vào năm 2004 chồng bà là Đỗ Văn Ngự đã tìm thấy thanh kiếm cổ trong hang đá trên núi Chuông. Ông Hoàng Ngọc Chấn, chủ tịch UBND xã Tân Lĩnh cho hay: Dưới chân núi Chuông có làng Chuông, tên này không biết các cụ đặt từ bao giờ. Làng Chuông có 3 thôn: Hin Chạng, Roong Chuông và Chuông ính. Bà Nguyễn Thị Hoa, vợ ông Ngự tâm sự: Tôi chưa được tận mắt nhìn thấy thanh kiếm cổ mà ông nhà tôi tìm thấy trong hang đá trên núi Chuông, chỉ được nghe ông ấy kể lại: Hôm ấy một mình ông vào trong hang đá, vì nghe mọi người nói trong hang đá người xưa để rất nhiều đồ thờ cúng. Ông ấy vào trong hang đá để tìm các đồ cổ bán kiếm tiền. Núi Chuông - nơi ông Đỗ Văn Ngự đã tìm thấy thanh kiếm cổ trong hang đá.Hang đá nằm trên lưng chừng núi và rất sâu, trên làn đá cao thấy nhiều đồ cúng như bát đĩa, bình hương... ông ấy chỉ lấy mỗi thanh kiếm mang về. Vốn nhát gan nên không dám mang về nhà mà đưa cho hai người tên là Hải và Hoà cất giữ. Tôi cũng chả biết hai người bán được bao nhiêu, nghe nói có cho ông Ngự nhà tôi mấy chục ngàn. Từ sau khi nhặt được thanh kiếm đó, tiền chẳng thấy đâu còn gia đình tôi thì gặp bao nhiêu là chuyện chẳng lành: Trâu đang buộc trong chuồng tự nhiên sùi bọt mép lăn đùng ra chết, lợn gà chết dịch không còn một mống. Ông nhà tôi thì đổ đốn ham mê cờ bạc, rượu chè. Tìm được thanh kiếm năm trước thì năm sau ông ấy bị ngã bệnh mất. Bệnh viện bảo ông ấy chết vì bệnh phổi. Đứa con gái lớn nhà tôi đang yên đang lành thì bị một thằng đàn ông đã có hai con lừa làm vợ. Lại còn lừa vào tận trong Nam, nuôi con nó công cốc, còn mình thì chẳng sinh nở gì. Năm rồi nó bỏ ra đây rồi xin vào làm trong Công ty Hùng Đại Dương. Vào đó làm một thời gian rồi "xin xỏ" mãi mới kiếm được thằng cháu trai này bác ạ. Khổ quá, chả biết nói thế nào cho hết được nỗi khổ. Người trời mách nước tìm kiếm cổ Anh Triệu Văn Chanh, dân tộc Tày thôn Thâm Luy, xã Lâm Thượng là người tìm thấy thanh kiếm cổ thứ hai. Ông Hoàng Văn Thành, phó chủ tịch UBND xã dẫn tôi đến nhà anh Chanh, ông cho hay: Tôi với anh Chanh là anh em họ đấy. Năm ngoái anh Chanh tìm thấy thanh kiếm cổ khi lúa đã xanh đồng. Anh Chanh đi vào Nam làm ăn từ trước Tết, chỉ có mình chị vợ ở nhà thôi. Chị Nguyễn Thị Lúi vợ anh Chanh bảo, anh Chanh đi đâu làm ăn từ năm ngoái, Tết cũng không về. Nghe nói anh Chanh có một lần gọi điện về nhà người anh em, nhưng máy khoá hai chiều nên chẳng nghe được gì cả. Anh Chanh không gửi tiền cho gia đình. Thanh kiếm cổ thứ hai.Tôi hỏi việc anh Chanh tìm được thanh kiếm cổ như thế nào, ở đâu? Chị Lúi bảo: "Chả biết thế nào đâu! Hôm ấy ngủ dậy nó chuẩn bị đồ để đi đâu đó. Tôi hỏi đi đâu thì chỉ bảo: Tôi đi có việc đừng hỏi làm gì. Thế là nó đi lên núi Lung Chạng trên kia đấy. Cũng chả biết nó lên đấy làm gì, hôm trước nó cũng đi lên đấy rồi. Sau khi lấy được thanh kiếm về nó mới kể cho mọi người nghe, đêm trước nó nằm mơ gặp được ông tổ họ Triệu, râu tóc bạc phơ như người trên trời. Ông tổ mách trên thát (thác nước trên cao) ở chỗ cao nhất có rùa vàng. Cụ tổ bảo nhìn kỹ mới thấy, nếu thấy con thứ nhất rồi sẽ thấy con thứ hai, con thứ ba. Nó mang về rửa, thấy mọi người trong thôn tới xem đông lắm, vợ bảo vứt đi. Nó lại mơ nhặt được chiếc bật lửa to bằng vàng, cụ tổ bảo không được vứt đi... Sáng hôm sau nó dậy một mình đi lên núi, tìm mãi không thấy rùa vàng, nó cạy hòn đá thì thấy thanh kiếm nằm ngang suối. Nó mang về đến nửa đường sợ không dám mang về mà giấu vào bụi cây, nói chuyện với em chú và dượng của nó. Mọi người bảo cứ mang về đi, hôm sau nó mới lên núi mang kiếm về, đặt ở đây mọi người đến xem đông lắm. Em không dám động vào thanh kiếm, sợ mà..." Chém đá, lưỡi kiếm không quằn Ông Nguyễn Quang Long, phó phòng Văn hoá huyện Lục Yên kể lại việc đi thu chiếc kiếm cổ do Triệu Văn Chanh tìm thấy: "Nghe cậu Chanh nói chuyện, tôi thấy anh ta đầu óc có vẻ không bình thường. Anh ta kể lại việc tìm thấy thanh kiếm qua giấc mơ, khi lấy được về có người ở thị trấn Yên Thế trả 30 triệu đồng, anh ấy và dòng họ không bán, bảo để giữ lại. Sau đó lại đồng ý cho huyện mang về bảo tàng..." Thanh kiếm cổ tìm thấy ở núi Chuông dài chừng 80cm, bản rộng gần 3cm, đã mất chuôi, nước thép còn rất tốt, người ta đã thử chém vào đá nhưng lưỡi kiếm không quằn, không mẻ. Lưỡi kiếm tìm thấy trên thác nước núi Lung Chạng, dài chừng 1,2m, giống thanh long đao, bản kiếm chỗ rộng nhất gần 5cm, có hai đường rãnh chạy song song dọc thân kiếm, gần chuôi có khắc chữ nổi, nhưng do để lâu trong nước bị han gỉ nên không nhìn rõ chữ, trên sống lưng có mấu như vây cá, chuôi bằng gỗ bọc thép, lớp gỗ bên trong một phần đã mục, phần còn lại thì vẫn rất chắc, kiếm nặng khoảng 3kg. Cho đến lúc này hai thanh kiếm chưa được các nhà khoa học giám định, nên không biết nó xuất hiện từ thời nào. Quanh chuyện hai thanh kiếm cổ tìm thấy ở Lục Yên có nhiều điều bí ẩn. Núi Chuông đứng độc lập giữa cánh đồng. Vì có hình dáng như quả chuông nên người dân mới gọi là núi Chuông. Một số người dân tộc Tày cho biết, trên núi Chuông có hang đá khá sâu, khi gió thổi qua tạo thành âm thanh nghe binh bong tựa như tiếng chuông chùa. Tiếng Tày còn gọi núi Chuông là Đán Đình, nghĩa là nơi thờ cúng của người dân. Các cụ từ xa xưa truyền lại: Núi Chuông là nơi thờ tự rất linh thiêng, bất kể ai đi qua núi Chuông đều phải hạ nón mũ, cũng như khi đi qua núi Vua Áo Đen, nếu ai không hạ mũ nón ắt sẽ gặp chuyện chẳng lành.1 like
-
Đi nhà hàng, ngắm cổ vật Đông Sơn 12 chiếc trống đồng lớn nhỏ, có trống còn nguyên vẹn, có trống đã mất một phần tang trống hoặc sứt chân. Có trống được cho là có niên đại 2.000 năm, có trống 2.200 năm và có trống tới 2.300 năm. Chúng được trưng bày trong một “nhà hàng - bảo tàng” chưa từng có ở Hà Nội. Ngoài cả tá trống đồng, bộ sưu tập này còn bao gồm hàng trăm cổ vật được cho là có niên đại trước cả văn hóa Đông Sơn, từ Phùng Nguyên đến Đồng Dậu, Gò Mun. Đó là hàng trăm di vật như rìu đá, đồ trang sức: vòng tay, hoa tai, bùa và dao đeo cổ. Có di vật nhỏ xíu như kim đá, lưỡi câu đồng. Có di vật tinh xảo nhỏ xinh như vòng đeo tay, đeo chân và trâm cài tóc, khuyên tai. Có di vật tinh xảo nhưng lớn hơn như tượng người nam nữ hoặc dao găm có cán khắc tượng người đàn bà mặc lễ phục và đeo hoa tai, dao găm có cán khắc tượng hai người đàn ông cầm đèn, dao găm có cán khắc tượng người đàn bà cõng người đàn ông, dao găm có cán khắc tượng người đàn ông cầm rìu và thổi kèn. To hơn thì là lẫy nỏ, chuông đồng, tấm che ngực, dao ngọc, kiếm ngọc. Chủ nhân của bộ sưu tập, ông Nguyễn Đại Dương - Giám đốc nhà hàng Trống đồng Đông Sơn (số 1 Trần Đăng Ninh, Hà Nội) đều nhờ đến sự cộng tác của các chuyên gia trong ngành khảo cổ học để xác định niên đại của từng trống đồng cũng như các di vật khác. Ông đã có một “thông báo” chính thức, kêu gọi sự góp ý của những ai quan tâm tới cổ vật thuộc nền văn hóa Đông Sơn: “Để đảm bảo uy tín của nhà hàng cũng như sự trưng bày cổ vật được khách quan trung thực. Chúng tôi kính mong quý vị giám định cổ vật được trưng bày tại nhà hàng. Nếu quý vị chứng minh được hiện vật nào là giả cổ, chúng tôi xin kính biếu 10.000 USD cho mỗi hiện vật được chứng minh là giả cổ (với bằng chứng khoa học hoặc vật đối chứng cụ thể). Thời gian nhà hàng hỗ trợ quý khách giám định cổ vật từ 15 - 20 giờ các ngày trong tuần (trừ chủ nhật và ngày lễ)”. Chỉ là bộ sưu tập của cá nhân và những cổ vật được trưng bày gói gọn trong một không gian cũng tư nhân song đa dạng và trân trọng nên nhà hàng Đông Sơn thu hút nhiều sự quan tâm của những nhà khảo cổ và giới nghiên cứu sử học. Tất nhiên bộ sưu tập làm nhiều người bất ngờ. PGS.TS khảo cổ học Lâm Thị Mỹ Dung - Giám đốc Bảo tàng Nhân học cho biết bộ sưu tập này “đẹp, độc đáo, nhiều hiện vật lần đầu tiên được nhìn thấy”. Bà chỉ lưu ý những chỉ dẫn về niên đại cần cẩn trọng, đặc biệt cần xem xét kỹ hơn về niên đại và xuất xứ của hiện vật đá tiền Đông Sơn. Chú thích niên đại của nhiều hiện vật cũng làm TS. Bùi Văn Liêm, Thư ký Hội đồng khoa học - Viện Khảo cổ học có lưu ý tương tự sau khi nhận xét: “Trang trí xếp đặt hiện vật chứng tỏ chủ nhân có đầu tư lớn và tham khảo nhiều bảo tàng trên thế giới. Sưu tập hiện vật nguyên vẹn, đẹp song cần đầu tư nghiên cứu thêm về niên đại”. PGS.TS khảo cổ Phan Minh Huyền cũng khuyên: “Để thật chính xác về niên đại và giá trị của từng hiện vật, nên chia thành từng nhóm đồ và nhờ các chuyên gia giám định”. PGS. TS Trịnh Sinh - Viện Khảo cổ học cũng chân thành khen “nhiều hiện vật quý giá” nhưng “cần giám định lại một số hiện vật”. Nhiều chuyên gia cũng tỏ ý sẵn lòng giúp vị chủ nhân ngoại đạo với ngành khảo cổ và cổ vật giám định hiện vật. Chẳng hạn TS. Nguyễn Văn Việt - Giám đốc Trung tâm tiền sử Đông Nam Á ngỏ ý: “Nếu cần, tôi sẵn sàng giúp giám định các hiện vật đồng Đông Sơn và gốm các loại”. TS.Ngô Thế Phong, chuyên gia về thời đại đá, nhà khảo cổ - Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng sẵn lòng giúp giám định, thời gian do chủ nhân bộ sưu tập tự bố trí. Ông Nguyễn Đại Dương vẫn đang âm thầm sưu tập thêm những cổ vật Đông Sơn, tiền và hậu Đông Sơn với một niềm tin mãnh liệt: “Có thể mất hàng năm, chục năm hoặc lâu hơn nữa để chứng minh những cổ vật bằng đá được trưng bày trong bộ sưu tập cá nhân của tôi là của tổ tiên người Việt thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Dậu, Gò Mun - chính là nền tảng hun đúc nên nền văn minh Đông Sơn, nền văn minh đánh dấu sự ra đời của nhà nước Văn Lang Âu Lạc, nhà nước đầu tiên của các vua Hùng. Nhưng tôi luôn tin rằng chân lý vẫn đang ở phía trước, và những cổ vật trong bộ sưu tập này sẽ cất lên tiếng nói về giá trị lịch sử của nó”. Hải Nguyệt Việt Báo (TheoThanhNien)1 like
-
Thương thì chưa đủ Xót nữa anh ạ! Cuộc sống miền cao đã tạo nên suy nghĩ lớn lên với núi rừng với cái gùi trên lưng thì không cần cái chữ để làm gì? cái ăn lo trước đã... Gởi thêm đến ACE quan tâm! Cháu bé áo vàng đeo vòng cổ (con chủ tịch xã) mà còn ốm đói như thế! Thử hỏi các cháu khác (con dân) thì thế nào nhỉ?1 like
-
Tiếp xúc với các Cô phụ trách, Wild thật ngỡ ngàng với những câu chuyện từ môi trường giáo dục ở vùng cao đầy nắng gió này. Cả xã chưa nhà nào có cái tivi, một tiện nghi phổ thông so với người dân thành phố thì ở đây là niềm mơ ước của các Cô để dỗ trẻ đến trường. Dí dỏm hơn nữa là ngày Thầy cô 20/11 các em còn được phụ huynh khuyến khích đến trường mong có tí quà bánh gì từ các Cô? Các Cô Giáo ở đây đã quen với điều kiện nghịch lý này nên trích tiền túi mua cho các cháu ít quà bánh ngọt, khác với những thức ăn thường ngày khoai, sắn, bánh tráng và bắp để mong các cháu hứa với cô sẽ đến trường. Ngược với hình ảnh ở đây, TP HCM hay các tp phát triển khác vào ngày này ngành giáo dục luôn được tri ân hoa, thiệp và những món quà giá trị để thể hiện tình cảm của phụ huynh dành cho giáo viên. Nhưng các Cô đã thật thà bày tỏ: Chúng tôi chỉ muốn các em đừng bỏ học đừng bỏ con chữ để cuộc đời được thay đổi. Cái truyền hình của Trung tâm tặng đã là điều kiện tốt nhất để lôi kéo các em. Và tôi chợt có so sánh nếu các bạn nào trong ngành này ở tp thường xuyên ta thán cảnh kẹt xe hãy đến với các em nơi này :) . Tha hồ thông thoáng về giao thông và cần có tấm lòng. Hình ảnh tổng hợp số quà tặng. Trong đó còn có 1 tivi 17 incn, một cassette, một ấm nước đun nhanh và thùng đồ chơi của gia đình Compack gởi tặng. Cô hiệu trưởng và cô hiệu phó đã nhận quà tặng của trung tâm. Số quà trao tặng được mua gồm có: 2 Tivi LG 29 inch. 60 bộ quần áo, 200 khăn lau mặt cho trẻ em, 4 bộ móc nhựa phơi khăn. Cô Hiệu trưởng đã xem số khăn dành cho các em. Bên cạnh là Tivi và Cassette được tặng kèm theo quà của Trung tâm. Người đã giới thiệu ngôi trường này đến với chúng ta, anh đã đóng góp một phần công sức cho chuyến đi này được trọn vẹn, anh đang lắp ráp tivi để các cháu được thưởng thức ngay phần quà của mình. Cô hiệu trưởng đã mời được một số giáo viên và học sinh, cùng với Wild có một ảnh kỷ niệm Được ngồi xem ti vi, trên khuôn mặt các cháu thể hiện sự lạ lẫm khi lần đầu tiên được tiếp xúc với phương tiện truyền thông này. cô hiệu trưởng đang viết lời cám ơn Cô hiệu trưởng chuyển phong thư cám ơn đến trung tâm. Hóa đơn mua quà tặng cùng thư cám ơn sẽ được post lên vào ngày mai.1 like
-
Thưa chị, Công việc của chị thì từ nay đến 33 tuổi tốt, có tài lộc. Nhưng từ 34 trở đi sẽ thay đổi công việc, việc sẽ nhiều hơn, không an nhàn như hiện nay. Số này công việc thì hay phải đi xa, trong công việc thì không thể nói là xuôi chèo mát mái được, hay gặp họa trong công việc. Tuy nhiên, số này ra ngoài xã hội lại khá tốt, có quý nhân giúp đỡ - âm phù, dương trợ, gian nan vượt qua được, dù có trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Huyencodieuly1 like
-
Quán vắng!
Thiên Đồng liked a post in a topic by Rin86
Có hai dịp nhà Rin86 được ứng nghiệm phong thủy Lạc Việt. Đó là lần đầu tiên sư phụ Thiên Sứ ghé nhà Rin86 chơi, thấy cái cây (cây gì đó lá nhọn nhọn dài dài ấy nhỉ?) không tốt nên bảo Rin86 vứt bỏ. Pa pa của Rin86 y lời quả nhiên hôm sau đem về túi tiền to, túi tiền nhỏ. Lần 2 là anh Thiên Đồng tới nhà xem phong thủy và khuyên là nên sửa lại nhà. Mẹ Rin86 lập tức mua gạch và xi măng xây gờ ở các cánh cửa nhà tắm, cửa sau. Lập tức bố của Rin86 được thăng một chức nhỏ và được tăng lương (tuy nhiên việc tăng lương này chỉ kéo dài vài tháng, không hiểu sao lại thế). Cuối năm nay gia đình Rin86 sẽ dồn hết tiền sửa lại căn nhà hoành tráng như bản vẽ của anh Thiên Đồng. Kết quả sẽ rất rực rỡ :mellow: Rin86 hồi hộp quá :P1 like -
W. có thể tóm tắt về bệnh tình của cháu như sau: Cháu đã được hơn 8 tháng tuổi chỉ cân nặng 3k8 ! Sức khỏe của cháu không nói trước được điều gì vì bệnh của cháu cũng có nguy cơ cao, khi sinh ra cháu đã ở tình trạng thiếu tháng lại thêm tim bẩm sinh, giờ lại bị bệnh xơ phổi nên nhịp thở của cháu luôn được sự trợ thở của oxy, tuy nhiên dự kiến của W không thể thực hiện, qua trao đổi với BS điều trị: thực tế cá nhân cháu được quyên góp kể từ sau bài báo phát hành lên đến hơn trăm triệu đồng thêm sữa các loại nhận thường xuyên từ các cá nhân và đoàn thể đến tận nơi thăm cháu. Tuy nhiên thuốc dùng cho cháu cũng là loại kháng sinh thông thường với liều lượng nhẹ do điều kiện cơ thể cháu quá yếu nên Khoa đã có hướng san sẽ cho các cháu bất hạnh khác phần sữa được trao tặng do hạn dùng cũng không để lâu được. Cháu thường xuyên được truyền máu, phần này cháu được hoàn toàn miễn phí do BV tài trợ nên cuối cùng W cũng bị thuyết phục bởi lý lẽ của BS trưởng khoa và quyết định trao số tiền này cho Quỹ Bệnh nhân nghèo sẽ được phân bổ đều cho các cháu khó khăn như cháu. Vâng vì đi đến tận nơi chứng kiến các cháu khác cũng đáng thương cần cứu giúp nên số tiền của ACE cũng không xa rời mong muốn cũng như mục đích ban đầu.1 like
-
Sáng nay ACE Lý Học Đông Phương gồm: Compack, An Thanh, Yêuphunu, khanhhoang và bạn gái, Vanlang, Thiên Đồng, Rừngnauy và Con gái, cùng với Wild đến BV Nhi Đồng II thăm cháu bé theo bài viết. Thời tiết hôm nay mát mẻ lại đi dưới hàng me hơn trăm tuổi tạo cho chúng tôi một cảm giác bước chân đi nhẹ tênh, mà lòng không kém phần nôn nao sớm gặp bé Nhân Ái. Và đấy Bé....với những vết đỏ do băng dán thường xuyên gắn vào 2 bên má cháu, chúng tôi không thể ghi thêm tấm ảnh nào vì vướng qui định. (ảnh này có được do công của VănLang :mellow: ) Người phụ trách sau khi hướng dẫn thăm cháu đã trở về văn Phòng nhận số tiền chúng ta tặng. vẫn cần một chữ ký của người đại diện trao tặng. Cuối cùng ACE đã có một ảnh kỷ niệm bên ngoài phòng của cháu bé.1 like
-
ĐÀI LOAN VÀ CỘI NGUỒN BÁCH VIỆT Năm 2000, một sự kiện lịch sử xảy ra ở ven bờ Thái Bình Dương. Sự kiện đó không phải là Thế vận hội 2000 ở Sydney mà thế giới chú ý đến trong vài tuần, mà là một diễn biến í người để ý đến. Một sự kiện sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến chính trị và có thể làm thay đổi cách nhìn của thế giới bên ngoài của nhiều nước trong vùng. Sự kiện đó chính là kết quả bầu cử ở hòn đảo Đài Loan bé nhỏ. Ứng cử viên Trần Thủy Biển (Chen Shui-Bian) của đảng Dân Chủ Tiến Bộ (Democratic Progressive Party) đã thắng Quốc Dân Đảng và trở thành Tổng Thống Đài Loan, một sự thay đổi chính quyền không đổ máu, không bạo động lần đầu tiên trong lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc ? Thực ra trong tâm của vị tân tổng thống thì hướng đi của chính sách mà ông đã theo đuổi từ nhiều năm trước, mà đại đa số dân đã đồng ý, thì hòn đảo này với dân số hơn 20 triệu sẽ không còn là bộ phận của Trung Quốc nữa. Nó sẽ là một quốc gia khác đứng ngoài quỹ đạo của dân tộc Trung Hoa, nó không còn dính gì trực tiếp đến Trung Quốc hay lịch sử Trung Quốc nữa, cũng như Hoa Kỳ hơn 200 năm trước đây đã cắt lìa khỏi nước Anh để tạo riêng vận mệnh của mình. Phản ứng của Trung Quốc that dữ dội và giận dữ, báo chí Trung Quốc dùng những lời lẽ nặng nề chưa từng thấy đối với một cá nhân, không kém những từ ngữ dùng trong cách mạng văn hóa đối với các kẻ thù giai cấp và đế quốc xưa kia trong thập niên 1960. Mấy tuần trước ngày bầu cử, hải quân Trung Quốc đã tập trận bắn tên lửa ở eo biển Đài Loan. Trên đất liền, Trung Quốc dàn tên lửa hướng về Đài Loan đe dọa tinh thần dân chúng, đặt áp lực với chủ ý sẽ làm cho cử tri run sợ chiến tranh mà phải bầu cho ứng cử viên Quốc Dân Đảng ! Oái ăm thay, Quốc Dân Đảng là kẻ thù trước đây của đảng cộng sản Trung Quốc. Lúc này cả hai lại cùng chính sách, cùng quan điểm rút từ một nền tảng tư tưởng trung ương tập quyền Đại Hán truyền thống lâu đời. Điều gì đã gay ra sự cố động trời như vậy ? Ngoài sự kiện ông Trần Thủy Biển là một người Đài Loan bản xứ chính cống, không phải từ lục địa di đến khi Quốc Dân Đảng thua bỏ chạy sang, thì tư tưởng và hoài bão của ông, đại diện cho hoài bão của đa số người Đài Loan bản xứ, chính là điều mà Trung Quốc sợ hải hơn hết. Thật sự thì không phải mà đột nhiên có sự tự phát, xuất hiện một tư tưởng tự chủ như vậy, mà nó đã có một lịch sử khá lâu dài. Tư tưởng ấy đã bị đè nén, thay thế bởi một tư tưởng khác từ bên ngoài ép đặt trên văn hóa, tư tưởng của dân tộc Đài Loan trong nhiều năm qua. Tôi đặc biệt lưu ý đến lịch sử Đài Loan và hoài bão của người dân khi tôi viến Đài Loan trong một dịp dự hội nghị khoa học về môi trường khí quyển ở thành phố Đài Trung (Taitung), do hai Viện Hàn Lâm Khoa Học Đài Loan và Hàn Lâm Khoa Học Úc tổ chức vào tháng 6/2000. Trước đây tôi chỉ để ý và nghiên cứu chút ít về người bản xứ thổ dân sống ở Đài Loan trước khi người Hoa từ lục địa di dân sang. Bài này có mục đích tìm hiểu những diễn biến về sự thay đổi trong xã hội, văn hóa và tư tưởng của người dân Đài Loan trong vòng 20 năm nay. Nó gợi lại trong lịch sử và trong tiềm thức của người Việt những gì tương tự mà dân tộc Việt Nam đã trải qua cách đây hơn 1.000 năm. Cách Mạng Văn Hóa Hay Tuyên Ngôn Độc Lập ? Buổi lễ nhậm chức tổng thống ngày 20/5/2000 ở Đài Bắc được tổ chức tại sân trước cửa dinh Tổng Thống, một kiến trúc thời Minh Trị xây trước đây làm dinh cho viên toàn quyền của Nhật khi họ còn cai trị Đài Loan. Dinh này cũng biểu trưng quyền lực của Quốc Dân Đảng trong bao năm trước đây khi họ nắm quyền hơn nửa thế kỷ. Những sự kiện xảy ra ở buổi lễ mang nay những biểu tượng đáng kể, mà một nhà nghiên cứu ở Viện Xã Hội học, thuộc Hàn Lâm Trung Hoa (Academia Sinica) ở Đài Bắc đã viết lại như sau trên diễn đàn điện tử về Đông Nam Á (Southeast Asia Discussion List, SEASIA-L) (1). Buổi lễ bắt đầu 9:50 sáng, quan khác trong và ngoài nước tưởng sẽ nghe bài quốc ca Cộng Hòa Trung Quốc (Republic of China) đầu tiên, nhưng tất cả đều ngạc nhiên khi một nhóm nhạc sĩ thổ dân của bộ lạc Bunum bản xứ (thuộc tộc Austronesian) đứng lên hát bài ca dân tộc truyền thống “Báo tin vui”. Sau đó là phần trình diễn của các bộ laic bản xứ Austronesian khác, tiếp theo là bài hát dân ca của người Hakka (Khách trú) và dân ca người Hoklo. Chỉ khi Tổng Thống Trần Thủy Biển và Phó Tổng Thống, bà Annette Lu bước ra từ dinh Tổng Thống thì bài quốc ca mới được hát sau cùng. Người hát quốc ca là cô ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan (và Trung Quốc) Cheng Hui-Mei (Amei), gốc người thổ dân bộ lạc Puyma. Cô rất được thính giả ái mộ, không những ở Đài Loan mà còn ở Trung Hoa lục địa. Trước kia không bao giờ có sự có mặt của văn hóa địa phương trong những nghi lễ trịnh trọng. Nay thì ngay cả bài quốc ca cũng xuống hàng thứ yếu. Sự phá vỡ nghi thức này rất có ý nghĩa. Nó có chủ đích cho thấy là chính phủ mới từ đây về sau sẽ theo đuổi chính sách đứng trên quan điểm của người địa phương (Hoklo, Hakka, Austronesian) chứ không như chính phủ Quốc Dân Đảng trước kia đứng trên quan điểm trọng Hán. Hiểu được hậu ý của chính phủ Trần Thủy Biển, Trung Quốc đã giận dữ, ngay cả Amei cũng không thoát khỏi sự tức giận ấy. Sauk hi cô tham dự và hát bài quốc ca Đài Loan (Cộng Hòa Trung Hoa) ở lễ nhậm chức của Tổng Thống Trần Thủy Biển, chính phủ Trung Quốc ra lệnh tẩy chay Amei. Đài truyền hình, truyền thanh từ ngày đó không được trình chiếu, phát hành các bài hát của ca sĩ Amei. Báo chí bị cấm đề cập đến co, ngay cả các biểu ngữ quảng cáo cũng không được đăng các hình ảnh ca sĩ Amei. Ở Bắc Kinh và Thượng Hải, hình Amei trên các bảng quảng cáo nước ngọt Sprite của công ty Coca-Cola bị bôi xóa đi. Tuy vậy các đĩa CD của cô, người ta vẫn còn có thể tìm thấy được ở một số các cửa hàng nếu chịu khó lùng kiếm. Wu Bai, một nam ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan và Trung Quốc, cũng chịu chung số phận, khi ông hát và ủng hộ Trần Thủy Biển. Bài diễn văn của Trần Thủy Biển rất ít đề cập đến sự quan hệ với Trung Quốc, một vấn đề thời sự nóng bỏng lúc đó, mà hầu hết là về lịch sử và văn hóa Đài Loan, về cải tổ chính trị và chính sách đối nội. Trần Thủy Biển nói tới Đài Loan 40 lần. Cộng Hòa Trung Quốc (ROC) 9 lần. Trung Quốc chỉ có 1 lần nhưng Formosa (tên cũ của đảo Đài Loan) 2 lần và 4 lần nhấn mạnh nói lớn “Đài Loan đứng lên !”. Đài Loan đã thực sự đứng day về văn hóa và chính trị. Trần Thủy Biển nêu lên những sự áp bức, xâm lược bởi đế quốc mà dân chúng ở cả Trung Quốc lẫn Đài Loan đã là nạn nhân trong thế kỷ 20. Thật sự Đài Loan còn khổ sở nặng hơn dưới chế độ thực dân Nhật. Những kinh nghiệm lịch sử tương tự như thế đáng ra đã mang lại sự thông cảm giữa hai dân tộc ở hai bên eo biển Đài Loan để từ đó đặt nền tảng cho việc thiết lập tự do, dân chủ và nhân quyền cùng với nhau. Tuy nhiên, do sự phân ly lâu dài trong lịch sử, hai vùng đã phát triển theo hai hướng khác nhau, đi đến sự khác biệt tột độ về nhiều phương diện, từ hệ thống chính trị đến văn hóa và phong cách sống. Điều này đã cản trở sự thông cảm và thiết lập tình hữu nghị giữa hai nước. Bài diễn văn này là một tuyên bố chính trị quan trọng. Ông phân biệt rõ sự khác biệt giữa lịch sử Trung Quốc và lịch sử Đài Loan. Đài Loan đã trải qua thời kỳ bị Nhật đô hộ lâu dài và đã có lịch sử riêng chứ không phải chỉ có lịch sử mới đây mới đây tách ra khỏi Trung Quốc bắt đầu từ 1949, với nhãn quan của người Hán đặt trọng tâ vào cuộc nội chiến quốc – cộng. Ông nói là cách đây 400 năm, Đài Loan được gọi là Formosa, hòn đảo xinh đẹp, nay Đài Loan còn là một hòn đảo của một nền dân chủ trưởng thành. Ông cho rằng lịch sử Đài Loan tiếp diễn cách đây 400 năm từ di sản của thổ dân Austronesian, cư dân đầu tiên, chứ không phải xuất phát từ 5.000 năm của lịch sử Trung Quốc. Ông là vị Tổng thống Đài Loan đầu tiên đã đặt trọng tâm của vũ trụ quan vào lịch sử đảo và vào di sản Austronesian. Ông đặc biệt nói về văn hóa địa phương, các tổ chức cộng đồng phi chính phủ đã được thành lập để phát triển, bảo tồn lịch sử, văn hóa ở mọi địa phương, làng xã. Tất cả đó là một phần của văn hóa Đài Loan. Đài Loan là một xã hội đa văn hóa, trong đó mọi người dân chấp nhận sự đa dạng và giao lưu với nhau giữa các người Austronesian, Hoklo, Hakka và người Hoa ở lục địa sang. Ông nói về văn hóa Hoa kiều và đặt cộng đồng người Hoa ở Đài Loan giống như cộng đồng người Hoa trên thế giới như ở Singapore, Sydney hay San Francisco trong môi trường đa văn hóa, chứ không phải người Hoa giữa dân số của một nước Trung Quốc thống nhất. Ông nhấn mạnh đến cuộc sống “văn hóa” thường ngày của người dân bình thường và nói về bản thân ông xuất thân là con của một tá điền trong một gia đình nghèo và đã vươn lên để trở thành tổng thống của một nước được sự tín nhiệm của dân Formosa, những người con của Đài Loan như ông. Tinh thần bài diễn văn giống như tinh thần của một bản tuyê bố độc lập hơn là một bài diễn văn nhậm chức bình thường. Các Dân Tộc ở Đài Loan. Vì đâu mà ông Trần Thủy Biển đã “tuyên bố độc lập” như vậy ? Bài ông nói đã phán ảnh được những gì sâu xa xảy ra trong tư tưởng của xã hội Đài Loan trong nhiều năm vừa qua ở nhiều lãnh vực. Một hiện tượng xã hội đáng chú ý gần đây là một số vấn đề nghiên cứu trong phạm vi khoa học có liên hệ đến các dân tộc ở Đài Loan đã lan ra khỏi phạm vi hạn hẹp và đã trở thành một đề tài nóng bỏng trong xã hội mà trước đây ít xảy ra. Giáo sư Lâm Mã Lý, nhà di truyền học ở bệnh viện Mckay Memorial ở Đài Bắc, đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu về nguồn gốc di truyền của các bộ tộc thổ dân sống lâu đời từ thời tiền sử ở Đài Loan. Một đề tài hầu như lúc đó không ai ở Đài Loan để ý. Sau khi công bố kết quả trên tạp chí khoa học vào năm 2000 (2), bà đã nhận được rất nhiều thư, điện thư từ những người “Đài Loan” không phải thổ dân (Mân Nam và Hakka) muốn tìm hiểu thêm về nguồn gốc của họ, họ không cho rằng họ có nguồn gốc từ người Hán. Giáo sư Lâm Mã Lý từ đó chuyển trọng tâm nghiên cứu của bà sang người Mân Nam (Minnan) và Hakka. Sau hơn một năm nghiên cứu di truyền trên hệ thống miễn nhiễm (Human Leucocyte Antigen, HLA) ở nhiễm sắc thể 6 (chromosome 6) qua máu của các dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều nước kết hợp được trong tổ chức hoạt động quốc tế về HLA (International Histocompatibility Workshop) ở Nhật năm 1998, giáo sư Lâm Mã Lý đã công bố kết quả (3) về sự liên hệ và khoảng cách của các nhóm dân trên sơ đồ cây di truyền. Kết quả cho thấy người Mân Nam và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các dân thuộc chủng Mongoloid Nam Á, khác xa với người Hán thuộc chủng Mongoloid Bắc Á. Giáo sư Lâm Mã Lý cho rằng người “Đài Loan” thuộc dân Mân Việt (Min Yeuh) chứ không phải dân tộc Hán, mặc dù đã có sự pha trộn trong lịch sử với người Hán di cư đến từ phương Bắc. Trong cuộc phỏng vấn trên báo Taipei Times (Đài Bắc thời báo) (4), có câu hỏi là có phải ngiên cứu của bà đã gay chú ý và bàn luận rất nhiều là vì nó đã thách thức chủ nghĩa ‘Hán trung tâm’ cho rằng người Hán và văn minh Hán Hoa là cội nguồn của tất cả, do đó đã gây nên cuộc tranh luận chính trị về sự thống nhất với Trung Quốc. Bà trả lời là bà đã biết trước kết quả nghiên cứu di truyền sẽ khơi động cuộc tranh cãi, nhưng bà cũng nói rằng kết luận của nghiên cứu cũng không phải là điều gì mới lạ, vì trước đây hai nhà nhân chủng học nổi tiếng đã công bố lâu rồi về dân tộc và văn minh của người Mân Việt, Hakka và Bách Việt. Kết quả nghiên cứu của bà chỉ chứng minh một cách khoa học thêm mà thôi. Cả hai công trình nghiên cứu này đã được biết từ lâu trước khi có chủ đề bàn luận về về thống nhất hay độc lập ở Đài Loan. Đó là công trình nghiên cứu của Lin Hui Shaing, “The Ethnology of Chine”, xuất bản năm 1937 và W. Meacham, “Origins and development of Yeuh coastal Neolithic : A microcosm of cultural change on the mainland of East Asia”, công bố vào năm 1981. Cả hai đã có cùng kết luận về nguồn gốc của dân Bách Việt. Cũng trong cuộc phỏng vấn này, có câu hỏi là có phải nghiên cứu của bà có mục đích chính trị không, vì hiện nay có rất nhiều người đã dùng nghiên cứu của bà trong chính trường. Bà nói rằng mọi người nên hiểu biết về nguồn gốc của mình. Và bà chỉ muốn tìm ra nguồn gốc của người địa phương sống lâu đời ở Đài Loan. Bà không hiểu tại sao người Mỹ gốc Phi châu lại có thể đi tìm được nguồn gốc của họ, mà người Đài Loan lại không thể nói được “Chúng tôi là người Mân Việt cổ xưa”. Bà muốn rằng người Đài Loan nên xem mình là người địa phương Mân Việt chứ không phải là Hán từ bắc Trung Quốc. Bà nói : “Bài nghiên cứu của tôi đơn giản là chỉ để hiểu biết về nguồn gốc. Tôi không biết gì về chính trị và không thuộc tổ chức chính trị nào”. Để có một cái nhìn tổng quát về tình hình Đài Loan và hiểu thêm về các dân tộc và văn hóa ở hòn đảo này, chúng ta phải bắt đầu từ các dữ kiện lịch sử và dân tộc học mà tôi cố gắng tóm lược như sau : Bộ tộc Austronesian Những người bản xứ thuộc dòng ngôn ngữ Austronesian là những người dân đã sống lâu đời ở Đài Loan từ trước thế kỷ 17 khi những người ngoại quốc như Hòa Lan, Tây Ban Nha và sau đó là Trung Quốc bắt đầu đến chiếm đóng và định cư. Ngôn ngữ của các bộ tộc bản xứ cũng rất đa dạng và khác nhau, nhưng tất cả đều thuộc họ ngôn ngữ Austronesian, cùng họ với ngôn ngữ Phi Luật Tân, Indonesian, Mã Lai và ở nhiều đảo khác trong Thái Bình Dương. Hiện nay người thổ dân Austronesian chỉ còn có khoảng 2% dân số Đài Loan và gồm các bộ tộc sau (theo thứ tự dân số) : Amis (130.000), Paiwan (60.000), Atayal (50.000), Bunum (38.000), Taroko (30.000), Puyuma (8.000), Rukai (8.000), Tsu (6.000), Yami (4.000), Saisiat (4.000), Thao (250). Một số bộ tộc khác ở đồng bằng và bờ biển trước đây đã biến mất, qua sự đồng hóa trong cộng đồng các người Hoklo, Hakka di dân từ Trung Quốc trong các thế kỷ trước. Ngôn ngữ của các bộ tộc này chỉ còn giữ lại trong các từ điển và bài viết về họ của người Hòa Lan, Nhật và Đài Loan sau này, và một số từ còn sót lại trong ngôn ngữ Hoklo. Trong suốt lịch sử từ 1624, khi người Hòa Lan đến chiếm, cho đến thời kỳ thuộc nhà Thanh, rồi thuộc Nhật Bản và gần đây dưới chế độ Quốc Dân Đảng, người thổ dân thường bị phân biệt, chèn ép trong xã hội. Có lúc họ đã nổi day, như năm 1930, một bộ lạc đã nổi lên chống Nhật nhưng họ đã bị đàn áp đẫm máu. Đất đai của họ đã bị lấn chiếm và mất dần (cách đây không lâu, có nơi đất của họ đã được dùng để chôn các chất thải nguyên tử nguy hiểm). Năm 1984, Liên minh thổ dân Đài Loan đã được thành lập bởi một số trí thức và các vị lãnh đạo các bộ tộc để bảo vệ quyền lợi và văn hóa thổ dân. Họ đã tranh đấu trong nhiều năm cùng với đảng Dân chủ Tiến bộ Đối lập chống lại các chính sách văn hóa và bất công của chính quyền. Ngày nay, quyền lợi và văn hóa thổ dân đã được khuyến khích phát triển nhất là từ khi chính phủ Trần Thủy Biển nắm quyền vào năm 2000. Như các người Austronesian khác ở Đông Nam Á (Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương), các bộ tộc thổ dân đều có tục ăn trầu và xâm mình. Đặc biệt người Atayal còn xâm rất nhiều trên mặt. Theo truyền thuyết của họ, lúc khởi thủy chỉ có hai an hem. Vì muốn dòng giống được lưu truyền, người em giá đã xâm lên mặt để che dấu hầu gait anh mình mà kết thành vợ chồng, sinh sản con cháu. Người Rukai, trong lễ hội xuân còn có phong tục chơi đu xích đu. Người con gái đu xích đu, trong khi người con trai nay và bắt lấy. Trò chơi ở lễ hội xuân này tương tự như trò chơi trong lễ hội của người Việt và chúng có nguồn gốc phồn thực. Vì là thiểu số, hiện nay văn hóa của người thổ dân có nguy cơ biến mất khi đa số thanh niên cố gắng hòa nhập vào xã hội Đài Loan. Trước đây vì bị phân biệt, đa số đã cố gắng dấu đi nguồn gốc thổ dân của mình. Ngày nay với chính sách bảo vệ và phát triển văn hóa bản xứ trong giáo dục, chính trị và kinh tế, họ đã có mặt ở mọi thành phần trong xã hội Đài Loan và hãnh diện là người có gốc tích thổ dân, cư dân đầu tiên của nước Đài Loan. Cuối năm 2001, ở Đài Trung, nơi có nhiều thổ dân thuộc các bộ tộc khác nhau, đã có lễ hội về văn hóa Austronesian, với sự hiện diện của nhiều học giả thế giới đến dự hội nghị nghiên cứu Austronesian tổ chức cùng thời gian. Chang Hui-Mei (Amei), ca sĩ nổi tiếng Đài Loan, là người gốc thổ dân thuộc bộ lạc Puyuma bản xứ đã trình diễn nhiều bài dân ca Austronesian khai mạc liên hoan văn hóa này. Viện Hàn Lâm Academia Sinica cũng đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa và con người Austronesian. Cùng với “Hiệp hội nghiên cứu tiền sử Ấn và Thái Bình Dương”, Academia Sinica đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế về người Austronesian, như ở Đài Trung và Đài Bắc vừa rồi. Người Hoklo “Hoklo”, danh từ cổ xưa gốc địa phương nay được dùng để chỉ chung giống người dân tộc và ngôn ngữ vùng Phúc Kiến thay vì dùng từ Phúc Kiến như trước đây thường xử dụng để chỉ người thuộc địa phương Phúc Kiến Trung Quốc. Các danh từ thường dùng khác, như Hokkien, Minnan (Mân Nam, Min (Mân), hay Đài Loan cũng đã được dùng để chỉ dân tộc này. Nay thì danh từ “Hoklo” bản địa có khuynh hướng được dùng nhiều (nhất là trong giới hàn lâm nghiên cứu) vì nó thống nhất cho một giống dân trong dân tộc học, không mang màu sắc chính trị, thích hợp hơn là dùng danh từ về vị trí địa lý của một tỉnh. Người Hoklo không những cư trú ở Phúc Kiến mà còn có mặt ở nhiều nơi như Hải Nam, Đài Loan và ở nhiều nước khác trong khu vực Đông Nam Á do truyền thống đi biển của họ. Ở Đài Loan, hiện nay 70% dân số là người Hoklo. Ngôn ngữ người Hoklo có nguồn gốc cổ xưa ở Nam Trung Quốc. Theo nhà ngôn ngữ học Norman (5) và Mei Tsu Lin (6) thì tiếng Hoklo (Mân), Hakka và Quảng Đông có cùng nguồn gốc. Chúng xuất phát từ các bộ tộc Bách Việt, phi Hán, sống ở phía Nam sông Dương Tử. Những ngôn ngữ này có các thành phần gốc Thái cổ, Austronesian và Austroasiatic ở tầng ngôn ngữ dưới, và pha trộn với tiếng Hán ở tầng trên. Thành phần Austronesian và Thai (Austro-Thai) có trội hơn thành phần Austroasiatics, nhưng cả ba đều hiện diện trong các ngôn ngữ này. Họ ngôn ngữ Austroasiatics, như ta biết, gồm có các ngôn ngữ Mon-Khmer. Việt, Munda. Điều này cho thấy là các tộc người nói tiếng Austroasiatics đã có mặt tại Nam Trung Quốc từ lâu đời, trước thời kỳ nhà Tần-Hán (xem #6). Hiện nay trong ngôn ngữ Mân Nam (Hoklo), ta vẫn còn tìm thấy có các sự liên hệ với ngôn ngữ Việt thuộc họ Autroasiatics qua các từ (xem #6). Một vài thí dụ về các từ Hoklo với các từ trong tiếng Việt, như : vat [bat4] – Việt : biết, Bahnar : băt. gnial [kian2] – Việt : con, Khmer : koun. daam [tam5] – Việt : đẫm (ướt). daanggi [tang5ki1] – Việt : đồng (lên), Proto-Mân : dung, dong, Mon : dong. doh [toh4] – Việt : đâu (ở). và một sớ từ có nguồn gốc Austroasiatics – Austronesian (theo thuyết Austric), như : dehh [the4] – Việt : đè, Proto-Malay : tedes. qiul [giu2] – Việt : giật (kéo), Quảng Đông : jaul, Proto-Malay : guyud. lut [lut4] – Việt : lột, Hakka : lôụt, Quảng Đông : led1, Indonesian : lucut, Malay : luchut, Hawaii Polynesian : lu. lerng [leng7] – Việt : lõng, Proto-Malay : luan. Ngoài ra, theo tôi, một số các từ Hoklo sau đây cũng có gốc chung (cognates) với các từ Việt : bou [pơ1] – Việt : bố (cha). voul [bơ2] – Việt : bu (vợ). za [cha1] – Việt : ta (người), Proto-Malay : tau, cau. dẫn tới từ Hoklo, zabou nghĩa là người đàn ông và zavoul là người đàn bà. Ngoài sự liên hệ về ngôn ngữ giữa người Hoklo (Mân Việt) và người Việt, trong lịch sử, ta cũng được biết là tổ tiên nhà Trần, một triều đại rực rỡ văn hóa Việt ở Việt Nam, vào thế kỷ thế 13, đã đi từ Phúc Kiến (Mân) theo đường biển đến định cư ở Việt Nam trước đó. Họ sống về nghề đánh cá dọc theo bờ biển Nam Trung Quốc. Người Hoklo ở Đài Loan, sau bao thế kỷ chung sống và hợp chủng với nhiều bộ tộc bản xứ ở vùng thấp và đồng bằng đã dẫn đến sự biến mất của một số bộ tộc. Qua quá trình giao lưu này, một số ngôn ngữ Austronesian đã được thu nhận, và ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan có nét địa phương khác với ngôn ngữ Hoklo ở tỉnh Phúc Kiến trong lục địa. Ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan nay được gọi là Đài ngữ. Người khách trú (Hakka) Danh từ “Hakka” chữ Hán có nghĩa là “khách trú”, do người Quảng Đông dùng để chỉ những người di dân xuống địa phận vùng Bắc Quảng Đông và Nam Phúc Kiến hiện nay. Thật sự người Hakka đã có mặt từ ngàn năm trước ở vùng Nam sông Dương Tử, chủ yếu ở khu vực Nam tỉnh Giang Tây, giáp giới với Phúc Kiến. Vì hoàn cảnh địa lý và lịch sử họ đã di dân xuống Quảng Đông. Hiện nay chúng ta không rõ lịch sử và khi nào từ này đã được dùng, chỉ biết là người Quảng Đông đã đối xử phân biệt với họ, cho họ là dân phi Hán, thuộc một loại dân tộc man di, như các tộc Thái, Choang (Zhuang) hay Mèo (Miao), ở miền núi hoang dã di dân vào ở các khu vực Hán. Thật sự thì cả người Quảng Đông cũng không phải nòi Hán, nhưng vì bị Hán hóa quá lâu nên cộng đồng của họ đã không còn giữ được trong ký ức trước kia họ thuộc chủng phi Hán. Vì bị coi như người ngoài đến lấn chiếm, và bị đối xử phân biệt nên một số người Hakka đã cũng tự cho họ là người Hán từ Bắc Trung Quốc xuống. Quyển sách cổ điển nói về nguồn gốc của người Hakka là của giáo sư Lo Hiong Lim, xuất bản năm 1933 (An introduction to the study of the Hakka : its ethnic, historical and cultural aspects). Ông chủ yếu dựa vào gia phả cho rằng người Hakka là từ Bắc Trung Quốc đã di dân xuống phương Nam qua nhiều đợt vì quê hương của họ đã bị các rợ phương Bắc xâm lăng. Ngày nay, nhiều công trình nghiên cứu khảo cổ, ngôn ngữ học và di truyền học đã cho thấy là thuyết của ông Lo không đúng. Ngay cả tư liệu gia phả cũng không chính xác và có nhiều sai lầm. Nhà ngôn ngữ học J. Norman cho rằng tiếng Hakka, Mân (Min) và Quảng Đông, “Việt” (Yueh) có cùng một nguồn gốc trong lịch sử, đã hiện diện ở Nam Trung Quốc từ trước thời Hán, mà ông gọi chung là tiếng Cổ Nam Trung Quốc (Old Southern Chinese) (xem #5). Nhà ngôn ngữ học Laurent Sagart, trong một nghiên cứu mới đây (2002) về nguồn gốc tiếng Hakka, đã cho thấy là ngôn ngữ này có nguồn gốc ở phía Nam Trung Quốc, với lớp tầng cổ nhất thuộc họ ngôn ngữ Mèo-Dao (Miao-Yao), hay còn gọi là Hmong-Mien (xem #4). Ngôn ngữ Hakka cũng rất gần với ngôn ngữ của người Gan (Cám) cư ngụ dọc lưu vực sông Cẩm Giang. Hiện nay, ở vài khu vực các tỉnh Giang Tây (Jianxi), Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, người She (Hẹ), thuộc họ ngôn ngữ Hmong-Miên vẫn còn hiện diện. Ông Sagart cho rằng chính họ là tổ tiên của người Hakka và Gan, sau này bị Hán hóa dần từ thời Tống. Trước đây, nhà ngôn ngữ học Haudricourt cũng đã cho rằng tiếng Quảng Đông và Hakka có nguồn gốc từ tiếng Thái và Mèo-Dao, sau khi trải qua các quá trình Hán hóa lâu dài trong lịch sử (7). Giáo sư Fong Hok-Ka, trong sách nghiên cứu về người Hakka xuất bản tại Trung Quốc năm 1994 (Investigating in depth about the origin of Hakka), đã dùng những tài liệu lịch sử và khảo cổ tìm được ở các vùng của người Hakka trước đây cư ngụ. Ông cho thấy đã có một nền văn minh rất cao hiện diện rất lâu trước khi nhà Tần đánh chiếm các dân tộc phương Nam. Từ đó (221 tr. TL.) bắt đầu có quá trình Hán hóa cho đến giai đoạn sau thời Nam-Bắc Triều (589 TL.), khi nhóm Tiền-Hakka (Proto-Hakka) bắt đầu được thành lập và phát triển. Nói chung, các công trình nghiên cứu của các ông Norman, Sagart và Fong là có cơ sở hơn hết về nguồn gốc con người và ngôn ngữ Hakka. Sau người Hoklo, người Hakka bắt đầu di dân đến đảo Đài Loan vào khoảng thế kỷ 18, nhiều nhất là dưới triều đại nhà Thanh. Hiện nay, dân số người Hakka có khoảng 3 triệu, tức khoảng 15% dân số Đài Loan, đứng hàng thứ hai sau dân Hoklo. Vài nét về lịch sử hiện đại của Đài Loan Đài Loan đã có người thổ dân Austronesian sinh sống từ lâu đời. Tài liệu xưa nhất ở Trung Quốc đề cập đến Đài Loan là vào năm 230 TL., nói về một số người chạy loạn từ bờ biển Phúc Kiến, Quảng Đông đến cư ngụ tại đảo. Một tài liệu địa lý khác ở thế kỷ thứ 3 có nói về các bộ tộc sống trên đảo (7). Họ có phong tục và cách sống rất khác nhau, chứ không phải thuần nhất. Từ cuối thế kỷ 16 đến năm 1624, chỉ có một số rất ít người từ lục địa sang sinh sống dọc theo bờ biển phía Bắc. Họ sống ngoài vòng kiểm soát của triều đình Trung Quốc. Trong đó không ít là cướp biển. Thỉnh thoảng có một số người bị đắm tàu trôi dạt vào đảo. Họa hoằn lắm mới có các thương thuyền của người Bồ Đào Nha, Hòa Lan và các nước tạt qua trên đường hàng hải buôn bán với Nhật và Trung Quốc. Người Bồ Đào Nha gọi đảo này là Formosa (“hòn đảo đẹp”). Thổ dân Austronesian trên đảo cũng có tiếng là hung dữ, nhất là ở phía sâu trong đảo. Thêm nữa, vì không có cảng hay thành phố mà chỉ có các làng mạc thưa thớt dọc biển, nên không ai để ý đến. Với sự cạnh tranh ngày càng gia tăng của các nước Tây phương trong thị trường thương mại hàng hải với Nhật và Trung Quốc, người Hòa Lan đầu tiên chiếm các đảo nhỏ ở eo biển Đài Loan, như quần đảo Pescadores, và bắt đầu từ năm 1624 đến lập các cơ sở ở bờ biển phía Tây Đài Loan. Người Tây Ban Nha cũng đến phía Bắc đảo để chiếm đóng và lập các căn cứ làm thuộc địa từ năm 1626. Người thổ dân bị lấn chiếm và không chống trả nổi. Chiến tranh giữa Hòa Lan và Tây Ban Nha diễn ra liên tục trên đảo. Trong thời gian này, người Hoa từ lục địa cũng bắt đầu di dân sang ở một vài nơi phía Tây và Nam trên đảo. Biến cố 28/2 – Thảm sát ở Đài Bắc và khắp Đài Loan Cuối năm 1945, sau khi Nhật đã đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trung Quốc của Quốc Dân Đảng gởi người và quân đội đến Đài Loan để giải giới và thiết lập chính quyền mới trên đảo. Họ đến từ lục địa nhưng nắm hết quyền trong chính phủ, quân đội. Từ sự các biệt gần 100 năm lịch sử trong thời kỳ lệ thuộc Nhật và trước đó trong thời nhà Thanh, lối sống xã hội của người Đài Loan bản xứ đã khác nhiều với tập tục, suy nghĩ và nếp sống của những người tràn qua từ đất liền. Điều này bắt đầu dẫn đến những bất đồng và căng thẳng, nhất là sự hối lộ, tham nhũng, vơ vét, áp bức dân địa phương của chính quyền Quốc Dân Đảng trong các năm đầu khi họ vừa đến Đài Loan. Người dân bản xứ không quen với tệ nạn tham nhũng, vơ vét khi còn dưới thời Nhật cai trị, nên rất ta thán. Họ đã biểu tình phản đối, bắt đầu từ Đài Bắc rồi lan ra khắp Đài Loan. Quốc Dân Đảng đã phản ứng lại bằng cách “dạy dân địa phương một bài học”, như một số tướng và nhân vật Quốc Dân Đảng đã tuyên bố. Trong ngày 28/2/1947, quân đội đã nổ súng vào đoàn biểu tình và mở chiến dịch tấn công càn quét vào dân bản xứ, hậu quả thật khốc liệt, hơn 20.000 người đã bị thảm sát. Thiết quân luật đã được ban hành và áp dụng trên toàn lãnh thổ. Biến cố này là một bản lề quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Đài Loan. Năm 1949, chính phủ Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc, sau khi bị thua trận trong cuộc nội chiến, đã phải chạy ra đảo Đài Loan. Thiết quân luật được áp dụng chặt chẽ hơn, viện cớ tình trạng chiến tranh với đảng Cộng sản ở lục địa. Thiết quân luật chỉ chấm dứt sau này, vào năm 1987. Biến cố ngày 28/2/1947 có ảnh hưởng sâu rộng và hằn sâu trong tiềm thức của dân Đài Loan. Mặc dầu nó đã bị các chính phủ Quốc Dân Đảng che nay và cấm đề cập đến từ lúc đó cho đến cuối thập niên 1980, nhiều trí thức bản xứ và ngay cả một số trong Quốc Dân Đảng ly khai đã đặt lại vấn đề và từ đó thành lập đảng Dân Chủ Tiến Bộ đối lập cới chính quyền. Năm 1972, Đài Loan đã lỡ một cơ hội để trở thành một nước độc lập gia nhập vào Liên Hiệp Quốc. Trong thời điểm này, Mỹ đang hòa hoãn với Trung Quốc lục địa (Cộng hòa Nhân dân Trung quốc). Liên Hiệp Quốc cũng vừa công nhận chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung quốc (PRC) là đại diện cho Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, thay thế chính phủ Cộng hòa Trung quốc (ROC) của Quốc Dân Đảng ở Đài Loan. Đài Loan lúc đó có thể từ bỏ chính sách là mình có chủ quyền ở lục địa và là thực thể đại diện cho tất cả mọi người dân Trung Hoa. Thay vào đó, Đài Loan nên tuyên bố độc lập xin vào Liên Hiệp Quốc với tư cách một nước mới. Đây cũng là hành động mà Mỹ khuyên Đài Loan nên theo trong cơ hội này, lúc Mỹ thương lượng với Trung Quốc, nhưng cính phủ Đài Loan đã từ chối và tiếp tục theo đuổi đòi chủ quyền cho cả Trung Quốc lục địa. Đây là một sai lầm chiến lược lớn mà sau này Đài Loan hối hận. Nhiều người đã đặt lại vấn đề là tại sao lại không có hai hoặc ba nước nói tiếng Trung Hoa trong Liên Hiệp Quốc, cũng như Liên Sô trước đây đã có Ukraine và Bielorussia hiện diện trong tổ chức này. Chính sách sau này của chính phủ Quốc Dân Đảng Đài Loan là cố gắng thiết lập được quan hệ ngoại giao với mọi nước (đa số là các nước nhỏ ở Trung Mỹ và Thái Bình Dương) và xin được vào các tổ chức quốc tế, như Y Tế Thế Giới (WHO), Phát Triển Văn Hóa (UNESCO), Thương Mại (WTO). Từ lúc đảng Dân Chủ Tiến Bộ (DPP) đối lập được thành lập, đấu tranh về đường lối giữa Quốc Dân Đảng và đảng Dân Chủ diễn ra rất gay gắt trong suốt thập niên 1980. Đến cuối thập niên 1990 thì người địa phương Đài Loan đã thực sự thắng lợi, với bản sắc Đài Loan được đặt làm nền tảng cho mọi chính sách đối ngoại và đối nội. Ngay cả Quốc Dân Đảng đã chọn người địa phương Đài Loan, ông Lý Đăng Huy, là vị tổng thống với chính sách mới ở giai đoạn cuối cùng trước khi đảng Dân Chủ lên nắm quyền năm 2000, mở đầu cho một kỷ nguyên và một thế kỷ mới. Sự hình thành và phát huy văn hóa truyền thống bản địa của các dân tộc ở Đài Loan Tôi đến Đài Trung (dọc bờ biển hướng Tây, cách Đài Bắc 150km phía Nam) vào tháng 6 năm 2000, một tháng sau khi ông Trần Thủy Biển nhậm chức Tổng Thống. Trung Quốc vẫn còn dàn hỏa tiển hướng về Đài Loan ngăn cách qua một eo biển nhỏ hẹp. Dân chúng tuy vậy rất bình tỉnh, tự tinh và không còn sợ hải như trước đây. Mặc dầu thị trường chứng khoán chưa hồi phục ở mức bình thường như trước lúc khủng hoảng, hoạt động kinh tế đã trở lại như trước, các trung tâm thương mại rất náo nhiệt, trừ các trung tâm của các công ty Nhật có rất nhiều ở Đài Loan vẫn vắng khách như xưa vì giá rất cao. Thành phố Đài Trung là thành phố lớn mà dân Hoklo hầu như chiếm gần hết, với một số ít còn lại là người các dân tộc thổ dân Austronesian. Thành phần dân ở Đài Loan gồm khoảng 15% là người Hakka (khách trú), 70% là người Phúc Kiến, 2% là người bản xứ thổ dân, 13% là người từ các vùng ở lục địa mới đến sau này. Mặc dầu không phải là đa số, nhưng những người mới đến từ lục địa đã chiếm lĩnh các vị trí quan trọng trong chính phủ, quân đội. Các hoạt động kinh tế phần lớn nằm trong tay họ , trong số đó có một số công ty có sự liên hệ rất mật thiết ới Quốc Dân Đảng. Ngay Quốc Dân Đảng cũng có những công ty riêng rất lớn với nguồn tài chánh và lợi nhuận khổng lồ. Tình trạng trên kéo dài trong hơn 40 năm, cho đến năm 1988, đảng Dân Chủ Tiến Bộ đối lập được thành lập. Đảng Dân Chủ Tiến Bộ đòi hỏi có sự công bằng và đấu tranh giành lại quyền chính trị với khuynh hướng độc lập, từ bỏ là đại diện Trung Quốc để lấy lại Hoa Lục của chính thể Đài Loan từ khi Quốc Dân Đảng thua chạy qua tá túc ở Đài Loan. Mặc dầu có nhiều khó khăn và trở ngại do chính phủ Quốc Dân Đảng tạo ra, dần dần tiếng nói của dân bản xứ đã được thể hiện. Trong những năm cuối thập niên 1980s và đầu 1990s, sự đối lập của đảng Dân Chủ Tiến Bộ và Quốc Dân Đảng chủ yếu là về khuynh hướng và chính sách, không những gay gắt trên chính trường (nhiều khi đưa đến xô xát bạo động trong quốc hội, các nơi diễn thuyết công cộng giữa hai phe mà chúng ta thường thấy trên truyền hình) mà còn được thể hiện ở dân chúng tùy theo dân thuộc thành phần nào, bản xứ hay không bản xứ. Năm 1996, ông Trần Thủy Biển được bầu làm Thị trưởng thành phố Đài Bắc. Trong thời gian làm Thị trưởng, ông đã đổi tên đại lộ trước dinh tổng thống từ “Đại lộ Tưởng Giới Thạch muôn năm” thành “Đường Ketagalan”. Ketagalan là tên một bộ lạc thổ dân Austronesian cư ngụ vùng xung quanh Đài Bắc đã bị tuyệt chủng từ lâu sau khi họ đã bị đồng hóa vào xã hội Đài Loan. Mặc dầu không phải là người gốc thổ dân, nhưng ông Trần Thủy Biển đã tích cực ủng hộ và phát triển quyền lợi và văn hóa thổ dân khắp Đài Bắc. Quan trọng hơn, ông đã lập ra một viện bảo tàng giữa một công viên lớn trong trung tâm thành phố để tưởng niệm biến cố ngày 28/2/1947. Công viên được đổi tên thành “Công viên Hòa bình 282”. Tôi có ghé thăm công viên và viện bảo tàng trong dịp viếng Đài Bắc vào năm 2000. Thật là cảm động khi thấy những hình ảnh, thơ từ, áo của các nạn nhân mang những lổ đạn, sách, báo chí, chứng từ, nói lên sự bất nhẫn qua hình ảnh của quân đội Tưởng Giới Thạch bắn giết hơn 20.000 người... ... Viện bảo tàng mang một biểu tượng với dòng chữ lớn “confused identity leads to tragedy – Taiwan has to know its past tragic event in 28/2/1847” (bản sắc bị map mờ dẫn đến thảm kịch – Đài Loan phải biết biến cố thê thảm đã xảy ra vào ngày 28/2/1947). Dĩ nhiên viện bảo tàng đã bị chính phủ Quốc Dân Đảng lúc bấy giờ chống đối và lên án. Nhưng cũng từ lúc ấy, đa số người Đài Loan gốc bản xứ (Hakka và Hoklo) đã bắt đầu ý thức được quyền độc lập và tự hào về sự khác biệt văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ của họ đối với văn hóa quan thoại của Quốc Dân Đảng và của Trung Quốc lục địa. Ngay cả trong Quốc Dân Đảng, nhiều người (nhất là cá đảng viên gốc người bản xứ) đã đòi hỏi phải có cải tổ, thay đổi chính sách để thể hiện nguyện vọng của dân một cách thực tế và áp dụng được trong tình hình mới. Nó phải thích hợp với khuynh hướng và trào lưu dân chủ mà quần chúng đòi hỏi. Lý Đăng Huy, vị Tổng thống Quốc Dân Đảng cuối cùng trước khi Trần Thủy Biển lên thay, là người bản xứ, đã có những chính sách cởi mở. Chính ông cũng có những hoài bão độc lập như đảng Dân Chủ Tiến Bộ. Điều này đã làm cho chính quyền Trung Quốc rất tức giận và hằn học, gây nhiều khó khăn cho ông Lý Đăng Huy, ngay cả khi ông không còn trong chính trường và là một công dâ bình thường như hiện nay. Thí dụ như khi ông dự định đi viếng các nước như Anh, Mỹ, và gần đây là Nhật, với tư cách cá nhân riêng tư, chính quyền Trung Quốc cũng đã gây sức đến các nước sở tại để không cho ông thị thực nhập cảnh (visa). Ai nói là thù sẽ phai nhạt theo thời gian ? Để có thể phân biệt và tạo ra được sự khác nhau về xã hội, văn hóa giữa Đài Loan và Trung Quốc, Đài Loan từ Lý Đăng Huy đến Trần Thủy Biển đã khuyến khích phát triển và quảng bá rộng rãi văn hóa của những dân tộc thổ dân trong văn hóa Đài Loan. Ý thức về sự quan trọng của nền văn hóa thổ dân có nguồn gốc Mã Lai (Malayo-Indonesian) vào sự đóng góp chung với các văn hóa Hakka và Phúc Kiến để tạo nên một nền văn hóa khác biệt với văn hóa Hán Trung Hoa. Điều này đã được chấp nhận là yếu tố quan trọng bậc nhất đặt nền tảng cho sự thành hình một căn cước (identity) mới cho Đài Loan. Thêm nữa, mặc dầu Đài Loan đã có thời gian ngắn chỉ khoảng hơn 80 năm là một phần của Nhật Bản, trong thời kỳ Nhật cai trị, nhưng ảnh hưởng văn hóa Nhật đã thể hiện một phần trong văn hóa và con người Đài Loan. Đài Loan và Nhật Bản hiện nay có quan hệ kinh tế và văn hóa khá sâu rộng. Đặc tính riêng biệt là điều kiện tiên quyết cho sự khởi đầu thành lập quốc gia của một quần thể có văn hóa riêng. Quá trình văn hóa, tư tưởng như nói trên xảy ra ở Đài Loan trong việc tạo thành một nước có bản sắc riêng cũng mang máng tựa như quá trình mà người Việt đã trải qua trong thời kỳ Bắc thuộc. Trong quá trình này, nguy cơ văn hóa bản xứ có thể bị Hán hóa và tiêu diệt, trước khi có sự độc lập trong thế kỷ thứ 10 là rất cao, nếu không nhờ có văn hóa làng xã thuần Việt ở nông thôn được giữ vững. Sau bao nhiêu năm dưới các chính phủ Quốc Dân Đảng, ngôn ngữ Hakka, Hoklo và các thổ ngữ bị cấm dùng trong nền giáo dục và các công sở, thay thế bởi ngôn ngữ chính thức Quan Thoại (Mandarin). Trước đây, một số trí thức Hakka và Hoklo đã cố gắng giữ gìn tiếng nói của họ bằng nhiều phương cách. Một trong những phương cách là sáng tạo ra chữ viết mới dùng chữ Hán tạo ra loại chữ gọi là Koa-a-chheh vào thế kỷ 17 dưới thời kỳ thuộc nhà Thanh. Cấu tạo loại chữ này cũng tương tự một phần như chữ Nôm (Việt Nam), hoặc dùng âm chữ Hán để chỉ chữ địa phương, hoặc dùng nghĩa chữ Hán cho âm địa phương. Tuy nhiên các tiêu chuẩn chưa được thống nhất và có sự tùy tiện của người viết. Đến cuối thế kỷ 19, loại chữ viết này biến mất dần. Đầu thế kỷ 20, chữ cái Latin cũng được dùng để thể hiện tiếng nói địa phương (tương tự như chữ Quốc ngữ sau này ở Việt Nam). Nhưng hệ thống chữ này, gọi là Peh-oe-ji, đã không thành công, một phần là do chính sách của Quốc Dân Đảng. Chính sách của Quốc Dân Đảng là phát triển chính thức chữ Hán Quan Thoại để nó trở thành phổ thông trong đời sống xã hội, chính trị. Chữ mới này có thể gây nguy cơ giúp văn hóa địa phương phổ biến đe dọa sự độc tôn của Hán văn cổ điển mà Quốc Dân Đảng xây dựng từ khi đến Đài Loan (8), vì thề chính quyền Quốc Dân Đảng đã ngăn cấm loại chữ này. Vì chính sách ngôn ngữ và văn hóa độc tôn, trọng Hán của chính phủ Quốc Dân Đảng trước đây, rất nhiều thanh niên thuộc các thế hệ mới gần đây đã quên đi tiếng mẹ đẻ của họ. Chính sách này được thể hiện qua việc cấm dùng tiếng địa phương trên truyền thanh và truyền hình. Không những thế, trường học nào 9ể học sinh nói tiếng địa phương, không phải tiếng Quan Thoại, bị phạt tiền. Ông Trần Thủy Biển hiện nay (và trước đó ông Lý Đăng Huy), đã có chính sách cho phép các ngôn ngữ địa phương được dùng và dạy trong môi trường đa văn hóa ở xã hội Đài Loan. Bảo tồn và phát triển các loại văn hóa bản xứ đều được khuyến khích. Ở Đài Bắc, Cao Hùng và nhiều nơi khác, các trung tâm văn hóa Hakka, Hoklo, thổ dân đã được thành lập. Tháng 4/2001, ông Trần Thủy Biển cũng đã chính thức khánh thành viện bảo tàng văn hóa và lịch sử Hakka lớn nhất Đài Loan ở thành phố Meinung, thuộc quận Cao Hùng. Trong nội các chính phủ, ông thành lập Ủy ban Văn hóa Hakka, với hy vọng sẽ biến Đài Loan thành trung tâm nghiên cứu về văn hóa Hakka cao cấp nhất thế giới. Từ giữa thập niên 1980s cho đến nay, song song với sự thành lập phong trào dân chủ và đảng đối lập Dân Chủ Tiến Bộ, có phong trào Taibun (Đài văn) phổ biến văn học bản xứ Taigi (Đài ngữ). Mục đích của pong trào Đài văn là phổ biến văn học Đài Loan, dùng ngôn ngữ và chữ viết địa phương trong các địa hạt giáo dục, xã hội, để chống lại quan điểm là chỉ có văn học Hán văn viết về Trung Quốc là có văn hóa cao được quý trọng. Còn văn học viết về Đài Loan chỉ là văn hóa “xóm làng” ở địa hạt nhỏ bé trong văn học rộng lớn Trung Quốc. Quan điểm coi nhẹ, đánh giá thấp văn hóa địa phương từ trước đến nay của chính quyền Quốc Dân Đảng và của đa số các nhà trí thức Hán học quan thoại cổ điển từ lục địa đi qua, đè nặng vào lối suy nghĩ tâm linh của họ, đã bị chỉ trích. Phong trào Đài văn, ngược lại, lấy văn học, những gì liên quan hay viết đến Đài Loan bản xứ làm sự hãnh diện, chứ không phải là một sự hổ thẹn “xóm làng”.Phong trào Đài văn một phần đã thành công trong sự gợi dậy niềm tin và phát triển văn hóa, cũng như ngôn ngữ Đài Loan bản địa (Hoklo). Nhưng sự thống nhất và tiêu chuẩn hóa chữ viết chưa thực hiện được. Lý do chính là vì có nhiều hệ thống chữ dùng các từ Hán để phát âm (tương tự như chữ Koa-a-chheh trước đây) được sáng chế khác nhau. Ngay cả khi một trong các loại chữ này, như chữ Ganbun chẳng hạn, được nhiều người dùng hơn, thì vấn đề kỷ thuật trên máy tính và phần mềm xử lý để tạo ra chữ Ganbun đã gặp khó khăn. Vì hiện nay chỉ có chữ Hán là có sẵn và phổ thông trên thị trường máy tính mà thôi. Do đó hiện nay chỉ có chữ Hán Đài ngữ và Latin Đài ngữ (Peh-oe-ji) là được dùng nhiều nhất trong phong trào Đài văn. Nói tóm lại, có thể cho rằng tình trạng các dân tộc Hakka, Hoklo (Mân Việt) ở Đài Loan ngày nay cũng giống như tình trạng ở Giao Châu trước khi Ngô Quyền giành được độc lập cho Lạc Việt. Dân tộc Lạc Việt đã cố gắng giữ gìn văn hóa của mình, trong gần 1.000 năm Hán thuộc, để không bị Hán hóa. Nhưng tình hình ở thế kỷ 21 khác nhiều về không gian thế giới, do đó tình trạng của họ có khó khăn nhiều hơn, và có thể không có nhiều hy vọng trên con đường tiến đến độc lập như ông cha ta thuở trước. Tuy vậy, không ai có thể đoán trước được những gì sẽ ảy ra trong tương lai. Đối với Việt Nam, những gì sẽ xảy ra ở Đài Loan đều có ảnh hưởng ít nhiều về phương diện kinh tế và chính trị. Quan trọng hơn, nó còn chứa nhiều ý nghĩa đáng cho ta suy nghĩ về chính mình trong lãnh vực tư tưởng. _______ 1) Scott S., “Formosa diary #22, May 20 : A great proletarian cultural revolution”, Southeast Asia Discussion List, 25 May 2000. 2) Lin M., Chu L., Lee H. et al., “Heterogeneity of Taiwan’s indegenious population : possible relation to prehistoric Mongoloid dispersals”. Issue Antigens, 2000:55:1-9. 3) Lin M., Chu CC., Chang SL., Lee HL., Loo JH., Akasa T., Juji T., Ohashi J., Tokunaga K., “The origin of Minnam and Hakka, the so-called “Taiwanese”, inferred by HLA study”. Issue Antigens, 2000:57:192-199. 4) Tsai Ting-I, “Tracing Taiwanese bloodlines”, The Taipei Times, 6 May 2001. 5) Norman J., “Chinese”. Cambridge language surveys, Cambridge University Press 1988. 6) Norman J., Mei Tsu-lin, “The Austroasiatics in ancient south China : some lexical evidence”. Menumenta Serica, 1976, 32.274-301. 7) Sagart L., “Gan, Hakka and the formation of Chinese dialects”, tài liệu qua liên lạc cá nhân (chưa đăng trên tạp chí). 8) Wi-vun, Taiffalo Ching, “Language, Literacy and nationalism : A comparative study of Taiwan and Vietnam”. Vietnam Journal, Vol. 1, Oct. 2001. Nguyễn Đức Hiệp – Hoa Sen1 like
-
Tự thân chúng sanh vốn đã gây bao ác nghiệp khởi vô thủy Tham Sân Si từ Thân khẩu ý nay phát tâm giải thoát nghiệp căn để sinh vật được trở về sông nước. Chúng sanh xin sám hối tiêu trừ nghiệp chướng, Cầu xin siêu thăng tịnh độ cho khắp hương linh, an nhiên cho bá gia bá tánh làm lành tránh dữ. Hình ảnh chuyến đi Phóng sinh của chúng tôi hôm nay tại chùa Diệu Pháp. Dưới chân tượng Mẹ Quan thế Âm, Đại Đức chùa Diệu Pháp đã chú nguyện Pháp Phóng Sinh. Wild và Vợ Chú Thiên sứ cùng dâng hương nghe pháp giải thoát. Hồi hướng công đức cúng dường tam bảo. Sinh vật được giải sinh. Rùa nhỏ chúng ta chỉ có thể thả gần bờ. Số còn lại ra sông lớn. Lươn, cá sẽ vẫy vùng sông nước.. Tôi vẫn làm cái điều tôi nghĩ là giải thoát còn lại chúng đi đâu hay bị người ta bắt lại đó là nghịch duyên.1 like
-
Phần 6 Phần 1 Phần 2 Phần 3 Phần 4 Phần 5 Phần 7 Phần 8 Phần 9 Phần 101 like