-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 06/08/2010 in all areas
-
Nguyễn Văn Lanh, anh hùng trở về từ Trường Sa... 05/08/2010 16:45:52 - 23 tuổi, anh Nguyễn Văn Lanh, trung sĩ trung đoàn 83, Quân chủng Hải quân được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. TIN LIÊN QUAN Nhớ Trần Đức Thông, anh hùng liệt sĩ Trường Sa Ký ức của "những người anh hùng" trên biển “Pa Ven” Nguyễn Văn Lanh Anh là một trong những chiến sĩ hải quân đã chiến đấu anh dũng trong trận đánh nổi tiếng ngày 14/3/1988 tại Trường Sa. Anh Nguyễn Văn Lanh năm nay 44 tuổi, hiện công tác tại Bộ tư lệnh Hải quân đóng tại TP.HCM. Ở đây, tất cả mọi người gọi anh là “anh hùng Lanh”. Anh hùng Nguyễn Văn Lanh và tấm thẻ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thiêng liêng. Ảnh: P. T Trở về từ trận chiến anh hùng ngày 14/3/2010, "Paven" Nguyễn Văn Lanh bị “mất” đến 75% với thương tật ở bả vai, vết thương ở phổi và cánh tay phải bị liệt. Khó ai hình dung được người thương binh ¼, chỉ 39 kg, chỉ có thể làm được những việc nhẹ, trước kia là một thanh niên 76kg. Anh yếu sức và bất cứ khi nào cũng có thể phải đến viện điều trị. Hỏi anh nhớ gì về những kỷ niệm cũ, bao giờ Nguyễn Văn Lanh cũng nhắc tới những người bạn lính đảo cũ, có nhiều người đã hy sinh để giữ đảo. Giờ Nguyễn Văn Lanh vẫn ở trong quân ngũ nhưng làm nhiều công việc khác nhau. Có lúc anh đã là bảo vệ cho một xí nghiệp may, rồi hiện tại về công tác tại Ban Doanh trại của Bộ Tư lệnh hải quân - Quân đội Nhân dân Việt Nam. "Lao ra giữ lấy cờ..." Tháng 2/1988, Nguyễn Văn Lanh cùng đồng đội nhận được lệnh ra Trường Sa xây dựng công trình phòng thủ. Xen lẫn với niềm vinh dự khi được giao trọng trách lớn lao là những tâm sự ngổn ngang của một thanh niên 22 tuổi. Anh kể: “Trước khi đi, tôi đã viết hai lá thư về quê ( xã Vạn Ninh, huyện Lệ Ninh, Quảng Bình). Một lá thư cho bố mẹ và 7 anh chị em trong gia đình động viên, giúp mọi người vững tin hơn. Bức thư thứ hai cho người yêu với ước nguyện cầu mong người ta gặp duyên mới”. Trận đánh ngày 14/3/1988 được ghi lại trong nhiều cuốn sách của ngành hải quân. Ảnh: P. T "Sáng ngày 14/3/1988, đồng chí Nguyễn Văn Lanh trong khi cùng đơn vị vận chuyển vật liệu từ tàu HQ 604 lên đảo thì tàu địch đến bao vây, uy hiếp. Tình thế rất căng thẳng. Khi địch đổ quân xuống đảo, ép bộ đội, giật cờ của ta hòng chiếm đảo, theo lệnh của đồng chí Trần Đức Thông, chỉ huy cụm đảo: "Đồng chí nào biết bơi thì bơi ngay vào đảo hỗ trợ cho các đồng chí trên đảo bảo vệ cờ". Nguyễn Văn Lanh cùng 11 anh em khác nhảy ngay xuống biển và bơi vào đảo. Khi đó trên đảo, địch đã nổ súng, đồng chí Trần Văn Phương, người giữ cờ đã hy sinh. Nguyễn Văn Lanh đã xông đến, bảo vệ cờ... Nguyễn Văn Lanh được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng nhất, 3 bằng khen và giấy khen. Ngày 13/12/1989, đồng chí Nguyễn Văn Lanh đã được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân". Anh hùng Nguyễn Văn Lanh bồi hồi nhớ lại: “Nhìn thấy người đồng đội thân thiết hi sinh, như có một nguồn sức mạnh vô hình, tôi lao vào giữa vòng vây, xông lên, giành lấy lá cờ Tổ quốc... Anh hùng Nguyễn Văn Lanh- 1 trong 342 anh hùng thời kỳ đổi mới xây dựng & bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ 1975- 2000. Ảnh: P. T Không uy hiếp được bộ đội ta rời khỏi đảo, phía bên kia lại dùng hai tàu bắn pháo 100 mm vào HQ 604, làm tàu bị hỏng nặng. Anh em trên tàu bị thương gần hết nhưng vẫn đánh trả quyết liệt. Tuy vậy, tối 14/3/1988, tàu HQ 604 chìm dần… Rất nhiều anh em đã nằm lại với biển khơi cùng tàu HQ 604 tại khu vực đảo Gạc Ma. Anh Lanh, cùng với 43 anh em khác (trong đó có 7 thương binh và 1 tử sĩ) được tàu HQ- 505 (lúc đó đang chiến đấu tại đảo Cô Lin) tiếp cứu an toàn. Khi biển bình yên, Nguyễn Văn Lanh được đồng đội tìm kiếm và đưa ra tàu HQ 505 cấp cứu, sau đó được đưa về tuyến sau điều trị". (Ghi theo cuốn Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam). "Tôi từng được lập bàn thờ ở quê" Hơn 1 năm ròng rã sau đó, anh được chuyển đi khắp các bệnh viện trong Nam, ngoài Bắc. Sau gần 4 năm trời nằm hết bệnh viện quân đội này đến bệnh việc khác 175 rồi 108 rồi 103, Nguyễn Văn Lanh cũng đã có thể ngồi dậy, đã có thể đi lại nhưng sức khỏe chỉ còn lại quá ít... Cuối tháng 12/1989, anh trở về quê hương thăm gia đình. “Cả nhà tôi như được sống lại lần thứ 2. Ở quê, các cụ đã lập bàn thờ, xây mộ giả… Trở về trong thương tật, với tôi là niềm hạnh phúc lớn. Bởi, trước lúc ra đi, tất cả anh em đều đã xác định có thể không thể trở về…”, anh tâm sự. Đã 22 năm, ước muốn lớn nhất của anh Lanh là sức khỏe tốt hơn để được một lần đi tàu ra biển khơi, tại vị trí chiến đấu năm xưa. Và, kể chuyện với những đồng đội đã hi sinh, bằng tâm tưởng… Ngày 13/12/1989, anh Nguyễn Văn Lanh được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong lần phong tặng danh hiệu anh hùng năm đó (23 tuổi), anh là anh hùng trẻ nhất, người nhiều tuổi nhất là anh hùng Núp của quê hương Tây Nguyên. Anh Nguyễn Văn Lanh là một trong 342 anh hùng thời kỳ đổi mới xây dựng &bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa từ 1975- 2000. (Theo cuốn “Chân dung anh hùng thời đại Hồ Chí Minh”, tập I, NXB Lao động, NXB Quân đội Nhân dân, 2000). Phan Tú2 likes
-
Thân gửi ACE hội viên ! Thời gian gần đây tôi thấy rất nhiều câu hỏi của ACE về việc luận tuổi vợ chồng, chọn năm sinh con, chọn ngày tháng cưới hỏi - động thổ làm nhà, ... nhưng các câu hỏi tản mạn ở nhiều topic khác nhau nên người tư vấn mất nhiều thời gian để "tìm câu hỏi và trả lời" !? Vì ACE tư vấn cũng phải giành thời gian cho việc mưu sinh nên tôi mở topic này để từ vấn cho ACE hội viên những vấn đề có liên quan đến tương quan tuổi vợ chồng con cái, chọn ngày động thổ - làm nhà, ... Tôi yêu cầu các bài viết nhờ tư vấn : - Cung cấp đầy đủ thông tin về ngày tháng năm của người được tư vấn + người thân. Nội dung cần tư vấn phải rõ ràng. - Những câu hỏi đòi hỏi phải phân tích chi tiết (ví dụ như tại sao lại như vậy, hay hãy giải thích ...) sẽ không nhận được câu trả lời mà được chỉ đến các bài viết có tính lý thuyết để người hỏi tự nghiên cứu. - Văn phong nhã nhặn, cách xưng hô "Anh - em". - Việc tư vấn là tùy duyên nên không sốt ruột, lần lượt từ trên xuống dưới. ACE hội viên có khả năng tư vấn có thể vào topic này để cùng trao đổi. Linh Trang1 like
-
Topic này thuộc về nội dung của Phong Thủy. Ông Chủ Tịch Tập đoàn Vinashin không thể mời thấy phong thủy loại cơm gạo rồi. Tất nhiên phải rất giỏi. Sự thất bại của Vinashin không thể kết luận là Phong Thủy sai. Hơn nữa, trong lúc đang đắc thời, chưa chắc người ta đã tin vào điều mà ngườii ta không hiểu lắm. Điều này cũng chứng tỏ rằng: Phong Thủy cũng chỉ là một phương pháp tác động, một thứ công cụ hỗ trợ cho cuộc sống bởi những tri thức về quy luật tương tác mà con người nằm bắt được, rồi qui ước trong phương pháp ứng dụng. Cho dù nó thuộc về một trí thức cao cấp và vượt trội thì cũng không nằm ngoài định lệ này. Nó cũng tương tự như các phương pháp ứng dụng của khoa học hiện đại, làm phong phú thêm cho định lượng cuộc sống của con người, nhưng không thể thay đổi định tính của những quy luật thăng trầm - quen gọi là định mệnh. Vận đã suy thì phong Thủy cũng chỉ đỡ được phần nào mà thôi. Phong thủy của một ngôi gia, của trụ sở của cả một tập đoàn, thậm chí của cả một thành phố....vẫn phải lệ thuộc vào điều kiện thinh suy của cả khu vực môi trường nó tọa lạc. Cả cái môi trường ấy - với vị trí một quốc gia - thì còn lệ thuộc vào quy luật tương tác của vũ trụ lên Địa cầu này. Có điều là biết trước thì sự tiến thoái dễ dàng hơn mà thôi. Lý học Đông phương là một tri thức cực kỳ cao cấp. Nhưng dù có tài đến như Tề Thiên Đại thánh thì vẫn không vượt qua được quy luật của tạo hóa. Bàn tay của Phật tổ chụp Đại Thánh trong truyện Tây Du Ký cho thấy một biểu tượng của Âm Dương Ngũ hành - Đại thánh không vượt qua được.1 like
-
Chữ "thoại"
Thiên Bồng liked a post in a topic by Lãn Miên
Từ “THOẠI” là từ Việt gốc Hán hay là từ Việt gốc Huế? Lãn Miên. Ngày nay ta quen dùng từ “đối thoại” mà các nhà hàn lâm nói đó là từ Hán-Việt tức từ Việt gốc Hán. Từ “đối” thì trong tiếng Việt, vì có nhiều lối đếm , trong đó có lối đếm “đếch”=0, “đứa”=1 , “đôi”=2, có đôi (như đôi đũa của nền văn minh lúa nước thì ắt có “đối”, Quan Thoại nói “soang” dép chứ không nói đôi dép, còn đôi câu đối thì nó là sản phẩm của chữ Nho, câu đối hay bài thơ Đường mà đang đọc giọng Việt 越=粤 nghe đúng vần điệu vậy mà nếu đọc như giọng Quan Thoại thì chẳng còn gì là luật âm vận cả) vậy “đối” là gốc Việt rõ ràng (tiếng Quan Thoại tương ứng là “líng”=0, “yi”=1, “ar”=2). Còn từ “thoại”? Muốn tìm nó gốc từ đâu ra trước hết hãy hiểu rằng trong tiếng Việt mỗi âm tiết là một từ có nghĩa và nó không phân biệt nó là động từ, tính từ hay trạng từ như trong tiếng Tây, mà nó gì cũng là cả. Ví dụ: “Bác ấy có nói mời cụ sang xơi cơm ạ” = “Bác ấy có lời mời cụ sang xơi cơm ạ” = “Bác ấy có nói lời mời cụ sang xơi cơm ạ” = “Bác ấy có lời nói mời cụ sang xơi cơm ạ”, tức là NÓI=LỜI=NÓI LỜI=LỜI NÓI chứ không phải phân tích “nói” là động từ,"lời" là trạng từ như ngữ pháp Tây. Ta phải đi từ “NA” nghĩa là “nói”,nó là cổ xưa nhất từ thời cổ đại trong từ NÔM NA nghĩa là người Nam nói, tức người Bách Việt ở phía nam sông Dương Tử nói, NÔM NA nghĩa là tiếng người Nam tức tiếng Bách Việt. Từ NA ấy trong tiếng Đài Loan thì gọi là LA, ở Việt Nam nhiều vùng cũng gọi là LA, trong tiếng Nhật thì gọi là HA-NA-XƯ nghĩa là nói, mà khi đem nó VÔ trong nôi Âm Dương của người Lạc Việt (giống cái vật chứa là cái VỎ hình bầu, như cái VÒ chứa rượu, như cái VÓ chứa cá, như cái VŨ 宇 là bầu không gian của vũ trụ chứa hết tất cả, như cái VÚ là bầu chứa sữa nơi người mẹ, như cái RỔ, cái RỌ, cái BỒ, cái TÔ chứa canh, cái MO chửa chứa cái nang cau…) để VO thì nó bị VÒ rụng mất đầu HA và rụng mất đuôi XƯ đi còn lại NA là nói của Bách Việt. NA trong nôi Âm Dương Lạc Việt đẻ ra: NÍN…NẢY-NÒI…NÓI ( NÍN là không nói, NÍN=0, đương nhiên NÓI=1, NẢY-NÒI là khi NA đang tự tách đôi trong nôi, cặp Âm-Dương dính nhau này có nghĩa là “bắt đầu nói”, ví dụ: “mày lại nảy-nòi yêu sách gì đấy?” = “mày lại bắt đầu nói yêu sách gì đấy?”). Vì NA còn gọi là LA, nên LA trong nôi Âm Dương Lạc Việt đẻ ra: LẶNG…LẤP-LỬNG…LỜI (LẶNG là không nói, im lặng, LẶNG=0, đương nhiên LỜI=1, LẤP-LỬNG là chưa rõ vì nó đang còn dính nhau trong nôi, nó chưa hẳn thành lời). LỜI lại đẻ ra: LỊM…LẬP-LỜ…LỐI (LỊM là không nói gì, ngất lịm là ngất không nói gì, LỊM=0, LỐI là "nói rõ ràng từng từ một”, chỉ lối tức chỉ cho rõ ràng từng từ một, đường lối tức đường được nói rõ ràng từng từ một, nói lối hay hát lối là đoạn trong hát trong chèo ,đang hát theo điệu thì đào hay kép chuyển sang nói rõ ràng từng từ một; LẬP-LỜ là nói chưa rõ ràng vì chúng đang còn dính nhau trong nôi, chưa trường thành). Ta có các từ ghép NÓI LỜI=LỜI NÓI= LA LỐI và có từ ghép NÓI LỐI ở khái niệm khác. Nhưng NA còn dẫn đến NHẢ cũng nghĩa là nói, “nhả lời châu ngọc” = “nói lời châu ngọc”. NHẢ đẻ ra: NHỊN…NHẤP-NHỔM…NHẮN (NHỊN là không nói, NHỊN=0, đương nhiên NHẮN=1, NHẤP-NHỔM là đang chuẩn bị nhắn chứ chưa tới nhắn vì nó đang nảy nở trong nôi). NHẮN dẫn đến DẶN đều là các hình thái của nói cả, (chưa kể đến còn NHẮN-NHỦ rồi DẶN-DÒ) và dẫn đến NGÔN viết bằng chữ Nho là 言. NA còn dẫn đến NGẢ nghĩa là nói, “ngả lời chào hỏi” = “nói lời chào hỏi”, “ngả giá bao nhiêu” = “nói giá bao nhiêu”. NGẢ đẻ ra: NGẬM…NGẬP-NGỪNG…NGỎ (NGẬM là không nói, NGẬM=0, đương nhiên NGỎ=1, “ngỏ lời mời” = “nói lời mời”; NGẬP-NGỪNG là rất muốn NGỎ nhưng vì đang còn trong nôi chưa lớn tới NGỎ). NGỎ đẻ ra: NGHẸN…NGỌNG-NGHỊU…NGỮ (NGHẸN là không nói, “nghẹn giọng” là không thành tiếng, “nghẹn lời” là không thành lời, NGHẸN=0, đương nhiên NGỮ=1=nói, NGỌNG-NGHỊU là chưa nói được rõ lời vì nó đang còn nằm trong bọc nôi. NGỎ là nói, nó còn dẫn đến là “GÔ” trong tiếng Nhật, là “GÍ” trong tiếng Đài Loan, là GỌI trong tiếng Việt, và tất cả các âm tiết ấy đều viết bằng một chữ Nho là NGỮ 語. "Ni-hon Go" 日 本 語 là Nhật Bản Gọi tức Nhật ngữ, "Đài Gí" 台 語 là Đài Gọi tức Đài ngữ,cũng còn gọi là "Đài la" 台 罗. Đến đây thì ta thấy rõ là NGÔN NGỮ=LỜI NÓI=NGỮ NGÔN=NÓI LỜI là do từ NA của Bách Việt mà ra, NGỮ NGÔN 語 言 là từ Việt gốc Bách Việt ,chứ không phải là từ Hán- Việt như vẫn quan niệm.(Quan Thoại dùng hai chữ đó 語 言 và phát âm là “ủy yán”). NA còn dẫn đến THẢ cũng là nói, “thả lời ong bướm” = “nói lời ong bướm”. THẢ đẻ ra: THÍT…THẦM-THÌ…THÓI (THÍT là không nói, “nín thít”, THÍT=0, THÓI là nói, “thói hư tật xấu” = “nói thì không đúng, hành vi thì xấu”, “quen tật quen thói” = “quen hành vi và lời nói”, THẦM-THÌ là nói rất nhỏ vì đang còn nằm trong bọc nôi. Từ THÓI nầy người Huế phát âm là “thoái”, cũng như từ NÓI thì họ phát âm là “noái”, lại do giọng nặng nữa nên thành ra “thoái” họ phát âm ra “thoại”. Vào kinh đô Huế đi thi mà thầy phát âm là “thoại” thì trò cũng phải cắn răng mà theo không thì rớt điểm, bởi vậy mới có chữ 話 là lời nói bị phát âm là THOẠI . Đó là một từ Việt gốc Bách Việt mà phát âm theo giọng Huế. THÓI đẻ ra: THIN…THỦ-THỈ…THỐT (THIN là không nói, “im thin thít”, THỦ-THỈ là nói nhỏ vì còn trong nôi, THỐT là nói, “biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”). THỐT đẻ ra: THINH…THẼ-THỌT…THUYẾT (THINH là không nói, làm thinh, lặng thinh; THẼ-THỌT là nói nhỏ vì đang còn trong nôi, THUYẾT là nói dài dòng). Chữ THUYÊT 說 là một từ Việt gốc Bách Việt. Người Quan Thoại dùng chữ THUYẾT THOẠI 說 話 là hai chữ Nho và họ phát âm là “sua họa” nghĩa là nói lời. THUYẾT đẻ ra: THÔI…THỎ-THẺ…THÉT (THÔI là không nói nữa,THÔI=0, đương nhiên THÉT=1=nói to, còn THỎ-THẺ là nói còn nhỏ vì nó đang còn dính trong nôi). Hóa ra những từ mà người ta vẫn gọi là từ Hán- Việt lại là từ do Nôm na mà ra vì chữ Nôm có trước chữ Hán. Trong bảo tàng Cố Cung ở Bắc Kinh Trung Quốc có một bản đồ minh họa khởi nguồn văn tự toàn thế giới, trong đó chữ viết sớm nhất là chữ Ai Cập. Chữ Hán đến năm 1300 BC mới có, đến nay mới được 3300 năm, tức là 1300 BC về trước thì mới chỉ là sử tiền sử vì chưa có văn tự. Nhưng chữ Hán là trên nền của chữ Nho. Khổng Tử là người đầu tiên dùng chữ Hán viết nên bộ sách sử đầu tiên gọi là “Xuân Thu”, Ông sinh năm 551BC, mất năm 479 BC, tức Ông sinh ra cách nay khoảng 2600 năm. Ngược về trước,thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, Nghiêu, Thuấn … là lịch sử của Bách Việt . Chữ khoa đẩu và chữ rắn thì ngày nay mới sáng tỏ ra là nó có cách nay 5000-6000 năm, sau nó là chữ Nho. Lãn Miên1 like -
TƯ LIỆU THAM KHẢO Lầu Năm Góc cảnh báo Triều Tiên Thứ sáu, 06/08/2010, 08:27(GMT+7) VIT - Mỹ hôm 05/8 đã cảnh báo rằng bất kỳ hành động khiêu khích nào thêm nữa từ Triều Tiên sẽ đều không được dung thứ. Cảnh báo trên được đưa ra khi Triều Tiên đe dọa đáp trả các cuộc tập trận quân sự chung Mỹ - Hàn ở Đông Hải tháng trước. “Dù thế nào họ cũng không nên cảm thấy bị đe dọa bởi các cuộc tập trận này, trong khi cùng lúc họ nên hiểu rằng bất cứ hành động gây hấn nào khác sẽ không được khoan dung”, phát ngôn viên Lầu Năm Góc Geoff Morrell cho biết. Các cuộc tập trận trên được tổ chức với sự tham gia của tàu sân bay USS George Washington sau khi Hàn Quốc cáo buộc Triều Tiên đánh chìm tàu Cheonan của họ bằng ngư lôi hồi tháng 3, cướp đi sinh mạng của 46 thủy thủ. Triều Tiên đã chối bỏ trách nhiệm trong vụ chìm tàu này. “Các cuộc tập trận, như chúng tôi đã nói nhiều lần, chỉ là tự vệ. Chúng được thiết kế không chỉ bảo đảm rằng chúng ta hợp tác cùng nhau ở khả năng tối đa mà còn ngăn chặn các hành động khiêu khích quân sự thêm nữa trong tương lai đối với lực lượng Hàn Quốc, lực lượng của chúng ta”, Morrell nói tiếp. Ngày 05/8, Hàn Quốc bắt đầu cuộc tập trận hải quân kéo dài 5 ngày về các chiến dịch chống ngầm trên vùng lãnh hải gần hiện trường đắm tàu Cheonan trên Hoàng Hải. Phát ngôn viên Lầu Năm Góc nhấn mạnh, các cuộc tập trận chung tiếp theo được lên kế hoạch trong những tuần tới. “Làn sóng các cuộc tập trận này, các cuộc tập trận nối tiếp, mang tên “Tinh thần bất khả chiến bại”, đã tới và kết thúc. Hiện chúng tôi ở đây để bắt đầu “Người bảo vệ Tự do Ulchi”, cuộc tập trận thường liên diễn ra giữa hai quân đội. Rõ ràng, chúng tôi cũng đang lên kế hoạch cho các cuộc tập trận phòng không và hải quân tiếp theo giữa quân đội hai nước như chúng tôi đã nói trước đó. Chúng sẽ diễn ra ở cả Đông Hải và Tây Hải”. HN (Theo Yonhap) Tin dịch ----------------------------------------------- Mỹ vẫn sẽ điều tàu sân bay tới Hoàng Hải Thứ sáu, 06/08/2010, 08:06(GMT+7) (Ảnh Yonhap) VIT - Lầu Năm Góc hôm qua (05/8) cho biết, tàu sân bay USS George Washington sẽ tham gia cuộc tập trận hải quân chung tại Hoàng Hải bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. “Hàng không mẫu hạm USS George Washington sẽ tập trận tại Hoàng Hải, tại Biển Tây. Nhưng tôi không không biết khi nào cuộc tập trận có sự tham gia của chiến hạm này sẽ diễn ra. Một phần trong một chuỗi các cuộc tập trận mà chúng tôi tiến hành sẽ có sự góp mặt của George Washington, trong đó có cuộc tập trận tại Hoàng Hải ”, phát ngôn viên Lầu Năm Góc Geoff Morrell phát biểu với báo giới. Tuyên bố của phát ngôn viên trên đưa ra giữa lúc có sự chỉ trích rằng Washington quỵ lụy Bắc Kinh trong việc thực hiện cuộc tập trận hải quân chung Mỹ - Hàn tại Đông Hải hồi cuối tháng trước nhằm đáp trả việc Triều Tiên nã ngư lôi vào tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc hồi tháng 3. Ban đầu Seoul và Washington dự kiến tiến hành cuộc tập trận chung này tại Hoàng Hải – nơi diễn ra vụ đắm tàu Cheonan – nhưng sau đó địa điểm tập trận đã được chuyển sang Đông Hải sau khi Trung Quốc phản đối gay gắt bất cứ cuộc tập trận nào gần hải phận của họ, đặc biệt với sự tham gia của một tàu sân bay. Trong những tuần gần đây, Trung Quốc đã thực hiện một series tập trận hải quân và không quân tại Biển Đông, dường như để trả đũa cuộc tập trận chung đã được tổ chức hoặc lên kế hoạch của Mỹ và Hàn Quốc. Bắc Kinh cũng được cho là tức giận với Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, người mà tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) tại Hà Nội hồi cuối tháng trước, đã đề cập đến tranh chấp về các đảo nhỏ và nguồn tài nguyên biển tại Biển Đông. Vấn đề từ lâu đã bị cấm kị tại ARF dưới sự ảnh hưởng của Trung Quốc. Quan hệ Trung – Mỹ cũng xấu đi vào đầu năm nay sau khi Washington quyết định bán trên 6 tỷ USD vũ khí cho Đà Loan và cho phép lãnh đạo tinh thần Tây Tạng Đạt Lai Lạt Ma tới thăm Washington. Trung Quốc đã hủy bỏ lời mời Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates tới thăm Bắc Kinh vào tháng 5 do sự phản đối của quân đội. Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ James Steinberg khẳng định, việc Trung Quốc không sẵn lòng đổ lỗi cho Triều Tiên đánh chìm tàu tàu Cheonan là lí do căn bản khiến Mỹ - Hàn tiến hành cuộc tập trận 4 ngày tại Đông Hải vào cuối tháng trước với sự tham gia của USS George Washington. “Mặc dù đợt tập trận này không nhằm vào Trung Quốc nhưng nó là kết quả trực tiếp của việc Trung Quốc ủng hộ Triều Tiên và không sẵn sàng lên án hành động gây hấn của Bình Nhưỡng”, phát ngôn viên Steinberg phát biểu tại một diễn đàn ở Trung tâm Nixon vào tuần trước. Washington trong tư thế sẵn sàng thông báo lệnh trừng phạt tài chính bổ sung đối với Triều Tiên trong những tuần tới. Hiện Triều Tiên hứng chịu các lệnh trừng phạt của LHQ áp đặt vào đầu năm ngoái do nước này thử hạt nhân và tên lửa. Trong khi đó, Morrell phát biểu với báo giới rắng, bất cứ hành động khiêu khích nào khác của Triều Tiên đều không được dung thứ. Trong diễn biến liên quan, hôm qua, Hàn Quốc đã bắt đầu cuộc tập trận hải quân 5 ngày với nội dung chính là hoạt động chống ngầm tại hải phận gần nơi diễn ra vụ chìm tàu Cheonan tại Hoàng Hải. Phát ngôn viên trên của Lầu Năm Góc cho biết, Mỹ - Hàn đã lên kế hoạch tạp trận chung trong những tuần tới. NM (Theo Yonhap) Tin dịch ------------------------------------------ Lời bàn của Thiên Sứ: Anh trả lại em những mộng mơ. Trong chiều buông nắng liễu xanh mờ.... Giọt sầu trinh nữ vương trên mắt. Thuở mà trăng nước chẳng thành thơ. * Anh trả lại em những đợi chờ. Những đêm thao thức, những bơ vơ. Trả là me bay vương trên tóc. Trong trời thu gọi gió ngẩn ngơ.1 like
-
Tôi đã tư vấn 2 ngôi nhà trong khu này nên khi nhìn sơ đồ tôi đã thấy ngờ ngợ. Ở khu Ciputra này, việc khó nhất chính là bếp và vị trí thoái khí ở nhà vc dưới gầm cầu thang cũng như ở tầng 2. Nếu mặt tiền nhà nhìn ra bức tường (bên ngoài là nghĩa trang) thì nhà bạn có khả năng là hướng Nam. Thân chào1 like
-
Kì lạ trâu trả thù đoạt mạng chủ Một cái chết thương tâm vừa xảy tại thôn Ba Bàu, xã Hàm Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam (Bình Thuận) mà người dân thôn Ba Bàu cho là chuyện kì lạ hi hữu. Nạn nhân là ông Lê Thanh Nghiêm (SN 1959) được người dân phát hiện nằm chết tại bờ ruộng. Nhận được tin báo, cơ quan CA huyện Hàm Thuận Nam đã nhanh chóng có mặt tại hiện trường khám nghiệm, kết quả cho thấy nguyên nhân gây nên cái chết của ông Nghiêm là do bị trâu của nhà húc. Theo gia đình của ông Nghiêm thì trước đó vài ngày, do con trâu nhà ông Nghiêm phá hoại hoa màu nên đã bị ông Nghiêm đánh, vì thế mà nó “để bụng thù” và đã húc chết ông. Ngày 04/08, cơ quan CA huyện Hàm Thuận Nam sau khi đã khám nghiệm tử thi đã làm thủ tục bàn giao thi thể ông Nghiêm cho gia đình đem về mai táng. Theo Hoàng Công VTC News1 like
-
CỐ ĐÔ PHIÊN NGUNG NƯỚC NAM VIỆT NGÀY XƯA Trương Quang Chuyến bay nội địa Trung Hoa rời phi trường Hoàng Châu, vượt 2230 Km trong 1 giờ 40 phút, đưa đoàn du lịch 26 người bước xuống phi cảng. Bạch Vân củ thành phố Quảng Châu giữa trưa ngày 24/01/2003. Phi cảng quốc tế Bạch Vân (Baiyum) vốn đã lớn rộng, trước mắt chúng tôi con đường xây cất và giải tỏa ngoại vi trongb kế hoạch phát triển thành sân bay hiện đại nhất của Trung Quốc vào tháng 10/2003. Đến hôm nay, nếu so sánh với các phi cảng quốc tế trong vùng Đông Nam Á về số lượng hành khách và số lần tiếp nhận phi cơ quốc tế thì phi cảng Bạch Vân khấm khá hơn các phi cảng Pudoug (ở Thượng Hải), Kuala Lumpur (Malaisia) và Tân Sơn Nhất (Việt Nam); tương đương với các phi cảng Inchon (ỏ Hán Thành), Narita (Nhật Bản), Hồng Kông International Airport và Don Muang ( Bangkok), nhưng khó có thể bắt kip phi cảng Changi ở Singapore cả về phẩm và lượng (CT: Changi là sân bay sạch, đẹp và an ninh nhất thế giới, mỗi năm tiếp nhận 40 triệu hành khách, nơi hạ cánh của 60 hảng hàng không, có đường bay tới 146 địa điểm trên hoàn vũ). Phi cảng Bạch Vân đã từng tiếp đón đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ 9 vào năm 2000. Đi tham quan, dù rất ít ỏi, những di tích và thắng cảnh trên một đất nước rộng đến 10 triệu cây số vuông, buộc chúng tôi phải tính toán thời gian và phương tiện di chuyển thật khít khao. Tuần trước, trên đường dài 1850 km từ Bắc Kinh đi Thượng Hải, chúng tôi lợi dụng chuyến tàu lửa ban đêm để được ngon giấc trên toa giường trên lộ trình 14 giờ. Tuần này, chỉ vợ tôi và tôi lợi dụng những giờ tự do mua sắm riêng và giờ ăn cơm chung ở nhà hàng để đến viếng những nơi không ghi trong lịch trình du lịch, như nhà kỷ niệm Tôn Văn, mộ phần Phạm Hồng Thái và viện Bảo tàng lăng mộ Nam Việt Vương, sau khi đã điều nghiên trên bản đồ và tư liệu. Chủ đích của người viết là quảng bá 2 di tích lịch sử Việt Nam tại nước ngoài. Thành phố Quảng Châu là thủ phủ tỉnh Quảng Đông, là cửa ngõ lớn của miền Hoa nam, có đường biên giới chung với miền Bắc Việt Nam. Diện tích T.p. Quảng Châu là 7.435km², chia thành 8 khu 8 huyện với dân số 6.580.000 người. Đây là thành phố có nhiều Hoa kiều đang lập nghiệp khắp nơi trên thế giới. Quảng Châu thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa như khí hậu Việt Nam. Nhiệt độ bình quân cả năm 21°7C (tức 69°F), mùa hè có gió mát, mùa đông không quá lạnh. Địa thế thấp dần về tây-nam, bắc nhiều núi non, đông là thung lũng và những dải đồi thấp, nam là đồng bằng phù sa của châu Tam giác sông Châu giang. Thành phố Quảng Châu đã có 3000 năm lịch sử với tên gọi đầu tiên là Phiên Ngung. Khi nhà Tần khống chế được dân Bách Việt trên địa bàn miền Nam Việt bèn lập Phiên Ngung làm lỵ sở vùng Lĩnh Nam. Sang đầu nhà Hán, Triệu Đà cắt cứ vùng Lĩnh Nam đặt tên nước là Nam Việt, đóng đô tại Phiên Ngung mang tên là thành Việt. Đến thời Tam quốc, nước Ngô bá chiếm vùng Lĩnh Nam, lập quận Giao Châu. Nước Ngô tu sửa thành Việt ở Phiên Ngung, dời thủ phủ của châu từ huyện Quảng Tín về Phiên Ngung. Từ đó Phiên Ngung có tên là Quảng Châu. Thời cổ, Quảng Châu còn có những tên khác như Sử Sở đình (tức trung tâm quyền lực của nước Sở), Dương thành ( tức thành phố con dê). Nguyên do từ chuyện thần thoại có 5 thần nhân bận y phục ngũ sắc mỗi vị một màu, cưỡi trên 5 con dê màu lông khác nhau, mang theo ống sáo có chứa 6 loại ngũ cốc và hoa quả, đem lại cho dân chúng trong vùng những mùa luá bội thu và hoa quả phong phú. Ngày nay, để cầu mong sự sung túc như thần nhân đã ban ơn phước, nên trong công viên Việt tú xinh đẹp có tượng 5 con dê rất vĩ đại, là biểu tượng cho thành phố Quảng Châu. Ở một cảnh trí khác gần tượng 5 con dê là một bức bích họa về sinh hoạt nông trang với vũ hội ngày được mùa, được chạm trổ trên bức tường đá dài hàng trăm mét bên vách núi. Hôm ấy, cô hướng dẫn viên đã chỉ lên giỏ trái vải trong hoạt cảnh trên đá và diễn ngâm 2 câu thơ (có mấy ai nghe được tiếng quang thoại?), tôi phải yêu cầu cô viết ra Hán tự, xin ghi phiên âm và tạm dịch: Nhất kỵ hồng trần phi tử tiếu Vô nhân tri thị lệ chi lai. (Bụi cuốn dặm nghìn, cười nụ vương phi, Nào ai hay kỵ mã hiến lệ chi) Hai câu thơ không chỉ nhắc đến trái vải ngon ngọt của Hoa nam mà còn nhắc laị xì căng đăng” nơi cung điện dẫn đến biến loạn thảm khốc. Tướng An Lộc Sơn phi ngựa ngày đêm bụi lốc, mang trái lệ chi vào cung hiến dâng cho Dương Quí Phi là bà mẹ nuôi mà ông từng yêu trộm. Đến năm 755, quan Tiết độ sứ An lộc Sơn làm phản, chiếm Lạc Dương rồi tiến chiếm kinh đô Trường An để chiếm lấy Dương Quí Phi. Vua Đường Huyền Tôn đã quá mê say nàng, bỏ kinh thành đem nàng theo, chạy vào đất Thục. Chạy đến Mã Ngôi, tướng sĩ ép vua phải xử thắt cổ giết Dương Quí Phi xong, mới tiếp tục chạy loạn. Bốn loại hoa quả ngon nổi tiếng vùng Lĩnh nam gồm: vải, cam, dứa, chuối tiêu. Ngoài ra, nơi đây còn là quê hương đu đủ, nhãn, khế quýt. Hoa tươi, rau xanh, thủy sản phẩm của Quảng Châu được bán rộng rãi trên toàn quốc và xuất khẩu. Quảng Châu còn có tên là “thành phố HOA”, ở đây có hơn 60 giống hoa, từ hoa hồng, kim cát, dạ hương, mễ lan... nở rộ cả bốn mùa nhờ khí hậu thích hợp. Mộc miên được goị là “thị hoa” của thành phố Quảng Châu. Hàng năm, cứ đến mùa Xuân, du khách trên thế giới lại nghĩ về “thành phố HOA” như một điểm hẹn đầu tiên. Ngày nay, Quảng Châu là thành phố du lịch nổi tiếng, có nhiều khách sạn 5 sao đúng tiêu chuẩn quốc tế. Chúng tôi lưu ngụ tại khách sạn Lido hotel (âm Việt đọc là Lạc đô) hạng 3 sao với 30 tầng, tại số 182 đường Bắc kinh, cũng đã thấy tiện nghi và lịch sự lắm rồi! Tất cả các đểm tham quan đều có bán vé vào cửa cho du khách. Những khu vực cảnh trí ngoạn mục đáng kể như Bạch vân sơn la cương, Liên hoa sơn (núi hoa sen), suối nước nóng Tùng hoa... Nhất là Dương thành bát cảnh được xây dựng từ thời Tống. Năm 1986 Dương thành bát cảnh được bình chọn là thắng cảnh quốc gia với lời giới thiệu: “Mây núi như giải lụa gấm, nước xanh trong như pha lê, sóng lấp lánh dưới ánh mặt trời, động như rồng, rừng như ngọc, lầu đài nguy nga. Mỗi cảnh mộ tên như Hồng lĩnh nhật xuất, Hoàng hoa hào khí, Lưu hoa vương vũ, Hoàng phố vân tường” Về ẩm thực, Quảng Châu đã sớm nổi tiếng về cách ăn ngon, rất được ưa chuộng ở trong và ngoài nước. Món ăn Quảng Châu là đại biểu cho món ăn Việt, là 1 trong 8 vùng có nghệ thuật ẩm thực đặc sắc. Nguyên liệu trong món ăn chính là ngũ cốc, hoa quả với các loại rau và cá thịt tươi mới, phải quen chọn lựa về phẩm chất hơi cầu kỳ. Phối liệu và gia vị tinh tế cho hương vị thơm ngon, mềm dẻo, giòn, có chút cay với cách trình bày vào bát đĩa và đặc biệt trên bàn khéo léo, làm cho món ăn Quảng Châu mang đầy đủ ý thơ nét họa, thể hiện rõ bản sắc và phong vị của văn hóa Lĩnh nam. Địa lý thiên nhiên của Quảng Châu khá thuận lợi. Đây là thành phố hải cảng kiêm giang cảng vì vừa nằm gần bờ biển Nam hải, vừa là nơi hội tựu của 3 con song Bắc giang, Đông giang và Tây giang cùng chảy ra cửa biển Hổ môn (sông Tây giang có 2 phụ lưu là sông Bằng giang và sông Kỳ cùng chảy qua 2 tỉnh Cao bằng và Lạng sơn nước ta). Sông Châu giang là con sông lớn thứ tư ở Trung quốc, chảy xuyên qua thành phố Quảng Châu, có nơi tạo ra vùng nước mênh mông như biển hồ. Đây là nơi liệt sĩ Phạm Hồng Thái của Việt Nam đã từ trần sau khi thực hiện sứ mạng cứu quốc. Có đến 11 cây cầu và 2 đường hầm nối liền đôi bờ Châu giang trong nội thành Quảng Châu. Ban đêm, đi du thuyề trên sông Châu giang như lạc vào thế giới kỳ ảo: gió mơn man theo tiếng sóng vỗ rì rào, trăng sao trên trời rơi đáy nước, đèn sáng lung linh muôn màu trong trong tán cây lá ven bờ, trên cao ốc và chuyển động trên đường. Đường phố Quảng Châu rộng rãi, hiếm khi bị kẹt xe tắc nghẻn lưu thông, có nhiều công viên và nhiều cây xanh tạo nên sự thoáng mát. Số lượng xe ô tồ bằng ngang với số lượng xe đạp lưu hành đồng thời trên đường, trong đó số lượng xe taxi khá lớn, được xem là phương tiện di chuyển của thị dân và du khách. Quảng Châu là lò sản xuát xe gắn máy 2 bánh đời mới, xuất cảng hàng triệu chiếc mỗi năm ra các nước lân cận., nhưng chính nơi đây lại ít xe gắn máy, là điều đáng ngạc nhiên. Quảng Châu mở cửa giao lưu với ngoại quốc từ thời Trung cổ dưới triều đại Tần, Hán đã rất phồn thịnh. Đặc sản qui hiếm vùng nhiệt đới như ngà voi, tê giác, đồi mồi, châu ngọc, nhiều loại trái cây, nhất là lúa gạo từng nổi tiếng trên thị trường đa quốc gia. Thời Tần đã có tuyến đường biển Quảng Châu chạy thẳng đến vùng Đông nam Á và cả Nam Á. Đời Đường, giao thông và mậu dịch đối ngoại của Quảng Châu đã phát triển mạnh mẽ, trở thành thương cảng lớn nhất, là điểm xuất phát tuyến đường tơ lụa trên biển của Trung quốc. Dưới chế độ cọng hòa nhân dân Trung hoa, từ thời Mao trạch Đông theo chính sách kinh tế tập trung, đà phát triển bị đình đốn vì cung và cầu đều do Đảng cộng sản chỉ huy ở mục tiêu tự cấp tự túc, do đó ngành thủ công nghiệp và giao thông nội địa của Quảng Châu thay thế hẳn ngành ngoại thương. Từ năm 1979, dưới thời Đặng tiểu Bình theo chính sách kinh tế mở cửa, chính phủ Trung Hoa cho xây dựng ở tỉnh Quảng Châu 2 đặc khu kinh tế Thẩm quyến và Chu hải cùng với trung tâm mậu dịch đối ngoại của toàn quốc. Nhìn những thuận tiện địa lý, ai cũng nhận thấy toàn vùng đặc khu kinh tế hợp thành quần thể kinh tế mạnh nhất Trung hoa, bao gồm: Thành phố Chu hải nằm ở bờ tây Châu giang, phía đông cách Hồng kông 36 hải lý (đảo Quế sơn ở phía đông Chu hải chỉ cách Hồng kông 3 hải lý), phía nam giáp Ma cao, phía bắc giáp tam giác Châu giang phì nhiêu quay mặt ra Nam Hải. Thành phố Thẩm quyến nằm phía nam tỉnh Qủang đông, phía đông giáp vịnh Đại á, phía tây liền với cửa sông Châu giang, phía bắc giáp thành phố Đông hoàn huyện Huệ dương, phía nam cách Cửu long, Tân giới của Hồng kông một con sông. Hồng kông (chữ Hán Việt là Hương cảng) đã thâu hồi chủ quyền từ người Anh ngày 1-7-1997 và thiết lập khu hành chánh đặc biệt, được giữ nguyên chế độ chính trị cũ. Hồng kông là thành phố công thương nghiệp hiện đại, nằm ở bờ biển đông nam tỉnh Quảng đông, ngay phía đông cửa sông Châu giang. Ma cao được thu hồi chủ quyền từ Bồ đào Nha ngày 20-12-1999 và được thiết lập khu hành chánh đặc biệt thuộc quyền quản lý của chính phủ trung ương. Ma cao nằm phía tây nam cửa sông Châu Giang. Thời cổ Ma Cao có tên là Hào Kính Áo, từ Hán Việt gọi là Áo môn. Năm 1982, Quảng Châu được Quốc hội Trung hoa phê chuẩn là 1 trong 24 thành phố lịch sử văn hóa, và tháng 3 năm 1984 có tên trong 14 thành phố mở cửa ven biển. Do vị trí địa lý được thiên nhiên ưu đãi, nên hiện nay thành phố Quảng Châu có vốn đầu tư nước ngoài đứng đầu Trung quốc. Hầu hết các ngành công nghiệp đều có liên doanh với nước ngoài, đã đưa nền công nghiệp nhẹ làm chủ thể, phát triển lên thành công nghiệp cơ khí toàn diện. Quảng Châu nghiễm nhiên trở thành trung tâm công nghiệp miền Hoa nam với 10 ngành công ngiệp kỹ nghệ tiên tiến: ngành chế tạo thiết bị giao thông vận tải, ngành chế tạo vật dụng điện khí laser, ngành chế tạo thiết bị điện tử thông tin, các cơ xưởng sản xuất ô tô, máy móc, nguyên liệu và sản phẩm hóa học, các khu chế xuất y dược, thực phẩm, may mặc, chế phẩm cao su, plastic... Quảng Châu vốn là thành phố thương mại tổng hợp với nền kinh tế thị trường rấtt sôi động, những năm gần đây đã hình thành nhiều khu phố thương nghiệp đa dạng rất đặc sắc như ở đường Giáo dục, đường Tây hồ, Hoàng cương, phố lớn Sa há... chuyên doanh những mặt hàng thời trang, bách hóa. Trên đường Trường thọ và phố Tân thắng có rất nhiều cửa hàng vàng bạc, đá quí, đồ trang sức. Nếu muốn mua đồ sành sứ, hoa tươi... thì đến đường khởi nghĩa, đường Đại nam. Trong những ngày và đêm gần đến tết Nguyên đán năm Quí mùi (năm 20030, suốt đại lộ Bắc kinh biến thành chợ Tết sầm uất với muôn vẽ muôn màu ngay trên mặt đường, đủ mọi hoa quả cây cảnh, pháo tràng liên đối, bánh mứt cầu kỳ... Ngay đến các siêu thị nhiều tầng ở hai bên đường cũng đầy ắp y phục thời trang, hàng trang trí nội thất, hàng tiêu dùng cao cấp... Cùng lúc ấy, không ít người nhớn nhác bày mấy món hàng trên tấm bao tải ở lề đường mời mọc người mua. Khi cảnh vệ đến, họ tóm gọn cả vào bao, lẩn vào đám đông rồi lại bày bán hàng ở lề đường nơi khác. Đó là một kiểu chợ Tết Quảng Châu, cùng lò với kiểu Chợ lớn, Việt Nam. Cũng vào dịp này, tôi được chứng kiến cảnh dân chúng hàng hàng lớp lớp trêm mấy dậm đường, kéo nhau về quảng trường nhà ga xe lửa Quảng Châu để chực mua vé, đáp tàu về quê ăn Tết. Tôi cảm thấy choáng ngợp trước rừng người, dù là một góc rất nhỏ trong số 1 tỷ 300 triệu của Trung hoa. Đặc biệt, trên nóc tòa nhà ga xe lửa, hai bên có 2 câu khẩu hiệu nổi rõ lên nền trời: “Thống nhất tổ quốc và chấn hưng Trung hoa”. Đây là 2 câu quyết tâm được dựng lên trước năm 1997, khi Trung quốc cổ vũ đòi lại chủ quyền ở nhượng địa Hồng kông. Ngoài nơi nầy ra, tôi không trông thấy một câu khẩu hiệu nào, một hình ảnh hay pho tượng lãnh tụ cộng sản nào tại Thành phố Quảng Châu hôm nay. Trước đây vài thập niên Trung Hoa là đất nước tràn ngập hồng kỳ, chân dung Mac Lê Mao và khẩu hiệu đại ngôn giăng khắp mọi nẻo đường. Hôm nay, cũng vẫn tên gọi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nhưng da thịt đã đổi mới, vẫn là chủ nghĩa Cộng sản nhưng theo nhận biết của tôi thì không tìm thấy cộng sản còn ẩn tàng nơi đâu, ngoài lá cờ 5 sao còn ngự trị trên cộtt cờ ở công sở. Quảng Châu đã mở toang cánh cửa từng khép kín, không phân biệt: mèo đen mèo trắng”. Nơi đây là đầu mối giao thông trong cả 3 lãnh vực: đường thủy, đường bộ và đường hàng không của miền Hoa nam. Rất nhiều tuyến quốc lộ, liên tỉnh chia ra thành mạng mưới đường bộ về muôn ngả. Các tuyến đường sắt Bắc nam và chạy trực tiếp đến các thành phố lớn trên toàn quốc. Giao thông đường thủy trên sông đi thông suốt đến các bến cảng của các sông Đông giang, Bắc giang, lấy Châu giang làm thủy lộ chính yếu. Giao thông đường biển nối liền với 600 cảng lớn trên thế giới. Sân bay Bạch vân (đã đề cập ở đầu bài) sẽ trở tành sân bay quốc tế lớn nhất trong số những sân bay quốc tế của Trung Hoa. Quảng Châu còn có khu triển lãm hội chợ hàng hóa xuất khẩu lớn nhất thế giới. Từ xa xưa, nền văn hoa Lĩnh nam để lại cho Quảng Châu nét độc đáo với nhũng di tích lịch sử, văn vật cổ mang đậm bản sắc dân tộc như: chùa Quang hiếu là ngôi chùa phật giáo được xây dựng vào thời Đông Tấn, chùa Hoàn thánh và Tháp quang được xây dựng vào đời Đường là công trình theo thể kiến trúc của đạo Hồi. Quảng Châu là thành phố có lịch sử đấu tranh chống đế quốc và phong kiến còn được ghi như sau: nhà bia kỷ niệm nhân dân chống đế quốc Anh ở Tam nguyên lý, Hoàng hoa cương nơi vinh danh 72 liệt sĩ, nhà kỷ niệm Tôn Văn, di tích trường Võ bị Hoàng phố v..v.. Riêng về phần mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái và Bảo tàng viện Nam Việt vương, có liên hệ trực tiếp với Việt Nam sẽ được ghi nhận rõ ràng hơn. Quảng Châu là nơi dung trú các nhà cách mạng Việt Nam trong các phong trào Cần vương, Văn thân, Đông du còn lưu lại những cơ sở dùng làm lớp học hay trụ sở. Cụ Phan Bội Châu có thời hoạt động ở Quảng Châu dài nhất trong số những người yêu nước Việt Nam dừng chân lại thành phố này. Nhà kỷ niệm Tôn Văn Bác sĩ Tôn Văn, hiệu Trung Sơn, người huyện Trung sơn, tỉnh Quảng đông, là thủ lãnh cách mạng dân chủ Trung hoa mà quốc dân tôn vinh là đấng từ phụ. Tôn chỉ vận động cách mạng cũa Tôn trung sơn là: khôi phục Trung Hoa, diệt trừ Mãn thanh, lập dân quốc, bình quân địa quyền. Thị xã Quảng Châu là mục phiêu thứ nhất trong chương trình hành động cách mạng nầy. Sau cách mạng Tân hợi (1911), Tôn trung sơn nhận chức Đại Tổng Thống ở Nam kinh (tức Kim lăng, thuộc tỉnh Giang Tô) Từ 1911 đến 1949, Nam kinh là thủ đô chính của Quốc dân đảng. Ông mất tại Bắc kinh năm 1925, đến năm 1929 hài cốt được đưa về an táng tại núi Tử kim Đài kỷ niệm Tôn Văn hình chóp nhọn cao vút trên đỉnh núi *giống như Washington Momument ở thủ đô Mỹ quốc), có thể nhìn thấy từ nhiều ngõ đường trong Thành phố Quảng Châu. Ở chân núi phía nam Việt tú sơn có nhà kỷ niệm Tôn Văn nằm giữa khu vườn rất rộng, có nhiều hoa và cây xanh đẹp đẽ. Nhà kỷ niệm có 3 tầng theo dạng cổ lồng, nhiều mái cong mang nét cổ kính, vẻ hoành tráng giống nhau ở ba phía ra vào. Riêng phía chính diện có bức đại hoành phi “Thiên hạ vi công” và trước sân có pho tượng Tôn trung sơn đứng trên đài, bên dưới ghi tạc tiểu sử và công trạng. Hoàng hoa cương và bia mộ Phạm Hồng Thái Hoàng hoa cương là nghĩa trang danh dự ở chân núi Bạch vân, TP Quảng Châu, nơi an giấc ngàn thu của 72 liệt sĩ Trung hoa đã anh dũng hy sinh trong cuộc Cách mạng lật đổ triều đình mục nát Mãn thanh, giành chủ quyền trong tay các đế quốc xâu xé Trung Hoa, đã xảy ra lúc 5 giờ chiều ngày 23-3 năm Tân hợi ( 27-4-1911). Đứng trước cổng Hoàng hoa cương hùng vĩ mà tú lệ bằng đá xanh màu thạch ngọc, ai cũng nghiêng mình khâm phục. Bên trong là đài tưởng niệm uy nghi với bia đá vĩ đại mang dòng chữ “Thất thập nhị liệt sĩ chi mộ” theo chiều đứng và 4 chữ “Hạo khí trường tồn” chạy suốt những gian thờ phụng ở tầng thấp. Trên chót cao của bức tường nơi hậu điện có tượng Nữ thần tự do đưa cao ngọn đuốc thiêng, giống như tượng Nữ thần tự do ở cửa biển New York (Hoa Kỳ). Khu vực Hoàng hoa cương rộng lớn, lối đi lát đá viền bồn hoa tươi thắm, lẩn khuất dưới rừng cây xanh là nbững ngôi mộ có ghi tiểu sử đứng cạnh pho tượng trầm mặc của một anh hùng đã hiến thân cho tổ quốc. Trong cảnh ngoạn mục và thanh tịnh của Hoang hoa cương, tôi đã gặp nhiều vị cao niên tản bộ tập khí công và một nhóm nữ lưu đương tập thái cực quyền trên sân của nhà nghỉ mát. Cái vinh hạnh đối với tôi là đã đến thăm phần mộ Phạm Hồng Thái, người thanh niên ưu tú của Việt Nam đã an nghĩ trong Hoang hoa cương, người duy nhất được tôn vinh nơi đất khách đã truyềnn lại cái hào khí lẫm liệt đến kẻ hậu sinh tha hương. Phạm Hồng Thái tên thật là Phạm Thành Tích, bí danh Nho Tư, chào đời năm 1896 tại làng Ngọc điền (Nghệ Tỉnh) đã hy sinh vì tổ quốc tại Châu giang, TP Quảng Châu, lúc 30 tuổi. Ông theo chí hứơng của cha (là quan Huấn đạo Phạm Thành Mỹ, có chân trong phong trào Cần vương kháng Pháp). Phạm Hồng Thái đã sớm hoạt động cách mạng, theo bước Đông du trong Việt Nam quang phục hội của chí sĩ Phan Bội Châu. Thực hành đường lối của Tâm tâm xã,, cảnh tỉnh đồng bào dưới ách nô lệ của thực dân Pháp, Phạm Hồng Thái theo dõi để ám sát Toàn quyền Martial Merlin từ Đông dương sang Nhât để điều đình trục xuất những nhà cách mạng Việt Nam, đồng thời ký một thương ước. Phạm Hồng Thái đã bám sát phái đoàn Merlin từ Hồng kông đến Thượng hải rồi qua Hoành tân đất Nhật, nhưng chưa có cơ hội thuận tiện ra tay, Khi Merlin và đoàn tùy tùng trên đường về Hà Nội, ghé lại Quảng Châu đêm 18-6-1924 để dự tiệc tại nhà hàng Victoria ở Sa điện, Phạm Hồng Thái giả làm ký giả chụp hình lọt qua được hàng rào cảnh binh, vào trong khách sạn ném một quả bom tay vào giữa bàn tiệc làm một số người Pháp và quan khách chết ngay tại chỗ, riêng Toàn quyền Merlin chỉ bị thương nhẹ, thoát chết. Phạm Hồng Thái phóng ra ngoài, chạy về phía Tây hào khẩu, lính phòng vệ duổi theo rất ngặt lại gặp Châu giang chắn lối, ông liền nhảy xuống sông tự vận, quyết không chịu sa vào tay giặc. Pháp trả thù, vớt được xác Phạm Hồng Thái đem phơi bờ sông mấy ngày thì được một người Trung hoa nghĩa khí xen đem mai táng. Tháng 3 năm 1925, tỉnh trưởng Quảng đông là Hồ hán Dân cho cải táng hài cốt Phạm Hồng Thái vào nghĩa trang danh dự Hòang hoa cương, trong lễ khánh thành để tưởng niệm người liệt sĩ xả thân vì tổ quốc có rất đông đảng viên Cách mạng Việt Nam qui tụ về và nhiều yếu nhân Trung hoa quốc dân đảng tham dự. Nơi an nghỉ của vị anh hung Phạm Hồng Thái chiếm một diện tích khá rộng trong Hoang hoa cương, như 72 liệt sĩ khác. Còn đó, qua thời gian 80 năm qua vơi bao đổi thay lịch sử, vẫn là ngôi mộ vun cao viền cỏ xanh, ngay cạnh là đài kỷ niệm mang mấy hàng chữ mạ vàng ngời sáng, bên trên là chữ Quốc ngữ Việt Nam “ Mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái”, chữ Hán theo chiều đứng của đài: “ Việt Nam Phạm Hồng Thái liệt sĩ chi mộ”. Sau lễ đài lát đá hoa cương, bên tả có bia đá cẩm thạch lớn bằng cánh cửa, ghi khắc chữ Hán như sau: Việt Nam liệt sĩ mộ ký. Phiên ngung, Hồ Yểm soạn thư. Quân lúy Hồng Thái, Việt Nam Bắc kỳ nhân dã. Tiên thế nghiệp nho, Pháp nhân vong Việt Nam. Nhủng tập khoa cử chi, chế dĩ ngu dị nhân. Quân tu chỉ khử nhi tập công học, ký quan nhập mổ xưởng vi công nhân, trường để pháp luật chi hà bạo dữ pháp lại chi tứ tuy. Chiếp sinh phẩn khái, hội hưu chí giả tương dữ tổ chức chính đảng vi cách mạng vận động, yêu quân nhập đảng, quân tùng chi. Thời đảng nhân dân lưỡng phái. Nhất chủ vận động tam kỳ quân đội phản chí nhi trục Pháp nhân. Nhất chủ ám sát hẵn tướng khốc lai dĩ trừ dân hại. Quân ý dĩ vận động quân đội cố thuộc yếu đồ trạng cẩn vô tráng liệt chi cử tắc bất túc hàn địch nhân chi đảm nhi kích lệ quốc dân, ccá tả đản ám sát phái nhi mưu hữu dĩ thật hành yên. Pháp sứ Mã lan giả tương đạo xuất Nhật bản nhi vi Hồ Vi chi du . Quân văn chi tiêu kỳ hiệp thủ thương tạc đan đắc chi ư Đông kinh, Thượng hải gian dĩ trinh sứ nghiêm mật vô kích khả thừa, toại Phiên trạng lai Việt vi tối hậu chi cử, huynh tri Pháp nhân Mã lan vu Vực Đa lị lữ quán dã. Nại vị đồng chí mỗ quân viết: Sự tành dữ bất đồ bất khả kỳ trạng ngô thệ bất nhập vu Pháp nhân chi thủ, duy quân tu tương ngô đảng tông chỉ tuyên thị vu ngoại dị miễn Pháp nhân hữu sở ngộ hội tri cầu tắc đọat thị. Quân toại vu lục nguyệt thập cửu nhật, ngọ hậu bát thời vẵng phó vực đa lị lữ quán bài chúng nhập vu vũ đạo thất, đạn thương đồng phát, nhất thời nam nữ yểu tịch huyết đột mô hồ. Quân tiếu viết: Đại sự tất hỉ, ngô kỳ tử hồ. Nãi phó thủy tử. Việt nhân nghĩa chi, thân kỳ thi táng, chư nhị vọng cương chi nguyên mộ tây nam hướng cái dục sử quân chi linh do đắc quyến cố kỳ cố quốc, vân thị vi ký. Trung hoa dân quốc thập tứ niên nhất nguyệt cốc đánh lập. Dịch nghĩa: Văn bia mộ liệt sĩ Việt Nam họ Phạm. Hồ Yểm soạn, viết tại thành Phiên ngung. Anh hiệu Hồng Thái, người Bắc Việt Nam. Đời trước (cha ông) theo Nho học. Người Pháp chiếm Việt Nam, vẫn duy trì khoa cử để chế ngự làm ngu dân. Anh hổ thẹn, bỏ học, theo công nghệ làm công nhân trong cơ xưởng. Anh luôn nhìn thấy sư hà khắc thô bạo của pháp luật và hà hiếp của quan lại người Pháp, sinh lòng phẩn nộ. Nhân găp các người có chí khí đang tổ chức chính đảng để vận động cách mạng, mời anh tham gia, anh liền theo. Lúc đó người trong đảng chia làm 2 phái: Một nhóm chủ trương ám sát tướng hung bạo, quan tham tàn để trừ hại cho dân. Anh có ý vận động quân đội trong nước để cử sự. Nhưng nếu không khởi động bằng sự việc mãnh liệt thì không đủ làm cho kẻ thù khiếp đảm và làm phấn chấn tinh thần quốc dân. Cho nên anh tán thàn h phái ám sát và thi hành mưu địch. Thống sứ Toàn quyền Pháp là Mã lan giả (Merlin) sắp rời Nhật bản du hành sang Thượng hải. Anh nghe tin, trước hết vì nghĩa hiệp, anh tự mang súng và tạc đạn sang Đông kinh rồi Thượng hải. Vì sự canh phòng nghiêm mật không có cách gì hành động. Mãi khi Toàn quyền đến Quảng Châu (Phiên ngung) để trở lại Việt Nam, là cơ hội cuối cùng để cử sự. Được tin người Pháp sắp đãi tiệc Mã lan (merlin) ở khách sạn Vực đa lị (Victoria). Anh nói với người đồng chí: “Sự việc tới lúc phải đạt thành công, không thể trì hoãn. Tôi nguyện không để lọt vào tay người Pháp, xin anh tuyên thị tôn chỉ của đảng ta ra ngoài để người Pháp khỏi hiểu sai lầm mà xuống tay tàn sát bừa bãi.” Sau đó, vào ngày 19 tháng 6, lúc 8 giờ chiều tối, anh đến khách sạn Vực đa lị (Victoria) giả dạng vào được trong vũ trường, tung lựu đạn và bắn súng. Lúc đó nhiều người nam nữ chết ngay, máu chảy cùng khắp. Anh cười nói: “ Việc lớn đã thành tựu, ta chỉ còn cái chết mà thôi.” Sau đó anh đã trầm mình tự vận. Người Quảng đông cảm nghĩa khí, đem thay đi chôn, sau cải táng ở Hoàng hoa cương, hướng về Tây Nam, ý muốn cho linh hồn anh được nhìn về cố quốc. Nay tôi ghi lại nơi đây. Trung hoa dân quốc năm thứ 14, tháng giêng, ngày tốt dựng lập bia. Lời người viết: (1) Trương Quang thành kính cảm tạ Giáo sư Hòa thượng Thích trí Hoằng đã đọc lại bản chụp văn bia đính kèm, để bổ chính cho bản phiên âm và bản dịch trên đây tránh lỗi lầm, (2) Một điểm sai khác giữa văn bia và tài liệu tôi tham khảo để viết về ngày tháng Phạm Hồng Thái ra tay ám sát Merlin, xin chờ quí vị lưu tâm chỉ giáo cho. Người đời thường ví anh hùng Phạm Hồng Thái ám sát quan đô hộ Merlin như tráng sĩ Kinh kha hành thích bạo chúa Tần thủy Hoàng, tuy công chưa thành nhưng danh lưu muôn thuở. Trong một tích tắc, Phạm Hồng Thái đưa hai tay bái vọng vĩnh biệt tổ quốc Việt Nam rồi nhảy xuống sông Châu giang, có khác Kinh kha vĩnh biệt nước Yên có Thái tử Đan và triều thần bận tang phục tiễn đưa, rồi vượt sông Dịch thủy không hề ngoái lại. Một buổi sáng áp Tết Quí mùi (2003) tôi và người bạn Hoa kiều-Chợ lớn, nhìn dòng Châu giang lặng trôi trong sương khói, cùng mối đồng cảm nói trên, bất giác tôi đọc cho ông bạn nghe bài ngũ ngôn tuyệt cú của Lạc Tân vương (tôi xin đổi chữ Yên (Đan ra chữ Hương bang cho thích hợp đôi bên) Thử địa bất tương bang, Tráng sĩ ptáh xung quan. Thích thì nhân dĩ một, Kim nhật thủy do hàn. Đất nầy từ biệt hương bang, Tóc đầu dựng ngược, máu hờn nóng sôi. Người xưa khuất bóng đi rồi, Ngày nay còn thấy nước trôi lạnh lùng. Trần Trọng Kim dịch Bảo tàng viện Nam Việt vương tại Quảng Châu Người Việt nào đến thăm TP Quảng Châu cũng nhận biết sự gần gũi vể địa lý và nhân văn ở nơi đây với quê hương mình, nếu muốn tìm hiểu sâu xa về mối tương quan lịch sử thì bảo tàng viện Nam Việt vương là một minh chứng không thể chối cãi được. Nước Nam Việt đóng đô tại Phiên ngung, là một nước độc lập với nhà Tây Hán ở phương bắc vào thời trung cổ, được viết trong Trung quốc sử lược của Phan Khoang và mấy dòng ngắn gọn trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim :” Năm quí mùi (207 trước Tây lịch) Triệu Đà đánh được An Dương vương rồi sáp nhập nước Âu lạc vào quận Nam hải, tự xưng là Triệu vũ vương (sau đổi là Nam Việt vương) lập thành nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên ngung, gần thành Quảng Châu bây giờ. Trong khi nhà Triệu gây dựng cơ nghiệp ở Nam Việt, thì ở bên Tàu, ông Lưu Bang trừ được nhà Tần, diệt được nhà Sở... Năm Canh ngọ (111 trước Tây lịch) vua Vũ Đế nhà Hán sai Lộ bác Đức và Dương Bộc sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam Việt, rồi cải là Giao chỉ bộ rồi chia làm 9 quận là: Thương ngô, Uất lâm (nay là Quảng tây), Nam hải, Hợp phố (nay là Quảng đông), Châu nhai, Đạm nhỉ (là đảo Hải nam), Giao chỉ, Cữu chân, Nhật nam (là Bắc Việt và mấy tỉnh Bắc Trung Việt của Việt Nam bây giờ) Rõ ràng nước Nam Việt của người Bách Việt, có cương vực riêng, truyền được 5 đời vua Triệu mới bị nước Tàu thôn tính. Bởi lẽ đó, tiền nhân của nước Việt Nam đã đòi lại chủ quyền lãnh thổ quốc gia, ít nhất 2 lần trong lịch sử: Năm Ất mão (1075) Lý Thường Kiệt sang vây đánh Hâm Châu và Liêm Châu (thuộc tỉnh Quảng đông) . Đạo quân của Tôn Đản sang đánh Ung Châu (tức thành Nam nin h thược tỉnh Quảng tây). Năm 1076 quân ta phải rút về để đánh tan quân nhà Tống (có Chiêm thành và Chân lạp phối hợp) sang đánh nước ta. Năm Nhâm tý (1792) vua Quang Trung sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng quảng. Vua Càn long trong thế yếu phải buộc lòng xin gã công chúa út cho vua Quang Trung và tặng tỉnh Quảng tây làm lễ cưới. Yêu sách trên là để thử, không ngờ trong năm ấy (1792) vua Quang Trung băng hà, việc đòi đất bỏ qua. Lịch sử đã đi qua 22 thế kỷ, nay Trung Quốc ở thế mạnh, họ không ngần ngại gì mà chẳng phơi bày sự thật nơi ngôi mộ Nam Việt vương ngay tại cố Phiên ngung, thành một bảo tàng viện để họ chứng minh là đất nước có nền văn minh lâu đời. Bảo tàng viện Nam Việt vương hiện tọa lạc trên diện tích rất rộng ở số 867 Jie Fanbei Road, TP Quảng Châu, chỉ cách bảo tàng viện Quảng Châu và công viên Việt tú một vài dậm đường. Trong quyển kỷ yếu có lời giới thiệu: “ Lăng tẩm của Nam Việt vương được phát hiện năm 1983, là ngôi vương mộ lớn nhất thời Tây Hán chưa từng được biết đến ở miền Hoa nam. Có cả thẩy hơn một ngàn di vật được khai quật từ lăng mộ này, phản ảnh nhiều khía cạnh đủ các mặt chính trị, kinh tế và văn hóa của phương Nam Việt. Chính nơi đây là điểm nổi bật nhất trong hàng trăm đề mục khám phá khảo cổ học quan trọng ở Trung quốc trong thế kỷ 20, bởi vì ở mộ Nam Việt vương giúp cho hiểu biết được bí quyết, như chiếc chìa khóa, về cách bảo quản di hài được áp dụng trên toàn quốc lúc đương thời. Bảo tàng viện lăng mộ Nam Việt vương (đồng thời với nhà Tây Hán) được khai trương năm 1988 chủ yếu nhằm phô bày vị trí chính của nhà mồ vua Nam Việt và những di vật rất khéo léo do bàn tay con người thời xưa tạo ra nên được đào lên tại đây” Khu mộ Nam Việt vương đã được khai mở, nay được lập bằng nhà kính. Các tòa nhà và bãi đậu xe vây quanh 3 mặt lăng mộ, có 6 đại sảnh để trưng bày vô số di vật lấy lên từ ngôi mộ, được đặt trong lòng kính. Một đại sảnh trình chiếu video về quá khứ khai quật, về hình dung sinh hoạt cổ thơ một đại hội trường. Tôi may mắn được hướng dẫn viên của viện nói rành Anh ngữ đưa xuống hầm mộ nằm sâu trong lòng đất, qua các hành lang chìm, bước qua những cánh cổng nặng hàng chục tấn có chốt khóa bí hiểm, tất cả bằng đá tảng mặt phẳng, không lậu một giọt nước. Phòng nhà vua an giấc ngàn thu vẫn còn lại hàng quan tài thật lớn bằng đá quí, có lẽ dành cho cả hoàng hậu, vương phi. Lăng mộ như cung điện chứa bảo vật dưới lòng đất. Còn vô số di vật trưng bày trong tủ kính, từ triện vua bằng vàng đến các đồ trang sức thời cổ, các loại đồng tiền, các đồ dùng bằng đồng hay đất nung, các gối đầu hay ghế ngồi bằng sành sứ v..v.. Nhìn các loại binh khí thời xưa, tôi nhận biết rất nhiều mũi tên đồng, đầu mũi có ngạnh và một vài dụng cụ không rõ hình dạng nữa. Đây chắc chắn là những mũi tên đồng dùng nỏ ở Liên Châu làm theo đồ hình của Cao Lỗ bắn bằng máy đẩy mỗi lần 10 mũi, mà Triệu Đàø học được nơi thành Cổ Loa. Huyền thoại thường nói đến Thần Rùa vàng giúp cho vua An Dương vương dựng được thành Cổ loa, và cho nhà vua móng chân để làm lẫy nỏ, phá tan được quân xâm lược. Sự thật thành Cổ Loa có 9 lớp xoáy trôn ốc, có 18 gò cao nhô ra chân lũy trí nỏ liên châu băùn xuống, khiến quân Tàu của Triều Đà vây thành khiếp đảm, tháo chạy. Thấy dùng binh thất bại, Triệu Đà dùng kế cho con là Trọng Thỉ sang cưới Mị Châu là con gái Thục An Dương vương. Sống trong thành Cổ loa, Trọng Thỉ biết hết được sơ đồ phòng vệ thành, học được bí quyết làm nỏ liên châu, làm sai bậy một cơ phận trong lẫy nỏ ở Cổ loa thành. Trọng Thỉ về, giúp cho Triệu Đà nỏ liên châu và tin tức tình báo. Triệu Đà bèn khởi binh sang đánh Âu lạc. Thục An Dương vương cậy có “nỏ thần”, khi giặc đến chân thành thì nỏ thần đã vô dụng. Triệu Đà lấy được nước Âu lạc, đem sáp nhập vào quận Nam hải đổi tên nước là Nam Việt, đóng đô ở Phiên ngung, là TP Quảng Châu ngày nay. Bảo tàng viện lăng mộ Nam Việt vương nhà Triệu ngay giữa lòng thành phố Quảng Châu là bằng chứng hiển nhiên về văn hóa Việt từng phát triển rực rỡ tại nơi nầy và lãnh thổ của tổ tiên người Việt bao gồm cả tỉnhh Quảng đông, Quảng tây của Trung Quốc. Từ ngàn xưa, cố đô Phiên ngung là cái nôi văn hóa của nước Nam Việt, lại ở vào địa lý thiên nhiên thuận lợi, đó là 2 điều cần thiết để thành phố Quảng Châu tiến lên nền công kỹ nghệ và giao thương tiên tiến như ngày nay. Connecticut, tháng 4 năm 2003 TRƯƠNG QUANG1 like
-
Tất cả học Viên của Khóa I,II,III đã hoàn thành lớp PT Cơ bản đủ điều kiện để đăng ký lớp nâng cao.1 like
-
Sáng mai, Quốc hội sẽ bàn thảo về Quy hoạch Hà Nội tại hội trường. Chương trình thảo luận này sẽ không được truyền hình trực tiếp trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam. Đành chờ nghe các PV thuật lại vậy! Ngày mai, chắc Quốc hội sẽ bàn chủ yếu về Trục Thăng Long và TTHCQG sẽ đưa lên Ba Vì vì đó là hai vấn đề cộm cán gây bức xúc trong dư luận nhất..Tôi được biết có một số đại biểu Quốc hội thường xuyên ghé đọc Blog này (trong đó có 3 vị nói trực tiếp với tôi điều này). May mắn đêm nay, có đại biểu nào lạc vào đây trong một đêm khó ngủ, đọc đến những dòng chữ này, thì là điều tôi mong đợi nhất. Trước đây, tôi đã phát biểu về việc làm ngược đời của Bộ Xây Dựng (mà chủ yếu là anh em ông Bộ trưởng Nguyễn Hồng Quân và Thứ trưởng Nguyễn Đình Toàn). Bộ này thay mặt Chính phủ VN thuê nhà tư vấn nước ngoài PPJ làm đồ án quy hoạch. Nhà tư vấn lại thuê lại 2 Viện của Việt Nam làm cho họ(1 của Bộ Xây dựng và 1 của UBND TP Hà Nội). Có lẽ vì thế mà anh em ông Bộ trưởng cứ xông lên Truyền hình và báo chí để bảo vệ quyết liệt cho đồ án này (?). Có lẽ vì đồ án quy hoạch do người Việt Nam làm, nên nhất định phải đưa vào một tí tâm linh cho nó đậm đà truyền thống, vì thời gian qua người ta nói về cái chiếu dời đô của Lý Công Uẩn rất nhiều (?). Trục Tâm linh (sau gọi tránh là Trục Thăng Long) vừa được bày ra tức thì đất hai bên trục này và cả vùng núi Ba Vì sôi lên ùng ục. GS. Trần Trọng Hanh gọi trục đường này là cái mũi tên đã được đặt lên cái cung để bắn vào TTHCQG Ba Vì. Cách nói rất hình ảnh của GS Trần Trọng Hanh làm tôi nhớ đến một câu chuyện đã xảy ra cách đây khoảng 1000 năm mà tôi có dịp đọc trong tài liệu và khảo sát trên thực địa. Đó là khi triều đình nhà Lý xây dựng chùa Dạm trên núi Lãm Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh), quy mô hoành tráng, là một trong những "chùa hoàng gia"(Chữ dùng của PGS. Chu Quang Trứ) nối tiếng trong lịch sử. . Cột đá Chùa Dạm hoành tráng vẫn đang thách thức hậu thế. Hiện nay không ai khẳng định được đây là cái gì. Khi chùa dựng xong, nhà vua nghe theo ai đó xui bậy, cho đào một con ngòi để tiện bề thuyền ngự của nhà vua và hoàng gia ghé vào bến nước tận chân núi trước cửa chùa. Nhưng, chỉ một thời gian ngắn, chùa Dạm trở thành phế tích. Nay chỉ còn một cột đá (có phiên bản đặt tại Bảo tàng Mỹ Thuật VN, Hà Nội), một tấm bia mờ hết chữ nghiêng ngả trong tàn hoang bụi rậm, và mấy chục tấm tảng kê chân cột. Còn con ngòi - tên gọi là NGÒI CON TÊN - tức Ngòi Mũi Tên) thì vẫn còn đó. Nay, lên núi Lãm Sơn, đứng ở nền phế tích chùa Dạm nhìn xuống, vẫn là ngòi CON TÊN, nước trắng xóa như chiếc mũi tên bằng thép đang lăm lăm bắn vào phế tích! Hoang tàn bia đá ngả nghiêng Chùa hoàng gia giờ chỉ còn những tảng kê chân cột Tôi cũng phân tích rằng: Trong lịch sử, xứ Đoài chính là nơi nhà Lý nhốt giữ tù binh; là nơi ẩn cư của các kẻ sĩ lánh đời, chán đời, bất đắc chí, bất lực và quay lưng với thời cuộc. Còn nay thì sao? Xứ Đoài hiện là nơi nhà nước xây dựng những trung tâm giáo dưỡng phục hồi nhân phẩm, trung tâm cai nghiện. Hơn thế Ba Vì còn là nơi người ta xây dựng siêu nghĩa trang có thể giải quyết việc an táng của thành phố chục triệu dân. .Xứ Đoài chưa bao giờ là vùng kinh tế năng động. Nơi này chỉ thích hợp để bảo tồn văn hóa, làm du lịch văn hóa và du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Đã 12 năm nay, Khu Công nghệ Cao Hòa Lạc đặt ở đây nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được bao nhiêu. Đại học Quốc gia cũng vậy. Hình như, tự vùng đất này đã có cơ chế tự bảo vệ rồi! Sấm Trạng Trình nói rằng: “Đoài phương tĩnh nhất khu”(xứ Đoài là một phương yên tĩnh”) là vì thế. Nếu đưa Trung tâm Hành chính Quốc gia về chân núi Ba Vì, tức là đặt Chính phủ và các cơ quan của chính phủ vào trạng thái nghỉ ngơi, không năng động, không linh hoạt… thì rất tai hại. .Ngoài ra, chúng ta đều biết vùng Sơn Tây là nơi Bộ Quốc Phòng đặt các trường đào tạo sỹ quan cho quân đội, cũng là nơi đóng quân của nhiều đơn vị quân đội, nhà máy quốc phòng. Ở đấy là vùng khí hậu khắc nghiệt (dân gian nói “Chó ăn đá, gà ăn sỏi”, và “nắng Sơn Tây, mây Ba Vì”) và địa hình địa vật tự nhiên phù hợp với việc thao diễn, luyện tập của quân đội. Vì thế, đưa Trung tâm Hành chính quốc gia về đây sẽ gây xáo trộn nơi này! Các bản đồ địa chất cũng cho thấy vùng núi Ba Vì có nhiều vết đứt gãy. Tại khu vực mà đồ án quy hoạch dự kiến đặt TTHCQG lại là vùng có hai đường đứt gãy giao nhau, càng tăng thêm lo ngại nếu đặt ở đây các công trình xây dựng lớn. Vì những lẽ trên, tôi rất mong các đại biểu Quốc hội nước ta không nên biểu quyết đưa TTHCQG lên vùng Ba Vì nói chung và lên xã Yên Bài nói riêng. Và chúng ta cần phải nói KHÔNG với cái Trục Tâm linh (Trục Thăng Long) đã được nhà tư vấn PPJ và Bộ Xây Dựng vẽ ra. Nguyễn Xuân Diện. Nguồn:nguyenxuandien.blogspot.com1 like
-
Tử vi là 1 phương pháp đứng ngoài vòng suy luận theo tuổi tác và năm xung hay hợp so với các môn khác ... tử vi là công thức đã định sẵn khi thời vận đến thì chỉ nhận theo nghiệp chướng của từ bao kiếp có trước ...,ngay cả có người lập gia đình vào những năm tam tai thì có sao đâu ! ngay cả có người 2 tuổi xung nhau như Dần - Thân , can- chi lẫn mạng -cung đều xung khắc nhưng vẫn chung sống lâu dài được ,rồi cũng có người khi cưới hỏi nhau đều nhờ thầy xem so đôi tuổi vợ chồng đều hợp hết nhưng chỉ sống được vài năm rồi đường ai nấy đi như vậy sách vỡ nào giải thích sao đây ? cái duyên đưa đến như cây đến mùa thì sẽ nở hoa kết trái ;khi chưa đến mùa muốn có hoa có trái cũng không thể nào đơm bông được .1 like