-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 05/08/2010 in all areas
-
Hấy?với Hầy!
mars and 2 others liked a post in a topic by Lãn Miên
Hấy? với Hầy! “Trăm năm bia đá thì mòn. Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ” Trên chuyến xe lửa du lịch từ Hà Nội vào Huế,tầu đang giảm tốc độ,chắc là sắp chạy qua một ga nào đó dọc đường.Một ông cụ bỗng lo lắng lớn giọng hỏi bà hành khách ngồi cạnh: “Ga ni ga chi ri o?Phại ga Si mô hầy!”(Ga này ga gì đó cô?Phải ga Si không nhỉ!).Mấy sinh viên Nhật đang mải dán mắt qua cửa sổ ngắm cảnh dọc đường, giật mình liếc nhìn ông cụ,có lẽ vì họ nghe mang máng giọng Nhật.Tầu đã chạy chậm hơn lúc nãy,một cậu sinh viên kịp nhìn thấy nhà ga nhỏ bên đường có chữ “Ga Si” to tướng,vội chỉ tay buột miệng: “Hay,ga Si đê-xư!”(Phải,ga Si đấy!), không biết là anh ta khoe với đồng bọn hay là trả lời cụ già, bọn họ chắc là đang học tiếng Việt ở Hà Nội,đang đi chơi thăm Huế.Chỉ một tiếng “hầy!”thường dùng ở Băc Trung Bộ, dùng để khẳng định ấy đã cho thấy là cái “bia miệng” hàng vạn năm nó vẫn còn trơ trơ.Nó là từ cổ nhất vì nó là từ cơ bản ,cũng như con số đếm một hai ba bốn năm,và dùng với tần xuất lớn nhất trong khẩu ngữ của các cộng đồng người.Người Nhật nói “hay!” tức “phải!”.Người Quảng Đông nói “hầy!” tức “phải!”. “ừm hầy!”là “ừ phải!” (Còn từ “hấy” trong tiếng Bắc Trung Bộ nghĩa là “hỏi gì đấy?”,nó một âm tiết tức “nén thông tin” hơn là ba âm tiết).Chỉ một từ “hầy” đã đủ nói rằng ba cộng đồng người trên có cùng gốc tổ thuở xa xưa.Theo di truyền học (kết quả của Viện nghiên cứu gen ở Pari) thì người Kinh,người Khơ Me,người Hoa ở miền nam Trung Quốc,người Bố Y ở Đài Loan,người Tày-Thái, người Hoa ở Singapo,người Hoa ở Thái Lan,người Mân Nam (Phúc Kiến,Triều Châu,Đài Loan),người Khách Gia( chủ yếu ở Đài Loan) là cùng một tộc người.Vậy thì chính họ là dòng giống Bách Việt của nền văn minh Văn Lang cổ đại.Cũng như từ “nô-ê” trong tiếng Nhật nghĩa là con thuyền,còn trong Kinh Thánh thì kể chuyện thời xưa gặp trận Đại Hồng Thủy loài người lên con thuyền NÔ-Ê của Thượng Đế để thoát được lên núi cao,còn trong tiếng bắc Trung Bộ thì con thuyền gọi là cái “nốc”,nhưng bị khinh là “tiếng nhà quê” nên không đưa vào từ điển tiếng Việt.Từ dân dã là có trước rồi từ hàn lâm mới có sau,chứ chẳng lẽ người dân quê không biết chữ ở Nghệ An thời cổ đại lại đợi đến khi có Kinh Thánh rồi mới mượn từ hàn lâm “nô-ê” để gọi con thuyền nan đơn sơ rách mướp của mình là cái “nốc”?.Cái âm tiết “hầy” ấy làm gì có trong tiếng Quan Thoại,nhưng nếu đọc sách Trung Quốc sẽ được giải thich đó là “âm tiết Hán cổ”,có từ thời Đường hay thời Tống.Nhưng thời Đường thì người Hoa nói tiếng “Thoòng wả” mà đến bây giờ người ta vẫn nói tiếng ấy trên khắp thế giới và gọi là “Thoòng wả” mà người Quan Thoại nghe chẳng hiểu được,hàng mấy ngàn năm mà cái “bia miệng” ấyvẫn còn trơ trơ.Nghiên cứu ngôn ngữ thì cũng như nghiên cứu sử,là phải đứng trên nền khoa học chứ không phải trên nền quốc gia.Người Na Uy,Thụy Điển,Đan Mạch nói vẫn hiểu được nhau,gọi là tiếng Na Uy,tiếng Thụy Điển,tiếng Đan Mạch chẳng qua là vì đó là những quốc gia khác nhau mà thôi.Ngôn từ đương nhiên là có từ mới mượn vào,có từ cũ mất đi không còn dùng nữa nhưng “bia miệng” là cái cánh phát âm của miệng và cú pháp trong khẩu ngữ thì nó còn mãi trơ trơ ( cũng giống như tiếng Việt hiện đại,ngữ pháp thì cứ gò nó vào cho đủ chủ ngữ ,vị ngữ ,tân ngữ trong một câu, như ngữ pháp tiếng Pháp,chứ khẩu ngữ thì người ta vẫn nói hàng ngày như cú pháp trong các câu Kiều thôi,làm gì có phân chia chủ ngữ ,vị ngữ ,tân ngữ… “Rằng năm Gia Tịnh triều Minh”…) và chẳng bao giờ nhập mới cả. Ví dụ câu nghe được trên chuyến xe lửa kia thì từ “ga”rõ ràng là nhập từ Pháp,nó thành thuần Việt rồi .Hay như từ “xích” cũng vậy,cũng là từ Pháp,nhưng nó đã thành thuần Việt đến mức mang máu Việt luôn,cũng đẻ được trong nôi Âm Dương như những từ gốc Việt khác,đó là cái nôi khái niệm của XÍCH đẻ ra XIỀNG…XOĂN-XOẮN…XÊN, ró ràng là cũng thành 5 khái niệm,nhưng cùng một gốc: “xoăn-xoắn” là cái hình hài gồm những vòng tròn móc vào nhau thành chuỗi,vì là hình hài đang trong nôi nên chưa có công năng gì vì nó đã ra khỏi nôi đâu,”xích” là cái thông dụng, công năng để kìm giữ có khoảng cách như cái xích chó, “xiềng”là cái như xích nhưng lớn hơn có công năng để trói, “xên” là cái như xích nhưng công năng của nó là nối liền hai bánh răng truyền động như của xe đạp hay xe máy(còn cái vòng đai nối truyền động cho hai bánh đà thì vẫn gọi là cu-roa như nguyên bản Pháp).Ấy vậy mà các nhà hàn lâm ngôn ngữ học Việt Nam không hề đem những từ như “xên” hay “hầy” vào từ điển tiếng Việt đâu vì cho nó là từ “nhà quê”,họ thích dùng từ “Hán Việt” cho nó “sang”.Đến như từ “MỖI” rõ ràng là do từ “MUÔI” là 1 của tiếng Khơ Me (Quan Thoại mượn thôi,đọc là “mẩy”),trong tiếng Việt MỖI mới đẻ ra MÔ…MẬP-MỜ…MỘT là cùng gốc nôi Âm Dương,chứ trong Quan Thoại thì “mẩy” không đẻ được kiểu tách đôi Âm Dương(do vua Phục Hy không dạy cho họ vì thời đó người Hán còn ở rất xa phía bắc Trung Á),tiếng Quan Thoại có “mẩy”-mỗi là một thực thể, “líng”-linh là 0,”yi”-nhất là 1,mấy từ ấy đâu có thấy gì thể hiện cùng gốc Âm Dương?Nhưng MỖI vẫn được các nhà hàn lâm ngôn ngữ học Việt Nam coi là “từ Hán-Việt” cũng như họ nói “70% các từ dùng trong tiếng Việt hiện đại là từ Hán-Việt”.Nhưng người Hán có cái hay là không kỳ thị ngôn từ các dân tộc khác,họ dùng chữ Hán để chú âm lại hết,được nhiều từ đồng nghĩa thì chia ra dùng từ này ở ngữ cảnh này,từ đồng nghĩa kia thì dùng cho ngữ cảnh khác ,càng phong phú câu văn.(Nhưng xưa kia các vị hàn lâm ở thủ đô thì cực ghét giọng địa phương,nên thời Mao Trạch Đông còn là sinh viên trường Bắc Đại rất tích cực phát biểu,được thầy chỉ đứng lên rồi, nhưng nghe giọng Hồ Nam thì thầy là vị giáo thụ lờ đi không thèm trả lời—Đọc trong “Mao Trạch Đông truyện” NXB Thượng Hải năm 2006) .Bởi vậy bây giờ từ điển Hán mới vô cùng phong phú như vậy (ví dụ “thương” là màu xanh da trời,”thanh”là màu xanh của sự trẻ ,”lam” là màu xanh nước biển-nó do từ “rum” của tiếng Việt,sông Lam gọi là sông Rum,”lục” là màu xanh lá cây…),từ nào nó không phải gốc Hán thì nó là “tiếng Hán cổ”.Ví dụ từ ‘nơ-ron” của cái tế bào óc,nó chỉ mới có từ khi Tây y truyền bá sang phương Đông,người Hán chú bằng hai chữ “nang bào” vốn là ngôn từ Việt, họ đọc là “náng pao”nghe cũng tờ tợ như nơ-ron mà về nghĩa chữ thì chuẩn ,vì “nang”trong tiếng Việt là cái bọc sống sẽ nở ra (trong cái nôi Âm Dương:NỎ…NỞ -NANG…NẬY tức của cái NÒI đang từ không tức “nỏ” phát triển dần lên trong nôi là đang” nở- nang” cho đến lớn hẳn tức “nậy”-nậy nghĩa là lớn, tiếng “nhà quê”, mà hàng chục triệu người Việt ở bắc Trung Bộ vẫn nói hàng ngày).Từ “nang”ấy người Việt vốn dùng để chỉ cái buồng hoa cau khi chưa nở (tức đang còn trong nôi),nghĩa là cái từ đó phải có từ trước thời vua Hùng khi mà tục ăn trầu đã phổ biến.Từ “nang”ấy lại là do từ “pơ-nang” trong tiếng Mã Lai nghĩa là cây cau mà Quan Thoại phiên âm là “pin láng”-tân lang( ở Malaixia có thành phố Pênang).Còn từ bào thì đã rõ rồi,chỉ có người Việt và người Hoa mới có từ “đồng bào” nghĩa là con cùng một bọc.Nhưng khi giải thích từ “nang bào” là chữ “ Hán cổ”thì có nghĩa là người Hán đã nghiên cứu tế bào não từ thời cổ đại chứ chưa đợi đến khi có y học của khoa học phân tích của phương Tây mới biết. Lãn Miên3 likes -
CỐ ĐÔ PHIÊN NGUNG NƯỚC NAM VIỆT NGÀY XƯA Trương Quang Chuyến bay nội địa Trung Hoa rời phi trường Hoàng Châu, vượt 2230 Km trong 1 giờ 40 phút, đưa đoàn du lịch 26 người bước xuống phi cảng. Bạch Vân củ thành phố Quảng Châu giữa trưa ngày 24/01/2003. Phi cảng quốc tế Bạch Vân (Baiyum) vốn đã lớn rộng, trước mắt chúng tôi con đường xây cất và giải tỏa ngoại vi trongb kế hoạch phát triển thành sân bay hiện đại nhất của Trung Quốc vào tháng 10/2003. Đến hôm nay, nếu so sánh với các phi cảng quốc tế trong vùng Đông Nam Á về số lượng hành khách và số lần tiếp nhận phi cơ quốc tế thì phi cảng Bạch Vân khấm khá hơn các phi cảng Pudoug (ở Thượng Hải), Kuala Lumpur (Malaisia) và Tân Sơn Nhất (Việt Nam); tương đương với các phi cảng Inchon (ỏ Hán Thành), Narita (Nhật Bản), Hồng Kông International Airport và Don Muang ( Bangkok), nhưng khó có thể bắt kip phi cảng Changi ở Singapore cả về phẩm và lượng (CT: Changi là sân bay sạch, đẹp và an ninh nhất thế giới, mỗi năm tiếp nhận 40 triệu hành khách, nơi hạ cánh của 60 hảng hàng không, có đường bay tới 146 địa điểm trên hoàn vũ). Phi cảng Bạch Vân đã từng tiếp đón đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ 9 vào năm 2000. Đi tham quan, dù rất ít ỏi, những di tích và thắng cảnh trên một đất nước rộng đến 10 triệu cây số vuông, buộc chúng tôi phải tính toán thời gian và phương tiện di chuyển thật khít khao. Tuần trước, trên đường dài 1850 km từ Bắc Kinh đi Thượng Hải, chúng tôi lợi dụng chuyến tàu lửa ban đêm để được ngon giấc trên toa giường trên lộ trình 14 giờ. Tuần này, chỉ vợ tôi và tôi lợi dụng những giờ tự do mua sắm riêng và giờ ăn cơm chung ở nhà hàng để đến viếng những nơi không ghi trong lịch trình du lịch, như nhà kỷ niệm Tôn Văn, mộ phần Phạm Hồng Thái và viện Bảo tàng lăng mộ Nam Việt Vương, sau khi đã điều nghiên trên bản đồ và tư liệu. Chủ đích của người viết là quảng bá 2 di tích lịch sử Việt Nam tại nước ngoài. Thành phố Quảng Châu là thủ phủ tỉnh Quảng Đông, là cửa ngõ lớn của miền Hoa nam, có đường biên giới chung với miền Bắc Việt Nam. Diện tích T.p. Quảng Châu là 7.435km², chia thành 8 khu 8 huyện với dân số 6.580.000 người. Đây là thành phố có nhiều Hoa kiều đang lập nghiệp khắp nơi trên thế giới. Quảng Châu thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa như khí hậu Việt Nam. Nhiệt độ bình quân cả năm 21°7C (tức 69°F), mùa hè có gió mát, mùa đông không quá lạnh. Địa thế thấp dần về tây-nam, bắc nhiều núi non, đông là thung lũng và những dải đồi thấp, nam là đồng bằng phù sa của châu Tam giác sông Châu giang. Thành phố Quảng Châu đã có 3000 năm lịch sử với tên gọi đầu tiên là Phiên Ngung. Khi nhà Tần khống chế được dân Bách Việt trên địa bàn miền Nam Việt bèn lập Phiên Ngung làm lỵ sở vùng Lĩnh Nam. Sang đầu nhà Hán, Triệu Đà cắt cứ vùng Lĩnh Nam đặt tên nước là Nam Việt, đóng đô tại Phiên Ngung mang tên là thành Việt. Đến thời Tam quốc, nước Ngô bá chiếm vùng Lĩnh Nam, lập quận Giao Châu. Nước Ngô tu sửa thành Việt ở Phiên Ngung, dời thủ phủ của châu từ huyện Quảng Tín về Phiên Ngung. Từ đó Phiên Ngung có tên là Quảng Châu. Thời cổ, Quảng Châu còn có những tên khác như Sử Sở đình (tức trung tâm quyền lực của nước Sở), Dương thành ( tức thành phố con dê). Nguyên do từ chuyện thần thoại có 5 thần nhân bận y phục ngũ sắc mỗi vị một màu, cưỡi trên 5 con dê màu lông khác nhau, mang theo ống sáo có chứa 6 loại ngũ cốc và hoa quả, đem lại cho dân chúng trong vùng những mùa luá bội thu và hoa quả phong phú. Ngày nay, để cầu mong sự sung túc như thần nhân đã ban ơn phước, nên trong công viên Việt tú xinh đẹp có tượng 5 con dê rất vĩ đại, là biểu tượng cho thành phố Quảng Châu. Ở một cảnh trí khác gần tượng 5 con dê là một bức bích họa về sinh hoạt nông trang với vũ hội ngày được mùa, được chạm trổ trên bức tường đá dài hàng trăm mét bên vách núi. Hôm ấy, cô hướng dẫn viên đã chỉ lên giỏ trái vải trong hoạt cảnh trên đá và diễn ngâm 2 câu thơ (có mấy ai nghe được tiếng quang thoại?), tôi phải yêu cầu cô viết ra Hán tự, xin ghi phiên âm và tạm dịch: Nhất kỵ hồng trần phi tử tiếu Vô nhân tri thị lệ chi lai. (Bụi cuốn dặm nghìn, cười nụ vương phi, Nào ai hay kỵ mã hiến lệ chi) Hai câu thơ không chỉ nhắc đến trái vải ngon ngọt của Hoa nam mà còn nhắc laị xì căng đăng” nơi cung điện dẫn đến biến loạn thảm khốc. Tướng An Lộc Sơn phi ngựa ngày đêm bụi lốc, mang trái lệ chi vào cung hiến dâng cho Dương Quí Phi là bà mẹ nuôi mà ông từng yêu trộm. Đến năm 755, quan Tiết độ sứ An lộc Sơn làm phản, chiếm Lạc Dương rồi tiến chiếm kinh đô Trường An để chiếm lấy Dương Quí Phi. Vua Đường Huyền Tôn đã quá mê say nàng, bỏ kinh thành đem nàng theo, chạy vào đất Thục. Chạy đến Mã Ngôi, tướng sĩ ép vua phải xử thắt cổ giết Dương Quí Phi xong, mới tiếp tục chạy loạn. Bốn loại hoa quả ngon nổi tiếng vùng Lĩnh nam gồm: vải, cam, dứa, chuối tiêu. Ngoài ra, nơi đây còn là quê hương đu đủ, nhãn, khế quýt. Hoa tươi, rau xanh, thủy sản phẩm của Quảng Châu được bán rộng rãi trên toàn quốc và xuất khẩu. Quảng Châu còn có tên là “thành phố HOA”, ở đây có hơn 60 giống hoa, từ hoa hồng, kim cát, dạ hương, mễ lan... nở rộ cả bốn mùa nhờ khí hậu thích hợp. Mộc miên được goị là “thị hoa” của thành phố Quảng Châu. Hàng năm, cứ đến mùa Xuân, du khách trên thế giới lại nghĩ về “thành phố HOA” như một điểm hẹn đầu tiên. Ngày nay, Quảng Châu là thành phố du lịch nổi tiếng, có nhiều khách sạn 5 sao đúng tiêu chuẩn quốc tế. Chúng tôi lưu ngụ tại khách sạn Lido hotel (âm Việt đọc là Lạc đô) hạng 3 sao với 30 tầng, tại số 182 đường Bắc kinh, cũng đã thấy tiện nghi và lịch sự lắm rồi! Tất cả các đểm tham quan đều có bán vé vào cửa cho du khách. Những khu vực cảnh trí ngoạn mục đáng kể như Bạch vân sơn la cương, Liên hoa sơn (núi hoa sen), suối nước nóng Tùng hoa... Nhất là Dương thành bát cảnh được xây dựng từ thời Tống. Năm 1986 Dương thành bát cảnh được bình chọn là thắng cảnh quốc gia với lời giới thiệu: “Mây núi như giải lụa gấm, nước xanh trong như pha lê, sóng lấp lánh dưới ánh mặt trời, động như rồng, rừng như ngọc, lầu đài nguy nga. Mỗi cảnh mộ tên như Hồng lĩnh nhật xuất, Hoàng hoa hào khí, Lưu hoa vương vũ, Hoàng phố vân tường” Về ẩm thực, Quảng Châu đã sớm nổi tiếng về cách ăn ngon, rất được ưa chuộng ở trong và ngoài nước. Món ăn Quảng Châu là đại biểu cho món ăn Việt, là 1 trong 8 vùng có nghệ thuật ẩm thực đặc sắc. Nguyên liệu trong món ăn chính là ngũ cốc, hoa quả với các loại rau và cá thịt tươi mới, phải quen chọn lựa về phẩm chất hơi cầu kỳ. Phối liệu và gia vị tinh tế cho hương vị thơm ngon, mềm dẻo, giòn, có chút cay với cách trình bày vào bát đĩa và đặc biệt trên bàn khéo léo, làm cho món ăn Quảng Châu mang đầy đủ ý thơ nét họa, thể hiện rõ bản sắc và phong vị của văn hóa Lĩnh nam. Địa lý thiên nhiên của Quảng Châu khá thuận lợi. Đây là thành phố hải cảng kiêm giang cảng vì vừa nằm gần bờ biển Nam hải, vừa là nơi hội tựu của 3 con song Bắc giang, Đông giang và Tây giang cùng chảy ra cửa biển Hổ môn (sông Tây giang có 2 phụ lưu là sông Bằng giang và sông Kỳ cùng chảy qua 2 tỉnh Cao bằng và Lạng sơn nước ta). Sông Châu giang là con sông lớn thứ tư ở Trung quốc, chảy xuyên qua thành phố Quảng Châu, có nơi tạo ra vùng nước mênh mông như biển hồ. Đây là nơi liệt sĩ Phạm Hồng Thái của Việt Nam đã từ trần sau khi thực hiện sứ mạng cứu quốc. Có đến 11 cây cầu và 2 đường hầm nối liền đôi bờ Châu giang trong nội thành Quảng Châu. Ban đêm, đi du thuyề trên sông Châu giang như lạc vào thế giới kỳ ảo: gió mơn man theo tiếng sóng vỗ rì rào, trăng sao trên trời rơi đáy nước, đèn sáng lung linh muôn màu trong trong tán cây lá ven bờ, trên cao ốc và chuyển động trên đường. Đường phố Quảng Châu rộng rãi, hiếm khi bị kẹt xe tắc nghẻn lưu thông, có nhiều công viên và nhiều cây xanh tạo nên sự thoáng mát. Số lượng xe ô tồ bằng ngang với số lượng xe đạp lưu hành đồng thời trên đường, trong đó số lượng xe taxi khá lớn, được xem là phương tiện di chuyển của thị dân và du khách. Quảng Châu là lò sản xuát xe gắn máy 2 bánh đời mới, xuất cảng hàng triệu chiếc mỗi năm ra các nước lân cận., nhưng chính nơi đây lại ít xe gắn máy, là điều đáng ngạc nhiên. Quảng Châu mở cửa giao lưu với ngoại quốc từ thời Trung cổ dưới triều đại Tần, Hán đã rất phồn thịnh. Đặc sản qui hiếm vùng nhiệt đới như ngà voi, tê giác, đồi mồi, châu ngọc, nhiều loại trái cây, nhất là lúa gạo từng nổi tiếng trên thị trường đa quốc gia. Thời Tần đã có tuyến đường biển Quảng Châu chạy thẳng đến vùng Đông nam Á và cả Nam Á. Đời Đường, giao thông và mậu dịch đối ngoại của Quảng Châu đã phát triển mạnh mẽ, trở thành thương cảng lớn nhất, là điểm xuất phát tuyến đường tơ lụa trên biển của Trung quốc. Dưới chế độ cọng hòa nhân dân Trung hoa, từ thời Mao trạch Đông theo chính sách kinh tế tập trung, đà phát triển bị đình đốn vì cung và cầu đều do Đảng cộng sản chỉ huy ở mục tiêu tự cấp tự túc, do đó ngành thủ công nghiệp và giao thông nội địa của Quảng Châu thay thế hẳn ngành ngoại thương. Từ năm 1979, dưới thời Đặng tiểu Bình theo chính sách kinh tế mở cửa, chính phủ Trung Hoa cho xây dựng ở tỉnh Quảng Châu 2 đặc khu kinh tế Thẩm quyến và Chu hải cùng với trung tâm mậu dịch đối ngoại của toàn quốc. Nhìn những thuận tiện địa lý, ai cũng nhận thấy toàn vùng đặc khu kinh tế hợp thành quần thể kinh tế mạnh nhất Trung hoa, bao gồm: Thành phố Chu hải nằm ở bờ tây Châu giang, phía đông cách Hồng kông 36 hải lý (đảo Quế sơn ở phía đông Chu hải chỉ cách Hồng kông 3 hải lý), phía nam giáp Ma cao, phía bắc giáp tam giác Châu giang phì nhiêu quay mặt ra Nam Hải. Thành phố Thẩm quyến nằm phía nam tỉnh Qủang đông, phía đông giáp vịnh Đại á, phía tây liền với cửa sông Châu giang, phía bắc giáp thành phố Đông hoàn huyện Huệ dương, phía nam cách Cửu long, Tân giới của Hồng kông một con sông. Hồng kông (chữ Hán Việt là Hương cảng) đã thâu hồi chủ quyền từ người Anh ngày 1-7-1997 và thiết lập khu hành chánh đặc biệt, được giữ nguyên chế độ chính trị cũ. Hồng kông là thành phố công thương nghiệp hiện đại, nằm ở bờ biển đông nam tỉnh Quảng đông, ngay phía đông cửa sông Châu giang. Ma cao được thu hồi chủ quyền từ Bồ đào Nha ngày 20-12-1999 và được thiết lập khu hành chánh đặc biệt thuộc quyền quản lý của chính phủ trung ương. Ma cao nằm phía tây nam cửa sông Châu Giang. Thời cổ Ma Cao có tên là Hào Kính Áo, từ Hán Việt gọi là Áo môn. Năm 1982, Quảng Châu được Quốc hội Trung hoa phê chuẩn là 1 trong 24 thành phố lịch sử văn hóa, và tháng 3 năm 1984 có tên trong 14 thành phố mở cửa ven biển. Do vị trí địa lý được thiên nhiên ưu đãi, nên hiện nay thành phố Quảng Châu có vốn đầu tư nước ngoài đứng đầu Trung quốc. Hầu hết các ngành công nghiệp đều có liên doanh với nước ngoài, đã đưa nền công nghiệp nhẹ làm chủ thể, phát triển lên thành công nghiệp cơ khí toàn diện. Quảng Châu nghiễm nhiên trở thành trung tâm công nghiệp miền Hoa nam với 10 ngành công ngiệp kỹ nghệ tiên tiến: ngành chế tạo thiết bị giao thông vận tải, ngành chế tạo vật dụng điện khí laser, ngành chế tạo thiết bị điện tử thông tin, các cơ xưởng sản xuất ô tô, máy móc, nguyên liệu và sản phẩm hóa học, các khu chế xuất y dược, thực phẩm, may mặc, chế phẩm cao su, plastic... Quảng Châu vốn là thành phố thương mại tổng hợp với nền kinh tế thị trường rấtt sôi động, những năm gần đây đã hình thành nhiều khu phố thương nghiệp đa dạng rất đặc sắc như ở đường Giáo dục, đường Tây hồ, Hoàng cương, phố lớn Sa há... chuyên doanh những mặt hàng thời trang, bách hóa. Trên đường Trường thọ và phố Tân thắng có rất nhiều cửa hàng vàng bạc, đá quí, đồ trang sức. Nếu muốn mua đồ sành sứ, hoa tươi... thì đến đường khởi nghĩa, đường Đại nam. Trong những ngày và đêm gần đến tết Nguyên đán năm Quí mùi (năm 20030, suốt đại lộ Bắc kinh biến thành chợ Tết sầm uất với muôn vẽ muôn màu ngay trên mặt đường, đủ mọi hoa quả cây cảnh, pháo tràng liên đối, bánh mứt cầu kỳ... Ngay đến các siêu thị nhiều tầng ở hai bên đường cũng đầy ắp y phục thời trang, hàng trang trí nội thất, hàng tiêu dùng cao cấp... Cùng lúc ấy, không ít người nhớn nhác bày mấy món hàng trên tấm bao tải ở lề đường mời mọc người mua. Khi cảnh vệ đến, họ tóm gọn cả vào bao, lẩn vào đám đông rồi lại bày bán hàng ở lề đường nơi khác. Đó là một kiểu chợ Tết Quảng Châu, cùng lò với kiểu Chợ lớn, Việt Nam. Cũng vào dịp này, tôi được chứng kiến cảnh dân chúng hàng hàng lớp lớp trêm mấy dậm đường, kéo nhau về quảng trường nhà ga xe lửa Quảng Châu để chực mua vé, đáp tàu về quê ăn Tết. Tôi cảm thấy choáng ngợp trước rừng người, dù là một góc rất nhỏ trong số 1 tỷ 300 triệu của Trung hoa. Đặc biệt, trên nóc tòa nhà ga xe lửa, hai bên có 2 câu khẩu hiệu nổi rõ lên nền trời: “Thống nhất tổ quốc và chấn hưng Trung hoa”. Đây là 2 câu quyết tâm được dựng lên trước năm 1997, khi Trung quốc cổ vũ đòi lại chủ quyền ở nhượng địa Hồng kông. Ngoài nơi nầy ra, tôi không trông thấy một câu khẩu hiệu nào, một hình ảnh hay pho tượng lãnh tụ cộng sản nào tại Thành phố Quảng Châu hôm nay. Trước đây vài thập niên Trung Hoa là đất nước tràn ngập hồng kỳ, chân dung Mac Lê Mao và khẩu hiệu đại ngôn giăng khắp mọi nẻo đường. Hôm nay, cũng vẫn tên gọi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nhưng da thịt đã đổi mới, vẫn là chủ nghĩa Cộng sản nhưng theo nhận biết của tôi thì không tìm thấy cộng sản còn ẩn tàng nơi đâu, ngoài lá cờ 5 sao còn ngự trị trên cộtt cờ ở công sở. Quảng Châu đã mở toang cánh cửa từng khép kín, không phân biệt: mèo đen mèo trắng”. Nơi đây là đầu mối giao thông trong cả 3 lãnh vực: đường thủy, đường bộ và đường hàng không của miền Hoa nam. Rất nhiều tuyến quốc lộ, liên tỉnh chia ra thành mạng mưới đường bộ về muôn ngả. Các tuyến đường sắt Bắc nam và chạy trực tiếp đến các thành phố lớn trên toàn quốc. Giao thông đường thủy trên sông đi thông suốt đến các bến cảng của các sông Đông giang, Bắc giang, lấy Châu giang làm thủy lộ chính yếu. Giao thông đường biển nối liền với 600 cảng lớn trên thế giới. Sân bay Bạch vân (đã đề cập ở đầu bài) sẽ trở tành sân bay quốc tế lớn nhất trong số những sân bay quốc tế của Trung Hoa. Quảng Châu còn có khu triển lãm hội chợ hàng hóa xuất khẩu lớn nhất thế giới. Từ xa xưa, nền văn hoa Lĩnh nam để lại cho Quảng Châu nét độc đáo với nhũng di tích lịch sử, văn vật cổ mang đậm bản sắc dân tộc như: chùa Quang hiếu là ngôi chùa phật giáo được xây dựng vào thời Đông Tấn, chùa Hoàn thánh và Tháp quang được xây dựng vào đời Đường là công trình theo thể kiến trúc của đạo Hồi. Quảng Châu là thành phố có lịch sử đấu tranh chống đế quốc và phong kiến còn được ghi như sau: nhà bia kỷ niệm nhân dân chống đế quốc Anh ở Tam nguyên lý, Hoàng hoa cương nơi vinh danh 72 liệt sĩ, nhà kỷ niệm Tôn Văn, di tích trường Võ bị Hoàng phố v..v.. Riêng về phần mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái và Bảo tàng viện Nam Việt vương, có liên hệ trực tiếp với Việt Nam sẽ được ghi nhận rõ ràng hơn. Quảng Châu là nơi dung trú các nhà cách mạng Việt Nam trong các phong trào Cần vương, Văn thân, Đông du còn lưu lại những cơ sở dùng làm lớp học hay trụ sở. Cụ Phan Bội Châu có thời hoạt động ở Quảng Châu dài nhất trong số những người yêu nước Việt Nam dừng chân lại thành phố này. Nhà kỷ niệm Tôn Văn Bác sĩ Tôn Văn, hiệu Trung Sơn, người huyện Trung sơn, tỉnh Quảng đông, là thủ lãnh cách mạng dân chủ Trung hoa mà quốc dân tôn vinh là đấng từ phụ. Tôn chỉ vận động cách mạng cũa Tôn trung sơn là: khôi phục Trung Hoa, diệt trừ Mãn thanh, lập dân quốc, bình quân địa quyền. Thị xã Quảng Châu là mục phiêu thứ nhất trong chương trình hành động cách mạng nầy. Sau cách mạng Tân hợi (1911), Tôn trung sơn nhận chức Đại Tổng Thống ở Nam kinh (tức Kim lăng, thuộc tỉnh Giang Tô) Từ 1911 đến 1949, Nam kinh là thủ đô chính của Quốc dân đảng. Ông mất tại Bắc kinh năm 1925, đến năm 1929 hài cốt được đưa về an táng tại núi Tử kim Đài kỷ niệm Tôn Văn hình chóp nhọn cao vút trên đỉnh núi *giống như Washington Momument ở thủ đô Mỹ quốc), có thể nhìn thấy từ nhiều ngõ đường trong Thành phố Quảng Châu. Ở chân núi phía nam Việt tú sơn có nhà kỷ niệm Tôn Văn nằm giữa khu vườn rất rộng, có nhiều hoa và cây xanh đẹp đẽ. Nhà kỷ niệm có 3 tầng theo dạng cổ lồng, nhiều mái cong mang nét cổ kính, vẻ hoành tráng giống nhau ở ba phía ra vào. Riêng phía chính diện có bức đại hoành phi “Thiên hạ vi công” và trước sân có pho tượng Tôn trung sơn đứng trên đài, bên dưới ghi tạc tiểu sử và công trạng. Hoàng hoa cương và bia mộ Phạm Hồng Thái Hoàng hoa cương là nghĩa trang danh dự ở chân núi Bạch vân, TP Quảng Châu, nơi an giấc ngàn thu của 72 liệt sĩ Trung hoa đã anh dũng hy sinh trong cuộc Cách mạng lật đổ triều đình mục nát Mãn thanh, giành chủ quyền trong tay các đế quốc xâu xé Trung Hoa, đã xảy ra lúc 5 giờ chiều ngày 23-3 năm Tân hợi ( 27-4-1911). Đứng trước cổng Hoàng hoa cương hùng vĩ mà tú lệ bằng đá xanh màu thạch ngọc, ai cũng nghiêng mình khâm phục. Bên trong là đài tưởng niệm uy nghi với bia đá vĩ đại mang dòng chữ “Thất thập nhị liệt sĩ chi mộ” theo chiều đứng và 4 chữ “Hạo khí trường tồn” chạy suốt những gian thờ phụng ở tầng thấp. Trên chót cao của bức tường nơi hậu điện có tượng Nữ thần tự do đưa cao ngọn đuốc thiêng, giống như tượng Nữ thần tự do ở cửa biển New York (Hoa Kỳ). Khu vực Hoàng hoa cương rộng lớn, lối đi lát đá viền bồn hoa tươi thắm, lẩn khuất dưới rừng cây xanh là nbững ngôi mộ có ghi tiểu sử đứng cạnh pho tượng trầm mặc của một anh hùng đã hiến thân cho tổ quốc. Trong cảnh ngoạn mục và thanh tịnh của Hoang hoa cương, tôi đã gặp nhiều vị cao niên tản bộ tập khí công và một nhóm nữ lưu đương tập thái cực quyền trên sân của nhà nghỉ mát. Cái vinh hạnh đối với tôi là đã đến thăm phần mộ Phạm Hồng Thái, người thanh niên ưu tú của Việt Nam đã an nghĩ trong Hoang hoa cương, người duy nhất được tôn vinh nơi đất khách đã truyềnn lại cái hào khí lẫm liệt đến kẻ hậu sinh tha hương. Phạm Hồng Thái tên thật là Phạm Thành Tích, bí danh Nho Tư, chào đời năm 1896 tại làng Ngọc điền (Nghệ Tỉnh) đã hy sinh vì tổ quốc tại Châu giang, TP Quảng Châu, lúc 30 tuổi. Ông theo chí hứơng của cha (là quan Huấn đạo Phạm Thành Mỹ, có chân trong phong trào Cần vương kháng Pháp). Phạm Hồng Thái đã sớm hoạt động cách mạng, theo bước Đông du trong Việt Nam quang phục hội của chí sĩ Phan Bội Châu. Thực hành đường lối của Tâm tâm xã,, cảnh tỉnh đồng bào dưới ách nô lệ của thực dân Pháp, Phạm Hồng Thái theo dõi để ám sát Toàn quyền Martial Merlin từ Đông dương sang Nhât để điều đình trục xuất những nhà cách mạng Việt Nam, đồng thời ký một thương ước. Phạm Hồng Thái đã bám sát phái đoàn Merlin từ Hồng kông đến Thượng hải rồi qua Hoành tân đất Nhật, nhưng chưa có cơ hội thuận tiện ra tay, Khi Merlin và đoàn tùy tùng trên đường về Hà Nội, ghé lại Quảng Châu đêm 18-6-1924 để dự tiệc tại nhà hàng Victoria ở Sa điện, Phạm Hồng Thái giả làm ký giả chụp hình lọt qua được hàng rào cảnh binh, vào trong khách sạn ném một quả bom tay vào giữa bàn tiệc làm một số người Pháp và quan khách chết ngay tại chỗ, riêng Toàn quyền Merlin chỉ bị thương nhẹ, thoát chết. Phạm Hồng Thái phóng ra ngoài, chạy về phía Tây hào khẩu, lính phòng vệ duổi theo rất ngặt lại gặp Châu giang chắn lối, ông liền nhảy xuống sông tự vận, quyết không chịu sa vào tay giặc. Pháp trả thù, vớt được xác Phạm Hồng Thái đem phơi bờ sông mấy ngày thì được một người Trung hoa nghĩa khí xen đem mai táng. Tháng 3 năm 1925, tỉnh trưởng Quảng đông là Hồ hán Dân cho cải táng hài cốt Phạm Hồng Thái vào nghĩa trang danh dự Hòang hoa cương, trong lễ khánh thành để tưởng niệm người liệt sĩ xả thân vì tổ quốc có rất đông đảng viên Cách mạng Việt Nam qui tụ về và nhiều yếu nhân Trung hoa quốc dân đảng tham dự. Nơi an nghỉ của vị anh hung Phạm Hồng Thái chiếm một diện tích khá rộng trong Hoang hoa cương, như 72 liệt sĩ khác. Còn đó, qua thời gian 80 năm qua vơi bao đổi thay lịch sử, vẫn là ngôi mộ vun cao viền cỏ xanh, ngay cạnh là đài kỷ niệm mang mấy hàng chữ mạ vàng ngời sáng, bên trên là chữ Quốc ngữ Việt Nam “ Mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái”, chữ Hán theo chiều đứng của đài: “ Việt Nam Phạm Hồng Thái liệt sĩ chi mộ”. Sau lễ đài lát đá hoa cương, bên tả có bia đá cẩm thạch lớn bằng cánh cửa, ghi khắc chữ Hán như sau: Việt Nam liệt sĩ mộ ký. Phiên ngung, Hồ Yểm soạn thư. Quân lúy Hồng Thái, Việt Nam Bắc kỳ nhân dã. Tiên thế nghiệp nho, Pháp nhân vong Việt Nam. Nhủng tập khoa cử chi, chế dĩ ngu dị nhân. Quân tu chỉ khử nhi tập công học, ký quan nhập mổ xưởng vi công nhân, trường để pháp luật chi hà bạo dữ pháp lại chi tứ tuy. Chiếp sinh phẩn khái, hội hưu chí giả tương dữ tổ chức chính đảng vi cách mạng vận động, yêu quân nhập đảng, quân tùng chi. Thời đảng nhân dân lưỡng phái. Nhất chủ vận động tam kỳ quân đội phản chí nhi trục Pháp nhân. Nhất chủ ám sát hẵn tướng khốc lai dĩ trừ dân hại. Quân ý dĩ vận động quân đội cố thuộc yếu đồ trạng cẩn vô tráng liệt chi cử tắc bất túc hàn địch nhân chi đảm nhi kích lệ quốc dân, ccá tả đản ám sát phái nhi mưu hữu dĩ thật hành yên. Pháp sứ Mã lan giả tương đạo xuất Nhật bản nhi vi Hồ Vi chi du . Quân văn chi tiêu kỳ hiệp thủ thương tạc đan đắc chi ư Đông kinh, Thượng hải gian dĩ trinh sứ nghiêm mật vô kích khả thừa, toại Phiên trạng lai Việt vi tối hậu chi cử, huynh tri Pháp nhân Mã lan vu Vực Đa lị lữ quán dã. Nại vị đồng chí mỗ quân viết: Sự tành dữ bất đồ bất khả kỳ trạng ngô thệ bất nhập vu Pháp nhân chi thủ, duy quân tu tương ngô đảng tông chỉ tuyên thị vu ngoại dị miễn Pháp nhân hữu sở ngộ hội tri cầu tắc đọat thị. Quân toại vu lục nguyệt thập cửu nhật, ngọ hậu bát thời vẵng phó vực đa lị lữ quán bài chúng nhập vu vũ đạo thất, đạn thương đồng phát, nhất thời nam nữ yểu tịch huyết đột mô hồ. Quân tiếu viết: Đại sự tất hỉ, ngô kỳ tử hồ. Nãi phó thủy tử. Việt nhân nghĩa chi, thân kỳ thi táng, chư nhị vọng cương chi nguyên mộ tây nam hướng cái dục sử quân chi linh do đắc quyến cố kỳ cố quốc, vân thị vi ký. Trung hoa dân quốc thập tứ niên nhất nguyệt cốc đánh lập. Dịch nghĩa: Văn bia mộ liệt sĩ Việt Nam họ Phạm. Hồ Yểm soạn, viết tại thành Phiên ngung. Anh hiệu Hồng Thái, người Bắc Việt Nam. Đời trước (cha ông) theo Nho học. Người Pháp chiếm Việt Nam, vẫn duy trì khoa cử để chế ngự làm ngu dân. Anh hổ thẹn, bỏ học, theo công nghệ làm công nhân trong cơ xưởng. Anh luôn nhìn thấy sư hà khắc thô bạo của pháp luật và hà hiếp của quan lại người Pháp, sinh lòng phẩn nộ. Nhân găp các người có chí khí đang tổ chức chính đảng để vận động cách mạng, mời anh tham gia, anh liền theo. Lúc đó người trong đảng chia làm 2 phái: Một nhóm chủ trương ám sát tướng hung bạo, quan tham tàn để trừ hại cho dân. Anh có ý vận động quân đội trong nước để cử sự. Nhưng nếu không khởi động bằng sự việc mãnh liệt thì không đủ làm cho kẻ thù khiếp đảm và làm phấn chấn tinh thần quốc dân. Cho nên anh tán thàn h phái ám sát và thi hành mưu địch. Thống sứ Toàn quyền Pháp là Mã lan giả (Merlin) sắp rời Nhật bản du hành sang Thượng hải. Anh nghe tin, trước hết vì nghĩa hiệp, anh tự mang súng và tạc đạn sang Đông kinh rồi Thượng hải. Vì sự canh phòng nghiêm mật không có cách gì hành động. Mãi khi Toàn quyền đến Quảng Châu (Phiên ngung) để trở lại Việt Nam, là cơ hội cuối cùng để cử sự. Được tin người Pháp sắp đãi tiệc Mã lan (merlin) ở khách sạn Vực đa lị (Victoria). Anh nói với người đồng chí: “Sự việc tới lúc phải đạt thành công, không thể trì hoãn. Tôi nguyện không để lọt vào tay người Pháp, xin anh tuyên thị tôn chỉ của đảng ta ra ngoài để người Pháp khỏi hiểu sai lầm mà xuống tay tàn sát bừa bãi.” Sau đó, vào ngày 19 tháng 6, lúc 8 giờ chiều tối, anh đến khách sạn Vực đa lị (Victoria) giả dạng vào được trong vũ trường, tung lựu đạn và bắn súng. Lúc đó nhiều người nam nữ chết ngay, máu chảy cùng khắp. Anh cười nói: “ Việc lớn đã thành tựu, ta chỉ còn cái chết mà thôi.” Sau đó anh đã trầm mình tự vận. Người Quảng đông cảm nghĩa khí, đem thay đi chôn, sau cải táng ở Hoàng hoa cương, hướng về Tây Nam, ý muốn cho linh hồn anh được nhìn về cố quốc. Nay tôi ghi lại nơi đây. Trung hoa dân quốc năm thứ 14, tháng giêng, ngày tốt dựng lập bia. Lời người viết: (1) Trương Quang thành kính cảm tạ Giáo sư Hòa thượng Thích trí Hoằng đã đọc lại bản chụp văn bia đính kèm, để bổ chính cho bản phiên âm và bản dịch trên đây tránh lỗi lầm, (2) Một điểm sai khác giữa văn bia và tài liệu tôi tham khảo để viết về ngày tháng Phạm Hồng Thái ra tay ám sát Merlin, xin chờ quí vị lưu tâm chỉ giáo cho. Người đời thường ví anh hùng Phạm Hồng Thái ám sát quan đô hộ Merlin như tráng sĩ Kinh kha hành thích bạo chúa Tần thủy Hoàng, tuy công chưa thành nhưng danh lưu muôn thuở. Trong một tích tắc, Phạm Hồng Thái đưa hai tay bái vọng vĩnh biệt tổ quốc Việt Nam rồi nhảy xuống sông Châu giang, có khác Kinh kha vĩnh biệt nước Yên có Thái tử Đan và triều thần bận tang phục tiễn đưa, rồi vượt sông Dịch thủy không hề ngoái lại. Một buổi sáng áp Tết Quí mùi (2003) tôi và người bạn Hoa kiều-Chợ lớn, nhìn dòng Châu giang lặng trôi trong sương khói, cùng mối đồng cảm nói trên, bất giác tôi đọc cho ông bạn nghe bài ngũ ngôn tuyệt cú của Lạc Tân vương (tôi xin đổi chữ Yên (Đan ra chữ Hương bang cho thích hợp đôi bên) Thử địa bất tương bang, Tráng sĩ ptáh xung quan. Thích thì nhân dĩ một, Kim nhật thủy do hàn. Đất nầy từ biệt hương bang, Tóc đầu dựng ngược, máu hờn nóng sôi. Người xưa khuất bóng đi rồi, Ngày nay còn thấy nước trôi lạnh lùng. Trần Trọng Kim dịch Bảo tàng viện Nam Việt vương tại Quảng Châu Người Việt nào đến thăm TP Quảng Châu cũng nhận biết sự gần gũi vể địa lý và nhân văn ở nơi đây với quê hương mình, nếu muốn tìm hiểu sâu xa về mối tương quan lịch sử thì bảo tàng viện Nam Việt vương là một minh chứng không thể chối cãi được. Nước Nam Việt đóng đô tại Phiên ngung, là một nước độc lập với nhà Tây Hán ở phương bắc vào thời trung cổ, được viết trong Trung quốc sử lược của Phan Khoang và mấy dòng ngắn gọn trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim :” Năm quí mùi (207 trước Tây lịch) Triệu Đà đánh được An Dương vương rồi sáp nhập nước Âu lạc vào quận Nam hải, tự xưng là Triệu vũ vương (sau đổi là Nam Việt vương) lập thành nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên ngung, gần thành Quảng Châu bây giờ. Trong khi nhà Triệu gây dựng cơ nghiệp ở Nam Việt, thì ở bên Tàu, ông Lưu Bang trừ được nhà Tần, diệt được nhà Sở... Năm Canh ngọ (111 trước Tây lịch) vua Vũ Đế nhà Hán sai Lộ bác Đức và Dương Bộc sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam Việt, rồi cải là Giao chỉ bộ rồi chia làm 9 quận là: Thương ngô, Uất lâm (nay là Quảng tây), Nam hải, Hợp phố (nay là Quảng đông), Châu nhai, Đạm nhỉ (là đảo Hải nam), Giao chỉ, Cữu chân, Nhật nam (là Bắc Việt và mấy tỉnh Bắc Trung Việt của Việt Nam bây giờ) Rõ ràng nước Nam Việt của người Bách Việt, có cương vực riêng, truyền được 5 đời vua Triệu mới bị nước Tàu thôn tính. Bởi lẽ đó, tiền nhân của nước Việt Nam đã đòi lại chủ quyền lãnh thổ quốc gia, ít nhất 2 lần trong lịch sử: Năm Ất mão (1075) Lý Thường Kiệt sang vây đánh Hâm Châu và Liêm Châu (thuộc tỉnh Quảng đông) . Đạo quân của Tôn Đản sang đánh Ung Châu (tức thành Nam nin h thược tỉnh Quảng tây). Năm 1076 quân ta phải rút về để đánh tan quân nhà Tống (có Chiêm thành và Chân lạp phối hợp) sang đánh nước ta. Năm Nhâm tý (1792) vua Quang Trung sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng quảng. Vua Càn long trong thế yếu phải buộc lòng xin gã công chúa út cho vua Quang Trung và tặng tỉnh Quảng tây làm lễ cưới. Yêu sách trên là để thử, không ngờ trong năm ấy (1792) vua Quang Trung băng hà, việc đòi đất bỏ qua. Lịch sử đã đi qua 22 thế kỷ, nay Trung Quốc ở thế mạnh, họ không ngần ngại gì mà chẳng phơi bày sự thật nơi ngôi mộ Nam Việt vương ngay tại cố Phiên ngung, thành một bảo tàng viện để họ chứng minh là đất nước có nền văn minh lâu đời. Bảo tàng viện Nam Việt vương hiện tọa lạc trên diện tích rất rộng ở số 867 Jie Fanbei Road, TP Quảng Châu, chỉ cách bảo tàng viện Quảng Châu và công viên Việt tú một vài dậm đường. Trong quyển kỷ yếu có lời giới thiệu: “ Lăng tẩm của Nam Việt vương được phát hiện năm 1983, là ngôi vương mộ lớn nhất thời Tây Hán chưa từng được biết đến ở miền Hoa nam. Có cả thẩy hơn một ngàn di vật được khai quật từ lăng mộ này, phản ảnh nhiều khía cạnh đủ các mặt chính trị, kinh tế và văn hóa của phương Nam Việt. Chính nơi đây là điểm nổi bật nhất trong hàng trăm đề mục khám phá khảo cổ học quan trọng ở Trung quốc trong thế kỷ 20, bởi vì ở mộ Nam Việt vương giúp cho hiểu biết được bí quyết, như chiếc chìa khóa, về cách bảo quản di hài được áp dụng trên toàn quốc lúc đương thời. Bảo tàng viện lăng mộ Nam Việt vương (đồng thời với nhà Tây Hán) được khai trương năm 1988 chủ yếu nhằm phô bày vị trí chính của nhà mồ vua Nam Việt và những di vật rất khéo léo do bàn tay con người thời xưa tạo ra nên được đào lên tại đây” Khu mộ Nam Việt vương đã được khai mở, nay được lập bằng nhà kính. Các tòa nhà và bãi đậu xe vây quanh 3 mặt lăng mộ, có 6 đại sảnh để trưng bày vô số di vật lấy lên từ ngôi mộ, được đặt trong lòng kính. Một đại sảnh trình chiếu video về quá khứ khai quật, về hình dung sinh hoạt cổ thơ một đại hội trường. Tôi may mắn được hướng dẫn viên của viện nói rành Anh ngữ đưa xuống hầm mộ nằm sâu trong lòng đất, qua các hành lang chìm, bước qua những cánh cổng nặng hàng chục tấn có chốt khóa bí hiểm, tất cả bằng đá tảng mặt phẳng, không lậu một giọt nước. Phòng nhà vua an giấc ngàn thu vẫn còn lại hàng quan tài thật lớn bằng đá quí, có lẽ dành cho cả hoàng hậu, vương phi. Lăng mộ như cung điện chứa bảo vật dưới lòng đất. Còn vô số di vật trưng bày trong tủ kính, từ triện vua bằng vàng đến các đồ trang sức thời cổ, các loại đồng tiền, các đồ dùng bằng đồng hay đất nung, các gối đầu hay ghế ngồi bằng sành sứ v..v.. Nhìn các loại binh khí thời xưa, tôi nhận biết rất nhiều mũi tên đồng, đầu mũi có ngạnh và một vài dụng cụ không rõ hình dạng nữa. Đây chắc chắn là những mũi tên đồng dùng nỏ ở Liên Châu làm theo đồ hình của Cao Lỗ bắn bằng máy đẩy mỗi lần 10 mũi, mà Triệu Đàø học được nơi thành Cổ Loa. Huyền thoại thường nói đến Thần Rùa vàng giúp cho vua An Dương vương dựng được thành Cổ loa, và cho nhà vua móng chân để làm lẫy nỏ, phá tan được quân xâm lược. Sự thật thành Cổ Loa có 9 lớp xoáy trôn ốc, có 18 gò cao nhô ra chân lũy trí nỏ liên châu băùn xuống, khiến quân Tàu của Triều Đà vây thành khiếp đảm, tháo chạy. Thấy dùng binh thất bại, Triệu Đà dùng kế cho con là Trọng Thỉ sang cưới Mị Châu là con gái Thục An Dương vương. Sống trong thành Cổ loa, Trọng Thỉ biết hết được sơ đồ phòng vệ thành, học được bí quyết làm nỏ liên châu, làm sai bậy một cơ phận trong lẫy nỏ ở Cổ loa thành. Trọng Thỉ về, giúp cho Triệu Đà nỏ liên châu và tin tức tình báo. Triệu Đà bèn khởi binh sang đánh Âu lạc. Thục An Dương vương cậy có “nỏ thần”, khi giặc đến chân thành thì nỏ thần đã vô dụng. Triệu Đà lấy được nước Âu lạc, đem sáp nhập vào quận Nam hải đổi tên nước là Nam Việt, đóng đô ở Phiên ngung, là TP Quảng Châu ngày nay. Bảo tàng viện lăng mộ Nam Việt vương nhà Triệu ngay giữa lòng thành phố Quảng Châu là bằng chứng hiển nhiên về văn hóa Việt từng phát triển rực rỡ tại nơi nầy và lãnh thổ của tổ tiên người Việt bao gồm cả tỉnhh Quảng đông, Quảng tây của Trung Quốc. Từ ngàn xưa, cố đô Phiên ngung là cái nôi văn hóa của nước Nam Việt, lại ở vào địa lý thiên nhiên thuận lợi, đó là 2 điều cần thiết để thành phố Quảng Châu tiến lên nền công kỹ nghệ và giao thương tiên tiến như ngày nay. Connecticut, tháng 4 năm 2003 TRƯƠNG QUANG2 likes
-
Hấy?với Hầy!
Thiên Phú and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Cảm ơn anh Lãn Miên. Theo cái nhìn của tôi thì như vậy mới là nghiên cứu, còn mấy kẻ đổi bánh "dày" ra bánh "giầy", toàn là thứ kiến thức vét đĩa cả. Xin được hân hạnh đưa bài của anh ra trang chủ vào ngày mai.2 likes -
Thông Báo Chiêu Sinh Lớp Phong Thủy Lạc Việt
Guest liked a post in a topic by Guest
THÔNG BÁO (V/v Khai giảng lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản và nâng cao) Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương thông báo khai giảng lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản khóa 04 và Phong thủy Lạc Việt nâng cao khóa 1. Chương trình học: 1. Lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản khóa 4: - Khai giảng: ngày 25/8/2010 (tức 16/7/ canh dần) - Thời gian: 03 tháng - Hình thức học: học trực tuyến trên web: lyhocdongphuong.org.vn và họp mặt định kỳ, 01 lần/01 tháng. - Nội dung chính: *Các kiến thức cơ bản về Phong thủy Lạc Việt. *Bát trạch Lạc Việt - Học phí: 400.000 đồng/ 01 tháng. (Bốn trăm nghìn đồng một tháng) - Hình thức đóng học phí: * Đóng trực tiếp tại TTNC Lý Học Đông Phương, số A75/6F/14 đường Bạch Đằng, P.2, Quận Tân Bình. * Hoặc chuyển khoản: Chủ tài khoản : HÀ HỒNG NGA Số tài khoản: 10620424693010 tại : Ngân hàng: TECHCOMBANK (chi nhánh Tân Bình). Lưu ý: Khi chuyển khoản hay dùng Ủy Nhiệm Chi nên ghi rõ nội dung nộp "Nick hoạt động trên Diễn Đàn & Học Phí Lớp Phong Thủy cơ bản khóa 4" để tiện kiểm tra và xác nhận. 2. Lớp Phong thủy Lạc Việt nâng cao khóa 01: - Khai giảng: ngày 11/8/2010 (tức 02/7/ canh dần) - Thời gian: 04 tháng- Hình thức học: học trực tuyến trên web: lyhocdongphuong.org.vn và họp mặt định kỳ 01 lần/01tháng. - Nội dung chính: * Cấu trúc hình thể trong Phong thủy Lạc Việt *Dương trạch Lạc Việt - Học phí: 3.000.000 đồng/ 04 tháng. (Ba triệu đồng cho 04 tháng) Lưu ý: Khi chuyển khoản hay dùng Ủy Nhiệm Chi nên ghi rõ nội dung nộp "Nick trên Diễn Đàn & Học Phí Lớp Phong Thủy nâng cao" để tiện kiểm tra và xác nhận.Trân trọng thông báo. Tp HCM, ngày 4 tháng 8 năm 2010 Thay mặt TTNC Quản trị diễn đàn1 like -
Nguyễn Văn Lanh, anh hùng trở về từ Trường Sa... 05/08/2010 16:45:52 - 23 tuổi, anh Nguyễn Văn Lanh, trung sĩ trung đoàn 83, Quân chủng Hải quân được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. TIN LIÊN QUAN Nhớ Trần Đức Thông, anh hùng liệt sĩ Trường Sa Ký ức của "những người anh hùng" trên biển “Pa Ven” Nguyễn Văn Lanh Anh là một trong những chiến sĩ hải quân đã chiến đấu anh dũng trong trận đánh nổi tiếng ngày 14/3/1988 tại Trường Sa. Anh Nguyễn Văn Lanh năm nay 44 tuổi, hiện công tác tại Bộ tư lệnh Hải quân đóng tại TP.HCM. Ở đây, tất cả mọi người gọi anh là “anh hùng Lanh”. Anh hùng Nguyễn Văn Lanh và tấm thẻ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thiêng liêng. Ảnh: P. T Trở về từ trận chiến anh hùng ngày 14/3/2010, "Paven" Nguyễn Văn Lanh bị “mất” đến 75% với thương tật ở bả vai, vết thương ở phổi và cánh tay phải bị liệt. Khó ai hình dung được người thương binh ¼, chỉ 39 kg, chỉ có thể làm được những việc nhẹ, trước kia là một thanh niên 76kg. Anh yếu sức và bất cứ khi nào cũng có thể phải đến viện điều trị. Hỏi anh nhớ gì về những kỷ niệm cũ, bao giờ Nguyễn Văn Lanh cũng nhắc tới những người bạn lính đảo cũ, có nhiều người đã hy sinh để giữ đảo. Giờ Nguyễn Văn Lanh vẫn ở trong quân ngũ nhưng làm nhiều công việc khác nhau. Có lúc anh đã là bảo vệ cho một xí nghiệp may, rồi hiện tại về công tác tại Ban Doanh trại của Bộ Tư lệnh hải quân - Quân đội Nhân dân Việt Nam. "Lao ra giữ lấy cờ..." Tháng 2/1988, Nguyễn Văn Lanh cùng đồng đội nhận được lệnh ra Trường Sa xây dựng công trình phòng thủ. Xen lẫn với niềm vinh dự khi được giao trọng trách lớn lao là những tâm sự ngổn ngang của một thanh niên 22 tuổi. Anh kể: “Trước khi đi, tôi đã viết hai lá thư về quê ( xã Vạn Ninh, huyện Lệ Ninh, Quảng Bình). Một lá thư cho bố mẹ và 7 anh chị em trong gia đình động viên, giúp mọi người vững tin hơn. Bức thư thứ hai cho người yêu với ước nguyện cầu mong người ta gặp duyên mới”. Trận đánh ngày 14/3/1988 được ghi lại trong nhiều cuốn sách của ngành hải quân. Ảnh: P. T "Sáng ngày 14/3/1988, đồng chí Nguyễn Văn Lanh trong khi cùng đơn vị vận chuyển vật liệu từ tàu HQ 604 lên đảo thì tàu địch đến bao vây, uy hiếp. Tình thế rất căng thẳng. Khi địch đổ quân xuống đảo, ép bộ đội, giật cờ của ta hòng chiếm đảo, theo lệnh của đồng chí Trần Đức Thông, chỉ huy cụm đảo: "Đồng chí nào biết bơi thì bơi ngay vào đảo hỗ trợ cho các đồng chí trên đảo bảo vệ cờ". Nguyễn Văn Lanh cùng 11 anh em khác nhảy ngay xuống biển và bơi vào đảo. Khi đó trên đảo, địch đã nổ súng, đồng chí Trần Văn Phương, người giữ cờ đã hy sinh. Nguyễn Văn Lanh đã xông đến, bảo vệ cờ... Nguyễn Văn Lanh được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng nhất, 3 bằng khen và giấy khen. Ngày 13/12/1989, đồng chí Nguyễn Văn Lanh đã được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân". Anh hùng Nguyễn Văn Lanh bồi hồi nhớ lại: “Nhìn thấy người đồng đội thân thiết hi sinh, như có một nguồn sức mạnh vô hình, tôi lao vào giữa vòng vây, xông lên, giành lấy lá cờ Tổ quốc... Anh hùng Nguyễn Văn Lanh- 1 trong 342 anh hùng thời kỳ đổi mới xây dựng & bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ 1975- 2000. Ảnh: P. T Không uy hiếp được bộ đội ta rời khỏi đảo, phía bên kia lại dùng hai tàu bắn pháo 100 mm vào HQ 604, làm tàu bị hỏng nặng. Anh em trên tàu bị thương gần hết nhưng vẫn đánh trả quyết liệt. Tuy vậy, tối 14/3/1988, tàu HQ 604 chìm dần… Rất nhiều anh em đã nằm lại với biển khơi cùng tàu HQ 604 tại khu vực đảo Gạc Ma. Anh Lanh, cùng với 43 anh em khác (trong đó có 7 thương binh và 1 tử sĩ) được tàu HQ- 505 (lúc đó đang chiến đấu tại đảo Cô Lin) tiếp cứu an toàn. Khi biển bình yên, Nguyễn Văn Lanh được đồng đội tìm kiếm và đưa ra tàu HQ 505 cấp cứu, sau đó được đưa về tuyến sau điều trị". (Ghi theo cuốn Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam). "Tôi từng được lập bàn thờ ở quê" Hơn 1 năm ròng rã sau đó, anh được chuyển đi khắp các bệnh viện trong Nam, ngoài Bắc. Sau gần 4 năm trời nằm hết bệnh viện quân đội này đến bệnh việc khác 175 rồi 108 rồi 103, Nguyễn Văn Lanh cũng đã có thể ngồi dậy, đã có thể đi lại nhưng sức khỏe chỉ còn lại quá ít... Cuối tháng 12/1989, anh trở về quê hương thăm gia đình. “Cả nhà tôi như được sống lại lần thứ 2. Ở quê, các cụ đã lập bàn thờ, xây mộ giả… Trở về trong thương tật, với tôi là niềm hạnh phúc lớn. Bởi, trước lúc ra đi, tất cả anh em đều đã xác định có thể không thể trở về…”, anh tâm sự. Đã 22 năm, ước muốn lớn nhất của anh Lanh là sức khỏe tốt hơn để được một lần đi tàu ra biển khơi, tại vị trí chiến đấu năm xưa. Và, kể chuyện với những đồng đội đã hi sinh, bằng tâm tưởng… Ngày 13/12/1989, anh Nguyễn Văn Lanh được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong lần phong tặng danh hiệu anh hùng năm đó (23 tuổi), anh là anh hùng trẻ nhất, người nhiều tuổi nhất là anh hùng Núp của quê hương Tây Nguyên. Anh Nguyễn Văn Lanh là một trong 342 anh hùng thời kỳ đổi mới xây dựng &bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa từ 1975- 2000. (Theo cuốn “Chân dung anh hùng thời đại Hồ Chí Minh”, tập I, NXB Lao động, NXB Quân đội Nhân dân, 2000). Phan Tú1 like
-
Bạn ốm
Rin86 liked a post in a topic by wildlavender
Wild biết một loại bệnh như khối u đa thần kinh, thường có biểu hiện nhiều khối u nhỏ di chuyển khắp nơi và bắt đầu từ nách giống như nổi hạch nhưng sau khi làm các xét nghiệm các BS kết luận Viêm Đa thần kinh. Tình trạng của bạn Rin86 có lẽ không thuộc dạng này bởi Gliomas là: http://hoanmysaigon.com/index.php?option=c...&Itemid=1011 like -
Bạn ốm
Rin86 liked a post in a topic by TinhTam
Rin đang lo lắng cho bạn, và thực sự là việc sang thăm bạn là khó khăn không thuận lợi (quẻ Khai Tốc Hỷ - Thủy Hỏa). Cầu chúc cho bạn của Rin có nghị lực vượt lên bệnh tật. Quẻ Kinh Lưu Niên với câu hỏi thứ nhất của Rin thì theo TinhTam bạn của Rin trong hoàn cảnh nội tại không được thuận lợi (Lưu Niên) nhưng với nền Y học tiên tiến bậc nhất của Mỹ thì hy vọng vẫn còn. Mong mọi việc sẽ tốt lên. Thân mến.1 like -
Bạn ốm
Rin86 liked a post in a topic by NDK
Thân chào chị Rin86, Liệu bạn của Rin86 có qua khỏi và sống khoẻ mạnh hoặc chí ít là kéo dài sự sống không? Kinh - Lưu niên Quẻ cho thấy căn bệnh liên quan/ảnh hưởng đến não bộ hoặc bộ phận quan trọng của cơ thể. Sự sống có thể được kéo dài nhưng di chứng cũng sẽ theo liền. Liệu Rin86 có được qua Mỹ thăm bạn không? Khai - Tốc hỷ Chị đang nóng ruột muốn sang thăm bạn mình? Em luận thời gian vẫn còn kém, nhưng nghĩ khoảng tháng 9 hoặc đầu tháng 10 chị sẽ đi được. Chúc bạn chị mau khỏe!1 like -
Bạn ốm
Rin86 liked a post in a topic by wildlavender
Xin có luận giải cho câu hỏi này của Rin, Được quẻ Tử là có nguy kịch, dẫn đến tuyệt vọng, do suy nghĩ và lo lắng quá kể từ sau khi có kết luận từ bệnh án nhưng Đại an lại cho con đường sống của chính người bệnh dù vẫn phải căng thẳng để đón nhận biến động và trạng thái này sẽ kéo dài. Có nghĩa để đạt sự khỏe mạnh theo vế sau của câu hỏi là một sự mòn mỏi và khá chậm chạp. Cuối cùng họ vẫn duy trì sự sống và tồn tại nhưng kèm di chứng. Do ảnh hưởng của quẻ trước nên việc Rin đi thăm bạn cũng trì trệ và trở ngại có khi không như mong muốn!1 like -
Hai người dân ở Lục Yên, Yên Bái tìm thấy hai thanh kiếm cổ. Một tìm thấy trong hang trên núi Chuông. Một tìm thấy ở dòng suối trên núi Lung Chạng. Từ ngày tìm thấy hai thanh kiếm ấy, hai người này gặp phải nhiều chuyện bí ẩn chưa thể giải thích nổi. Kiếm người âm hại người dương Một cán bộ xã Tân Lĩnh dẫn tôi đến gia đình bà Nguyễn Thị Hoa. Bà Hoa cho biết: Vào năm 2004 chồng bà là Đỗ Văn Ngự đã tìm thấy thanh kiếm cổ trong hang đá trên núi Chuông. Ông Hoàng Ngọc Chấn, chủ tịch UBND xã Tân Lĩnh cho hay: Dưới chân núi Chuông có làng Chuông, tên này không biết các cụ đặt từ bao giờ. Làng Chuông có 3 thôn: Hin Chạng, Roong Chuông và Chuông ính. Bà Nguyễn Thị Hoa, vợ ông Ngự tâm sự: Tôi chưa được tận mắt nhìn thấy thanh kiếm cổ mà ông nhà tôi tìm thấy trong hang đá trên núi Chuông, chỉ được nghe ông ấy kể lại: Hôm ấy một mình ông vào trong hang đá, vì nghe mọi người nói trong hang đá người xưa để rất nhiều đồ thờ cúng. Ông ấy vào trong hang đá để tìm các đồ cổ bán kiếm tiền. Núi Chuông - nơi ông Đỗ Văn Ngự đã tìm thấy thanh kiếm cổ trong hang đá.Hang đá nằm trên lưng chừng núi và rất sâu, trên làn đá cao thấy nhiều đồ cúng như bát đĩa, bình hương... ông ấy chỉ lấy mỗi thanh kiếm mang về. Vốn nhát gan nên không dám mang về nhà mà đưa cho hai người tên là Hải và Hoà cất giữ. Tôi cũng chả biết hai người bán được bao nhiêu, nghe nói có cho ông Ngự nhà tôi mấy chục ngàn. Từ sau khi nhặt được thanh kiếm đó, tiền chẳng thấy đâu còn gia đình tôi thì gặp bao nhiêu là chuyện chẳng lành: Trâu đang buộc trong chuồng tự nhiên sùi bọt mép lăn đùng ra chết, lợn gà chết dịch không còn một mống. Ông nhà tôi thì đổ đốn ham mê cờ bạc, rượu chè. Tìm được thanh kiếm năm trước thì năm sau ông ấy bị ngã bệnh mất. Bệnh viện bảo ông ấy chết vì bệnh phổi. Đứa con gái lớn nhà tôi đang yên đang lành thì bị một thằng đàn ông đã có hai con lừa làm vợ. Lại còn lừa vào tận trong Nam, nuôi con nó công cốc, còn mình thì chẳng sinh nở gì. Năm rồi nó bỏ ra đây rồi xin vào làm trong Công ty Hùng Đại Dương. Vào đó làm một thời gian rồi "xin xỏ" mãi mới kiếm được thằng cháu trai này bác ạ. Khổ quá, chả biết nói thế nào cho hết được nỗi khổ. Người trời mách nước tìm kiếm cổ Anh Triệu Văn Chanh, dân tộc Tày thôn Thâm Luy, xã Lâm Thượng là người tìm thấy thanh kiếm cổ thứ hai. Ông Hoàng Văn Thành, phó chủ tịch UBND xã dẫn tôi đến nhà anh Chanh, ông cho hay: Tôi với anh Chanh là anh em họ đấy. Năm ngoái anh Chanh tìm thấy thanh kiếm cổ khi lúa đã xanh đồng. Anh Chanh đi vào Nam làm ăn từ trước Tết, chỉ có mình chị vợ ở nhà thôi. Chị Nguyễn Thị Lúi vợ anh Chanh bảo, anh Chanh đi đâu làm ăn từ năm ngoái, Tết cũng không về. Nghe nói anh Chanh có một lần gọi điện về nhà người anh em, nhưng máy khoá hai chiều nên chẳng nghe được gì cả. Anh Chanh không gửi tiền cho gia đình. Thanh kiếm cổ thứ hai.Tôi hỏi việc anh Chanh tìm được thanh kiếm cổ như thế nào, ở đâu? Chị Lúi bảo: "Chả biết thế nào đâu! Hôm ấy ngủ dậy nó chuẩn bị đồ để đi đâu đó. Tôi hỏi đi đâu thì chỉ bảo: Tôi đi có việc đừng hỏi làm gì. Thế là nó đi lên núi Lung Chạng trên kia đấy. Cũng chả biết nó lên đấy làm gì, hôm trước nó cũng đi lên đấy rồi. Sau khi lấy được thanh kiếm về nó mới kể cho mọi người nghe, đêm trước nó nằm mơ gặp được ông tổ họ Triệu, râu tóc bạc phơ như người trên trời. Ông tổ mách trên thát (thác nước trên cao) ở chỗ cao nhất có rùa vàng. Cụ tổ bảo nhìn kỹ mới thấy, nếu thấy con thứ nhất rồi sẽ thấy con thứ hai, con thứ ba. Nó mang về rửa, thấy mọi người trong thôn tới xem đông lắm, vợ bảo vứt đi. Nó lại mơ nhặt được chiếc bật lửa to bằng vàng, cụ tổ bảo không được vứt đi... Sáng hôm sau nó dậy một mình đi lên núi, tìm mãi không thấy rùa vàng, nó cạy hòn đá thì thấy thanh kiếm nằm ngang suối. Nó mang về đến nửa đường sợ không dám mang về mà giấu vào bụi cây, nói chuyện với em chú và dượng của nó. Mọi người bảo cứ mang về đi, hôm sau nó mới lên núi mang kiếm về, đặt ở đây mọi người đến xem đông lắm. Em không dám động vào thanh kiếm, sợ mà..." Chém đá, lưỡi kiếm không quằn Ông Nguyễn Quang Long, phó phòng Văn hoá huyện Lục Yên kể lại việc đi thu chiếc kiếm cổ do Triệu Văn Chanh tìm thấy: "Nghe cậu Chanh nói chuyện, tôi thấy anh ta đầu óc có vẻ không bình thường. Anh ta kể lại việc tìm thấy thanh kiếm qua giấc mơ, khi lấy được về có người ở thị trấn Yên Thế trả 30 triệu đồng, anh ấy và dòng họ không bán, bảo để giữ lại. Sau đó lại đồng ý cho huyện mang về bảo tàng..." Thanh kiếm cổ tìm thấy ở núi Chuông dài chừng 80cm, bản rộng gần 3cm, đã mất chuôi, nước thép còn rất tốt, người ta đã thử chém vào đá nhưng lưỡi kiếm không quằn, không mẻ. Lưỡi kiếm tìm thấy trên thác nước núi Lung Chạng, dài chừng 1,2m, giống thanh long đao, bản kiếm chỗ rộng nhất gần 5cm, có hai đường rãnh chạy song song dọc thân kiếm, gần chuôi có khắc chữ nổi, nhưng do để lâu trong nước bị han gỉ nên không nhìn rõ chữ, trên sống lưng có mấu như vây cá, chuôi bằng gỗ bọc thép, lớp gỗ bên trong một phần đã mục, phần còn lại thì vẫn rất chắc, kiếm nặng khoảng 3kg. Cho đến lúc này hai thanh kiếm chưa được các nhà khoa học giám định, nên không biết nó xuất hiện từ thời nào. Quanh chuyện hai thanh kiếm cổ tìm thấy ở Lục Yên có nhiều điều bí ẩn. Núi Chuông đứng độc lập giữa cánh đồng. Vì có hình dáng như quả chuông nên người dân mới gọi là núi Chuông. Một số người dân tộc Tày cho biết, trên núi Chuông có hang đá khá sâu, khi gió thổi qua tạo thành âm thanh nghe binh bong tựa như tiếng chuông chùa. Tiếng Tày còn gọi núi Chuông là Đán Đình, nghĩa là nơi thờ cúng của người dân. Các cụ từ xa xưa truyền lại: Núi Chuông là nơi thờ tự rất linh thiêng, bất kể ai đi qua núi Chuông đều phải hạ nón mũ, cũng như khi đi qua núi Vua Áo Đen, nếu ai không hạ mũ nón ắt sẽ gặp chuyện chẳng lành.1 like
-
Sư phụ đã đến tận nhà hàng để thưởng thức rồi và sư phụ có cả một bài viết về nhà hàng này đấyThân mến1 like
-
Đi nhà hàng, ngắm cổ vật Đông Sơn 12 chiếc trống đồng lớn nhỏ, có trống còn nguyên vẹn, có trống đã mất một phần tang trống hoặc sứt chân. Có trống được cho là có niên đại 2.000 năm, có trống 2.200 năm và có trống tới 2.300 năm. Chúng được trưng bày trong một “nhà hàng - bảo tàng” chưa từng có ở Hà Nội. Ngoài cả tá trống đồng, bộ sưu tập này còn bao gồm hàng trăm cổ vật được cho là có niên đại trước cả văn hóa Đông Sơn, từ Phùng Nguyên đến Đồng Dậu, Gò Mun. Đó là hàng trăm di vật như rìu đá, đồ trang sức: vòng tay, hoa tai, bùa và dao đeo cổ. Có di vật nhỏ xíu như kim đá, lưỡi câu đồng. Có di vật tinh xảo nhỏ xinh như vòng đeo tay, đeo chân và trâm cài tóc, khuyên tai. Có di vật tinh xảo nhưng lớn hơn như tượng người nam nữ hoặc dao găm có cán khắc tượng người đàn bà mặc lễ phục và đeo hoa tai, dao găm có cán khắc tượng hai người đàn ông cầm đèn, dao găm có cán khắc tượng người đàn bà cõng người đàn ông, dao găm có cán khắc tượng người đàn ông cầm rìu và thổi kèn. To hơn thì là lẫy nỏ, chuông đồng, tấm che ngực, dao ngọc, kiếm ngọc. Chủ nhân của bộ sưu tập, ông Nguyễn Đại Dương - Giám đốc nhà hàng Trống đồng Đông Sơn (số 1 Trần Đăng Ninh, Hà Nội) đều nhờ đến sự cộng tác của các chuyên gia trong ngành khảo cổ học để xác định niên đại của từng trống đồng cũng như các di vật khác. Ông đã có một “thông báo” chính thức, kêu gọi sự góp ý của những ai quan tâm tới cổ vật thuộc nền văn hóa Đông Sơn: “Để đảm bảo uy tín của nhà hàng cũng như sự trưng bày cổ vật được khách quan trung thực. Chúng tôi kính mong quý vị giám định cổ vật được trưng bày tại nhà hàng. Nếu quý vị chứng minh được hiện vật nào là giả cổ, chúng tôi xin kính biếu 10.000 USD cho mỗi hiện vật được chứng minh là giả cổ (với bằng chứng khoa học hoặc vật đối chứng cụ thể). Thời gian nhà hàng hỗ trợ quý khách giám định cổ vật từ 15 - 20 giờ các ngày trong tuần (trừ chủ nhật và ngày lễ)”. Chỉ là bộ sưu tập của cá nhân và những cổ vật được trưng bày gói gọn trong một không gian cũng tư nhân song đa dạng và trân trọng nên nhà hàng Đông Sơn thu hút nhiều sự quan tâm của những nhà khảo cổ và giới nghiên cứu sử học. Tất nhiên bộ sưu tập làm nhiều người bất ngờ. PGS.TS khảo cổ học Lâm Thị Mỹ Dung - Giám đốc Bảo tàng Nhân học cho biết bộ sưu tập này “đẹp, độc đáo, nhiều hiện vật lần đầu tiên được nhìn thấy”. Bà chỉ lưu ý những chỉ dẫn về niên đại cần cẩn trọng, đặc biệt cần xem xét kỹ hơn về niên đại và xuất xứ của hiện vật đá tiền Đông Sơn. Chú thích niên đại của nhiều hiện vật cũng làm TS. Bùi Văn Liêm, Thư ký Hội đồng khoa học - Viện Khảo cổ học có lưu ý tương tự sau khi nhận xét: “Trang trí xếp đặt hiện vật chứng tỏ chủ nhân có đầu tư lớn và tham khảo nhiều bảo tàng trên thế giới. Sưu tập hiện vật nguyên vẹn, đẹp song cần đầu tư nghiên cứu thêm về niên đại”. PGS.TS khảo cổ Phan Minh Huyền cũng khuyên: “Để thật chính xác về niên đại và giá trị của từng hiện vật, nên chia thành từng nhóm đồ và nhờ các chuyên gia giám định”. PGS. TS Trịnh Sinh - Viện Khảo cổ học cũng chân thành khen “nhiều hiện vật quý giá” nhưng “cần giám định lại một số hiện vật”. Nhiều chuyên gia cũng tỏ ý sẵn lòng giúp vị chủ nhân ngoại đạo với ngành khảo cổ và cổ vật giám định hiện vật. Chẳng hạn TS. Nguyễn Văn Việt - Giám đốc Trung tâm tiền sử Đông Nam Á ngỏ ý: “Nếu cần, tôi sẵn sàng giúp giám định các hiện vật đồng Đông Sơn và gốm các loại”. TS.Ngô Thế Phong, chuyên gia về thời đại đá, nhà khảo cổ - Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng sẵn lòng giúp giám định, thời gian do chủ nhân bộ sưu tập tự bố trí. Ông Nguyễn Đại Dương vẫn đang âm thầm sưu tập thêm những cổ vật Đông Sơn, tiền và hậu Đông Sơn với một niềm tin mãnh liệt: “Có thể mất hàng năm, chục năm hoặc lâu hơn nữa để chứng minh những cổ vật bằng đá được trưng bày trong bộ sưu tập cá nhân của tôi là của tổ tiên người Việt thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Dậu, Gò Mun - chính là nền tảng hun đúc nên nền văn minh Đông Sơn, nền văn minh đánh dấu sự ra đời của nhà nước Văn Lang Âu Lạc, nhà nước đầu tiên của các vua Hùng. Nhưng tôi luôn tin rằng chân lý vẫn đang ở phía trước, và những cổ vật trong bộ sưu tập này sẽ cất lên tiếng nói về giá trị lịch sử của nó”. Hải Nguyệt Việt Báo (TheoThanhNien)1 like
-
Để thuận tiện nhất cho các "thầy" Tử Vi có thể tư vấn, các bạn chú ý những điểm sau khi đặt câu hỏi . Nêu cụ thể giờ, ngày tháng năm sinh, ghi rõ là Dương Lịch hay Âm Lịch. Cụ thể giới tính Nam hay Nữ Bạn là người nhờ tư vấn, yêu cầu link sẵn lá số Tử Vi thông qua trình Tử Vi Lạc Việt của diễn đàn tại: Lấy lá số Tử Vi Bạn nêu cụ thể thông tin các sự kiện qua trọng trong đời để người xem kiểm chứng giờ sinh. Nêu vấn đề bạn quan tâm, muốn xin tư vấn. Bạn có thể tham khảo một ví dụ sau:1 like
-
Chú ý khi xin tư vấn Tử Vi
Xiaobaobei liked a post in a topic by Guest
Các A/C khi nhờ Tư vấn, ngoài thông tin cần thiết (theo như NOTE của anh phamthaihoa) xin chú ý một vài điểm sau: KHÔNG đăng nhiều bài viết có cùng nội dung tại nhiều thời điểm (hoặc cùng thời điểm) trên diễn đàn. KHÔNG dùng hình thức "SPAM" để đầy bài viết của mình lên đầu. (Dùng các câu quá ngắn, không mang nghĩa truyền tải thông tin) Lá số Tử vi của các bạn phải lấy từ Trình Tử Vi Lạc Việt ở Trang chủ của trang www.lyhocdongphuong.org.vn Các Thầy xem Tử Vi trong diễn đàn cũng khá lớn tuổi nên mong các bạn sử dụng ngôn ngữ giao tiếp cho phù hợp. Bài viết bắt buộc phải sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt, có dấu. Một vài chú ý nhỏ, mong các A/C lưu ý.1 like -
Anh chị em thành viên diễn đàn cần tư vấn Tử Vi thân mến. Website lyhocdongphuong.org.vn là một trang web phục vụ cho việc nghiên cứu học thuật và văn hóa lịch sử cổ Đông phương. Điều tất yếu là những nghiên cứu cần phải có chứng nghiệm thực tế. Tử Vi Lạc Việt là hệ quả của công trình nghiên cứu xác định một nguyên lý căn để của Lý học Đông phương là: Hậu Thiên lạc Việt phối Hà Đồ và xác định tính hợp lý từ nguyên lý căn để này của Lạc Thư Hoa giáp. Nhưng vì Tử Vi Lạc Việt chưa được phổ biến rộng rãi, nên việc dùng trình Tử Vi Lạc Việt - nếu không là điều kiện qui ước sẽ có khả năng xảy ra những thành viên cần tư vấn sẽ không sử dụng. Như vậy, điều kiện thẩm định tính chính xác của Tử Vi Lạc Việt sẽ khó xác định. Bởi vậy việc dùng trình Tử Vi Lạc Việt để dự báo diễn biến có khả năng xảy ra trong cuộc đời là điều kiện qui định cho những ai cần tư vấn trong mục Tư Vấn Tử Vi. Chúng tôi sẽ từ chối tư vấn với những thành viên cần tư vấn, nhưng lại đưa trình Tử Vi phi Lạc Việt vào mục này. Nhưng, để có tính khách quan trong nghiên cứu khoa học và so sánh với phương pháp an sao cổ điển có nguồn gốc từ những bản văn chữ Hán. Chúng tôi tán thành việc những nhà tư vấn Tử Vi chưa tin vào độ chính xác của Tử Vi Lạc Việt, hoặc không quen dùng trình Tử Vi Lạc Việt có thể dùng trình Tử Vi từ các trang web khác để để dự báo giúp những thành viên có nhu cầu. Nhưng việc dùng trình Tử Vi phi Lạc Việt chỉ dành cho các nhà tư vấn. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh chị em.1 like