-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 07/07/2010 in Bài viết
-
Nếu câu chuyện này có thật thì cụ Tả Ao chơi "ác" quá! ------------------------------------ CẢ LÀNG BỊ TUYỆT DIỆT VÌ ĐỘNG ĐẾN LONG MẠCH NÚI BA VÌ Nguyễn Xuân Diện 08-06-2010 . Từ thưở bé, ông nội tôi thường kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ của địa phương. Ông cũng thường đọc cho tôi nghe những câu ca dao, tục ngữ, những câu sấm, câu vè được lưu truyền ở xứ Đoài. Một trong những câu chuyện mà tôi rất ấn tượng đó là chuyện về ông thầy địa lý Tả Ao.Chuyện rằng: Ngày xửa ngày xưa, làng La ở xứ Đoài (cách làng tôi 4 km) có đón được thầy địa lý Tả Ao về để xem đất. Thầy ở trong làng hàng năm trời. Dân làng thay nhau cung phụng ông. Hàng ngày dâng lên ông toàn những món ăn ngon. Sáng sớm, khi ông thức dậy là có một chiếc chậu đồng sẵn nước nóng để ông rửa mặt. Đêm thì đệ lên một chậu để ông ngâm chân. Rồi ông tìm được cho làng một cuộc đất tốt để làm đình, phát 18 quận công. Khi ông dời chân đi, dân làng nói chuyện tạ ơn ông. Ông nói: Dân làng với tôi đã rất thịnh tình, tôi không nhận gì nữa, chỉ xin một khóm tre non để tôi trồng ở góc ao đình. Sau này, làng phát văn võ quận công, tôi quay lại, xin ngả bụi tre đó, chẻ lạt để xâu tiền. Xâu được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Thế rồi ông xách tay nải lên đường.Đình làng để ở nơi đất đẹp, trước đình có ao làm minh đường. Làng vượng lắm, có đến 18 quận công, nổi danh trong triều ngoài trấn. Sau, bụi tre lên xanh um. Dân làng mới họp bàn rằng, nếu cứ để bụi tre thế này, sau ông thầy Tả Ao về thì biết bao nhiêu tiền cho đủ để ông xâu tiền, mới lại bàn triệt búi tre đi. Bẵng đi một thời gian, ông Tả Ao lại thăm làng. Chuyện trò hồi lâu ông mới hỏi đến bụi tre thì dân làng nói nó đã chết lụi rồi. Ông buồn lòng nhưng cũng làm như không có chuyện gì xảy ra. Ông mới bảo làng có muốn phát nữa không, thì dân làng còn muốn phát nữa, cả văn lẫn võ, cả đinh lẫn tài. Ông bảo vậy thì hãy xẻ núi Tản Viên, dẫn nước về ao đình để thủy tụ nữa. Dân làng tưởng thật, xẻ núi dẫn nước về ao. Núi Tản Viên bị xẻ, động vào chân voi chân ngựa, toàn long mạch cả, khiến cho đất đào lên cứ đỏ như thịt trâu thịt ngựa, nước thì đỏ như máu. Chỉ trong một thời gian ngắn, làng La lụn bại. Làng mắc dịch và chết gần hết, số còn sống sót thì phiêu bạt khắp nơi. Riêng Hội đồng lý dịch, kỳ mục có máu mặt trong làng đều hộc máu mà đột tử cả, không anh nào thoát. Đám con cháu họ đi du học hoặc buôn bán ngoài tỉnh không lụn bại thì cũng hư hỏng, tiêm la, lở loét, bệnh tật cả. Làng La thành ra một làng không còn một bóng người. Ngày nay, địa phận làng La chính là làng Nhân Lý, xã Yên Mỹ, ngoại thị Sơn Tây. Dân làng Nhân Lý chính là người dân trong vùng, sau một thời gian kéo đến ở, ăn thừa tự trên đất làng La xưa. Ca dao cổ Xứ Đoài có câu rằng: Bây giờ có “Thủy nhập điền” Gặt mùa vừa đoạn thì liền cấy chiêm Đằng trong có một làng La Bởi một nhời nói ấy mà tiệt tông Tả Ao đóng hướng bảo lại lấy công Rằng làng mới cãi rằng không kia mà Tả Ao mới bảo bạc bội kia mà Tả Ao mới bảo làng là đào sông Tả Ao mới bảo đào sông Nó đứt mạch đất tiệt tông kia mà. Việc xẻ núi Tản Viên (Ba Vì) xin chớ lấy làm chơi. Cách đây khoảng hơn 10 năm, người ta đào bới, xẻ núi ở địa phận xã Minh Quang, huyện Ba Vì. Nước chảy ra trâu bò uống đều bị trụy thai cả. Dân cư dùng nước đó đều ốm yếu, mắc bệnh. Khi ấy, anh em báo chí lên điều tra và viết bài lên tiếng thì người ta mới dừng chuyện đào bới.2 likes
-
Kính chào các Quý vị quan tâm. Việc sản xuất la kinh Lạc việt, đổi chỗ Tốn Khôn Laido đã có dịp bàn với Chú Thiên Sứ, nhưng do điều kiện chưa cho phép nên chưa làm được. Vừa qua, Laido có trao đổi với Anh Hoàng Triệu Hải và đã được anh Hải đồng ý cho đăng thông tin lên mục này với mục đích nhằm: sản xuất La kinh Lạc việt - đổi chỗ Tốn Khôn, phục vụ cho những ai nghiên cứu Phong thủy Lạc việt tiện dùng. Tuy nhiên, nếu sản xuất đơn lẻ vài chục chiếc với chất lượng tốt thì giá thành sẽ rất cao, lên tới vài triệu đồng một chiếc, việc này không khả thi. Nếu sản xuất từ 100 cái trở lên thì có thể làm được và giá thành khoảng trên dưới một triệu đồng một chiếc (1.000.000đ/chiếc). Thưa các quý vị! Laido lập top này để các quý vị nào muốn sở hữu một cái La kinh Lạc việt - đổi chỗ tôn khôn thì xin mời đăng ký, nếu đủ khoảng 100 người Laido sẽ tiến hành sản xuất và cung cấp cho các Quý vị. Kính mong được sự quan tâm của các quý vị, mong các quý vị ủng hộ cho trường phái Phong thủy Lạc việt quan tâm. Trân trọng Laido1 like
-
KỲ ÁN TỬ VI
HoLi liked a post in a topic by Thiên Sứ
Do một sự tình cờ, tôi được tiếp hai thân chủ nữ trong hai ngày liên tiếp. Họ có lá số tử vi giống nhau hoàn toàn. Sinh cùng ngày, cùng giờ, cùng tháng cùng năm. Tôi gọi là cô A và cô B. 1- Xét về lá số tử vi: Cả hai đều sinh vào: Giờ Ngọ, ngày 10 tháng Giêng năm Nhâm Tý. Diễn biến cuộc đời cô A: - Quê miến Bắc. Lấy chồng cuối năm Đinh Sửu 1997 - có điều đặc biệt là: Vì hai chồng Nam, vợ Bắc nên cưới lần đầu năm 1997, lần hai đầu năm 1998. - Sinh con gái đầu Mậu Dần. - Vợ chồng mỗi người một nơi, đến năm 2001 vợ chuyển công tác vào nam theo chồng. - Sinh con trai Tân Tỵ - 2001. Vợ chồng hạnh phúc đến nay. Diễn biến cuộc đời cô B: - Quê miền Bắc. Lấy chồng đầu năm Bính Tý 1996. - Sinh con gái đầu Đinh Sửu - 1997. - Sinh con trai năm Tân Tỵ - 2001. - Vợ chồng chia ly năm Tân Tỵ. Đến năm nay đang có xu hướng hội nhập. 2 - Xét về luận tuổi Lạc Việt - thì lại có một sự khá trùng hợp như sau: Cả hai đều lấy chồng tuổi Tân Hợi. Cả hai có con út Tân Tỵ là con trai. Chỉ khác đứa con gái đầu, họ sinh cách nhau 1 năm. Rất mong các cao thủ ra tay phân tích hiện tượng này.1 like -
Đổng Công danh sưng tôn kính Đổng Trọng Thư, tể tướng thời Hán Cao Tổ, người có công tập kết tinh hoa của bách gia chi tử từ thời Tần trở về trước, phát triển và hoàn thiện học thuyết Ngũ Hành, v.v.. "Đổng Công tuyển trạch nhật yếu dụng" là tên sách tuyển trạch (chọn ngày tốt) của Đổng Trọng Thư do ông Lê Văn Sửu dịch. Sách tính ngày theo sao, dùng lịch thời khí, được người Trung Hoa coi trọng hai ngàn năm nay. Trong sách nhấn mạnh đến ngày Kim Thần thất sát mà nhiều bản Đổng Công khác không thấy nhắc đến. Có bản lấy tên là "Đổng Công tuyển trạch nhật yếu lãm". Xin giới thiệu mọi người tham khảo ! Download nguyên bản tại đây: http://www.mediafire.com/file/knwkvjqnmny/Dong cong tuyen trach nhat yeu dung - Le Van Suu dich.pdf hoặc: http://www.mediafire.com/?knwkvjqnmny1 like
-
Tư Vấn Phong Thủy - Thực Tế Và Online
thanhhuong_geo liked a post in a topic by Guest
Kính thưa SP cùng ACE thành viên diễn đàn. Đã lâu, HTH muốn nói đôi lời về việc tư vấn Phong Thủy online mà bản thân HTH rút ra được từ kinh nghiệm của mình. Diễn đàn Lý Học Đông Phương, mục tư vấn Phong Thủy giành cho tất cả các thành viên , hỏi và tư vấn cho các thành viên khác về Phong Thủy bao gồm những người tư vấn là các Học Viên của lớp Phong Thủy Lạc Việt, các Huynh Đệ của Ban Phong Thủy Lạc Việt cũng như các thành viên tư vấn theo Phong Thủy cổ thư Hán. Tuy nhiên, phần đông là các thành viên nhận được tư vấn theo Phong Thủy Lạc Việt. Điều HTH muốn nói ở đây chính là sự khác biệt giữa thực tế và sơ đồ cung cấp trên mạng. Mọi tư vấn của các Thành Viên Phong Thủy Lạc Việt đều rất chuẩn xác theo tiêu chí của PTLV, thế nhưng nó sẽ chỉ đúng với điều kiện đạt được mọi tiêu chí đúng khác của PTLV. Trên thực tế, có rất nhiều yếu tố nhỏ không được thể hiện trên bản vẽ, nhưng lại ảnh hưởng rất lớn tới toàn bộ các yếu tố đúng khác và làm cho lời tư vấn không có hiệu quả. Chỉ lấy một ví dụ nhỏ là cách đo hướng nhà, hay trên thực tế một lỗ thoát nước mưa ở sân, cửa , cổng ra vào thường không được thể hiện trên bản vẽ. Tuy nhỏ nhưng đó là một yếu tố rất rất quan trọng bởi cho dù mọi thứ khác đúng cũng sẽ trở thành vô nghĩa. Hay như hướng giao thông và lưu lượng giao thông trước cửa nhà, trong nhà.vv. Hay như với cách đo hướng, la bàn chịu tác động của các thiết bị điện, dây điện, bê tông..vv nên sai số dẫn tới sai lệch là rất hay thường xảy ra nếu không có kinh nghiệm khi sử dụng la bàn. Do vậy, các thành viên cần tư vấn bên cạnh việc đưa thiết kế sơ đồ nhà nên đưa hình ảnh chụp ngôi nhà, các vị trí kèm theo sơ đồ, càng chi tiết càng giảm thiểu sự sai lệch. HTH cũng muốn nhấn mạnh rằng, cho dù thế nào thì việc tư vấn online chỉ nên coi là sự tham khảo và thành viên được tư vấn, phương án cho dù đúng sai cũng là do bản thân mình tự quyết chứ không phải do người tư vấn. Vài điều tâm sự , mong ACE hiểu tâm ý của HTH. Trân trọng HTH1 like -
Chiêu sinh lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản Khóa 3 Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương, thực hiện chức năng được phép. Nay chính thức chiêu sinh khóa đào tạo Phong thủy Lạc Việt cơ bản khóa 3, học online trên website www.lyhocdongphuong.org.vn. Lớp Phong Thủy Lạc Việt cơ bản khóa 3, dự kiến khai giảng vào đầu tháng 4 năm 2010. Thời gian chiêu sinh bắt đằu từ ngày 17 tháng 2 năm 2010 (tức là ngày 4 tháng 1 năm Canh Dần). Anh chị em thành viên diễn đàn Lý học Đông Phương và các bạn quan tâm có nhu cầu, có thể đăng ký học qua chủ đề này hoặc đăng ký qua hộp thư: info@lyhocdongphuong.org.vn. 1. Nội dung học: v Giới thiệu về Phong thủy Lạc Việt. v Giới thiệu về Lạc thư Hoa giáp, Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ., Âm, Dương ngũ hành. v Kiến thức cơ bản về Kiến trúc- Xây dựng nhà theo Phong Thuỷ Lạc Việt. v Một số điểm cần lưu ý khi thiết kế và xây dựng nhà cửa theo Phong Thuỷ Lạc Việt. 2. Thời gian đào tạo: 3 tháng. 3. Học phí: 350.000 đồng/ tháng. BQT1 like
-
Chuyện vặt ở đám tắc đường Tắc đường cũng hệt như tắc một cái cống nước. Dòng người đang “chảy” từ từ trên đường, như một thứ chất lỏng mà càng đến gần giờ tan tầm càng đặc sánh lại. Thế rồi bất đồ, chỉ vì một thứ hết sức bé nhỏ ngáng qua đường thôi - tương tự như một chùm tóc rối mắc vào miệng cống - có thể là một chiếc xe máy vượt ẩu, một chiếc xe sọt thồ lấn đường, hay tệ hơn là một vụ va quệt nho nhỏ..., thế là cả khối chất lỏng ấy đông cứng lại thành một cái nút kinh hoàng. Hôm nay cũng thế. Tất cả chỉ vì một chiếc xe máy từ trong ngõ nhao ra tạo thành một mũi “đột phá khẩu” vào giữa dòng xe khổng lồ đang lừ lừ chuyển dịch. Tất cả đều bị kẹt cứng. Cả tuyến đường đều kẹt cứng. Không ai có thể nhúc nhắc được. Cũng như một nhúm tóc trên miệng cống, nếu được gỡ ngay ra thì dòng nước lại chảy bình thường. Tắc đường cũng thế, phải gỡ từ chiếc xe máy đầu tiên gây tắc ấy. Mỗi người nhường một tí sẽ tống khứ được nó sang làn đường bên kia, tự nhiên đường sẽ thông ngay và ai cũng được về nhà sớm. Nhưng ai sẽ là người gỡ? Mọi người đều cau có nhăn nhó, đều cố nhích lên, đều bóp còi inh ỏi. Và kết cục là đường đã tắc lại càng tắc. Phải chờ cảnh sát giao thông thôi. Nhưng cảnh sát giao thông chưa đến, và có thể không đến. Đúng lúc đó vị cứu tinh trên đường phố xuất hiện. Đó là một bác già, mặt đen nhẻm, quần áo xốc xếch, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, chẳng hiểu sao bác ta kiếm đâu được một cái còi. Thổi toét một cái thị uy, bác ta nhảy ra giữa dòng đường, hô to: - Nhường nhau một tí nào, bà con ơi. Bà sọt thồ kia, bà lui xe xuống một tí nào. Cô Attila kia, xin cô đừng nhích lên nữa. Cả anh kia - bác ta chỉ thẳng vào mặt tôi - anh nhấc cái đuôi xe anh dẹp hẳn về bên này. Thế nhé, để cho cái cậu tóc vàng này đi trước đi. Cả cậu ở phía sau nữa, sang hết bên kia đường đi. Thế thế... “Nhúm tóc” đã được gỡ, và đã “trôi” được sang được làn đường bên kia. Bác ta lại chạy theo, hô hào mọi người không nống sang làn trái để cho chiếc xe ấy thoát hẳn. Một tay lái xe tải hùng hùng hổ hổ không chịu nhường đường, nhưng thấy bác ta tả xung hữu đột, xông lên tận cửa cabin cũng đành phải cho xe lui lại. Dòng xe cộ bắt đầu nhúc nhích được. Cảm thấy công việc của mình có hiệu quả, lại được mấy cô học trò trong đám kẹt xe vỗ tay hoan hô ầm ĩ, bác ta càng hăng hái muốn thể hiện hơn. Đứng giữa khoảng trống ngã ba, bác ta dang tay, dang chân tuýt còi điều khiển cả dòng xe. Hết làn này đến làn khác. Lúc đầu mọi người còn trật tự nghe theo lời bác ta, sau thấy đi lại đã thuận tiện hơn, họ lại chen lấn, xô đẩy. Mấy cô học trò đi xe đạp yếu thế, bị bẹp vào một góc không sao lách ra được. Tuýt còi chặn dòng xe lại không xong, bác ta lại xông lên dang hay tay chắn cả dòng xe để “giải cứu” cho đám học trò. Như cởi tấm lòng, đám học trò vừa đạp xe thoát ra vừa ngoái lại hô to nửa đùa nửa thật: Hoan hô vị cứu tinh xa lộ! Hoan hô! Chúng cháu cảm ơn bác nhiều! Tôi là người thoát ra gần như cuối cùng trong đám tắc đường hôm ấy, đơn giản vì tôi muốn nán lại quan sát người “thổi tù và hàng tổng” đáng kính này. Khi dòng xe cộ đã trở lại bình thường, bác ta mới kéo vạt áo đẫm mồ hôi trở lại chiếc xe máy của mình. Chiếc xe máy của bác đỗ trên lề đường, trên xe lỉnh kỉnh đồ đạc, ngồi phía sau xe là một cô bé bịt mặt kín mít, vai khoác cặp học sinh, chắc là con gái bác. Hẳn là bác ta đi đón con gái về đến đây, gặp cảnh tắc đường, mới xông ra làm “người hùng”. Bất ngờ, cô bé bỏ bịt mặt ra, chau mày nhìn bố, nói chỏng lỏn: - Bố vừa làm cái trò gì thế, như cái thằng hề giữa đường. Con thật xấu hổ với đám bạn! Bác ta lặng lẽ trèo lên xe, nhẫn nại nổ máy. - Đưa con về đi, muộn hết cả giờ học rồi! - cô bé gắt. Chiếc xe lặng lẽ đi trong buổi chiều nhập nhoạng. Phố xá vừa lên đèn. * * * Cuộc đời là như thế. Đôi khi xả thân vì việc nghĩa, được cộng đồng ủng hộ, nhưng về nhà lại bị chính thân thích mình cười chê. Theo Thể thao Văn hóa1 like
-
Thiên năm: ÂM DƯƠNG ỨNG TƯỢNG ĐẠI LUẬN Hoàng Đế nói: Âm Dương là đạo của trời đất, là giường mối của muôn vật, là cha mẹ của sự biến hóa, là gốc ngọn của sự sinh sái, là cái kho chứa mọi sự thần minh (1). Trị bệnh phải tìm tới gốc (2). Nên biết rằng, tích lũy nhiều Dương là trời, tích lũy nhiều Âm là Đất (3). Âm thì tĩnh, Dương thì táo (4). Dương sinh ra, Âm nuôi lớn (5). Dương giảm đi, Âm tiềm tạng (6). Dương hóa khí, Âm thành hình (7). Hàn cực sinh ra Nhiệt, Nhiệt cực sinh ra Hàn (8). Khí hàn sinh ra chất trọc (đục), khí nhiệt sinh ra chất thanh (trong) (9). Thanh khí ở bộ phận dưới thì sinh chứng xôn tiết, trọc khí ở bộ phận trên thì sinh chứng điền trướng (đầy tức) (10). Đó là Âm Dương ở trong người do sự ‘Nghịch tùng’ mà sinh bệnh vậy (11). Cho nên thanh Dương là trời, trọc Âm là đất, khí đất bốc lên thành mây, khí trời giáng xuống thành mưa, mưa làm ra bởi địa khí, mây làm ra bởi thiên khí (12). Thanh dương tiết lên thượng khiếu, trọc Âm tiết xuống hạ khiếu (13). Thanh dương phát ra tấu lý, trọc Âm chạy vào năm Tạng (14). Thanh dương đầy đủ ở tứ chi trọc Âm qui tụ về lục phủ (15). Thủy là Âm: Hỏa là Dương (16). Dương là khí, Âm là vị (1) (17). Vị theo về hình, hình theo về khí, khí theo về tinh, tinh theo về hóa (18). Tinh nhờ ở khí, hình nhờ ở vị (3) (19). Do hóa sinh ra tinh, do khí sinh ra hình (20). Vị làm thương hình, khí làm thương tinh (21). Tinh hóa làm khí, khí thương bởi vị (22). Âm vị tiết ra hạ khiếu, Dương khí tiết ra thượng khiếu (23). Vị hậu thuộc về Âm, bạc thuộc về dương (24). Vị hậu thì phát tiết, bạc thì không, khí bạc thì phát tiết, hậu thì phát nhiệt. Cái khí của tráng hỏa suy, thì cái khí của thiếu hỏa tráng (25). Tráng hỏa ‘thu hút’ khí, khí ‘thu hút’ thiếu hỏa (26). Tráng hỏa làm tán khí, thiếu hỏa sẽ sinh khí(27). Khí vị tân, cam, công năng của nó chuyên về phát tán, thuộc Dương (28). Khí vị toan, khổ, công năng của nó có thể dũng liệt, thuộc Âm (29). Âm thắng thì Dương sẽ mắc bệnh: Dương thắng thì Âm sẽ mắc bệnh (30). Dương thắng thì nhiệt, Âm thắng thì hàn (31). Gặp (trùng) hàn thì hóa nhiệt, gặp nhiệt thì hóa hàn (32). Hàn làm thương hình, nhiệt làm thương khí (33). Khí bị tổn thương thành bệnh đau, hình bị thương thành bệnh thũng (34). Nếu trước đau mà sau mới thũng, đó là khí làm thương hình; nếu trước thũng mà sau mới đau, đó là hình làm thương khí(35). Phong thắng thì sinh ra động (36). Nhiệt thắng thì sinh ra thũng (37). Táo thắng thì sinh ra can (38). Hàn thắng thì sinh ra ‘phù’ (thần khí phù việt) (39). Thấp thắng thì sinh ra ‘nhu tiết’ (ẩm thấp), tiết tả (40). Trời có bốn mùa, năm hành để thi hành sự sinh trưởng, thâu, tạng, và để sinh ra các khí hàn, thử, táo, thấp, phong (41). Người có năm tạng hóa ra năm khí, để sinh ra hỷ, nóùä, bi, ưu khủng (2) (42). Cho nên, hỷ với nóùä làm thương đến khí, hàn với thử làm thương đến hành (3) (43). Bạo nóùä thì thương đến Âm, bạo hỷ thì thương đến hình (44). Nếu khí dẫn ngược lên, mạch sẽ bị đầy tràn, ly thoát mất cái hình của chân tạng (45). Hỷ, nóùä không hạn chế, hàn thử để quá độ, sinh mệnh sẽ không được bền (46). Cho nên ‘Trùng Âm’ tất bệnh dương, ‘Trùng dương’ tất bệnh Âm (47). Mùa Đông bị thương về hàn, tới mùa Xuân tất phát bệnh ôn (48) ; mùa Xuân bị thương về phong, tới mùa Hạ tất sẽ phát bệnh xôn tiết (49). Mùa Hạ bị thương về thử, tới mùa Thu tất phát bệnh hơi ngược (50). Mùa Thu bị thương về thấp, tới mùa Đông tất phát bệnh khái thấu (51). Hoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe các bực thánh nhân đời thượng cổ, hiểu rõ thân thể con người, về tạng, phủ thì phân biệt rõ ràng, Về kinh mạch thì xét rõ đầu mối; Về ‘lục hợp’ của mạch, nêu rõ xự hội thông của nóù; Về các ‘khí huyệt’ thì chỉ rõ từng nơi và ấn định tên của nó. Về các ‘khê, cốc’ đều chỉ rõ cái chỗ bắt đầu của nó; Về bộ phận bì phu, có nghịch có tùng, đều có điều lý; Về bốn mùa, Âm dương, đều có kinh hỷ, và ứng vào thân thể con người, đều có biểu lý liên lạc với nhau...Có thật thế chăng ?(52). Kỳ Bá thưa rằng: Đông phương sinh ra phong (gió), phong sinh mộc, mộc sinh toan, toan sinh can, can sinh cân (gân), cân sinh tâm, Can chủ về mắt (53). Theo lẽ đó, ở trời gọi là ‘huyền’, ở người gọi là ‘đạo’, ở đất thì là ‘hóa’, hóa sinh năm vị (54). Đạo sinh ra trí, huyền sinh ra thần (55). Thần ở trời tức là khí phong; ở đất tức là hành mộc, ở thân thể con người tức cân; ở tạng phủ con người tức Can. (56) Ở sắc là màu xanh; ở Âm là âm giác; ở tiếng là tiếng hô (thở ra, reo hò); ở sự biến động là ác (nắm tay lại, hình dung sự co gân); ở khiếu là mắt; ở vị là toan; ở chí là nộ (57). Nóä (giận) làm thương Can, bi sẽ thắng nộ; phong làm thương cân, táo sẽ thắng phong; toan làm thương cân, tân sẽ thắng toan(59). Nam phương sinh nhiệt (nóng), nhiệt sinh hỏa (1) hỏa sinh khổ, khổ sinh Tâm. Tâm chủ huyết, huyết sinh Tỳ, Tâm chủ về lưỡi (60). Theo lẽ đó, ở trời là khí nhiệt, ở đất là hành hỏa ở thể là mạch, ở tạng là Tâm (6) (61). Ở sắc là xích (đỏ), ở Âm là Âm chủy, ở tiếng là tiếng cười, ở sự biến động là ưu (lo), ở khiếu là lưỡi, ở vị là khổ, ở chí là hỷ (62). Hỷ quá thì thương Tâm, khủng sẽ thắng hỷ; Nhiệt quá thì thương khí; hàn sẽ thắng nhiệt; khổ làm thương khí, hàn sẽ thắng khổ (63). Trung ương sinh thấp, thấp sinh thổ, thổ sinh cam, cam sinh Tỳ, Tỳ sinh nhục, nhục sinh Phế, Tỳ chủ về miệng (64). Theo lẽ đó, ở trời là khí thấp, ở đất là hành thổ, ở thể là nhục, ở Tạng là Tỳ. Ở sắc là sắc vàng, ở Âm là âm cung, ở tiếng là tiếng hát, ở sự biến động là uế. Ở khiếu là miệng, ở vị là cam, ở chí là tư (nghĩ ngợi) (65). Tư quá thì thương Tỳ, nóùä sẽ thắng tư; thấp quá thì thương nhục, phong sẽ thắng thấp, cam quá thì thương nhục, toan sẽ thắng cam(66). Tây phương sinh Táo, Táo sinh Kim, Kim sinh tân, Tân sinh Phế; Phế sinh bì mao, bì mao sinh Thận; Phế chủ về mũi (67). Theo lẽ đó, ở trời là khí táo, ở đất là hành kim, ở thân thể là bì mao, ở Tạng là Phế, ở sắc là sắc trắng, ở Âm là âm thương, ở tiếng là tiếng khóc; ở sự biến động là ho, ở khiếu là mũi, ở vị là tân; ở chí là ưu (68). Ưu làm thương Phế, hỷ sẽ thắng ưu, nhiệt làm thương bì mao, hàn sẽ thắng nhiệt, tân làm thương bì mao, khổ sẽ thắng tân (69). Bắc phương sinh hàn, hàn sinh thủy, thủy sinh hàm, hàm sinh thận, thận sinh cốt tủy, tủy sinh can, thận chủ về tai (70). Theo lẽ đó, ở trời là khí hàn, ở đất là hành thủy; ở thân thể là xương, ở Tạng là Thận, ở sắc là sắc đen, ở Âm là âm vũ, ở tiếng là tiếng thở dài, ở sự biến động là run rẩy, ở khiếu là tai, ở vị là hàm, ở chí là khủng (71). Khủng quá thương Thận, tư sẽ thắng khủng; Hàn quá làm thương huyết, Táo sẽ thắng hàn, Hàm quá làm thương huyết, cam sẽ thắng hà(72). Cho nên nói rằng: trời đất là một bộ, vị trên và dưới của muôn vật, Âm với dương, đối với người là huyết khí của nam nữ (73). Tả với hữu là đường lối của Âm dương, thủy với hỏa là triệu chứng của Âm dương, Âm với dương là trước sau của muôn vật (74). Nên chú ý rằng: Âm ở bên trong, nhờ có sự giữ gìn của dương ở bên ngoài. Dương ở bên ngoài nhờ sự sai khiến của Âm ở bên trong (75). Hoàng Đế hỏi rằng: Nên bắt chước ở Âm Dương như thế nào? (76). Kỳ Bá thưa rằng: Dương thắng thì mình nóng, tấu lý vít lấp, thở mạnh và khó cúi hoặc ngửa, mồ hôi không ra mà nhiệt, răng se; do đó thành phiền oán (bực dọc, nóng nảy), bụng đầy, thuộc chứng chết, chỉ qua được mùa đông, không qua được mùa Hạ (77). Âm thắng thì mình lạnh, mồ hôi ra, mình thường mát, thường run và rét. Rét thì quyết, quyết thì bụng đầy, thuộc chứng chết, chỉ qua được mùa Hạ không qua được mùa Đông. Đó là sự biến của Âm Dương ‘thiên thắng’, và là chứng trạng phát hiện vậy (78). Hoàng Đế hỏi rằng: Muốn điều dưỡng hai khí âm dương, phải làm sao?(79). Kỳ Bá thưa rằng: Nếu biết được cái lẽ ‘thất tổn, bát ích’, thì hai khí ấy có thể điều hòa. Nếu không biết, sẽ là cái cơ tảo suy vậy. (80) Con người, năm bốn mươi tuổi, Âm khí đã tới phân nửa, sự khởi cư đã suy rồi (81). Tới năm năm mươi tuổi, thân thể nặng nề, tai mắt không còn sáng tỏ nữa(82) Tới năm sáu mươi tuổi, thì Âm suy, khí đã rất suy, chín khiếu không thông lợi, dưới hư trên thực, nước mũi nước mắt thường chảy ra (83). Cho nên nói: biết thì khỏe mạnh, không biết thì chóng già (84). Thần khí, vốn ‘cùng ‘ sinh ra ở Âm tinh, mà về sau cái danh nó ‘khác’ đấy thôi(85). Người trí xét rõ tự chỗ ‘đồng’ (cùng), còn kẻ ngu trí biết xét ở chỗ ‘dị’ (khác), kẻ ngu thường bất túc người trí thường hữu dư (86). Vì hữu dư nên tai mắt sáng tỏ, thân thể khỏe mạnh, đến tuổi lão mà vẫn được như trai tráng; đã trai tráng mà lại càng đầy đủ thêm(87). Vì thế nên bực thánh nhân làm cái việc ‘vô vi’ vui cái yên ‘điềm đạm’, thuận dục khoái chí ở trong cái phạm vi ‘hư vô’ (88). Cho nên thọ mệnh vô cùng, sống chung trời đất...Đó là phương pháp trị thân của bậc thánh nhân vậy (89). - Trời ‘bất túc’ về phương tây bắc, Tây bắc thuộc Âm, do đó, con người tai mắt bên hữu không sáng bằng bên ta(90). Û Đất ‘bất mãn’ về phương đông nam, Đông nam thuộc dương, do đó, con người tay chân tả không mạnh bằng bên hữu (91). Hoàng Đế hỏi: Vì cớ sao? (92). Kỳ Bá thưa rằng: Phương đông thuộc Dương, Vì là dương, nên tinh khi dồn lên trên thì trên sáng mà dưới hư, cho nên khiến tai mắt sáng tỏ mà tay chân không mạnh (93). Phương tây thuộc Âm, Vì là Âm, nên tinh khí dồn ở dưới, dồn ở dưới thì dưới thịnh mà trên hư, cho nên khiến tai mắt không sáng tỏ, mà tay chân được mạnh (94). Cho nên, đều là cảm phải tà khí, mà về bộ phận trên thì bên hữu nặng hơn, về bộ phận dưới thì bên tả nặng hơn (95). Đó chính vì thiên địa âm dương không thể toàn vẹn được, nên tà khí cũng do chỗ thiếu hụt ấy để xâm lấn (96). Cho nên, trời có tinh, đất có hình, trời có tám cõi, đất có năm hành, vì thế mới có thể làm được cha mẹ cả muôn vật (97). Thanh dương bốc lên trời, trọc Âm theo xuống đất (98). Nhân có sự động tĩnh, làm giường mối cho sự ‘thần minh’ nên mới phát triển được cái công năng sinh, trưởng, thâu, tàng, hết rồi lại có (99). Chỉ bực người hiền, về bộ phận trên biết bắt chước trời để nuôi đầu, bộ phận dưới biết bắt chước đết để nuôi chân, về bộ phận giữa lựa theo nhân sự để nuôi năm tạng (100). Thiên khí thông vào phế, địa khí thông vào ách (thực quản), phong khí thông vào Can, lôi khí thông vào Tâm, cốc khí thông vào Tỳ, vũ khí thông vào Thận (101). Sáu kinh coi như sông, trường vị coi như biển, chín khiếu là nơi tiết ra của hơi nước (102). Lấy Âm dương của trời đất làm Âm dương của con người (103) Dương hãn, mượn tiếng ‘vũ’ của trời đất để đặt làm tên (104). Dương khí, mượn tiếng ‘lôi’ của trời đất để đặt tên (105). Bạo khí tượng với lôi, nghịch khí tượng với dương (106). - Vậy về phương pháp trị liệu, nếu không bắt chước cái lý Âm dương của trời đất, sẽ khó thoát tai hại (107). Cho nên khí tà phong nó đến, gấp hơn gió mưa (108). Người chữa bệnh giỏi, vhữa bệnh ngay từ lúc tà còn ở bì mao; bực thứ nữa, chữa tà khí vào tới cơ phu, bực thứ nữa, chữa khí tà vào tới cân mạch, lại bực thứ nữa, chữa khí tà vào tới sáu phủ, lại bực thứ nữa, chữa khí tà vào tới năm tạng. Để tà vào tới năm tạng thì nửa chết, nửa sống (109). Nếu cảm nhiễm phải tà khí của trời, thì sẽ hại tới năm tạng, nếu cảm nhiễm về sự nóng hay lạnh của loài thủy cốc thì sẽ hại tới sáu phu(110).û. Nếu cảm nhiễm phải thấp khí của đất, thì sẽ hại tới bì, nhục, cân, mạch (111). Cho nên người khéo dùng châm, từ Âm phận dẫn qua dương phận, từ dương phận dẫn qua Âm phận. lấy bên hữu để trị bên tả, lấy bên tả để trị bên hữu, lấy ngoài biểu để biết trong lý, lấy tinh thần của mình để hiểu biết bệnh tình của người bệnh (113). Do đó, để xem cái nguyên nhân của bệnh nó phát sinh từ đâu, và cái lý tà, chính, hư, thực như thế nào...Như thế mới khỏi gây nên tai hại (114). Người khéo ‘chẩn’, xét ở sắc, ấn vào mạch, phải phân biệt Âm Dương trước đã (115). Xét rõ thanh hay trọc, để biết thuộc về bộ phận nào (116). Coi hơi thở, nghe tiếng nói, mà biết được sự đau đớn thế nào (117). Xem quyền, hành, qui, củ để mà biết được bệnh nó chủ về đâu (118). Ấn tay vào bộ vị Xích, Thốn nhận rõ phù, trầm, hoạt, sắc...Mà biết được bệnh do đâu sinh ra (119). Rồi lại xem đến cả người không có bệnh, để rút kinh nghiệm, như thế sẽ không nhầm lẫn nữa (120). Bệnh khi mới phát sinh, có thể dùng châm thích cho khỏi, khi bệnh thế đã thịnh, đừng vội dứt bỏ châm, đợi tà khí suy dần, sẽ thôi (121). Nhân cái lúc bệnh tà còn nhẹ, mà phạt dương cho nó tiết ra, đến khi bệnh thế đã thịnh, phải để cho nó giảm bớt dần, đến khi bệnh thế đã suy thì phải giúp ích chính khí cho nó đầy đủ thêm(122). Hình bất túc, dùng khí để ôn, tinh bất túc, dùng vị để bổ (123). Nếu bệnh tà ở phần trên, làm cho nó vọt lên, nếu ở bộ phận dưới, dẫn cho nó hạ xuống, nếu đầy ở bộ phận giữa, nên theo bên trong mà tả (124). Nếu là tà biểu, tẩm vào nước cho phát hãn (125); Nếu ở bì mao làm cho phát tán (126); Nếu tà khí quá mạnh, nên dùng phép án ma cho thâu dẫn (127); nếu là thực, nên tán và tả (128). Xét rõ Âm dương, để chia nhu cương. Dương bệnh trị ở Âm, Âm bệnh trị ở dương (129). Định rõ khí huyết, cần giữ bộ vị (130). Nếu huyết thực, làm cho nó hành, nếu khí hư, nên tuyên dẫn cho thông xướng (131).1 like
-
TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI GIỮ GIỚI? Tỳ kheo: Pannananda Thường thì mỗi Phật tử giữ 5 giới, tỳ kheo giữ 227 giới. Còn các thiền sinh giữ 8 giới hoặc 10 giới. Tại sao phải giữ giới? Điều này chúng ta cần phải biết. Nếu giữ giới thì lợi ích gì và không giữ giới thì kết quả ra sao. Quý vị cần phải hiểu thật rõ ràng. Ví dụ có một người thực hành không sát hại mạng sống của bất kì sinh linh nào, họ sẽ được gì? Khi quý vị không sát sinh, vào lúc cận tử nghiệp, nếu thiện nghiệp này khởi lên, quý vị sẽ được tái sinh ở cảnh người hoặc cõi trời. Đó là quả của giữ giới không sát sanh. Thiện nghiệp tích lũy nhiều chắc chắn bạn sẽ tái sinh ở cõi chư thiên, còn không sẽ tái sinh vào thai mẹ ở cõi người thì cũng là một gia đình giàu có, người mẹ sẽ thoát khỏi cảnh khổ sở từ khi bạn sinh vào nhà đó, gia đình có thêm nhiều của cải. Trước khi bạn sinh ra, cả nhà nghèo khó, từ khi có bạn, gia đình bỗng ăn nên làm ra. Như vậy đó.Tại sao lại như vậy? Đó chính là nhờ thiện nghiệp của bạn mà cả nhà được ảnh hưởng. Rồi nữa, cả đời bạn sống sung túc. Có nhiều người quý vị thấy không, cả đời sống cơ cực, lúc thì thân thể đau đớn, lúc thì khổ tâm, vì sao vậy? Vì trong quá khứ họ đã làm nhiều bất thiện nghiệp và giết nhiều mạng sống. Đến đời này nghiệp sát chín, họ phải sống khổ sở như vậy. Tôi có một người chị bà con, mọi người gọi chị là “Bé Khóc”. Tại sao vậy? Từ lúc sinh ra đã xanh xao, càng lớn thì da chuyển sang màu vàng, không thể ăn uống gì được, chỉ cần ăn một chút xíu vào là da đổi ngay sang màu vàng, mắt cũng vàng. Rồi 4, 5 tuổi chết. Tại sao? Vì quá khứ giết nhiều nên kiếp này ko thể sống thọ được. Nếu trong quá khứ quý vị giữ giới sát thì đời này sẽ giàu có và không bị khổ sở. Quý vị thấy không? Có nhiều người sống rất sung túc cả đời. Vì vậy chúng ta cần phải giữ giới sát để có một đời sống không đau khổ, không cơ cực. Một thiền sinh khi quán về tiền kiếp thấy mình là một thợ săn. Anh chàng này rất luyến ái với gia đình của mình. Và anh ta nuôi sống cả nhà bằng nghề giết chóc. Một ngày kia trong làng người ta tổ chức cúng dường cho các vị Tỳ kheo. Họ trang trí trước chỗ cúng dường hình ảnh các chư thiên. Anh thợ săn đi đến chỗ này thấy vậy nghĩ rằng “Ồ, các chư thiên trông thật là an lạc, thật đẹp. Làm chư thiên thiệt sướng ghê!” Sau đó anh đi cúng dường. Cùng lúc đó 1 người đàn ông quấn váy theo truyền thống Miến Điện rất đẹp cũng đang cúng dường, hình ảnh đó đập vào trong mắt của anh thợ săn và anh nghĩ “bộ đồ này đẹp quá”. Sau này, vào lúc cận tử nghiệp, hình ảnh các con thú bị anh giết không khởi lên trong tâm, mà anh thợ săn lại nhớ lại lúc mình đi cúng dường. Vào lúc đó, vô minh (tức là còn sự ham muốn một hình thức tồn tại khác, muốn một sự tái sinh khác nên gọi là vô minh) là sự muốn trở thành chư thiên. Nhờ vào thiện nghiệp cúng dường chư Tăng trở nên mạnh mẽ vào lúc cận tử nghiệp nên anh ta tái sinh thành 1 chư thiên. Nhưng không thể hóa sinh ở cảnh giới cao, chỉ là một chư thiên ở cảnh giới thấp nhất. Tại sao? Vì giới của anh ta không trong sạch, chỉ có mỗi một lúc anh ta cúng dường là giới trong sạch thôi. Vì vậy, giới bất thanh tịnh không giúp anh ta sinh ở cảnh giới chư thiên cao được. Anh ta chỉ làm một địa tiên ở trên cây mà thôi, mà màu da thì rất tối, và chẳng có quần áo gì hết, chỉ có mỗi cái quần đùi. Thiền sinh nói: “Thưa Thầy chư thiên này chẳng sung sướng gì, vì có quá nhiều bất thiện nghiệp của thợ săn nên tuổi thọ của con vào đời này rất ngắn”. Vào lúc chết, hình ảnh giết chóc máu me từ đời làm thợ săn khởi lên trong tâm thức, địa tiên đó tái sinh làm vào cảnh giới súc sanh làm con heo. Đời này nó cũng không thể sống lâu được. Vì sao? Vì nghiệp sát vây quanh anh ta, làm heo cũng chỉ sống được có mấy tháng rồi bị cắt cổ. Hình ảnh cận tử nghiệp lại tiếp tục là cảnh sát sanh. Hết kiếp heo anh ta tái sinh vào địa ngục. Địa ngục thì có nhiều tầng, anh ta rơi vào tầng bị đun sôi trong nước đồng, trong một cái chảo thật lớn. Anh ta nói: “ Thưa Thầy ở trong địa ngục con rất khổ sở, cả cơ thể nhúng chìm trong chảo đồng sôi không cách chi thoát ra được. Xung quanh con cũng có rất nhiều người. Nguyên cả kiếp đó thật là khổ không thể diễn tả hết. Chấm dứt địa ngục, cận tử nghiệp tâm sát sanh khởi lên lần nữa (cũng từ kiếp thợ săn mà ra) . Do vô minh và nghiệp lực này anh ta bị tái sinh vào cõi ngạ quỷ. Một con quỷ miệng và mắt nhỏ như lỗ kim chẳng thể ăn được gì. Nó rất đói khát khổ sở, tuy thấy rác rưởi đờm giãi (đồ ăn của quỷ) nhưng nó không thể ăn được vì miệng quá nhỏ. Như vậy nó sống nguyên một kiếp dài đằng đẵng khổ sở và đói khát. Ngày nọ nó đang lang thang thì thấy một vị tỳ kheo đi khất thực trong làng, nó nghĩ “ồ, vị Tỳ kheo này thật an lạc”. Trong tâm nó khởi lên sự tôn kính vị tỳ kheo này. Hết kiếp quỷ, nhờ thiện nghiệp này và đồng thời hình ảnh cận tử nghiệp là người đàn ông quấn váy theo kiểu Miến Điện. Qủy tái sinh làm một người đàn ông ở Miến Điện. Như vậy, thiện nghiệp của nó là đảnh lễ vị Tỳ kheo, vô minh khiến tái sinh là cái tâm muốn ăn bận như hình ảnh đã thấy (trong kiếp thợ săn). Kết quả là tái sinh làm người, ở Miến Điện. Vào kiếp này anh ta làm rất nhiều thiện nghiệp. Ngày kia anh thấy những Sư Cô giữ giới và hành thiền. Anh ta nghĩ: “Các Sư Cô giữ giới và hành thiền thật là điều tốt. Mình nên làm gì đó cho các Sư Cô”. Thế là anh ta đi vào chùa làm công quả. Sau này, lúc chết, mặc dù không muốn trở thành Ni cô, nhưng do tâm kính trọng các Sư cô vì các Sư cô giữ giới và hành thiền, tâm này chuyển thành cái muốn tái sinh thành người như vậy. Tại sao vậy? Vì tốc độ của tâm rất nhanh. Tỷ dụ quý vị đang kính trọng hoặc đảnh lễ một Sư cô, và ngay lúc đó quý vị qua đời, thì cái tâm đó sẽ chuyển thành tâm muốn thành Ni cô. Nhờ thiện nghiệp làm công quả trong thiền viện, và hình ảnh cận tử nghiệp như vậy nên kiếp tiếp đó anh sinh làm người nữ và đi tu. Kiếp đó Sư cô được hành thiền bắt đầu bằng đề mục Chánh Niệm trên Hơi Thở, đến 4 tầng thiền, 38 loại danh và sắc (tức quán cấu tạo nhỏ nhất, sự hoạt động của nama-rupa, tức tâm và thân), quán các tâm sở thiện và bất thiện, nhưng Sư cô này không thể quán Nhân-Quả được, tức là không thể quán về tiền kiếp và hậu kiếp, chỉ thành công đến giai đoạn quán danh-sắc. Trong kiếp này, Sư Cô cúng dường cho Phật ( tượng Phật) một ít hoa và nguyện rằng kiếp sau được tái sinh làm một người đàn ông bình thường. Và kiếp kế tiếp,các nghiệp này khởi lên hỗ trợ, cô tái sinh thành đàn ông. Quý vị thấy không luân hồi thật là khổ sở, chúng ta khi thì là đàn ông, khi là đàn bà, khi là súc vật, khi thì địa ngục, khi là ngạ quỷ. Vào đời này, người đàn ông này không thể hành thiền được, vì anh ta có vợ và sinh con. Nhưng anh ta cũng có một chút thiện nghiệp là cúng dường. Lúc cận tử nghiệp, hình ảnh cúng dường khởi lên, và anh ta thấy 1 người phụ nữ, như vậy tâm này biến thành muốn trở thành phụ nữ. Như thế đó, tâm của chúng ta thay đổi rất dễ. Anh ta tái sinh thành phụ nữ (tức là đời hiện tại), người này có cơ hội hành thiền, bắt đầu bằng đề mục Chánh Niệm trên Hơi thở đến tứ thiền, đến 32 thể trược (32 thành phần dơ bẩn cấu tạo thành cơ thể), rồi đến quán bộ xương, Kasina trắng, đến Danh Sắc (các đề mục thiền mà Đức Phật dạy) một cách dễ dàng. Vì sao? Vì trong quá khứ, cô ta đã từng thực hành rồi nên bây giờ có thể làm lại một cách dễ dàng. Sau đó cô ấy quán các kiếp sống quá khứ và tương lai, quán nhân và quả, cũng rất dễ dàng. Và khi quán về tương lai, cô thấy rằng nếu trong kiếp này cô ấy chết sẽ tái sinh thành 1 chư thiên có tuổi thọ rất dài nhờ sức mạnh của thiện nghiệp cúng dường y đến chư Tăng trong lễ Dâng y và giữ 9 giới trong nhiều năm (Theo truyền thống Nguyên Thủy mỗi năm có lễ dâng y Kathina vào mùa an cư kiết hạ của chư Tăng, Đức Phật dạy những ai dâng y trong lễ này có phước rất lớn), và rất nhiều thiện nghiệp khác mà cô đã làm trong đời này nữa. Và sau kiếp chư thiên sẽ là một Tỳ kheo, và vị Tỳ kheo này sẽ đắc Alahan. Như vậy thiền sinh này chỉ còn 2 kiếp nữa thôi là chấm dứt sinh tử luân hồi. Nhưng cô ta không muốn tiếp tục 2 kiếp sống đó nữa. Cô ấy muốn cố gắng hết sức để đắt A La Hán ngay trong đời này luôn. Cô ấy nói con sẽ cố gắng. Quý vị thấy đó, đời này cô ấy sẽ thành công nếu cố gắng, tương lai sẽ thay đổi nếu chúng ta cố gắng. Việc đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A Na hàm, A la hán tùy thuộc vào quý vị. Nếu quý vị muốn thành công thì phải cố gắng. Có người nói tôi muốn đắt A La Hán, nhưng họ cứ ở nhà với vợ, đi đây đi kia, rất là bận rộn chẳng có thời gian hành thiền. Vậy thì hỏi làm sao mà đắt A La Hán được chứ? Vào thời Đức Phật, có lần Ngài đi bát trong làng cùng với Ngài A-Nan, bất chợt Ngài mỉm cười. Bình thường Đức Phật rất ít cười nên Anan thấy ngạc nhiên và hỏi nguyên nhân. Đức Phật hỏi: - Này Anan , ông có thấy con heo ở đằng kia không?” - Con thấy ạ! - Vào thời quá khứ lâu xa cách đây 4 A tăng kì 100 ngàn đại kiếp, ta và con heo này đã là 2 người bạn đồng tu, 2 tỳ kheo cùng hành thiền trong một tu viện trong rừng. Lúc ấy người này hỏi ta tại sao xuất gia thành tỳ kheo và ước nguyện như thế nào. Ta nói rằng ta muốn thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, ông ta nói rằng “Oh, thành Phật thì lâu lắm, ít nhất là 4 a tăng kì 100 ngàn đại kiếp, tôi chỉ muốn thành A La Hán thôi.” Rồi sau đó thì sao? Ông thấy không, sau 4 a tăng kì 100 ngàn đại kiếp Ta đã đắc quả A-La-Hán, Đẳng chánh giác, còn ông ta chỉ là một con heo đực thôi. Tại sao vậy, vì chỉ ưa nói mà không làm. Quý vị thấy không, không chịu hành thiền mà chỉ nói suông thì làm sao đắc quả A La Hán được. Vậy muốn chứng quả cần phải giữ giới, cần phải hành thiền. Tóm lại, nhờ sự cố gắng không giết hại bất cứ một sinh mạng nào (từ lớn như con voi đến nhỏ như con muỗi, con kiến), nếu kiếp sau tái sanh quý vị sẽ có một thân thể đầy đủ, không khiếm khuyết, ngay trong đời này cũng vậy, nếu qúy vị đang có một thân thể đàng hoàng có nghĩa là kiếp trước đã giữ giới không sát sanh. Rất nhiều người, ngay từ trong bụng mẹ đã bị khuyết tật, ví dụ như không có tai, không chân, không tay, mù, điếc...Tại sao như vậy? Vì trong quá khứ họ đã giết nhiều chúng sanh nên kiếp này không được đầy đủ các bộ phận thân thể. Như vậy nếu quý vị giữ giới sát thì trong nhiều kiếp sẽ được thân thể đàng hoàng, khuôn mặt sáng sủa, không bị đau khổ, sống lâu và có sức khỏe. Đó là quả của giữ giới sát. Tiếp theo là giới trộm cắp. Nếu quý vị không trộm cắp thì quý vị được gì nào? Đức Phật nói về các loại trộm cắp. Đó là gì? Có người rất thích cờ bạc, cá độ. Đây cũng chính là 1 loại trộm cắp. Có người mua đồ cũ về tân trang lại rồi bán cho người khác nói rằng đây là đồ mới và bán với giá như vậy, đây cũng là trộm cắp. Có người buôn bán tham lam, mua 10 bán 100, rồi khách hàng trả giá 90 thì nói “Ồ không thể được tui mua 90 đồng rồi sao bán cho ông giá đó được, thôi được rồi để lại cho ông 95 vậy”. Họ không những mang tội trộm cắp mà còn nói dối nữa. Giọng nam: Khi người ta làm ăn thì phải nói dối để kiếm tiền lời. Thầy : Ừ thì đó, nên qúy vị thấy không, giữ giới rất là khó. Rất nhiều người nếu họ chết thì họ không thể tái sanh vào cõi người và thiên được vì họ không giữ giới được, họ nghĩ rằng giữ giới rất khó nên chẳng chịu giữ. Nên sau khi chết họ sẽ xuống 4 cõi thấp. Một ngày nọ Đức Phật ở trong rừng cùng với các đệ tử, Ngài bóc một chút đất lên, vì da của Ngài rất mềm mại nên đất rơi xuống gần hết, chỉ còn một chút trên móng tay. Đức Phật hỏi các Tỳ kheo “ - Này các Tỳ kheo, các ông thấy đất trong móng ta nhiều, hay đất trên địa cầu này nhiều hơn? - Bạch Đức Thế Tôn không thể so sánh được vì đất trên trong móng tay của Ngài rất ít, trong khi trên địa cầu này thì không thể tính kể. - Cũng vậy này các Tỷ kheo, chúng sanh ở cõi người này sau khi chết đi bị tái sanh vào các cảnh giới địa ngục ngạ quỷ súc sanh nhiều như đất trên địa cầu này, số người được tái sinh lại cõi người và thiên giới ít như đất trên móng tay ta vậy. Tại sao vậy? Vì họ không chịu giữ giới. Họ nói sống ngoài đời khó giữ giới lắm, rồi họ chạy theo kinh tế, chạy theo các điều kiện của xã hội. Quý vị thấy đấy thời đại này nhiều nước rất phát triển, nhiều phương diện vật chất. Con người bị lệ thuộc rất nhiều vào vật chất. Ngày xưa không có máy chụp hình thì đâu có ai bị lệ thuộc vào nó đâu, bây giờ ai cũng phải có, người ta bị nô lệ bởi vật chất. Chẳng hạn khi đàn ông thấy kim cương họ muốn 1 viên cho vợ, mua dây chuyền...quà cáp cho con, rồi họ phải nghĩ cách kiếm tiền, làm sao ngày càng phải có nhiều tiền, họ suy nghĩ suốt cả ngày, bận rộn với việc làm giàu. Nên họ không thể giữ giới tốt được. Có một thiền sinh khi hành đến giai đoạn quán về tiền kiếp thấy mình là một phụ nữ rất ưa cá ngựa. Mỗi ngày cô mua cá ngựa, khi cuộc đua bắt đầu cô ta rất thích thú hứng khởi và tâm suy nghĩ tính toán liên tục con ngựa nào sẽ thắng...Quý vị thấy đó nhiều người cờ bạc thường tưởng tượng đến đủ chuyện khi mình thắng món tiền này sẽ mua xe, mua nhà mua kim cương đủ thứ. Thỉnh thoảng cô ấy cũng đến thiền viện làm công quả. Tại sao vậy? Vì cô muốn thắng cá ngựa. Cô nghĩ mình đi làm công quả như vầy thì được may mắn. Nhiều người cũng làm như vậy lắm. Rồi cô luyến ái một người đàn ông nọ và làm chuyện tà dâm với ông ta. Vậy trong kiếp đó cô làm cả chuyện thiện lẫn bất thiện. Lúc cô chết, cuộc đua ngựa sắp bắt đầu. Cô nghĩ đến cuộc đua, tâm trạng hào hứng như mọi khi, thỏa thích với hình ảnh những con ngựa chạy đua. Như vậy đó, khi con vật cực khổ mệt nhọc vì phải chạy hết hơi thì cô ta thỏa chí. Vì các loại tâm và nghiệp này vây quanh nên cô tái sinh thành 1 con ngựa trong nhà một ông chủ đạo Hồi. Ông này bắt con ngựa làm việc suốt cả ngày mà chẳng cho nó ăn no. Mỗi ngày nó chỉ được ăn một chút cỏ. Suốt cả ngày nó phải chịu đói và làm việc cực nhọc, nên nó rất rất ghét ông chủ đạo Hồi này. Nhưng có một điều may mắn cho nó là đằng sau nhà ông ta có một thiền viện. Mỗi sáng sớm ở đó các Sư tụng những bài kinh Parita, (kinh bảo hộ) như Mangala (Kinh Điềm Lành), Metta (kinh Tâm từ)... để tránh khỏi sự quấy phá của phi nhân và ma quỷ. Tất nhiên là súc vật nó chẳng hiểu gì và không tụng theo được. Nó chỉ nghe được âm thanh thôi, những âm thanh rất hay. Lúc chết, âm thanh của những lời kinh bảo hộ vang lên trong đầu nó. Nhờ thiện nghiệp lúc cận tử này nó được sinh làm một người đàn ông khá đẹp trai. Rồi anh chàng đẹp trai này làm gì quý vị biết không? Anh ta làm chuyện tà dâm với nhiều cô gái. Vì quá khứ đã từng thích làm như vậy, nên kiếp này cũng thế. Anh ta lăn nhăn với rất nhiều cô, nhưng trong đó có 1 cô gái rất “chảnh”, anh chẳng tài nào chinh phục cô ấy. Nên anh ta rất tức giận nghĩ rằng “Hừ, cô tưởng cô là ai chứ, thật là tự cao quá đáng, tại sao không chấp nhận tình yêu của ta, tức quá!”. Chỉ vài phút tức giận như vậy thôi. Rồi sau đó, lúc anh chết, bất thiện tâm này khởi lên lại và dẫn anh tái sinh thành một con chó cái lang thang. Thân thể nó rất đau đớn và đói khát, suốt ngày lang thang kiếm ăn trong những bãi rác nhưng cũng ăn không được vì bị những con khác cắn đuổi đi, nó rất tức. Nguyên cả đời chó này thiền sinh nhìn lại không thể kiếm ra một chút vui vẻ nào. Khi nó lớn, nó phải đẻ rất nhiều chó con, đẻ hết lứa này đến lứa khác, liên tục như vậy suốt một đời chỉ toàn thấy đẻ không thôi. Vì sao vậy? Vì kiếp trước nó toàn nghĩ đến chuyện tà dâm với người khác, nên kiếp này những con chó đực khác thích làm chuyện đó với nó. Đó là bất thiện nghiệp trổ quả và nó phải chịu khổ sở đau đớn hoài một đời. Chấm dứt kiếp này, lúc nó chết một hình ảnh trong ký ức hiện lên. Hình ảnh gì? Đó là hình ảnh đi làm công quả trong thiền viện từ đời làm cô gái ưa cá ngựa. Lúc đó cô ta thấy một vị Sư. Rồi nó tái sinh thành một người đàn ông, nhưng không thể làm gì vì rất nghèo, do nghiệp trộm cắp (cá độ ) từ kiếp trước. Và sau đó anh ta đi lính, lúc mới vào lính anh ta rất khổ sở, vì lính thì phải mang một ba lô rất nặng, rồi chạy bộ, leo núi, di chuyển, tập trận. Rất khổ và mệt, nhưng anh ta cố gắng nhiều và sau được lên sĩ quan. Khi quán đến kiếp này thiền sinh thắc mắc không biết tại sao mình lại dính mắc với kiếp lính này như vậy, sau này (khi quán tới kiếp cô gái) anh ta mới biết đó là vì trong kiếp làm cô gái cá độ, cô gái này rất thích thú khi thấy các con ngựa mệt mỏi, phải chạy hùng hục luôn. Nên bây giờ anh ta cũng bị bắt chạy hùng hục, suốt ngày mệt mỏi cực nhọc. Và một điều nữa là anh lính này rất ghét những người đạo Hồi, hễ nhìn thấy là muốn giết, sau này anh ta biết rằng đó là vì kiếp trước làm ngựa bị ông chủ đạo Hồi bỏ đói và hành hạ cực khổ. Nhân quả là thế đó, liên hệ rất chặt chẽ. Đời này anh ta cũng sinh ra nghèo khổ, vì sao vậy? Nghiệp ăn cắp cho quả trong nhiều kiếp nghèo khổ và đói khát. Nếu quý vị ghiết người thì sẽ bị sinh vào địa ngục, ở tầng đó người ta sẽ chịu nóng kinh khủng, cơ thể sẽ bị đâm thủng bằng những bó đuốc và đôi khi tan ra như ngọn nến bị thiêu cháy. Chúng sanh ở đó không thể di chuyển được. Ở trong địa ngục này một ngày bằng 575 năm ở cõi người. Và người chịu nghiệp phải ở trong đó 4000 năm. Sau khi ở địa ngục người ta sẽ tái sinh lên ngạ quỷ, đồ ăn của ngạ quỷ là đờm giãi phân nước tiểu rác rến. Nhưng đôi khi cũng không thể ăn được. Tại sao vậy? Vì đời trước nó ăn cắp của người khác. Người bị mất đồ rất buồn khổ khi bị mất. Giả sử quý vị lấy của ai cái gì đó, người ta sẽ đau khổ tìm kiếm “đồ của tôi đâu rồi?” Rồi bạn phải trả quả này, đó là khổ sở khi không có cái mình cần, muốn ăn mà không được, ngạ quỷ có khi đói suốt 15, 16 năm trời. Sau đó từ ngạ quỷ sẽ tái sinh lên súc sanh. Nhưng cũng không được làm súc sanh đàng hoàng nữa, súc sanh lang thang suốt đời. Không ai cho đồ ăn. Có nhiều con vật được sinh ra nghèo đói và có những con khác sinh ra trong nhà giàu rất sung sướng. Tại sao lại có sự khác biệt này? Có nhiều người thích cúng dường, đồng thời biết giữ giới nữa, nhờ 2 thiện nghiệp này sau khi chết họ được tái sinh lên cõi trời sung sướng hoặc làm người giàu có. Một số người khác cũng thích bố thí cúng dường nhưng không chịu giữ giới, sau khi chết không được hỗ trợ bởi thiện nghiệp của giới trong sạch nên họ sinh làm súc sanh trong nhà giàu. Nếu nó tái sinh làm ngựa thì cũng được làm con ngựa đầu đàn, nếu tái sinh làm chó thì cũng được làm chó nhà giàu. Giống như chó ở Mỹ chẳng hạn (cười). Vì sao, vì kiếp trước nó thích cho người khác. Nhờ có thiện nghiệp cúng dường bố thí nên những con vật này rất sung sướng, muốn ăn gì là được chủ cho.Có nhiều con chó vừa giàu vừa sống lâu, nhưng một số con khác thì sống trong nhà giàu có nhưng chết sớm. Tại sao? Do nghiệp lực của nó. Nếu một người nào đó chẳng những không thích cúng dường bố thí mà còn keo xẻn dính mắc với tài sản và gia đình của mình thì sau khi chết, nếu tâm dính mắc này khởi lên bị hỗ trợ bởi những nghiệp bất thiện khác thì họ sẽ bị tái sinh thành thú, hết kiếp thú đó sẽ sinh xuống ngạ quỷ. Một người kia vào thời Đức Phật có một ông phú hộ tên là Dhanapala rất giàu có nhưng rất keo kiệt chẳng muốn cho ai cái gì cả. Khi những vị tỳ kheo hoặc đạo sĩ đến trước nhà ông khất thực thì ông chỉ ngồi im trong nhà có khi còn xua đuổi: “Này ông kia đi chỗ khác đi, không ai có gì cho ông đâu.” Sau khi chết vì quá dính mắc với tài sản của mình ông tái sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Thân thể ốm nhách toàn xương xẩu, chẳng có quần áo gì cả. Chỗ ở của ông ta gần một bờ sông, nơi đó các đoàn thương nhân hay dừng chân nghỉ đêm. Một bữa nọ có đoàn lái buôn 500 người ngủ lại chỗ bờ sông này, nó thị hiện thân thể xương xẩu của nó và lẩm bẩm: - Cho tôi xin miếng nước. - Ông là ai. – họ hỏi. - Các ông không biết tôi sao? Trước đây tôi là phú hộ Dhanapala, vì quá keo kiệt không chịu bố thí cúng dường nên sau khi chết phải chịu tái sinh vào cảnh giới này, các ông đừng nên dích mắc với tài sản của mình. - Vậy ông muốn gì? - Tôi rất khát, Tôi muốn uống thật nhiều nước? - Tại sao? Cả một sông nước đây nè, sao ông không lấy nước mà uống? - Tôi không thể tự lấy được. Làm ơn cho tôi xin miếng. - Thôi được, ông đừng lo, chúng tôi sẽ giúp. Rồi 500 người mỗi người lấy một chén đổ vào miệng quỷ. Xong họ hỏi: - Ông đủ chưa? - Không được, tôi cần nhiều lắm. Tôi còn rất khát. - Vậy chúng tôi phải làm sao đây? - Đức Phật và Tăng đoàn của Ngài đang ở đây. Nếu quý vị có thể cúng dường cái gì đó đến Đức Phật và Tăng chúng rồi hồi hướng phước đó đến tôi , có thể tôi sẽ uống được. Chỉ có thể thôi. Không chắc chắn. Tại sao? Vì có rất nhiều loại ngạ quỷ, trong đó chỉ có 1 loại có thể nhận phần phước cúng dường được thôi. Quý vị thấy đấy, không chỉ không bố thí dẫn đến quả tái sinh ở cõi ngạ quỷ, mà tâm keo kiệt dính mắc vô tài sản của cải cũng khiến người ta rơi xuống cõi này và bốn cảnh giới thấp. Vậy quý vị không nên dính mắc vào bất cứ thứ gì cả, loài hữu tình lẫn vô tình. Sự dính mắc luyến ái chỉ dẫn đến đau khổ mà thôi. Quý vị hãy cắt đứt mọi tham ái với chúng hữu tình như vợ con, gia đình và những người khác. Nếu quý vị cắt đứt được mọi tham ái thì sẽ trở nên giàu có, trong đời này và cả đời sau. Khi xả bỏ được, lúc chết quý vị sẽ rất hạnh phúc “tôi không vướng bận vào thứ gì cả, tôi hoàn toàn tự do để ra đi”. Nếu quý vị giữ giới được thì tâm hồn càng an lạc. Ngay trong đời này quý vị được lợi lạc là không sợ nạn trộm cắp. Còn dính mắc thì suốt ngày cứ lo người ta chôm tiền của tôi, người ta quyến rũ vợ tôi, người ta bắt cóc con tôi...Ôiii! Quá nhiều thứ để lo lắng. Bây giờ quý vị chỉ có mỗi một bộ y thôi. Không cần lo mấy tên trộm đến phải không? Thật là giàu có! Đức Phật cho chúng ta một cuộc sống thật hoàn hảo. Chúng ta chỉ có 3 y, một bình bát và chỉ một ít vật dụng cần thiết rẻ tiền thôi. Không có gì đáng giá cả, nhưng chúng ta rất tự do. Có thể đi bất cứ nơi đâu không vướng bận thứ chi. Người giàu rất khó đi đây đi kia. Nhiều người muốn đi hành thiền cũng không được. Người thì nói “Thưa Sư con chưa đi được, công ăn chuyện làm còn lu bu lắm.” Hoặc là “Thưa Sư con chưa nói với vợ con”. Kẻ thì bảo “Sư ơi con của con còn nhỏ lắm, giờ con chưa hành thiền được đâu.” Họ nghĩ rằng họ sẽ không chết, họ quên mất điều đó. Khi con họ lớn rồi thì họ lại nói “cháu con còn nhỏ lắm, con phải lo cho nó” họ không thể dừng những chuyện này lại, không thể hành thiền được. Tại sao vậy? Họ còn quá dính mắc với cuộc sống gia đình. Có một cặp vợ chồng nọ sống với nhau đến lúc bà hơn 80, ông gần 90. Ông già yếu không thể ăn gì cả. Nhưng bà lại mất trước. Đến ngày bà mất các cháu lại nói với ông “Ông ơi, bà mất rồi”. Các con cháu đưa ông lại gần xác bà và cầm tay ông đặt lên cơ thể bà lần cuối. Ông khóc hu hu và nói “Trời ơi, khổ quá, tôi và bà không thể sống với nhau đến đầu bạc răng long được” Họ nghĩ gì vậy? Họ nghĩ rằng họ còn rất trẻ. Ông ta đã 90 tuổi, bà 80 mà ông còn nói vậy. Sau đó họ chôn bà cụ và chuẩn bị cho ông một phần mộ cách đó 8 inch (khoảng 2 tấc) rồi đưa ông ra nghĩa trang và chỉ: “Thưa ông đây là mộ của bà, đây là chỗ của ông sau này”. Ông cụ nói rằng: “Trời, sao con làm xa dữ vậy? 8 inch rất là xa, ta không chịu đâu”. Tại sao lại như vậy? Quá là luyến ái! Vậy thì sau khi chết hỏi làm sao mà tái sinh ở cảnh giới loài người và chư thiên được chứ? Chỉ có thể xuống các cõi thấp là địa ngục ngạ quỷ súc sanh được thôi. Như vậy, quý vị thấy không? Sự tham đắm chỉ đem lại đau khổ cho đời sống hiện tại và tương lai. Chính vì vậy mà chúng ta phải giữ giới. Không nên nghĩ đến chuyện hoàn tục. Thiền sinh: Thưa Thầy con có đọc một chuyện trong kinh như vầy, có một cô gái mỗi lần cúng dường Phật đều nguyện kiếp sau con sẽ được sinh lên cõi trời với chồng của con. Đó cũng là một hình thức của tâm luyến ái. Vậy làm sao cô ấy sinh lên cõi trời được? Thầy: Đó cũng là sự dính mắc và cũng là vô minh nữa. Nhưng cô biết rằng nếu mình tạo thiện nghiệp thì sẽ được sinh lên cõi trời, như vậy cô còn dính mắc với cảnh giới chư thiên và với chồng mình. Cô ấy nỗ lực làm phước và giữ giới trong những ngày bát quan trai. Cô còn cúng dường suốt cả năm. Cô tạo được rất nhiều phước, nhờ năng lực phước thiện nên được sinh lên cõi trời. Tuy nhiên bất cứ hình thức sống nào cũng khổ cả. Kể cả chư thiên! Quý vị thấy không, chư thiên tuổi thọ 500 năm, ai cũng có dung sắc thù thắng cả, lúc nào cũng trẻ như mới 16. Nhiều chư thiên khó giữ giới lắm. Chư thiên có dung sắc rất đẹp, vị thì có ánh sáng như vang ròng, vị thì ánh sáng như sao mai...Rất đẹp! Ở cõi người này nhiều phụ nữ không đẹp đẽ gì mà chồng họ còn luyến ái chẳng rời xa được huống hồ các thiên nam làm sao rời xa những thiên nữ xinh đẹp của họ được. Khi họ muốn nhảy múa thì âm nhạc tự nhiên trỗi lên. Hỏi làm sao mà đi ngồi thiền được chứ? Cho nên quý vị hãy giữ giới với tâm nguyện đắt niết bàn. Không nên nghĩ đến chuyện hoàn tục. Niết bàn là tốt nhất. 32 cõi thế giới chỉ toàn khổ! Sinh rồi tử, sinh rồi tử, rồi tái sinh... cứ lặp đi lặp lại hoài chỉ có bấy nhiêu! Tóm lại chúng ta vừa nói xong giới thứ 2. Nếu quý vị muốn giàu có thì không trộm cắp. Được không? Quý vị không giữ được giới này sẽ rất nghèo. Trước tiên là bị rơi xuống các cõi dữ, sau đó sinh làm người thì thành người nghèo. Quý vị biết không phía sau làng tôi sống có rất nhiều người nghèo đến nỗi mỗi ngày chỉ có 1 bữa ăn. Họ rất ốm. Tại sao họ lại bị sanh vào những gia đình như vậy? Mà nhiều nhà nghèo thì đông con, tại sao? Vì họ không thích giữ giới trộm cắp. Cho nên sau khi chết. Nếu được hỗ trợ bởi nghiệp thiện họ sẽ sinh vào cõi người nhưng nhà nghèo. Giá mà quý vị có thể thấy được những người này họ ốm thế nào, tay họ chỉ toàn xương, quý vị mà thấy họ đang đi thì ắt sẽ nghĩ rằng một bộ xương đang di chuyển. Nghèo vậy nhưng họ đẻ rất nhiều, mỗi năm 1 đứa, đẻ liên tục, nhưng mà không chết. Tại sao, vì trong kiếp trước họ ăn cắp của người khác làm người ta khổ sở nên giờ họ phải sống chịu khổ lại như vậy. Có lần tôi hỏi họ: “Ông có đói không?” “Đói lắm Sư ơi, nhưng không có gì ăn hết.” Ông bố lười lắm, nằm ngủ suốt ngày, người mẹ cũng không thích làm việc, cho nên đứa con cũng không muốn ăn gì cả. Khổ vậy đó. Quý vị thấy không, trên thế giới này có bao nhiêu người giàu chúng ta có thể đếm được. Có bao nhiêu người nghèo có đếm được không? Không thể đếm xuể! Nếu cộng số người nghèo trên các quốc gia lại sẽ rất nhiều. Chỉ có một số người giàu có thôi. Vì sao? Vì chỉ có một số người muốn giữ giới. Như vậy đó. Giới thứ 3 là tà dâm. Thật ra tôi định nói chuyện về hành thiền thôi nhưng nãy giờ lại nói về giới không. Vì giới là nền tảng căn bản để hành thiền. Nếu qúy vị giữ giới tốt, quý vị sẽ hành thiền tốt. Nếu không giữ giới được không thể hành thiền tốt. Tại sao? Vì giới không trong sạch thì tâm không an, suy nghĩ lung tung và không hứng thú với việc thiền tập. Quay lại vấn đề, giới thứ ba là tránh không tà dâm. Một thiền sinh quán về tiền kiếp thấy mình là 1 ông vua, trong kiếp thứ 8 (kể từ kiếp này). Ông vua này có rất nhiều vợ và rất thích chuyện chăn gối. Rồi thiền sinh quán tiếp về kiếp trước đó thì thấy mình là một ẩn sĩ hành thiền trong rừng, đề mục Kasina đất, ẩn sĩ này thường nhập định rồi trú trong thiền vô sắc giới. Sau đó lúc chết hóa sinh lên thành 1 phạm thiên ở cõi trời vô sắc giới và sống ở đó rất lâu. Sau khi hết tuổi thọ rồi vị phạm thiên này tái sanh xuống thành 1 chư thiên (ở cõi trời dục giới). Sau kiếp chư thiên này xuống cõi người làm ông vua đó. Vua có nhiều cung phi mỹ nữ và rất ham thích chuyện vợ chồng. Thiền sinh đó nói rằng “Đời làm vua con chỉ thấy toàn là ăn nằm với các phi tần.” Một ngày kia vua đó muốn ngủ với 1 trong số những cung phi của mình. Nhưng cô này bị ốm và không thể đáp ứng được. Ông vua không thể kiềm chế mình và vẫn làm chuyện đó. Sau đó cổ không thể thở được và qua đời. Thấy cô chết ông hối hận và kinh sợ sự dâm dục của mình, liền đi tới một vi tỳ kheo và xin xuất gia. Tỳ kheo này học thiền với thầy bắt đầu bằng chánh niệm trên hơi thở trước, rồi tiếp tục thành công với 10 đề mục kasina, tiếp theo vị ấy quán danh sắc và quán tiếp đến 5 thủ uẩn. Như vậy vị ấy thực tập nhiều năm trời. Lúc chết vị ấy nghĩ rằng mình chưa đạt được Maggasacca (Đạo đế), vì sao vậy? Vì vị ấy chưa hành được đến giai đoạn nhân quả. Đức Phật đã nói “Trong giáo pháp của ta, ai chưa hành được nhân quả thì chưa thể đắc được tuệ Maggasacca”. Vị tỳ kheo này tự biết mình chưa hành được giai đoạn này vì vị ấy không quán được các kiếp sống quá khứ và tương lai của mình. Cận tử nghiệp vị ấy muốn hóa sinh lên phạm thiên ở cõi trời vô sắc giới nên dùng kasina trắng rồi trú trong định và hóa sinh. Phạm thiên này sống ở đó rất rất lâu, trải qua nhiều kiếp trái đất (tức các giai đoạn thành, trụ, hoại, không của trái đất). Khi hết tuổi thọ tái sinh xuống cõi người thành 1 người nam. Nhưng người nam này không thích kết hôn. Tại sao? Những người ở cõi phạm thiên xuống chỉ thích sống một mình và không hứng thú với đời sống hôn nhân (ái dục). Sau đó anh ta hành thiền bắt đầu bằng đề mục Kasina trắng. Sau đó anh ta biến cả căn phòng thành màu trắng anh ta ở trong đó. Cho đến khi đạt được, nhưng anh ta nghĩ căn phòng này không đủ yên tĩnh, làm sao đây? Anh ta cố gắng tìm kiếm một nơi thích hợp... Rồi để thân xác ở đó, tâm anh đi chỗ khác. Anh ta nghĩ cái này yên tĩnh hơn. Rồi anh ta cứ trú trong định như vậy. Sau đó người ta phát hiện ra thân anh không còn hơi thở nữa. Nghĩ anh đã chết, họ bỏ anh vào hòm rồi đem chôn. Lúc đó thức anh nhập vào cơ thể lại, cảm thấy rất mệt vì không thể thở được. Không có không khí, anh ta dùng tay chân đẩy đạp nắm hòm ra nhưng không thể. Thế là phải chấm dứt ở đây, hình ảnh cận tử nghiệp là cảnh 2 người nam nữ đang quan hệ với nhau. Đó là hình ảnh từ quá khứ ở kiếp làm vua khởi lên. Quý vị thấy chưa! Sức mạnh của nghiệp rất là... Nó có thể trở lại thành hình ảnh quyết định cho cận tử nghiệp của quý vị. Nhưng nhờ sức mạnh của tuệ minh sát nên anh ta không bị rơi xuống địa ngục mà bị tái sinh thành 1 con chó. Thiền sinh hỏi: Thưa Thầy nhưng anh ta đã đắc thiền, có khả năng trú trong thiền rồi mà. Thiền Sư: Vâng, người nào có khả năng nhập thiền lúc chết có thể hóa sinh lên cõi phạm thiên. Trong trường hợp này không được. Tại sao? Vì các bất thiện nghiệp vây quanh. Khi bị nghiệp lực đẩy thì người ta không thể làm gì được. Rồi thành chó, anh ta rất khổ. Nguyên một đời toàn tâm sân nổi lên. Tại sao? Lúc mới kiểm tra, thiền sinh chưa thấy rõ hình ảnh con vật, chỉ thấy tâm sân là chính, rất sân. Thiền sinh đó nghĩ chắc kiếp đó là rắn. Vì rắn thường có tâm sân trội. Nhưng khi quán đi quán lại nhiều lần, thì thấy thân thể đó rất to. Rồi hình ảnh một con chó hiện lên. Thiền sinh đã kiểm tra nhiều lần cho chắc chắn. Con chó này mới đầu sinh ra trong nhà nghèo. Quý vị biết không nghiệp của tà dâm sẽ bị sinh vào gia đình nghèo. Bởi vậy nghiệp lực rất nguy hiểm. Quý vị không nên nghĩ đến chuyện hoàn tục làm chi. Sau đó khi con chó lớn một chút được một gia đình giàu có thấy dễ thương và đem về nuôi. Giờ nó thành chó nhà giàu. Nó là con chó đực, nhưng suốt ngày ở trong nhà giàu kín cổng cao tường nên không gặp một con chó nào khác. Nó rất thân thiết với cô con gái của ông chủ, một quý cô xinh đẹp, thiền sinh nghĩ rằng cô gái này là người Trung Hoa. Suốt đời đó nó sống với cô và cô rất thương nó. Khi chết nó nghĩ “lúc nhỏ mình sinh ra trong nhà nghèo, sau đó sống sung sướng trong nhà giàu tới giờ, nghiệp lực thật không thể nói được.” Tại sao con chó lại có thể nghĩ như vậy? Vì nó có thiện nghiệp từ kiếp trước là niềm tin vào nhân quả. Khi nó chết, hình ảnh cô chủ hiện lên, nó sinh làm một người phụ nữ, không phải là con gái của cô chủ mà là một cô gái ở Miến Điện. Khi trẻ khá xinh xắn, cô lấy chồng rồi sinh 3 con, toàn là con trai. Sau đó chồng cô đi lấy vợ khác, cô vô cùng tức giận. Tại sao lại như vậy? Nghiệp tà dâm khiến cô bị bỏ rơi như vậy. Nhiều người cũng vậy, khi có vợ một thời gian rồi bỏ đi. Họ không còn luyến ái người vợ đó nữa, tại sao? Vì nghiệp lực của người đó trong quá khứ khiến họ phải chịu cảnh bị bỏ rơi. Sau đó, cô cúng dường món cà ri cho một thiền viện lớn. Được cúng dường cho nhiều người nên cô rất hoan hỷ cô ước nguyện được thành 1 vị tỳ kheo. Lúc chết hình ảnh này tái hiện hỗ trợ cho các thiện nghiệp mà cô đã tích lũy và đời này được sinh ra như ước nguyện. Các vị thiện nam tín nữ hay cúng dường rất dễ khởi nhớ lại các hình ảnh này lúc chết. Sau đó mọi hình ảnh biến mất và chỉ hiện lên một màu đỏ rất đẹp-tử cung người mẹ, đó là dấu hiệu cho biết chúng sanh đó đang đi vào cõi người. Như vậy cô gái đó chết và tái sinh thành 1 người nam và xuất gia, tức là kiếp này. Nếu quý vị phạm tội tà dâm sẽ rơi vào 3 tầng địa ngục. Một là địa ngục mà ở đó cơ thể quý vị bị chó ăn đến chết, hai là địa ngục mà ở đó cơ thể bị (nghe không rõ), ba là địa ngục ở đó chúng sanh không có da, chỉ có máu mủ bao bọc cơ thể. Một thiền sinh hiện nay chỉ khoảng 16 tuổi, trong kiếp thứ 6 quá khứ là một người nam rất thích chuyện tà dâm, anh ta trả tiền và ngủ với các cô gái dịch vụ, rất nhiều lần như vậy. Lúc chết hình ảnh này tái hiện vây quanh khiến anh tái sinh xuống địa ngục. Anh ta nói “con chó rất lớn, nó nhào đến ăn thân thể con, thật kinh sợ. Nó rượt con chạy quanh, khi thì ăn tay, khi thì ăn chân, khi thì ăn cả người. Cứ chết đi sống lại trong địa ngục và bị ăn như vậy”. Anh ta sống rất lâu trong địa ngục. Hết kiếp này tâm muốn làm chuyện đó lại khởi lên và anh ta bị tái sinh thành một con chó cái. Chó cái thì lúc nào cũng vậy, chỉ có đẻ đẻ đẻ liên tục. Ngày nọ nó đang lang thang thì thấy 1 cô gái đang đặt bát cho 1 vị tăng. Nó nghĩ rằng “Hay quá, nếu mình là một cô gái mình cũng sẽ cúng dường như vậy”. Nó hoan hỷ khi thấy người khác cúng dường chư tăng. Lúc chết thiện nghiệp này khởi lên nhưng không được mạnh lắm vì nó không tự cúng dường, nó sinh ra thành một người nữ nhưng nghèo kiết xác. Cô gái này phải đi làm mướn công nhật những công việc nặng nhọc, và cũng đẻ rất nhiều con. Loại gạo cô ăn là gạo rất xấu, cứng như gạo lức vậy. Nếu quý vị bị nghiệp gì đó thì quý vị cũng sẽ thích ăn gạo lức (cười) vì ở đây gạo lức rất rẻ. Ngày nọ cô cúng dường cơm lức đến 1 vị tỳ kheo, và nguyện “con sẽ tái sinh thành 1 cô gái”. Tại sao chỉ nguyện thành 1 cô gái? Nghiệp tà dâm khiến như vậy, kiếp trước làm đàn ông thích ăn nằm với phụ nữ, bây giờ nghiệp chín khiến cô lại muốn thành phụ nữ. Rồi lúc chết, nghiệp này khởi lên, nhưng cô ta không cúng dường nhiều, chỉ một chút cơm. Nên được sinh thành 1 phụ nữ, cũng đẻ nhiều con. Nhưng kiếp này cô được cúng dường thiền viện món cà ri, cơm và một số thứ khác. Các vị tỳ kheo dạy cô ta quán bộ xương, nhưng cô ta không thể nhập định được. Như vậy đời này cô ta làm nhiều thiện nghiệp, lúc chết hình ảnh cúng dường khởi lên hỗ trợ các nhân thiện và cô ta tái sinh thành một người nữ tiếp (kiếp thứ nhất, kế kiếp này). Cô ta đi hành thiền và được dạy quán bộ xương, rồi quán danh sắc. Đến kiếp này, thiền sinh bắt đầu với đề mục quán bộ xương. Chỉ sau 1 ngày, có thể tập trung liên tục trong vòng 1 tiếng đồng hồ đề mục bộ xương. Quán danh sắc chỉ trong 1 tuần, sau đó quán nhân duyên, kiếp thứ nhất quán trong 2 ngày, kiếp thứ 2 quán chỉ trong 1 ngày. Tại sao lại nhanh như vậy? Vì nhờ thiện nghiệp của kiếp trước đã thực hành rồi nên kiếp này hành rất dễ. Cho nên nếu quý vị hành thiền bây giờ, thì những thiện nghiệp này sẽ không mất đi. Khi các ba la mật bồi bổ đầy đủ sẽ có ngày quý vị đắt Niết-bàn. Nếu chưa đắt Niết-bàn liền được thì trong những kiếp tương lai cũng được sanh lên cõi thiện. Tuy nhiên, mọi hình thức sống đều không tốt, chó hay chư thiên gì cũng khổ, nhưng chư thiên thì tốt hơn. Nên hãy cố gắng giữ giới. Nó không dễ, nhưng chúng ta phải cố gắng giữ. Nếu vị muốn chấm dứt khổ thì phải giữ. Được không? Vì không đủ thời gian nên tôi không nói nhân duyên các kiếp sống tiếp theo của thiền sinh này được. Trở lại vấn đề, từ 3 địa ngục này chúng sanh phải trả quả cho nghiệp tà dâm đó sẽ sinh lên loài ngạ quỷ, khổ sở đói khát. Từ ngạ quỷ sẽ lên súc sanh, và những súc sanh này thường bị cắt bỏ bộ phận sinh dục. Quý vị thấy những con chó hay các loại khác không, một số con bị cắt bộ phận này. Do nghiệp của chúng! Tiếp đó nếu chúng sanh này sinh lên làm người thì thường thích làm người nữ. Cho dù họ là đàn ông họ cũng không thích cuộc sống đàn ông mà muốn sống như đàn bà. Quý vị có thấy những người gay không? Họ giải phẫu và chuyển đổi giới tính như phụ nữ. Một số còn tự quảng cáo mình và mời gọi đầy trên các phương tiện. Tất cả đều do nghiệp tà dâm, vì kiếp trước tâm họ rất thích thú chuyện này nên kiếp này vẫn không thể dừng lại được. Một số chúng sanh sinh vào cõi người, thành phụ nữ hoặc đàn ông, nhưng nguời khác không ưa. Nếu quý vị thấy họ, quý vị không muốn tới gần. Có không? Nhiều người không có cảm tình với họ, có thể nói là ghét. Tại sao? Nghiệp lực của họ khiến như vậy. Rất đáng ghét. Thậm chí người trong gia đình cũng ghét họ nữa. Nghiệp lực mạnh và nguy hiểm như vậy đó. Đó cũng là 1 cái quả của tội tà dâm. Khi quý vị giữ giới tà dâm, làm được điều này rất khó. Quý vị hiểu không? Nếu quý vị cố gắng giữ giới thật thanh tịnh, trong sạch, thì trong đời này quý vị sống xứng đáng rồi, và tương lai sẽ được hạnh phúc. Quý vị sẽ không khổ! Người trong sạch giới này sẽ có một thân hình và dung mạo đoan chính khả ái, mọi người thấy là quý mến ngay. Đó là do kiếp trước họ trong sạch không dâm dục, không làm người khác đau khổ. (còn tiếp) (Do máy thu âm bị trục trặc, không thể nghe được phần đầu thầy giảng về giới nói dối.Sau đây là phần dịch tiếp theo phần trên, nhưng bị mất khoảng 17 phút.) ...Một số người bị nghiệp hôi miệng, khi nói chuyện quý vị không thể đứng gần họ được vì mùi hôi. Đó là vì trong kiếp trước họ nói dối nhiều. Có một số người làm nghề bói toán coi số mệnh hoặc phán chuyện tương lai, họ nói dối rất nhiều. Ở nước chúng tôi(Miến Điện) chuyện này phổ biến lắm. Đặc biệt là quý cô rất dễ tin họ. Bây giờ chính phủ của chúng tôi cũng tin họ nốt. Những người này khi chết sẽ bị sinh xuống địa ngục Maha Tapana (hay còn gọi là địa ngục Đại Viêm Nhiệt) tức là địa ngục thứ 7. Địa ngục khiến chúng sanh ác đến ngọn núi sắt nóng đỏ, rồi rơi xuống cây giáo ở phía dưới do mãnh lực của gió và lửa đang cháy. Chungs sanh chịu tội tái sinh đến chỗ này, rơi trên đỉnh ngọn núi sắt nóng đỏ nhưng không có chỗ nào khác để chạy trốn, chỉ có thể chạy quanh ngọn núi được thôi. Sau đó mãnh lực của nghiệp tạo ra gió và lửa hất tung chúng sanh này rơi xuống dưới ngọn núi, phía dưới là những cây giáo nhọn chờ sẵn đâm xuyên cơ thể họ. Trong địa ngục này họ phải sống rất lâu chịu khổ như vậy. Do nghiệp lực nên họ phải ở cảnh giới này một thời gian nhất định, muốn chết sớm cũng không được. Chúng ta ai cũng muốn sống lâu phải không? Nhưng ở địa ngục thỉ chẳng ai muốn sống tuổi thọ dài cả. Sau khi trả nghiệp ở địa ngục họ tái sinh lên cõi ngạ quỷ . Sau đó đầu thai lên làm súc sanh rồi mới lên tiếp thành người, làm súc sanh cũng dị hợm, mà thành người cũng có bộ dạng xấu xí. Những người làm nghề bói toán mang nghiệp rất nặng, rất nguy hiểm cho họ. Quý vị làm việc thiện thì tương lai, của quý vị sẽ tươi sáng. Có nhiều người trong quá khứ làm việc bất thiện, giả sử có người giảng pháp khuyên họ giữ giới nhưng họ không muốn làm. Những người này sau khi chết tái sanh vào các cõi dữ một cách dễ dàng. Nếu quý vị giữ giới không nói dối thì đời sau khi quý vị nói chuyện sẽ có mùi thơm của hoa sen. Khuôn mặt quý vị sẽ rất bình an, rất đẹp. Có một số người, khuôn mặt không cân xứng, ví dụ bị lé, họ nhìn đâu bạn cũng không biết được... Vì sao? Đời trước họ nói dối, bây giờ nghiệp chín nên sinh ra với bộ dạng như thế. Như vậy có tốt không? Không tốt! vì vậy quý vị không nên nói dối với bất cứ ai. Hãy cố gắng giữ giới, đời sống của tỳ kheo rất tốt. Cuộc sống người tại gia giữ giới không dễ dàng tí nào. Giả sử họ phạm giới ăn cáp thì họ cũng dễ dàng phạm luôn giới nói dối. Hai giới này thường phạm chung với nhau. Chỉ cần một con muỗi bu lại là họ đập bốp ngay, chết liền tại chỗ, đó là phạm giới sát sinh rồi. Quý vị thấy không, phạm giới dễ lắm! Giới tà dâm cũng vậy, sống ngoài đời xung quanh có nhiều cô gái đẹp, rồi thì xu hướng chung của xã hội là như vậy nên rất dễ phạm... Giới cuối cùng là uống rượu. Nhiều người rất thích uống rượu phải không nào? Một thiền sinh quán về kiếp trước cua mình. Thiền sinh này thấy có một đời anh ta là một cô gái mất trí. Cô gái này không chịu bận quần áo gì và có một thú vui là thích trần truồng chạy rong ngoài đường. Nhiều người đưa quần áo cho cô bận nhưng cô vứt hết, người khác bận cho thì cô cũng cởi ra hết và chạy ra đường, làm như vậy cô thấy rất vui. Thiền sinh thấy kiếp trước mình như vậy nên rất đau khổ tự hỏi tại sao minh lại ra nông nỗi này. Chuyện gì xảy ra vậy? Nên anh ta quán tiếp về một kiếp trước nữa thì thấy nguyên nhân. Trong đời này anh ta là một bợm nhậu, rất khoái uống bia và rượu, say xỉn tối ngày với bạn bè. Trong suốt một đời đó anh ta chỉ làm được một việc đàng hoàng thôi đó là đem một cành hoa đến cúng dường tượng Phật. Lúc chết may mắn hình ảnh này hiện lên làm nhân hỗ trợ( cho các thiện nghiệp mà anh ta đã tạo từ nhiều kiếp quá khứ), nhưng tâm anh ta bị bủa vây bởi nghiệp uống rượu của đời này, nên anh ta được sinh làm người nhưng bị điên. Do tâm nhớ tưởng việc uống rượu của đời này không mạnh lắm nên còn được sanh làm người. Nếu không sẽ rơi thẳng xuống địa ngục và uống nước đồng sôi. Khi quý vị uống nước đồng này vào đến miệng, miệng bốc cháy, xuống đến bao tử, bao tử bốc cháy, rồi cả thân thể bốc cháy. Rất đau đớn nhưng không thể dừng lại được tại sao vậy? Vì lúc uống rượu bia người này rất vui, và thỏa thích, đầu óc không tỉnh táo, cứ như vậy nhiều năm trời. Ở địa ngục này chúng sanh rất khát, lúc ấy sẽ có người đến cho nước, bảo chúng sanh ấy há miệng ra, rồi họ đổ nước vào, nước này chính là nước đồng đang sôi hoặc than đang cháy. Hết nghiệp ở địa ngục, chúng sanh ấy sẽ tái sinh lên ngạ quỷ, nhưng không thích ăn các đồ ăn của quỷ mà chỉ thích chạy rong. Sau nó tái sinh lên thành súc sanh cũng sẽ bị điên và ngu si. Quý vị có thấy con chó điên chạy rong ngoài đường cắn người không? Nếu nó sinh làm heo sẽ thành heo điên. Sinh làm người thành người điên, hoặc ngốc nghếch. Quý vị có muốn như vậy không? Chắc chắn là không rồi!Cho nên quý vị phải giữ giới luật thật tốt. Nếu người đó có phước sinh lên thiên lận. Như vậy đấy! Rất là nguy hiểm. Cho nên chúng ta cần phải giữ giới một cách thận trọng. Trong luân hồi chúng ta chỉ có cơ hội giữ giới được vài đời thôi, không phải đời nào cũng giữ đâu. Cho nên có thể đời này chúng ta không thích giữ giới lắm phải không? Vì sao? Vì nhiều đời chúng ta không giữ nên đời này cũng không thích giữ. Tâm chúng ta thường thích làm gì nào? Thích ở nhà với gia đình, thích có vợ sinh con đẻ cái, rồi bạn bè hội họp... rất nhiều thú vui. Như vậy đấy và dễ phạm giới. Bây giờ quý vị đã giữ đươc giới rồi, quý vị đang tiến lên một cấp độ cao hơn là hành thiền( Đức Phật dạy 3 cấp độ của việc phước là Bố thí - Trì giới - Hành thiền). Có 40 đề mục thiền, Chánh niệm trên hơi thở là một trong số đó. Giả sử quý vị bắt đầu với đề mục này, khi quý vị có thể định tâm liên tục trên đề mục hơi thở, nimita mỗi người sẽ xuất hiện , nimita chính là sức định của quý vị. Màu sắc và hình dạng nimita của sức định của quý vị mạnh quý vị sẽ nhập vào sơ thiền cho đến tứ thiền. Khi thuần thục quý vị sẽ quán 32 thể trược. Nếu quý vị quán 32 thể trược được rồi sẽ quán tiếp đến đề mục bộ xương, từ đề mục bộ xương quý vị có thể vào các tầng thiền và quán sang đề mục kasina, kasina trắng, kasina đất và 10 kasina. Sau đó nếu quý vị muốn sẽ hành tiếp đến tứ vô lượng tâm tức là Từ - Bi - Hỷ - Xả... lần lượt như vậy đi hết các đề mục thiền định. Nếu quý vị thành công hết sẽ chuyển sang hành thiền tuệ, tức Minh sát tuệ, khi quán đén giai đoạn này mọi đối tượng đều có thể làm đề mục hành thiền, quý vị sẽ không bị dính mắc với bất cứ đối tượng đều có thể làm đề mục thành thiền, quý vị sẽ không bị dính mắc với bất cứ đối tượng nào nữa, mà khi nó xuất hiện quý vị sẽ thấy tứ đại trong đó và nó chỉ là danh và sắc nói tổng quát sơ sơ thôi. Vì đi vào lộ trình này khá chi tiết và đòi hỏi phải có thầy theo sát hướng dẫn. (Đến đây là kết thúc phần dạy về giới. Tiếp theo là phần vấn đáp cảu thầy và các thiền sinh về kỹ thuật hành thiền, vì đoạn này dành cho người chuyên hành thiền nên con thấy không cần thiết phải dịch hết.) Kính thưa cả nhà, Đây là bài pháp Thầy Pannananda giảng cho các vị Tỳ kheo, sau đó Sư Giới Tịnh chia sẻ cho mấy chị em.Út mới dịch được phần dạy Pháp của Thầy về 3 giới này thôi. Còn phần Thầy dạy về 2 giới nữa Út sẽ cố gắng dịch tiếp khi có thời gian. Út gởi phần này trước để mọi người đọc lần hén. Chứ nếu thấy dài quá chắc cũng lười đọc, phải không ạ? Ở bên này chuyện hành thiền và quán nhân quả kiếp trước kiếp sau là bình thường, Bố mẹ, các anh chị và bé đừng nghĩ rằng Thầy đưa ra để hù dọa hoặc pháp môn gì mà lạ quá vậy. Vì thực ra vào thời Đức Phật chính Ngài cũng hay kể chuyện tiền thân của mình và các đệ tử để làm bài học cho mọi người đấy thôi! Ngài thường kể để phân tích do nhân như vậy duyên như vậy nên người đó phải bị hoặc được như vậy. Các thiền sinh ở thiền viện này hội tụ đủ khả năng và điều kiện được may mắn hành đúng theo lời Phật dạy nên có thể quán được tiền kiếp hậu kiếp để hiểu sự vận hành của luật nhân quả, bồi bổ chánh kiến và sự phát triển của trí tuệ. Nhưng đó chỉ là một giai đoạn tiến hóa trên con đường đi đến sự chấm dứt sinh tử luân hồi, không phải là mục đích cuối cùng của người hành thiền. Vì thời nay hầu như không ai làm được nên nhiều người ta bài bác chuyện chứng đắc, cái gì không có số đông cổ xúy thường bị cho là sai lầm. Nhưng khi đối chiếu với kinh điển do chính Đức Phật nói thì thấy không sai một chút xíu nào. Chúng ta đọc kinh thường thấy sau khi Đức Phật nói một thời pháp có rất nhiều vị chứng Alahan, hoặc Tu đà hoàn...Như vậy, những gì Đức Phật có nói thì là đúng chứ không sai, chúng ta cứ dựa trên kinh điển mà Ngài đã giảng có nguồn gốc rõ ràng để đi thì bảo đảm đúng hướng. Những thiền sinh có khả năng quán đến giai đoạn nhân duyên này là những chúng sanh tiến hóa rất cao trên con đường tâm linh mà còn phải chịu cảnh khổ ở các cõi dữ vì những bất thiện nghiệp lỡ tạo từ kiếp trước. Tuy nhiên số lần bị tái sinh trong đường dữ như vậy đã là rất ít. Huống hồ những chúng sanh không biết bố thí cúng dừng, giữ giới và tu tập thì chỉ có đi từ cõi tối đến cõi tối mà thôi. Chúng ta nếu không lo làm việc phước, giữ gìn các giới và tu tập thì khả năng rơi xuống địa ngục ngạ quỷ súc sanh rất cao. Sống ngoài thế gian đôi khi vì dễ duôi theo xã hội và hoàn cảnh mà chúng ta coi thường việc giữ giới. Khi Thầy chứng minh cụ thể bằng tấm gương của các hành giả ở đây chúng ta mới thấy được sự nguy hiểm và cái quả đau khổ của việc phạm giới. Cho nên mong cả nhà hãy cố gắng tạo một nhân lành cho mình ngay trong đời này và đời sau. Kính chúc Bố mẹ, các anh chị và Bé được nhiều lợi ích từ bài pháp này. Vì đây là bài dịch từ văn nói nên có nhiều chỗ bị trùng lặp, đồng thời, “dịch giả” cũng mới vào “nghề” nên không thể tránh khỏi những sơ sót. Kính mong “quý độc giả” lượng tình tha thứ và góp ý. Xin hồi hướng công đức cùng khắp tất cả. Nguyện mọi người được sống an lạc, hạnh phúc, luôn đi từ chỗ sáng đến sáng. Sadhu! Sadhu! Sadhu! Chú thích: Những chỗ có dấu... là câu thầy bỏ lửng. Câu trong ngoặc đơn là lời giải thích thêm của người dịch cho dễ hiểu.1 like
-
Ngày 26/5/canh dần ,vận 8,giờ tân dậu(thạch lựu mộc)(ngày mậu ngọ: thiên hà thủy)(tháng nhâm ngọ :D ương liễu mộc) Trận đức-tây ban nha Quẻ mở :sinh –tiểu cát bàn thắng xảy ra vào những phút sau : 13’30s .(đức) 16’40s .(đức) có 1 cơ hội lớn ,tiếc là ko ghi được bàn ở Phút 33’40s 44’10s (tây ban nha) 53’20s (thẻ vàng đầu tiên) 58’ thẻ vàng thứ 2 Quẻ kết :Sinh-đại an tổng bàn thắng 3 bàn có thể đức thắng 3-0 hoặc 2-1 dự đoán :hiệp 1 có tất cả 3 bàn thắng đức sẽ ăn 2 bàn tại hiệp 1 ,tây ban nha ăn 1 bàn vào cuối hiệp 1 .hiệp 2 ko có bất ngờ lớn (nếu có sẽ là đức ghi bàn tăng sự cách biệt giữa 2 đội là 2 trái ) -tây ban nha sẽ về nước làm chả con mực dự báo :D thân ái :D tuấn dương :D1 like
-
Âm PhÙ Kinh
Thiên Phú liked a post in a topic by Thiên Sứ
VinhL viết: Theo thiển ý của tôi thì Âm Phù Kinh nói về lẽ vận động của Âm Dương Ngũ hành, nên gần với Kỳ Môn, nhưng không phải Kỳ Môn.Hình tướng bình thì hay, nhưng chân lý còn chưa rõ ràng. Xem không khéo "Tẩu hỏa nhâp ma".Chỉ nên hiểu đại ý.1 like -
Sư phụ kính!!!! Đợt Sư Phụ ra Đà Nẵng chỉnh nhà cho Le Dien. Khi Thầy trò ta đi vào Hội An có ghé Furama đón chị Huyền đá cảnh. Lướt qua các điểm Resort ven biển xe oto dừng lại để Sư Phụ dạy bọn con cách nhìn hình thế các tòa nhà đoán biết vân của nó. Không biết Sư Phụ còn nhớ cái Resort này không? Lời tiên tri của Sư Phụ: - Khu này sẽ xảy ra kiện cáo um xùm - Trụ tiền sanh không cân đối với tòa nhà. Nên ???? cái này quên mất Sư Phụ tiên tri cái gì??? ( Nhân viên làm việc bị áp lực lớn ) Đóng cửa casino lớn nhất Việt Nam Thủ tướng yêu cầu UBND TP Đà Nẵng chỉ đạo dừng hoạt động kinh doanh casino, khách sạn của Công ty liên doanh Du lịch và giải trí quốc tế Silvershore Hoàng Đạt. Công ty chỉ được hoạt động trở lại khi đã bảo đảm đáp ứng đầy đủ các điều kiện kinh doanh theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. UBND Thành phố Đà Nẵng cần nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm về quản lý đối với những sai phạm trong hoạt động kinh doanh của công ty này. Thành phố phải phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành trong việc chỉ đạo, giám sát công ty này khắc phục những sai phạm mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã báo cáo. Cùng với đó, các Bộ: Tài chính, Công an, Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Ngoại giao phối hợp với UBND thành phố Đà Nẵng tiếp tục xem xét, xử lý những vấn đề cần được chấn chỉnh đối với hoạt động kinh doanh của khu casino, khách sạn này. Casino chỉ được hoạt động khi có giấy phép đầu tư. Ảnh minh họa: Wayfaring. Khu du lịch quốc tế Silver Shores khai trương ngày 26/1 tại đường ven biển Sơn Trà - Điện Ngọc, gồm tổ hợp khách sạn 5 sao và khu casino vui chơi giải trí lớn nhất Việt Nam. Năm 2006, đây cũng là dự án đầu tư nước ngoài được Đà Nẵng đánh giá là có quy mô vốn lớn nhất năm, 86 triệu USD. Trước đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có công văn gửi UBND thành phố Đà Nẵng đề nghị theo dõi, kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện dự án Silver Shores Hoàng Đạt. Khu vui chơi có thưởng của Silver Shores Hoàng Đạt vi phạm một số quy định như có tới trên 10 bàn chia bài trong khi theo giấy phép, đơn vị này chỉ được phép đặt không quá 8 bàn. Trong quá trình thực hiện dự án, chủ đầu tư đã sử dụng một lượng khá lớn lao động phổ thông nước ngoài. Trong khi theo quy định của Bộ luật Lao động, các doanh nghiệp chỉ được phép tuyển người nước ngoài trong một thời hạn nhất định đối với các công việc đòi hỏi kỹ thuật cao mà phía Việt Nam chưa đáp ứng được. Kỳ Duyên1 like
-
Anh chị em làm phong thủy nên dùng Lakinh của Laido. Đây là tôi thật tình nói như vậy. Kể từ ngày Laido cho tôi cái Lakinh , dùng đến nay hơn hai năm chưa hỏng. Còn Lakinh Tàu mua ở tiệm, tuy rẻ, nhưng có cái chỉ dùng được vài tháng. Có cái đến nhà thân chủ, kim rụng rời ra, có cái chỉ Nam thành chỉ Bắc. May mà tôi luôn có la bàn dự phòng. Nếu không thì thật không biết ăn nói thể nào với thân chủ. Laido nên cố gắng bảo đảm thương hiệu của mình.1 like
-
Các "ông đồng, bà cốt" lên tiếng! Tác giả: Khánh Linh Tuanvietnam.vn Bài đã được xuất bản: 06/07/2010 06:00 GMT+7 Các "ông đồng, bà cốt" cũng "bất bình" chuyện nhiều người trong số họ lợi dụng lên đồng để trục lợi. Họ khẳng định "cần tâm mới có linh", "không có tâm đức thì kêu cho mình còn không được thì kêu cho ai? "Lên đồng" có phải là mê tín dị đoan? Cuộc tọa đàm lấy ý kiến xung quanh thông tư về quản lý lễ hội diễn ra vào chiều 4/7 (do Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa Việt Nam tổ chức) có phần "sôi động" hơn lệ thường. Ngoài các nhà văn hóa, các nhà quản lý còn có sự xuất hiện của một "đối tượng" rất đặc biệt: Những "ông đồng, bà cốt" (hoặc "bà đồng") đến từ 3 miền đất nước. Trước đó, dự thảo thông tư đã gây băn khoăn cho những nhà văn hóa tâm huyết vì rất nhiều điều khoản cấm không phù hợp với thực tế như cấm "lên đồng", cấm đốt vàng mã... Ý tưởng tổ chức cuộc tọa đàm để chính cộng đồng lên tiếng về những điều khoản của dự thảo sẽ nảy sinh từ đó. Nói như GS Ngô Đức Thịnh và PGS Nguyễn Văn Huy thì chính cộng đồng sẽ quyết định thông tư có thể đi vào cuộc sống hay không, nghĩa là khi họ "tâm phục khẩu phục" thì tự khắc những vấn đề "nhức nhối" xung quanh hoạt động tổ chức lễ hội sẽ dần giảm bớt. Mỗi đền, chùa chỉ một hòm công đức Công nhận giá trị đạo Mẫu, nhưng những "ông đồng, bà cốt" có mặt tại buổi tọa đàm này cũng thừa nhận những điều dư luận đã phản ánh từ trước tới giờ là không sai. Từ chuyện hòm công đức tràn lan, chuyện đốt vàng mã quá nhiều, đến chuyện có những "ông đồng, bà cốt" lợi dùng niềm tin mù quáng để thu lợi cho bản thân. Chính những "ông đồng, bà cốt" cũng khẳng định, nếu những người thủ nhang, thủ đền... nhận thức và thay đổi thì sẽ nói được con nhang đệ tử, và sẽ chấn chỉnh được tình trạng lộn xộn ở các đền, phủ... Phát biểu đầu tiên, "ông đồng" Nguyễn Văn Tiến (Hà Nội) thừa nhận: Có quá nhiều hòm công đức trong các đền, chùa, miếu, phủ... mà những người đi lễ bái lại muốn được Phật, được Thánh "chứng" nên thấy bao nhiêu hòm công đức cũng sẵn sàng bỏ vào. "Quan trọng là niềm tin, chứ đâu phải bỏ nhiều tiền mới được chứng, có Phật hay Thánh nào bắt phải bỏ tiền đủ 10 hòm công đức mới chứng đâu?". Theo ông Tiến, mỗi đền chùa chỉ nên có một hòm công đức ở cửa chính, cửa tam bảo, trông sẽ phong quang ngay. Có quá nhiều hòm công đức trong các đền, chùa, miếu, phủ... "Bà đồng" Thanh (Nam Định) thẳng thắn khẳng định: "Phật, Thánh không cần tiền thật", nên đề nghị thủ nhang, thủ đền nên thu dọn bớt ban thờ, có cúng tiến gì thì người đi lễ phát tâm cúng tiến cho đền phủ, chứ Phật, Thánh không cần xin 500 đồng hay 1000 đồng của bất cứ ai. "Tôi bước chân vào đó còn thấy bị xúc phạm", bà Thanh bức xúc. Thủ nhang, thủ đền là bố, mẹ Chủ tịch xã? Chuyện đốt vàng mã trở thành chủ đề nóng của cuộc tọa đàm, bởi mỗi "ông đồng, bà cốt" lại đưa ra những đề xuất khác nhau để hạn chế chuyện đốt vàng mã tràn lan như hiện nay. Điểm đồng thuận nhất giữa họ là không thể cấm hoàn toàn vàng mã vì đó là nhu cầu có thật, "kể cả những nhà ngoại cảm thật sự có khả năng tiếp xúc với người âm cũng cho rằng vẫn cần dùng vàng mã". Nhưng không "ông đồng, bà cốt" nào cho chuyện đốt xe máy, đốt nhà 3, 5 tầng... là cần thiết. "Ông đồng" Phạm Văn Giao (Hải Phòng) cho rằng gần đây nhiều người mới "ra đồng", muốn oai vệ nên đã "dọa" rằng muốn cầu đảo thì phải đốt nhiều vàng mã, và rằng "những người như thế khiến thiên hạ đàm tiếu". "Ông đồng" Nguyễn Văn Hà (Hải Phòng) cho rằng những người quản lý phải quan tâm đến nguyện vọng của người đi lễ, để có quy chế cụ thể, khác nhau cho từng nơi. Chuyện đốt vàng mã tràn lan ở đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh) là bởi người đi lễ ở đó với tâm niệm tìm vật chất, họ nghĩ đốt nhiều vàng mã thì thu được quyền lợi vật chất nhiều, chứ không phải ở đâu cũng thế? Ông Hà đề nghị: "Nhà quản lý hãy dành thời gian hỏi sâu những người làm công việc tâm linh ở đền, phủ để hiểu quy định truyền thống cho từng lễ, rồi hướng dẫn, thuyết phục người ta, mới dần giải quyết được". Ông Hà cũng thừa nhận phải có quy định từ trung ương để tránh chuyện "thủ nhang, đồng đền là bố mẹ Chủ tịch xã", như vậy thì người đi lễ sẽ nghiêng tâm sang lễ người sống, vụ lợi chứ không phải đi lễ vì nhu cầu tâm linh. Giải pháp cho những nơi có nhiều sự bắt chẹt như ở đền Bà Chúa Kho được ông Hà đưa ra là cấm luôn việc bán vàng mã vì "không bán thì sẽ không có chuyện bắt bí hay chèn ép người đi lễ". Cấm có nghĩa là "không quản được"! Những giá trị thật sự của đạo Mẫu nói chung và "lên đồng" - một nghi lễ của đạo Mẫu nói riêng - có dịp được những nhà văn hóa am hiểu đạo Mẫu và những "ông đồng, bà cốt" chia sẻ. Nhiều "ông đồng, bà cốt" không ngại ngần kể chuyện họ bắt đầu "ra đồng" từ khi nào, vì sao họ đã làm những việc gì suốt mấy chục năm qua (công đức, chữa bệnh, giúp công an tìm tội phạm, tìm mộ liệt sĩ, tìm thân nhân mất tích...). Không "ông đồng, bà cốt" nào cho chuyện đốt xe máy, đốt nhà 3, 5 tầng... là cần thiết Cô Trần Ngọc Ánh (Ninh Bình) "thật thà" kể nhà ngoại cảm hay người có khả năng đặc biệt thật ra là người ăn lộc thánh. Thánh mượn xác nhập về, thanh đồng cũng chỉ có căn với một vị thánh. Cô Ánh cũng tiết lộ: "Những lúc Thánh không nhập vào tôi thì tôi cũng chỉ là người thường" và thiết tha đề nghị cần có hành lang pháp lý để hạn chế những "con sâu làm rầu nồi canh", để những người hoạt động tâm linh có thể giúp ích cho xã hội. Điểm khác biệt là những người lên tiếng mạnh mẽ nhất, thiết tha nhất lại không phải những "ông đồng, bà cốt", mà là những người nghiên cứu, như bà Thu Hà - Phó GĐ Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người: "Bộ VH - TT - DL không bao giờ nên đặt vấn đề cấm "lên đồng". Cấm là hỏng đấy, bởi như vậy, có phải giấu diếm người ta vẫn làm". Bà Hà còn "bật mí" việc nhiều bác sĩ, kỹ sư có trình độ đại học, thậm chí nhiều quan chức nhà nước hẳn hoi cũng có vợ "ra đồng": "Cấm tức là không quản lý được, không phát huy được", bà Hà nhận xét. Lộc giời thì lấy phúc chứ không được lấy phần! Các "ông đồng, bà cốt" cũng "bất bình" chuyện nhiều người lợi dụng "lên đồng" để trục lợi, nhưng họ khẳng định "cần tâm mới có linh", "không có tâm đức thì kêu cho mình còn không được thì kêu cho ai?" Theo ông Lê Quang Ngộ (đại diện Hội Thánh mẫu Huế), có đến 70% những người hành nghề đang lợi dụng nghề của mình để kiếm lợi cho bản thân chứ không "phụng sự đạo pháp". "Bà đồng" Phạm Thị Oanh thì phân tích chuyện mỗi "thanh đồng" chỉ được Thánh phân công một nhiệm vụ, "người gọi hồn không tìm được mộ, gọi hồn không phải nhà tiên tri, nhà tiên tri không giỏi về phong thủy", và những giây phút "lên đồng" thật ra là "giây khắc chúng ta trở về với người mẹ thiên nhiên, trở về với tổ tiên, hòa bản thể của chúng ta vào người mẹ thiên nhiên, tìm hiểu thiên nhiên, trân trọng thiên nhiên để sống đúng quy luật thiên nhiên". Bà Oanh cũng đề nghị nên kêu gọi các "ông đồng, bà cốt" đừng "lạm dụng", đừng thiên về cầu cúng, bởi "nhân đâu mà đòi hái quả". Theo bà Oanh, lộc trời thì lấy phải lấy phúc, chứ không được lấy phần. "Ông đồng" Phạm Văn Giao (Hải Phòng) còn cảnh báo, đến với Mẫu có thể cầu sức khỏe, tiền tài, bổng lộc, nhưng "Mẫu là mẫu nghi thiên hạ, là người nhân hậu, có đức, mang quyền lợi cho chúng ta, nên chúng ta phải tu để trả cái ơn cho Mẫu. Bản thân phải tu trước, đừng ăn gian nói dối, đừng làm điều thất đức". Theo ông, nếu các "ông đồng, bà cốt" không sống đúng với "ơn của Mẫu" thì sẽ chịu "quả báo". Mỗi người một chia sẻ, một băn khoăn, nhưng tất cả đều khẳng định chính những thủ nhang, thủ đền, những "ông đồng, bà cốt" phải nhận thức cho đúng, phải gắn kết với nhau để xã hội hiểu và tôn trọng đạo Mẫu hơn.1 like
-
Đừng biến tín ngưỡng thành cuồng si Tác giả: Khánh Linh Tuanvietnam.vn Bài đã được xuất bản.: 16/03/2010 06:00 GMT+7 Vấn đề phức tạp trong thực hành tâm linh ở nước ta hiện nay có phải do điều kiện kinh tế thị trường, hàng hoá quy định hay trước hết do nhận thức không đầy đủ ở mỗi người? - PGS Nguyễn Văn Huy, nguyên GĐ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, đặt câu hỏi. LTS: Gần đây, những lễ hội vốn quy mô làng xã hoặc của một vùng như Bà Chúa Kho, Đền Trần, Phủ Giầy... có tiếng là "thiêng", đột nhiên mở rộng đến... tầm quốc gia. Quan chức khắp nơi công khai đánh xe công về "dự lễ", dân chúng thập phương thấy thế càng đổ dồn về "ăn mày lộc thánh". Quan niệm "dương sao âm vậy" gần như đã bị thay bằng "quan sao dân vậy". Nhưng quan chức cấp cao công khai đến lễ hội có nhằm gửi "một thông điệp" nào đó cho dân chúng? Dù là cố ý hay vô tình thì họ cũng đã góp phần làm biến tướng lễ hội và đang chi phối đời sống tín ngưỡng dân gian. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, VietNamNet đã có cuộc trao đổi với PGS Nguyễn Văn Huy, nguyên GĐ Bảo tàng Dân tộc học VN. Lẫn lộn giữa tư cách cá nhân và nhà nước - Tôi rất băn khoăn việc hàng loạt lãnh đạo nhà nước, từ cấp cao nhất đến các quan chức các bộ ngành, các địa phương thực hành việc khai ấn ở Lễ khai ấn đền Trần hay làm lễ tịch điền từ vài năm nay. Chưa kể người thực hiện nghi lễ khai ấn lại là những lãnh đạo cấp cao (năm ngoái là Chủ tịch nước, còn năm nay là Phó thủ tướng). Ai cũng biết lễ Khai ấn đền Trần là nghi lễ mang tính tâm linh, tín ngưỡng trong dân gian. Nhiều đền - chùa - phủ khác cũng có những nghi lễ đầu năm của họ. Dù có rất thiêng thì, theo tôi, đây cũng không phải là câu chuyện khai ấn của cơ quan nhà nước, của việc thực hành một động tác cụ thể là đóng dấu khai ấn của bất cứ vị quan chức nào đại diện cho nhà nước. Đó hoàn toàn là công việc của nhà đền. Với sự tham gia của hàng loạt quan chức không phải với tư cách cá nhân mà với tư cách nhà nước phải chăng là đang can thiệp quá sâu vào hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo; vô hình chung tạo ra sự khuyến khích, thúc đẩy người dân trong toàn xã hội, biến tín ngưỡng thành một phong trào cầu xin chức vị ở ngôi đền này. Lễ tịch điền xưa là nhà vua với tư cách là thiên tử của đất nước nông nghiệp, là con trời nên ông ta mở luống cày đầu năm mang ý nghĩa giao hòa Trời- Đất, cầu cho những mùa vụ bội thu, sinh sôi nảy nở. Thái Lan, Campuchia là nước quân chủ, còn vua nên vẫn giữ lễ này. Ở Việt Nam, Lễ này đã mất từ lâu, ý nghĩa và bối cảnh không còn nữa, nay lại phục hồi như một di sản văn hoá có đúng không? Nếu muốn thực hành khuyến nông thì có lẽ có nhiều cách làm hay hơn. Cho nên rất cần xem lại một cách cơ bản câu chuyện ranh giới giữa tín ngưỡng, tôn giáo và nhà nước hiện nay. PGS Nguyễn Văn Huy. Ảnh: Khánh Linh - Theo PGS thì cá nhân các nhà lãnh đạo không nên có hành vi khuyến khích việc thực hành tín ngưỡng? Tôn giáo, tín ngưỡng là sự lựa chọn của mỗi người. Nhà nước cần có thái độ rõ ràng, bình đẳng giữa các tôn giáo, chứ không thể thiên về tôn giáo này trong khi lại bỏ quên hay xem nhẹ tôn giáo khác. Hơn nữa một lãnh đạo cơ quan nhà nước dù ở cấp nào có thể tham gia một nghi lễ với tư cách cá nhân, không tiền hô hậu ủng, không quay phim chụp ảnh, mà chỉ như một "tín đồ", thì đó là câu chuyện của cá nhân vị lãnh đạo ấy. Như Tổng thống Hoa Kỳ George Bush khi đến Hà Nội dịp APEC cũng đi lễ nhà thờ Cửa Bắc như một tín đồ, chứ không phải với tư cách tổng thống. Còn ở ta đang có sự lẫn lộn giữa tư cách cá nhân và tư cách đại diện nhà nước. Khi lãnh đạo nhiều cấp cùng có mặt tại Lễ khai ấn đền Trần thì phải phân chia thứ bậc: thẻ đỏ mới được vào trong, thẻ vàng chỉ ở vòng ngoài; rồi ai được có ấn trước, ai phải chờ sau... Thứ bậc của hệ thống chính trị lại trở thành thứ bậc trong một nghi lễ tín ngưỡng dân gian. Lãnh đạo được ưu tiên sắp xếp vào trong, ai cũng sẽ có ấn, thì làm sao trách việc người dân chen lấn xô đẩy ở ngoài? Quá nhiều lãnh đạo có mặt ở các sự kiện Phật giáo, những người của các tôn giáo khác sẽ cảm thấy thế nào? Tôi vẫn cảm thấy có chuyện gì đó chưa ổn nếu không suy xét lại câu chuyện này một cách nghiêm túc, chúng ta sẽ vô tình làm mất đi sự bình đẳng văn hóa trong đời sống tâm linh. Quang cảnh một lễ Khai ấn đền Trần. Ảnh: TTXVN Làm ăn với thần thánh? - Bản thân PGS nhìn nhận thế nào về Lễ khai ấn đền Trần nói riêng, và các nghi lễ tín ngưỡng nói chung? Mùa xuân này tôi đi hội Đền Sóc, cũng mang cành lộc "hoa tre" vàng về cắm ở nhà, vừa như một kỷ niệm đẹp của một dịp đi hội, vừa có ý đặt niềm tin ở lộc Thánh - Thánh Gióng. Nhiều đền, chùa, phủ cũng phát "lộc" theo hình thức này hay hình thức khác. Chính điều này góp phần tạo ra những nét riêng cuốn hút. Tại sao tất cả phải dồn về đền thờ Bà Chúa Kho, chùa Hương hay đền Trần trong thời điểm cao điểm nhất? Phải chăng chỉ giờ khắc ấy mới là linh thiêng như dân gian vẫn quan niệm? Thế những thời điểm khác cũng ở đền ấy, chùa ấy thì sao? Tôi cho rằng rất cần làm cho xã hội nhận thức đúng đắn về tâm linh, để không vượt quá ngưỡng cần có, nếu không sẽ trở thành cuồng si. Niềm tin tâm linh có thể cho con người thêm sự quân bình, thanh thản trong cuộc sống, chứ không phải lên đền, chùa, phủ chỉ để cầu chức vụ, cầu tiền bạc bằng mọi giá. Nhìn cách người ta chen chúc ở các đền, chùa, phủ hiện nay ở nhiều nơi ở đồng bằng Bắc bộ, dễ có cảm giác đây là chốn để làm "kinh tế" với thần thánh, nó khác với truyền thống xưa kia và khác cả với nhiều nơi khác ở nước ta. Đó cũng là điều suy nghĩ. Một vấn đề rất cần đặt ra, không lẽ niềm tin tín ngưỡng của người Kinh lại lớn hơn, mạnh mẽ hơn so với niềm tin tín ngưỡng của người Khmer, người Chăm... cùng trên đất nước ta? Họ cũng có đền, chùa nhưng họ giữ được cốt cách, lề lối mà không bị lôi cuốn "ào ạt", bị "tha hóa" như ta thấy. Cùng một môi trường xã hội như nhau nhưng tại sao trong nhà thờ Công giáo lại giữ được kỷ cương, không có những biến tướng thiên về "kinh tế' như ở nhiều đền chùa hay tín ngưỡng dân gian (như đạo Mẫu...). Còn xin nhìn ra nước ngoài, những nước Phật giáo phát triển mạnh như Ấn Độ, Thái Lan, Lào và cả Trung Quốc nữa... cũng hoàn toàn không có cách ứng xử như người Việt? Nhiều nước phát triển trước chúng ta về kinh tế thị trường nhưng mà họ lại vẫn giữ được niềm tin trong sáng hơn, thuần tuý tâm linh hơn? Họ đến đền chùa để cầu mong đạt được hạnh phúc, bình an, phát đạt hay thăng tiến một cách rất trân trọng, rất văn minh mà không quá phụ thuộc vào tiền bạc và lễ vật dâng cúng. Cho nên vấn đề phức tạp trong thực hành tâm linh ở nước ta hiện nay có phải do điều kiện kinh tế thị trường, hàng hoá quy định hay trước hết do nhận thức không đầy đủ ở mỗi người? Đây là những câu hỏi cần phải nghiêm túc đặt ra. Quang cảnh một Lễ tịch điền. Ảnh: tuoitre.com.vn Quan trí bị dân trí tác động? - Theo PGS, giữa những tín đồ của tôn giáo, tín ngưỡng và những người hành nghề tôn giáo tín ngưỡng ở nước ta, ai làm hỏng ai? Tôi đã có dịp trò chuyện với một vài nhà sư tu nghiệp nhiều năm ở Thái Lan, Ấn Độ về, họ kể bên đó việc tu hành theo giáo lý nhà Phật rất nghiêm. Họ bày tỏ nỗi băn khoăn dường như là chuyện tu hành của ta có nhiều cái "hổng", bị biến tướng, ở đâu đó mang nhiều màu sắc vừa "hàng hóa" vừa tà thuật. Thực tế hiện nay nhiều quan chức không chỉ đi lễ hay cung tiến cho đền chùa, mà họ còn bị "điều khiển" bởi các vị hành nghề tín ngưỡng thông qua hệ thống phong thủy, từ cổng cơ quan nên mở hướng nào, từ chỗ ngồi, cửa ra vào hướng vào đâu, đến việc phải xuất hành giờ nào cũng có người tư vấn. Chính tác động này khiến nhiều người bị phụ thuộc, có cảm giác không làm chủ được tình thế, nếu năng lực bản thân không đủ thì càng phải dựa vào những "thế lực" thần linh, cùng với việc mua quan bán chức mà xã hội đang lên án chẳng hạn? - Biết đâu nhiều lãnh đạo có mặt ở những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo chỉ hoàn toàn vì vô tình? Theo PGS, lãnh đạo sẽ có vai trò gì trong việc chấn chỉnh sự nhộn nhạo ở các nghi lễ, lễ hội? Quan trọng nhất vẫn là nhận thức của mỗi cá nhân dựa trên nền tảng văn hóa của chính mình và của xã hội. Muốn vậy vai trò của giáo dục là vô cùng quan trọng. Rất cần những người lãnh đạo sáng suốt, minh triết để dẫn dắt xã hội theo đúng hướng, kể cả trong văn hóa. Công bằng mà nói, quan trí cũng bị dân trí tác động. Lúc ban đầu thời Đổi mới, người dân đổ xô đến các đền phủ trước (như đền bà Chúa Kho, phủ Giày) thành phong trào, thành nhu cầu mới của xã hội, rồi mới lan đến quan chức. Nhưng khi quan chức cũng đua nhau có mặt thì lại tác động mạnh hơn nhiều đến đông đảo mọi người. Nếu lãnh đạo dùng thế mạnh dẫn dắt của mình để làm gương cho xã hội, ứng xử bình đẳng, chừng mực với mọi hoạt động tôn giáo tín ngưỡng thì chắc người ta cũng sẽ học theo. ---------------------------------- Nhời bàn của Thiên Sứ. Đoạn trên thì tôi chẳng có ý kiến gì. Nhưng có đoạn này tôi thấy hơi khó hiểu: Như vậy, với vị phó giáo sư này thì phong thủy trở thành một hệ thống tín ngưỡng? Tôi không hiểu được vị này suy nghĩ như thế nào khi cho rằng: Cổng cơ quan mở hướng này thì mê tín dị đoan và tín ngưỡng hơn mở chỗ khác, ngồi hướng này thí là tín ngưỡng còn hướng khác thì không? Nản quá nhỉ? Phong thủy là một khoa học căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một phương pháp hoặc lý thuyết khoa học. Có lẽ vị giáo sư này kiến thức hơi không đồng bộ. Thảo nào, vào cái viện bảo tàng do vị này quản lý chẳng có gì để xem.1 like
-
:D . Khó giữ giới nhỉ. :D . Tốt nhất là không nên phạm vào ngũ giới. Và cái tối quan trọng là xúc phạm, chửi bới vị thầy gốc của mình. :D :D / 5 giới thì còn có đường sám hối. :D cái kia thì chẳng thể nào có được một con đường sám hối, tuyệt đối không. :D1 like
-
Nguồn : http://www.trungtamhotong.org/NoiDung/ThuVien/CuocDoiLa/index.htm Cuộc Đời Là Một Hành Trình Tâm Linh oo0oo “Cuộc đời là một chuỗi những bài kiểm tra. Khó khăn chính là những bài kiểm tra. Chúng ta đang ở trong một trường đời. Toàn bộ cuộc đời chúng ta là một trường học. Từ khi mới lọt lòng sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta đều học ở dưới mái trường này.” Đó là một trường học không chính thức. Không có giảng đường, phòng học. Tất cả mọi thứ chúng ta nhìn, mọi thứ chúng ta nghe, mọi thứ chúng ta cảm nhận, tất cả hạnh phúc và khổ đau, tất cả mọi vấn đề khó khăn trong cuộc sống, mọi thành công và thất bại đều là bài học cho chúng ta. Khi chúng ta thành đạt, đó là một bài kiểm tra. Nó kiểm tra và thử thách mức độ khiêm tốn của chúng ta khi đứng trước thành công và vinh quang. Hầu hết chúng ta đều rất tự hào, nở mặt mở mày và tự cao tự đại trong giờ phút đó: “Ôi, tôi đã thành công, tôi đã thành đạt. Trong khi khối kẻ khác thì đang thất bại”. Vì vậy, chúng ta không còn đối xử với mọi người một cách trân trọng nữa. Chúng ta trở thành những kẻ hãnh tiến và ngã mạn. Cũng như vậy, thất bại cũng là một bài kiểm tra. Chúng ta có thể duy trì một nội tâm quân bình, thanh thản ra sao khi đứng trước thất bại? Chúng ta có thể giữ thăng bằng mà không cảm thấy trầm uất, khổ đau, hụt hẫng, không cảm thấy thua kém và bất hạnh vì không thành đạt được không? Nó cũng là một bài kiểm tra để cho thấy liệu bạn có cố gắng đứng dậy được nữa hay không. Bạn thất bại, bạn cố gắng đứng lên. Rồi bạn lại thất bại, và lại cố gượng đứng lên lần nữa. Đây là một bài kiểm tra để xem bạn có thực sự trưởng thành, có đủ dũng khí và tự tin vào chính bản thân mình và tin vào cuộc đời hay không; để xem bạn có cố gắng đứng lên được nữa hay không. Hầu hết mọi người đều không có niềm tin vào cuộc đời. Họ cũng không tự tin vào chính bản thân mình nữa. Đây là những điều chúng ta cần phải suy nghĩ thật sâu sắc. Khi đã học cách tin tưởng vào cuộc đời và tự tin vào chính mình, từ khi đó tôi đã học hỏi được nhiều hơn và dễ dàng hơn. Nó là một trò chơi, nhưng là một trò chơi thực sự nghiêm túc. Khi bạn đối mặt với khó khăn và thất bại, điều quan trọng là phải hiểu nó một cách thật sâu sắc và không để mình bị hụt hẫng và trầm uất. Cố gắng tìm ra phương cách tốt nhất để vượt qua nó và tiếp tục thực hành như thế nhiều lần. Cuộc đời là một chuỗi những bài kiểm tra, nhưng bạn sẽ biết khi nào mình vượt qua các bài kiểm tra đó một cách thành công; bạn sẽ có thể nhìn lại chúng như là những kinh nghiệm bổ ích cho mình! Khi đối diện với những tình huống khó khăn trong cuộc sống, bạn thường nghĩ: “Trời ơi, sao tôi lại không may đến thế! Tôi đã làm những gì đến nỗi phải chịu khổ thế này?”. Bạn than phiền, đổ lỗi cho nghiệp chướng của mình, trách móc cha mẹ, vợ, chồng mình, hay đổ lỗi cho cả chính quyền. Bạn ca thán ngày một cao giọng và to tiếng, ngày càng nói dài, nói dai hơn. Khi bạn càng than trách, nó càng cho thấy rằng bạn đang thi rớt bài kiểm tra đó. Đây là một bài kiểm tra sự trưởng thành của bạn, sự nhẫn nại của bạn, kiểm tra tâm xả ly và trí tuệ của bạn. Bất cứ khi nào đối diện với khó khăn, bạn hãy tự nhắc nhở mình rằng: “Đây là một bài kiểm tra. Đây là một thử thách cho mình. Tôi phải học được điều gì đó từ khó khănnày để trở nên chín chắn và trưởng thành hơn”. Tôi thích nói về bản thân mình, bởi vì đó là con người mà tôi hiểu rõ hơn cả. Cuộc đời tôi là một hành trình đầy những khó khăn, cơ cực. Từ khi còn là một cậu bé, tôi đã phải gánh chịu biết bao nỗi khó khăn khổ ải trên đời, hết cơ hàn này đến nghiệp chướng kia. Nhưng tôi cũng đã học hỏi được rất nhiều từ chúng. Vì vậy, đó cũng là lý do tôi muốn khuyến khích các bạn hãy làm như thế. Cho dù những khó khăn, vất vả bạn đang phải trải qua đó có nặng nề đau đớn đến đâu, cũng hãy cố gắng duy trì một mức độ quân bình, buông xả nào đó trong tâm. Hãy trầm tĩnh lại một chút và xem xét xem mình có thể học hỏi được gì từ những hoàn cảnh đó không. Hãy chú ý xem mình có thể phát triển được các phẩm chất nội tâm nào đó không. Hãy cố gắng để hiểu biết hơn, yêu thương và khoan dung, tha thứ hơn và cố gắng kham nhẫn, chịu đựng thêm được chút nào hay chút ấy. Mỗi khi chúng ta có khó khăn, khúc mắc với người nào đó, chúng ta thường đổ lỗi cho họ. Chúng ta buộc tội và trách móc họ là đã không làm đầy đủ mọi thứ cho mình. Đôi khi chúng ta cũng tự trách móc chính bản thân mình nữa: “Mình đúng là đồ ngu, ai lại tự đi rước vạ vào thân như thế”. Chúng ta không thể tha thứ cho mình và cảm thấy tự xấu hổ cho bản thân mình: “Trời ơi, rồi mọi người sẽ biết hết, mình là kẻ ngu; làm sao mình có thể phơi cái mặt này ra trước bàn dân thiên hạ được nữa. Mình phải trốn đi một nơi nào đó thật xa, đến chỗ nào không ai biết đến mình nữa”. Rất nhiều người đã làm như thế. Họ chạy trốn. Họ không còn muốn gặp lại bạn bè và người quen nữa, bởi vì họ thấy tự hổ thẹn trong lòng. Nhưng nếu bạn có thể nhìn kỹ những điều này một cách trầm tĩnh trong tâm xả, bạn sẽ qua được kỳ thi này và sẽ quay lại nhìn nó như là một kinh nghiệm tốt cho mình. Bạn sẽ nhìn lại nó như là một thành công của mình. Bạn đã thành công. Bạn đã học hỏi ra điều gì đó trong đời. Ẩn chứa trong mỗi hoàn cảnh mới mà chúng ta đang phải trải qua là một bài học tâm linh cần học hỏi. Toàn bộ cuộc đời này là một bài học tâm linh mà chúng ta sinh ra trên đời để học bài học đó. Chúng ta có mặt ở đây, trên thế gian này, trong kiếp nhân sinh này, trong thời đại này là để học hỏi ra những gì cần học hỏi. Khi đọc những câu chuyện kể về những người có thể nhớ được kiếp trước của mình, tôi thấy rất nhiều người trong số họ diễn đạt cùng một tư tưởng như nhau. Một trong những tư tưởng đó là: họ sinh ra ở đây, trên cõi đời này là để hoàn thành một công việc gì đó, để học hỏi một điều gì đó, và tôi cũng cảm thấy y như thế đối với cuộc đời mình. Tôi sinh ra ở đây, mang cái thân người này, là để học hỏi ra một điều gì đó, để hoàn thành một bổn phận, một trách nhiệm nào đó hay bất cứ điều gì bạn có thể gán cho nó. Khi nhìn cuộc đời theo quan kiến đó, từ góc độ đó, tất cả mọi thứ trong cuộc đời bạn sẽ trở nên vô cùng ý nghĩa. Một điều tôi đã từng đọc và ghi nhớ rất sâu trong tâm là một câu nói rất giá trị và rất hay này: Tất cả mọi thứ trên thế gian này đều ẩn chứa những ý nghĩa riêng của nó. Bởi vì chúng ta chỉ thấy một cách quá hời hợt và nông cạn, nên chúng ta không thể thấy được ý nghĩa sâu sắc đằng sau những gì đang diễn ra, và do vậy mọi thứ trở thành vô nghĩa đối với chúng ta. Rất nhiều người đã hỏi tôi rằng: “Cuộc đời có ý nghĩa gì?”. Tôi có thể trả lời câu hỏi đó như thế nào được đây? Bởi vì điều đó còn phụ thuộc vào mức độ chín chắn và trưởng thành của chính bạn. Nó phụ thuộc vào mức độ nhiều ít của ý nghĩa mà bạn đã đặt trên cuộc đời mình. Đừng hỏi cuộc đời có ý nghĩa gì. Mà trước hết hãy tự hỏi mình xem mình coi cuộc đời này có ý nghĩa như thế nào. Chính chúng ta cho cuộc đời ý nghĩa của nó. Đừng đi hỏi người khác về ý nghĩa của cuộc đời. Hãy đem đến cho tất cả mọi thứ những ý nghĩa của chính mình. Điều này rất quan trọng. Mỗi khi có điều gì đó xảy ra, hãy cố gắng tìm ra: “Nhất định phải có một ý nghĩa nào đó đằng sau kinh nghiệm tâm linh này; cần phải tìm hiểu xem tại sao mình phải đối diện với hoàn cảnh này”. Dù xấu hay tốt, tất cả mọi kinh nghiệm, mọi hoàn cảnh đều có ý nghĩa riêng của nó. Nếu không thấu hiểu ý nghĩa của nó một cách đúng đắn, rất có thể chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội, không tận dụng được hoàn cảnh đó, để rồi lại phải vướng vào rắc rối nữa. Cho dù chúng ta có được kinh nghiệm xấu hay tốt, điều quan trọng là phải nhìn sâu vào nó và tìm hiểu xem: “Điều này có ý nghĩa gì đối với mình đây?”. Ý nghĩa cho mình chứ không phải cho những người khác. Chúng ta thường có tật cứ muốn tìm kiếm ý nghĩa cho mọi người và đôi khi người ta lại chẳng hề đồng ý với chúng ta về cái ý nghĩa đó. Vì vậy, đừng hỏi xem có ai đồng ý với ý nghĩa của mình hay không, mà hãy chỉ nên tự hỏi chính mình mà thôi. Có lúc tôi đã làm được những việc thật sự rất ý nghĩa đối với chính mình. Tuy thế, hầu hết tất cả bạn bè của tôi đều nói: “Cái đó thật vô nghĩa. Tại sao anh lại làm việc đó? Chắc anh điên rồi!”. Nếu tôi nghe lời họ, thì hẳn là tôi đã đánh mất ý nghĩa của mình rồi. Hầu hết mọi người chúng ta đều có xu hướng tin vào những gì người khác nghĩ và bảo chúng ta làm, hơn là tự tin vào chính bản thân mình. Chúng ta không có đủ tự tin. Hãy bỏ qua một bên những gì người khác nói. Bạn có thể có những tiêu chuẩn giá trị khác với gia đình và bạn bè của bạn và họ có thể sẽ chỉ trích hay chê cười bạn. Dẫu sao, tất cả những người bước chân đi trên con đường phát triển tâm linh này đều vướng phải cái cảnh bị hiểu lầm như thế. Bạn cần phải tự tin vào chính mình: “Tôi biết mình đang làm gì và tôi biết điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với tôi. Nếu nó chẳng có ý nghĩa gì đối với những người khác, thì đó chẳng phải là vấn đề của tôi”. Chịu sự kiểm tra và thử thách là điều rất tốt. Chúng ta trưởng thành và học hỏi được từ chính việc vượt qua các bài kiểm tra đó. Chúng ta cắp sách đến trường, chúng ta học và chúng ta thi. Chúng ta vượt qua được kỳ thi đó và học lên lớp cao hơn, đây cũng chính là cách chúng ta sống cuộc đời mình. Mỗi khi vượt qua được một bài thi, chúng ta lại học hỏi và trưởng thành lên. Chúng ta trưởng thành và chín chắn, không đến nỗi nhanh như tốc độ lão hóa của mình. Một số người ngày càng già đi, nhưng họ không trưởng thành. Một số người mặc dù còn rất trẻ, song họ đã thực sự trưởng thành. Sự trưởng thành và chín chắn của bạn không phụ thuộc vào số năm bạn đã sống trên đời. Sự trưởng thành phụ thuộc vào việc bạn đã học hỏi được bao nhiêu từ những kinh nghiệm sống của chính mình, chứ không phải từ sách vở, không phải từ những người khác – mà từ chính cuộc đời của bạn. Một trong những niềm vui của cuộc sống là: biết rằng mình đang trưởng thành, mỗi ngày trôi qua bạn đang lớn lên. Tôi coi tất cả những bài kiểm tra như là những kinh nghiệm tốt cho mình. Tôi hy vọng là các bạn cũng có thể tự nói với mình như thế. Một người bạn đã nói điều này với tôi và tôi rất thích. Có một thời tôi đã nghĩ rằng, thật khó chịu khi cứ phải đương đầu với một vấn đề khó khăn nào đó. Tôi thường cố gắng tống khứ nó đi hoặc là đẩy cho ai đó giải quyết thay mình. Mỗi khi phải đối mặt với khó khăn, chúng ta thường có tâm lý muốn đẩy nó cho người khác giải quyết thay; cha, mẹ sẽ giải quyết việc đó cho mình. Hoặc giả như bạn đã có gia đình thì lại trông chờ chồng mình, vợ mình sẽ làm việc đó thay mình. Đôi khi chúng ta còn trông chờ vào cả con cái sẽ gánh vác hộ cho mình nữa. “Trước kia tôi thường tìm cách lảng tránh khó khăn hoặc đẩy cho người khác giải quyết thay mình”. Người đó sẽ thật sự là một con người hạnh phúc khi có thể nói rằng: “Nhưng cái thời ấy đã xưa rồi”. Họ không còn trông chờ người khác sẽ giải quyết vấn đề thay cho mình nữa. Ngày đó quả là một ngày vĩ đại trong cuộc đời tôi, cái ngày tôi đã phát hiện ra mục đích và ý nghĩa kỳ diệu của mọi khó khăn. Tất cả mọi khó khăn đều có mục đích và ý nghĩa của nó. Nó là một bài học mà chúng ta cần phải học hỏi để trưởng thành. Đúng thế, nó có một ý nghĩa thật tuyệt vời. Một số người thường cầu mong cho mình được sống một cuộc đời bình yên, xuôi chèo mát mái, không khó khăn, không gian khổ cơ hàn. Nhưng tôi thì không hề cầu mong một cuộc sống như thế cho bất cứ người nào trong các bạn. Cái tôi nguyện cầu cho các bạn là có một được nghị lực phi thường để giải quyết mọi khó khăn của mình một cách ý nghĩa để trưởng thành lên. Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệm và ý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng. Bạn cần chánh niệm và bạn cần phát triển trí tuệ. Bạn cần phải luôn luôn sẵn sàng, luôn luôn được chuẩn bị, luôn luôn tỉnh thức và không phản ứng một cách máy móc. Khi chúng ta phản ứng một cách máy móc, chúng ta không giải quyết được các vấn đề của mình một cách có ý nghĩa, bởi vì các phản ứng máy móc đa phần diễn ra một cách vô thức và thường là không có trí tuệ. Các phản ứng máy móc thường là không thích hợp, không khéo léo. Mỗi khi đối diện với một vấn đề khó khăn, chúng ta phải tự nhắc nhở mình: “Hãy chánh niệm, hãy chánh niệm đi”. Hãy thong thả, khoan khai. Hãy trầm tĩnh và đừng nghĩ nó là vấn đề của riêng bản thân mình. Đừng phản ứng lại nó từ những tình cảm cá nhân. Hãy nhìn nó từ một tầm nhìn cao hơn. Hãy chánh niệm, bởi vì khi chánh niệm, bạn sẽ có cảm giác mình đứng trên tất cả mọi sự. Bạn có thể thấy được tất cả mọi thứ như thể chúng đang diễn ra dưới tầm mắt mình. Bạn có thể thấy bao quát được tất cả; thấy được các sự việc liên kết với nhau ra sao, cái gì sẽ xảy ra tiếp theo, mọi người đang làm gì, những lực tác động nào tham gia và diễn biến tình hình thực tế ra sao. Hãy cố gắng có được cái tầm nhìn đó nhiều hơn mỗi ngày. Điều tốt đẹp nhất bạn có thể làm được là: sớm mai thức dậy sớm, hành thiền và tự điều chỉnh mình vào trong trạng thái tâm đó. Trạng thái tâm là rất quan trọng. Khi bạn ở trong trạng thái tâm đúng đắn, thích hợp thì bất cứ sự việc không may nào xảy đến, bạn cũng đã sẵn sàng để ứng phó. Chánh niệm đem đến cho bạn một trạng thái tâm xả, một nội tâm quân bình, khiến bạn trở nên trầm tĩnh và xả ly. Xả ly không có nghĩa là bạn bàng quan với mọi thứ. Xả ly nghĩa là không ngã mạn, tự cao, không nhìn nhận sự việc dưới góc độ cá nhân và không bị dính chấp vào kết quả. Khó khăn là những kinh nghiệm tốt để chúng ta học hỏi và trưởng thành. Nếu không muốn đối diện với khó khăn, bạn sẽ không bao giờ học hỏi được điều gì, bạn sẽ không thể trưởng thành, cho dù con người bạn đã lớn tuổi, niên cao lão hạp đến mấy. Tôi biết một người, năm nay bà ấy cũng chừng 50 tuổi. Bố bà ấy đã chết cách đây 3 năm. Khi đó bà ấy 47 tuổi. Bà ta khóc rất nhiều và than rằng: “Bố tôi chăm sóc tôi như thể tôi còn là một đứa bé, cho đến tận khi ông chết và đến bây giờ tôi vẫn chưa trưởng thành và chín chắn được”. Bố bà giải quyết tất cả mọi công chuyện trong gia đình. Ông là người rất gia trưởng và có quyền uy lớn. Ông quyết định thay cho tất cả mọi người. Không ai cần phải quyết định một điều gì cả. Khi ông mất đi, trong nhà không ai biết phải làm gì. Một cuộc đời không khó khăn, khúc mắc là một cuộc đời cằn khô và vô vị. Đó là một cuộc đời thật ngây ngô, ấu trĩ, vô vị và vô nghĩa, không hề có cơ hội trưởng thành về mặt tâm linh. Thực ra, chính những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống mới là những cơ hội để chúng ta học hỏi và phát triển các phẩm chất tâm linh của mình. Khi người ta cư xử tệ bạc với mình, thì đó là một cơ hội để mình chánh niệm mà không sân hận, không oán ghét họ và không phản ứng quá mức. Khi cuộc sống trở nên khó khăn, bất thuận lợi thì đó là một cơ hội để chúng ta làm cho cuộc sống của mình trở nên đơn giản hơn. Tất cả mọi khó khăn đều là cơ hội. Nếu bạn hiểu được điều này và xem tất cả mọi vấn đề chỉ là cơ hội cho mình, thì khi đó cuộc đời bạn sẽ ngày càng có ý nghĩa hơn. Để coi tất cả mọi vấn đề, mọi hoàn cảnh khó khăn như là cơ hội, chúng ta cần phải có chánh niệm. Chúng ta phải luôn luôn chánh niệm. Chánh niệm phải luôn luôn có mặt sẵn sàng trong tâm bạn. Chúng ta phải tận dụng tất cả mọi cơ hội để sống với lý tưởng tâm linh của mình. Lý tưởng tâm linh của bạn là gì? Khi còn trẻ, tôi có rất nhiều lý tưởng. Tôi thường ôm ấp một lý tưởng nào đó, rồi sau một thời gian lại thấy không thỏa mãn với nó và vứt bỏ nó đi. Đôi khi tôi sống mà chẳng có một lý tưởng nào để sống vì nó, hay sống với nó cả. Một cuộc sống như vậy quả là một cuộc sống vô định hướng, mê mờ, một cuộc sống đau khổ. Rồi tôi lại cố gắng tìm một cái gì đó để đáng sống vì nó, nhất định phải tìm ra một cái gì đó xứng đáng làm mục đích và hướng đi cho cuộc đời mình chứ. Trong quãng đời đó, tôi còn khá thực dụng, chạy theo vật chất và cuộc sống của tôi khi đó hầu như vô nghĩa, bởi vì một quan niệm sống thực dụng, nghiêng nặng về vật chất sẽ làm cho cuộc sống của bạn trở thành vô nghĩa. Tôi đã cố tìm kiếm một điều gì đó khiến cho cuộc sống của mình có ý nghĩa, nhưng rất khó để tìm cho ra một lý tưởng, một mục đích thật sự cho mình. Tuy nhiên, khi bắt đầu nghiên cứu giáo lý đạo Phật, dần dần tôi đã bắt đầu trân trọng, đánh giá cao một số điều chỗ này chỗ kia trong đó. Tôi chưa thể hiểu hết được tất cả mọi điều. Thời đó tôi là một kẻ hoài nghi và rất cứng đầu, cứng cổ không dễ chấp nhận bất cứ điều gì từ bất cứ một người nào. Tôi luôn sẵn sàng để không tin vào bất cứ ai, để luôn nghi ngờ tất cả. Tuy nhiên, tôi đã dần dần học hỏi ra một điều gì đó. Chẳng hạn, tôi đã biết đặt mình vào vị trí của người khác mà suy nghĩ và lý tưởng của tôi lúc đó là: không làm tổn thương đến bất cứ một ai cả. Tôi không muốn bị tổn thương, vì vậy tôi nghĩ điều quan trọng đối với mình là không được làm tổn thương bất cứ ai. Đối với tôi, không muốn bị tổn thương nghĩa là tôi không muốn bị người khác lừa dối, không muốn bị xúc phạm, sỉ nhục, không muốn bị đối xử thiếu tôn trọng. Do đó, nếu tôi cũng đối xử một cách thiếu tôn trọng với người khác, nếu tôi làm tổn thương đến họ thì điều đó có nghĩa rằng tôi là kẻ hai mặt. Đó là điều không tốt. Vì vậy tôi đã nuôi dưỡng lý tưởng này và cho đến nay nó vẫn là lý tưởng sống của tôi. Nếu tôi muốn được yêu thương, thì tôi phải là một người dễ thương. Tôi phải học cách yêu thương người. Điều đó là rất khó và tôi vẫn còn đang học cách để yêu thương vô điều kiện. Nếu tôi muốn được người khác tôn trọng thì tôi phải biết tôn trọng người. Nếu tôi muốn được đối xử một cách chân thành thì tôi cũng phải đối xử chân thành với người, và điều đó đã trở thành lý tưởng của tôi. Hồi tôi còn học trong trường đại học, mỗi khi phải khai sơ yếu lý lịch, đến mục: “Tôn giáo của bạn là gì?”, tôi luôn luôn khai là: “Vẫn chưa theo tôn giáo nào!”. Hồi đó tôi vẫn chưa theo một loại tôn giáo nào cả. Điều đó rất thật bởi vì lúc đó tôi vẫn chưa thể quyết định mình sẽ tin vào cái gì. Tôi không hề tin bất cứ loại tôn giáo nào. Nhưng khi bạn bè tôi hỏi: “Anh theo tôn giáo nào?” Tôi trả lời rằng: “Tôn giáo của tôi là sự chân thật”. Về sau, tôi chuyển sang lấy chánh niệm làm lý tưởng cho mình. Khi mọi người hỏi tôi: “Tôn giáo của anh là gì?” Tôi nói rằng: “Tôn giáo của tôi là chánh niệm”. Tôi cố gắng chánh niệm càng nhiều càng tốt, ở mọi nơi chốn, ở bất cứ chỗ nào, vào bất cứ lúc nào, bởi vì nếu bạn chỉ tập giữ chánh niệm từ 7.30 đến 8.30 mỗi tối và bỏ quên nó trong suốt thời gian còn lại, thì bạn chỉ đang tự lừa dối chính mình mà thôi. Hãy tự hỏi mình xem: “Lý tưởng của mình là gì?”, và nếu bạn lấy chánh niệm làm lý tưởng cho mình thì hãy tự hỏi xem: “Mình có thực sự làm điều đó trong suốt thời gian tỉnh thức hay không?”. Bạn hãy cố gắng giữ chánh niệm từ khi mở mắt thức dậy vào buổi sáng cho đến khi lên giường đi ngủ, và mặc dù đôi lúc có thể bạn sẽ quên, bởi vì quên là điều rất tự nhiên và rất dễ xảy ra, nhưng đừng cố tình quên nó. Rồi khi đó hãy tự nhắc nhở mình rằng: “Tôi đang cố gắng hết mình để chánh niệm trong mọi hoàn cảnh, ở mọi nơi, trong mọi lúc”. Và nếu làm được điều đó, bạn sẽ phát triển được tất cả các phẩm chất tâm linh khác của mình. Vì vậy, chỉ cần làm một việc đó thôi, nhưng hãy làm hết mình, đó là điều rất quan trọng. Chúng ta phải tận dụng tất cả mọi cơ hội để sống với lý tưởng tâm linh của mình, không chỉ trong công tác từ thiện, không chỉ trong các công việc chính của đời mình, mà cả ở trong nhà, trên đường phố, nơi chợ búa và trong mối quan hệ tương giao với tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi nơi mọi chỗ. Nếu bạn làm được điều đó, bạn sẽ cảm nhận được sự mãn nguyện luôn hiện hữu trong mình. Mặc dù vẫn biết rằng mình chưa phải là hoàn hảo, song bạn vẫn luôn luôn cảm thấy một sự thanh thản và mãn nguyện trong lòng. Kiến thức, tự thân nó có rất ít giá trị. Mà chính sự vận dụng thực tế của kiến thức mới đem lại giá trị cho nó. Khi bạn đã học hỏi và hiểu được chánh niệm nghĩa là gì, hiểu biết nó qua kinh nghiệm thực tế, bạn sẽ biết được tâm mình. Bạn sẽ thấy được sự khác biệt về phẩm chất của tâm khi chánh niệm và khi thất niệm, chẳng hạn khi đãng trí quên mình hay mơ mộng vẩn vơ, nếu thực sự nhận thức rõ hai trạng thái tâm này, bạn sẽ chọn cái nào? Tất nhiên là bạn chọn chánh niệm. Khi thất niệm, khi đãng trí quên mình, khi mộng ảo giữa ban ngày, bạn đang cho phép tất cả các loại suy nghĩ lộng hành trong tâm, để cho tất cả các loại cỏ dại mọc lan tràn trong ngôi vườn của mình. Thiền tập cũng giống như công việc chăm sóc một mảnh vườn. Bạn phải làm cỏ cho mảnh vườn của mình hầu như mỗi ngày, bởi vì cỏ dại không ngớt theo gió bay vào vườn bạn. Giống cỏ rơi xuống vườn, nếu nhìn thấy khi chúng mới rơi vào, bạn có thể nhặt bỏ được ngay, nhưng nếu không thấy, chúng sẽ nhanh chóng mọc tràn lan. Nếu cỏ còn non bạn vẫn có thể nhổ bỏ dễ dàng, song nếu để yên một thời gian dài, chúng sẽ ăn sâu bén rễ um tùm, rất khó tiệt trừ. Nếu bạn để cỏ dại mọc kín cả khu vườn, hoa của bạn sẽ không có cơ hội lớn lên, bởi vì cỏ dại đã xanh um lấn át cả hoa. Chúng hút hết dinh dưỡng và nước để nuôi cây, hoa sẽ không có đủ chất để mà lớn. Thiền tập cũng giống như công việc làm vườn. Bạn phải chăm sóc mảnh vườn của mình mỗi ngày, làm đất tơi xốp và tưới tắm cho cây. Điều quan trọng là cách chúng ta sống cuộc sống hàng ngày của mình ra sao, cách chúng ta sử dụng những nguồn lực có được một cách hữu ích như thế nào và cách chúng ta đối xử với những người xung quanh với tình thương như thế nào. Chỉ ngồi thu lu một góc hành thiền thì không đủ. Khi chúng ta trở nên nhạy cảm hơn với bản thân mình, chúng ta sẽ nhạy cảm hơn đối với những người khác. Có khả năng yêu thương được mọi người, đó là điều rất quan trọng. Khi thực hành thiền tuệ quán Vipassana, chúng ta cũng nên thực hành một số loại thiền khác nữa để hỗ trợ cho thiền Vipassana. Một trong số đó là thiền tâm từ, tức là tu dưỡng tình thương và tấm lòng từ ái, nhân hậu. Không có tâm từ, chúng ta không thể nuôi dưỡng trái tim mình. Nó cũng giống như việc tưới nước và bón phân, làm cho đất màu mỡ nuôi cây. Tâm từ (mettā) bao gồm cả tâm bi, tâm hỷ và tâm xả (karuna, mudita, upekkha). Niệm tưởng đến các phẩm chất của Đức Phật là lý tưởng cao nhất, là sự thành đạt cao nhất về tâm linh.Yêu mến và kính tín Đức Phật là việc làm rất ý nghĩa, bởi vì Ngài là hiện thân cho mục đích của chúng ta, Ngài là bậc đạo sư của chúng ta. Càng hiểu nhiều về Đức Phật và càng kính yêu Ngài, bạn sẽ càng cảm thấy hạnh phúc hơn trong pháp hành của mình. Một số người chẳng bao giờ chịu nghĩ đến điều đó một cách sâu sắc. Họ nghĩ rằng chỉ cần hành thiền, thế là đủ. Không, chúng ta cần phải yêu thương và kính tín một người nào đó, chúng ta phải tôn vinh một ai đó làm thầy mình. Chọn được một người thầy đúng đắn là điều vô cùng quan trọng. Nếu chọn phải một người thầy sai lầm, bạn sẽ gặp rắc rối lớn. Bạn cũng nên quán niệm cả về cái chết nữa. Bởi cuộc đời này thật quá ngắn ngủi. Điều quan trọng là việc chúng ta sống cuộc sống hàng ngày của mình như thế nào. Tất cả mọi phương diện trong cuộc sống của chúng ta đều có liên kết chặt chẽ với những phương diện khác.Tất cả mọi mặt trong cuộc sống của chúng ta đều có liên quan, kết nối với những mặt khác của cuộc sống. Chân lý này là nền tảng cơ bản cho một cuộc đời giác ngộ. Tôi có thực sự trung thực không? Tôi có là một người biết yêu thương không? Tôi có chánh niệm không? Nếu bạn có thể làm được điều này – và thực sự nó cũng không dễ làm được đâu; nếu bạn có thể làm một cách kiên trì, bạn sẽ phát triển được các phẩm chất tâm linh của mình và thiền sẽ trở thành bản chất của bạn. Song nếu bạn làm một điều gì đó không tương ưng, khế hợp với pháp hành của mình, thì xung đột sẽ chất chứa trong tâm bạn. Với những xung đột nội tâm như thế, bạn sẽ không thể thực sự phát triển được tuệ giác thâm sâu. Đó là một số điều tôi muốn các bạn hãy ghi nhớ, hãy suy nghĩ và đưa vào thực hành trong thực tế. BẺ GÃY XIỀNG GÔNG “Chừng nào chúng ta còn đánh giá, đo lườngngười khác bằng tiêu chuẩn của mình và chừng nào chúng ta còn tự đánh giá mình bằng các tiêu chuẩn của người khác; chừng đó chúng ta sẽ còn LUÔN LUÔN ĐAU KHỔ! ” CHẶT ĐỨT VÒNG THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN Hầu hết chúng ta đã từng nghe nói đến Thập nhị nhân duyên (Paticcasamuppàda - pháp duyên khởi, pháp tùy thuộc phát sinh). Trong 12 nhân duyên này có hai cách khởi đầu: một là khởi đầu từ vô minh (avijjā); vô minh duyên hành (avijjā-paccayā sankhàrà). Paccay nghĩa là duyên. Do vô minh làm duyên cho hành. Các hành động về thân khẩu ý, thiện hay bất thiện, tất cả đều là hành (sankhāra). Kể cả thiền và các tầng thiền an chỉ (jhāna) cũng đều là hành. Thiền Vipassana hoàn toàn khác, bởi vì chuỗi mắt xích 12 nhân duyên có thể bị phá vỡ bằng cách thấy đúng thực tướng của danh và sắc. Điều này tôi sẽ giải thích chi tiết sau. Tuy nhiên, khi hành giả thực hành thiền an chỉ định (jhāna), khi thể nhập vào trong các tầng thiền, bạn sẽ không thể thấy được thực tướng của danh và sắc, bạn tự đồng hóa mình với chúng. Bạn thấy và cảm nhận rằng nó chính là của mình và điều đó sẽ tạo duyên cho một lần tái sinh khác. Nó sẽ là một cảnh giới rất tốt đẹp, bởi vì trạng thái tâm thiền đó rất tập trung, định tĩnh, an lạc và rất sáng suốt, song ở bên trong vẫn còn vô minh. Kiếp tái sinh kế tiếp sẽ là sự phản ánh của trạng thái tâm đó. Tất cả mọi thứ xảy đến trong cuộc đời chúng ta đều là sự phản ánh trạng thái tâm của chính chúng ta. Đây là một quy luật rất cơ bản mà chúng ta phải hiểu. Chính các trạng thái tâm và sức mạnh của chúng sẽ tạo ra những hoàn cảnh trong cuộc sống của chúng ta. Đôi khi mọi người hỏi tôi: “Tại sao lại có loại đời sống này xảy ra? Cái gì là nhân duyên khiến nó xảy ra như vậy? Có bao nhiêu loại cảnh giới sinh tồn?”. Tôi không thể nói cho các bạn biết là có bao nhiêu loại kiếp sinh tồn được, bởi vì điều đó tùy thuộc vào số lượng các trạng thái tâm. Tùy thuộc vào các trạng thái tâm khác nhau mà các dạng sinh tồn khác nhau có thể diễn ra. Thậm chí ngay trong thế giới loài người này thôi, nếu bạn nghiên cứu thật cặn kẽ từng cá nhân mỗi con người, bạn sẽ thấy cực kỳ kinh ngạc. Mặc dù về mặt thể lý, chúng ta cùng ở trong một thế giới vật chất này, nhưng về mặt tinh thần, xúc cảm và tri thức, mỗi cá nhân chúng ta lại rất khác biệt nhau. Một số người sống trong những hoàn cảnh rất đau đớn, khổ sở, về mặt tinh thần họ luôn đau khổ. Họ không có tình thương và lòng bi mẫn (mettā, karunā), họ không có sự sáng suốt. Khi nghĩ về cuộc đời, chúng ta nên nghĩ nhiều hơn đến phẩm chất của tâm. Người này có thể là một tỷ phú, trong khi kẻ khác có thể nghèo rớt mồng tơi, nhưng kẻ nghèo đó vẫn có thể sống một cuộc đời rất mãn nguyện và hạnh phúc, trong khi con người giàu có kia có thể đang phải trải qua một cuộc sống đầy đau khổ. Chúng ta không thể đánh giá, cân đo đong đếm cuộc đời một con người dựa trên tiền của hay địa vị hay bất cứ cái gì mà người ấy đang sở hữu. Nếu tôi phải đánh giá cuộc đời của một người nào đó, tôi sẽ đánh giá họ bằng chính trạng thái tâm của họ. Nếu họ là những người từ ái, nhân hậu và biết đủ và nếu tâm của họ an lạc và trong sáng, họ sẽ sống một cuộc đời tốt đẹp. Vì vậy, cuộc sống là sự phản ánh các trạng thái tâm của bạn, cuộc đời bạn thành công hay thất bại là tùy thuộc vào trạng thái tâm của bạn, chứ không phải vào những gì bạn có. Có một người đến hỏi tôi về sự thành công trong cuộc sống. Anh ta làm việc rất chăm chỉ để được thăng quan tiến chức. Anh ta đánh giá cuộc đời mình bằng sự thăng tiến trong sự nghiệp và anh ta vẫn còn tiếp tục phấn đấu để được bổ nhiệm lên một chức vụ cao hơn. Anh ta đang nghĩ đến việc đi học thêm để lấy một cái bằng nữa để được thăng chức. Tôi hỏi anh ta tại sao anh lại muốn được thăng chức, và anh ta nói rằng nếu được thăng chức thì anh ta sẽ được hưởng lương cao hơn. “Thế tại sao anh lại muốn lương cao?”, tôi hỏi. “Để có nhiều tiền hơn và mua một căn nhà to hơn, một chiếc xe đẹp hơn”. Tôi hỏi tiếp tại sao anh lại muốn có một cái xe đẹp, muốn có nhà cao cửa rộng. “Khi đó tôi sẽ thấy mãn nguyện và tự cho mình là một người thành đạt, và điều đó sẽ làm cho tôi cảm thấy hạnh phúc”. Tôi nói: “Đến một ngày nào đó, lưng còng sức kiệt, anh phải dừng lại không còn làm được những gì mình đang làm nữa, liệu lúc đó anh có nghĩ là cuộc đời anh đã thất bại không? Sự thành đạt của anh sẽ kéo dài được bao nhiêu lâu? Trong một số năm nào đó anh có thể cảm thấy mình là người thành đạt, rồi sau đó lại quay về với thất bại! Chừng nào anh còn tự cân đo đong đếm cuộc đời mình bằng những gì mình có, chừng đó anh vẫn còn luôn luôn lo sợ một ngày nào đó mình sẽ lại thất bại”. Rồi anh ta nói: “Ồ, đúng thế, tôi sẽ nghĩ lại quá khứ của mình và về những gì mình đã đạt được và điều đó sẽ làm cho tôi cảm thấy hạnh phúc”. Đó là một ảo tưởng; Hạnh phúc đích thực đến từ chính những gì mình đang là bây giờ, chứ không phải từ những gì mình đã là. Chừng nào còn bám víu vào mình đã là hay đang là cái gì, chừng đó bạn vẫn còn có cảm giác không an toàn. Sự an lòng thực sự chỉ đến từ việc mãn nguyện với thực tế mình là ai chứ không phải mình là cái gì. Nếu bạn là người an lạc và trầm tĩnh, từ ái và bi mẫn, chánh niệm và minh triết, bạn có thể rất mãn nguyện với bản thân mình và dù mọi người có coi trọng, có đánh giá cao bạn hay không, đối với bạn cũng chẳng thành vấn đề. Sự mãn nguyện của bạn được thể hiện trong cách bạn sống cuộc đời mình, bạn sẽ không còn sợ người khác không kính trọng bởi vì bạn không có địa vị cao nữa. Chừng nào chúng ta còn bám víu vào địa vị hay chức vụ của mình, chừng đó chúng ta vẫn còn phải sống trong nỗi lo sợ và bất an. Cuộc đời là một sự phản ảnh các trạng thái tâm của chúng ta, vì thế việc chúng ta là ai, điều đó phụ thuộc vào trạng thái tâm của chính chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy quay lại với thiền. Trong thiền Vipassanā, chúng ta chú ý vào những gì đang diễn ra ngay trong hiện tại, không phải trong quá khứ. Chúng ta chú ý vào những gì đang diễn ra trong hiện tại, song quá khứ vừa qua ngay tức thì cũng có thể được gộp vào trong hiện tại. Chẳng hạn, nếu tôi đánh vào cái chuông này, không, tôi vẫn chưa đánh; bây giờ tôi chuẩn bị đánh, vì vậy nó vẫn còn ở trong tương lai. Bây giờ chúng ta không thể quan sát được tiếng chuông bởi vì nó không tồn tại. Vì vậy, khi bạn nghĩ: “Thầy đang chuẩn bị đánh và nó sẽ phát ra một tiếng chuông”, đó chỉ là một ý nghĩ, nó không phải là sự quan sát, nó không phải là thiền Vipassanā. Bây giờ tôi đánh chuông, bạn nghe thấy tiếng chuông và chú ý tới nó, “nghe”, đây là một âm thanh. Bạn cũng có thể chú ý tới tính chất của tiếng chuông, từ từ nó trở nên nhỏ dần nhỏ dần rồi tắt hẳn, bạn không còn nghe thấy gì nữa. Vậy vào lúc bạn nghe tiếng chuông, bạn có thể chú ý vào tiếng chuông và bạn cũng có thể chú ý vào tâm nghe tiếng chuông đó nữa, “nghe”. Nghe nghĩa là tâm nghe (nhĩ thức). Tâm nghe tiếng chuông này sanh khởi bởi vì có tiếng chuông, không có tiếng chuông sẽ không thể có tâm nghe đó. Phải có cái “đối tượng” này (tức tiếng chuông) hiện hữu để cho nhĩ thức sanh khởi. Khi bạn quán sát tâm nghe này, tức là bạn đang quán sát thức uẩn (viññāṇa-kkhandha). Chúng ta biết rằng tâm biết “đối tượng” sẽ không thể sanh khởi nếu không có “đối tượng”. Tiếng động này là nhân của tâm nghe này, chúng ta có thể thấy được mối quan hệ nhân quả giữa chúng với nhau và nhân này cũng chính là samudaya (sự sanh khởi). Samudaya có hai nghĩa: sanh khởi và nguyên nhân. Do đó Thánh Đế thứ hai được gọi là Dukkha samudaya sacca, sự thật về nguyên nhân của khổ, hay là Tập đế. Do đó, âm thanh này là nhân của tâm nghe này. Chúng thường xuyên song hành với nhau, cái này là nhân cho cái kia, chúng ta không nghĩ “cái này xảy ra trước rồi cái kia xảy ra sau”. Trong thực tế, chúng diễn ra đồng thời; khi có tiếng động ở đó, thì cũng có tâm nghe; khi không có tiếng động thì không còn tâm nghe ấy nữa. Đôi khi, chỉ trong cùng một lần nhận biết, khi tâm hoạt động rất nhanh, chúng ta có thể thấy được cả hai cùng một lúc. Trong cùng một sự nhận biết có hàng loạt tâm chánh niệm, thực ra ngay chỉ trong một giây cũng có thể có vô số tâm. Cái thấy sáng suốt trở nên mạnh mẽ đến mức, chỉ trong một sự nhận biết bạn có thể hiểu được rất nhiều điều. Khi chứng nghiệm được điều này bạn sẽ biết được nó đáng kinh ngạc đến thế nào. Không hề suy nghĩ về bất cứ điều gì, chỉ trong một cái thấy, bạn có thể hiểu biết được rất nhiều. Khi bạn nhận biết được tâm biết tiếng động thì đồng thời bạn cũng ý thức được về tiếng động đó, bạn không thể tách rời hai cái này ra được. Đôi lúc, khi bạn chú ý tới tiếng động, bạn có thể quán chiếu được một sự kiện thực tế là: bởi vì có tiếng động này nên mới có cái nghe, không có tiếng động sẽ không thể có sự nghe xảy ra. Mặc dù khi nghĩ về điều này, nó rất hiển nhiên, rất rõ ràng và bạn có thể hiểu ngay được điều đó, nhưng khi đã thực sự thấy được cái tâm biết sanh khởi ngay trong hiện tại, bạn mới thực sự biết rằng: bởi vì có tiếng động này, nên mới có tâm biết này sanh khởi. Bạn biết rằng đây chính là một điều gì đó rất mới mẻ mà bạn vừa mới chứng nghiệm được. Thiền không phải là để thấy cho được những điều chưa hề thấy trước kia; mà thiền là để thấy cũng chính những hiện tượng đó nhưng theo một cách khác. Nó là một cách thấy hoàn toàn mới. Tất cả mọi người đều biết rằng bởi vì có tiếng động nên mới có cái nghe, nhưng đó chỉ là biết trên bề mặt suy nghĩ. Chúng ta có cảm tưởng rằng có một người nào đó hiện diện ở đấy để nghe tiếng động, nhưng trong thiền, khi điều này diễn ra chúng ta biết rằng tâm nghe này chỉ đang diễn ra trong HIỆN TẠI, và nó xuất hiện bởi vì có tiếng động. Bạn nhận biết tâm nghe này như một điều gì đó hoàn toàn mới mẻ. Khi chúng ta có thể thấy được các hiện tượng như một cái gì hoàn toàn mới, chỉ mới xuất hiện trong hiện tại, chỉ khi ấy chúng ta mới có thể thấy được thực tại. Điều này diễn ra trong thiền Vipassanā, bạn thấy được tâm đó sanh khởi ngay trong hiện tại bởi vì có đối tượng này hiện hữu, và chúng ta cũng biết rằng bởi vì có đối tượng này hiện hữu nên mới có tâm biết này xuất hiện. Đó là thuộc tính sanh khởi. Chúng ta cũng có thể thấy được tiếng động sanh và diệt; sanh là samudaya và diệt là vaya Chúng ta có thể hiểu cùng một pháp đó theo rất nhiều cách khác nhau. Đức Phật nói: "Vị ấy sống quán tính sanh khởi, vị ấy sống quán tính diệt tận của các pháp”. (Kinh Đại Niệm Xứ, Trường Bộ Kinh.) Vaya cũng có nghĩa là nirodha (diệt tận). Từ này có nhiều từ đồng nghĩa: Samudaya (sanh khởi) cũng có nghĩa là nibbati-lakkhana. Vaya cũng có nghĩa là viparināma-lakkhana và cũng có nghĩa là nirodha (diệt tận). Từ nirodha (diệt tận) này cũng được sử dụng trong 12 nhân duyên của Pháp duyên khởi: Avijjā-paccayā sankhāra (vô minh duyên hành) có thể diễn tả theo cách khác là: avijjā tveva asesavirāga-nirodha; sankhāra-nirodho (các hành diệt do hoàn toàn ly dục và diệt tận vô minh). Ở đây có sử dụng từ diệt tận là nirodha. Do đó, khi có vô minh (avijjā) là có hành (sankhāra). Chúng ta lăng xăng tạo tác, làm bao nhiêu thứ việc trên đời là bởi vì chúng ta không thực sự thấu hiểu được thực tại chân đế (hay thực tại tuyệt đối). Chúng ta cứ nghĩ rằng khi chúng ta làm những công việc đó, nó sẽ làm chúng ta được hạnh phúc, và nếu không làm nó thì chúng ta sẽ không hạnh phúc. Ở đó luôn luôn có mặt của “cái tôi”. Nhưng khi chúng ta thực sự nhận chân ra rằng: không có cái gì là “cái tôi” thực sự, mà chỉ có những tiến trình tâm lý và vật lý (danh và sắc), khi đó tri kiến của chúng ta sẽ thay đổi. Khi vô minh (avijjā) đã hoàn toàn bị tận diệt, thì ngay cả những việc thiện chúng ta làm cũng không còn tạo nghiệp nữa, và bởi vì không còn tạo nghiệp nên cũng không có quả báo và không có hành (sankhāra) nào được tạo ra nữa. Chuỗi xích đã bị phá tung, sankhāra nirodha, sankhāra nirodho (thức diệt do hành diệt). Khi tái sanh, tâm đầu tiên của đời sống mới sanh khởi bởi vì có hành (sankhāra), mà trong trường hợp này thì chính là nghiệp (kamma). Bởi vì do nghiệp lực thúc đẩy nên có tâm tái sanh và tâm này được gọi là thức (viññāna). Nếu không có hành thì sẽ không có nghiệp đưa đi tái sanh; vì vậy cũng không hề có sự tái sanh nữa. Do đó, sankhāra nirodha, viññāna nirodho. Viññāna nirodha, nāma-rūpa nirodho (do duyên hành diệt nên thức diệt, do duyên thức diệt nên danh sắc diệt). Nếu không có tâm tái sanh thì cũng không có tiến trình tâm - vật lý đi theo nó. Nếu cái này diệt thì cái kia cũng diệt, nó cứ tiếp diễn liên tục như thế. Nāma - rūpa nirodha, phassa nirodho (do duyên danh sắc diệt nên xúc diệt): nếu không còn tiến trình thân tâm tiếp diễn, sẽ không thể có sự tiếp xúc giữa căn, trần, thức (giác quan và đối tượng bên ngoài) nữa. Điều ngược lại là, bởi vì có tiến trình tâm - vật lý tiếp diễn, nên có sự tiếp xúc với các đối tượng giác quan. Phassa-samudāya, vedanā-samudayo, phassa-nirodha, vedanā-nirodho (do duyên xúc nên thọ sanh khởi, do duyên xúc diệt nên thọ diệt), bởi vì có sự xúc chạm nên có cảm thọ lạc, khổ hoặc xả (trung tính). Nếu không có xúc sẽ không còn thọ lạc, thọ khổ hoặc thọ xả nữa. Ở một giai đoạn trong thiền Vipassanā, bạn sẽ thấy được điều này rất rõ ràng, đôi khi chỉ một suy nghĩ ngắn ngủi thoáng qua hoặc có lúc thậm chí không hề có một suy nghĩ nào và bạn chợt hiểu rất rõ điều này. Bạn có thể thấy được chân lý đó một cách vô cùng rõ ràng. Vedanā-nirodhā, tanhā-nirodho (do duyên thọ diệt nên ái diệt): nếu không có bất cứ loại cảm thọ nào khởi lên, thì cũng không thể có tham ái với bất cứ cái gì nữa. Khi chúng ta cảm thấy thích thú hay không thích thú cái gì đó, chúng ta cảm nhận được điều đó bởi vì có cảm thọ, bởi vì có sự hưởng thụ, nên tham ái càng gia tăng. Khi thấy thích, chúng ta muốn có nó nhiều hơn, và khi không thích thì chúng ta không muốn nó nữa, chúng ta muốn thay thế nó bằng một cái gì đó chúng ta thích. Cảm thọ hướng tâm chúng ta tới tham ái lớn hơn. Khi có cảm thọ trung tính (không khổ không lạc), chúng ta không thích nó và mong muốn có điều gì đó thích thú, đáng ưa, mong muốn có một cái gì đó mang lại cho chúng ta những cảm xúc mạnh, mà đó chính là tâm tham ái mạnh mẽ hơn nữa. Mỗi khi có tham ái sanh khởi, chúng ta có thể thấy rằng nó sanh khởi bởi vì có cảm thọ, nếu không có cảm thọ sẽ không thể có chút tham ái nào nữa. Cảm thọ chi phối toàn bộ đời sống của chúng ta. Cảm thọ chính là nhân tố thúc đẩy chúng ta làm mọi công này việc kia, để được cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Khi thấy được điều này một cách rõ ràng, nó sẽ giúp tâm chúng ta trở nên xả ly hơn. Chính sự xả ly này là tự do, giải thoát. Xả ly khiến tâm trở nên sáng suốt hơn và mang lại cho chúng ta nhiều tự do và giải thoát hơn. Càng thấy rõ cách thức cảm thọ chi phối tâm chúng ta, chúng ta càng có thể tự giải phóng mình. Đây chính là chỗ mà chuỗi mắt xích 12 nhân duyên ( paticcasamuppāda) bị phá vỡ và chúng ta tìm được lối thoát: mắt xích giữa thọ ( vedanā) và ái ( tanhā). Chúng ta cảm nhận các cảm thọ nhưng nếu không để nó trở thành tham ái (tanhā) thì chúng ta có thể thoát ra khỏi nó. Nhưng nếu chúng ta để nó tiến triển tiếp trở thành tham ái, khi đó tham ái sẽ ngày càng tích tụ thêm nhiều sức mạnh, ngày càng có thêm động lực hơn nữa. Lúc đó tham ái (tanhā) sẽ trở thành thủ (upādāna), bám giữ, chấp thủ - tức là tham ái ở mức độ rất mạnh. Tanhā là tham ái ở mức độ bình thường; thủ (upādāna) là tham ái mãnh liệt. Khi có tham ái hiện hữu, bạn cảm thấy là “Tôi muốn có cái đó”, khi đã trở thành thủ (upādāna) bạn sẽ cảm thấy là mình không thể sống thiếu cái đó được. Bạn sẽ làm gì khi cảm thấy là không có nó thì mình không thể sống được? Bạn sẽ làm bất cứ điều gì để có được nó. Thủ (upādāna) sẽ dẫn đến hữu (bhava). Ở đây chữ bhava có hai nghĩa, một nghĩa là nghiệp (kamma), và một nghĩa là “một kiếp sống mới”. Chữ Bhavatrong 12 nhân duyên nghĩa là nghiệp bởi vì khi chấp giữ một tâm tham ái mãnh liệt như thế, bạn sẽ không ngừng suy nghĩ về nó, nói về nó và làm việc này việc kia vì nó, chính điều này sẽ tạo thành nghiệp. Nghiệp (kamma) sẽ đưa tới sanh (jāti), bởi vì có nghiệp nên sẽ có một kiếp sống khác tiếp theo nữa. Vô minh --> Hành --> Thức --> Danh Sắc --> Lục Nhập --> Xúc --> Thọ --> Ái --> Thủ --> Hữu --> Sanh --> Lão Tử --> Vô minh -->... Chuỗi nhân duyên này cứ tiếp diễn mãi như thế. Trong khi thực hành, có lúc chúng ta nhìn thấy được một đoạn nào đó, lúc khác lại thấy được một đoạn khác, song hầu hết chúng ta bắt đầu thấy được mắt xích giữa thọ (vedanā) và ái (tanhā) rõ hơn cả. Sau này, trong quá trình thực hành, khi niệm và định đã rất mạnh, chúng ta có thể kinh nghiệm được xúc (phassa), tâm xúc chạm với đối tượng (hoặc đề mục), sự xúc chạm trở nên rất rõ ràng và mạnh mẽ. Thông thường chúng ta không kinh nghiệm được sự xúc chạm này bởi vì thọ (vedanā) đã xuất hiện ngay lập tức, cùng với cảm giác thụ hưởng cảm thọ đó. Do vậy, khi chánh niệm trở nên rất mạnh mẽ, thay vì tiếp tục lao theo tiến trình của tham ái, chúng ta dừng lại ở đó và quán sát đối tượng. Ở trong tiến trình của các trạng thái tâm thông thường, chúng ta tiếp nhận đối tượng, chúng ta xác định nó và chúng ta hưởng thụ nó. Trong thiền tập, chúng ta tiếp nhận đối tượng, nhận biết được nó một cách rõ ràng nhưng chúng ta không lao vào hưởng thụ nó. Thay vì hạnh phúc hay đau khổ vì nó, chúng ta chỉ dừng lại ở ngay tại đó và chỉ quan sát nó mà thôi. Chúng ta thấy nó sanh lên rồi diệt mất, không có gì để mà phải hạnh phúc hay đau khổ vì nó cả. Khi điều này xảy ra, tiến trình sẽ dừng lại tại phassa - xúc: chỉ có sự xúc chạm, tiếp xúc mà không phản ứng lại. Chúng ta không nhìn nó như là tốt hay xấu, không còn sự phân biệt nào nữa. Cũng không hề mong muốn nó phải khác đi. Sự quán sát trở nên rất sáng suốt, rõ ràng, vì thế cũng không suy nghĩ rằng nó phải khác đi theo bất cứ cách nào, tâm chỉ đơn thuần quán sát nó, không phân biệt, dù bất kể nó là như thế nào. Phassa-samudayā vedanā -samudayo; phassa-nirodhā vedanā-nirodho: xúc sanh thọ, xúc diệt thì thọ diệt, đây là mắt xích cực kỳ quan trọng. Từ vedan ā-samudayā, tanhā-samudayo: (thọ sanh ái) đến vedan ā-nirodhā, tanhā-nirodho (thọ diệt thì ái diệt). Khi thấy được những mối liên kết như thế, chúng ta sẽ thấy được nhân sanh và nhân diệt của nó, thấy được cả hai: thấy nó sanh lên và thấy nó diệt mất. Thấy được nguyên nhân nó sanh khởi và thấy được nguyên nhân nó diệt tận. Tất cả những điều này có nghĩa là bạn đã thấy được pháp sanh (samudaya-dhamma) và pháp diệt (vaya-dhamma). HỎI và ĐÁP Hỏi: Trong khi hành thiền chúng ta có thể thấy được mọi thứ một cách rất rõ ràng, sáng suốt và không tham cầu, mong muốn, nhưng trong cuộc sống đời thường thì rất khó để không phản ứng. Đáp: Đúng vậy, trong cuộc sống hàng ngày thì khó mà không phản ứng, không tham cầu mong muốn điều gì. Điều quan trọng trong quá trình thực hành của chúng ta là phải thấy chúng thật rõ chỉ như là những hiện tượng tự nhiên mà thôi, để thấy được tham muốn đó không phải là một người nào. Tham muốn sanh khởi bởi vì có cảm thọ, bởi vì có xúc cảm, bởi vì có sự tiếp xúc với những ấn tượng giác quan. Trong quá trình thiền tập, bạn có thể thấy được cả toàn bộ tiến trình một cách rất rõ ràng. Bạn thấy rằng căn trần xúc chạm là một hiện tượng tự nhiên, cảm nhận được những ấn tượng kích thích của giác quan cũng là một hiện tượng tự nhiên, tham muốn cũng là một hiện tượng tự nhiên. Không có người nào, không có chúng sanh nào ở đó cả. Khi bạn nhận chân rõ ràng điều này, tuệ giác này có một sức mạnh vô cùng lớn. Ngay cả trong cuộc sống hàng ngày, có những lúc bạn thất niệm và bị lôi đi theo đối tượng bên ngoài, bạn bị cuốn theo chúng, tham cầu mong muốn điều này điều kia, bạn phản ứng lại với chúng. Song ngay thời điểm bạn chánh niệm về chúng, mức độ tác động của phản ứng và tham muốn đó sẽ nhanh chóng tan biến và bạn cảm thấy được giải thoát ở một mức độ nào đó. Trong quá trình thực hành, điều quan trọng hàng đầu là không được cố vượt qua tham ái một cách hoàn toàn ngay lập tức, mà phải “tiến dần từng bước một”. Việc đầu tiên là phải thấy tất cả chúng chỉ như là những hiện tượng tự nhiên mà thôi. Ở đó không có chúng sanh nào, không có người nào cả. Ngay cả tầng đạo quả đầu tiên cũng chưa tận diệt được tham và sân. Tầng đạo quả đầu chỉ đoạn tận được tà kiến chấp rằng có một linh hồn, một thực thể trường cửu mà thôi. Nếu chúng ta có thể thấy không có gì là một thực thể vĩnh cửu, không có gì là một linh hồn cả, mà tất cả chỉ là những tiến trình tự nhiên, chỉ đến và đi, sanh và diệt. Nếu thấy được điều này một cách thật rõ ràng và mạnh mẽ, thì mặc dù đôi lúc bạn vẫn bị cuốn theo và đắm chìm với những đối tượng bên ngoài do thiếu chánh niệm, song ngay cả trong khi bị cuốn trôi và phản ứng như thế, nếu lấy lại sự chú tâm, bạn vẫn có thể tự giải thoát cho mình. Đây chính là lợi ích của sự thấy biết rõ ràng. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta không thể thấy biết mọi thứ một cách sáng suốt rõ ràng trong mọi lúc được, nhất là khi chúng ta sống như một con người bình thường chứ không phải là một thiền sinh, chúng ta phải giao tiếp với mọi người, tự thể hiện mình, thể hiện tình thương và lòng nhân hậu của mình. Khi nghĩ đến nhân hậu và tình thương là chúng ta suy nghĩ đến một người nào đó, chúng ta nghĩ đến thái độ và tình cảm của người khác. Trong cuộc sống đời thường, ngay cả khi cảm nhận tất cả những cảm xúc này, chúng ta cũng không coi chúng như một cái gì đó thuộc cá nhân mình. Chúng ta có thể hành động theo hai mẫu thức khác nhau, chúng ta phải hành động, phải sống theo hai mẫu thức như thế. Bởi vì, giả dụ chúng ta nhìn con mình mà nói rằng: “Không có đứa con nào ở đó cả, nó không phải là con tôi, đó chỉ là danh và sắc thôi”, thì không lẽ khi nó nghịch lửa đến bỏng và la khóc, chúng ta cũng nói rằng “Không có đứa con nào, không có ai cả, đó chỉ là cảm giác thôi” ư? Điều đó thật phi lý và nhẫn tâm. Chúng ta không thể hành động như thế! Chúng ta phải hiểu rằng có hai cách nhận thức và thấy biết thực tại, và phải hành động theo cả hai cách đó. Một cách là thấy biết thực tại này như thực sự nó đang là và chính điều này sẽ đem đến giải thoát cho chúng ta. Điều quan trọng ở đây là ngay cả khi chúng ta tham muốn một cái gì đó, khi thấy tham muốn đó chỉ như là những hiện tượng tự nhiên, chúng ta vẫn có thể cố gắng phấn đấu để đạt được nó nếu thấy nó là cần thiết, song chúng ta sẽ làm việc đó một cách thích hợp và thấu tình, đạt lý. Chúng ta sẽ không bao giờ hành động một cách vụng về, ngu xuẩn để có bằng được nó. Bởi vì chúng ta biết rằng không đáng làm những việc bất thiện chỉ để có cho bằng được điều mình mong muốn. Một người đã đạt tới tầng đạo quả đầu tiên sẽ vẫn còn tham muốn và thích thú những cái hay, cái đẹp, nhưng họ sẽ không bao giờ ăn cắp, sát sanh hay làm bất cứ việc bất thiện nào khác để có được cái mình muốn. Đó chính là một sự khác biệt lớn giữa họ với những người bình thường khác. Hỏi: Chúng ta không nhất thiết phải cố ý chuyển sang một mẫu thức hành động khác, đúng không? Có phải việc đó sẽ tự nó xảy đến? Đáp: Việc đó xảy đến một cách tự nhiên một khi bạn đã có được một mức chánh niệm vững mạnh, những thoáng chánh niệm đó sẽ thường xuyên đến đều đặn, nhất là mỗi khi bạn xúc động thì chánh niệm thường quay trở lại. Thông thường khi bị xúc động mạnh thì con người ta hay thất niệm, không ý thức được mình nữa, nhưng đối với một thiền sinh thì trong những tình huống khẩn cấp đó, chánh niệm thường quay trở lại với họ. Mặc dù bạn cảm thấy xúc động mạnh, nhưng bạn vẫn ý thức được về nó. Nó có thể còn tiếp tục cả một thời gian dài, nhưng bạn vẫn chánh niệm hay biết nó. Do đó, một thiền sinh giỏi sẽ không còn bị mắc kẹt trong bất cứ trạng thái tình cảm hay cảm xúc nào nữa. Một thiền sinh giỏi vẫn có thể rất dễ xúc động, vẫn có thể rất tình cảm bởi vì anh ta không cố đè nén và ức chế tình cảm của mình. Đây là một sự khác biệt lớn. Để trở thành một thiền sinh giỏi, nhất định bạn phải giữ cho tâm mình hoàn toàn rộng mở, không ức chế, đè nén hay chối bỏ bất cứ điều gì, không kháng cự hay xua đuổi bất cứ điều gì. Ức chế, đè nén, phủ nhận hay chối bỏ không mang đến hiểu biết và giải thoát và dĩ nhiên là cũng không đem đến trí tuệ. Một thiền sinh giỏi đích thực, một người hiểu được ý nghĩa của chánh niệm, sẽ giữ tâm mình luôn luôn rộng mở, không kháng cự, không chối bỏ, không phủ nhận, không đè nén, ức chế bất cứ điều gì. Vì thế một thiền sinh giỏi có thể cảm nhận được thậm chí nhiều hơn người bình thường, họ dễ cảm nhận hơn và cũng rất dễ bị tổn thương bởi vì họ không tự bảo vệ, không tự che chắn cho mình. Một người chánh niệm sẽ rất dễ bị tổn thương, song bởi vì có chánh niệm và sự sáng suốt nên anh ta có thể vượt qua được tất cả mọi chuyện mà không bị dính kẹt vào chúng. Chính điều này sẽ đem lại những hiểu biết thâm sâu uyên áo, đem lại giải thoát và về một khía cạnh nào đó cũng đem lại cả sức khỏe cho bạn nữa. Bất cứ một hình thức đè nén, ức chế nào cũng đều không lành mạnh, không có lợi cho sức khỏe, nhưng bất cứ một hình thức phản ứng hay hành động bất thiện nào thì cũng không lành mạnh chẳng kém. Không phản ứng lại một cách bất thiện, hành giả sẽ kinh nghiệm, cảm nhận và vượt qua được toàn bộ tiến trình đó và thoát ra khỏi nó một cách an toàn, khỏe mạnh hơn xưa. Bạn có thể vẫn tức giận hay tham lam, nhưng bạn có thể thấy rõ điều đó, thấu hiểu nó và vượt qua nó, thoát ra khỏi nó. Một số người bị mắc kẹt lại tại đó và không thể thoát ra được, họ bị kẹt lại trong một số loại tình cảm hay cảm xúc nào đó và trở nên rất ốm yếu, không lành mạnh. Khi bạn gặp khó khăn hay một vấn đề rắc rối nào đó, nếu có chánh niệm, bạn sẽ không chạy trốn nó, không kháng cự lại nó và cũng không tự bào chữa hay biện hộ cho mình; mà bạn sẽ chú ý nhiều hơn nữa và học hỏi từ nó. Khi phải có một hành động nào đó, bạn sẽ hành động với chánh niệm và trí tuệ, cố gắng làm những điều tốt đẹp và lợi ích nhất cho mọi người. Bạn không giải quyết vấn đề chỉ cho một mình bản thân mình. Khi có một vấn đề khó khăn và bạn muốn giải quyết nó thì hãy làm sao để vấn đề của những người khác cũng được dàn xếp êm thấm. Chẳng hạn, có một lần tôi đến xem một bể chứa nước, bởi vì tôi rất thích nhìn ngắm mặt nước, dù đó là nước hồ hay nước bể. Khi tới đó, tôi thấy có nhiều người đang tắm trong bể, mà thực ra nước trong bể đó là để dùng làm nước ăn. Tôi tới nói chuyện với người quản lý bể nước và nói rằng để mọi người tắm rửa ở đó là không tốt, bởi vì những người khác sẽ phải uống nước đó. Ông ta nói ông sẽ đến rình và bắt tất cả bọn họ. Đó là cách giải quyết vấn đề của ông ta. Vì vậy tôi nói: “Ông có thể làm như vậy được bao nhiêu lần? Ông có thể bắt và phạt một số người rồi sau đó ông lại đi. Ông có thể thường xuyên làm như thế được không? Tại sao không kiếm lấy mấy ống nước và đưa nước đến nhà cho họ, họ sẽ không đến tắm ở bể nữa!”. Khi bạn muốn giải quyết vấn đề của mình thì hãy giải quyết cả vấn đề của người khác nữa, chỉ khi đó bạn mới thực sự giải quyết được tận gốc vấn đề. Đây chính là điều tôi thường tự nhắc nhở mình mỗi khi muốn giải quyết một vấn đề nào đó. Tôi thường hay nghĩ đến cả những người có liên quan và xem mình có thể nhân tiện giúp giải quyết vấn đề của họ được hay không. Chỉ khi đó thì mới có thể thực sự giải quyết được tận gốc rễ vấn đề. Khi có một vấn đề rắc rối nào đó xảy ra, thường có rất nhiều người liên quan đến nó. Tôi thấy một số người chỉ quen giải quyết vấn đề bằng áp bức, đè nén hay trừng phạt mà thôi, nhưng làm như vậy sẽ không bao giờ giải quyết được vấn đề cả. Hỏi: Nếu chúng ta thực sự chánh niệm và cảm thấy có ý muốn phải hành động, làm sao chúng ta có thể trở thành một người thực sự phát triển về tâm linh và làm sao biết được đó chính là chánh niệm ngăn không cho chúng ta làm điều đó, hay đó chỉ là do mình sợ bị thất bại hay sợ chết mà thôi? Đáp: Nỗi sợ thất bại, sợ mình sẽ không thành công đến từ một cảm giác mạnh mẽ về sự ngã mạn hay lòng kiêu hãnh của mình. Nhưng kiêu hãnh không phải là thủ phạm mà chính ngã mạn mới là thủ phạm đích thực. Khi đã phát triển chánh niệm và trí tuệ, bạn sẽ nhìn nhận thành công theo một cách rất khác, thành công không còn mang ý nghĩa như cũ nữa. Bạn sẽ không còn đánh giá cuộc đời mình bằng số tiền mình có; mà bạn đánh giá cuộc đời mình bằng chính trạng thái tâm của mình. Nếu thực sự hạnh phúc và mãn nguyện với tâm mình, bạn sẽ rất bằng lòng và biết đủ và sẽ không còn đánh giá mình theo những tiêu chuẩn của người khác nữa. Trong hầu hết mọi trường hợp, chúng ta đánh giá người khác bằng những tiêu chuẩn của chính mình và tự đánh giá mình theo những tiêu chuẩn của người khác. Nếu còn tiếp tục làm như thế, chúng ta sẽ còn luôn luôn đau khổ. Trong quá trình hành thiền, bạn thấy được mọi thứ một cách rất rõ ràng và vượt qua được thân kiến (sakkāya-diṭṭhi: tà kiến chấp ngã), tức là một cảm giác về bản ngã rất mạnh, khi đó tiêu chuẩn giá trị của bạn sẽ hoàn toàn thay đổi và bạn sẽ không còn trở lui lại nữa. Bạn sẽ thấy cái gì là giá trị đích thực trong đời, bạn sẽ thấy được ý nghĩa thực sự của cuộc sống; bạn sống với những giá trị của riêng mình và rất hạnh phúc về điều đó. Khi có người nào đó thành công về vật chất, bạn cũng không tự so sánh mình với họ. Đôi khi, thậm chí bạn còn cảm thấy bi mẫn, tội nghiệp cho họ nữa. Bạn suy tư đến một thực tế là con người này đang phung phí cả cuộc đời mình chỉ để tìm kiếm vật chất mà không quan tâm phát triển các phẩm chất tâm linh của mình. Đó là lý do tại sao họ đã đánh mất đi một điều thực sự quan trọng trong đời, bạn không coi họ là những con người thành công. Mặc dù họ có thể làm rất tốt một công việc nào đó, song họ đã bỏ quên một công việc quan trọng nhất: phát triển tâm linh. Khi bạn đã thấy và sống với những giá trị đích thực của cuộc đời, bạn sẽ cảm thấy vô cùngtri túc và mãn nguyện với nó. Mặc dù bạn cảm thấy ít ham muốn vật chất hơn, nhưng bạn vẫn thấy có một ham muốn khác: đó là ham muốn phát triển hơn nữa những phẩm chất tâm linh của mình và ham muốn được giúp đỡ người khác. Bạn cũng thấy ra được rất nhiều thứ không đáng ham muốn và buông bỏ chúng. Hỏi: Nhưng đôi lúc cũng có rất nhiều việc đáng làm chứ, chẳng hạn như hiện nay tôi đang suy nghĩ đến một dự án giải trí. Tại sao sống trên thế giới này chúng ta lại cần quá nhiều đến chuyện trò và giao tiếp như vậy. Khi bạn đã mất đi bản ngã, bạn sẽ nghĩ rằng mình chẳng có gì để nói cả, vậy khi nào đó là do sự vô ngã và khi nào đó là do sự tự lừa dối và sợ hãi thất bại xui khiến mình hành động? Đáp: Mọi người đều cảm thấy rằng mình cần phải làm một cái gì đó. Đôi khi chúng ta tự hỏi chính mình là liệu điều đó có đáng làm hay không và có lúc chúng ta nghĩ là nó cũng chẳng đáng làm. Khi nào chúng ta cảm thấy mình bị thất bại? Đó là khi chúng ta tự đánh giá mình bằng những gì mình đã làm ra. Sự giao tiếp và trao đổi là rất quan trọng, đó cũng chính là điều tôi đang làm ở đây và tôi nghĩ rằng nó thực sự là việc đáng làm. Tôi biết đã có nhiều đạo sư đã từng đến đây và tôi cũng biết rằng ở đây có hàng ngàn cuốn sách trong thư viện, nhưng tôi vẫn tiếp tục lặp lại những điều y hệt như vậy, tại sao tôi phải làm như thế? Bởi vì điều đó là cần thiết, sự tiếp xúc và trao đổi trực tiếp là cần thiết. Chúng ta có thể hiểu ra được điều gì đó nhờ đọc chỗ này chỗ kia, thông qua câu chuyện với người này người nọ. Sự giao tiếp cần phải có trong mọi lúc và nó sẽ đem lại sự thay đổi cho bạn. Khi chúng ta thấy rằng nó đã đem lại sự khác biệt, chúng ta sẽ cảm thấy có hứng thú làm điều đó hơn. Chúng ta thấy rằng việc đó là cần thiết và cảm thấy nó đáng làm. Hỏi: Như vậy thì có cái bản ngã nào đang làm việc đó không? Đáp: Có một sự thỏa mãn nào đó khi bạn làm công việc đó, nhưng bản ngã nghĩa là, chẳng hạn khi bạn cố gắng diễn đạt điều gì đó cho người đối diện và người ấy không hiểu, không thèm để ý hay phủ nhận những gì bạn nói và bạn cảm thấy bị chạm tự ái. Trong trường hợp này thì đó chính là bản ngã. Tuy nhiên, nếu trong khi bạn nói chuyện với người khác mà người đó không hiểu bạn, bạn tự nhủ mình rằng: “Được rồi, tôi sẽ chờ đợi, sẽ có người nào đó hiểu”. Bạn không mong đợi là tất cả mọi người sẽ hiểu và trân trọng những gì bạn nói. Thậm chí bạn cũng không mong đợi là mình luôn luôn giao tiếp một cách thành công nữa. Khi đó cái bản ngã của bạn sẽ giảm xuống. Rất nhiều lần tôi nghĩ rằng mình đã không diễn đạt được rõ ràng điều mình muốn nói, nhưng tôi vẫn tiếp tục cố gắng, cố gắng…Một số người hiểu được, một số khác thì không, một số trân trọng và đánh giá cao những gì tôi nói và cũng có một số khác chẳng thèm để ý, thế cũng chẳng sao. Đó cũng là điều hoàn toàn tự nhiên thôi mà. Nhưng khi bạn nổi cáu lên với một người nào đó chỉ vì anh ta không hiểu ý bạn hay không coi trọng những gì bạn nói, thì khi đó bản ngã đang có mặt. Bạn cố gắng hết sức mình, nhưng không dính mắc vào kết quả. Tất cả mọi người đều có cách giao tiếp riêng của mình với những người xung quanh. Có một cách giao tiếp khác, đó là chỉ sống với pháp hành của bạn, chỉ là một người chánh niệm, khi đó bạn đang giao tiếp và đang thể hiện ra một điều gì đó. Chúng ta không có cách nào ngừng giao tiếp được, ngay cả khi chẳng nói năng gì thì chúng ta vẫn đang giao tiếp. Hỏi: Khi ngồi thiền và đi kinh hành tôi thường tìm những chỗ kín đáo, không có người qua lại để được một mình hành thiền, thế khi tôi hành thiền ở nơi có người qua lại thì có sao không? Đáp: Chúng ta có thể hành thiền ở tất cả mọi nơi chốn và mọi hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta phải học cách điều chỉnh và vận dụng pháp hành của mình để có thể hành thiền được ở bất cứ chỗ nào. Bạn có thể hành thiền trong khi ngồi trên xe buýt với đôi mắt vẫn mở mình thường. Bạn ngồi giống như tất cả những người khác trên xe; thậm chí bạn còn có thể nhìn ra ngoài cửa sổ, mà vẫn đang thiền. Bạn có thể nuôi dưỡng và duy trì một mức chánh niệm và tỉnh giác trong bất cứ công việc gì bạn đang làm, ngay cả khi đi mua sắm nữa. Bạn có thể luôn luôn chánh niệm về các trạng thái tâm của mình. Hành thiền không có nghĩa là ngồi yên một nơi thanh vắng trong một tư thế nhất định, hai chân bắt chéo, đôi mắt nhắm nghiền. Đó chỉ là một phần trong quá trình thiền tập của chúng ta mà thôi. Tuy nhiên, khi hành thiền chỉ (samatha) bạn phải ở một nơi rất yên tĩnh, không có nhiều xáo động và phải ngồi theo một tư thế nhất định, không xê xích, thay đổi nhiều, bạn phải ngồi rất tĩnh, rất yên. Bạn phải an trú tâm vững vàng trong đề mục và không được thay đổi sang đề mục khác, đó là thiền chỉ. Thiền chánh niệm nghĩa là bạn chánh niệm, hay biết tất cả mọi thứ đang diễn ra, hết đối tượng này đến đối tượng khác, Bạn có thể chuyển dịch và thay đổi để mục luôn luôn, nhưng điểm quan trọng là không để bị lôi theo những dòng suy nghĩ vẩn vơ hoặc nằm mơ giữa ban ngày. Nếu bạn có thể duy trì chánh niệm ngay cả trong khi đang đi trên xe buýt, đạp xe đạp hay đang ngồi trong lớp, bạn sẽ có được khả năng nhớ, hiểu và học hỏi nhiều hơn nữa. Bạn sẽ dễ cảm nhận và dễ tiếp thu hơn bởi vì bạn có sự chú ý nhiều hơn. Hãy cố gắng điều chỉnh và vận dụng pháp hành của mình sao cho có thể hành thiền ở bất cứ nơi nào, bởi vì nếu chúng ta không thực hành được khi ra khỏi góc riêng của mình, thì sự thực hành chánh niệm sẽ bị hạn chế rất nhiều. Đức Phật nói rằng chúng ta phải chánh niệm ngay cả khi đi đứng, nói năng và ăn uống nữa. Hãy cố gắng chánh niệm, chú tâm khi chúng ta nói chuyện, nếu học được cách làm điều đó, bạn sẽ thấy tất cả mọi việc khác trở nên rất dễ dàng. Từ “hành thiền” mang một nghĩa quá nghiêm túc, “chánh niệm, tỉnh giác” cũng có vẻ nghiêm trọng quá mức, “chú tâm” cũng thế. Thay vì dùng chữ “hành thiền”, tôi ưa nói “chú ý” hơn. Bạn có thể chú ý trong những tình huống khác nhau, chú ý tới những cái bạn đang nhìn, những điều bạn đang nghe, những gì bạn đang suy nghĩ và những cảm xúc, tình cảm của mình được không? Nếu cố gắng, bạn có thể chú ý được không? Được chứ, đến một mức độ nào đó, bất cứ người nào cũng có thể làm được. Đừng mong đợi là mình sẽ chánh niệm được 100% trong mọi lúc, bởi vì điều đó là không thể, nhưng hãy cố gắng hết mình. Hỏi: Chánh niệm và tỉnh giác khác nhau như thế nào? Đáp: Đó chỉ là do mức độ, do sự khác nhau giữa chánh niệm nhiều và chánh niệm ít mà thôi. Chánh niệm nghĩa là tâm bạn đang ở trong hiện tại, tâm bạn đang có mặt ở đây. Do đó, càng chánh niệm về một đối tượng nào đó trong mình, bạn lại càng hay biết và ý thức được về nó. Chánh niệm ngược lại với đãng trí, thất niệm, quên mình. Chánh niệm và tỉnh giác cũng có nhiều mức độ. Chẳng hạn khi đang nói chuyện với bạn bây giờ là tôi đang chánh niệm. Nhưng đó là một loại chánh niệm khác, bởi vì tôi đang suy nghĩ về những điều mình muốn nói và trong khi nói, tôi cũng phải suy nghĩ xem nên nói như thế nào, chọn câu cú, từ ngữ ra sao cho rõ ý. Bình thường, tôi đang theo dõi và lắng nghe bạn nói, nhưng tâm tôi cũng đang có mặt, nó đang hiện hữu ở đó. Giữ chánh niệm trong khi nói chuyện, tôi cố gắng thấu hiểu tình huống hiện tại, chú ý tới rất nhiều khái niệm và ý tưởng, nhưng một phần tâm tôi vẫn hay biết trạng thái tâm của mình, hay biết những gì đang diễn ra trong tâm. Đây là một trạng thái tâm khác hẳn. Tuy nhiên, khi tôi ngồi yên tĩnh, không tiếp xúc với bất cứ ai, hoàn toàn đặt sự chú ý trong thân tâm mình, thì đó lại là một loại chánh niệm khác. Nhưng bản chất cơ bản của chánh niệm thì vẫn không thay đổi, chỉ có đối tượng hay đề mục là khác mà thôi. Chánh niệm trong khi giao tiếp là rất quan trọng, nó giúp cho chúng ta chánh niệm hơn, bởi vì trong giao tiếp, nếu chúng ta không biết được tâm mình, không ý thức được thái độ của mình, chúng ta có thể có những thái độ sai lầm và với thái độ sai lầm đó, sự giao tiếp sẽ không tốt đẹp. Chúng ta có thể nói những điều tổn thương đến người khác hay những điều không trung thực, không lợi ích. Giữ chánh niệm trong khi nói chuyện, trong quan hệ giao tiếp với mọi người, chúng ta sẽ ít bóp méo sự thật hơn. Chúng ta sẽ không nói những điều không thực, chúng ta sẽ không nói dối hoặc nói phóng đại. Rất khó phân định rõ ràng giữa nói dối và đại ngôn. Chúng ta sẽ chỉ nói những gì lợi ích, chỉ nói những gì đúng sự thật. Chúng ta sẽ nói những điều người khác muốn nghe và đôi lúc cũng có thể phải nói những điều họ không thích nghe nữa. Điều quan trọng là nói sự thật và nói những điều lợi ích. Khi có chánh niệm, chúng ta sẽ không ba hoa những điều vô nghĩa hay những chuyện ngồi lê đôi mách. Với chánh niệm, bạn sẽ dừng lại ngay khi thấy rằng cuộc nói chuyện này là vô ích. Những thiền sinh cố gắng thực hành chánh niệm trong lúc nói chuyện thường kể với tôi rằng, khi họ chánh niệm, họ không thể tiêu hóa nổi những loại chuyện phiếm vô bổ về phim ảnh, về thời trang hay ngôi sao điện ảnh…Họ không còn hứng thú để nghe và nói những chuyện đại loại như vậy nữa. Đây là một sự tiến bộ lớn, bởi vì con người ta thường phí phạm rất nhiều thời gian vào những câu chuyện phiếm vô bổ như thế. Vì vậy, cho dù bất kể thế nào đi nữa, bạn cũng hãy cứ cố gắng hết sức giữ chánh niệm. Chánh niệm sẽ có nhiều mức độ và chất lượng khác nhau và khi có chánh niệm thì rồi sẽ có tỉnh giác. Hỏi: Tôi có một khó khăn là, khi chuẩn bị ngủ tôi thường theo dõi tâm mình và sau đó lại không thể ngủ được nữa! Đáp: Rất tốt, tại sao lại cứ phải lo lắng về chuyện không ngủ được làm gì nhỉ! Muốn bắt mình ngủ, đó là một loại tham, đó là lý do tại sao đôi khi người ta thường uống thuốc ngủ. Con người ta thường thích thú hưởng thụ trạng thái tâm buồn ngủ lơ mơ, đờ đẫn như vậy, và họ rất thích chìm đắm trong một giấc ngủ thật sâu. Đây quả là một loại thú vui kỳ lạ, bởi vì khi ngủ say bạn không biết là mình đang ngủ, nhưng bạn vẫn cứ thích ngủ. Khi tỉnh dậy bạn nói: “Ôi, một giấc ngủ thật tuyệt vời!”. Đúng, nó có thể làm cho bạn cảm thấy tươi mới và sảng khoái hơn, điều đó thì tốt. Nhưng đừng lo lắng về chuyện không ngủ được. Nếu bạn có thể giữ cho mình tỉnh thức bằng việc theo dõi chính trạng thái tâm buồn ngủ của mình, thì đây là một dấu hiệu rất tốt, bởi vì hầu hết mọi người đều không thể làm được điều đó. Đa phần mọi người chỉ cảm thấy buồn ngủ rũ ra và họ không thể quan sát nổi trạng thái tâm buồn ngủ đó, họ không thể theo dõi được cái tâm đờ đẫn, rũ rượi của mình, họ không thể theo dõi được tâm mình đang mất dấu đề mục, mất sự hay biết rõ ràng. Do đó, nếu bạn có thể theo dõi được cái tâm buồn ngủ đó, và bởi vì có chánh niệm về nó nên bạn tỉnh thức và nếu bạn cứ tiếp tục chánh niệm như thế, thì đó là một dấu hiệu rất tốt đối với một thiền sinh. Hãy ra quyết định cho mình, chẳng hạn như: “Bây giờ là lúc tôi đi ngủ đây”, thế rồi bạn có thể “tắt” cái tâm mình đi. Đó là điều tôi vẫn thường làm. Khi không muốn ngủ, tôi có thể rất tỉnh táo, còn khi muốn đi ngủ thì tôi quyết định trong tâm rằng: “Bây giờ tôi sẽ đi ngủ” và tôi thư giãn, thả lỏng toàn bộ cơ thể và tâm mình ra, cảm nhận được thân thể và tâm trí mình đang trở nên ngày càng thư giãn…ngày càng buông lỏng hơn. Đức Phật cũng dạy các vị Tỳ khưu cách đi ngủ và cách thức dậy như thế nào cho đúng. Đối với một thiền sinh thì cách đi ngủ và cách thức dậy là điều rất quan trọng. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản, Ngài nói: “Đừng cố ngủ”, bởi vì nếu bạn cứ cố ngủ, đôi lúc bạn cũng không thể làm được điều đó, và nếu bạn cố quá thì đó lại là một loại tham. Đó là một cách muốn thất niệm, đó không phải là một việc tốt. Vì vậy, bạn hãy quyết định: “Bây giờ tôi sẽ đi ngủ một cách chánh niệm”. Vâng, bạn có thể đi ngủ một cách chánh niệm. Đa phần mọi người, trước khi ngủ họ cứ lan man suy nghĩ đủ chuyện này chuyện kia, đó là một trạng thái mơ màng, rồi sau đó thì chìm vào giấc ngủ. Một thiền sinh giỏi trước khi ngủ không bao giờ suy nghĩ lung tung về bất cứ chuyện gì. Bạn chú ý vào cơ thể mình và ngày càng thư giãn, tĩnh lặng và bình an hơn. Bạn chỉ chú ý vào sự bình an, tĩnh lặng và thư giãn này, bạn vẫn hay biết được điều đó mà không hề suy nghĩ. Tâm bạn rất yên tĩnh và không hề có những ý nghĩ nặng nề hay mơ mộng vẩn vơ, rồi sau đó bạn ngủ. Nhưng trước khi ngủ, bạn tự nhắc mình: “Tôi sẽ thức dậy vào 4 giờ sáng mai, khi thức dậy tôi sẽ chánh niệm, tỉnh táo, sảng khoái và sáng suốt”. Đây chính là cách chúng ta đi ngủ và thức dậy. Hãy cố gắng làm điều đó, rồi nó sẽ diễn ra như vậy. Hỏi: (nói thêm về vấn đề khó ngủ) Đáp: Nghĩa là bạn có thể ngủ tốt hơn khi ngồi thiền? Khi bạn thực sự mệt mỏi thì cần phải đi ngủ. Câu hỏi của tôi bây giờ là bạn ngủ trong bao lâu? Tôi nghĩ điều này sẽ xảy đến với tất cả mọi thiền sinh, ở một giai đoạn trong thiền, bạn sẽ hành thiền nhiều hơn và ngủ ít đi. Đôi khi, trong lúc đang ngồi thiền bạn chợt ngủ thiếp đi, có khi chỉ trong vài phút mà người không bị đổ và rồi lại thức dậy. Bạn có thể ước lượng được thời gian mình ngủ quên đi mất đó không, 5 phút hay 10 phút? Khi thức dậy trạng thái tâm của bạn như thế nào? Bạn có cảm thấy tươi mới, sảng khoái và tỉnh táo, sáng suốt không? Buồn ngủ trong lúc hành thiền không phải là một vấn đề lớn lắm. Nếu lúc thức dậy bạn cảm thấy tỉnh táo, sáng suốt và tiếp tục hành thiền được thì điều đó không thành vấn đề, nó cũng có lợi ích nhất định. Nhưng nếu chỉ sau 5 phút ngồi thiền mà bạn đã buồn ngủ và tiếp tục ngủ cả giờ đồng hồ sau đó, thì điều đó đúng là không tốt. Tuy nhiên, khi có chánh niệm bạn sẽ tỉnh táo hơn. Chánh niệm mang đến nhiều năng lượng hơn cho tâm bạn. Nhưng nếu bạn đã làm việc cả ngày và trước khi đi ngủ bạn ngồi thiền, thì lẽ tự nhiên là bạn sẽ bị buồn ngủ. Chắc các bạn đã từng được dạy rằng khi buồn ngủ phải niệm thầm: “buồn ngủ, buồn ngủ, buồn ngủ” rồi phải không? Làm như vậy sẽ khiến bạn tỉnh thức. Bởi vì khi bạn thấy được trạng thái tâm hôn trầm thì chính việc đó sẽ đem lại cho bạn thêm năng lượng. Tôi không biết giải thích điều đó ra sao, có thể một phần não bộ của chúng ta lúc đó ít hoạt động và “tắt” công tắc đi, nếu chú ý thì bạn sẽ tỉnh thức hay “bật” trở lại và vì vậy bạn lại tỉnh táo. Hỏi: Một số vị Tỳ khưu và những người khác đã giải thích câu: “sanh là khổ” nghĩa là không phải sự sanh của thân vật lý mà là sự sanh khởi của các ý niệm trong tâm, hay là tự ngã. Họ nói rằng đó mới là cách hiểu đúng đắn. Tuy nhiên, theo như định nghĩa ở trong kinh Tứ Niệm Xứ thì sanh chỉ có nghĩa là sự sanh của cơ thể vật lý này thôi. Đáp: Đúng vậy, chúng ta phải hiểu về khổ trong từng ngữ cảnh khác nhau, theo nhiều cách thức và chiều sâu khác nhau. Trong bài kinh này, tôi nghĩ câu “sanh là khổ” có nghĩa là bạn không kinh nghiệm được sự sanh là khổ theo nghĩa đau đớn. Bạn thấy rằng sanh là một điều bất toại nguyện. Bởi vì, bây giờ chúng ta không thể thấy được sự sanh của mình như thế nào, nó đã xảy ra từ rất lâu trước đây. Đó là nghĩa thông dụng của sanh (jāti), già ( jarā) và chết (maraṇa), nhưng khi quán sát trực tiếp các hiện tượng tâm - vật lý, chúng ta có thể thấy được sự sanh và diệt. Một số người muốn diễn dịch điều đó, rằng sanh là jāti (sanh ra) và diệt là marana (chết), nhưng tôi nghĩ điều này đi hơi quá xa. Nó có ý nghĩa và ngữ cảnh riêng cùng với chiều sâu riêng của nó. Dù sao, khi chúng ta thấy bất cứ một hiện tượng nào bất toại nguyện, không vừa ý thì chúng ta cũng thấy rằng sanh là bất toại nguyện. Nhưng nếu cứ nghĩ về sanh như là sự sanh của riêng mình và rồi đau khổ về điều đó thì đó không phải là giải pháp. Tri kiến về Pháp (dhamma) không làm cho chúng ta đau khổ. Bởi vì nếu thường xuyên đau khổ là khi đó có rất nhiều bản ngã trong đó. Chúng ta phải thấy ra được tất cả mọi thứ chỉ là bất toại nguyện và rồi xả ly, buông bỏ.1 like
-
Pháp phục Phật giáo Việt Nam Phật giáo được truyền vào Việt Nam bằng hai con đường là từ Ấn Độ và từ Trung Quốc truyền sang. Vì vậy, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng của hai nền tư tưởng lớn của Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Quốc. Riêng về pháp phục đầu tiên của tu sĩ Phật giáo Việt Nam do các nhà truyền giáo Ấn Độ mang tới theo hình thức Nam truyền Phật giáo là ba y và một bình bát. Đến khi đất nước Việt Nam bị Trung Hoa đô hộ và chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, bấy giờ người Việt Nam phải có y phục theo kiểu của người Trung Hoa. Nhưng đến khi đất nước chúng ta được độc lập, thoát khỏi sự thống trị của Trung Hoa, thì đến thời Đinh, pháp phục của tu sĩ Việt Nam mới được chế định. Và đến đỉnh cao của Phật giáo đời Lý Trần, áo mão của Tăng sĩ do vua ban tặng theo phẩm bậc của triều đình. Tuy nhiên, các nhà sư dân dã vẫn mặc y phục theo người dân Việt Nam. Truyền thống này vẫn còn tồn tại ở Phật giáo miền Bắc nước ta dưới hình thức chít khăn đen và áo nhuộm màu bằng vỏ cây, cũng như tu sĩ được thí chủ cúng dường vải màu nào thì may y màu đó. Vì vậy, có thể nói pháp phục của tu sĩ nước ta không đồng màu, không đồng loại vải, không đồng hình thức. Cho đến năm 1952, khi Tổng hội Phật giáo Việt Nam ra đời mới quy định lại vấn đề pháp phục như sau: Đối với cư sĩ thì mặc áo tràng năm thân màu lam. Sa di thì mặc áo nhật bình màu lam. Tỳ kheo mặc áo tràng màu nâu. Tỳ kheo Ni mặc áo tràng màu lam. Và khi làm lễ, để phân biệt Tăng Ni, chư Tăng mặc y hậu màu vàng và chư Ni mặc y vàng, hậu màu lam. Tuy quy định y màu vàng, nhưng người mặc y màu vàng chanh, người mặc y màu vàng nghệ, thành ra có nhiều y màu vàng khác nhau. Đến năm 2005, trước sự khác biệt nhiều y màu vàng như vậy, Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh đã khởi xướng Tăng Ni nên mặc y cùng một màu là màu vàng hoại sắc, thì kể từ đây mới có màu y thống nhất cho Tăng Ni. Và hiện nay, 80 phần trăm Tăng Ni của các tỉnh thành đã hưởng ứng việc thống nhất mặc màu y vàng hoại sắc. Tuy nhiên, Phật giáo Việt Nam còn có hệ Nam tông vẫn mặc y theo truyền thống Nguyên thủy và Phật giáo Khất sĩ mặc pháp phục riêng, nhưng cũng chọn màu vàng hoại sắc theo chủ trương của Giáo hội chúng ta.Chúng tôi kêu gọi chư tôn đức Tăng Ni nên mặc màu y thống nhất là màu vàng hoại sắc để chẳng những nói lên rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thống nhất tổ chức, thống nhất ý chí, thống nhất hành động, mà còn thống nhất về pháp phục, một hệ quả tất yếu của quá trình gần 30 năm hoạt động thành công trong lòng dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, màu y vàng hoại sắc của Tăng Ni Việt Nam đồng bộ thể hiện nét đẹp hòa hợp của giới Phật giáo chúng ta, sẽ tô đậm thêm sự hiện hữu vững mạnh của Phật giáo Việt Nam trong đất nước này dưới mắt của bạn bè thế giới đến thăm chúng ta. Vì vậy, quý Phật tử có phát tâm cúng dường y cho Tăng Ni, nên thỉnh y màu vàng hoại sắc như Giáo hội đã quy định, để tạo thêm nét hài hòa trong hàng tu sĩ Phật giáo Việt Nam. HT.Thích Trí Quảng (Nguyệt San Giác Ngộ 171)1 like
-
Khu này do người Trung QUốc đầu tư, và cũng do nhà thầu Trung Quốc thi công chính. Không biết lai lịch ông chủ này thế nào hết SP à.1 like
-
Kính Chào chú Thiên Sứ, Laido rất vui vì La kinh của Laido được chú "Trọng Dụng" Nếu mọi người đăng ký đủ số lượng thì Laido phải nhờ qua chú thẩm định nội dung đổi chỗ Tốn Khôn trên La kinh. Xin phép chú cho đặt tên la kinh này là: LA KINH LẠC VIỆT (dùng cho trường phái phong thủy lạc việt). Chúc Chú sức khỏe và thành công hơn nữa. Trân trọng Laido1 like
-
Robot VN: Ngạc nhiên chưa! 04/07/2010 10:30 Hồ Vĩnh Hoàng (bìa phải) cùng nhóm kỹ sư Tosy tại Automatica - Đức 2010 Ở tuổi 29, Hồ Vĩnh Hoàng và những chú robot do Công ty Robot Tosy của anh chế tạo đã gây ngỡ ngàng nhiều chuyên gia từ các cường quốc có trình độ công nghệ cao phát triển tại triển lãm tự động hóa lớn nhất thế giới Automatica - Đức. Dù VN không nằm trong bản đồ công nghệ cao của thế giới nhưng tại triển lãm Automatica 2010 vừa được tổ chức vào tháng 6-2010 ở Đức, những chú robot công nghiệp dịch vụ của Công ty Robot Tosy đã thực sự gây bất giờ cho nhiều chuyên gia đến từ những cường quốc có trình độ công nghệ cao phát triển. Giá rẻ, thông minh, những chú robot của Tosy đã khiến 7 đối tác đến từ Nhật, Mỹ, Đức, Ba Lan... ngỏ ý muốn làm nhà phân phối. Đam mê công nghệ cao Sinh năm 1981, Hồ Vĩnh Hoàng từng là đội trưởng đội robocon của Trường ĐH Bách khoa Hà Nội giành ngôi vô địch cuộc thi Robocon năm 2003, giờ là giám đốc Công ty Robot Tosy. Nhắc đến triển lãm tự động hóa lớn nhất thế giới Automatica, anh tự hào: “Với một dây chuyền “made in VN”, từ thiết kế cho đến hệ thống dây chuyền và các bộ phận như AC servo motor, bộ điều khiển, kết cấu cơ khí, phần mềm, hộp giảm tốc chính xác cao..., có thể xem VN đã tạo nên một cuộc cách mạng về giá trên thị trường robot toàn cầu tại triển lãm này, bởi giá robot của Tosy chỉ bằng 1/4 so với robot đến từ các cường quốc công nghiệp”. Hoàng tâm sự anh có niềm đam mê khám phá công nghệ từ khi còn nhỏ. Thích các loại đồ chơi công nghệ cao như máy bay, ô tô điều khiển từ xa... nhưng chỉ chơi một thời gian, Hoàng sẽ tháo tung tất cả ra để xem cấu tạo bên trong thế nào. Niềm đam mê khám phá công nghệ cao ấy cứ lớn dần lên và đến những năm cuối thời học sinh phổ thông, anh đã quyết định phải vào đại học và ra trường sẽ mở công ty chế tạo, sản xuất robot. Có thể với nhiều người, đó là một mơ ước không dễ thành hiện thực nhưng Hoàng bảo vì gia đình anh có truyền thống kinh doanh nên ý tưởng thành lập công ty sản xuất robot và đồ chơi công nghệ cao được mọi người hết sức ủng hộ. Những ngày đầu tiên vào học Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, Hoàng đã miệt mài dành thời gian cho việc nghiên cứu chế tạo chú robot bóng điều khiển từ xa có thể lăn, tiến, lùi sang phải, sang trái hay đi lại được trên nhiều địa hình. Mất nhiều thời gian nhưng thành công chỉ ở mức độ “động viên tinh thần”. Tuy thế, Hoàng vẫn không nản. Với cậu sinh viên này, chính sự khởi đầu ấy đã giúp anh nâng cao nhiều khả năng kỹ thuật điện tử, cơ khí để có thể tự tin nghiên cứu, chế tạo những sản phẩm khác, đặc biệt trong cuộc thi Robocon 2003. Ở cuộc thi này, Hoàng cùng đồng đội đã giành chức vô địch quốc gia nhờ một trận đấu đầy ấn tượng. Chiến thắng này đã giúp Hoàng một lần nữa thêm quyết tâm đầu tư vào lĩnh vực chế tạo robot và các loại đồ chơi sáng tạo như đĩa bay Tosy, vòng lửa diệu kỳ... Khởi nghiệp trong một lĩnh vực đầy mới mẻ, vị giám đốc trẻ măng của Công ty Robot Tosy cùng các đồng nghiệp đã phải đối mặt và vượt qua rất nhiều khó khăn về công nghệ, nhân sự, thị trường, vốn, đối thủ cạnh tranh... Hoàng thổ lộ: “Khó khăn lớn nhất của Tosy lúc đó là phải đơn độc đi tiên phong trong lĩnh vực sản xuất robot vì VN chưa có ngành công nghiệp robot, các ngành công nghiệp phụ trợ liên quan cũng chưa phát triển”. Những ngày đầu chưa có thương hiệu, Hoàng phải trực tiếp đi tiếp thị sản phẩm tại các siêu thị, trung tâm đồ chơi. Sau này, khi sản phẩm dần được nhiều người biết đến, anh đã lập các nhóm tiếp thị ở cả hai miền Nam, Bắc, đưa sản phẩm đến các hội chợ và những nơi đông người. Để có những thành công như hiện nay, Hoàng cho biết anh đã phải tự vạch ra “từng bước đi chính xác” từ ngày còn ngồi trên giảng đường và hy sinh gần như mọi thú vui của tuổi trẻ để thực hiện ước mơ lớn của mình. Phá giá thị trường robot toàn cầu Cao 1,25 m, nặng 45 kg, robot Topio Dio của Tosy đã thực sự gây nên ngạc nhiên lớn tại triển lãm Automatica. Topio Dio có 3 bánh xe di chuyển, 28 bậc tự do tương đương với các khớp, có thể vận hành từ bất cứ nơi nào và dịch chuyển tới bất kỳ đâu nhờ một thiết bị điều khiển không dây hoạt động qua mạng internet, camera tích hợp và máy dò chướng ngại vật. Với hình dạng con người, robot này rất có tiềm năng trong việc giao tiếp, được sử dụng như người phục vụ bàn kiêm bartender thân thiện cho các nhà hàng, khách sạn. Topio Dio có khả năng thay thế con người để giải quyết những công việc trong những khu vực nguy hiểm như phun hóa chất, bưng bê ở vùng nhiễm xạ hay nhiều trường hợp cứu nạn khác. Không chỉ gây bất ngờ lớn vì robot VN được sản xuất ở mức độ công nghệ rất sâu nhờ các kỹ sư VN tự viết phần mềm phức tạp cho nó trong khi nhiều tập đoàn lớn vẫn phải mua phần mềm từ các công ty khác, Topio Dio cùng với các robot ở nhóm công nghiệp của Tosy, như Parallel robot, Scara robot, Arm robot và robot đánh bóng bàn quen thuộc, còn mở ra cuộc cách mạng về giá với mức chỉ bằng 1/4 so với những robot có tính năng tương đương trên thị trường thế giới. Hồ Vĩnh Hoàng hào hứng: “Parallel robot của Tosy chỉ có giá 5.500 USD, trong khi sản phẩm tương đương cùng loại của Adept là 45.000 USD, của Fanuc là 33.000 USD. Chính vì giá cả hợp lý nên chỉ trong vòng 4 ngày tại triển lãm ở Đức, đã có 7 đối tác đến từ các nước công nghệ cao muốn làm nhà phân phối các sản phẩm của Tosy”. Robot của Tosy trình diễn tại triển lãm tự động hóa lớn nhất thế giới ở Đức vào tháng 6-2010 - Ảnh: Thủy Hàn Nhanh chóng nắm được xu hướng mới, Hoàng cho biết thời gian tới, anh và Tosy sẽ tập trung vào sản xuất robot công nghiệp giá rẻ. Hoàng bảo chính giá thành cao của robot công nghiệp hiện nay là yếu tố khiến các nhà sản xuất phải cân nhắc kỹ lưỡng và hạn chế trong ứng dụng vì mức đầu tư rất lớn. Chỉ khi được sản xuất với giá rẻ, robot công nghiệp mới có thể xuất hiện rộng rãi trong các nhà máy. Chính vì thế, đây là một thị trường rất tiềm năng và đang còn bị bỏ ngỏ. Với mục đích đưa sản phẩm đến mọi nơi, thay đổi cách sống, cách làm của con người, Hoàng chia sẻ: “Sau triển lãm Automatica 2010, tôi cùng các kỹ sư của Tosy tập trung phát triển các loại robot dịch vụ để phục vụ cho yêu cầu thị trường trong tương lai. Robot công nghiệp Tosy đang được ứng dụng trong nhà máy sản xuất đồ chơi của công ty và từng bước đưa vào các nhà máy sản xuất của VN”. Ở tuổi 29, Hoàng còn rất nhiều hoài bão lớn. Không chỉ dừng lại ở sản xuất, chế tạo robot, chàng kỹ sư trẻ này còn muốn mở rộng kinh doanh sang cả nhiều lĩnh vực khác như cơ khí chính xác, lắp rắp mạch in, đúc và luyện kim... Theo Yến Anh / NLĐ ------------------------------------- Nhời bàn của Thiên Sứ: Theo tôi đây chính là những công nghệ của thế giới tương lai. Nếu muốn "đi tắt, đón đầu" thì đây chính là cơ hội đầu tư. Còn đầu tư vào "đường sắt cao tốc" thì chán hẳn. Về năng lượng trong tương lai cũng sẽ không phải thủy điện và điện than.1 like
-
Chú đang ký ít nhất một cái. Tạm thời vậy đi. Mặc dù chú đã có một cái Laido tăng và theo chú đi khắp thế giới. Chú sắp sửa mở một lớp Phpong Thủy Lạc Việt do chú trực tiếp giảng, nếu mọi chuyện suôn sẻ thì mỗi học viên sẽ mua một cái.1 like
-
Chà chà. Bấy lâu nay các phong thủy sư đều dùng la kinh của Trung Quốc sản xuất mà thực tình hiểu được bao nhiêu cũng không ai khẳng định. Nay có Laido sản xuất ra La Kinh Tiếng Việt thì thật còn gì đáng trông đợi hơn thế nữa đây! Lão trước nay vẫn dùng đồ của Tàu mà trong lòng không khỏi ngậm ngùi cho nền phong thủy nước nhà, ngậm ngùi cho công cụ của các phong thủy sư là cái La Kinh. Thật hoan nghênh anh Laido đã có tinh thần dân tộc. Phong Thủy Lạc Việt thì phải dùng La Kinh tiếng Việt! Lão đăng ký 1 xuất!1 like
-
Luận tuổi Lạc việt không quan tâm đến "mèo vồ chuột" đâu nhé ! Tôi có người bạn tuổi Tý lấy vợ tuổi Mão mà xây nhà cao 7 tầng, chồng đi con Mec , vợ đi con Yaris (!), con cái đầy đủ có thấy "vồ" đâu nào.Nếu bạn tin vào Luận tuổi LV thì như tôi đã nói ở trên, còn nếu tin theo "nhiều người lớn" thì tùy vợ chồng bạn quyết định.1 like
-
- Cưới tháng 6 Âl : OK !- Cần chú ý quan hệ Mẹ chồng - Nàng dâu nhé (Canh phá Giáp, Kim khắc Mộc) - Sinh năm 2011 : Kim mẹ khắc Mộc con, Thủy bố tương sinh cho Mộc con -> không phát được. - Sinh năm 2012 : Hỏa con khắc Kim mẹ, Thủy bố khắc Hỏa con -> chưa được tốt lắm nhưng đỡ xấu hơn năm 2011. Cưới năm nào cũng được trừ 3 năm : Hợi-Tý-SửuSinh con năm : 2011 Có thể cưới năm 2011 hoặc 2012, không nên cưới năm 2013.Vợ chồng cùng tuổi "năm kỵ đẻ con gái, năm hợp đẻ con trai", năm kỵ : 2012,2013 - năm hợp : 2014,20151 like
-
Giải thích về khả năng của người hút tảng đá 42kg 05/07/2010 10:23:15 - Hút tảng đá 42kg trên bụng và trán, câu chuyện tưởng như phi lý, nhưng nó đã được anh Tạ Quang Thanh, giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao Hải Phòng minh chứng cho hàng nghìn người. Khả năng đặc biệt của anh Thanh từ đâu có? Chuyên gia khoa học lý giải như thế nào về hiện tượng này? TIN LIÊN QUAN Người tự vắt sạch nước trong dạ dày BS Dư Quang Châu (giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Cảm xạ học Việt Nam): Do cơ thể có nguồn từ trường mạnh Cảm xạ là khả năng nhạy cảm của con người với bức xạ của vật thể. Cảm xạ (tiếng Pháp: radiesthésie; Tiếng Anh: radiesthesia; Xuất phát từ tiền tố radi trong tiếng Latin có nghĩa là "phóng xạ" và từ aisthesis trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "nhạy cảm") chỉ kỹ thuật thực hành, tìm kiếm các dòng nước ngầm, khoáng vật hoặc các vật thể bị giấu kín. Ngày nay, cảm xạ được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: Y học, kinh doanh, nông nghiệp, phong thuỷ, kiến trúc, xây dựng... Anh Tạ Quang Thanh hút chiếc điện thoại đi động trên trán. Sở dĩ một số người có khả năng hút đồ vật là do trong họ có nguồn từ trường mạnh. Còn với người bình thường có luyện tập, sự hút dính đồ vật là do sức mạnh tiềm tàng được khơi dậy nhờ quán tưởng, vận khí... giống khí công. Lần đầu học cảm xạ, con người như có cảm giác ngồi đồng, đau đầu, nhưng rồi đi vào trạng thái rung động thư giãn, từ đó kích thích cơ thể tự cân bằng. Trong mỗi con người đều tiềm ẩn khả năng đặc biệt, nếu không biết khai thác, vận dụng nó thì khả năng này sẽ dần mất đi. Khi học cảm xạ học, các học viên phải tập trung cao độ, sử dụng con lắc giọt nước, đũa L và đũa Michael Trần Văn Ba. Không giống như các lớp học bình thường, ở đây chúng tôi sử dụng nhạc chầu văn, trống cơm và nhạc Trịnh Công Sơn để làm nền cho các bài tập tạo năng lượng, tăng đột biến trong cơ thể người luyện tập. Cảm xạ khơi dậy những tiềm năng trong con người, giúp các học viên nâng cao sức khoẻ, ngăn ngừa bệnh tật, tăng cường khả năng nhạy cảm để có lợi cho chính mình và người khác. BS Đặng Văn Quế (nguyên chuyên viên pháp y, Tổ chức Giám định Pháp y TW, Bệnh viện Việt Đức): Sức mạnh phi thường Một số người gọi những người hút được các vật này là người nam châm, nhưng người nam châm chỉ hút được các vật bằng kim loại còn người có khả năng đặc biệt thì hút được rất nhiều vật. Khi học cảm xạ, con người có khả năng hút được các vật nhỏ, ở đây anh Thanh đã làm được điều kỷ lục là hút vật nặng, bởi chính cơ thể anh đã có một sức mạnh phi thường, lại được tập luyện, cổ vũ nên sức mạnh càng tăng lên. Với sức mạnh này, anh có thể chống đỡ được bệnh tật, thậm chí còn chữa được một số bệnh cho người khác. GS Vũ Hoan (chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học & Kỹ thuật Hà Nội): Có thể điều chỉnh được người khác Trong con người có mười mấy tỷ nơron thần kinh nhưng mới sử dụng được khoảng 10%. Lực hút là biểu hiện sức mạnh của con người, mà khi con người có sức khoẻ thì có khả năng chống lại các bệnh tật, chống lại biến đổi khí hậu. Đặc biệt khi có năng lượng mạnh thì có thể điều chỉnh được người khác. Còn khả năng chữa bệnh thì khi mình có năng lượng lớn mà truyền cho người khác, đối với mình như là sự tập luyện, đối với người khác là sự tiếp nhận năng lượng, làm họ khoẻ hơn. (Còn nữa) Phạm Hằng (ghi)1 like
-
Đồng ý với ý kiến của Hoàng Triều Hải. Xem phong thủy phải đến tận nơi mới biết được. Vì những nguyên nhân như HTH đã nói. Có lần tôi đến xem cho một khu siêu thị cho thuê. Mặc dù đã phát hiện hết các cái xấu. Nhưng nó chưa đến mức xấu để hầu hết các Cty thuê gian hàng làm ăn không quá 1 năm thì lại ra đi vì lỗ. Cuối cùng - cũng do "may thày phúc chủ" - tôi nghi ngờ trên nóc nhà có vấn đề, bèn chịu khó đi bộ lên tận tầng mái. Thì ra ở đó có một hòn non bộ rất to, đặt chính ình chính giữa. Trước đây họ tận dụng sân thượng bán Cafe nên trang trí như vậy. Đó cũng là lý do mà tôi thường lưu ý anh chị em Phong Thủy Lạc Việt là tuyệt đối không có hòn non bộ trên các tầng lầu - dù là trong bể cá. Tề Thiên đại thánh bị trấn một hòn núi còn ngóc đầu không nổi http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/unsure.gif .Bởi vậy, đôi khi có những chi tiết nhỏ, làm hỏng đại cuộc trong phong thủy là vậy. Tư vấn trên mạng thường không thể rốt ráo. Nhưng hy vọng sẽ khắc phục được những nét cơ bản.1 like
-
Quí vị và anh chị em quan tâm thân mến. Hôm qua mùng 2/ 7 2010 Câu Lạc Bộ của FPT tôi đã có buổi thuyết trình về tính khoa học của Phong thủy Lạc Việt. Tôi đã xác định trước tất cả những nhà quản lý của FPT là chỉ có Phong thủy Lạc Việt mới xác định được tính khoa học của nó, trên cơ sở tiêu chí khoa học cho một lý thuyết hoặc một phương pháp được coi là khoa học. Sau đó gần hai tiếng đồng hồ là sự trả lời những câu hỏi liên quan. Dưới đây là những hình ảnh minh họa cho buổi nói chuyện. Một góc mặt tiền của Tập đoàn FPT Trước giờ giao lưu Trong buổi nói chuyện có những câu hỏi phức tạp. Nhưng phần lớn không vượt ra ngoài những câu phản biện lặp lại nhiều lần trên diễn đàn và những thực tế mà tôi đã va chạm. Tuy nhiên có một vấn đề được đặt ra: - Sông Hồng và cả sông Mê Kong xuất phát từ Trung Quốc. Nếu có những sai lầm trong xây dựng giống như trấn yểm về phong thủy thì điều gì sẽ xảy ra? Tôi đã trả lời: - Nếu xét theo quan điểm Phong Thủy Lạc Việt thì họ không có khả năng này. Vì tất cả mọi yếu tố liên quan đến phía Nam Hà Đồ về độ số, quái vị đều bị sai. Nếu xét theo phương pháp ứng dụng của Phong thủy theo cổ thư chữ Hán thì chắc chẳng cần chờ đến bây giờ. Vấn đề còn lại là họ có khả năng làm điều này không. Một giải non sông còn lại của Việt tộc là một tổ hợp cấu trúc phong thủy hoàn hảo tồn tại tương đối độc lập với hình thể địa lý xung quanh xét về mặt phong thủy. Bởi vậy, nhưng sai lầm về kiến trúc trong xây dựng phong thủy của các quốc gia xung quanh sẽ ảnh hưởng rất ít tới Việt Nam. Buổi giao lưu đã kết thúc tốt đẹp.1 like
-
Tý xung Ngọ, Mão xung Dậu thôi nhé, Tý và Mão thì Tý Thủy sinh Mão Mộc!1 like
-
Nếu đây chính là cái casino bị đóng cửa thì chắc nhiều người biết chủ của nó. Qua căn nhà này - hình nào khí đó - thì chủ của nó là người từng bỏ xứ ly quê, tay trắng tạo nên sự nghiệp. Tham vọng rất lớn. Nhưng tiếc thay, lại thiếu cân bằng giữa thực lực và ý chí của mình. Anh chị em xem lại các bài tập của anh chị em Phong thủy Lạc Việt khóa I về tòa nhà chung cư Thuận Kiều Plaza: Đây là hình thể gọi là "Nhị quỷ đài kiện". Dễ sinh tranh chấp , kiện cáo. Muốn khắc phục và sử dụng được tòa nhà này cần đập hai cái tháp có mái nhọn và làm lại mái ở giữa.1 like
-
1 like
-
THÁNG HAI Nguyệt kiến Mão: Kinh trập - Xuân phân. (Từ ngày 5-6 tháng 3 DL) Trước Xuân phân 1 ngày là Tứ ly Sau Kinh trập là Tam sát tại phương Tây, trên Tân, Dậu, Tuất, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Mão: Không nên dùng việc, phạm cái đó tổn gia trưởng, và con trai út (thiếu phòng), con cháu gặp ôn dịch, nghèo khổ, khóc lóc, lớp, lớp chồng chất, trong vòng 3-5 năm, xa hơn thì 9 năm, bị kiện ngang trái, bại vong. Tháng hai vào ngày Mão đều là ngày trời đất chuyển sát. NGÀY TRỪ là ngày Thìn: Không lợi cho dời chỗ ở, về nhà mới, hôn nhân, khai trương các loại, mưu trù làm việc, phạm cái đó trong vòng 60 ngày, 120 ngày, chủ bị gọi vì việc quan, tốn của, bại ruộng vườn, tằm, mất sản nghiệp. Ngày Giáp Thìn, Mậu Thìn, sát tập trung cung càng xấu, trong ba năm mất người trưởng trạch, cái vật làm quái hỏa, trộm vào lừa. NGÀY MÃN là ngày Tị: Vãng vong, Thiên không, không nên động thổ, nếu tu tạo trăm việc đều tốt. Nếu như ở hai cung Càn, Tốn khởi tạo đều tốt, xuất hành, khai trương, hôn nhân, nhập trạch, trong có Hoàng la, Tử đàn, Điền đường, Khố trữ tinh, che, chiếu, trong năm đó nhà sinh quý tử, ruộng, tằm hưng vượng, suốt đời tốt lành. NGÀY BÌNH là ngày Ngọ: Chỉ nên làm sinh cơ, như các việc hôn nhân, tu tạo, dùng cái đó trong 60 ngày, 120 ngày bị gọi vì việc quan, tổn nhân khẩu, 3-6-9 năm lạnh lùng mà lui. (Sinh cơ là thọ mộc (?) và sinh cơ - tức quan tài và gò mả làm trước, khi chủ còn sống). NGÀY ĐỊNH là ngày Mùi: Không lợi việc hôn nhân, khởi tạo, hệ âm cung, chủ việc không nên hướng vào trong nhà, động làm nên nhất thiết sửa sang phía ngoài nhà thì sẽ không hại. Ất Mùi là Bạch hổ nhập trung cung, càng xấu, phạm cái đó tổn nhân khẩu. Là một tháng duy chỉ có một ngày Quý Mùi là thủy nhập Thái châu, do quý thủy gặp trường sinh tướng vượng việc đi (thương ?), trong đó có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng tinh, che, chiếu, lợi người sống lâu, thêm con cháu, tiến ruộng đất, rất tốt. Ngoài ra, mọi ngày Mùi đều bất lợi. NGÀY CHẤP là ngày Thân: Có Thiên nguyệt nhị đức, nên tu tạo, động thổ, mai táng, hôn nhân, khai trương, nhập trạch, xuất hành, và có Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân khố lâu, Bảo tàng tinh, che, chiếu, trong vòng 3-6-9 năm rất vượng, thêm nhân khẩu, sinh quý tử, tăng điền sản, rất tốt. Duy ngày Canh Thân là Xuân chính tứ phế, trăm việc phải tránh, kiêng. NGÀY PHÁ là ngày Dậu: Tiểu hồng sa, Thiên tặc, không lợi cho việc hôn nhân, tu tạo, phạm cái đó, trong vòng 60 ngày, 120 ngày bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, người âm trở lại, hao miệng nhỏ, tật bệnh. Tân Dậu chính tứ phế càng xấu, ngày đó là ngày Nguyệt phá, rất xấu. NGÀY NGUY là ngày Tuất: Nên hợp phản (Ghép ván gỗ thành quan tài), làm sinh cơ. Nếu tu tạo, đi gặp cha mẹ, hôn nhân thì không lợi con trai trưởng, trước là thoái điền địa, lửa, trộm vào lừa. Lại nói Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, càng xấu. NGÀY THÀNH là ngày Hợi: Thiên hỉ, có Thiên hoàng, Địa hoàng, Hoàng la, Tử đàn, Ngọc đường,Tụ bảo tinh, che, chiếu, nên hôn nhân, khai trương, nhập trạch, xuất hành, khởi tạo, an táng, định tảng (đặt móng), buộc giàn, trong vòng 60 ngày, 120 ngày tiến hoành tài, quý nhân tiếp dẫn, mưu việc rất tốt. Là Tân Hợi, Quý Hợi trong tháng đó tốt trên hết. NGÀY THÂU là ngày Tý: Kị hôn nhân, khởi tạo, nhập trạch, khai trương, phạm cái đó trong vòng ba năm tất thoái của, không tiến thêm, chủ về không kiện cáo thì sản nghiệp cũng hư hao. NGÀY KHAI là ngày Sửu: Không lợi về tạo tác, sửa sang, hôn nhân, gặp cha mẹ, phạm cái đó chủ về điền, tằm không có thu hoạch, trong nhà có người đẻ bị nguy, bị tai nạn về nước sôi và bỏng lửa. Đinh Sửu, Quý Sửu là sát nhập trung cung càng xấu, chủ về quan không, tổn nhân khẩu, tiểu nhân vào làm hại. NGÀY BẾ là ngày Dần: Hoàng sa, có Hoạt dược tinh nên ghép ván làm sinh cơ, nhưng bất lợi về tu tạo, động thổ, hôn nhân, nhập trạch, khai trương. Là ngày mà ngũ hành vô khí, bình thường mà dùng thì có thể, tuy không có hại lớn, không dùng là hay nhất. THÁNG BA Nguyệt kiến Thìn: Thanh minh - Cốc vũ. (Từ ngày 4-5 tháng 4 DL) Sau Thanh minh là Tam sát tại phương Nam, trên Tị, Ngọ, Mùi, kị tu tạo động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Thìn: Có Địa võng, Câu giảo, không lợi về tu tạo, an táng, hôn nhân, khai trương, phạm cái đó chủ bị bỏng nước sôi, bỏng lửa, chim ác (chim thiu) làm hại, tự do sinh nam, sinh nữ nhưng đều rất xấu xí, có ác tật, vô ích. Ngày Giáp Thìn, Mậu Thìn, là Sát nhập trung cung, càng xấu, chủ về trong ba năm nhà bị phá, người mất. NGÀY TRỪ là ngày Tị: Đinh Tị nên tu tạo, nhập trạch, di cư, động thổ, làm đồ dùng, hôn nhân, thì rất tốt. Kỷ Tị tạo tác, nhập trạch, cũng tốt. Nếu mai táng thì phạm trùng tang bất lợi dụng. Ất Tị có 10 thứ ác xấu. Tân Tị tuy có hỏa tinh, ngược lại có Xương quỷ (quỷ cuồng vọng), bại vong, lại là ngày thập ác phạt, không nên dùng. Quý Tị, Thiên thượng Không vong, lại phạm thổ quỷ cũng không nên dùng. Đây đều là tất ứng mọi việc. NGÀY MÃN là ngày Ngọ: Thiên phú. Giáp Ngọ có thổ quỷ. Bính Ngọ bình thường, không thể thấy tốt. Mậu Ngọ có Xương quỷ, bại vong, và phạm trùng tang, tức là an táng cũng thuộc không nên. Canh Ngọ là ngày thập ác, không thể dùng. Nhâm Ngọ là Thiên đức, Nguyệt đức, dùng là tốt vừa (thứ cát). NGÀY BÌNH là ngày Mùi: Cũng giống như tháng giêng, tháng năm, không nên dùng, tức là mưu trù nho nhỏ (tiểu tiểu doanh) là cũng không lợi. Nếu như Ất Mùi càng thêm xấu, hiểm. Cái số trực Thiên cang, lại phạm Câu giảo, Chu tước. NGÀY ĐỊNH là ngày Thân: Giáp Thân, Bính Thân nên phát chặt cây cỏ, phá đất, định tảng, buộc giàn, an táng rất tốt, trong 2-3 năm thêm con, cháu, tiến tài lộc. Nhâm Thân có Thiên đức, Nguyệt đức, Hoàng la, Tử đàn, Thiên tinh, Địa tinh, Kim ngân khố lâu tinh, che, chiếu, là ngày thập toàn rất tốt, rất lợi. Mậu Thân, Thiên cang, Không vong, Xương quỷ, bại vong, xấu. Canh Thân tháng giêng, tháng tư, bỏ, cũng xấu. Ngày Thân lại thuộc Vãng vong, xuất hành, xuất quân, phó nhậm (nhận việc đi trước) không lấy ngày này. NGÀY CHẤP là ngày Dậu: Ất Dậu nên tu tạo, nhập trạch, hôn nhân, khai trương, xuất hành. Quý Dậu an táng thì rất tốt. Đinh Dậu an táng thì tốt vừa. Ất Dậu (Kỷ Dậu?) có cửu thổ quỷ. Tân Dậu ở Chính tứ phế, không nên dùng. NGÀY PHÁ là ngày Tuất: Trực với Nguyệt kiến xung phá mọi việc, không nên dùng. Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, càng xấu. NGÀY NGUY là ngày Hợi: Thiên thành, có hung bạo. Kỷ Hợi có Hỏa tinh, có Văn Xương tinh, che, chiếu, học nên rất tốt, các việc còn lại tốt vừa. Ất Hợi dùng cũng tốt vừa. Tân Hợi đàn bà đó kim, "âm phủ đã đến kỳ quyết điều khiển", âm khí toàn thịnh, không có chỗ hợp ở dương gian. Đinh Hợi lại trực Hắc sát. Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp, ngũ hành không có khí, chủ về tuyệt nhân, lại là Thụ tử, việc không thể dùng. NGÀY THÀNH là ngày Tý: Hoàng sa, Thiên hỉ. Nhâm Tý tuy có Thiên đức, Nguyệt đức, là nhất bạch, chủ việc Mộc đả bảo bình chung (gỗ đánh vào bình quí cuối cùng), là nơi tắm gội ở phương Bắc, ngũ hành không có khí, phú lực nông, nhưng mưu trù nho nhỏ, làm thì có thể. Nếu như khai trương, xuất hành, nhập trạch, sửa sang, và hôn nhân, hạng (?), dùng ngày đó sẽ thấy xấu, bại, họa hại, tai thương. Ngày đó gọi là bình vỡ băng tiêu (phạn giải băng tiêu). NGÀY THÂU là ngày Sửu: Tiểu hồng sa, Thiên tặc. Đinh Sửu, Quý Sửu là sát nhập trung cung, không lợi cho tu tạo, hôn nhân, nhập trạch, phạm cái đó chủ thoái tài, tật bệnh, tranh tụng phải trái, xấu. Còn lại Sửu là cũng không tốt, phòng tiểu nhân hình hại. NGÀY KHAI là ngày Dần: Thiên tặc. Mậu Dần là Thiên xá, dùng ngày đó lại tốt. Nhâm Dần có Thiên đức, Nguyệt đức, chỉ nên mai táng và ghép ván làm sinh cơ, dùng cái đó thêm con cháu, tiến điền địa, thăng quan chức, tốt trên hết. Ngoài đó ra, Dần là tốt vừa, nhưng có lục bất thành, lục bất hợp ở đó, ngưng dùng cái đó, cuối cùng là bất lợi, nên cẩn thận cái đó. NGÀY BẾ là ngày Mão: Không nên tạo tác, hôn nhân, mai táng, nhập trạch, phạm cái đó tổn thương, tật đau, lãnh thoái, xấu cho trăm việc, không nên dùng. THÁNG TƯ Nguyệt kiến Tị: Lập hạ - Tiểu mãn. (Từ ngày 5-6 tháng 5 DL) Trước Lập hạ 1 ngày là Tứ tuyệt. Sau Lập hạ, Tam sát tại phương Đông, trên Dần, Mão, Thìn, kị tu tạo động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Tị: Tiểu hồng sa, không lợi cho xuất hành, giá thú, an táng, tạo tác, nhập trạch, khai trương, phạm cái đó chủ lãnh thoái, tật bệnh, ruộng, tằm không có thu hoạch, chết ở nơi xa không về, tài sản phá tán, ngày đó là ngày thụ tử. NGÀY TRỪ là ngày Ngọ: Hoàng sa. Canh Ngọ là Nguyệt đức. Duy Giáp Ngọ, Nhâm Ngọ có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, các tinh che, chiếu, nên tu tạo, hôn nhân, khai trương, xuất hành, nhập trạch, trong vòng 60 ngày, 120 ngày, tăng điền địa, tiến nhân khẩu, sinh quý tử, rất vượng. Ngày Bính Ngọ, Mậu Ngọ là thiên địa chuyển sát, dùng cái đó xấu. NGÀY MÃN là ngày Mùi: Thiên phú, Thiên tặc. Ngày Tân Mùi có Thiên đức, Nguyệt đức. Kỷ Mùi có Hỏa tinh, đều là tốt vừa, nên định tảng, tạo giàn, mai táng, nhưng hai việc hôn nhân, khởi tạo là không chịu được. Lại theo tu tạo lịch nói là ngày Bạch hổ nhập trung cung, dùng cái đó không thể là lợi, cần tra lại năm, tháng, ngày, nếu như có cát tinh, và mệnh cung cùng hợp phương thì được, nếu có dính với Nguyệt yếm, Thiên tặc, phạm những cái đó chủ về xấu, lãnh thoái. NGÀY BÌNH là ngày Thân: Chu tước, Câu giảo, không lợi cho xuất hành, an táng, hôn nhân, nhập trạch, chủ về bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, âm nhân, trẻ em sinh tai ách. Ngày Giáp Thân, Canh Thân là Sát nhập trung cung, càng xấu, tất chủ về tiểu nhân lôi kéo vào việc vạ, phá của, sinh con xấu như con quái, có tai nguy về thủy, hỏa. NGÀY ĐỊNH là ngày Dậu: Tuy có Cửu thổ quỷ, không nên động thổ, mai táng, nếu mưu trù nho nhỏ là ở vào tháng tư. Ngày Dậu là ngày tốt vừa, như hôn nhân, nhập trạch, nên cấm không dùng, chủ về xấu. NGÀY CHẤP là ngày Tuất: Có Câu giảo. Ngày Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, trăm việc đều rất xấu. Duy có ngày Giáp Tuất mưu trù nho nhỏ là tốt vừa, hai mơi bốn hướng mọi thứ Sát trầu trời đã có sửa sang, thì có thể hôn nhân, an táng, nhập trạch, khai trương, không có chỗ nào nên dùng, chủ về tổn trạch trưởng (người lớn nhất trong hộ), hại tay chân, hao tiền tài, rất xấu. NGÀY PHÁ là ngày Hợi: Vãng vong, Chu tước, Câu giảo, hại về bị gọi vì việc quan, tiểu nhân mùa thu thì tại đó chủ về tổn tiền tài, bị tạp bệnh. Quý Hợi ở tháng giêng, tư, bỏ, càng xấu. Là ngày Hợi trong tháng thì mọi việc đều kị. NGÀY NGUY là ngày Tý: Canh Tý là Nguyệt đức. Bính Tý, Mậu Tý, khởi tạo, hôn nhân, hưng công, động thổ, xuất hành, khai trương, di đồ thì sẽ tiến nhân khẩu, thêm con cháu, vượng điền, tàm (tằm), tăng tài sản, làm lớn thì phát lớn, làm nhỏ thì phát nhỏ. Giáp Tý là kim tự tử, ngũ hành vô khí. Nhâm Tý là mộc đả bảo bình, nơi mà phương Bắc tắm gội, phúc lực mỏng, lại là Sát tứ phế, dùng cái đó tổn nhân khẩu, chủ lãnh thoái, rất xấu. Hai ngày Giáp Tý, Nhâm Tý là thấy ngay tiêu sách (xơ xác cô đơn), tổn phá. NGÀY THÀNH là ngày Sửu: Thiên hỉ, Thiên thành, ngược lại, phạm Chu tước, Câu giảo, dùng cái đó bị gọi việc quan, khẩu thiệt, tiểu nhân vu vạ bừa bãi, mất hỏng. Đinh Sửu, Quý Sửu là Sát nhập trung cung, càng xấu, số ngày đó phạm không vong, phá tài, tiểu nhân hãm hại. NGÀY THÂU là ngày Dần: Giống như trên, ngày Tuất, Sửu, cũng không lợi. NGÀY KHAI là ngày Mão: Tân Mão là Thiên đức. Quý Mão, Ất Mão có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng tinh che, chiếu, xuất hành, hôn giá, tạo tác, khai trương, nhập trạch, mọi việc đều rất tốt, chủ về mưu việc được hanh thông, có quý nhân tiếp dẫn, tiến tài lộc. Ngoài đó ra các ngày Mão còn lại là tốt vừa. NGÀY BẾ là ngày Thìn: Mậu Thìn, Giáp Thìn là Sát nhập trung cung, không lợi cho tu tạo, khai trương, nhập trạch, an táng, phạm cái đó tổn nhân khẩu, lục súc không vượng, tài sản có bị mất. Ngày Canh Thìn tuy có trực Nguyệt đức, nhưng lại là Thiên địa chuyển sát chi ngưng. Bính Thìn, Nhâm Thìn, hỏa tinh, mưu trù nho nhỏ làm thì được, không nên khởi tạo, hôn nhân, dời đồ, khai trương, rất xấu. THÁNG NĂM Nguyệt kiến Ngọ: Mang chủng - Hạ chí. (Từ ngày 5-6 tháng 6 DL) Trước Hạ chí một ngày là Tứ ly. Sau Mang chủng, Tam sát tại phương Bắc, trên Hợi, Tý, Sửu, kị tu tạo, động thổ, mai táng. NGÀY KIẾN là ngày Ngọ: Giáp Ngọ là Thiên xá, tuy hệ chuyển sát, nhưng dùng cái đó tốt vừa. Những ngày Ngọ còn lại mai táng cũng không lợi, nếu dùng chủ về bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, cô quả, cùng khổ, bệnh tật. Cái tháng năm gặp Ngọ đều hệ Thiên địa chuyển sát. NGÀY TRỪ là ngày Mùi: Duy Ất Mùi là một ngày rất bất lợi, nếu lấy vợ, khai trương, nhập trạch, tu tạo, chủ về thoái nhân khẩu, sinh bệnh tật, tổn của. Ngoài ngày đó ra, những ngày Mùi còn lại, nếu làm việc nhỏ thì có thể dùng nhưng tốt vừa. NGÀY MÃN là ngày Thân: Thiên phú, Thiên hỉ. Giáp Thân, Bính Thân, Mậu Thân, nên an táng, khởi tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương xuất hành, thì tốt vừa, không nên động thổ. Canh Thân chỉ nên an táng, không nên tu tạo, nhập trạch, là ngày tây trầm, ngũ hành không có khí, không thể dùng, tuy là ngày táng, nhưng nguyệt lệnh không lợi. NGÀY BÌNH là ngày Dậu: Tiểu hồng sa, có Chu tước, Câu giảo, Đáo châu tinh, bị gọi vì việc quan, tổn trưởng, sơ, nhà xuống cảnh lênh đênh (linh đình), trăm việc không nên phạm cái đó, rất xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Tuất: Giáp Tuất, Canh Tuất, Mậu Tuất, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân bảo tàng, Điền bồi tầng, Châu tụ thâm, Giá mã quy, Thánh du thuận, các tinh che, chiếu, rất tốt. Nếu khởi tạo, hưng công, động thổ, nhập trạch, khai trương, hôn nhân, mai táng, mọi việc thì được gia quan, tiến tài, sinh quý tử, thêm hoành tài. Duy Bính Tuất, Nhâm Tuất là hai ngày Sát nhập trung cung, tuy có cát tinh chiếu giải, nhưng cuối cùng thì khó được ích. NGÀY CHẤP là ngày Hợi: Ngày Ất Hợi, nhỏ thì có thể tu sửa vì là tốt vừa. Đinh Hợi, Kỷ Hợi, cũng là tốt vừa. Tân Hợi là ngày âm phủ hỏa thoái. Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp, lại chính tứ phế, rất xấu. NGÀY PHÁ là ngày Tý: Thiên tặc, không nên cưới, đi gặp cha mẹ, tạo tác, an táng, nhập trạch, mọi việc phạm cái đó bị gọi về việc quan, tổn lục súc, điền sản không thu, rất xấu. Nhâm Tý là chính tứ phế, càng xấu, ngày đó trăm việc không lợi, phạm vào thụ tử. NGÀY NGUY là ngày Sửu: Đinh Sửu, Quý Sửu không nên giá thú, đi gặp cha mẹ, tạo tác, an táng, nhập trạch, phạm cái đó thì điền sản không thu, tài vật thất thoát, hổ cắn, rắn hại, nhiều sự xấu. Những ngày Sửu còn lại cũng không tốt, tổn lục súc, bị gọi vì việc quan, trăm việc không lợi. NGÀY THÀNH là ngày Dần: Hoàng sa, thiên hỉ. Bính Dần là Thiên đức, Nguyệt đức. Canh Dần, Mậu Dần, Giáp Dần có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân khố lâu, Ngọc đường bảo tàng, là những cát tinh cùng chiếu, hưng công, động thổ, định tảng, buộc giàn, nhập trạch, khai trương, trong vòng 60 ngày, 120 ngày sẽ thêm của, tăng, nhà cửa từ đó giầu thịnh, đường đời thấy an khang, rất tốt. Cũng là Nhâm Dần của tháng tuy có sao tốt chiếu ở trong giữa, chỉ có Sát tinh tương khắc mà thành tốt vừa. NGÀY THÂU là ngày Mão: Vãng vong, có Chu tước, Câu giảo, tiểu nhân hình hại, vạ nạn triền miên, bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, tổn lục súc, trăm việc không nên, rất xấu. NGÀY KHAI là ngày Thìn: Thiên thành. Bính Thìn có Nguyệt đức. Canh Thìn, Nhâm Thìn, có Hoàng la, Tử đàn, là những sao tốt che, chiếu, dùng ngày đó thì điền sản và lục súc hưng vượng, sinh quý tử, trăm việc rất tốt. Duy Mậu Thìn, Giáp Thìn là Sát tập trung cung, rất xấu. NGÀY BẾ là ngày Tị: Ất Tị, Tân Tị có Hoàng la, Tử đàn, che, chiếu, hưng công, tạo tác, động thổ, tu tạo đường trì, thương khố (làm hoặc sửa đường, ao, kho chứa), chuồng trại trâu, dê, hôn nhân, khai trương, xuất hành, nhiều ích lợi, nhà cửa, con cháu Xương (vượng) thịnh, điền sản bội thu, nhân khẩu an khang, rất tốt. Các ngày Tị còn lại không tốt. THÁNG SÁU Nguyệt kiến Mùi: Tiểu thử - Đại thử. (Từ ngày 7-8 tháng 7 DL) Sau Tiểu thử Tam sát ở phương Tây, trên Thân, Dậu, Tuất kiêng tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Mùi: Ất Mùi là Sát nhập trung cung, không lợi cho những việc tu tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương, lên quan, phạm cái đó không tốt, nhiễm ôn dịch, tổn nhân khẩu, mất của cải, rất xấu. NGÀY TRỪ là ngày Thân: Giáp Thân có Thiên đức, Nguyệt đức, Hoàng la, Tử đàn tinh che, chiếu, lợi cho việc dựng cột, khởi tạo, an táng, động thổ, khai sơn, phạt cỏ, xuất hành, khai trương, trăm việc đều tốt. Các ngày Thân còn lại (Bính Thân, Nhâm Thân) cũng rất tốt. Duy có Bính Thân là một ngày ngũ hành không có khí, không thể dùng. Ngày Canh Thân dùng phải thận trọng. NGÀY MÃN là ngày Dậu: Thiên hỉ, Thiên phú. Ất Dậu, Tân Dậu, phạt mộc, buộc giàn, đặt móng (định tảng), khởi tạo là tốt vừa. Ngày Kỷ Dậu là cửu thổ quỷ. Quý Dậu là ngày tiểu táng, lại phạm Hắc sát sở thuộc, cẩn thận có thể hung với việc cấp dùng. Ngày Đinh Dậu gặp ngày Mãn cũng bất lợi, đó là ngày hại, sợ rằng trong tốt có xấu, cuối cùng là không đẹp, dùng thì nên cẩn thận. NGÀY BÌNH là ngày Tuất: Có Chu tước, Câu giảo, lại phạm Đáo châu tinh, không lợi cho nhập trạch, hôn nhân, phạm vào cái đó chủ về bị gọi vì việc quan, không xấu nhiều. Duy ngày Giáp Tuất là một ngày Huyền nữ trộm sửa, tám hướng đều trắng, ngày đó ở 24 hướng chư thần chầu trời, có khí, có thể dùng. NGÀY ĐỊNH là ngày Hợi: Kỷ Hợi là Hỏa tinh. Đinh Hợi có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, các tinh che, chiếu. Ất Hợi có Văn Xương trực nhật, nên xuất hành, nhập trạch, hôn nhân, nhập học, tu tạo, động thổ, tham quan (đi gặp quan), thấy quý, chiêu tài lộc (thu hút được tài lộc), sinh quý tử làm việc lớn thì phát lớn, làm việc nhỏ thì phát nhỏ. Lại nói Văn Xương Ất Hợi tại Ngọ, Văn Xương là Thái dương ở cung Ngọ, là ngôi của Thái dương, cho nên Có Văn Xương tinh trực nhật là đã rất tốt. Tân Hợi là phụ nhân chi kim, âm khí của kim thịnh. Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp, ngày ấy ngũ hành không có khí, hai ngày đó không nên dùng. NGÀY CHẤP là ngày Tý: Hoàng sa. Bính Tý, Canh Tý lợi cho khởi tạo, hưng công, động thổ, làm kho chứa, nhập trạch, di đồ, khai trương, xuất hành. Mậu Tý là tốt vừa. Giáp Tý tuy là đầu của lục giáp, ở tháng giêng, tháng sáu, trực Thiên đức, Nguyệt đức nên không thể dùng Sát tự tử chi kim, ngũ hành không có khí, người bình thường không thể gặp được (bất năng dương), đó là Hắc sát ở phương Bắc, tướng quân chi khí. Nhâm Tý là mộc đả bảo bình, Bắc phương mộc dục chi địa, lại là chính tứ phế, càng kị dùng. NGÀY PHÁ là ngày Sửu: Tiểu hồng sa, ngày đó không có cát tinh (sao tốt), không thể mưu trù làm, là vạn bất đắc, khi đã cần chọn cẩn thận làm những việc nho nhỏ cấp dùng, nếu như khởi tạo, khai trương, xuất hành, hôn nhân, chủ về tổn lục súc, bị gọi vì việc quan. Đinh Sửu, Quý Sửu là Sát nhập trung cung, phạm cái đó sát nhân, xấu không thể nói. NGÀY NGUY là ngày Dần: Mùa hạ là quỷ thần không vong. Giáp Dần Thiên đức, Nguyệt đức, Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân khố lâu, Lộc bảo lâu, ích đế ngự tinh, che, chiếu, nhưng không lợi cho đi xa, định, tạo, nhập trạch, hôn nhân, cớ là Quỷ thần hung trạch chi ngưng, nếu khai sơn, mai táng, mưu trù trăm việc, trong vòng 60 ngày, 120 ngày sinh quý tử, gia nghiệp hưng vượng, có quý nhân tiếp dẫn, tiến sản nghiệp, rất tốt. Các ngày Dần còn lại tốt vừa. NGÀY THÀNH là ngày Mão: Thiên hỉ. Ất Mão, Tân Mão có Hoàng la, Tử đàn, Loan dữ (xe kiệu) bảo cái, Lộc âm, mã vãng, và Quỳnh ngọc Kim bảo, Thiên đế tụ bảo, mọi thứ sao tốt chiếu lâm, lợi cho nhập trạch, khai trương, xuất hành, hôn nhân, chủ về thêm con cháu, vượng điền sản, tiến hoành tài, tăng cư ốc (nhà ở), sinh quý tử, rất tốt. Các ngày Mão còn lại tốt vừa. NGÀY THÂU là ngày Thìn: Giáp Thìn có Thiên đức, với Bính Thìn và Nhâm Thìn là ba ngày tốt vừa, lợi thâu mới sửa sang, chủ về thêm điền sản, vượng lục súc, cũng nên an táng, mưu trù. Là Canh Thìn làm Đằng sà (rắn biết bay), Chu tước. Không nên dùng Mậu Thìn vì cũng không tốt. NGÀY KHAI là ngày Tị: Thiên thành, Thiên tặc, Phúc sinh. Chỉ nên Ất Tị, Quý Tị thì hưng công, động thổ, nhập trạch, khai trương, là tốt vừa. Các ngày Tị còn lại bất lợi, phạm Nguyệt yếm, xấu. NGÀY BẾ là ngày Ngọ: Vãng vong. Giáp Ngọ là Thiên xá, không hệ chuyển sát, lại trực Nguyệt đức, sát, cũng chỉ có thể dùng việc nhỏ, bởi vì có Thụ tử, khí đó không chọn vẹn. Bính Ngọ là táng nhật, nếu mưu trù nho nhỏ thì cũng là tốt vừa. Nhâm Ngọ, Canh Ngọ táng nhỏ là tốt vừa, các việc còn lại khác thì không nên. Mậu Ngọ là trùng tang, không thể dùng. THÁNG BẢY Nguyệt kiến Thân: Lập thu - Xử thử. (Từ ngày 7-8 tháng 8 DL) Trước Lập thu 1 ngày là Tứ tuyệt. Sau Lập thu, Tam sát tại phương Nam, trên Tị, Ngọ, Mùi, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Thân: Mậu Thân là Thiên xá (?). Giáp Thân, Nhâm Thân là ngày tỷ hòa, chỉ nên mai táng. Nhưng nguyệt kiến trên xấu, không thể dùng. Canh Thân là Sát nhập trung cung. Bính Thân là ngũ hành không có khí, càng xấu. NGÀY TRỪ là ngày Dậu: Vãng vong. Ất Dậu không có sao xấu, khai sơn, phạt cỏ, an táng, hưng công, định tảng, buộc giàn, sửa mới, tạo tác, xuất hành, khai trương, nhập trạch, di cư là tốt vừa. Kỷ Dậu là Cửu thổ quỷ. Đinh Dậu xấu bại. Quý Dậu là Phục kiếm chi kim, Bắc phương Hắc sát tướng quân chi khí, tổn thương, xấu, ác. Tân Dậu là Thiên địa chuyển sát chính tứ phế, xấu. NGÀY MÃN là ngày Tuất: Thiên phú, Thiên tặc. Bính Tuất, Nhâm Tuất là Chu tước, Câu giảo, Bạch hổ nhập trung cung, dùng ngày đó chủ về bị gọi vì việc quan, là không nhà cửa, suy bại, tổn nhân khẩu, tật bệnh triền miên, một lần dậy là một lần ngã, không rời giường chiếu, rất xấu, kị cái đó. NGÀY BÌNH là ngày Hợi: Đằng sà triền miên, tổn nhân khẩu, gặp việc quan, khẩu thiệt, vạ ngang, xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Tý: Bính Tý là lúc nước sạch sẽ, lại gặp vượng địa, trực Hoàng la, Tử đàn tinh, che, chiếu, nên tu tạo, an táng, gặp gỡ người thân, khai trương, xuất hành, nhập trạch, hưng công, động thổ, rất tốt. NGÀY CHẤP là ngày Sửu: Có Chu tước, Câu giảo, Đằng xà, Bạch hổ, chi sát, không nên dùng vào việc, phạm cái đó chủ thoái tài, hại nhân khẩu. Đinh Sửu, Quý Sửu là Sát nhập trung cung, đều không thể dùng, là ngày thụ mệnh. NGÀY PHÁ là ngày Dần: Giáp Dần là Chính tứ phế. Canh Dần, Mậu Dần, Bính Dần đều không tốt, mọi việc không nên, chủ có việc lên quan, thoái tài (giảm của), nhân khẩu thì nheo mắt nói nhỏ. Duy có 1 ngày Nhâm Dần có Nguyệt đức, chỉ lợi cho an táng. NGÀY NGUY là ngày Mão: Ất Mão là chính tứ phế, xấu. Quý Mão, Đinh Mão, có Thiên đức, Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân khố lâu, Ngọc đường tụ báu tinh, che, chiếu, nên khởi tạo, hôn nhân, giá thú, hưng công, động thổ, đặt móng, buộc giàn, khai trương, xuất hành, nhập trạch, thượng quan, làm kho chứa, chuồng trại trâu dê, chủ về gia nghiệp xương thịnh, nhân khẩu hưng vượng, sinh quý tử, tiến hoành tài, giàu sang lúa gạo. Các ngày Mão còn lại (Kỷ Mão, Tân Mão) là tốt vừa. NGÀY THÀNH là ngày Thìn: Thiên hỷ. Nhâm Thìn là Nguyệt đức, Canh Thìn, Bính Thìn là ba ngày táng, tốt vừa, không nên dùng vào việc lớn. Mậu Thìn, Giáp Thìn là Bạch hổ nhập trung cung, phạm cái đó trong 3-6-9 năm sách (?)gặp xấu. NGÀY THÂU là ngày Tị: Tiểu hồng sa, có Chu tước, Câu giảo, Đằng xà, mọi việc bất lợi, phạm cái đó bị gọi vì việc quan, nhân khẩu rất xấu. NGÀY KHAI là ngày Ngọ: Hoàng sa. Nhâm Ngọ, Nguyệt đức, Bính Ngọ, Mậu Ngọ, là ba ngày lợi về gặp cha mẹ (thân), giá thú tu tạo, mai táng, khai trương, xuất hành, nhập trạch, động thổ, mọi việc đó trong vòng 60 ngày - 120 ngày tài tụ tập phúc dẫn về, quý nhân tiếp dẫn, điền sản hưng vượng, người thân thuộc (quyến nhân) an khang. Các ngày Ngọ còn lại (Giáp Ngọ) là tốt vừa. Riêng Canh Ngọ rất xấu. NGÀY BẾ là ngày Mùi: Thiên thành, Thiên tặc. Quý Mùi là Hỏa tinh, Thiên đức. Kỷ Mùi là Hỏa tinh, nên tu tạo nhập trạch, đặt móng, buộc giàn, xuất hành, khai trương, là tốt vừa. Tân Mùi, Đinh Mùi dùng vào việc nhỏ, cũng tốt vừa. Riêng Ất Mùi là Sát nhập trung cung, nếu như ở trong sân đóng đinh, gõ vật, ồn, ào, gọi to, kêu gào,v.v.., làm kinh động, Thần sát trừng phạt gia trưởng, tổn thương đầu, mặt, tay, chân, rất xấu, chủ về huyết quang (bị về chảy máu), tai nạn về nước sôi, lửa bỏng, không đến việc vạ, tiểu nhân chiếm hại, kiện cáo, cãi vã, liên miên. Phàm là Sát nhập trung cung, ngày đó đều nên phòng cái đó, chọn mà tránh. THÁNG TÁM Nguyệt kiến Dậu: Bạch lộ - Thu phân. (Từ ngày 7-8 tháng 9 DL) Trước Thu phân một ngày là Tứ ly Sau Bạch lộ, Tam sát tại phương Đông, trên Dần, Mão, Thìn, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Dậu: Tiểu hồng sa, Thiên thành, nhưng khi ngũ hành tự bại, trăm việc đều xấu, thêm phạm Thiên địa chuyển sát càng xấu, gặp việc quan, nguy khi đẻ, người con gái đẹp bị tai nạn về nước, con cháu bỏ trốn tan tác, bại gia không dứt. NGÀY TRỪ là ngày Tuất: Ngày Canh Tuất là Thiên đức, Nguyệt đức. Mậu Tuất, Giáp Tuất nên hưng công, động thổ, nhập trạch, khai trương, hôn nhân, mọi việc dùng ngày đó là tốt vừa. Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, mọi việc không nên phạm, chủ về mất của, lãnh thoái, rất xấu. NGÀY MÃN là ngày Hợi: Thiên phú. Ất Hợi là Văn Xương quý hiển tinh. Đinh Hợi, Kỷ Hợi có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Hoa thái, Thao trì, Lộc mã, là những tinh che, chiếu, lợi cho khởi tạo, hưng công, động thổ, buộc giàn, nhập trạch, hôn nhân, giá thú, khai trương, xuất hành, doanh (mưu trù), là mọi việc làm lớn thì phát lớn, làm nhỏ thì phát nhỏ, trong vòng 60 ngày, 120 ngày, chậm là đủ vòng năm lại thấy tài thành, nhà sinh con quý, vượng điền sản và lục súc. Tân Hợi là ngày âm phủ ương khiển (phóng thích hết), không phải là chỗ cho dương gian dùng. Quý Hợi là ngày tận cùng của lục giáp, ngũ hành không có khí, không thể dùng. NGÀY BÌNH là ngày Tý: Vãng vong, Chu tước, Câu giảo, bị gọi vì việc quan, tổn trạch trưởng (chủ trang trại). Bính Tý là khi nước trong sạch (khiết tinh). Canh Tý là hỏa tinh dựa vào Thiên đức, Nguyệt đức, và Mậu Tý nữa là ba ngày lợi cho khởi tạo, giá thú, nhập trạch, xuất hành, động thổ, dùng ngày đó rất tốt. Giáp Tý cũng có Hỏa tinh, nhưng là Bắc phương Hắc sát chi khí. Nhâm Tý là lúc thảo mộc điêu linh (tàn hại), ngũ hành không có khí, không thể dùng. NGÀY ĐỊNH là ngày Sửu: Tân Sửu, Quý Sửu, Ất Sửu, Đinh Sửu là tốt vừa. Duy có Kỷ Sửu bất lợi cho mọi việc, không nên phạm cái đó, chủ về tật bệnh, sinh tai (vạ) xấu. * * * * * Tra ngày Định là Sửu ở Đổng công trong nguyên bản, có chép:- Tân Sửu, Quý Sửu, là ngày dùng việc thì tốt vừa. - Ất Sửu, Đinh Sửu cũng tốt vừa. - Duy có Kỷ Sửu là bất lợi. - Các nhà thố pháp (người làm việc chôn quan tài) nói Đinh Sửu, Quý Sửu phạm Chu tước, Câu giảo, lại có Bạch hổ, Sát nhập trung cung, những cái đó xấu. - Mà Tân Sửu thẳng mùa Thu là ngũ mộ, can chi không có khí, trăm việc kị dùng. * * * * * Tựa như khó nói cái đó là tốt, tuy có cẩn thận bàn về đầu mối mới nói là Đinh Sửu, Kỷ Sửu nên làm việc hôn nhân, giá thú.Nhưng 4 ngày Sửu là Đinh, Kỷ, Tân, Quý của tháng đó, đều có hung Sát, huống hồ Kỷ Sửu càng có thập ác chi hung (xấu vì có mười thứ ác), Xương quỷ (quỷ cuồng vọng), bại vong, đã nghiệm, dùng làm sao được, nếu như những ngày đó nói chung đã không dùng mới là ẩn cái mừng (một cách) cao minh, thế là vì sao? Duy có Ất Sửu tiếp đối các sách đều nói là tốt trên hết, hoặc có thể dùng? NGÀY CHẤP là ngày Dần: Hoàng sa. Canh Dần là Thiên đức, Nguyệt đức, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân bảo tàng, Điền đường khố, Châu tụ, Lộc đới mã loan, và Cung Diệu chúng cát tinh chiếu lâm, nên khởi tạo, hôn nhân, động thổ, di cư, khai trương, xuất hành, vượng điền sản, tiến hoành tài, tăng lục súc, thêm nhân khẩu, và con cháu cải đổi nhà, sân, gia đạo hưng thịnh. Các ngày Dần còn lại cũng tốt vừa, có thể dùng. Riêng Giáp Dần là chính tứ phế, xấu. NGÀY PHÁ là ngày Mão: Thiên tặc. Quý Mão, Ất Mão, dùng vào việc thì tốt vừa. Các ngày Mão còn lại bất lợi, có Chu tước, Câu giảo, bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, kiêm phạm Nguyệt yếm là xấu. Ất Mão là chính tứ phế, cũng xấu. NGÀY NGUY là ngày Thìn: Nhâm Thìn là lúc nước trong sạch. Bính Thìn nên phá đất, hưng công, khai trương, xuất hành, nhập trạch, hôn nhân, trăm việc thuận lợi, rất tốt. Mậu Thìn thảo mộc điêu linh. Canh Thìn là thiên địa cùng phế, không tốt. Giáp Thìn là Sát nhập trung cung, rất xấu. NGÀY THÀNH là ngày Tị: Thiên hỉ. Ất Tị, Kỷ Tị, có Tử đàn, Đới lộc, Dịch mã, tập tụ ở Khúc đường, mọi sao che, chiếu, nên hôn nhân, nhập trạch, hưng công, động thổ, khai trương, xuất hành, khởi tạo kho chứa, chuồng dê ngựa, đều rất tốt, trăm việc thuận lợi. Các ngày Tị còn lại là tốt vừa. NGÀY THÂU là ngày Ngọ: Phúc tinh, có thể yên tĩnh. Kiến, Phá lại xung. Nhâm Ngọ là Hỏa tinh, dùng vào việc là tốt vừa. Duy Mậu Ngọ có Hỏa tinh, bất lợi. Canh Ngọ cũng bất lợi. Bính Ngọ động thổ, an táng, các loại mưu trù cũng là tốt vừa, phạm cái đó tổn con cháu, bị gọi vì việc quan, lãnh thoái, xấu. NGÀY KHAI là ngày Mùi: Đinh Mùi, Kỷ Mùi, Tân Mùi, Quý Mùi đều hệ tốt vừa, ngày đó chỉ nên phạt cỏ, mở núi (khai sơn), nhổ cây, an táng. Duy Ất Mùi trăm sự không lợi, xấu, phạm thì suy, bại, tử, tuyệt. NGÀY BẾ là ngày Thân: Mậu Thân là Thiên xá. Canh Thân, Bính Thân là Thiên đức, Nguyệt đức, nên xuất hành, sửa mới, động thổ, hưng công, đặt móng, buộc giàn, hôn nhân, nhập trạch, an táng, khai trương, làm kho chứa, chuồng trâu, dê, lợn, lợi con cháu, vượng điền sản, tiến hoành tài, nhà cửa phát đạt, tốt nhất (thượng cát). Giáp Thân, Nhâm Thân là tốt vừa. THÁNG CHÍN Nguyệt kiến Tuất: Hàn lộ - Sương giáng. (Từ ngày 8-9 tháng 10 DL) Sau Hàn lộ, Tam sát tại phương Bắc, trên Hợi, Tý, Sửu kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Tuất: Bính Tuất là Thiên đức, Nguyệt đức, rất tốt. Các ngày Tuất còn lại bất lợi, nếu như dùng cái đó thì tổn của, bần cùng, rất xấu. NGÀY TRỪ là ngày Hợi: Thiên thành. Ất Hợi, Đinh Hợi, nên khởi tạo, khai trương, giá thú, nhập trạch, xuất hành, động thổ, mọi việc rất tốt, con cháu hưng vượng, giàu sang mãi mãi. Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp, không thể dùng. Tân Hợi thuần là khí âm, không có chỗ dùng ở dương gian. Kỷ Hợi là Hỏa tinh, chỉ có khởi tạo, hôn thú là tốt. NGÀY MÃN là ngày Tý: Hoàng sa, Thiên phú. Bính Tý là lúc nước trong sạch, kiêm có Thiên đức, Nguyệt đức, Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Tầng tiêu Liên châu (chuỗi nhọc trên tầng không), Lộc mã, là mọi sao tốt che, chiếu, nên hôn nhân, giá thú, khai trương, xuất hành, nhập trạch, hưng công, động thổ, đặt móng, buộc giàn, an táng, thêm nhà cửa, lợi con cháu, vượng điền sản, tiến lục súc, tăng hoành tài, trong vòng 60 ngày, 120 ngày sẽ thấy nghiệm. Nhâm Tý là Mộc đả bảo bình, thảo mộc (cây cỏ) điêu linh, rất xấu. Các ngày Tý còn lại không nên dùng việc. Giáp Tý có Hoàng la, Tử đàn là sao che, chiếu, có thể dùng. NGÀY BÌNH là ngày Sửu: Tiểu hồng sa, có Phúc tinh, bị Nguyệt kiến xung, phá, Chu tước, Câu giảo, bị gọi vì việc quan, kết chiếm mọi việc không lợi, nếu mưu trù nhỏ là trong đó có phúc sinh, cũng phải cẩn thận, có thể mượn dùng tạm, nhưng cuối cùng là không có lợi ích, dùng việc lớn vào cái đó thì thấy ngay là xấu. Đinh Sửu, Quý Sửu là sát nhập trung cung, càng xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Dần: Bính Dần là Thiên đức, Nguyệt đức. Canh Dần, Mậu Dần có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, mọi sao tốt che, chiếu, nên khởi tạo, giá thú, xuất hành, nhập trạch, khai trương, nhất thiết mọi việc, chủ về tiến của, sinh quý tử, hưng gia đạo, vượng lục súc, rất tốt. Nhâm Dần phạm Nguyệt yếm, Thụ tử, không giải. Nhưng Bính Dần, Mậu Dần, Canh Dần, tuy 3 ngày đó phạm Nguyệt yếm nhưng trong đó có mọi sao tốt che, chiếu, cho nên rất tốt. Duy có Giáp Dần là chính tứ phế, xấu. NGÀY CHẤP là ngày Mão: Tân Mão, Kỷ Mão có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, mọi sao tốt che, chiếu, nên giá thú, khai trương, xuất hành, nhập trạch, động thổ, sửa mới, khởi tạo, kho chứa, chủ về tiến của cải, tăng nhân khẩu, hưng gia đạo, vượng lục súc, rất tốt. Các ngày Mão còn lại là tốt vừa. Duy Ất Mão là chính tứ phế, xấu. NGÀY PHÁ là ngày Thìn: Vãng vong, Thiên đức, Nguyệt đức, tu tạo thì tốt ít, kị giá thú, khai trương, nhập trạch, đi ở (đồ cư), chủ về tổn lục súc, hao của, tụ tập khẩu thiệt. Những ngày Thìn còn lại càng không tốt. Mậu Thìn, Giáp Thìn là Sát nhập trung cung, rất xấu. NGÀY NGUY là ngày Tị: Ất Tị nên phạt cỏ, an táng, hưng công, tạo tác, hôn thú, khai trương, nạp thái (nộp lễ vật xin cưới), di cư, xuất hành, nhập trạch, chủ về thêm con cháu, gia đạo hưng thịnh, phát tài, rất tốt. Những ngày Tị còn lại là tốt vừa, chỉ nên làm việc nhỏ thì có thể dùng, không lợi cho hôn nhân, chuyển chỗ ở, khai trương, xuất hành, phạm cái đó xấu, bại. NGÀY THÀNH là ngày Ngọ: Thiên hỷ. Bính Ngọ là Thiên đức, Nguyệt đức, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân khố lâu là các sao che, chiếu, nên khởi tạo, giá thú, nhập trạch, xuất hành, thương mại, khai trương, động thổ, an táng, tốt cả, nhất thiết phát tài, giàu sang, thêm đinh (đàn ông), người hầu (nô tỳ) tự đến, mưu vọng thì thắng, luôn luôn. Các ngày Ngọ còn lại là tốt vừa, đều có thể dùng. NGÀY THÂU là ngày Mùi: Ất Mùi là ngày mộ. Tân Mùi, Quý Mùi là đặt móng, buộc giàn, là tốt vừa, nhưng không lợi cho khởi tạo, hôn nhân, xuất hành, nhập trạch, an táng, khai trương, thương khố (kho chứa), tổn, gặp ôn dịch. Ất Mùi là Chu tước, Câu giảo, Bạch hổ nhập trung cung. Đinh Mùi cũng xấu. NGÀY KHAI là ngày Thân: Thiên tặc. Mậu Thân là Thiên xá. Giáp Thân là khi nước trong sạch, có Hoàng la, Tử đàn, Tụ lộc đới mã, là những sao che, chiếu, nên an táng, làm sinh cơ. Nhưng ngày Tây trầm ngũ hành không có khí, huống hồ là đúng đêm mùa thu, khí hậu đó không nên khởi tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương. Duy an táng thì rất tốt, thêm con cháu, nhà cửa phát đạt. Các ngày Thân còn lại là tốt vừa. Canh Thân là Bạch hổ nhập trung cung, phạm cái đó, sát nhân, càng xấu. NGÀY BẾ là ngày Dậu: Lúc đó là giao giới hai mùa thu và đông, đều là Sát thương. Kỷ Dậu là Cửu thổ quỷ. Ất Dậu là ngày an táng. Các ngày Dậu còn lại cũng nên dùng vào việc nhỏ, nhưng ngũ hành không có khí, tên là bạo tán sát trùng, ngày đó không nên khởi tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương, dùng thì lãnh thoái, xấu. THÁNG MƯỜI Nguyệt kiến Hợi: Lập đông - Tiểu tuyết. (Từ ngày 7-8 tháng 11 DL) Trước Lập đông 1 ngày là Tứ tuyệt. Sau Lập đông, Tam sát ở phương Tây, Trên Thân, Dậu, Tuất, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Hợi: Không lợi cho khởi tạo, khai trương, hôn thú, nhập trạch, xuất hành, an táng, dùng cái đó bị gọi vì việc quan, tổn gia trưởng. Như Ất Hợi, Kỷ Hợi cũng chỉ nên làm nhỏ, mưu trù là có lộc. Tháng 10 ngày Kiến Hợi là không lợi. NGÀY TRỪ là ngày Tý: Tuy là ngũ hành vượng tướng, nhưng giao giới giữa hai mùa thu và đông, thoạt đầu có chuyển sát là xấu. Ngạn ngữ nói rằng "Chuyển Sát nhi thương vị khả khinh dụng", nghĩa là Chuyển Sát mà hại chưa thể coi nhẹ mà dùng. Giáp Tý là Thiên xá, không phải là Chuyển Sát, dùng cái đó không hại. NGÀY MÃN là ngày Sửu: Thiên phú, Thiên thành, Thiên tặc. Đinh Sửu, Quý Sửu là Sát nhập trung cung, không lợi cho khởi tạo, giá thú, cổ nhạc (trống khua nhạc cử) ồn ào, và cả tới việc các cách đóng đinh vào cửa (đinh môn các cách), làm kinh động thần Sát, tổn nhân đinh, hại lục súc. Những ngày Sửu còn lại cũng không nên dùng, chỉ có thể thanh hồn, nhập mộ. Phàm kim nhập cung Sửu là ngũ hành không có khí và phạm Nguyệt sát, Thiên tặc, xấu. NGÀY BÌNH là ngày Dần: Thiên phú, Thiên thành, có Đáo châu tinh, việc đến phủ quan mà sau đó tán. Duy có Giáp Dần là tốt trên hết. Nhâm Dần, Canh Dần là tốt vừa, sửa nho nhỏ thì có thể, làm lớn thì không nên. Những ngày Dần còn lại xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Mão: Ất Mão là Thiên đức. Tân Mão, Kỷ Mão nên động thổ, hưng công, định tảng (đặt móng), đặt nóc (thượng lương), giá thú, nhập trạch, xuất hành, khai trương, dùng các ngày đó tốt, có cát diệu chiếu lâm. Những ngày Mão còn lại là xấu. NGÀY CHẤP là ngày Thìn: Giáp Thìn là Thiên đức, Nguyệt đức, chỉ có thể sửa trộm, nếu khởi tạo, hưng công, giá thú, nhập trạch thì không lợi. Duy Bính Thìn có thể mở núi, phạt cỏ, an táng là tốt vừa. Mậu Thìn là Sát nhập trung cung, rất xấu. NGÀY PHÁ là ngày Tị: Tiểu hồng sa, lại phạm Chu tước, Câu giảo, mọi việc không nên. Duy Ất Tị có Thiên đức, mưu trù việc nho nhỏ thì có thể dùng, là tốt vừa. Đinh Tị là chính tứ phế, phạm cái đó thì lôi đình tan bại, việc ngang trái, mất của. NGÀY NGUY là ngày Ngọ: Hoàng sa. Giáp Ngọ là Nguyệt đức, có Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân khố lâu, mọi sao tốt che, chiếu, giá thú, khai trương, khởi tạo, động thổ, xuất hành, nhập trạch, an táng, rất tốt. Những ngày Ngọ còn lại là tốt vừa. Bính Ngọ là chính tứ phế, xấu. NGÀY THÀNH là ngày Mùi: Là tam hợp tích của nguyệt kiến. Ất Mùi là Sát nhập trung cung, kị xuất hành, an táng, giá thú, nhập trạch, khai trương, tu tạo. Duy Quý Mùi, hỏa tinh, Thủy nhập Tần châu, là quý nhân tinh, trực với Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân Liên châu tinh, che, chiếu, nên khởi tạo, giá thú, nạp thái (nạp lễ vật khi xin cưới), vấn danh (lễ ăn hỏi), xuất hành, gặp quý nhân, gia trạch an ninh mãi mãi, chủ về cả năm, 100 ngày được quý nhân tiếp dẫn, tiến điền sản, sinh quý tử, phát phúc, tốt trên hết. Các ngày Mùi còn lại tốt vừa. NGÀY THÂU là ngày Thân: Ngược lại phạm Đáo châu tinh (?), dùng cái đó bị gọi vì việc quan, tổn nhân khẩu. Duy Giáp Thân là khi nước trong sạch, thủy thổ trường sinh cư Thân (?), lợi cho an táng, hôn thú, xuất hành, nhập trạch, động thổ, khai trương, khởi tạo, mưu trù việc làm, chủ về trong vòng một năm, 100 ngày, quý nhân tự đến dẫn dậy, mọi việc toại ý. Canh Thân là Thụ tử, không có khí, lại là Sát nhập trung cung, phạm cái đó chủ sát nhân rất xấu. NGÀY KHAI là ngày Dậu: Ất Dậu là Thiên đức, là ngày táng, nên giá thú, gặp cha mẹ, nhập trạch, khởi tạo, khai trương, dùng các ngày đó là tốt nhất, chủ về tăng điền trạch, thụ chức, lộc, sáng cửa nhà (rạng rỡ), nô tỳ, nghĩa bộc tự đến xin làm công, mọi việc thuận toại ý. Kỷ Dậu là cửu thổ quỷ, an táng thì được, không nên dùng vào việc lớn. Các ngày Dậu còn lại là tốt vừa. NGÀY BẾ là ngày Tuất: Hỏa tinh. Giáp Tuất là Nguyệt đức, nên giá thú, khai trương, xuất hành, nhập trạch. Nhưng không lợi cho động thổ, khởi tạo, mai táng, di cư. Bính Tuất, Mậu Tuất, trăm việc đều xấu, bại. THÁNG MƯỜI MỘT Nguyệt kiến Tý: Đại tuyết - Đông chí. (Từ ngày 7-8 tháng 12 DL) Trước Đông chí một ngày là Tứ ly. Sau Đông chí, Tam Sát tại phương Nam, trên Tị, Ngọ, Mùi kị tu tạo động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Tý: Hỏa tinh. Giáp Tý là Thiên xá, là ngày tiến thần ích, bị Nguyệt Kiến xung phá, dùng cái đó chủ việc quan, phá bại, thỉnh Thiên xá không hợp với ngày đó. Bính Tý tuy trực lúc thủy vượng, Tiến thần làm địa chuyển, cũng cùng với Nguyệt Kiến tương xung, lúc đó thủy đoạn (nước hết), sức suối chảy cũng rất giảm, cuối cùng trong tốt có dấu hiệu xấu, chủ về Trước là có ích, sau là hại, nước hết bình vỡ. NGÀY TRỪ là ngày Sửu: Thiên ôn. Ất Sửu là quê hương kim mộ, nên tụ họp với cha mẹ, khởi tạo, xuất hành, khai trương, động thổ, phạt mộc, khai sơn, có cát tinh che, chiếu, chủ quý nhân tiếp dẫn, mưu vọng toại ý. Những ngày Sửu còn lại là tốt vừa. NGÀY MÃN là ngày Dần: Hoàng sa, Thiên phú, là thổ ôn, nhưng không nên động thổ. Vì có phúc tinh và Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, là các sao che, chiếu, nên hôn nhân, nhập trạch, khởi tạo, an táng, xuất hành, khai trương, trăm sự thuận toại ý. Nhâm Dần, Mậu Dần tốt trên hết. Bính Dần, Canh Dần tốt vừa. Giáp Dần là tốt vừa. NGÀY BÌNH là ngày Mão: Thiên tặc. Tân Mão, Hỏa tinh, lại phạm Chu tước, Câu giảo, dùng cái đó bị gọi vì việc quan, tổn tài vật, khởi việc tranh nhà cửa, thương tình nghĩa, lắm ác tật, xấu. Duy có một ngày Ất Mão là tốt vừa. Những ngày Mão còn lại chủ Phụ tử, huynh đệ bất nghĩa, tranh nhà cửa, tự thắt cổ, người ác cướp hại, phá tán, rất xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Thìn: Tuy nói tốt, lại có Thiên la, Địa võng, là hung họa, quý nhân không gặp, mưu trù việc làm không lợi, Sát nhập trung cung, phạm cái đó sát nhân, xấu. Duy chỉ có Nhâm Thìn tuy phạm Quan phù, nhưng trong có Thiên đức, Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, là những sao che, chiếu, chỉ nên an táng, an môn (đặt cửa), giá thú, nhập trạch, những việc còn lại là ngày dùng thận trọng, nhưng vẫn là ngày Tử khí, phạm Quan phù, Kiếp sát, không phải cung Quan phù cùng đến phương đó, cho nên không lợi. NGÀY CHẤP là ngày Tị: Ất Tị, Quý Tị, Kỷ Tị, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng là những sao che, chiếu, nên an táng, đặt cửa, hưng công, động thổ, giá thú, nhập trạch, xuất hành, khai trương, mưu trù làm mọi việc dùng ngày đó thêm nhân khẩu, vượng gia đạo, sinh quý tử, tăng điền địa, rất tốt. Tân Tị là tốt vừa. Đinh Tị là chính tứ phế, xấu. NGÀY PHÁ là ngày Ngọ: Thiên tặc. Nhâm Ngọ là Hỏa tinh, cạnh Nguyệt đức, cẩn thận, có thể nho nhỏ mà gấp thì dùng. Các ngày Ngọ còn lại thì dẫn đến ôn dịch, hại lục súc, và là ngày Nguyệt Kiến xung phá, xấu. Bính Ngọ là chính tứ phế, xấu. NGÀY NGUY là ngày Mùi: Đinh Mùi là khi nước đại hải trong sạch, dùng cái đó trăm việc tốt hết. Kỷ Mùi mai táng là tốt vừa. Những ngày Mùi còn lại cũng tốt. Hai ngày đó (?) dùng việc chủ về tiến nhân khẩu, tăng điền sản, được tài ngang (hoành tài). Tân Mùi, Quý Mùi mọi việc bất lợi. Ất Mùi là Sát nhập trung cung, càng xấu. NGÀY THÀNH là ngày Thân: Thiên hỷ. Nhâm Thân là Thiên đức, Nguyệt đức. Giáp Thân, Mậu Thân là lúc ngũ hành không có khí, trực Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân Bảo tàng khố lâu, là mọi sao tốt che, chiếu, nhất thiết làm là trăm phúc cùng đến (biền trăm), mọi việc thuận theo, sinh quý tử, vượng tài lộc. Ngày Canh Thân chỉ nên an táng và tu tạo nho nhỏ phía ngoài nhà chính thì có thể được, nếu như khởi tạo công lớn và hôn nhân, nhập trạch, khai trương thì thấy ngay vạ hung (xấu), chủ tổn gia trưởng, hại đàn bà và trẻ con, vì cái đó là ngũ hành không có khí, Sát thần tụ vào trung cung, Thiện nhân không thể giáng phúc. * * * * * Ta từ khi còn ít tuổi được cái đó, khi ở giang hồ không thiết, đến lúc trung tuổi và về già thấy có người chọn dùng ngày đó, sức làm trở ngại người đó không nghe(?), liền thấy ngay tai vạ. Qua đó có thể biết sách chọn ngày đó thực là có kinh nghiệm, không thể xem nhẹ. * * * * * Ngày Bính Thân dùng việc thì sợ phạm quỷ khốc, hiệu như thần, càng nên cẩn thận cái đó.NGÀY THÂU là ngày Dậu: Tiểu hồng sa, có Đáo châu tinh, việc đến quan mà sau đó tán, chỉ nên mai táng là tốt vừa, kị khởi tạo, khai trương, xuất hành, nhập trạch, giá thú, những việc trên phạm vào cung đó không lãnh thoái cũng tổn thương tài vật, xấu. Các ngày Dậu còn lại(?) cũng bất lợi. NGÀY KHAI là ngày Tuất: Vãng vong, tiểu táng cũng phải chuẩn bị đầy đủ và có vì cấp thì dùng ngày đó cũng chỉ tốt vừa. Như Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, mọi việc kị dùng. Giáp Tuất tám phương đều trắng, 24 hướng mọi thần trầu trời Nguyên nữ, trộm sửa ngày đó có thể dùng. NGÀY BẾ là ngày Hợi: Ất Hợi, Kỷ Hợi là những sao Văn Xương, Quý hiển, Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Bài châu (thẻ bằng ngọc), Thiên đăng, Tụ lộc Đới mã, Kim ngân khố lâu, Bảo tàng là những sao tốt che, chiếu, nên khởi tạo, mưu trù là trăm việc đều tốt, tám phương, 24 hướng đều lợi dụng cái đó, gia đạo phong dinh (nhiều thừa), sinh quý tử, tiến tài lộc, vượng lục súc. Đinh Hợi là ngày tốt vừa. Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp. Tân Hợi là ngày phụ nhân chi kim (vợ của kim), âm phủ quyết quán chi kỳ (kỳ ở âm phủ quyết trốn tránh). Một năm có bốn mùa, duy chỉ tháng hai là có ngày Tân Hợi tốt. Các ngày Hợi còn lại đều không thể dùng. THÁNG MƯỜI HAI (Tháng chạp) Nguyệt kiến Sửu: Tiểu hàn - Đại hàn. (Từ ngày 5-6 tháng 1 DL) Sau Tiểu hàn là Tam sát tại phương Đông, trên Dần, Mão, Thìn, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Sửu: Vãng vong, Hồng sa. Ất Sửu, Kỷ Sửu, nên khai sơn, phạt cỏ, hưng công, động thổ, giá thú, khai trương, xuất hành, nhập trạch, là ngày tốt vừa. Đinh Sửu là Sát nhập trung cung, không nên khua nhạc, trống, làm ồn ào, hôn nhân, mọi việc đó hại gia trưởng, trạch mẫu. Quý Sửu tuy vượng nhưng lục sát nhập trung cung, tổn thương nhân khẩu, xấu. NGÀY TRỪ là ngày Dần: Canh Dần là Hỏa tinh, Thiên đức, Nguyệt đức. Giáp Dần, Bính Dần, Nhâm Dần, đều có Hỏa tinh, và Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Bảo liễu (xe ngọc quý), Khố châu phúc lộc, Văn Xương, Lộc mã quan ích là những sao tốt chiếu lâm, nên khởi tạo, hôn nhân, an táng, nhập trạch, khai trương, xuất hành, trăm việc thuận lợi, dùng ngày đó gia môn phát đạt, động thổ thấy tiến tài sản, tên là "Đăng hổ bảng". Mậu Dần cũng có Hỏa tinh nhưng là tốt vừa, ngày đó có thể dùng. * * * * * Theo "Thích kỷ biện phương", Dần ở tháng chạp là thiên tặc, là ngày Dần trong tháng có Hỏa tinh thì không ghi, đó là hai thuyết nên tồn lưu để tham khảo. * * * * * NGÀY MÃN là ngày Mão:Thiên phú, Thổ ôn, không nên động thổ, Thiên ôn một năm. Nếu dùng ngày Mão vào việc cưới, gặp cha mẹ, ăn hỏi, cũng tốt nhỏ nhưng có lục bất thành, lục bất hợp, cái đó ngừng. Duy có Tân Mão, tạo tác, hưng công, nhưng là tốt vừa. NGÀY BÌNH là ngày Thìn: Có Đáo châu tinh, việc đến quan mà sau đó tán. Duy có Nhâm Thìn nên mai táng, cưới vợ, gặp cha mẹ, hưng công, động thổ, xuất hành, nhập trạch là tốt vừa. Canh Thìn là Thiên đức, Nguyệt đức, nên làm nhỏ cũng tốt vừa. Mậu Thìn thảo mộc điêu linh, lúc đó ngũ hành không có khí, và là thoái tinh, lại kiêm Sát nhập trung cung, mọi việc bất lợi, xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Tị: Thiên thành. Một thuyết nói là Quan phù tinh phi, nhưng nói là ngày Tử khí, nếu phương tu tạo trực với Phi cung Châu bách, Quan phù, thấy ngay, nếu như phương đó hợp với cát thần tụ tập sẽ cầu cái đó xấu dùng cũng được. Quý Tị tuy trực kim thủy trong sạch lúc đó. Hoặc có thể khai sơn, phạt cỏ, nhưng ngày đó tốt vừa, nếu cưới vợ chồng hoặc khai trương, xuất hành, nhập trạch, đặt móng, buộc giàn, lại là thiên thượng đại không vong nạp âm Tị, tuyệt không nên dùng. Đinh Tị là Chính tứ phế, xấu, một năm bốn mùa (quý), dùng ngày Tị chủ khẩu thiệt, tuy có Hỷ thần hoá giải cũng thuộc khó thoát. Như tốt thì vượng, xấu thì suy, tất cần xét rõ mệnh tuổi và sơn hướng không phạm xung khắc thì mới có thể dùng. NGÀY CHẤP là ngày Ngọ: Canh Ngọ là Thiên đức, Nguyệt đức, như Canh Ngọ làm Canh sơn Giáp hướng có thể thâu vào nạp âm, huống hồ ngày đó có dùng giờ Canh Thìn, giờ đó gặp tam hợp chiếu Thân, Canh diện Canh lộc, cư Thân, Thìn mã trực Nhâm Thân đó sinh thành lộc mã nhật, sẽ là mã gặp lộc tinh, Thánh nhân nam diện tinh, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân bảo lâu, là những sao tốt che, chiếu, chủ về thêm con cháu, vượng gia môn, tiến điền sản, đạt lộc vị. Nhâm Ngọ cũng tốt. Các ngày Ngọ còn lại là tốt vừa. Bính Ngọ là chính tứ phế, xấu. NGÀY PHÁ là ngày Mùi: Đinh Mùi là "Thủy cư cự mẫn" (trong nước có con cá bể to tên là mẫn). Quý Mùi là "Thủy nhập Tần châu nội", "Văn Xương quý hiển tinh", động thổ, hưng công, xuất hành, nhập trạch, cưới vợ, khai trương, trăm việc rất tốt. Kỷ Mùi, Tân Mùi là Sát nhập trung cung, xấu. Ất Mùi cũng không lợi. NGÀY NGUY là ngày Thân: Canh Thân là Thiên đức, Nguyệt đức, nên sửa chôn (?), an táng, mưu trù làm việc nho nhỏ là thứ cát (tốt vừa), nếu nhà to, có hàng nghìn, hàng trăm thợ trở lên, thì những việc khởi tạo, khai trương, nhập trạch, hôn nhân, lại không nên, vì là ngày Sát nhập trung cung, không lợi cho người gia trưởng. Mùa xuân tuy có Thiên đức, Nguyệt đức cũng không có tác dụng gì, tổn thương tay, chân, người thợ phá mất, tổn hoại khí huyết, làm lớn thì nhanh thấy, làm nhỏ thì ứng chậm. Nếu làm chuồng trâu, dê, lợn, thì trong 60 ngày, 120 ngày sẽ thấy hổ lang làm bị thương, lại sinh ôn dịch thời khí. Giáp Thân, khởi tạo, an táng tốt. Bính Thân, Nhâm Thân, chỉ nên mai táng. NGÀY THÀNH là ngày Dậu: Thiên hỉ. Ất Dậu, Quý Dậu là khi kim vượng. Ất Dậu là lúc nước trong sạch, có Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân khố lâu, Tụ lộc đới mã, là những tinh che, chiếu, lợi cho việc cưới vợ, khởi tạo, khai trương, nhập trạch, an táng, là ngày tốt chọn vẹn, chủ về con cháu hưng vượng, trăm việc vừa lòng (xứng tâm). Đinh Dậu cũng thuộc kim vượng, chỉ có mai táng là tốt nhất, những việc còn lại là tốt vừa. Tân Dậu là Kim loan (nhạc ngựa bằng vàng), tốt vừa. NGÀY THÂU là ngày Tuất: Có Đáo châu tinh, việc đến công đường mà sau đó tán. Canh Tuất có Thiên đức, Nguyệt đức, tám vị Kim tinh, có "Nam tử chi hoan" (cái hang của con trai), trước hết bị khẩu thiệt mà sau đó thì rất tốt. Giáp Tuất tám phương đều trắng, ở 24 hướng mọi thần đều chầu trời Nguyên nữ, ngày đó trộm sửa có thể dùng. Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, trăm việc đều kị. Ngày Mậu Tuất cũng không thể dùng. NGÀY KHAI là ngày Hợi: Thiên tặc, Nguyệt yếm. Ất Hợi có Văn Xương tinh. Kỷ Hợi có Hỏa tinh, có Văn Xương hiển quý tinh, nên đặt móng, buộc giàn, hôn nhân, khai trương, nhập trạch, xuất hành, trù mưu làm mọi việc, đều tốt trọn vẹn. Nên dùng giờ Mậu Thìn. Là ngày tuy phạm Thiên tặc nhưng lại có Thiên cẩu huyên, cho nên không hại vì thế là tốt trên hết. Nếu như gặp ngày này người sống rất hoại cái mệnh (?). Đinh Hợi cũng nên dùng việc. Ngày Tân Hợi âm khí rất bạo, không phải là chỗ dùng của dương gian. Quý Hợi là ngày cùng của lục giáp, không thể dùng. Mà Kỷ Hợi vì có Hỏa tinh nên mọi việc có thể dùng, không thể không thuận mà xứng lòng, như ý. NGÀY BẾ là ngày Tý: Hoàng sa. Canh Tý tuy có Thiên đức, Nguyệt đức nhưng lại là lúc Thiên Địa chuyển Sát. Nhâm Tý, Bính Tý là Thiên địa chuyển trục, không nên hưng công, động thổ, phạm cái đó rất xấu. Giáp Tý là Thiên xá, là Tiến thần. Và Mậu Tý nên việc nhỏ thì có thể sửa là tốt, nếu dùng việc lớn thì xấu,vạ triền miên, chẳng lành, không biết Đại mã nạp âm, hung sát và Bắc phương tạo độc chi thần (thần làm cờ lớn ở phương Bắc), thuần âm hắc sát chi khí Dư tào túc lệnh (chủ quản đông người nghiêm chỉnh lệnh), không phải là rất quý, không cảm thấy đáng dùng, phải cẩn thận. ***** LỜI CUỐI Có đủ ngày tốt xấu trong các tháng. Đại phàm dùng việc nhà, đều nên tra tỷ mỉ, nghiệm thấy không có chỗ nào không ứng, hiệu. Quý thay, cẩn thận thay, để cho tuyển chọn đầy đủ: 1 - Chọn ngày phải đem sách này và Hiến thư (Sách chung về ngày tốt xấu), khảo sát ở hiến thư, là tốt, sách đây cũng tốt, dùng cái đó là rất tốt. Nếu như Hiến thư chưa thấy rất tốt mà sách này tốt thì dùng cái đó không hại. Nếu như Hiến thư tựa như tốt, mà sách này không tốt đều không thể dùng. Lại có kinh nghiệm trong Hiến thư nếu gặp Nhị thập bát tú trong đó có Kim thần thất sát trực nhật đều không thể phạm dùng, kiêng đó. 2 - Chọn ngày đã cùng với Hiến thư tra xét rõ ràng, sau đó lại sẽ tốt nhất ở ba sao Sát cống, Trực tinh, Nhân chuyên. Gặp một trong các sao đó trực nhật thì dùng cái đó càng rất tốt. Nhưng Sát cống, Trực tinh, Nhân chuyên có thể giải các sao xấu mà không thể giải Kim thần thất sát. Nếu gặp Kim thần thất sát trực nhật thì tuy có Sát cống, Trực tinh, Nhân chuyên vẫn không thể dùng. Cái Kim thần thất sát rất là hung hiểm, đều nên tránh đi. 3 - Mệnh niên của người đó và cùng với hướng kiểm duyệt ở Hiến thư chỗ ghi nam cơ cung, nữ cơ cung, phải biết trong cái đó chia ra Đông tứ mệnh và Đông tứ trạch, Tây tứ mệnh và Tây tứ trạch, tức là cái đó nói cũng là tốt. Người Kham dự (thầy địa lý thiên văn) hỏi chủ nhân tuổi năm nay để định phương hướng, nếu như đông tứ cung mệnh nên ở Khảm bắc phòng là tốt nhất, đông phòng là bình thường, tây phòng là tốt vừa, nam phòng thì nên ở chính giữa mở cửa lớn làm đường đi cũng rất tốt. Phàm Đông tứ cung mệnh do mệnh đó tọa ở Đông nam gồm các phương Ly, Chấn, Khảm, Tốn, cho nên ở phương nam tại chính giữa mở cửa, làm đường đi. Cái đó là như thế nào? Nguồn gốc cái đó là ở phương Khảm tên là Thủy Hỏa ký tế mà thành giao thái, khí, cũng hướng về tốt. Nếu tây Tứ mệnh nên ở đông, Tây phòng rất tốt. Nếu như ở nam phòng sao cái đó không đi Càn phương Thanh long mà đi Cấn phương Bạch hổ. Bởi vì Tây tứ cung mệnh thì ở nam phòng là Bạch hổ, Trước nó mở cửa ở Cấn phương là ở đông bắc là có thể được Tử khí (khí màu đỏ tím), mùa đông về thì sinh phát ra tốt. Không đi Càn phương lấy kim, thủy rất hàn, cho nên phương bắc tuy tốt nhưng khó để thuận lòng toại ý, đó là đại ý về dương trạch. PHỤ LỤC Ngày Kim Thần Thất Sát: Năm ............. Hành ........ Ngày Kim thần thất sát Giáp, Kỷ ........ Thổ ........... Ngọ, Mùi Ất, Canh ........ Kim ........... Thìn, Tị Bính, Tân ....... Thủy ......... Tý, Sửu, Dần, Mão Đinh, Nhâm ..... Mộc .......... Tuất, Hợi Mậu, Quý ....... Hỏa .......... Thân, Dậu1 like
-
Đổng Công tuyển trạch nhật yếu dụng Lê Văn Sửu dịch từ “Tân Mão niên đại tự thông thư - 1951”, dịch xong tháng 3/1992. THÁNG GIÊNG Nguyệt kiến Dần: Lập xuân - Vũ thủy. (Từ ngày 4-5 tháng 2 DL) Trước Lập xuân một ngày là Tứ tuyệt Sau Lập xuân, Tam sát ở phương Bắc, trên Hợi, Tý, Sửu, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Dần: Ngày Vãng vong, không lợi cho việc khởi tạo, kết hôn nhân, lạp thái (ăn hỏi), chủ về gia trưởng bị bệnh, bị gọi vì việc quan, trong vòng 60 ngày và 120 ngày tổn tiểu khẩu, trong vòng một năm thấy trùng tang, trăm việc không nên dùng. NGÀY TRỪ là ngày Mão: Không nên khởi tạo, hôn nhân, phạm vào cái đó thì trong vòng 60 ngày tổn gia trưởng, bị gọi vì việc quan, trong vòng 3-6 năm thấy xấu, lãnh thoái, chủ về huynh đệ bất nghĩa, mọi nghiệp chia tan, gặp phải người ác, sinh ly tử biệt. NGÀY MÃN là ngày Thìn: Là Thiên phú, Thiên tặc, là Thiên la, lại nói: Giáp Thìn tuy có khí khích giống với Mậu Thìn, cung mà sát tập trung, trăm việc đều kị, phạm phải cái đó thì chủ về việc khởi đầu giết người, của bị giảm (thoái), rất hung. Trừ mà ở ngày Thìn cũng không tốt. NGÀY BÌNH là ngày Tị: Là Tiểu hồng sa, có Chu tước, Câu giảo đáo châu tinh, phạm vào cái đó chủ về bị gọi vì việc quan, tổn gia trưởng trạch, đàn bà, con gái trong vòng 3-5 năm lớp lớp bất lợi, phá của, rất hung, ruộng tằm không thu được sản vật, chết vì tự thắt cổ, bị người ác cướp bóc. NGÀY ĐỊNH là ngày Ngọ: Là Hoàng sa, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân, Khố lâu, Điền đường, nguyệt tài khố trữ tinh che, chiếu, nên khởi tạo, an táng, dời chỗ ở, khai trương, xuất hành, trong vòng 60 ngày, 120 ngày, tiến hoành tài, hoặc nhân phụ ký thành gia (nhờ vả mà thành nghiệp), làm lớn thì phát lớn, làm nhỏ thì phát nhỏ, chủ về ruộng, tằm thu lớn, vàng bạc đầy kho. NGÀY CHẤP là ngày Mùi: Là Thiên tặc, có Chu tước, Câu giảo, trong vòng 60 ngày, 100 ngày lục súc hại, lừa ngựa thành ác tật. Ất Mùi sát tập trung cung càng kị khởi tạo, nhập trạch (về nhận nhà mới), hôn nhân, khai trương, tu chỉnh. NGÀY PHÁ là ngày Thân: Có Chu tước, Câu giảo, bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, giảm gia súc và của, trong vòng 3-5 năm thấy mộ đàn bà, việc xấu. Ngày Canh Thân là chính tứ phế, càng xấu. NGÀY NGUY là ngày Dậu: Tân Dậu ở tháng giêng, tư, bỏ, không nên dùng vào việc. Duy có ngày Đinh Dậu có Thiên đức, Phúc tinh che, chiếu, nên an táng, hoàn phúc nguyện, xuất hành, khai trương, vào việc quan gặp quý, tốt, chỉ không nên các việc khởi tạo, hôn nhân, giá thú, vẫn cái đó vào ngày đó. Ngoài ra, các ngày Dậu khác không nên dùng. NGÀY THÀNH là ngày Tuất: Có Thiên hỉ, nhưng lại là ngày Địa võng, mọi việc không nên phạm ngày đó, chủ về gia trưởng bệnh, nhân khẩu không có nghĩa, lạnh lùng mà lui (lãnh thoái). Lại nói Bính Tuất, Mậu Tuất, Canh Tuất, Nhâm Tuất là sát tập trung cung, phạm vào cái đó chủ về khởi đầu giết người, anh em bất nghĩa, tử biệt sinh ly, kị trước nhất là khởi tạo, hôn giá, nhập trạch, tu tác. NGÀY THÂU là ngày Hợi: Có Câu giảo, không nên dùng vào việc, phạm cái đó tổn gia trưởng, hại con cháu, trong vòng 60 ngày, 120 ngày, chủ phương Nam Bạch y hình hại, nam nữ nhiều tai vạ, rất xấu. Duy có ngày bình địa chi với nguyệt kiến âm dương hợp đức, là tốt vừa phải (thứ cát). NGÀY KHAI là ngày Tý: Ngày Giáp Tý là kim tự chết, ngày ngũ hành âm kị. Nhâm Tý là mộc đả bảo bình chung (gỗ đánh vào bình quí cuối cùng), là phương Bắc, nơi tắm gội (mộc dục), không nên khởi tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương. Chỉ có riêng ba ngày Mậu Tý, Bính Tý, Canh Tý duy thủy thổ sinh người, dùng cái đó rất tốt, trong có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân, tàng tài trữ, liên châu, chúng tinh che, chiếu. Trong vòng 60 ngày, 120 ngày được rất nhiều của, quý nhân tiếp dẫn, giữ chức lộc, mưu việc thì nhiều may mắn, vượng lục súc, thêm tài sản, cũng nên an táng. NGÀY BẾ là ngày Sửu: Không lợi cho hôn nhân, khởi tạo, phòng hổ và rắn làm hại, lừa ngựa đá phải thành ác tật, bần, bệnh, rất xấu.1 like