-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 30/06/2010 in all areas
-
Trung Hoa hay Việt? http://vn.360plus.yahoo.com/thiensulacviet Đăng ngày: 16:31 26-06-2010 Hôm nay trên Vietnamnet.vn có bài viết mà nội dung nhằm nhắc nhở nhân loại biết ơn những phát minh của người Hoa Hạ. Nhưng tôi lại xác định với các bạn rằng: Chính nền văn hiến huyền vĩ của người Lạc Việt trải gần 5000 năm lịch sử mới thực sự là chủ nhân của những phát minh này. Các bạn hãy xem nguyên văn bài viết và sau đó là phần minh chứng của tôi ------------------------------------------------------------. BÀI TRÊN VIETNAMNET.VN Người Trung Hoa thật sự đã phát minh ra những gì? Cập nhật lúc 07:33, Chủ Nhật, 20/06/2010 (GMT+7)Trong thế giới hiện đại, chúng ta nghiễm nhiên hưởng thụ những thành quả của khoa học công nghệ và cho rằng đấy là những lợi ích tất yếu mà vô tình quên đi “những kẻ trồng cây” từ ngàn xưa. Ngày nay, những đường cáp quang có thể truyền một lượng thông tin khổng lồ với tốc độ ánh sáng; bạn ngồi vào xe hơi và ra lệnh cho hệ thống định vị toàn cầu đưa bạn đến nơi cần đến…Cuộc sống với chúng ta ở thế kỷ 21 thật khá dễ dàng và thuận lợi.Có được điều này chúng ta phải biết ơn những bậc tiền bối đã gieo những "hạt mầm công nghệ đầu tiên” cho sự tiến bộ của nhân loại.Có lẽ không có nền văn minh cổ đại nào có nhiều đóng góp cho sự tiến bộ của loài người hơn nền văn minh Trung Hoa. Sau đây xin giới thiệu một số phát minh vĩ đại nhất, có ảnh hưởng nhất đến quá trình phát triển của nhân loại. 1. Thuốc súng Thuốc súng chỉ là một sáng chế tình cờ? Có truyền thuyết cho rằng thuốc súng là sáng chế tình cờ của một nhà giả kim khi ông đang tìm phương thuốc trường sinh cho con người. Nhưng oái ăm thay, cái mà ông ta thu được lại là một trong những phương thức lấy đi sinh mạng con người nhanh nhất.Thành phần ban đầu của thuốc súng gồm nitrat kali, than chì và lưu huỳnh. Nó được giới thiệu lần đầu vào năm 1044 trong “Tuyển tập những Kỹ thuật Quân sự quan trọng nhất” do Zeng Goliang biên soạn. Theo sách này, thuốc súng đã được phát minh trước đó một thời gian, và có 3 hỗn hợp thuốc súng khác nhau được sử dụng làm pháo hiệu và pháo hoa trước khi được ứng dụng trong lĩnh vực quân sự để chế tạo các quả lựu đạn thô sơ đầu tiên.Qua thời gian sử dụng, người ta biết rằng thêm các kim loại khác nhau vào hỗn hợp thuốc súng sẽ tạo ra nhiều màu sắc đẹp rực rỡ, từ đó pháo hoa hiện đại ra đời. 2. La bàn Nếu không có la bàn chúng ta sẽ không đi đến được nơi nào hết. Chiếc la bàn đầu tiên được thiết kế chỉ về hướng Nam, bởi vì lúc bây giờ người Trung Hoa xem phương Nam là phương chính, và họ muốn mở rộng bờ cõi về phương nam. Những chiếc la bàn đầu tiên được chế tạo vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên, và được làm từ đá nam châm.Đá nam châm là quặng sắt từ - chúng sẽ mang từ tính khi bị sét đánh trúng và cho ra một loại khoáng chất bị hút về cả 2 cực bắc và nam. Hiện tại chúng ta vẫn chưa biết cụ thể ai là chủ nhân của ý tưởng vô cùng thông minh: dùng đá nam châm để phân biệt phương hướng; nhưng theo các bằng chứng khảo cổ thì người Trung Hoa là tác giả của phát hiện này. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những chiếc môi làm từ loại đá này có thể cân bằng trên một cái bảng dò, giúp các thầy bói thời đó dò tìm phương hướng tốt. 3. Giấy Nếu không có giấy, sẽ không có bản đồ. Nếu không có bản đồ, làm sao khám phá thế giới. Hiện vẫn chưa rõ ai là người đầu tiên đưa ra ý tưởng chuyển những suy nghĩ trong đầu thành ngôn ngữ viết. Có 3 giả thiết cho ý tưởng này hoặc là thuộc về người Sumerian ở Mesopotamia, hoặc là người Harappa ở khu vực Afghanistan ngày nay, hoặc là người Kemite ở Ai Cập. Ngôn ngữ viết xuất hiện lần đầu tiên cách đây khoảng 5 ngàn năm, còn nếu tính luôn cả những tranh vẽ trong hang động thì thời gian mà ý tưởng được chuyển thể thành ngôn ngữ ký tự thậm chí còn sớm hơn rất nhiều.Nhưng mọi thứ đã thay đổi từ khi một người Trung Quốc tên Cai Lun phát minh ra mẫu giấy đầu tiên, là tiền thân của các loại giấy hiện đại ngày nay. Trước phát minh này của Cai Lun, người Trung Quốc thường viết trên những thanh tre hoặc những dải lụa; cho đến năm 105 sau công nguyên, Cai Lun đã nghĩ ra cách tạo một hỗn hợp sợi gỗ và nước, rồi sau đó nén chúng lên một miếng vải dệt. Những lỗ li ti trên mảnh vải sẽ thấm hết nước trong hỗn hợp hồ nhão, để lại một mặt giấy thô và khô ráo. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa rõ Cai Lun đã viết điều gì trên mảnh giấy đầu tiên ông làm được. 4. Mì Món ăn có tuổi thọ 4 ngàn năm. Nếu mì sợi là món ăn yêu thích của bạn, bạn phải cám ơn người Trung Quốc, chứ không phải người Ý, vì đã sáng chế ra món ăn này. Vào năm 2006, khi các nhà khảo cổ khai quật 1 khu dân cư 4 ngàn năm tuổi tại Lajia, tỉnh Qinghai (gần biên giới Tây Tạng), họ đã phát hiện được một cái tô bị lật úp bên dưới có những sợ mì. Mì sợi có lẽ là phát minh cổ xưa nhất của người hiện đại; nó được làm từ 2 loại hạt kê, và cả 2 loại hạt này đã được người Trung Hoa trồng từ cách đây 7 ngàn năm; và ngày nay họ vẫn dùng chúng để chế tạo sợi mì. 5. Xe cút-kít Dụng cụ thô sơ vô hại này đã từng là một công cụ chiến tranh. Người Trung Hoa cũng góp phần làm giảm gánh nặng lao động cho con người với việc chế tạo chiếc xe cút-kít. Vào khoảng thế kỷ thứ 2 SCN, một đại tướng triều Hán tên Jugo Liang được cho là đã nghĩ ra ý tưởng làm một chiếc xe tải có 1 bánh xe dùng để chuyên chở những đồ nặng. Tuy nhiên ông đã không thiết kế cho chiếc xe này 2 tay cầm; vì vậy sau này chiếc xe được cải thiện và người ta đã thêm vào 2 tay cầm để thuận tiện cho việc điều khiển. Với sáng tạo này, Jugo là người "đi trước” người Châu Âu khoảng 1.000 năm.Ban đầu, chiếc xe được sáng chế để phục vụ cho quân đội. Nó được dùng để làm các rào chắn di động, và dùng để chuyên chở vũ khí. Người Trung Hoa đã giữ bí mật phát minh này trong nhiều thế kỷ.Cũng có một câu chuyện dân gian kể rằng người phát minh ra chiếc xe cút-kít là một người nông dân tên Ko Yu ở thế kỉ thứ 1 trước CN. Mặc dù tính xác thực của câu chuyện còn chưa rõ, nhưng có 1 điểm chung giữa Jugo và Ko: cả 2 đều giữ bí mật phát minh của mình bằng cách mô tả nó bằng…mật mã. 6. Máy ghi địa chấn Nhà thiên văn Chang Heng và chiếc địa chấn kế đầu tiên được ông phát minh. Máy đo địa chấn Richter. Mặc dù đến năm 1935, thang đo địa chấn Richter mới được Charles Richter chế tạo, nhưng trước đó từ lâu người TQ đã tìm cách chế tạo chiếc máy dò động đất đầu tiên của thế giới – địa chấn kế. Nhà thiên văn Chang Heng đã phát minh ra một địa chấn kế vào thời nhà Hán khoảng đầu thế kỷ thứ 2 SCN, và đó là một dụng cụ bằng đồng rất tinh xảo.Đây là một chiếc bình bằng đồng khá nặng; bên ngoài có gắn 9 con rồng cách đều nhau; phía dưới mỗi con rồng là một con ếch há mồm, mặt ngước lên trên. Một quả lắc được treo bên trong chiếc bình, nó sẽ đứng yên cho tới khi nào có một chấn động. Chấn động này sẽ kích hoạt một đòn bẩy làm chuyển động 1 hòn bi trong miệng của con rồng nằm ở phía hướng đến tâm chấn. Hòn bi này sẽ rơi ra khỏi miệng rồng và rớt thẳng xuống miệng con ếch phía dưới. Mặc dù chiếc địa chấn kế đầu tiên này có vẻ thô sơ, nhưng phải đến 1.500 năm sau người phương Tây mới phát minh ra phiên bản địa chấn kế của họ. 7. Rượu Đây là thứ đồ uống không thể thiếu trong các cuộc vui. Những người thích “nhậu” nên cám ơn người TQ về các phát hiện ra cồn ethanol và isopropyl, cũng như bia, rượu vang, và rượu mạnh. Đây là các thứ đồ uống không thể thiếu trong các cuộc vui của chúng ta ngày nay. Người ta cho rằng việc lên men rượu là kết quả đúc kết từ nhiều quá trình chế biến thực phẩm tương tự có từ trước đó.Theo một số ghi chép, vào khoảng đầu thế kỷ thứ 3 TCN, người TQ đã biết cách tinh chế các loại thực phẩm như dấm và nước tương đậu nành bằng cách cho lên men và chưng cất. Rượu cồn ra đời không lâu sau đó. Tuy nhiên, các phát hiện khảo cổ gần đây cho thấy việc cho lên men thực phẩm và việc sáng tạo ra đồ uống có cồn thậm chí đã có từ trước đó rất lâu. Những mảnh vỡ của một chiếc bình gốm 9.000 năm tuổi có các dấu vết còn sót lại của cồn đã được tìm thấy tại tỉnh Henan. Phát hiện này đã chứng tỏ rằng người TQ là những người đầu tiên biết nấu rượu (trước đây người ta cho rằng người Arab đã sáng tạo ra thức uống có cồn, tuy nhiên phải đến khoảng 1.000 năm sau họ mới biết đến rượu). 8. Diều Diều là một phần không thể thiếu trong văn hóa TQ hơn 2.400 năm qua. Hai người đàn ông sống ở TQ thời cổ đại chia nhau sở hữu một trong những “bằng sáng chế” nổi tiếng nhất của TQ. Vào khoảng thế kỷ thứ tư TCN, Gongshu Ban và Mo Di, một nhà bảo trợ nghệ thuật và một triết gia, đã sáng chế ra một con diều có hình dạng giống một con chim có thể bay lượn trong gió. Sáng chế này của họ sau đó nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Về sau này, người ta đã cải tiến và thêm vào thiết kế ban đầu của con diều một vài chi tiết để sử dụng nó cho một số mục đích khác ngoài mục đích giải trí. Chẳng hạn như dùng diều để câu cá ở những vùng nước khó tiếp cận. Diều còn được ứng dụng trong quân đội khi người ta dùng chúng như những chiếc “máy bay” không người lái để thả những quả đạn vào công sự của kẻ thù. Vào năm 1232, người TQ đã sử dụng những con diều để rải truyền đơn vào một trại giam tù binh chiến tranh của Mông Cổ, khuyến khích những tù binh TQ đang bị giam giữ ở đây nổi loạn và cướp trại. 9. Dù lượn Dù lượn đã từng được dùng như một hình phạt ở TQ xưa. Vào khoảng cuối thế kỷ thứ 6 SCN, người Trung Hoa đã cố gắng chế tạo một con diều sao cho đủ lớn và tuân theo nguyên tắc khí động học để có thể nâng được một người có cân nặng trung bình. Không lâu sau đó, người ta đã quyết định không buộc dây cho con diều lớn này để xem nó có thể làm được chuyện gì, và đó chính là phiên bản dù lượn đầu tiên của thế giới. Nhưng vào ngày đó người ta không dùng dù lượn này để tìm kiếm cảm giác mạnh mà nó được sử dụng như một hình thức tra tấn. Các hoàng đế ra lệnh trói các phạm nhân hay các tù binh chiến tranh vào những con diều này và bắt họ nhảy xuống những vách đá. Đã có một người sống sót sau khi bay được 2 dặm và hạ cánh an toàn. Với sáng chế này, người TQ đã đi trước người Châu Âu đến 1335 năm. 10. Lụa Con đường tơ lụa. Các đế chế Mông Cổ, Hy Lạp, và La Mã một thời đã từng rất “nóng mặt” với các phát minh quân sự của Trung Quốc như thuốc súng. Tuy nhiên, tơ lụa lại chính là phát minh giúp Trung Quốc cổ đại “hòa giải” với các đế quốc hùng mạnh khác. Một xưởng sản xuất lụa ở TQ xưa. Lụa TQ lúc bấy giờ được ưa chuộng đến nỗi nó đã giúp kết nối TQ với các quốc gia khác trên thế giới thông qua việc buôn bán sản phẩm này. Tơ lụa TQ đã “dệt” nên con đường tơ lụa huyền thoại một thời, xuất phát từ TQ sang đến tận Địa trung hải, châu Phi, Trung Đông và châu Âu. Phương pháp sản xuất loại tơ tằm tự nhiên của người TQ đã tồn tại từ cách đây 4.700 năm. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy một cuộn tơ trong một lăng mộ được xây vào thời Laingzhu (kéo dài từ năm 3330 đến năm 2200 TCN). Người TQ lúc bấy giờ đã tuyệt đối giữ bí mật và bảo vệ cẩn thận phát minh của họ, cho tới khi các nhà truyền giáo châu Âu phát hiện ra trứng tằm và đưa chúng về phương. Đỗ Quyên tổng hợp ------------------------------------------------------------- BÌNH LUẬN CỦA THIÊN SỨ Sử Ký Tư Mã Thiên đã xác định "Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở". Cho đến thế kỷ thứ III BC, biên giới của dân tộc Hán vẫn không vượt quá bờ nam sông Dương Tử. Chúng ta có thể thấy rất rõ điều này qua chính những bản đồ của những nhà sử học thuộc đất nước Trung Hoa hiện đại và quốc tế (Xem "Lịch sử Trung Quốc 5000 năm"). Nền văn minh Lạc Việt sụp đổ ở đây vào thế kỷ thứ III BC (2879 - 258 BC), sau một thời huy hoàng của dân tộc Việt. Văn minh Hoa Hạ đã tiếp thu được những di sản của nền văn minh này và Hán hóa trải hơn 2000 năm. Bởi vậy, rất tiếc, những cái gọi là phát minh nói trên - ngoại trừ máy ghi địa chấn được phát minh vào đời Đường - không có sở cứ nào của người Trung quốc cả. Nhưng cũng cần xác định rằng: Nó cũng dựa trên nền tảng tri thức cổ còn lại của người Lạc Việt bên bờ nam Dương Tử ngày xưa. Bây giờ chúng ta xét từng mục một: 1 - Thuốc súng. Bài trên viết. Đây là tư liệu cổ nhất, nhắc đến phát minh thuốc súng là của người Hán. Cứ cho rằng trước thế kỷ XI AC vài trăm năm. Nhưng có thể nói rằng: Từ thời Tam Quốc, người ta đã dùng thuốc nổ trong chiến tranh. Thí dụ trận đánh trong hang Thượng Phương giữa Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý. Hay trận chiến giữa Gia Cát Lượng với dân tộc thiểu số ở Tây Nam Trung Hoa - là Mạch Hoạch. Hoặc điển hình hơn là trận hải chiến Xích Bích. Tất nhiên, những hỏa thuyền của liên quân Ngô Thục không thể chỉ chất củi khô và rơm rạ. Để phát huy sức mạnh, nó cần có chất gây cháy nổ như diêm sinh, diêm tiêu và than min. Đây chính là tiền đề của thuốc nổ , hoặc gây cháy nhanh với một công thức như sau: 10% diêm sinh, 30% diêm tiêu còn lại là than cây xoan nghiền mịn. Gia Cát Lượng là người ở Nam Dương Tử. Gia Cát Lượng thì không tự nhận là người phát minh ra thuốc súng. Vậy chứng tỏ rằng: Nền tảng tri thức của vùng này chính là tiền đề cho phát minh của Gia Cát Lương. Rất tiếc, một dân tộc đã mất nước, nên những tư liệu lịch sử liên quan đến Bách Việt rất mơ hồ và gần như không còn gì cả. Tuy nhiên chúng ta có quyền nghi ngờ điều này. Tư liệu tuy không có, nhưng những chứng cứ gián tiếp khiến cho một suy luận hợp lý cho thấy người Trung quốc không phải là chủ nhân phát minh ra thuốc súng. Tất nhiên, cá nhân tôi thừa nhận tư liêu trên là trung thực và khách quan với nội dung của nó. Nhưng điều đó chỉ là sự ghi nhận hiện tượng xảy ra vào thời gian trước thế kỷ XI mà thôi, không phải là sự chứng minh sự phát minh ra thuốc súng của văn minh Hoa Hạ. Có thể người Hoa Hạ đã dựa trên căn bản nền tảng phát minh thuốc nổ có từ lâu trong cộng đồng Bách Việt ở Nam Dương tử và chế ra thuốc súng dùng trong quân sự và được ghi nhận trong tài liệu này. . 2. La bàn La bàn thì rõ ràng không thể do người Trung quốc phát minh ra. Chúng ta xem lại hai tư liệu liên quan đến sự phát minh ra la bàn vốn được coi là của người Trung Hoa. 1 - Truyền thuyết ghi nhận trong trận đánh Hoàng Đế Xuy Vưu tại Trác Lộc (Trên 5000 năm cách ngày nay). Xuy Vưu làm phép khiến trời đất mù mịt. Một vị đại thần của Hoàng Đế phát minh ra cái xe chỉ nam và nhờ cái xe này, Hoàng Đế chỉ huy quân đội, phá tan đạo quân của Xuy Vưu. 2 - Sứ giả Việt Thường đến kinh đô cống vua Nghiêu một con rùa lớn (3000 năm cách ngày nay), trên mai rủa có ghi việc trời đất mở mang bằng Khoa Đẩu tự. Vua Nghiêu sai tặng sứ Việt thường chiếc La bàn để định hướng về nước. Sau hai tư liệu trên thi không có một tác giả Trung Hoa nào tự giới thiệu là người phát minh ra la bàn. Chúng ta cũng biết rằng: Chính các nhà sử học Trung Quốc cũng cho rằng lịch sử văn minh Hoa Hạ chỉ rõ ràng trong khoảng thế kỷ thứ VIII BC. Như vậy, hai hiện tượng trên chỉ là huyền thoại. Nếu Việt sử thời Hùng Vương bị coi là những huyền thoại không đáng tin cậy và bị "Hầu hết các nhà khoa học trong nước" với "cộng đồng khoa học quốc tế" xúm lại phủ định - thì - nhân danh chính tiêu chí này của cái "hầu hết" và "công đồng" nói trên - cá nhân tôi có quyền một cách công bằng đặt lại vấn đề huyền thoại Trung Hoa đó có đáng tin cậy không? Đừng có phản biện cách đặt vấn đề này nha - khi đây chính là tiêu chí của các vị. Quí vị "cộng đồng" và "hầu hết" thì có thể muốn nói gì thì nói. Còn tôi thì không dễ dàng như vậy. Bởi vậy, tôi không thể nói bừa được. Thậm chí không được phép sai. Trước đây tôi vẫn im lặng về những việc này mà tôi chỉ tập trung vào chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến. Nhưng nay thì tôi nghĩ cần phải làm sáng tỏ toàn diện mọi vấn đề nhân danh khoa học. Cái "hầu hết" và "cộng đồng" cũng nhân danh khoa học mà. Có phải thế không nhỉ? Mà khoa học thì không thể thông tin một chiều chứ nhỉ? Có thể nói rằng: Cho đến ngày hôm nay, tất cả mọi người có chút ít học vấn trở lên, đều không hề hoài nghi việc nền văn minh Hán sáng tạo ra cái la bàn. Mặc dù chẳng có bằng chứng nào cả ngoài hai truyền thuyết nói trên. Bài báo trên là một thí dụ cho về sự tiếp thu một kiến thức chỉ để khoe khoang trên bàn nhậu và giải thích với phụ nữ xinh đẹp. Bài báo viết: Trước hết, thế kỷ thứ IV BC chính là thời điểm bắt đầu cho sụp đổ của nhà nước Văn Lang bên bờ nam Dương Tử. Và xác nhận của bài báo về thời điểm phát minh la bàn là thời điểm mà chính sử Trung Quốc tương đối rõ ràng. Vậy tại sao nó không xác định được tác giả? Nếu thời điểm lịch sử mà bài báo trên được xác định là đúng thì vấn đề đặt ra là: Tại sao người Trung Quốc phải đặt v/d "sáng tạo" ra hẳn hai truyền thuyết nói trên - với thời gian lịch sử cách nhau hàng thiên niên kỷ? Vậy cái la bàn thật sự được coi là của người Hoa Hạ - có kim sắt nhiễm từ chạy trên đó như ngày nay - phải sáng tạo sau đó và vào thời kỳ nào mà lịch sử Trung Hoa không hề ghi nhận?Khoa phong thủy đã được chứng minh rằng: Nó thuộc về nên văn hiến Lạc Việt một thời huy hoàng bên bờ nam Dương Tử. Tất yếu cái la bàn là vật bất ly thân của môn này không thể ra đời trong văn minh Hán. Quí vị cũng cần quán xét một hiện tượng là: Kim tự tháp Keop nổi tiếng của Ai Cập có đường chéo góc trùng khớp hoàn toàn với kinh tuyến Bắc Nam của địa cầu và là kinh tuyến đi qua đất liền dài nhất thế giới. Làm thế nào để họ xác định chính xác trục Bắc Nam mà xây nên Kim Tự tháp vĩ đại này? Tất nhiên, mong rằng đừng có vị nào cãi cùn là họ kéo một sợi dây nối từ cực Bắc đến cực nam của Địa cầu và xây theo sợi dây đó nhé.Cũng có ý kiến cho rằng: Người Ai Cập căn cứ vào sao Bắc Đẩu để xác định phương Bắc. Mới nghe thì có vẻ có lý và có nhiều ngươi đồng tình. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là trục Địa cầu nối kinh tuyến dài nhất theo hướng Bắc Nam, chứ không phải phương Bắc. Làm sao người Ai Cập biết trục Địa Cầu nằm đúng phương Bắc Nam mà nhìn sao Bắc Đẩu, nếu không có la bàn - hoặc một cái gì đó tương tự như vậy - để xác định phương hướng các vì sao trên bầu trời với một kiến thức thiên văn vượt trội . Điều này đã chứng tỏ qua vị trí các vì sao tương quan với các Kim Tự Tháp. Ở đây, tôi cũng cần lưu ý thêm quý vị là: Sử Ký Tư Mã Thiên dành hẳn một truyện cho những thày chuyên coi ngày, tựa là "Nhật giả liệt truyện", nhưng lại không hể nhắc tới khoa Phong Thủy vốn được coi là xuất hiện từ thế kỷ thứ III BC - tức là trước cả Tư Mã Thiên hàng 100 năm - như tài liệu trên ghi nhận. Ông ta cũng không hề có một chữ nào nói đến sự ứng dụng khoa Phong thủy trong các công trình xây cất của triều đình Hán. Tất nhiên, ông cũng không hề xác nhận la bàn là do phát minh của văn minh Hoa Hạ. Đừng bảo là ông ta quên nhé. Về việc này, trong một buổi nói chuyện về cội nguôn kinh Dịch, đã có một "kẻ sĩ" sấn sổ hỏi tôi với vẻ mặt mãn nguyện và đắc thắng: Anh có văn bản nào xác định tác giả Kinh Dịch là của Việt Nam không? Anh có di vật khảo cổ nào chứng minh điều đó không? Tôi trả lời ngay và không cần tư duy - vì tôi đã lường trướng điều này từ lâu rồi - câu trả lời gọn lỏn: "Tôi không có một văn bản và di vật khảo cổ nào xác định điều này. Ít ra là đến lúc này. Nhưng di vật khảo cổ không phải là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử. Văn bản nếu có thì số phận nó sẽ ra sao khi Nam Dương Tử trải hơn 2000 năm Hán hóa. Nhưng những mâu thuẫn trong nội dung và lịch sử Kinh Dịch đã chứng tỏ nó không thể thuộc về văn minh Hán. Tôi đặt vấn đề cho rằng: Cho dù bây giờ có một văn bản tối cổ xác định rằng vua Nghiêu Thuấn là của người Việt và Kinh Dịch là của Việt Nam thì điều đó nó cũng chỉ đặt ra được một giả thuyết có cơ sở dựa trên di vật khảo cổ và văn bản đó, chứ nó cũng không chứng minh được Kinh Dịch là của Việt Nam, nếu như người ta không đủ khả năng phân tích để nhận thấy những yếu tố mâu thuẫn trong lịch sử và nội dung kinh Dịch khiến nó không phải của người Hán. Trong lớp Phong Thủy Lạc Việt II, một học viên đã viết tiểu luận, chứng minh rằng: "Ông Khiết - một vật trấn yểm lợi hại của Phong Thủy Lạc Việt - chính là biểu tượng minh chứng la bàn là của người Việt". Nhưng vì nó mang tính giải mã một biểu tượng, nên tôi còn cân nhắc cho công bố sự minh chứng này. Tất cả cũng chỉ vì giới khoa học quốc tế chưa có một tiêu chí xác định cho một phương pháp giải mã đúng. Tôi không muốn những thằng ngu - luôn rêu rao rằng: Thiên Sứ lấy huyền thoại chứng minh cho lịch sử - kiếm cớ sinh sự. Ở đây, tôi cần đặt thêm một vấn đề là: Lịch sử xác minh người Ai Cập đã tìm ra sắt vào thế kỷ thứ VIII BC và thời đại đồ sắt đã xuất hiện ở nam Dương Tử từ thế kỷ VIX BC, bằng chứng những di vật khảo cổ là những chiếc vòng sắt tìm thấy ở biên giới bắc Thái Lan theo tư liệu của tác giả "Địa đàng phương Đông - một quá khứ bị lãng quên" đã cho thấy sắt phổ biến từ lâu ở nền văn minh nam Dương Tử. Điều này trùng khớp với sự tích Thánh Gióng chống giặc Ân Thương với vũ khí bằng sắt. Bởi vậy, với đồ sắt đã có từ lâu như vậy, không có lý do gì mà sau đó hơn 1200 năm sau, người Trung Quốc trưng cái la bàn bằng đá nam châm để xác định la bàn là phát minh của họ cả. La bàn, một phương tiện không thể thiếu được trong khoa Phong Thủy, không thể là của người Hán khi môn Phong thủy và cả thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về nền văn minh này. 3 - Giấy. Người viết bài báo trên đã dùng phiên âm latin để đọc tên người phát minh ra giấy được coi là của Trung Quốc, - một cái tên nghe dễ thuyết phục và ấn tượng, vì nó không được phiên âm Hán Việt - nhằm chứng minh cho tính đặc Tàu của tên người phát minh: "Cai Lun" . Vâng! Rất Tàu. Híc! Thực ra phiên âm Hán Việt của người này là Thái Luân. Bài báo trên cũng không nói rõ Thái Luân phát minh ra giấy vào thời gian nào. Nhưng rất tiếc cho tác giả. Thái Luân là người Việt ở Nam Dương Tử và ông ta được coi là phát minh ra giấy vào đầu thời Đông Hán (Xem "Bách Việt tiên hiền chí"). Nhưng có thể xác định rằng: Dùng lá cây làm phương tiện chuyển tải văn tự đã có từ thời tối cổ trên thế gian này. Cho đến ngày nay, một số chùa chiền Khơ Me ở Việt Nam vẫn còn tục dùng lá làm phương tiện chuyển tải chữ viết. Bắt nguồn từ lá làm phương tiện chuyển tải chữ viết, dẫn đến việc phát minh ra giấy làm từ bột lá là một khoảng cách không dài về khả năng tư duy. Người Ai Cập đã phát minh ra giấy trên một loại cây sậy gọi là Papyrus trước cả Thái Luân. Trên trống đồng Bách Việt cũng ghi rõ hình ảnh của người giã bột giấy (Xem "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại"). Những bức tranh dân gian Việt thể hiện nội dung tối cổ với một ý nghĩa khác hẳn văn minh Hán , miêu tả về những bí ẩn của minh triết Đông phương, cho thấy người Việt phải làm ra giấy trước thời Bắc Thuộc lần thứ nhất, mới có thể lưu lại những bức tranh như vậy. Thái Luân - Cai lun - chỉ là người trao công nghệ làm giấy của Bách Việt lên vua Hán mà thôi. Và dù sao thì ông ta cũng là người Việt. Điều này cũng tương tự như Trần Đoàn Lão Tổ dịch ra tiếng Hán cuốn Tử Vi Đẩu số và dâng cho vua Tống . Sau đó Tử Vi bằng tiếng Hán được phổ biến trong xã hội Hán. Nghiễm nhiên ông ta là người sáng tạo ra môn Tử Vi, mặc dù cho đến bây giờ, cả cái thế giới này chẳng hiểu phương pháp dự đoán của Tử Vi xuất phát từ một thực tại nào. Nhiều thằng ngu đến mức độ thế này - Chỉ cần để sản xuất ra một cái bật lửa ga, cũng cần một nền tảng tri thức xã hội về hóa dầu, hóa học, kỹ thuật cơ khí...vv...., Nhưng để đẻ ra cả một phương pháp dự đoán với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành thể hiện một tư duy trừu tượng cao cấp với những quy ước chặt chẽ thì chỉ cần "Trực ngộ tâm linh". Vậy mà không ít người tin như "sấm". Thiên Sứ tôi thấy cuốn Tử Vi nào lạ cũng muốn mua xem. Nhưng mở ra mà thấy giới thiệu Trấn Đoàn Lão tổ đẻ ra môn Tử Vi thì lập tức trả lại trên kệ sách. Bởi vì chắc chắn cuốn sách đó không có gì mới lạ đáng xem. Xã hội Trung Hoa cổ đại không hề có nền tảng tri thức xã hội làm cơ sở phát minh ra giấy. Ngoại trừ sau đó họ chiếm đoạt được nền văn minh Lạc Việt ở Nam Dương Tử từ thế kỷ thứ IV BC. Bài trên viết: Đúng quá! Vậy kiến thức của người Ai Cập dựng nên Kim Tự Tháp - một hình thể nhân tạo với một tư duy trừu tượng rất sâu sắc về cả kiến thức thiên văn, địa lý rất cao cấp và vô cùng đồ sộ được chuyển tải bằng cái gì? Viết trên đất sét àh? Cả thuyết Âm Dương Ngũ hành với sự ứng dụng rộng khắp trong mọi lĩnh vực của cuộc sống viết bằng gì khi kiến thức trở thành phổ biến? Viết lên mai rùa cho đến khi Văn Lang sụp đổ àh? Nếu thế thì chắc rùa trên thế giới không còn con nào. Sứ giả Việt thường dâng vua Nghiêu con rùa ghi việc trời đất mở mang. Lạy Chúa! Viết bằng chữ chứ gì nữa. Những tờ giấy đầu tiên viết trên đó bằng văn Khoa Đẩu! Đấy là chữ Thiên Thư mà các sĩ phu Tàu phải xác nhận đấy! (Xem Thủy Hử). Chữ Khoa Đẩu hiện nay vẫn còn dấu tích ở Đài Loan và các vùng cao của Việt Nam. Gần đây, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã chứng minh rằng: Đây chính là chữ Việt cổ. 4. Mì Bột mì là thực phẩm chính của người Trung Hoa cho đến ngày nay và của cả người phương Tây. Điều này không cần bản cãi. Nhưng vấn đề là sự phát minh ra mì sợi thì có phải là của người Trung Quốc không? Họ căn cứ vào đâu để chứng minh điều này? Chúng ta xem lại đoan văn liên quan ở trên: Tôi hoàn toàn nghi ngờ tư liệu này. Bởi vì tôi không tin những phần tử hữu cơ thực vật đã qua chế biến và ngậm trong nước sôi như những sợi mì này - tức là đã bị phân hủy cơ chế tế bào của nó - và bị chôn xuống đất có thể tồn tại hơn 4000 năm. Vô lý đến cùng cực. Nếu cứ cho rằng những di vật khảo cổ tìm được là những sợi mỳ kia là có thật, thì những chứng cở hợp lý liên quan cũng bác bỏ điều này. Vì vậy, vấn đề đặt ra việc chế biến ra sợi mỳ có phải bắt đầu từ văn minh Hoa Hạ không? Với tôi thì hoàn toàn không. Người Việt có một món ăn mà trên thế giới này hầu như không thấy có ở các dân tộc ăn gạo - đó chính là sợi bún. Tôi đã từng làm trục cắt mì cho các cơ sở chế biến mì sợi của những gia đình người Hoa gia công mì sơi cho nhà nước vào thời bao cấp. Tôi thấy rằng để chế ra những sợi mỳ thì công nghệ đơn giản hơn nhiếu so với chế ra sơi bún. Việc chế tạo ra những sợi bún của ẩm thực Việt đòi hỏi một quy trình rất phức tạp trong sử lý bột ướt (Chứ không phải bột khô như quy trình tạo mì sợi). Tất nhiên, điều này cho thấy sự vượt trôi của ẩm thực Việt từ thời xa xưa so với ẩm thực Trung Hoa. Vì dân tộc Hán không ăn gạo. Cho đến ngày hôm nay, dân tộc Việt là dân tộc duy nhất trên thế giới dùng thực phẩm làm biểu tượng văn hóa. Đó chính là chiếc bánh chưng, bánh dầy . Trong cuộc thi tài mà lịch sử ghi nhận từ thời Hùng Vương dựng nước ấy, tất nhiên đâu chỉ có cặp sản phẩm duy nhất là chiếc bánh chưng, bánh dày. Cho dù Trần Quốc Vương cố tình giải thiêng linh vật của nền văn minh Việt (Khái niệm "giải thiêng" này là của Trần Quốc Vượng trong bài viết của ông ta) - thì cặp bánh chưng, bánh dày dùng làm biểu tượng văn hóa Việt là không thể phủ nhận. Điều này chứng tỏ rằng: Từ ngàn năm trước Việt tộc đã đạt trình độ rất cao cấp trong ẩm thực, nên mới có thể dùng thực phẩm làm biểu tượng văn hóa. Cho đến ngày hôm nay - khi tôi đang gõ những dòng chữ này - chưa có một nền văn minh hiện đại nào có biểu tượng văn hóa bằng thực phẩm. Bởi vậy, cho dù cả cái thế giới này, xúm vào hạ bệ nền văn hiến Việt với sự hưởng ứng của cái gọi là đám "hầu hết" trong nước cũng chẳng thể nào xóa bỏ được những thực tế khách quan đang tồn tại trong văn hóa Việt, từ thời Hùng Vương dựng nước. Đến đây, tôi không thể không nói tới hiện tượng các báo mạng chính thống trong nước lên tiếng về suy thoái của văn hóa và giáo dục Việt. Nhưng không ít trong số những học giả đang lên tiếng ầm ĩ ấy, lại là kẻ vô tình - tôi chưa nói đến cố ý - đang xóa sổ nền văn hóa này. Thí dụ như Trần Quốc Vương với bài giải thiêng cặp bánh chưng, bánh dày. Hoặc những kẻ khoác áo học giả vênh váo đòi phục hồi chữ Hán trong trường học. Chữ Hán là một phương tiện rất cần thiết trong việc nghiên cứu cổ văn hóa sử. Nó có thể là môn học bắt buộc có tính chuyên ngành. Nhưng không thể ép học sinh phổ thông học lại thứ chữ bị áp đặt trong thời nô lệ Bắc phương này. (Xem bài nói về hội thảo ngôn ngữ Việt gần đây ở T/p HCM). Nếu vậy thì sao không đặt vấn đề học tiếng Pháp luôn. Những sự dốt nát và sai lầm từ ngay cả những trí thức gọi là cao cấp như vậy, làm sao mà khá được. Bởi vậy, hoàn toàn không phải ngẫu nhiên khi Winldlavender - một thành viên của diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn - hồ hởi nói với tôi từ mấy năm trước: "Ông bộ trưởng giáo dục mới có quyết tâm cải cách giáo dục, em hy vọng nền giáo dục Việt sẽ sáng sủa hơn". Tôi trả lời rằng: Còn anh và còn em đây. Nếu như người ta vẫn dạy học sinh và phổ biến quan niệm "Thời Hùng Vương chỉ là liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố" thì sẽ chẳng có ông bộ trưởng nào làm nổi điều này. Điều này chẳng có gì là bí ẩn, hoặc tâm linh cả. Nhưng hãy chịu khó suy luận thì sẽ thấy ngay nguyên nhân của vấn đề. Kẻ không chịu suy luận là người cuồng tín. Kẻ không dám suy luận là người nô lệ. Kẻ không thể suy luận là người ngu xuẩn. Quay trở lại với sự phát minh ra mỳ sợi được coi là của người Hán, nhưng đó cũng chỉ là tiếp thu một cách đơn giản sự chế biến phát minh ra sợi bún của người Việt, khi dân tộc Việt đã có một nghệ thuật ẩm thực vào bậc thày của thế giới tính đến ngày hôm nay - qua biểu tượng bánh chưng bánh dày. Điều này còn được chứng tỏ rằng: Ngay địa điểm tìm thấy cái gọi là "những sợi mỳ đó" cách đây 4000 năm có phải là địa bàn sinh sống của người Hán không, còn phải xét lại. Nước Văn Lang: Bắc giáp Đông Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Đông giáp Đông Hải và Tây giáp Ba thục. 5 - Xe cút kít Chúng ta xem lại nguyên văn đoạn cho rằng xe cút kít là phát minh của văn minh Hán: Lại những dẫn chứng với tên tuổi cụ thể phiên âm latin cho có vẻ đặc Tàu và còn làm ra vẻ bí ẩn "giữ bí mật phát minh" một cách mập mờ, khiến người đọc cứ tưởng người Tàu phát minh ra xe cút kít thật, nhưng tại chưa muốn nói ra. Trong khi đó, chỉ cần một tư duy đơn giản cũng đủ để chế tạo ra cái xe này. Đã vậy lại còn mập mờ là "giữ bí mật phát minh" nữa chứ. Vậy họ làm ra cái xe cút kít để thờ àh? Nếu đã đẩy ra đường thì ai mà chẳng nhìn thấy. Chỉ những phát minh trừu tượng và cao cấp mới cần giữ bí mật. Mà cao cấp đến siêu đẳng thì cũng chằng cần giữ bí mật. Bởi vì muốn ăn cắp cũng phải đủ "chình độ" mới ăn cắp nổi. Thực chất cái gọi là xe cút kít này chỉ là hình ảnh thu nhỏ của chiến xa hai bánh đã có từ rất lâu trên khắp thế giới từ cả ngót...... ngàn năm trước BC. Trong các chiến xa thời cổ đại từ Châu Âu, đến châu Á đề có hai bánh xe và càng đàng trước. Chỉ cần thêm một bánh xe đằng sau và thu nhỏ nó lại thì thành xe cut kít. Lạy Chúa! Một phát minh vĩ đại. Đến bây giờ ở các vùng nông thôn xa thành thị của Trung Quốc vẫn còn dùng. Chán hẳn. Cái này thì không cần tranh chấp bản quyền. Để "phát minh" ra loại xe này, không cần phải có một tư duy trừu tượng cao cấp hơn cái bánh chưng, bánh dày. 6 - Máy ghi địa chấn. Chỉ riêng cái máy ghi địa chấn này thì tôi tạm thời có thể thừa nhận nó do ông Cheng Heng phát minh ra. Tuy nhiên, nếu nó chỉ được gọi là phát minh vào thời Đông Hán (Có một tài liệu khác tôi xem được - thông qua hình thức truyện tranh thiếu nhi - thì vào đầu nhà Đường. Cũng theo tài liệu này thì chỉ có 8 con rồng cho 8 phương. Không biết con thứ 9 ở đâu ra?). Bởi vì nó chỉ là một cái máy duy nhất và mang tính chuyên dùng. Nhưng hình ảnh con cóc và con rồng trên thuộc về văn minh Lạc Việt, nên tôi vẫn đặt vấn đề hoài nghi nền tảng tri thức xã hội của người Việt cổ ở Nam Dương tử là tiền đề cho phát minh này. Hình tượng rồng dành cho vua và hoàng tộc, cho đến thời Hán không hề được nhắc tới trong Sử Ký của Tư Mã Thiên. Nhưng truyền thuyết lịch sử Việt với danh xưng Lạc Long Quân - Vua rồng Lạc Việt - đã xác định hình tượng rồng được lựa chọn làm biểu tượng của vua từ thời tối cổ trong văn hiến Việt. Trên trống đồng hình tượng rồng cũng đã được thể hiện. Ngay trong bài "Y phục thời Hùng Vương" tôi cũng chứng minh rằng: Đó chính là y phục triều đình Văn Lang và trong đó đã dùng hình tượng rồng trong y phục. Còn hình tượng cóc thì thôi khỏi bàn. Tất cả những dấu ấn này đã xác minh nền văn hiến Việt một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử. Văn minh Hán đã tiếp thu được những giá trị còn lại ở đây, sau khi văn hiến Lạc Việt bị sụp đổ vào thế kỷ thứ III BC. 7 - Rượu. Bây giờ đến "rượu". Món hẩu của đại tiền bối Chí Phèo, người đã để lại di sản văn hóa là cái lò gạch nổi tiếng làng Vũ Đại cho Thiên Sứ. Bởi vậy, Thiên Sứ tôi hiểu giá trị và nguồn gốc của rượu đủ đế xác minh rằng: Chẳng việc gì phải cám ơn nền văn minh Trung Hoa cả. Còn lâu họ mới làm ra rượu. Viết đến đây, thật tội nghiệp cho nền văn minh Trung Hoa, chưng ra mấy cái cổ điển gọi là phát minh đầu tiên của nhân loại, mà xét ra thấy cũng mù mờ. Cái ghê gớm nhất đáng trưng ra - tuy cũng không phải của họ, nhưng ít ra cũng đáng để cho thế giới phải giật minh xem lại - Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Tuy nó không phải của Trung Quốc, nhưng những kho tàng văn bản đồ sộ trên đất nước này đủ có giá trị đấy. Nhưng cái gì cũng có cái giá của nó. Bây giờ chúng ta xem lại xem, rượu có đúng là của người Trung Quốc phát minh ra không, khi bài viết xác định điều này: Một sự xác định rất chi là "phong long", lại một thủ thuật dùng chữ latin gọi là địa điểm khảo cổ: Henan? Hà Nam - Đây chính là một vùng ở Nam Dương Tử, mà 9000 năm trước, có khi chính dân tộc Hán chưa hình thành , chưa nói đến nó có thể sở hữu phát minh này. Có lẽ, những người bạn của tôi và quí vị độc giả đã nhận thấy một chứng cứ mơ hồ của những kẻ sính khảo cổ và thiếu hẳn tư duy phân tích khi mà chỉ căn cứ vào địa điểm khảo cổ để quyết định sở hữu dân tộc. Tức là sự xác định không gian tuyệt đối hiện đang sở hữu của dân tộc đó và không đếm xỉa tới không gian lịch sử của di vật có thuộc về dân tộc đó không. Tôi thí dụ: Không thể căn cứ vào những di vật khảo cổ trên Úc Châu mà bảo chiếc bumerang là sản phẩm của người Anh khi họ thống trị nơi đây. Bởi vậy, với những tư duy ngớ ngẩn khoác áo học giả ấy chính là những kẻ làm đảo lộn những giá trị của chân lý. Chỉ cách đây hơn 2300 năm, chính các sử gia Trung Hoa xác định giới hạn sinh hoạt của người Hán không vượt qua bờ nam Dương Tử. Chúng ta có thể tìm tư liệu này ngay trong cuốn "Lịch sử Trung Quốc 5000 năm" của các sử gia Trung Quốc viết. Vậy địa danh Henan - Hà Nam này không thể do tổ tiên của người Hán thống trị vào thời gian đó. Chính sự xập xí xập ngầu của cách phiên âm latin cho tiếng Trung Quốc trong văn bản - khi nó chưa được chuẩn hóa và phổ biến trong văn hóa Việt - làm tác giả có thể dịch sang một nghĩa khác và chỉ một địa danh khác. Nhưng còn một chứng cứ khác thuyết phục hơn nhiều cho cái di vật bkhảo cổ khốn khổ đó, đủ để chứng tỏ rằng: Chính người Việt mới là dân tộc làm ra rượu sớm nhất ở phương Đông. Điều cốt lõi cấn quán xét là rượu làm bằng chất liệu gì? Tất cả những bợm nhậu trên thế gian này đều xác định ngay: Rượu chủ yếu làm từ gạo. Đây là sản phẩm của các dân tộc dùng gạo làm thực phẩm chính. Và cũng chính là của người Lạc Việt ở nam Dương tử. Cho đến tận ngày hôm nay - khi tôi đang gõ những hàng chữ này - tất cả những người nói tiếng Hoa ở nam Dương tử - trải qua hơn 2000 năm Hán hóa - vẫn chưa bỏ được thói quen ăn cơm so với người Hán chính thống ở phương Bắc ăn mỳ. Cho dù về mặt hình thức, họ nói tiếng Hoa. Những trẻ em Việt thế hệ thứ hai sinh tại Hoa Kỳ có em gần như không biết nói tiếng Việt, nhưng không có nghĩa chúng là người Anh. Và chúng vẫn ăn cơm chứ không lấy bánh mỳ làm thực phẩm chính. Cho dù, người Việt và gốc Á nói chung so với người Âu - Phi chỉ là thiểu số. Điều này cho thấy rằng: Việc thay đổi thói quen sử dụng lương thực chính của một dân tộc là rất khó. Đây là một dấu chứng nữa cho thấy người Nam Dương tử không phải là người Hán. Những công trình nghiên cứu về zen di truyền của bác sĩ Trần Đại Sỹ cũng xác minh điều này. Họ có zen của người Lạc Việt. Thậm chí người Nhật Bản, các giáo sư sinh học hàng đầu của họ đã xác định: zen di truyền của người Nhật giống người Việt hơn tất cả các dân tộc khác ở Á Châu - đây là phát hiện khoa học mới nhất - cách đây vài năm (Điều này tôi đã nói từ lâu về nguồn gốc dân tộc Nhật Bản. Cuốn lâu nhất viết về v/d này - 1998 - là "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại". Giáo sư Trần Quang Vũ - Khoa Vật Lý thiên văn Đại học tổng hợp Thụy Sĩ - sau khi nghiên cứu các tác phẩm của tôi - đã đặt vấn đề liên hệ với các giáo sư Nhật Bản và là người đầu tiên cho tôi thông tin này, khi ông dự hội nghị quốc tế với các giáo sư Nhật. Sau đó công trình này được giới khoa học Nhật công bố công khai. Tôi đã chứng minh rằng: Việc Hán hóa ngôn ngữ và văn tự trải hàng ngàn năm ở nam Dương Tử - là tất yếu cho một đế chế phải có ngôn ngữ và chữ viết thống nhất và chính thống - đã khiến cho các bản văn và ngôn từ của người Việt nơi đây bị thay đổi. Khi mà chỉ mới hơn 40 năm, thế hệ người Việt thứ hai trên đất Hoa Kỳ đã gần như không biết tiếng Việt. Hơn 2000 năm Hán hóa ở bờ nam sông Dương tử, không phải là con số để đọc trong một giây. Rượu, không phải người Hán sáng tạo từ bột mỳ. Người châu Âu trong thần thoại tối cổ của họ đã có vị thần đầu người minh dê làm ra rượu từ những trái nho. Người Ai Cập cũng sáng tạo ra rượu mà không cần đến văn minh Hán, các vị thần của họ - tức là thể hiện một nền văn minh tối cổ - cũng uống rượu bí tỷ. Một công trình nghiên cứu thiên văn cho thấy lượng phân tử giống như rượu đầy trong vũ trụ. Ở đây tôi chưa nói đến kỹ thuật nấu rượu phụ thuộc vào chất men. Rượu làm bằng nho và bằng gạo phải có loại men thích hợp và hoàn toàn khác nhau, mới thành rượu được. Men rượu nho không thể dùng để chế rượu gạo. Thậm chí cùng một chất liệu như nhau là gạo, cùng một công thức men như nhau, nhưng được chế tạo vào thời điểm thời tiết khác nhau cũng ra chất lượng rượu khác hẳn. Ấy thế cho nên rượu gạo của người Việt ở nam Dương tử không phải nhập men rượu từ văn minh Hán. Cái này tôi biết rõ vì ngày xưa nhà bà xã tôi nấu rượu và chính bà ấy đi bỏ rượu bán với tôi. 8 - Diều Bây giờ đến con diều giấy trẻ em chơi. Bài viết trên mô tả phát minh ra diều của người Hán như sau:[/size] Có thể nói rằng, cho đến ngày nay thì người Việt chơi diều nhiều hơn cả. Từ trẻ con đến người lớn. Bây giờ cuộc sống bận rộn với nhiều đồ chơi thể hiện đẳng cấp như tàu bay, cano điều khiển điện tử và game tràn ngập, nên diều chỉ còn ở vùng đồng quê xa thành thị . Nhưng có thể khẳng định rằng: Hình ảnh con diều với tiếng sáo vi vu trên những cách đồng quê đã trở thành một hình ảnh thân thuộc chỉ sau cánh cò bay và lũy tre làng. Những ai lớn tuổi chắc chưa quên hình ảnh cánh diều của tuôi thơ, dù ở ngay nơi thành thị. Tiếng sao diều thậm trí đã trở thành một nghệ thuật gắn liền với cánh diều. Những nghệ nhân Việt tài hoa có thể tạo ra những âm thanh gây xao xuyến trong không gian từ tiếng sao diều của họ. Tại sao diều lại phổ biến trong văn hóa Việt như vậy? Tất nó phải có một truyền thống từ thời rất xa xưa. Trong bài viết trên - do tiếng Hoa chuyển âm thành tiếng latin chưa được phổ biến - tôi không hiểu Gongshu Ban là ai. Ban thì có thể hiểu là Bản, Gong thì là Công, nhưng Gongshu thì chịu. Nhưng Mo Di thì chắc chắn là Mặc Địch. Đây là người cất công ba năm làm ra con diều bằng gỗ, nhưng chơi một giờ đã hỏng. Một câu chuyện nổi tiếng và bị Khổng tử chê với đám học trò. Tại sao thế nhỉ? Người Việt có làm diều bằng gỗ bao giờ? Họ vót nan diều bằng tre và phất diều bằng giấy. Xa xưa hơn nữa, cánh diều chính làm bằng vải. Vậy thì tại sao Mặc Địch phải cất công gọt con diều bằng gỗ đến ba năm? Tre đâu? Vải đâu mà Mặc Địch phải cầu kỳ đến thế? Và người Việt sáng tạo ra con diều bằng tre với giấy và vải từ bao giờ với bắt đầu từ con diều gỗ của Mặc Địch? Chính những giá trị văn hóa truyền thống Việt với con diều và cả một nền văn hiến đầy nhân bản, đã xác định rằng: Con diều là một sáng tạo của dân tộc Việt. Chỉ sau khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở miến nam Dương Tử và trải hàng ngàn năm Hán hóa, nghiễm nhiên những giá trị văn hóa này thuộc về văn minh Hán. Nhưng may thay, tổ tiên anh hùng và bất khuất của người Việt đã phục hưng giống nòi từ thế kỷ X AC, nên những giá trị Việt mới có cơ hội phục hồi. 10 - Lụa Trước hết, chúng ta phải xác định rằng: "Con đường tơ lụa" nổi tiếng trong lịch sử văn minh nhân loại chỉ bắt đầu từ thế kỷ thứ II BC, dưới thời Hán Vũ Đế - tức là sau khi Văn Lang sụp đổ hoàn toàn ở bờ nam sông Dương Tử - do Trương Khiên về nước vào năm 126 BC, sau khi đi công du Tây Phương theo lệnh của vua Hán Vũ Đế. Sau đó hàng chục năm sau, con đường tơ lụa nổi tiếng mới hình thành và thịnh vượng hàng trăm năm sau đó. Và bây giờ chúng ta xét đến tơ lụa có phải do người Trung Hoa phát minh ra không? Có thể xác định rằng: Điều này hoàn toàn không. Bởi vì: Ngay từ thời cổ đại cho đến ngày nay, lụa Hàng Châu và Quảng Đông vẫn là thủ phủ của nghề tơ lụa Trung Hoa. Phía Bắc Dương tử không hề có một địa danh nào có truyền thống nuôi tằm dệt lụa như vậy. Không lẽ sau thế kỷ thứ III BC, người Hán mới đem "phát minh của họ sản xuất đại trà ở Quảng Đông và Hàng Châu? Còn trước đó, họ sản xuất ở đâu bên bờ Bắc Dương tử? Không lẽ nơi tập kết sản phẩm tơ lụa ở Tây An phía Tây Bắc Trung Hoa mà nơi sản xuất lại đặt ở Đông Nam cho nó xa xội vạn dặm vậy? Điều này cho thấy rằng: Nghề trồng dâu nuôi tằm hoàn toàn có xuất xứ từ văn minh Lạc Việt ở bờ nam sông Dương tử và khi Văn Lang sụp đổ, nó nghiễm nhiên thuộc về văn minh Hoa Hạ sau hàng ngàn năm Hán hóa. Những di tích, di sản còn lại, chứng minh điều này. Các bạn của tôi đang xem blog này thân mến. Con người ta vì những bận rộn sinh kế hàng ngày, nên ít ai để ý đến nguồn gốc những phát minh ra cái diều, ra địa chấn kế , ra tơ lụa...vv..Nói tóm lại, nó chỉ là những câu chuyện phiếm trên bàn nhậu, hoặc để chứng tỏ sự uyên bác với các quí bà, quí cô ngồi cùng bàn cafe. Bởi vậy, con người thường dễ dãi với sự nhận thức về nguồn gốc của nó. Edison phát minh ra bóng đèn, mọi người đều nói thế và tôi cũng biết thế. Bây giờ người ta phát hiện ra không phải Edison phát minh ra cái đèn. Cũng chẳng có gì đáng quan tâm, nếu bóng đèn không giảm giá và ít hỏng hơn. Cũng biết thế. Nhưng với lịch sử nền văn minh của cả một dân tộc thì nó lại là một chuyện khác. Nó không còn là chuyện tỏ vẻ với phụ nữ và có cái để nói trên bàn nhậu. Nó không còn là chuyện thơ tình và thơ tán gái. Huyền thoại về nguồn gốc của cả một nền văn hóa Đông phương đầy bí ẩn - mà cả thế giới này dễ dãi tin là của văn minh Hoa Hạ - đã sụp đổ. Nó thuộc về văn minh Lạc Việt ở Nam Dương tử. Tất yếu, dân tộc này không chỉ sở hữu một học thuyết sẽ là tương lai tri tuệ của nhân loại, như lời tiên tri của bà Vanga. Mà nó còn phải có cả một nền tảng tri thức văn hóa, kinh tế xã hội để duy trì những giá trị siêu việt của nó. Nếu không như vậy thì nó sẽ không thể tồn tại. Chẳng có một thế giới mất điện nhưng lại duy trì được kiến thức liên quan đến máy vi tính. Cho nên, Thiên Sứ tôi viết bài này, chính là xác định những giá trị kinh tế văn hóa xã hội và những gía trị tri thức làm nền tảng của một dân tộc sở hữu đích thực những gía trị của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nhân loại sẽ đi về đâu, nếu như những nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và con người hiện đại đã nhìn thấy rõ và không cần phải vận dung tư duy trừu tượng cao cấp của con người. Hoặc là chiến tranh để giải quyết sự sinh tồn khi trái đất ngày càng hẹp lại và tài nguyên ngày càng ít đi? Hoặc là con người hãy xem xét lại chính mình để sống hài hòa với thiên nhiên và tồn tại với những giá trị nhân bản? Nếu như bài viết trên khuyên con người phải nhớ ơn nền văn minh Hoa Hạ đã phát minh ra những thứ như rượu, giấy...vv....thì chính nền văn minh Hoa Hạ phải biết ơn nền văn hiến Lạc Việt. Thế giới này muốn thoát khỏi hiểm họa trước mắt thì con đường duy nhất là : Tôn vinh Việt sử gần 5000 năm văn hiến - chủ nhân đích thực của thuyết Âm Dương Ngũ hành - Lý thuyết thống nhất vũ trụ.4 likes
-
Rất cân nhắc khi tường thuật một câu chuyện riêng tư của gia đình tôi đến với các cao nhân và Ace trên diễn đàn, hiện tượng này có thể thường xuyên đến với nhiều người có khi ta vô tình nên không nhận biết? Bố tôi vừa qua đời ngày 3/6/2010 tại tp Marseille (miền nam nước Pháp), sau khi nhận Visa tôi lên đường để lo phần hậu sự vào ngày 7/6/2010 và có mặt tại Pháp ngày 8/6/2010. Nghĩ ngơi 1 ngày, chờ đợi 1 ngày tôi được đưa đến nhìn mặt lần cuối trước khi tiến hành thủ tục hỏa táng vào lúc 14g địa phương ngày 11/6/2010 nhằm vào 19g tại vn. Vòng vo để các bạn hiểu được rằng tuy không chủ động nhưng tôi vẫn tránh được ngày tam nương, ngày nhập và động quan của Bố, và đã có một hiện tượng cực kỳ đáng quan tâm mà tôi đã có cách biện giải của tôi tuy vẫn chưa hết lẽ. Ngày ấy tôi hết sức cẩn thận lo gọi điện về vn để dặn dò người nhà lo phần hoa trái nhang đèn từ sáng, tất nhiên là hoa thật tươi và trái thật ngon! Giờ ra xe tôi lại điện về lần nữa để nhắc nhở vào đúng 19g vn hãy thắp cho tôi 3 nén nhang khấn xin tôi nhận diện Bố như trình Ông ngày tôi đến với Ông, và sẽ đón đưa Bố về với quê hương với dòng họ. Tiếp đó sau hai tiếng là giờ cử hành tưởng niệm đồng thời nhấn nút hỏa thiêu, ở nhà cũng lại thắp nhang cho thật đủ đầy nghi lễ khi đó tương đương 21g vn. Công việc còn lại chúng tôi chờ Nhân Viên hỏa táng báo xong phần việc của họ, chúng tôi ra về. Có lẽ lúc đó là khoảng hơn 22g vn. Mọi người hay đúng hơn là 2 người thân của tôi tại vn đến giờ ngủ. Sẽ không có gì đáng nói nếu không có hiện tượng mà tôi sẽ kể cho các bạn nghe dưới đây. Vào khoảng 3g sáng vn, người thân của tôi chợt thức giấc bởi sự lóe sáng của chiếc điện thoại để bên cạnh do sạc pin báo đầy, và cô ấy cũng thức dậy để thắp tiếp một nén nhang, chợt nhìn thấy bình hoa Lys mới cắm ban sáng đã héo rủ một cách buồn bã cả lá và hoa, nhìn kỹ hơn nữa trong bình khô cạn chẳng còn giọt nước, khô một cách kỳ lạ và rủ một cách đáng thương!! Cô ấy đã gọi điện cho tôi vào đầu giờ sáng của ngày mới để kể câu chuyện này với vẻ hoang mang, nhưng tôi lại có cách lý giải của tôi, vào khoảnh khắc đó lòng tôi cũng xót như ai đốt, thân xác bố tôi đang được thiêu đốt bởi một ngọn lửa của lò thiêu hiện đại với nhiên liệu Gas thì thể nào hoa nơi bàn thờ ông sao chịu nổi với sức nóng? Cảm ứng chăng? Nhưng sâu xa hơn là gì? là một hiện tượng tương tác siêu hình vượt không gian mà khoa học có lý giải được điều này? Khi ấy bên đây tôi trở về căn nhà của Bố vào lúc 22g địa phương, thật nhẹ nhàng mở cửa nhưng Bà mẹ kế tôi vẫn chưa ngủ nên khi bước vào phòng Bà đã bật dậy và nói với tôi "vừa rồi có ai gọi điện thoại cứ ồm ồm không nghe được gì! Má cố hỏi ai đấy nói gì tôi chả nghe gì cả! Tôi cúp máy đây! Thì lại nghe rất rõ câu trả lời "Thôi được rồi" đúng chất giọng câu cửa miệng của Bố khi còn sống. Điều này với tôi không bất ngờ không lạ lẫm nhưng người sống trên 50 năm trên đất pháp như Mẹ kế tôi sẽ không dễ dàng liên tưởng đến mối liên hệ tâm linh hay sự kết nối giữa quan hệ âm dương trong thời khắc này. Là hiện tượng mà chỉ có ở sự tương quan của đông phương chúng ta mới nhận biết được. Còn tiếp3 likes
-
Lần trước tôi và Dienbatn cũng trấn yểm một ngôi mộ bị sụt do nước ngầm. Sau khi trấn yểm tôi cũng dự báo sẽ có mưa - mặc dù đang mùa khô. Khoảng một giờ sau mưa rất to và chỉ giới hạn khu vực nghĩa trang và rộng hơn một chút. Bây giờ cũng vậy, giống nhau ở chỗ đều trấn thủy khí. Nhưng khác ở chỗ là lần trước là Âm thủy (Dưới mặt đất), còn bây giờ là Dương Thủy (Trên mặt đất) và đang mùa mưa. Lúc về trên xe Rừng Nauy đề nghị tôi giải thích vì sao làm như vậy. Giải thích việc này rất phức tạp vì cần kiến thức chuyên môn sâu. Bởi vậy, tôi chỉ nêu hiện tượng sẽ xảy ra để biện minh thay cho lời giải thích. Tức là sẽ xuất hiện hiện tượng bất thường do tương tác Âm Dương. Theo phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì trấn thủy khí tất thủy khí bế sẽ xảy ra mưa. Tôi chỉ đặt một hòn non bộ nhỏ vào bên phải mộ. Đây cũng là việc "may thày, phước chủ", nếu nước trong ống xi măng ở bên trái mộ thì việc trấn yểm phức tạp hơn nhiều. Phong thủy - kể cả Âm trạch lẫn Dương trạch, đều là những phương pháp có tính quy ước, tính nguyên tắc....Do con người nhận thức tự nhiên mà ứng dụng, tuy phản ánh tự nhiên nhưng không phải tự nhiên. Bởi vậy, nên đều có giới hạn của nó. Chẳng có gì là huyền bí cả. Cũng như cách đây 100 năm, nếu bạn kể chuyện đến một nơi mà ngoài trời đang nóng riêng ngôi nhà bạn bước vào thì mát lạnh, cánh cửa tự động mở ra và bạn có thể nói chuyện với người cách nửa vòng trái Đất, rồi xem những hình ảnh xảy ra ở tận bên Tây...thì hoặc là người ta bảo bạn nói phét. Còn nếu người ta tin bạn thì đoán chắc bạn lạc vào xứ thần tiên. Nhưng bây giờ bạn vào sân bay mà không đúng như thế, chắc bạn sẽ không hài lòng. Đại để nó như vậy.3 likes
-
Làm trong sáng tiếng Việt bằng cách học chữ Hán. Xin bình chọn ý kiến Đoàn Lê Giang là ý kiến nhảm nhí nhất từng được nghe. :D . Viễn cảnh 1 em 20x sẽ nói thế này : " Tháng Lục vừa rồi, ngộ bắt phi cơ đi Hoa Thịnh Đốn, tình cờ diện kiến bọn khủng bố đặt bom phi trường, báo hại ngộ phải vắt cước lên cổ chẩu quá chừng "3 likes
-
Hiện tượng thứ hai có thật từ câu chuyện của thành viên Rừng Nauy. Trấn yểm mộ phần Một học viên lớp Phong Thủy Lạc Việt cơ bản 03 có biệt danh là Rừng Nauy gọi đến Thiên Đồng để kể về một giấc mơ kỳ lạ. Chuyện rằng vị thân phụ của Rừng Nauy mất cách đây đã lâu, nhưng có một đêm, người chị ruột của Rừng Nauy ngủ mơ thấy ông về, cho biết rằng ngay trên đầu mộ tự dưng có ai để một chậu nước và trên chậu nước có một cái cây. Khi tỉnh dậy người chị liền nói với người nhà và sau đó Rừng Nauy cùng chồng tức tốc chạy đến nghĩa trang để xem thực hư ra sao của điềm báo trong mộng. Đến nơi, thật bất ngờ, phía đầu mộ bên trái của cụ là một vật hình trụ tròn bằng xi măng, như ống cống của đường phố, cao hơn 1m, đường kính cỡ 80cm, trong có nước, ở ngay đó, và ở phía trên, cách trụ tròn đó gần 2m là một cây Sứ non, đã cao hơn 1.5m. Hình tượng tương tự như trong giấc mơ mà ông cụ quá cố đã báo. Thật kinh ngạc. Cô bạn Rừng Nauy hỏi Thiên Đồng như thế có sao không và nếu không có cách để di dời hai vật ấy thì làm cách nào, vì sợ động đến chuyện mồ mã. Thiên Đồng bảo cần nên hỏi Sư Phụ Thiên Sứ. Vậy là cô nàng cùng phu quân đến xin sự tư vấn của Sư Phụ Thiên Sứ. Một cuộc hẹn đi đến thực địa thẩm định. Đến ngày, Rừng Nauy đi cùng chồng và một anh bạn là Khôi Nguyên, cũng cùng là học viên lớp Phong Thủy cơ bản 03 đến đón Sư Phụ đi, Thiên Đồng cũng cấp tráp tháp tùng theo đoàn để thẳng tiến nghĩa trang. Băng qua nhiều hàng mộ rồi cũng đến mộ của cụ thân sinh của cô Rừng Nauy. Sư phụ Thiên Sứ, Thiên Đồng, Rừng Nauy và phu quân cùng lễ bái ông cụ xong thì Sư Phụ tiến hành quán xét khu mộ. Sau khi xem xét xung quanh xong và dùng con lắc kiểm tra, Sư Phụ chỉ một chỗ bên trái mộ và bảo: “Trấn nơi đây". Trên đường về, trong xe, Rừng Nauy thắc mắc muốn hỏi rõ vì sao phải làm như vậy? Sư Phụ Thiên Sứ trả lời: -Tôi nói gọn như thế này cho cô nghe, sau khi làm xong thì có hai khả năng xảy ra - Nếu trời hôm đó nắng thì sau khi đặt vật trấn yểm xong thì sẽ có mưa chỉ quanh khu vực nghĩa trang hay rộng hơn tí, hoặc là cả ngày hôm đó mưa (vì Nam Bộ đang trong mùa mưa) thì làm xong trời sẽ nắng ráo. Có nghĩa sẽ có sự thay đổi trái qui luật để nhận biết hiệu ứng của việc trấn yểm hay chính xác hơn thế giới âm chứng thực tác động của vật thể lên âm phần. Mọi sự vận động của con người đều có sự tương tác nhất định theo định luật của vũ trụ mà chúng ta hay giới khoa học đang hướng tới để có sự giải mã ? Nhưng qua công trình nghiên cứu của phong thủy Lạc Việt đã chứng minh một cách khách quan mọi sự kiện không để bị đánh đồng với mê tín hay huyền bí mà người đời thường nghi hoặc. Theo như ngày đã định, người nhà của Rừng Nauy tiến hành việc trấn yểm mộ như tư vấn. Cả ngày đó, từ sáng đến khi bắt đầu làm là 14g00 thì nắng tốt. Đến 14g47 thì Rừng Nauy gọi điện đến Thiên Đồng báo rằng vừa làm xong việc trấn yếm như tư vấn của Sư Phụ, vẩn còn nắng. Nhưng sau đó Rừng Nauy lại gọi đến Thiên Đồng bảo: - Có mưa Thiên Đồng ơi! Thiên Đồng coi xem mấy giờ rồi? - Ba giờ kém năm. (14g55) Nghĩa là ngay sau 8 phút của khi trấn yểm xong thì trời có mưa, mưa rào giữa nắng và hạt hơi to trong khoảng thời gian ngắn rồi tạnh. Tôi kể lại và chờ thêm sự giải thích từ các bậc học giả uyên thâm hay các nhà khoa học ngoại cảm. Đồng thời có lời xin phép Rừng Nauy vì đã đưa câu chuyện riêng này, nhằm khẳng định giá trị của PTLV chúng ta.2 likes
-
Đến chùa Bà Đanh ngắm cảnh... thanh vắng! Chùa Bà Đanh là một danh thắng của đất Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, từ xa xưa vẫn gắn liền với câu thành ngữ nổi tiếng “vắng như chùa Bà Đanh”. Trên đường tìm đến ngôi chùa này, tôi cứ ngẫm nghĩ và tò mò mãi, không biết chùa Bà Đanh vắng vẻ, hiu quạnh thế nào mà dân gian lại lưu truyền như vậy? “Vắng như chùa Bà Đanh” Từ thành phố Phủ Lý rẽ vào quốc lộ 21, đi cầu Quế khoảng hơn 1km, chúng tôi thấy chùa Bà Đanh thấp thoáng hiện ra sau những bóng cây. Ngôi chùa u tịch nhìn ra con sông Đáy trôi chảy hiền hòa. Bến nước của chùa Bà Đanh nằm thoai thoải bên bờ sông, các bậc đá màu xám ngà ngà nổi bật giữa màu xanh của cây cỏ và dòng nước phẳng lặng như gương. Chùa Bà Đanh hiện ra thấp thoáng sau những bóng cây Con đường nhỏ dẫn vào chùa Bà Đanh rợp bóng nhãn, vải Đi qua chiếc cầu treo Cấm Sơn khá bề thế bắc qua sông Đáy, vòng lên một đoạn đường đê vắng vẻ, chúng tôi bắt gặp tấm biển bằng đá ghi “Di tích lịch sử văn hoá chùa Bà Đanh và núi Ngọc”. Chùa Bà Đanh thuộc địa phận thôn Đanh, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, cách núi Ngọc khoảng 100m. Từ núi Ngọc và từ chân đê, đi qua những đoạn đường nhỏ vắng lặng rợp bóng vải thiều, nhãn..., du khách sẽ thấy tam quan chùa Bà Đanh hướng về phía con sông Đáy thơ mộng. Khoảng sân rộng được lát đá trồng nhiều loại cây như đa, hoàng lan, sứ… Những cây bưởi trĩu quả vỏ vàng tươi tắn, những cây táo ta sai quả gợi nên hình ảnh một cuộc sống thanh đạm mà trù phú. Đặc biệt, ngôi chùa trồng một cây đào tiên tán thấp có quả to, tròn và dẹt dẹt như bưởi nhưng vỏ nhẵn thín màu xanh bóng, chi chít đầy cành. Tam quan ngôi chùa Một góc sân chùa u tịch Chùa Bà Đanh gồm nhiều công trình như: nhà bái đường, nhà thượng điện, nhà rung đường, phủ thờ Mẫu, nhà tổ… Trên các cột và vì kèo chạm khắc tinh vi theo đề tài “Ngũ phúc”, “Tứ linh”, “Tùng mã”, “Mai điểu”… Ngay gần đó là một bến nước lớn uy nghiêm nhưng vắng vẻ, trên các bậc lên xuống của bến nước, lá đa rụng đầy gợi không khí u tịch. Đứng trên bến nước, ngắm nhìn khung cảnh sơn thủy hữu tình, cái lặng yên nhắc cho trái tim mẫn cảm nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa: “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Ngôi chùa của những truyền thuyết dân gian Chùa Bà Đanh có tên chữ là Bảo Sơn tự, ngoài thờ Phật còn thờ Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu và Tứ Pháp trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (bao gồm Pháp Vân - mẹ Mây, Pháp Vũ - mẹ mưa, Pháp Lôi - mẹ Sấm, Pháp Điện - mẹ Chớp). Lịch sử xây chùa Bà Đanh gắn liền với nhiều truyền thuyết lạ kỳ như tích về mẹ Phật Man Nương – được cho là nguồn gốc của Tứ Pháp – vốn lưu truyền rộng rãi ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Một toà nhà trong tổng thể kiến trúc chùa Bà Đanh Đến chùa Bà Đanh, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những tác phẩm chạm khắc gỗ tinh xảo Bến nước chùa Bà Đanh nằm bên con sông Đáy hiền hoà lá đa rụng đầy Con rồng đá nơi Tam quan Tượng Bà Chúa Đanh được thờ trong chùa tương truyền là một người con gái được các Thần phái về để trông coi vùng này. Từ khi nhân dân trong vùng xây xong chùa thì sản xuất thuận lợi, không còn thiên tai mất mùa, đời sống trở nên đầm ấm, trù phú. Do đó, trong tâm thức dân gian Bà Chúa Đanh chính là vị thần mùa màng, phù hộ cho nông nghiệp. Nhiều người kể rằng do chùa Bà Đanh quá linh thiêng nên khách thập phương cũng ít dám ghé qua vì sợ nếu thất lễ sẽ bị trừng phạt. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng chùa ở xa khu dân cư, cách trở núi sông, giao thông không thuận tiện nên ít người lui tới. Dù giải thích thế nào thì dường như nguồn gốc câu thành ngữ “Vắng như chùa Bà Đanh” vẫn là một bí ẩn! Bài và ảnh: NGUYÊN ANH (NLĐ)2 likes
-
Kinh doanh là dấn thân, thương trường là cõi Phật? Kinh doanh là một cách dấn thân. Lúc này, thương trường cũng là cõi Phật. Đó cũng là một cách tu, thậm chí tu như thế còn phiền nhiễu gấp mấy trong chùa, nhưng nhờ đó thành quả cũng lớn hơn. Nghe chủ đề buổi thuyết trình "Văn hóa Phật giáo trong kinh doanh", những tưởng sẽ được doanh nhân Tạ Thị Ngọc Thảo chia sẻ về cách thức áp dụng triết lý, văn hóa Phật giáo trong kinh doanh, hay chí ít là kinh nghiệm của bản thân bà - vừa là Phật tử, vừa là doanh nhân. Nhưng bất ngờ, Phật tử Tạ Thị Ngọc Thảo lại chọn một cách tiếp cận hoàn toàn khác: "Chùa làm kinh doanh trong phạm vi có thể - tại sao không?" Đối tượng cụ thể mà bà Tạ Thị Ngọc Thảo hướng đến trong Tuần văn hóa Phật giáo được tổ chức gần đây là chùa Huế, như bà tự nhận: Mong muốn được "khơi dậy tinh thần kinh doanh của một vùng đất văn hiến, đó là tỉnh Thừa Thiên - Huế". Bởi theo bà, Huế có quá nhiều lợi thế. Người Huế luôn tự hào và yêu quý nhất mực mảnh đất này, nhưng Huế còn nghèo quá, mà lý do cụ thể nhất là thu nhập bình quân đầu người thấp - 1.030 USD/ người và tỷ trọng nông nghiệp quá cao 14,5%Tuần Việt Nam đã có cuộc trao đổi với bà Tạ Thị Ngọc Thảo sau buổi thuyết trình có phần gây tranh cãi này. Phật muốn chúng sinh giàu có - Vì sao bà lại chọn nói về đề tài "Chùa làm kinh doanh trong phạm vi có thể - tại sao không?" - Nếu chỉ lo cho đời sống của chùa thì hiện nay hầu như các chùa đều có thể tự túc được, không phải trông cậy nhiều vào nguồn cúng dường. Nhưng để phụng sự xã hội, nhất là các tăng ni dấn thân phụng sự xã hội, thì phải trông vào các nguồn khác, trong đó có nguồn cúng dường, nguồn doanh nghiệp tài trợ... Một trường hợp cụ thể trong hoạt động của giới tu hành hiện nay ở Huế là Phòng khám từ thiện Tuệ Tĩnh đường - nơi khám chữa bệnh cho hơn 250 bệnh nhân nghèo mỗi ngày, thì nguồn thu để duy trì hoạt động luôn là vấn đề đau đầu. Kinh tế phát triển thì không sao, nhưng khi kinh tế suy thoái như hiện nay thì nguồn cúng dường cho chùa bị giảm. Nguồn kinh phí cho công việc phúc lợi xã hội cũng đương nhiên phải giảm. Bác sĩ giám đốc rất lo sẽ đến lúc Tuệ Tĩnh đường phải đóng cửa. Nếu tình huống đó xảy ra thì trước mắt là 250 bệnh nhân nghèo không có nơi để khám bệnh. Để những công trình phúc lợi, từ thiện của Phật giáo hoạt động được bền vững thì nhà chùa phải chủ động được nguồn tài chính, nghĩa là phải có hoạt động kinh doanh để lấy lãi nuôi những hoạt động phúc lợi này. Khi đặt ra vấn đề kinh doanh với giới tu hành thì không chỉ Phật tử, cư sĩ, mà xã hội nói chung cũng dễ phản ứng, trong khi đó kinh doanh như thương gia Lương Văn Can định nghĩa là: "Sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ của mình như phương tiện để giải quyết những vấn đề xã hội và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn", thì kinh doanh có gì là sai trái mà không được làm? Trong cách nhìn của tôi, đó cũng là một cách tu. Nữ doanh nhân - Phật tử Tạ Thị Ngọc Thảo Hơn nữa, trong giới luật có cấm con của Phật tích lũy tài sản, phát sinh lợi nhuận, nhưng con Phật có hai chúng, chúng xuất gia và chúng tại gia. Đức Phật lại rất ủng hộ sự giàu có của chúng sinh. Trong kinh Phật có nói về y báo và chánh báo. Y báo là dựa vào cái mình nương tựa. Nếu bạn được nương tựa vào người chồng làm kinh doanh giàu có lương thiện, cha mẹ là người phúc đức, con của bạn là đứa trẻ thông minh đạo hạnh, thì người ngoài sẽ nhận ra ngay y báo bạn tốt. Bạn đã gieo phúc và bây giờ được nhận.Còn chánh báo thì sao? Đức Phật nói trong khi người ta còn phải ở những căn nhà lụp xụp bên cạnh đống rác hôi hám, thì bạn được ở ngôi nhà khang trang, được thưởng thức những hoa thơm, trái ngọt, ăn những bữa cơm ngon, sống trong không khí trong lành. Đó cũng là do bạn là người trước đó đã gieo phúc rất nhiều và nay được nhận. Nói như thế để thấy quan điểm của Đức Phật là ủng hộ sự giàu có. Với những người xuất gia, Đức Phật khuyên sống thanh bần, vì không muốn con Phật vướng vào những thường tình đó sẽ làm hạn chế sự phụng sự cho đạo pháp, cho chúng sinh. Nhưng những người con Phật có tóc và chúng sinh thì Phật luôn luôn ủng hộ họ giàu có. Văn hóa Phật giáo trong kinh doanh là thế nào? - Bà có nghĩ khi trình bày đề tài này tại Huế sẽ vấp phải những phản ứng không? - Trình bày đề tài chùa làm kinh doanh nơi đất Huế, với tôi là sự thử thách, thậm chí tôi xem đây là một đề tài đột phá tư duy, nhưng không thể không nói. Tôi nghĩ, may mà bây giờ mưa thuận gió hòa, đời sống của tăng ni và của người dân chưa đến nỗi quá khó khăn. Nhưng nếu có một biến cố đột biến xảy ra, chẳng hạn suy thoái kinh tế trầm trọng, thiên tai dịch họa ụp đến bất thường thì mọi chuyện đều thay đổi. Đến lúc này nếu chùa không có cơ sở kinh doanh để chủ động một nguồn thu, duy trì những công trình phúc lợi xã hội mà chùa đang điều hành, thì đời sống của hàng ngàn tăng ni và dân nghèo ở Huế có thể sẽ bị chao đảo. Kinh doanh không hề là vấn đề xấu. Vấn đề là ta sử dụng đồng lợi nhuận đó như thế nào, có đủ sức điều khiển đồng tiền, làm chủ bản thân không? Cái đó thì không phải do tiền, đổ thừa cho đồng tiền là không đúng. Hơn lúc nào hết, trong thời hội nhập hiện nay, chủ động được nguồn thu để làm từ thiện, bớt lệ thuộc vào nguồn cúng dường, thông qua đó tạo việc làm và cơ sở vật chất, thu hút nguồn năng lực trung và cao cấp, góp phần tăng GDP thì chính là văn hóa Phật giáo trong kinh doanh. Trước khi trình bày đề tài "Chùa làm kinh doanh trong phạm vi có thể - tại sao không?" tôi rất lo, vì chỉ cần hai từ kinh doanh giữa Tuần lễ văn hóa Phật giáo thì đã là "nhạy cảm" rồi. Tôi đã thiền 2 tiếng trước buổi thuyết trình, vì tôi chuẩn bị một tinh thần giao lưu căng thẳng hơn. Ngay cả trong lúc trình bày tôi cũng thiền. Sau khi trình bày xong đến phần giao lưu tôi cũng thiền. Tôi hoàn toàn tỉnh thức trong mọi lời nói của mình. Tôi cũng được biết, bài nói chuyện đó gây nhiều sự bàn cãi. Nhưng sau khi thầy Trừng, thầy của rất nhiều tăng ni ở đây. Thầy dạy ở Học viện Phật giáo, vốn là người rất khó tính mà thầy công nhận đây là một đề tài mới, cần thiết, thì tôi nhẹ người, vì đấy chính là tiếng nói phản hồi của Huế. Cũng có lẽ Đức Phật phù hộ nên Huế nhẹ nhàng đón nhận. Tôi mới nhận ra rằng lúc này tôi nói là đúng thời cơ. Nói sớm thì không hay, nói chậm nữa thì qua mất cơ hội. Đưa đề tài này ra lúc này là rất hợp duyên. - Vậy theo bà, những người không phải Phật tử của Huế có thể tiếp nhận điều gì từ buổi thuyết trình của bà? - Tôi lại nghĩ những người chưa phải Phật tử, kể cả Phật tử cũng thấy rằng chùa chủ động kinh doanh là vấn đề cần thiết, nhưng họ không thích những người mặc áo lam lại trực tiếp đứng ra mua bán, đụng chạm với đồng tiền. Nhưng con Phật có hai chúng, chúng xuất gia và cư sĩ tại gia. Bởi thế tôi mới đề xuất giải pháp, nếu trong hàng ngũ cư sĩ có những người có ý tưởng kinh doanh đứng ra thành lập một công ty với HĐQT là các nhà sư thì có làm sao đâu? Những việc gì thật sự đụng đến tiền bạc thì giới cư sĩ làm, còn những việc phụng sự xã hội thì các thầy các sư làm được chứ. Rõ ràng ở đây, những người con Phật cả hai chúng xuất gia và tại gia đều biết rằng đồng lợi nhuận đó sẽ như nước Cam Lồ rưới vào những quãng đời bất hạnh. Kinh doanh cũng là một cách dấn thân. lúc này, thương trường cũng là cõi Phật. Đó cũng là một cách tu, thậm chí tu như thế còn phiền nhiễu gấp mấy trong chùa, do đó thành quả cũng lớn hơn. Muốn làm từ thiện hiệu quả nhà chùa cũng cần tự chủ được về tài chính. Ảnh minh họa Luật nhân - quả luôn ứng nghiệm - Vậy còn những doanh nhân không phải Phật tử, cũng không định kết hợp với nhà chùa làm kinh doanh, thì có thể áp dụng văn hóa Phật giáo như thế nào?- Văn hóa dân tộc ta được xây dựng trên nền tảng văn hóa Phật giáo, nên tất cả những gì lợi cho mình, lợi cho người, đem niềm vui đến cho mình, đem niềm vui đến cho người, hoặc sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mà có lợi cho người tiêu dùng; sự giàu có của mình góp thêm vào sự giàu có của đất nước, tiền bạc của số người giàu được chia sẻ lại cho số người còn người nghèo, để khoảng cách giàu nghèo rút ngắn lại, thì đó chính là văn hóa Phật giáo. Bất cứ doanh nghiệp nào áp dụng như thế thì giàu một cách bền vững, vì họ làm chủ "thụ dụng" (hưởng thụ và sử dụng đồng tiền mình làm ra). Ngược lại, nếu sự giàu có của mình xâm phạm đến quyền lợi của người khác, đến môi trường, cào cấu vào thiên nhiên rồi trốn thuế, gian lận thương mại, rút ruột công trình để làm giàu cho mình, thì không có cách gì bền vững, không chóng thì chày sẽ đổ vỡ. Theo đúng thuyết nhân quả, gieo gì sẽ gặt nấy. Là một doanh nhân, không cần phải là doanh nhân Phật tử, nếu ngay bây giờ không nghĩ đến chuyện gieo, nghĩ đến nhân duyên, coi chừng sẽ gặp ác báo. Vì thuyết nhân quả là quy luật khách quan do Đức Phật phát hiện ra, chứ không phải vấn đề tâm linh mơ hồ. - Ngoài những "hậu quả" về mặt vật chất, còn những hậu quả về mặt tinh thần thì sao? - Tôi xin kể một trường hợp cụ thể của một người bạn mà tôi không muốn nhắc tên. Người bạn này có một chuỗi nhà hàng chuyên bán thịt thú rừng, giàu có lắm vì họ mua thú rừng của người dân tộc với giá rất rẻ, rồi bán lại với giá rất đắt. Họ có hai người con, một trai, một gái, 18 tuổi và 19 tuổi. Vậy mà cả hai con liên tục ra đi, một người tháng trước xe đụng chết, người con còn lại tháng sau xe đụng chết. Hai vợ chồng nhận ra ngay vấn đề, dẹp ngay chuỗi hàng quán đó, tức thì sám hối. Đó là nhân quả đồng thời. Tôi có đọc những lá thư của những người tử tù là cán bộ rất lớn bên Trung Quốc. Họ kể rằng khi chỉ một chữ ký của họ để uốn một con đường từ hướng Tây qua hướng Nam là họ có được cả chục triệu đô la, do đó họ không kềm lòng được. Họ cũng có ý trách luật pháp không giúp cho họ ngăn chặn việc làm giàu quá dễ dàng như vậy. Họ có nói giá luật pháp chặt chẽ hơn, họ được giám sát nghiêm ngặt hơn, giá họ không kiếm tiền dễ như thế, thì họ đâu đến nỗi? Khi họ có được đồng tiền dễ dàng như vậy, thì vợ của họ theo trai, con của họ thấy tiền nhiều quá thì xài phí phạm, ăn chơi sa đọa, dẫn đến đứa thì nhiễm bệnh thời đại, đứa thì làm gái... Chính bản thân họ liên tục thấy cô đơn, họ mới đi tìm những người tình nhỏ ở Đài Loan. Để giữ những người tình nhỏ đó họ phải dùng những đồng tiền tham nhũng kiếm được, cho đến một ngày những người tình nhỏ quỵt hết những đồng tiền đó, rồi họ bị bắt, và bây giờ thì bị tử hình. Họ kết luận, những đồng tiền kiếm được không trong sạch làm cho lương tâm luôn bị day dứt, không bao giờ có được một giờ vui thật sự trong đời. Họ ao ước nếu cuộc đời còn rộng tay với họ, nhà nước hãy cho họ đến một vùng nào đó xa xôi hiểm trở cũng được, để họ có điều kiện cày cuốc kiếm ra từng mẩu khoai, miếng ăn, để có thời gian họ sám hối. Nhưng một mưu cầu nhỏ nhoi như thế không còn kịp nữa vì vay thì phải trả, đó là luật nhân quả. Vậy thì doanh nhân hãy kinh doanh theo văn hóa Phật giáo, hãy gieo những hạt giống tốt lành, để thu hoạch nhiều quả ngọt. - Trên thế giới đang xuất hiện nhiều doanh nghiệp, với họ mục tiêu quan trọng nhất là phụng sự xã hội, dường như giống triết lý của đạo Phật. Người Việt mình thường tự nhận là theo đạo Phật, nhưng trong kinh doanh lại chưa theo được văn hóa Phật giáo. Vì sao vậy? - Tôi nghĩ rằng hiện nay một số doanh nhân đang gặp khủng hoảng về triết lý sống, vì vậy họ sống theo bản năng, nặng về phần xác, nhẹ về phần hồn. Đã thế pháp luật hiện nay chưa đủ chặt chẽ để buộc những người này phải sống, làm việc và kinh doanh theo pháp luật. Quan sát xã hội tôi thấy không chỉ một số doanh nhân mà đại bộ phận người dân cũng gặp khủng hoảng về triết lý sống. Tại sao xã hội ta hiện nay có quá nhiều người bị khủng hoảng về triết lý sống? Đây là một câu hỏi lớn mà những người có trách nhiệm phải cùng tìm câu trả lời. Khánh Linh (Tuần Việt Nam)1 like
-
NA vô tình đọc được bài viết sau, thấy ý kiến của tác giả rất chủ quan, duy ý chí. Không biết sư phụ Thiên Sứ và mọi người có ý kiến gì về vấn đề này không. Nguyên nhân hình như không phải từ hệ thống chữ viết hiện tại của Việt Nam, mà là từ sự giáo dục yếu kém cộng với tư duy ỷ lại, tưởng tượng vào sự ích lợi của hệ thống chữ Hán. NA từng đọc qua 1 bài tương tự nói về các nước phát triển trong khu vực châu Á đều dựa trên chữ tượng hình dạng Hán tự này, và so sánh nó hơn hẳn hệ ký tự tượng thanh. NA đang tìm lại bài viết này. TUỔI TRẺ CUỐI TUẦN Thứ Bảy, 26/06/2010, 02:28 (GMT+7) Cần khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường TTCT - LTS: Cần có chủ trương đối với chữ Hán là một trong các kiến nghị được Hội thảo khoa học toàn quốc “Phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay” đưa ra cuối tuần qua. Chúng tôi giới thiệu bài viết của PGS.TS Đoàn Lê Giang cho TTCT về kiến nghị này. Hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng, tiếng Việt đang bị dùng sai một cách khủng khiếp. Chỉ có mấy từ dùng sai mà sửa mãi vẫn không hết: yếu điểm được dùng như điểm yếu, cứu cánh được dùng như cứu giúp, thậm chí có nhà văn nọ còn dùng từ khiếm nhã như là trang nhã... Sinh viên ngay cả ngành khoa học xã hội và nhân văn mà vốn từ hết sức nghèo nàn, nhiều người trong số họ không có khả năng hiểu được những từ gắn với nhà trường như: học phong, môn phong, đồng song, đồng môn... Những sai lầm yếu kém trên sẽ không có nếu học sinh được học chữ Hán, có thói quen tra từ điển Hán - Việt và tiếng Việt. Nếu như 50 năm trước Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là do lo ngại tình trạng lạm dụng từ gốc Hán, như thay vì sân bay thì nói phi trường, núi lửa thì nói hỏa diệm sơn, tàu ngầm thì nói tiềm thủy đĩnh..., nhưng với tình hình giáo dục như hiện nay thì lấy đâu ra người hiểu được chữ diệm là cái sáng, cái nóng trên ngọn lửa, tiềm thủy là ẩn dưới nước... Vì vậy bây giờ nói đến việc gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt chính lại là phải học chữ Hán. 100 năm - một chủ trương bỏ dở Trong luận văn nổi tiếng Luận về chính học cùng tà thuyết của Ngô Đức Kế, nhà chí sĩ đã phê phán một cách mạnh mẽ tình trạng học thuật đương thời: “Âu học vẫn chưa vin được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội rễ”. Ông vẫn mơ ước dân tộc ta có một nền quốc học sâu sắc để làm cơ sở tiếp thu nền văn minh hiện đại từ phương Tây. Thế nên Trường Đông Kinh Nghĩa Thục của các chí sĩ duy tân thành lập năm 1907, bên cạnh đề cao thực học, đề cao tự do trình bày tư tưởng, cổ động việc học chữ quốc ngữ Latin để thay cho chữ Nôm, trường vẫn tổ chức học một cách nghiêm túc hai ngoại ngữ bắt buộc: tiếng Pháp và tiếng Hán. Trước năm 1945 ở nước ta, sau khi thực dân Pháp bỏ các kỳ thi chữ Hán thì chữ Hán vẫn được giảng dạy trong nhà trường, mỗi tuần 1-2 tiết. Tuy số tiết học rất ít ỏi nhưng cũng đủ cho người học hiểu được chữ Hán, không dùng sai, viết sai tiếng Việt và để tinh thần truyền thống qua thứ chữ ấy góp phần tạo nên cốt cách con người. Ở miền Nam trước năm 1975 từng tổ chức một chương trình dạy tiếng Hán cho học sinh từ trung học đệ nhất cấp với bộ sách giáo khoa khá tốt: Hán văn khóa bản, học 1 giờ/tuần bên cạnh hai ngoại ngữ bắt buộc: tiếng Anh và tiếng Pháp. Dạy chữ Hán trong nhà trường như thế nào? Nhìn ra các nước Đông Á, không có nước nào dám đoạn tuyệt với chữ Hán. Người Trung Quốc trước kia trong cơn sùng bái phương Tây và đổ lỗi sự lạc hậu của dân tộc mình cho chữ Hán, từng mơ Latin hóa chữ viết của mình, nhưng rồi họ đành bằng lòng quay về với việc dùng chữ Hán giản thể và dạy cho học sinh phổ thông biết tối thiểu khoảng 3.000 chữ Hán. Người Nhật Bản cũng từng thử nghiệm dùng chữ Romaji (chữ Latin) nhưng không thành, thế là quay lại sử dụng chữ Kana mà dân tộc họ đã sáng tạo từ hơn 10 thế kỷ trước, bên cạnh đó vẫn bắt buộc học sinh tốt nghiệp trung học phải biết thuần thục 1.945 chữ Hán. Người Hàn Quốc chính thức sử dụng chữ Hangul được tạo ra từ thế kỷ 15. Trong văn bản tiếng Hàn thông thường hiện nay hầu như không còn chữ Hán nữa, nhưng những văn bản cổ hơn hay tài liệu khoa học thì dùng khá nhiều. Vì vậy chương trình giáo dục của Hàn Quốc vẫn dạy chữ Hán cho học sinh: cấp II dạy 900 chữ, cấp III dạy 900 chữ, tổng cộng là 1.800 chữ. Ở Việt Nam, nếu đưa chữ Hán vào dạy trong trường phổ thông chắc chắn sẽ gây phản ứng từ nhiều phía. Nhưng chừng nào chúng ta còn dùng tiếng Việt, chừng nào chúng ta còn coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc, chừng nào chúng ta còn nhìn các nước Đông Á như những cái mốc cần phải đuổi kịp thì chừng ấy chúng ta còn cần phải dạy chữ Hán. Hiện nay vẫn có nhiều giảng viên các khoa ngữ văn, lịch sử ở những đại học lớn biết chữ Hán. Chúng ta bắt đầu từ việc dạy đại trà cho sinh viên ngữ văn ở các đại học, từ đó đưa họ ra dạy thí điểm ở một số trường phổ thông. Sau đó rút kinh nghiệm, dạy chữ Hán cho học sinh trung học cơ sở, dần dần mở rộng ra học sinh chuyên ban khoa học xã hội ở trung học phổ thông. Cuối cùng mới tính đến việc dạy cho tất cả học sinh ở các ban khác. Chỉ cần dạy cho học sinh khoảng 1.000 chữ Hán để biết chữ nghĩa căn bản, biết cách tra từ điển, biết cách tự học. Sau này khi có điều kiện tốt hơn, có thể dạy khoảng 2.000 chữ Hán như người Nhật, người Hàn Quốc. Nếu chúng ta kiên quyết, kiên trì đưa chữ Hán vào chương trình phổ thông, tiếng Việt của chúng ta sẽ giàu có hơn, trong sáng hơn, ít bị sai hơn. Chúng ta sẽ có được thế hệ người Việt Nam mới: hiện đại, giàu có, mạnh mẽ, nhưng cũng uyên thâm cổ học, biết cắm rễ tri thức của mình vào nguồn mạch phương Đông và dân tộc, biết sống thung dung theo đạo học phương Đông và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. ĐOÀN LÊ GIANG (Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM)1 like
-
Người thương mãi nón cổ làng Chuông Từ chiến trường trở về quê nhà khi chỉ còn một chân, ông không ngờ rằng mình lại lao vào một cuộc chiến nữa. Trải qua biết bao gian khổ, nhiều lúc tưởng chừng không đủ sức đi tiếp nhưng rồi sức mạnh của ý chí và tinh thần quả cảm của ông đã giúp cho cuộc khôi phục nghề nón thúng quai thao cổ truyền thắng lợi. Về làng Chuông, người ta nói đến nghệ nhân Phạm Trần Canh với một niềm khâm phục xen lẫn tự hào. Âu có lẽ bởi tình yêu và đôi bàn tay tài hoa khéo léo của nghệ nhân già ấy đã góp phần làm sống lại nét đẹp cho những chiếc nón cổ làng Chuông thủa nào. Rơi nước mắt vì làng nón Chúng tôi cho xe chạy dọc con đê xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội để được ngắm nhìn những nõn lá cọ được phơi nắng trắng triền đê. Làn nắng vàng rọi xuống từng bó lá, một mùi hương dìu dịu lan tỏa khắp không trung, đẩy lùi đi ký ức của một thời nón đau thương. Người làng Chuông không biết ai là ông tổ của nghề nón, chỉ nghe tổ tiên kể lại chiếc nón ra đời và gắn bó với mảnh đất Chuông giàu văn hóa tự thủa nào. Những chiếc nón trắng đặc trưng của làng từ thời phong kiến đã từng được dùng cung tiến hoàng hậu, công chúa trong cung cấm. Nghệ nhân Phạm Trần Canh kể lại rằng, cách đây chừng ba thế kỷ, làng Chuông vẫn làm nón, nhưng là nón cổ. Nón cổ dày, cũng làm bằng lá, nhưng nan và vành rộng, chủ yếu dùng để che nắng cho các bà, các chị khi đi làm công việc đồng áng. Không chỉ có che nắng, mà còn có bộ đôi là nón và tơi để che mưa. Hơn thế nữa, Nón Chuông đẹp dáng lại bền, được dùng là kỷ vật tạo ra vẻ dịu dàng của bao cô gái bước lên xe hoa về làm dâu nhà chồng. Cả xứ Bắc Kỳ không mấy nơi là không biết tới nón làng Chuông. Trong sâu thẳm ký ức của người nghệ nhân già vẫn còn nhớ đến những năm tháng chiến tranh kéo dài làm xóa nhòa trong trí nhớ mọi người về cách làm nón quai thao tinh xảo một thời. Người dân làng Chuông lúc đó, phần thì li tán, phần chết vì bom đạn, đói kém, số còn lại cũng chỉ duy trì cách làm nón thông thường. Ông Canh thủa ấy mới 16 tuổi đã phải nén đau thương cho những chiếc nón cổ đang dần tan biến cùng lửa đạn chiến trường để vác ba lô tham gia vào Vệ quốc đoàn làm liên lạc cho trung đội 27, tiểu đoàn Đống Đa. Khi hòa bình lập lại thì những nghệ nhân già nhất trong làng cũng mất đi, không kịp truyền lại nghề cho con cháu. Từ đó, chẳng ai còn biết cách làm nón cổ truyền ra sao nữa. Miệt mài với đường kim mũi chỉ. Ảnh Tự Lập Một chân đi tìm nón cổ Năm 1954, với thương tật 2/4, cụ Canh trở về nơi đã sinh ra mình cùng người vợ quê gốc Nghệ An. Về làng thấy chẳng còn ai biết làm nón cổ, ông xót xa khi chứng kiến cái nét đẹp của quê hương đang dần mai một, vậy là ý chí không ngại gian khổ của "anh bộ đội Cụ Hồ" đã thôi thúc cụ khôi phục tinh hoa làng nghề. Những dòng ký ức của tuổi ấu thơ tràn về, cái thời lên 9, lên 10, ông đã được người mẹ của mình cho xem làm các mẫu nón cổ truyền sao mà đẹp đến thế. Rồi có ngày, một số đoàn văn công, đoàn quan họ đã tìm về làng để đặt làm những chiếc nón cổ, nón thúng quai thao làm phục trang biểu diễn càng làm cho ông quyết tâm khôi phục lại nghề khâu nón cổ truyền. Từ đó, ông bắt đầu cuộc hành trình làm "sống lại" chiếc nón cổ quê mình. Chỉ còn một chân vậy mà ông đã gắng rong ruổi khắp chốn, đến các vùng Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Bình... tìm mua những chiếc nón thúng quai thao, nón dân tộc Thái cũ. Vất vả lắm, vì cầu phà nhiều, mỗi khi xuống bến phà khổ lắm. Đi cái chân gỗ lại phải dắt cái xe xuống bến phà khó và khổ vô cùng. Nhưng ngày nào chưa tìm ra, là ngày đó còn ăn không ngon, ngủ không yên. Cả tháng lăn lộn khắp các tỉnh để dò hỏi, nghe ngóng hễ ở đâu có nón là ông Canh lại mày mò đến hỏi mua cho bằng được. Có những đợt thời tiết thay đổi, vết thương tái phát, phần còn lại của chân phải bị thương nhức buốt ông đã nghĩ đến chuyện ra về tay trắng. Nhưng ông lại nhìn cái chân và nghĩ: "chẳng nhẽ mình đã tàn lại còn bị phế ư?". Rồi bàn chân ông lại tiếp tục bước trên những nẻo đường xa quê. Tìm khắp chốn, rồi rui rủi thế nào ông lại về Hà Nội, vào một ngôi chùa ông đã tìm thấy chiếc nón cổ. Sau đó, ông ra chợ Đồng Xuân và nhờ một người phụ nữ mua hộ. Sư chùa biết được tấm lòng của ông nên đã không lấy tiền. Nhưng ông vẫn dấu bà nhà trả 30 ngàn cho người mua hộ nón. Ông vui sướng mang về tháo rời ra để nghiên cứu kích cỡ, kiểu dáng, cách khâu rồi ghi chép lại một cách tỉ mỉ. Bằng trí nhớ của mình, ông hình dung lại cách làm nón mà ngày xưa bà nội từng làm. Ngoài những chiếc nón truyền thống, ông Canh còn khôi phục cả những chiếc nón của người Hoa. Ảnh Tự LậpMang tinh hoa trở lại Những ngày đầu, chưa quen, kim đâm loạn xạ, khắp người chỗ nào cũng có vết trầy xước của tre nứa và kim đâm. Thấy ông đánh vật với những đường kim mũi chỉ, không ăn, không ngủ; lo lắng cho sức khoẻ của bố, các con ông đều khuyên ngăn, nhưng ông một mực không chịu. Ông tự nhủ: "Đời lính Cụ Hồ, đánh giặc khó vậy còn làm được, thì có gì không làm được... Sau một thời gian kiên trì, mày mò, ông cũng hoàn thành được chiếc nón quai thao - nón ba tầm. Cuối cùng cái nghề nón cổ xưa của ông cha đã trở lại. Ông mừng lắm, rồi ông bật khóc như một đứa trẻ. Có lẽ ai cũng nhận ra rằng, những chiếc nón cổ dường như bị "bỏ rơi" do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường. Hơn thế nữa, làm nón cổ, đòi hỏi nhiều công đoạn công phu tỉ mỉ mà lợi nhuận lại không cao, cho nên nó dần chìm vào quên lãng là điều rất dễ dàng. Làm nón cổ công phu và phức tạp từ khâu làm lá, lắp lá vào rồi khâu nón, cạp nón cho đến trang trí... Tất cả đòi hỏi người thợ phải thật kiên trì, khéo léo để chiếc nón tròn, khít, mịn từ mép lá đến đường kim mũi chỉ. Làm ra được một chiếc nón quai thao phải mất 3 ngày, đòi hỏi người thợ bỏ ra nhiều công sức và thời gian gấp mấy lần những chiếc nón bình thường. Một chiếc nón quai thao muốn hoàn thành phải trải qua 6 công đoạn, mỗi công đoạn có những cái khó khác nhau. Những chiếc lá cọ chở từ Phú Thọ về sẽ được đem đi phơi nắng chừng 3 ngày. Khi lá cọ đã chuyển từ xanh sang trắng và khô lại, chúng sẽ được cắt ra, độ dài tuỳ thuộc vào đường kính vành nón định làm. Trong công đoạn đầu tiên này và cũng khó nhất là việc là lá bằng lưỡi cày nung nóng, làm cho lá thẳng ra. Một chiếc nón quai thao cổ thường ghép bằng 4 lọn lá, phía bên trong mặt nón được ghép bằng những mảnh vải đỏ hoặc vàng trải phẳng, chỗ buộc quai nón được đan bằng những sợi chỉ nhiều màu sắc... Với sự cần mẫn và lòng yêu nghề, cuối cùng, ông đã hoàn thành những chiếc nón quai thao, nón ba tầm đầu tiên. Những chiếc nón cổ được hồi sinh trở thành phục trang quen thuộc của các đoàn nghệ thuật và là một vật dụng trang trí nghệ thuật trong các ngôi nhà. Nhưng ông lại sợ một ngày nào đó khi ông ngã xuống, chiếc nón quai thao ấy lại thất truyền một lần nữa. Vì thế, ông đã mở lớp dạy làm nón miễn phí cho người dân quanh vùng. Không phân biệt nam nữ, già trẻ, chỉ cần có một tấm lòng yêu nghề, muốn giữ gìn và phát huy nét đẹp truyền thống là ông dạy liền. Tính đến nay cũng đã có gần 100 người theo học. Giờ đây, ở cái tuổi "cổ lai hy", sức khỏe hạn chế đi nhiều nhưng nghệ nhân Phạm Trần Canh vẫn không ngừng sáng tạo. Ngày ngày, ông vẫn cần mẫn với công việc làm nón. Ông còn phục chế lại nhiều mẫu nón cổ khác như nón dân tộc Thái, nón chóp dứa, nón lá già ghép sóng, nón Hồng Kông... Với nghệ nhân Phạm Trần Canh duy trì nghề làm nón cổ không chỉ góp phần vào việc gìn giữ, bảo tồn những nét văn hóa độc đáo của Việt Nam. Mà ông còn giúp cho giới trẻ nhận ra rằng để tinh hoa làng nghề mai một là có tội với ông cha. Tác giả: Tự LậpBài đã được xuất bản.: 27/06/2010 06:00 GMT+7 Tuànvietnamnet1 like
-
Ăn Trộm Dạy Con
Thùy Linh liked a post in a topic by VIETHA
Xưa có một tên đạo chích rất lành nghề. Một hôm, con trai ngỏ ý muốn học nghề của cha. Tên ăn trộm liền dẫn con đi thực tập. Hai cha con đến một nhà giàu có, đánh bã cho lũ chó chết mê mệt xong, đạo chích đào ngạch, khoét vách dắt con chun vào nhà. Cả nhà ngủ say như chết. Tên trộm thấy một cái rương to còn trống bèn giở nắp rương bảo con: - Con chun vào đây, hốt hết đồ đạc bỏ vào bao cho cha. Thằng con y lời, đạo chích liền đóng nắp gài khoen lại ... rồi lẻn ra khỏi nhà, hô hoán lên ầm ĩ: - Ăn trộm! Ăn trộm! Chủ nhà bừng tỉnh, thấy nhà bị khoét vách, dáo dác tìm kiếm hồi lâu, không thấy động tịnh liền đi ngủ lại. Thằng con lão đạo chích nằm chết điếng trong rương, tái tê vì sợ và hận cha khôn tả. Hồi lâu hắn nghĩ ra một kế thoát thân, bèn lấy tay cào sột soạt vào thành rương và giả tiếng chuột kêu "chí ... chí ..." để đánh lừa chủ nhà. Nghe chuột kêu, chủ nhà vội thức giấc, đốt đèn mở rương đuổi chuột. Thằng bé liền nhỏm dậy, tắt đèn, xô té chủ nhà, tông cửa chạy một mạch. Chủ nhà lục tục kéo nhau, vừa chửi vừa đuổi theo. Thằng bé chạy đến đường cùng thì gặp một cái giếng, nó vội vàng ôm một cục đá to liệng xuống giếng và tri hô: - Thằng ăn trộm rớt xuống giếng rồi ... Làng xóm ơi! Mọi người đổ xô nhau kéo đến giếng để bắt trộm. Thằng bé chạy thẳng về nhà. Gặp cha, thằng bé oà lên khóc. Và không tiếc lời để oán trách cha. Lão đạo chích mĩm cười nói: - Khoan đã ... Con hãy kể cho cha nghe con đã thoát thân bằng cách nào? Cậu con thuật lại từ đầu chí đuôi. Lão đạo chích vỗ tay cười ha hả: - Hay quá, con tôi đã thành nghề1 like -
Trị liệu mệt mỏi tâm thần và thể xác BS. Trương Thìn (ảnh) (Giám đốc Trung tâm Y học cổ truyền hiện đại Hồng Bàng) thường xuyên có những buổi chia sẻ về những liệu pháp để giữ gìn sức khỏe. Rất nhiều người đã đến nghe ông nói để giải tỏa mệt mỏi, được ông hướng dẫn cho bí quyết trị liệu mệt mỏi tâm thần và thể xác. Dưới đây là buổi nói chuyện về sức khỏe của BS.Trương Thìn. Con người khi làm việc quá nhiều, cứ suốt ngày suy nghĩ, tính toán thì sức sống, năng lượng được huy động tối đa (lao lực), dẫn đến suy nhược cơ thể. Đồng thời con người có những tính khí nóng nảy, lo lắng, sợ hãi, dễ gây gỗ thì đó là biểu hiện của suy nhược về tâm thần (lao tâm). Để sống khỏe thì không nên quá lao tâm, lao lực. Vậy liệu pháp nào để “làm việc nhiều mà… ít mệt”? Theo tôi chúng ta không nên làm cho não mệt, chỉ nên tập trung làm những công việc mình yêu thích. Khi tập trung làm công việc mình yêu thích thì vùng não (tương đương với việc đó) hoạt động còn các vùng não khác sẽ được nghỉ ngơi. Đồng thời cũng không nên cố sức làm tới cùng một công việc nào đó mà làm đến một mức độ vưa phải rồi làm một việc khác để cho vùng não chú ý vào việc trước đó được nghỉ ngơi và kích hoạt vùng não khác (khi ta chú ý vào việc khác) hoạt động. Và cứ thế xoay vần từ việc này qua việc khác để các vùng não đươc làm việc, nghỉ ngơi… như thế sẽ không căng thẳng mà lại làm được nhiều việc. Tất nhiên khi làm một việc gì chúng ta chỉ nên để tâm đến việc mình đang làm, chỉ biết việc ấy chứ đừng suy nghĩ tùm lum, đó là trạng thái “thiền định”. Còn với một người không làm việc gì thì có thể tập thiền theo cách biết hơi thở, bước đi nghĩa là chúng ta hướng duy nhất một vùng não hoạt động (hô hấp hay cử động đi) chứ không kích hoạt toàn bộ bộ não nghĩ lung tung. Do vậy tôi cho rằng người trí thức khi làm việc chú tâm, biết việc mình làm thì cũng giống như… thiền sinh. Nhân đây tôi cũng xin nói thêm liệu pháp để giảm căng thẳng là không nên suy nghĩ nhiều. Theo tôi người càng suy nghĩ nhiều, càng đăm chiêu là người càng yếu về tinh thần. Chính vì vậy khi gặp những việc khó khăn chúng ta không nên cố ép mình phải nghĩ rồi bế tắc, lo sợ mà nên ngủ nghỉ, đi chơi. Sau khi ngủ nghỉ xong chúng ta sẽ có cách giải quyết hay hơn là cố bắt bộ não phải nghĩ. Hãy thương bộ não của mình, đó là điều mà tôi muốn chia sẻ. Các bạn đừng bắt bộ não chứa nhiều, đừng ham thu thập, nhận tất cả những cái xung quanh mà hãy nhận những cái mình thích và cần thôi. Phải học cách biết quên để không nhớ quá nhiều vì nhớ đủ thứ chuyện, thu thập đủ thứ chuyện thì toàn bộ não phải làm việc. Điều này dễ dẫn đến căng thẳng. Có những chuyện chẳng hay ho gì, những chuyện ở đâu đâu chúng ta cũng hay vơ vào mình, “save”(lưu) vào trong não, đó là những “chất độc” và hóa ra chúng ta đang đầu độc bộ não của mình. Bộ não của con người cũng giống như các ổ đĩa trong máy tính, nếu chúng ta lưu nhiều thì nó sẽ đầy, sẽ mệt mỏi, chậm chạp, đến lúc bệnh. “Lưu” mà không biết chọn lọc thì sẽ gặp phải… virus vào phá hỏng bộ não. Do vậy mọi người không nên ôm đồm nhiều thứ từ việc học đến việc làm cũng vậy vì làm não mệt moi dẫn đến thể xác và tâm thần đều bệnh! Thêm một vấn đề nữa đó là buồn, giận, yêu thương, lo lắng, sợ sệt… đều có lợi cho sức khỏe. Lâu nay chắc các bạn nghĩ rằng chỉ có vui mới có lợi cho sức khỏe? Tuy nhiên phải lưu ý là những trạng thái tinh thần trên chỉ có lợi khi những yếu tố đó loãng, nếu nó đậm đặc thì sẽ có hại. Ví dụ như khi các bạn vui vui thì sẽ cảm thấy hạnh phúc nhưng nếu quá vui mà không có điểm dừng thì lại có hại. Tương tự, lo lo thì được nhưng nếu quá lo thì sẽ làm bấn loạn tinh thần. Và sợ, buồn… cũng vậy! Khi vui, buồn, lo, giận, sợ… tất cả những thứ này đều cần phải được biểu hiện, không được nén những thứ đó lại vì như thế sẽ sinh bệnh. Khi ai đó buồn muốn khóc tôi luôn để họ khóc, thậm chí khóc theo, bảo họ khóc nữa đi…, bởi khóc là con đường giải tỏa buồn bực. Nén khóc là bệnh đó. Đồng thời người bên cạnh (bạn bè, người thân,…) cũng cần có sư đồng thuận với những cảm xúc của người đang vui, lo, buồn… để làm cho tình trạng tâm lý đang có không kết dính và trở nên đậm đặc. Cuối cùng, điều tôi muốn gửi gắm đến các bạn là nghệ thuật chính là vị thuốc quý của tâm hồn, nó chuyển nỗi đau thành hạnh phúc. Vì vậy thưởng thức thơ, nhạc, họa là cần thiết, đặc biệt là khi thơ, nhạc, họa ấy phù hợp với tâm trạng sẽ làm cho con người vơi bớt ưu tư, lo lắng, hay mệt mỏi, muộn phiền. Chúc Tiệu ghi giacngovn.online1 like
-
TƯ LIỆU THAM KHẢO Trung Quốc bắn đạn thật ở biển Hoa Đông 28/06/2010 18:28:33 - Mạng tin Chinese News ngày 28/6 dẫn nguồn tin tờ Minh Báo của Hồng Công cho biết lực lượng 91765 thuộc Hạm đội Đông Hải của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc sẽ tiến hành diễn tập bắn đạn thật trên biển Hoa Đông (The East China Sea) từ ngày 30/6 đến 5/7 tới. Theo thông báo của Hải quân Trung Quốc, thời gian diễn tập từ 0h đến 18h hàng ngày. Khu vực diễn tập là từ Châu Sơn đến phía đông Thái Châu. Trong thời gian diễn tập, nghiêm cấm các loại tàu thuyền đi vào khu vực biển nói trên. Phía Trung Quốc không giải thích lý do tiến hành diễn tập. Tuy nhiên, tuyên bố của Trung Quốc được đưa ra đúng thời điểm hải quân Mỹ và Hàn Quốc hôm nay (28/6) bắt đầu cuộc tập trận chống tàu ngầm trên biển Hoàng Hải. Cuộc tập trận Mỹ - Hàn này có sự tham gia của tàu sân bay hạt nhân George Washington. Theo phương tiện truyền thông Hàn Quốc, bán kính tác chiến của cụm tàu này lên tới 600 km. Như vậy, toàn bộ vùng lãnh hải ven bờ, khu vực Hoa Bắc và bán đảo Liêu Đông của Trung Quốc nằm trong bán kính tác chiến của cụm tàu sân bay của Mỹ. Tổng biên tập tạp chí Quân sự Thế giới của Tân Hoa Xã, ông Trần Hổ, cho rằng Trung Quốc không cần phải coi cuộc diễn tập quân sự Mỹ - Hàn nêu trên là một sự khiêu khích. Ngược lại, Trung Quốc có thể coi đây là một cơ hội tốt để cuộc diễn tập đạt được những hiệu quả mà trong điều kiện thông thường không thể có được. Bảo Minh (Theo Chinese News) --------------------------------------------- Nhời bàn của Thiên Sứ: Xem lướt thấy "Đông", "Đông", rồi lại có cả "biển" làm tôi cứ tưởng ở biển Đông Việt Nam. Té ra là biển Hoa Đông tận tít ở xứ Cao Ly cơ. Hổng có chi! Tiếp tục ăn nhậu......1 like
-
Chưa xem hết bài viết của vị Đại đức này. Nhưng tôi có lần được hỏi thế này: - Các linh mục có nên lấy vợ không? Câu trả lời của tôi là "không". - Tại sao vậy? - Vì Thiên Chúa là một đức tin. Bởi vậy nó cần những người hy sinh vì đức tin đó qua việc linh mục không lấy vợ. - Nhưng các vị linh mục cũng là người, họ vẫn có những nhu cầu như con người bình thường - tức là nếu họ không quản chế được mình thì sao? Lúc ấy niềm tin có bị sụp đổ không? - Trong trường hợp này, niềm tin cá nhân vào vị linh mục ấy sẽ sụp đổ. Nhưng nếu luật đạo sẽ sa thải vị linh mục đó và điều đó vẫn giữ được niềm tin vào Thiên Chúa qua luật đạo. Lúc ấy do vị linh mục đã hành xử như con người thì sẽ không còn là linh mục. Nếu dung túng lúc ấy sẽ mất niềm tin vào Thiên Chúa. Từ quan niệm này đến v/d Phật tử có nên kinh doanh không? Hoàn toàn có thể trong khuôn khổ luật pháp. Nhưng nhà sư đã thoát tục mà còn kinh doanh thì vấn đề lại khác. Nhà sư và Phật tử hoàn toàn khác nhau. Vấn đề được đặt ra: Như thế nào gọi là "thoát tục"? Nếu khái niệm thoát tục không phải là một luận cứ thì việc nhà sư kinh doanh như người bình thường thì sẽ không thể có sự phân biệt giữa kẻ tu hành và người không tu. Nhà sư có thể trồng trọt, tự nuôi sống minh; hoặc đi làm công để nuôi mình, tự sản xuất để nuôi mình...vv.... - chánh nghiệp - để tu tập và thí pháp. Nếu đạo cao, đức trọng thì Phật tử sẽ nuôi dưỡng để tinh tấn trên đường tu đạo và giảng pháp với chân lý uyên nguyên hơn. Nhưng khi đã kinh doanh tất phải thu lợi để nuôi mình. Không thể coi cái lợi của nhà sư khác cái lợi của nhà doanh nghiệp. Không thể coi rằng nhà sư chỉ thu lợi vừa phải đủ ăn chay và mua nhang đèn, còn nhà kinh doanh thì không? Hình ảnh của Phật giáo sẽ bị xói mòn bởi chính hành vi kinh doanh đưa chấp nhận trong luật đạo. Đức Phật nói (đại ý): Sau này khi ta mất đi, sẽ có những kẻ nói gần giống như ta. Nhưng đó không phải chân lý của ta, mà đó là ngụy lý của Ma ba tuần, bắt chước hình thức giáo lý của ta để xuyên tạc chân lý. Đức Phật nói với những Phật tử làm kinh tế, chứ không phải nói với người tu hành mặc áo cà sa làm kinh tế. Tại sao nhà Chùa lại có ngân hàng cho người nghèo vay, mà không phải là cho không? Của Chùa mà!1 like
-
Xuất hiện hàng loạt "thủy quái" ở Trung Quốc 27/06/2010 14:27 (GMT +7) Những người dân thôn Trấn Nam, thành phố Thượng Ngu, Tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc cho biết, từ tháng trước những con “thủy quái” hình thù ghê rợn bắt đầu xuất hiện ở hồ Trúc Động nơi đây. Người dân cho hay, mấy ngày nay trời mưa liên tiếp nên “thủy quái” ít đi. Nhưng vào ngày nắng ráo, chúng xuất hiện rất nhiều. Thủy quái có hình cầu, bên trong “cơ thể” nửa đục nửa trong mềm mềm như thạch là những tia máu hồng hồng, ngoài là cả ngàn lỗ nhỏ trông như những chiếc mắt. Con to bằng chiếc chậu rửa mặt, con nhỏ như nắm tay của người lớn. Một con “thủy quái” hồ Trúc ĐộngTheo chuyên gia Ngụy Tường Thái thuộc Trung tâm Kĩ thuật Thủy sản thành phố Thượng Ngu, “thủy quái” hồ Trúc Động thực chất là thể phức hợp giữa ba loại vi sinh vật là vi khuẩn, chân khuẩn (nấm) và khuẩn tia. Những điểm đen trên “da thủy quái” kỳ thực là nang bào tử hình thành khi chân khuẩn gặp môi trường bất lợi. Khi gặp điều kiện thích hợp, nang bào tử sẽ giải phóng ra ngoài vô số bào tử tiếp tục sinh sôi nảy nở. Nước hồ Trúc Động có quá nhiều chất dinh dưỡng cũng là nguyên nhân làm nảy sinh “thủy quái”. Được biết, hồ Trúc Động có diện tích mặt nước hơn 66.000m2, trước khi “thủy quái” xuất hiện là nơi bà con thôn Trấn Nam hay tới tắm giặt. Sau khi “thủy quái” tấn công, nước hồ Trúc Động không những biến màu, bốc mùi, mà còn gây ngứa ngáy cho những người xuống tắm. Trước đó, vào tháng 1/2010, người dân vùng Kim Hương (Sơn Đông, Trung Quốc) cũng tóm được một "quái thú", là cá thuộc loài da trơn khổng lồ, dài tới 3m, nặng chừng nửa tấn. Người dân và cảnh sát địa phương đang nghi ngờ đây là "thủ phạm" gây ra hàng loạt vụ mất tích bí ẩn lúc bơi lội trong hồ khi mổ bụng con cá thấy rất nhiều xương người mắc trong đó. Theo Bee.net1 like
-
1 like
-
Đá của ma thuật 25/06/2010 14:31 (GMT +7) Thời nay, những người lắm tiền nhiều của sử dụng đá quý như vật trang sức cho bản thân hay décor nội thất nhằm phô trương sự giàu sang của mình. Rất ít người trong số họ hiểu về tinh thần của đá quý. Hầu hết nhiều người không biết rằng, trên cả giá trị vật chất ấy là một giá trị tinh thần rất lớn. Đó là giá trị tâm linh. Linh vật của các nhà tiên tri Các nhà trường sinh học trên thế giới cho rằng thạch anh giúp con người giao tiếp với vũ trụ và với thế giới siêu nhiên, giúp chúng ta nhìn thấy quá khứ và tiên đoán tương lai. Vì có truyền thuyết cho rằng thạch anh có một sức mạnh tiềm ẩn bên trong nên nó còn được gọi là đá của ma thuật. Nhà tiên tri Jane Dickson nổi tiếng thế giới cực kỳ coi trọng việc nhìn vào viên đá thạch anh của mình mỗi khi tiên lượng. Bà là người đã báo trước cho tổng thống Mỹ Roosevelt về thời gian còn lại của ông trên cõi đời, bà cũng là người nói trước về việc John Kennedy sẽ trở thành tổng thống Mỹ 5 năm trước khi việc đó xảy ra và nhiều sự kiện quan trọng khác của thế giới.Gần đây, hàng loạt thí nghiệm do các nhà khoa học và bác sĩ tâm lý nổi tiếng của Mỹ tiến hành cho thấy, những hình ảnh hiện lên trên viên đá thạch anh là có thật chứ không hề là bịa đặt. Những sự việc, hiện tượng thu nhận được trong các cuộc thí nghiệm với con người cụ thể càng củng cố quan điểm cho rằng, thạch anh có một số tính năng thông tin đặc biệt mà khoa học rồi đây sẽ phải khám phá. Trang sức chữa bệnh Thạch anh thuộc loại đá bán quý (semi-gemstone), rất cứng, chỉ cứng sau kim cương. Bạn có thể thử độ thật của chúng khi cần phân biệt với hàng giả bằng cách xem độ mát lạnh của đá khi áp chúng vào má. Đá thạch anh được con người phát hiện từ gần 300.000 năm trước, là loại tinh thể nhiều màu hồng, tím, xanh rất bắt mắt. Nhiều dấu tích cho thấy con người thời kỳ tiền sử đã biết sử dụng thạch anh làm đồ trang sức và biết đến khả năng chữa bệnh của nó. Thạch anh tím có thể chữa bệnh mất ngủ, giúp con người giữ được niềm tin và lòng dũng cảm. Trang sức làm từ thạch anh hồng giúp con người tăng cường thể lực và tinh thần. Ngày nay, nhiều loại đá thạch anh anh được dùng trong các thiết bị mas-sage để day vào các huyệt đạo giúp lưu thông khí huyết và điều tiết năng lượng. Những người Hy Lạp cổ sử dụng các chiếc cốc làm bằng đá thạch anh đỏ và cho rằng nó sẽ giúp lọc chất độc hoặc uống rượu mà không bị say. Vòng đeo tay làm bằng thạch anh tóc là loại thạch anh quý nhất, tuổi cao nhất có tác dụng rất lớn trong việc tăng cường sức khỏe, giải trừ tật bệnh, tốt cho tình duyên, quan hệ xã hội. Khi mua, bạn nên nhờ chuyên gia về phong thủy tư vấn để chọn màu đá thạch anh phù hợp với cung mạng, giúp phát huy tối đa tác dụng của thạch anh. Biểu tượng tốt đẹp trong phong thủyĐặc tính của thạch anh là đá thiên nhiên có dương khí rất mạnh, vì trải qua vài triệu năm hình thành, đá thạch anh thu hút năng lượng dương cực mạnh, có thể đem đến sự may mắn trong cuộc sống và công việc, chống lại sự ảnh hưởng của năng lượng xấu. Khoa học cũng đo được những dao động riêng của thạch anh rất lớn nên thường dùng thạch anh trong công nghiệp vũ trụ, công nghệ đo lường... Chính vì mang một quyền lực siêu nhiên mạnh mẽ nên thạch anh còn được gọi dưới một cái tên khác: Đá Phong Thủy (Fengshui Stone). Đây được coi là một món hàng độc dành cho những đại gia chơi đá cảnh và được dùng như một món bùa hộ mệnh, có nhiều ích lợi đối với gia trạch và bản thân gia chủ. Để phát huy được hết những ích lợi của thạch anh, cần lưu ý một số điểm chính sau đây: 1. Gia đình bình an - tài vận thông thuận: Đá cầu thạch anh - động thạch anh - thạch anh hình trụ khối lớn - đá Hắc Diệu Thạch đặt ở các góc nhà. Tác dụng: Truyền khí từ tường, không những bảo hộ gia trung bình an, tránh tà mà còn giúp lưu thông không khí trong nhà đem lại nhiều may mắn. 2. Cải thiện phong thủy và tích tài khí: Đặt động thủy tinh trong nhà có tác dụng hóa xung giải sát, ngoài ra còn có thể tích phú, tích lộc. 3. Trấn thạch, tránh tà, vừa vượng vừa phát: Đặt động thạch anh hoặc thạch an hình trụ ở góc tài lộc ở trong phòng làm việc, công ty hoặc trong nhà có tác dụng trấn án - tránh tà - chặn sát khí, giúp bạn làm ăn thịnh vượng, phát đạt. 4. Tăng cường phát triển trí tuệ và ổn định trạng thái tinh thần: Đặt thạch anh tím trên bàn học hoặc đầu giường giúp bạn phát huy trí tuệ và cải thiện thị lực. 5. Khử sóng từ phát ra từ tivi, máy tính, lò vi sóng: Bên cạnh tivi, máy tính, lò vi sóng đặt một sản phẩm thuộc gia tộc họ thạch anh màu trắng, có tác dụng giảm bớt bức xạ phát ra. 6. Nhà không được hướng: Đối diện chính cửa ra vào là đường cái hoặc vị trí nhà ở góc đường hình chữ L, cửa nhà có cây to hoặc cột điện nên treo trước cửa ra vào một quả chuông gió bằng đá thuộc họ thạch anh hoặc góc nhà hướng cửa ra vào đặt động thạch anh tím có thể tránh tà. 7. Khử mùi: Cửa nhà vệ sinh treo thạch anh hoặc đặt thạch anh có thể giải uế khí. 8. Hiện tượng bóng đè: Đầu giường oạc dưới chân giường nen để một tảng thạch anh hình trụ hoặc một sản phẩm bất kỳ thuộc họ thạch anh có thể hóa giải hiện tượng bị bóng đè. 9. Nơi buôn bán: Tại quầy bán hàng đặt thạch anh tím hoặc màu phấn hồng giúp tăng cường nhân duyên và duyên bán hàng. 10. Cách cầu tài: Dùng Trận thất tinh hoặc thạch anh vàng cầu tài; Lục Du Linh gây dựng sự nghiệp - tài phúc. 11. Cải thiện tình cảm, thắt chặt nhân duyên: Đầu giường đặt thạch anh phấn hồng có tác dụng dung hòa tình cảm giữa bạn bè, người thân, cải thiện mối quan hệ chăn gối hai vợ chồng. Theo Thu Trang TGĐÔ1 like
-
Hoàn thành việc riêng, Wild có lời hứa dành một khoản tiền để thực hiện việc phóng sinh giải thoát cầu siêu cho linh hồn Thân Phụ, nhưng do đã phụ trách trang từ thiện Wild thấy việc làm này thiết thực hơn nên có ý chuyển mục đích sang làm từ thiện. Số tiền được tặng là 10,000,000 đ (mười triệu đồng). Quỹ hiện có: 5,989,000 đ + 10,000,000 đ = 15,989,000 đ (mười lăm triệu chín trăm tám mươi chín ngàn đồng)1 like
-
Kết Quả Dự Báo Từng Trận Trong World Cup 2010
Guest liked a post in a topic by NDK
(Tiếp) New Zealand - Xlovakia NDĐ: Cuti, NDK, Leon, BW KQ: Cuti, NDK, Leon, Bờ Biển Ngà - Bồ Đào Nha NDĐ: Cuti, Random, BW, Leon, NDK, Văn Lang KQ: Văn Lang (0 ghi quẻ và cách luận :D) Brazil - Bắc Triều Tiên NDĐ: Cuti, Leon, NDK, BW, Bá Kiến, KQ: Cuti, NDK, BW. Honduras - Chile NDĐ: NDK, Leon, Cuti, Random KQ: Random, Tây Ban Nha - Thụy Sỹ NDĐ: Văn Lang, Vietha, Random, Cuti, BW, Leon, NDK KQ: Vietha, Nam Phi - Uruguay NDĐ: Dim, Random, Leon, NDK, BW, KQ: Dim, NDK Argentina - Hàn Quốc NDĐ: Cuti, Văn Lang, Tuấn Dương, Dim, Phong Vân, Leon, Thiên Đồng, NDK KQ: Văn Lang, Phong Vân, Leon, NDK Pháp - Mexico NDĐ: Vietha, Phong Vân, Leon, Dim, Thiên Đồng, NDK, Random, Văn Lang, Cuti KQ: Dim Hy Lạp - Nigeria NDĐ: Phong Vân, Dim, Leon, Thiên Đồng, NDK, Văn Lang KQ: Thiên Đồng, Văn Lang Đức - Serbia NDĐ: Cuti, Leon, NDK, Random, BW, Văn Lang, KQ: NDK, Mỹ - Xlovenia NDĐ: NDK, Leon, Random, Văn Lang, Cuti, KQ: NDK, Leon, Anh - Algery NDĐ: NDK, Leon, Random, Văn Lang, KQ: sai Hà Lan - Nhật Bản NDĐ: Thiên Đồng, Leon, NDK, Văn Lang KQ: Thiên Đồng, Leon, Văn Lang, Ghana - Úc NDĐ: Thiên Đồng, Leon, NDK, Văn Lang, KQ: NDK, Văn Lang, Cameroon - Đan Mạch NDĐ: Leon, NDK (quên 0 ghi tỉ số thắng cho Đan Mạch, tiếc quá T__T), BW KQ: Leon (chênh lệch bàn thắng),1 like