• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 24/06/2010 in all areas

  1. Từ Hán - Việt (?) Từ "Hán Việt" mà ta thường quen gọi thực ra nó là từ Việt,trừ những từ mới thời hiện đại do người Trung Quốc hay người Nhật Bản dùng chữ Hán dịch các khái niệm xã hội,khoa học kỹ thuật từ tiếng phương Tây,rồi người Việt Nam dịch lại từ những từ bằng chữ Hán đó như "xã hội","cộng hòa"v.v.Ví dụ từ "quản lý"là ta lấy từ Trung Quốc,nhưng từ ấy không phải do người Trung Quốc đặt ra mà là lấy từ Nhật Bản,do người Nhật dùng hai chữ Kanji là 管理(”quản lý”-mà họ đọc là “kanri”gọi là nói theo “gô ôn” tức “ Ngô âm”)để dịch khái niệm management.Hai chữ Kanji (Hán tự)ấy ghép như vậy là đúng cú pháp tiếng Nhật,có nghĩa là "dùng lý mà quản"(vì người Nhật nói ngược ta,"ăn cơm” thì họ nói là "cơm ăn"),người Trung Quốc và người Việt Nam mượn nguyên si từ "Quản Lý" đó về dùng để khỏi phải mất công dịch từ management đều bị sai cú pháp cả ,bởi "quản lý"theo cú pháp Hán hay cú pháp Việt đều cho nghĩa là "quản cái lý".Dùng lý mà quản thì mọi việc đều sẽ vào đúng,chứ còn quản cái lý thì làm sao mà quản được?Cho nên trong xí nghiệp của Trung Quốc và của Việt Nam vấn đề management vẫn kém xa xí nghiệp của Nhật Bản là vì vậy. Còn cây lúa và con lợn thì xuất xứ đầu tiên của nó là từ nền văn minh Văn Lang.Hạt cây lúa người Việt gọi là hạt lúa,hạt lúa phơi khô rồi cất kho gọi là hạt thóc,lúa giống là nói về các giống lúa khác nhau,chứ hạt lúa để làm giống thì gọi là hạt thóc giống."Thóc” ấy sau người Hán có được từ người Việt nên họ gọi là "cốc".Thóc xay ra thành "gạo",gạo nấu chín thành thứ mềm dẻo gọi là"cơm gạo"và người Việt nói tắt từ “cơm gạo”là “cơm”.Từ “kơm”trong tiếng Việt nghĩa nguyên thủy là “thứ ăn được”,gốc do từ “kin” của tiếng Tày –Thái nghĩa là “ăn”,bởi vậy người Việt có khi bữa ăn chỉ có khoai sắn hay bo bo nhưng vẫn gọi là ăn bữa cơm.Từ “cơm gạo” người Tày gọi là “kin khảu",người Thái Lan gọi là "kin khao"đều nghĩa là ăn cơm.Người Hán ăn sản phẩm gạo ấy từVăn Lang phía nam bán lên nên gọi cây lúa cho ra “gạo”là "đạo"và phải ghép với từ thủy là "thủy đạo"để chỉ cây lúa nước,bởi họ lạ lùng là thứ cây lương thực ấy phải trồng dưới ruộng nước chứ không như lúa mì của họ trồng trên đất khô của thảo nguyên.Người Nhật lại lấy từ "cơm"của tiếng Việt để gọi gạo là "cômê",truyền lên Trung Nguyên phía bắc, người Hán lại gọi “cômê” là "mễ"hay “đạo mễ”nghĩa là gạo(phát âm là “mỉ”hay “tạo mỉ”).Chữ “mễ”mà xuất xứ là từ chữ “cơm” của tiếng Việt như vậy thì chữ “miến”cũng là xuất xứ từ tiếng Việt mà thôi,do người Việt chế biến ra miến từ bột dong và bột đậu xanh.Đến thời mà nghề trồng lúa nước phổ biến khắp vùng nam Trường Giang,lúc ấy xứ các nước Ngô, Sở, Việt đều giàu có và đông dân hơn Trung Nguyên nhiều,và thời ấy dân Ngô,Sở, Việt đều nói các thứ tiếng thuộc hệ ngữ Nam Á-người Ôn Châu ngày nay ở Triết Giang mà nói tiếng Ôn Châu thì người Trung Quốc phía bắc nghe chỉ hiểu được 3%).Giống lúa loài người trồng đầu tiên là lúa nếp,sau dân số đông lên,có đồng bằng rộng lớn mới tìm ra giống lúa tẻ có năng suất cao hơn ,đó là giống thứ hai sau lúa nếp,gọi là lúa “tẻ”(do gen từ “tê”là 2 trong tiếng Khơ Me-Tiếng Việt thuộc hệ ngữ Nam Á ,nhóm ngữ Môn-Khơ Me,người Môn ở bên Mianma).Vì vậy người Văn Lang thường ăn cơm gạo tẻ,còn gạo nếp chỉ dùng khi cúng giỗ nhớ tổ tiên.Người Hán phiên âm chữ “nếp”là “nua”và gọi gạo nếp là “nua mỉ” Con lợn người Việt gọi là "Lợn",người Tày gọi là "Đồn",người Hán phiên âm thành "Thún",chữ ấy lại gọi là tiếng Hán cổ,nay không dùng,người Hán gọi là "Tru"tức "chư".Lợn , gà và vịt thả đồng gắn liền với nông nghiệp lúa nước.Những loài chim thuần dưỡng rồi nuôi ở nhà để lấy thịt và trứng,người Hán gọi là “gia cầm”,nhưng chữ “cầm” thì lại do người Hán phiên âm chữ “chim”của tiếng Việt và họ đọc là “xín”(vì họ không phát âm được âm ngậm có “m”cuối).Điều náy chứng tỏ nghề nuôi chim nhà lấy thịt là xuất xứ từ Đông Nam Á.Người Hán dòng giống Mông Cổ là dân du mục đồng cỏ.Họ có nuôi chim thì chỉ là nuôi vài con chim ưng để giúp săn thỏ trên thảo nguyên chứ không có nền nông nghiệp nuôi chim nhà để lấy thịt và trứng.Người Hán gọi chim là “niẻo”tức “điểu”.Người Thái chắc là thuần dưỡng gà đầu tiên.Nhà ở của người Thái có biểu tượng con gà ở hai chái nóc nhà.Người Việt có tục cưới xong thì chú rể lại mặt nhà gái bằng một con gà trống.Tục cưới của người Tày nhất định phải có một đôi gà,nếu vì lý do ví dụ chiến tranh chú rể đi xa không có mặt trong lễ cưới được thì trong lễ cưới cô dâu bế một con gà trống.
    2 likes
  2. Th­ưa cô Wid bất kể đối với bất cứ người nào cũng vậy cũng có ngày may mắn ngày không chứ không cứ gì ngày tam nương phải không cô ? Tất nhiên ông bà ta đã kiêng kỵ tất có nguyên nhân của nó nhưng môic thời mỗi khác không thể cứ nhất câu nệ cố chấp được
    2 likes
  3. Chữ Nôm-字喃 cổ xưa và Ý nghĩa của *Việt* Đỗ Thành. Chữ “Nôm” có trước “Hán-Việt”! Nếu hôm nay tôi không phát giác thì cũng sẽ có người khác tìm ra điều nầy! Trước hết xin xác định chữ Nôm là gì? để dễ thảo luận. Theo quan niệm thông thường của người Việt Nam thì chữ Nôm là những chữ mượn chữ Hán để thể hiện chữ với phát âm “thuần Việt” phương nam khác với phát âm của “Hán ngữ” thì gọi là chữ Nôm. Còn những thứ chữ như Nòng nọc, Hỏa tự, chữ trên đá Sapa, chữ giả định trên trống đồng… thì được gọi là chữ Việt cổ. Nhưng, Trong khi đó, người Việt sống ở Hoa Nam như Việt vùng Quảng Đông và Mân-Việt là Triều Châu, Phước Kiến(các nơi nầy có tên là Nam-Việt, Mân-Việt, Đông Việt trong lịch sử) lại cho rằng những chữ, hay tiếng nói cổ xưa của tổ tiên để lại mà không ký âm được bằng chữ Hán – Quan Thoại hiện giờ thì đều là chữ (tiếng)Nam- Nôm: nhà nghiên cứu Nguyễn Thiếu Dũng đã gọi chữ Việt cổ là “tiền Nôm”, còn chữ Nôm từ đời Trần về sau là “hậu Nôm”. Trong bài này, tôi gọi chữ Nôm là chữ do người Việt sáng tạo từ xa xưa-chữ Vuông/ Nôm. Về nguồn gốc chữ Nôm, quan niệm “phổ biến” hiện nay như sau: - “Chữ Nôm ra đời bắt nguồn từ tư tưởng chống Hán hóa, là ý thức phản vệ của dân tộc trước những gì có tính ngoại lai. Vào thời kỳ Bắc thuộc, người phương Bắc tràn vào Việt Nam với dụng ý muốn đồng hóa dân tộc Việt, chữ Nôm ra đời chống lại xu hướng Hán hóa của người phương Bắc, đồng thời khẳng định tinh thần dân tộc, tuy nhiên, điều đó chưa thực sự mạnh mẽ một cách có ý thức. Chữ Nôm thuộc loại hình văn tự khối vuông – nghĩa là toàn bộ chữ được cấu tạo trong một ô vuông, được xây dựng trên cơ sở chất liệu là chữ Hán và được đọc theo âm Việt. Chữ Nôm xuất hiện ở Việt Nam khi chữ Hán đã vào Việt Nam và đã được hình thành một cách có hệ thống âm Hán Việt, nên ban đầu chữ Nôm thuần túy ghi âm Việt. Dần dần có những chữ Hán không ghi được âm Hán Việt cho nên các chữ Nôm sáng tạo được ra đời. Khi ý nguyện sáng tạo ra một dạng chữ riêng của người Việt trở nên mạnh mẽ hơn trong thời Lê, những chữ Nôm được tạo ra một cách có ý thức hơn đã giúp cho sự hình thành thêm nhiều chữ Nôm mới đủ để biểu đạt được tâm tư, nguyện vọng, tâm hồn và khí phách dân tộc trong các tác phẩm văn chương như thơ, phú, chiếu, cáo, biểu v.v. Sự sáng tạo đó đã để lại cho đời sau những di sản thơ Nôm vô giá từ những bài thơ của Nguyễn Thuyên đến Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, từ Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông đến Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, từ Đại Nam quốc sử diễn ca đến Đoạn trường tân thanh; từ những bài thất ngôn bát cú thơ Nôm của Hồ Xuân Hương đến dạng song thất lục bát trong Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, thơ lục bát với Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Rồi thi văn hát nói của Nguyễn Khuyến, Tú Xương, v.v. và không ít những tác phẩm truyện Nôm khuyết danh khác như Thạch Sanh, Trê Cóc, Nhị độ mai, Phan Trần, Tấm Cám, Lưu Bình Dương Lễ, Ngư tiều vấn đáp y thuật, Kim thạch kỳ duyên, Nữ tú tài, v.v.”(trích: Bách khoa toàn thư mở wikipedia: Chữ Nôm) Những điều nêu trên trở thành “quan niệm truyền thống” khẳng định chữ Nôm mới có sau nầy, do học được từ chữ Hán! _ Điều nầy không đúng sự thật! *Khi tìm nguồn gốc chữ Nôm mà chỉ xét theo không gian biên giới và địa lý hạn hẹp bởi “riêng một địa phương” là chưa rõ sự thật ! Bỡi vì lịch sử người Việt đã cư trú trên 1 địa bàn rộng lớn hơn phần cơ bản của “những nhận định Chữ Nôm là Mượn từ chữ Hán”. *Ngược với quan niệm “Chữ nôm có sau”, tôi đã phát giác phát âm Nôm có trước, và phát âm mà người đời gọi là Hán, Hán-Việt, Hoa ngữ là có sau chữ Nôm, chính là phát âm Nôm có trước, rồi mới được cãi tiến mà có phát âm mới hơn mà sau nầy gọi là Hán, và Hán Việt. Khi xét theo “thời gian” ngắn hạn, chỉ từ thời cận đại hiện nay đến trung cổ đại, thời bắc thuộc, thời nhà Hán rồi dừng lại, là chưa rõ sự thật! Bởi vì, tiếng nói và chữ viết của người phương nam là người Việt nó bao la vì nhiều chi tộc, có nhiều phân chi Lạc Việt là Lạc bộ Chuy, lạc bộ Mã cùng nhiều nước Việt nhỏ … đã làm chủ vùng Thái Sơn và Hoàng Hà trước thời Đông Chu Liệt quốc. Để lại câu ca dao “Công cha như núi Thái sơn…”;Chữ Nôm trong một chi Việt tộc chỉ là một phần trong chữ Nôm của cái “đại thể” là “Bách Việt tộc”. Vì vậy phải khảo cứu rộng và xa đến thời thượng cổ, ít nhất là từ giáp cốt văn thì mới có thể thấy được sự thật. Chữ Nôm là chữ tượng hình và đã biến đổi trở thành không còn là chữ tượng hình, mà thành chữ “biểu ý”vuông cho đẹp, cho nên gọi là chữ Vuông. Hình như là tổ tiên người Việt không chỉ có sáng tạo ra một loại chữ, mà có thể kể đến chữ Nòng nọc (Khoa đẩu), chữ hình ngọn lửa (Hoả tự), chữ tượng hình vẽ chó vẽ nai ở Sapa, vẽ hình bước lên cao, hình đứng bên cây yêu nhau v v… ở Vân Nam và nhiều nơi mà người ta đã phát hiện. Tại những di chỉ văn hóa như Bán Pha, Ngưỡng Thiều, Đông Sơn v v… đều có dấu tích các chữ viết thuộc về tiền thân của giáp cốt văn và chữ Vuông ngày nay. Điều éo le là đến nay chỉ có chữ vuông của sử sách bên Trung Hoa lưu lại và bao trùm văn minh Á Đông (Vì Việt Nam đã đổi qua dùng A< B < C vì ảnh hưởng từ thời Pháp thuộc.) Chữ Vuông đi từ phôi thai cho đến phổ cập từ đời nhà Hạ, Thương, Chu đến ngày nay. Đó là loại chữ viết ít nhất có trên 5000 năm lịch sử với những tên gọi khác nhau: -Có thể gọi đó là: là Chữ “vẽ hình” ở thời nhà Hạ?- Chữ “giáp cốt” ở thời nhà Thương ?- Chữ “giáp cốt văn”, “kim văn”, “chung đỉnh văn” ở thời nhà Chu ? – Chữ “Hán” ở thời nhà Hán ?-Gọi là Trung văn, chữ Hoa, chữ Tàu, Chữ China, Chinese v v… Ngoài ra, người ở Hoa Nam còn gọi là chữ Đường-唐(người Quảng Đông gọi là “Thòn chìa”, người Triều Châu gọi là “Tưng Dia”); và lại gọi là “Duyệt粵 mành文” (Việt văn) theo tiếng Quảng Đông, gọi là “Vuông文 dia字” (chữ字 Vuông文) theo tiếng Triều Châu. –và, Ở tận phương nam còn gọi cái chữ có dạng hình Vuông là chữ Hán, là Hán Việt, là Nôm và cũng gọi là “chữ字 Vuông文”. Thật ra đó là chữ “Vuông文” của người Việt, và ngày nay chỉ có Việt ngữ phương Nam mới có âm đọc và chữ để viết “chữ Vuông” bằng hai tiếng “chữ字 Vuông文”. Tuy rằng người Việt Nam ngày nay đã đọc “文vuông” là “Văn文”, nhưng dấu tích “văn文” là “Vuông文” còn giữ được bên tiếng Triều Châu; Người Mân Việt-Triều Châu cho đến nay vẫn chỉ đọc chữ “văn文” là “Vuông文” mà thôi, không bao giờ đọc là “văn文”. “Văn” là do đọc trệch âm “Vuông文” mà thành. Nếu nói chữ “Vuông文” là của dân tộc khác thì tại sao không có bất cứ dân tộc nào có 2 chữ với phát âm là “chữ字 Vuông文” để chỉ hai chữ “chữ Vuông” = 字文 ? Tiếng Việt ngày nay vẫn gọi cái hình vuông là “Vuông”-mà ngôn ngữ khác thì không có điều nầy. -“Wẻn chứa”=文字 là tiếng Bắc Kinh-Quang Thoại - “Mành chìa”=文字 là tiếng Quảng Đông. - “Văn Tự” =文字 là Tiếng Hán Việt. - Tiếng Triều Châu thì vẫn gọi là “Vuông-chữ” : Phát âm là “Vuông Dia=文字” Chỉ cần đảo văn phạm của người Triều Châu hiện nay trở về như trước kia, (mà sử sách đã chứng minh là Mân Việt nguyên có cách nói “chính trước, phụ sau” ngược với văn phạm Sino-tibetan của Hán văn “phụ trước, chính sau”), thì “Vuông dia” sẽ là “dia Vuông” tức là biến âm bỡi “chịa Vuông”- “chữ Vuông”;*** “Chữ” Vuông : – phát âm “Chữ字” biến âm thành “chià字”: tiếng Quảng Đông, và “chứa字”: Bắc Kinh, và “Dia字” bên tiếng Triều Châu…. “Dia 字 Vuông文” chính là “Chữ字 Vuông文”. Xin mách với bạn đọc hiện tượng thú vị là người Triều Châu luôn nói tiếng Việt: Đũa nói là “Tua”, Mắt nói là “Mắt”, đi tắm thì nói là đi “chan ét” ( Chan cho… ướt) , bị ướt thì nói là bị “Tắm”(Tắm chính là Đẵm/đẵm ướt biến âm), nhà thì nói là “chsùa”, chùa thì nói là “chsìa”… Đọc giả so sánh thì biết tại sao bên tiếng Việt có tiếng “nhà chùa” và “chùa chiền”! “Sẽ” thì nói là “e xia”, “đọc chữ” thì nói “thạc chưa” và còn gọi là “thạc Dia” …và cũng phân ra là “Hán” và “nôm” trong tiếng Triều Châu! văn hóa thì nói “Vuông hóe”, khen ai hay giỏi thì nói là “khẹn” v v.. *Sách “Việt chép” có cách nay khoảng 2500 năm, trước Sử ký của Tư Mã Thiên, toàn bộ là chữ Nôm mà đời Tần và Hán đã phiên dịch ra “Hán ngữ” và đổi tên thành “Việt tuyệt thư”, trong đó có “Duy giáp lệnh” của Việt Vương Câu Tiễn được giữ nguyên văn là chữ “Nôm” như sau: 維 甲 修 ‘內-矛’ _Tất cả tụ lại mau. ‘方-舟’ 航 治 ‘須-慮’ _Phóng hàng trật tự. 習 之 ‘于-夷’_Tập cho giỏi. 宿 之 ‘于-萊’ _Sống cho vẻ. 致 之 ‘于-單’_Chết cho vang. (Xem bài “phục nguyên Duy Giáp lệnh của Việt Vương Câu Tiễn”). *Và 2800 năm trước đã có bài “Việt nhân ca-越 人歌” là chữ Nôm được lưu lại trong sách Thuyết uyển của Lưu Hướng thời nhà Hán như sau: 滥 兮 ‘抃 - 草’ 滥 予 _Năm nầy biện-thảo (bảo) năm xưa 昌 枑 ‘泽 - 予’ 昌 州 州 飠 _Thương hoàng trạch-dữ (tử) thương chiều chiều xưa. 甚 州 焉 ‘乎-秦’ 胥 胥 _Sớm chiều em hận tương tư 缦 予 ‘乎-昭’ 澶 秦 踰 渗 ‘惿-随’ Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy. …河 湖_Hò Hớ。 (xem bài “Phát hiện lại Việt nhân ca”) Đến đây thì có lẽ độc giả đồng ý với tôi là chữ Nôm đã có từ lâu… Và Thật ra; Chữ Nôm có trước thời kỳ Đông Chu Liệt quốc-Thời của Khổng Tử quá lâu: là thời của Giáp cốt văn đời Thương, và đã được lưu lại nằm trong dân ca, sau đó được Khổng tử biên soạn thành sách vỡ: -“Quan quan thư cưu” là bài dân ca cổ xưa có lẽ đã có hơn 3000 năm lịch sử. Trong bài có đoạn “悠哉悠哉”! Xin hãy xem và nghe chữ Nôm này được phát âm là: “Diu chai diu chai” = vui chơi, vui chơi (Hán-Việt đọc là = Du tãi du tãi”: 悠哉- vui chơi). Bài “Quan thư” hát bằng tiếng Bắc Kinh ngày nay vẫn còn phát âm “vui chơi vui chơi” (và còn nhiều chữ Nôm khác trong bài nầy mà tôi phải sẽ trình bày trong 1 bài viết riêng sau nầy). Đây là Video clip trên youtube ở đoạn1:10 phút sẽ nghe rõ phát âm “diu chai, diu chai” tức là “vui chơi, vui chơi”: http://www.youtube.com/watch?v=TMESHyECkKY...layer_embedded#! ***Chữ Nôm có trước chữ Hán quá lâu, lâu đến đỗi người ta quên mất “Cố đô thành” mà chỉ biết là “Cô tô 菇蘇” thành một cách vô nghĩa-khiến không ai hiểu nổi “cô tô” là gì…Trong khi tiếng Mân Việt-Triều Châu thì “Cố Tô” nghĩa là “Cố Đô”! và Xin hãy xem Phong kiều dạ bạc hát bằng tiếng Tô Châu (Tiếng Ngô Việt – vùng đất của Ngô Vương Phù Sai trước đây) ở đoạn 1:50 phút : “Thành Ngoại 城外” ngày nay vẫn đọc là “sành城 ngoài外”. “sành城 ngoài外” nầy hoàn toàn phù hợp âm Nôm “ngoài外”: Cũng với lý do trên, người ta quên tên gọi của Việt Vương Câu-Tiễn (鳩淺) và Phạm Lãi(范蠡). Câu-Tiễn (鳩淺)đọc theo Nôm là Cu-Tí hay Cu Tửng. Nôm rất là “lạ”, cùng một chữ đi đôi thì “喜喜-Hỉ Hỉ”có thể đọc là “喜喜Hí-hửng”; “淺淺tí tí” thì là tí tửng-Tí ti-Tí tẹo… cũng vậy; Người Việt có chuyện “kỵ Húy” nhiều lắm…chợ “Đông Hoa” gọi thành chợ “Đông Ba”, Lê Lị thành Lê Lợi, thì ngày xưa “Cu-Tí” trỡ thành “Câu-Tiễn”; Tên của Phạm Lãi (范蠡)đúng là chữ “蠡lãi” của con Lãi (Lãi蠡/ Nôm). Cha của Phạm Lãi muốn đặt tên con là “Long” là “rồng”, nhưng ngại và đặt tên là “Lãi 蠡” cũng viết bằng chữ “Trùng-虫”. Chữ trùng ngày xưa là chữ “Long-rồng-虫-Trùng” (đây là phong tục đặt tên con cho “xấu” để cho “dễ nuôi”!). Cũng vì vậy, người ta cũng quên và không hiểu nghĩa tên của “Trụ Vương” là “Đụ” (Nôm) và “Đắc-kỷ” là “Đĩ” (nôm) thời nhà Thương. …Tên vua cuối cùng của nhà Hạ thật ra là bị dân chúng chữi là “Kẹch (cặc)桀” theo giọng phát âm Mân Việt, khi cần nói đến tên nầy, vì ngại phát âm chữ đó mà đọc thành ra là “Kiệt”, vì ông vua nầy mê gái quá xá!_đây là những vết tích rõ ràng thời của nhà Hạ và Thương-Thời của Giáp cốt văn là phát âm Nôm-chữ Nôm, và Sau nầy, đến thời Hán và càng về sau thì phát âm đọc chữ đã biến âm theo thời gian lịch sử và gọi là Hán ngữ,…Và Phát âm của Hán, Hoa ngữ đã không thể nào hiểu nỗi nghĩa của những “chữ” ghi trong cổ sử có nghĩa là gì! May thay! Tôi phát giác đó là CHỮ NÔM-chỉ cần đọc theo phát âm Nôm là Rõ nghĩa. Vì Đó là: Chữ Nôm có trước. Người ta quên đi chữ Vợ媒(媒-某-畝: các chữ nầy đều là “Bợ”, “Vợ”) “chồng棕” là chữ Nôm (bây giờ chỉ thấy tự điển ghi là “Mỗ某” và “tông棕”), chữ “Thổ-土” cũng là chữ Nôm, chữ cái chân, bàn chân, “bàn番”(bàn tay, bàn chân) là chữ Nôm trong giáp cốt văn v v…. *** Chữ Nôm là có trước chữ Hán qúa lâu, lâu đến đỗi người ta quên đi “chữ字Vuông文” mà chỉ biết có “Văn文Tự字”. Xin Trích phần nầy từ “thuyết văn” cuả Hứa Thận thời nhà Hán: 编 号:5693 文部 文 wen2 錯畫也。象交文。凡文之屬皆从文。 無分切 : (Phiên hiệu:5693_Văn Bộ_Văn_WEN2_Thác Họa dã._Tượng Giao Văn>_Phàm Văn chi thuộc giai tùng Văn_Vô Phân Thiết.) Giải thích của “Thuyết văn” 2000 năm trước về chữ Văn文 nghĩa là: “Văn文” : Vẻ sai vậy, như “chéo” là Văn. Phàm là thuộc về văn thì theo Văn (cách giải thích ngày xưa khó hiêủ nhưng rõ nghĩa là “viết sai” cái hình “vuông”, “như đường chéo” của “hình vuông”). Nghĩa là, 2000 năm trước, Hứa Thận đã giải thích chữ “Văn文” được trình bày theo cách như là “viết sai” : thay vì phải vẽ “hình Vuông” thì khó khăn, người ta đã dùng cách thể hiện bằng 2 đường chéo “X” của hình vuông, để nói lên hình ảnh của cái hình “Vuông”/文. “Văn文” là “Vuông” từ xưa, được Hứa Thận “ghi nhận” trong sách Thuyết văn, và người Triều Châu vẫn luôn luôn đọc là “Vuông文”. Cám ơn Hứa Thận, và cám ơn tiếng Triều Châu-Mân Việt đã chứng minh dùm tôi là: Chữ “Vuông – 文”có trước, chữ “Văn – 文” có sau. Dưới đây xin dẫn một số chứng cứ cho thấy chữ Nôm có trước chữ Hán: Ngày nay, tuy rằng đã thay đổi và chữ “cổ”, chữ “vuông” được gọi là chữ Hán, hay là Hán-Việt, nhưng nhìn kỹ thì vẫn thấy đầy rẫy chữ Nôm trong đó mà người Việt không biết. Sự thật này làm tôi ngỡ ngàng! Và người Hoa bên Trung Quốc cũng không biết, càng làm cho tôi kinh ngạc! Chữ tượng hình, chữ vuông được cho rằng của người Hoa, không phải của người Việt! Lịch sử Trung Hoa được chính thức tính từ thời Hạ, Thương, Chu. Và văn hóa, văn học viết bằng chữ tượng hình, chữ Vuông đã phát triển rực rỡ từ thời Chu với Bách gia chư tử, có Nho giáo, Đạo giáo và Tứ thư, Ngũ kinh, có nhiều cổ thư và sách sử. Sự thật đã bị đánh tráo! Thật ra thì chữ tượng hình, chữ Vuông là của người Việt. Vì không phải là 24 chữ cái kèm theo nguyên âm để đánh vần, cho nên, thuở ban đầu chữ viết là phôi thai rồi lớn dần như em bé còn chưa định hình tính cách của mình và còn nhiều khuyết điểm. Theo thời gian phát triển thì chữ vuông được cải cách thành hình vuông và đạt nhiều tiến bộ, đạt tới sự “định hình” và “ổn định”. Cũng chính vì vậy, sau một thời gian, người ta đã quên đi cái gốc là “chữ Nôm” ban đầu rồi cho đấy là chữ Hán của người Hoa. Nhận định sai lầm nầy làm người ta không thể nào hiểu nổi lịch sử cổ đại được ghi bằng chữ vuông cho đúng! Đi vào chi tiết, thì nhiều dòng chữ và địa danh, tên người v v… thật “ngắn gọn” của cổ sử mà người ta còn không hiểu nổi nghĩa thì làm sao hiểu cho đúng lịch sử ? Chữ Vuông là của người Việt sáng tạo ra. Đúng ra thì chỉ là một loại chữ, bây giờ đã bị phân biệt ra “Hán”, Hán Việt” và “Nôm”! Thành thử tôi phải dùng đến từ “Hán”, “Hán-Việt” và “Nôm” để giải thích và ví dụ như sau: Có một số chữ được “Nôm” và “Hán” dùng chung, vì thật ra chỉ là 1 thứ chữ trước-sau. Chữ vuông với phát âm cổ là Nôm dù đã bị gọi là chữ Hán, nếu như so sánh với cách phát âm Hán-Việt hay Hoa ngữ-quan thoại ngày nay, thì vẫn bộc lộ cách phát âm Nôm có trước khi bắt đầu có chữ Vuông. Vì sao ? Ví dụ: chữ “Cổ古”(từ Hán-Việt) ở Phiên Ngung là ngoại ô Quảng Châu tỉnh Quảng Đông,Trung Quốc ngày nay vẫn đọc là “Củ古”(từ Thuần Việt-Nôm). Người Việt ngày nay vẫn nói “đồ cũ” hay “đồ cổ”. Chữ “văn文” thì người Triều Châu vẫn đọc là “Vuông文”. Người Việt vẫn nói “hình Vuông” chứ không nói “hình Văn”. Thì ra, có quá nhiều lớp bụi mờ của lịch sử đã phủ lấp sự thật xa xưa, và biến đổi cách phát âm Nôm làm cho người ta không biết rằng “phát âm Nôm-chữ Nôm có trước âm Hán-Việt/ chữ Hán”. Các nhà ngôn ngữ học do chối bỏ hay là thiếu tiếp xúc, so sánh và thiếu hiểu biết tường tận về lịch sử và cổ sử, nên đã không thấy rằng đường ranh biên giới nhân tạo của quốc gia không thay đổi được tiếng Việt của dân chúng bao nhiêu! Ví dụ, Cắt đôi một miền đất người Việt ra làm hai bên A và B với thời gian dài thì tiếng nói hai bên vẫn là Việt! - Sau khi phân chia, cả A và B cùng nói “cũ古”. Sau đó nhiều trăm năm, bên A do có những biến đổi bỡi “thiên-địa-Nhân”, “古” chuyển thành âm mới là “Cổ”. “Cổ古” sau đó được thông dụng bên A. -Nhiều thời gian sau nữa, đại đa số người bên A chỉ biết “Cổ古”(quên đi âm “cũ古”) và có đông dân hơn. Bên B vì ít người hơn, trở thành thiểu số, và bắt buộc phải bị ảnh hưởng và học thêm phát âm “Cổ古” của bên A, đồng thời vẫn dùng âm “Cũ古”. - Thời gian lâu sau nữa, thiểu số B muốn thoát khỏi ảnh hưởng của bên A, và bắt đầu muốn dùng lại “Cũ古” mà thôi. Khi B bắt đầu dùng lại “Cũ古” thì “cổ 古” đã tồn tại từ ngàn xưa! Thêm thời gian kéo dài đã làm A và B bên nào cũng “quên”, và cho rằng “Cổ古” có trước và “Cũ古” có sau! Vì dân số nói “Cổ古” đông hơn bên “Cũ古”, nên dễ làm người ta nghĩ rằng “đa số” là cái gốc! Nhưng có một vài nhóm nhỏ bên A, vẫn sống theo tinh thần “bảo thủ” và “bảo tồn văn hóa truyền thống”, họ chỉ nói “Cũ 古” từ thời cổ đại cho đến ngày nay. Ví dụ nầy là để nói lên nguyên nhân sự ngộ nhận về phát âm Nôm hay chữ Nôm có sau Hán Việt. Để chứng minh rằng “chữ Nôm- 字喃” có trước chữ Hán, “Nôm喃” lại là phát âm của dân “Nam”, của người Việt越/粵, vậy, tôi xin trình bày về “chữ Nôm” đơn giản nhất đó là chữ Việt. Ngày xưa chữ “Việt” viết như thế nào? và phát âm như thế nào trong “Nôm”-“Hán”-“chữ Vuông”? -Trước hết, chữ Nôm hay chữ Hán đều là chữ “tượng hình”, rồi trở thành chữ “biểu ý” và thành ra “chữ Vuông”. -Khi viết Nguyệt月 là vẽ hình/ “tượng hình” về mặt trăng, hình bán nguyệt. -Khi viết Nhật日 là vẽ hình/ “tượng hình”, hình mặt trời. - khi nhập Nhật日 và Nguyệt月 chung thành chữ “Minh明”, là “biểu Ý”, chứ không còn là vẽ hình nữa. Và biểu hiện ý nghĩa thì còn dùng cách ghép và mượn chữ có sẵn bằng ý nghĩa của chữ gốc (gọi là giả tá), bằng âm thanh của chữ gốc (gọi là hài thanh). Ví dụ: Thỉnh請 là sinh, thanh清 là sạch, đều là theo cách “biểu ý”; cũng như chữ tình情 và chữ thanh青 là xanh cũng là chữ “biểu ý”, để nói lên ý nghĩa, chứ không thể “dùng màu xanh để vẽ ra cái hình màu xanh”! và Làm sao vẽ ra hình chữ “tình” ? Thông thường thì người ta chỉ đề cập hai chữ Việt là : Việt粵 và Việt越. “Việt” có phải là Nôm hay không ? Khi vẽ hình mặt trời là vòng tròn >O< phát sáng bởi có nhiều tia sáng chung quanh, thì đó là chữ tượng hình. Sau đó chữ tượng hình được đơn giản hóa, bỏ đi các tia sáng, chỉ còn vòng tròn O và gạch ngang ở chính giữa vòng tròn. Sau đó, cái vòng tròn lại được sửa lại, thành ra hình chữ Nhật日 ngày nay. Phát âm Hán Việt đọc là“Nhật日”. Phát âm Bắc kinh-Hoa ngữ đọc như là “Rướ日”. -Thật ra là được biến âm từ chữ Nôm “Rực/rỏ日-hay (Diệt)” và thường dùng Anh văn/ English để phiên âm là “ri日”. Phát âm Mân Việt-Triều Châu thì đọc là “Diềt日”. “Diềt日” hay là “Rực日” là Nôm ngày xưa của Bách Việt, và chỉ có người Việt có phát âm “Diềt日” nầy. Tôi xin trình bày rõ ở đây và Xin phục nguyên âm đọc cổ xưa và có thể gọi là Nôm hoặc là Nôm cổ đại đọc là Diềt/(Việt)日. (Việt)/Diềt日 là mặt trời, và cũng là “Việt” mà có nhiều cách viết khác là “Việt粵” và “Việt越” v v…(Điều này giải thích vì sao có quá nhiều trống đồng có hình mặt trời ở chính giữa: đó là linh vật của người Việt cổ đại). Diềt=Việt=日= là mặt trời, là nóng + sáng, là Quang + Minh của cổ Việt tộc, tức là tiền Việt mà người đời nay hay gọi là người gốc “Australoid”. Phát âm “Việt/diềt日” tương đương âm “Vic” của “victory” bên tiếng Anh/ English, và có quá nhiều biến âm đều có gốc âm là “Việt”. Sau nầy “Việt/ diềt日” còn có rất nhiều chữ “Việt” khác tùy theo các phân chi và các vùng của tộc Bách Việt. Tiếng Việt ngày nay đọc là “Nhật日”, rất gần với âm “Diềt日” của người Mân Việt-Triều Châu hiện nay. Tiếng Mân Việt-Triều Châu là một phương ngữ rất xưa, được nhìn nhận bởi nhiều chứng minh là có cỡ ít nhất là 7000 năm lịch sử, xưa hơn âm Hán Việt thời nhà Hán hay nhà Đường và thời nhà Tống rất nhiều! Chữ Nôm với âm Nôm có trước là “Diềt日”, chứ không phải là âm “Nhật日” của Hán Việt có trước. Khi vẽ hình mặt trăng, để phân biệt với hình mặt trời, thì người ta chỉ vẽ hình trăng lưỡi liềm, rồi cũng dần dần “vuông” hóa thành ra chữ “Nguyệt月”. Nguyệt ngày xưa cũng đọc là “Việt/ Duyệt月”. Tiếng Quảng Đông ngày nay vẫn đọc “Nguyệt月” là “Duyệt月” y như phát âm của chữ “Việt粵” và “Việt越”. Tiếng Việt ngày nay đọc là “Nguyệt月” rất gần với âm “Việt/ duyệt月”. -Tiếng “Nam Việt-Việt Quảng Đông” cũng là phương ngữ xưa, xưa hơn âm Hán hay Đường và thời nhà Tống rất nhiều… Chữ Nôm với âm Nôm là “Duyệt月” có trước, chứ không phải là âm “Nguyệt月” của Hán Việt có trước. Người Triều Châu đọc Nhật日 là “Diệt/ diềt” và người Quảng Đông đọc Nguyệt月 là “Duyệt”, tiếng Việt ngày nay thì là “Nhật-Nguyệt”. Điều nầy cho thấy thời “tiếng Việt nguyên thủy” thì dù là mặt trời hay là mặt trăng, miễn là “ngôi sao – chiếu sáng” đều có chung ý nghĩa là soi sáng, là “Diệt/Việt”, là “Viêm-nhiệt”, là sức nóng và tỏa sáng, là ánh sáng quang minh… Và ngay cả ánh sáng của quang minh được soi chiếu bởi một âm là mặt trăng và một dương là mặt trời đều có tên chung cùng phát âm giống nhau là “Việt/ Diềt”. Xin liệt kê các chữ “việt” theo tôi đã nghiên cứu như sau và Trước hết là xin nói về 3 chữ Việt “rất là quen thuộc và quang trọng” : *Việt越: Chữ Nôm đọc là “Duyệt” ở Quảng Đông. Bắc Kinh đọc là “Yúe越”. Hán-Việt Đọc là Việt. Triều Châu đọc “Việt越” là “Oắt” (chú ý: từ âm “yué” qua “úe” rồi “Oắt” chẳng bao xa; và thật ra chữ nầy mượn bộ tẩu là “chạy” cộng với âm cái “Rìu” để thể hiện phát âm “chiếu”,“chiếu” –> iếu->Oắt). *Việt粵: Chữ Nôm đọc là “Duyệt粵” ở Quảng Đông. Ngày nay Hán Việt và Việt đọc là “Việt粵”, âm Bắc kinh đọc là “Yué粵” (ghi chú: bên Triều Châu dùng chữ “Việt越” thay chữ “Việt粵” nầy). Cách viết chữ “Việt粵” nầy rất giống chữ “dịch易”. chữ “Việt粵” nầy là “Hướng向” về mặt trời Chiếu sáng- với chữ “thể采”: là “Bẻ” để “biểu hiện ý” của âm “E” là “Yue” là “Việt”_ bản thân của chữ “thể采” trong cổ văn thì đó là chữ Nôm nghĩa là “Cháy采”, chứ “Cháy” là “Mộc木” đang phát cháy bằng mấy nét phía trên là ngọn lữa, Tôi là người Mân Việt nên hiểu rỏ chữ “Cháy采”nầy,(“Cháy采” còn 1 phát âm khác là “Bẻ采” để nói nghĩa khác, và “bẻ” hay “Bén” cũng lại quay về ấm Bén, cháy bén…)…cháy采-sáng nguyên 1 vòng câù tức là “Cầu vòng” mà ngày nay được viết bằng “Thể Hồng-彩虹” tức là “Cầu vòng”…nhiều người cứ tưỡng rằng Việt粵 với bên trong chữ Hướng向 là “Mễ米” là gạo…, không phải vậy đâu: Bỡi vì nghĩa cuả “Việt” là “Nhật- Nguyệt” là Quang Minh-Soi sáng… như Trống đồng của Cổ Bách Việt tộc đã lưu dấu trong lịch sữ). *Việt易: chữ Nôm đọc là “Diệt/ diềt易” ở Quảng Đông. Hán Việt và Việt đọc là “Dịch易”, Bắc kinh phát âm là “Yi易”, Triều Châu Phát âm là “éck易”. Quảng Đông phát âm là “diềt易” tương đương với “Diệt易” là “Việt易”. Chỉ có âm Quảng Đông là còn đọc chữ nầy gần với âm “Việt易” nhất (tiếng Quảng Đông đọc chữ “Việt易” nầy là: “Diềt易diệk” hoàn toàn như người Triều Châu đọc chữ “Việt日” (nhật日) nầy là: “Diềt日Diệk”). “Việt易” đây là chữ dịch易chính là chữ tượng hình vẽ mặt trời hình tròn ->O<- với các tia sáng chung quanh được mỹ thuật hóa và vuông hóa thành chữ “nhật日” được đặt ở phía trên, và các tia sáng chung quanh được gôm lại biến thành chữ “Vật勿” để ở phía dưới thành ra “Việt易”. Chữ Việt nầy với chữ Việt cổ xưa nhất là vẽ hình mặt trời ->O<- có tia sáng phát ra tứ phía là chung một chữ mà thôi. Thật ra Kinh Dịch易 là đọc trại âm từ chữ Kinh Việt易:Kinh của người Việt thì mới gọi là Kinh Việt(日/Mặt trời+勿/ tia sáng)= “Việt/易”. =>Việt=Trời/Trăng soi sáng=Hình mặt trời các tia phát sáng,hình trống đồng,và viết bằng>O<, 日, 易, 粵; 2 chữ Việt nầy: 易, 粵…Đều là “mặt trời cháy sáng” nhưng lại cố xếp hình cho giống như chữ Điểu-鳥 là con chim! Bỡi vì trong tộc Bách Việt có 1 bô tộc là Lạc bộ chim mà “Từ hán Việt” đã gọi là “Lạc bộ Chuy” ( Chuy隹 là Chim隹). Vì là Lạc bộ Chim鳥/Điểu cho nên đã thể hiện chữ Việt 易, 粵 cho giống như hình chữ “Điểu鳥” là chim_Và hình của Trống đồng thuộc Lạc Bộ Chuy/chim thì có rất nhiều hình鳥/Điểu Chim_Và cũng vì “quang Niệm” là con của “Huyền Điểu” cho nên là “chim” thì “đẽ” ra “trứng” cho nên “Rất là dễ hiểu khi có sự tích đẽ ra 100 trứng cùng chung 1 bào, cho nên gọi là đồng bào”-Vì đã có “Con cháu của Huyền Điểu là Lạc bộ Chim/ Chuy” . “Lạc 洛-Chim隹/ “Điểu鳥”, Phục nguyên âm Nôm của “Lạc” là “Nước”, “Lạc洛” là nước, lạc ngày xưa đọc là “Thác洛” hay là “Nak洛” như người Mường hiện giờ, và “nak/洛Nước/ Lạc” được ghép bằng bên trái là bộ thuỷ-Nước氵 và bên phải là bộ các各 thành ra Nak洛lạc. Phục nguyên chữ Nôm của âm chữ “Lạc洛- Chim隹” chính là “Nước洛Nak-Chim隹” : tức là nước Việt-Chim của người Việt ở vùng đất Chiêm thành ngày xưa, đó là phần đất ở Miền Trung của Việt Nam ngày nay vậy-chính là từ nơi đây mà khoa học ngày nay đã phát hiện văn Hóa Hoà Bình là cái nôi của văn hóa Lúa Nước và Đông Nam Á, và từ đây mà “Việt” đã phát triễn và đi xa Đông, Tây, Nam, Bắc. Xin tuần tự xét các chữ “Việt” viết khác nhau mà có ý nghĩa và phát âm giống như nhau: 1*Việt = Việt日; là hình “mặt trời”, hình “trống đồng”, chữ “Nhật日” là hình mặt trời được đơn giản hóa. Ghi thêm: nước Nhật ngày nay thật ra là một nước “Việt日” thuộc đại chủng Bách Việt, phát âm Japan 日 本tương đương “Jan” hay “yan” giống như là nước “Yến” của thời Đông Chu Liệt Quốc. Thật ra cổ âm đều là: “Việt”, là mặt trời hay là mặt trăng, là soi sáng. 2*Việt = “Việt易”. Hình chữ Dịch “易” là mặt trời (“Nhật日Việt”) chiếu sáng được đơn giãn hóa và xếp theo nghệ thuật, các “tia sáng “勿” được gom lại để ở phía dưới theo chữ “Vuông” vừa đúng vừa đẹp. Kinh “Dịch易” là kinh “Việt易”, nước “Dương楊”-Việt là thêm chữ “mộc木” vào chữ nầy. 3*Việt = “Việt炎” được viết bằng 2 chữ hoả chung 炎; hình “Hoả火” chữ Viêm “炎” đại diện cho lửa mặt trời. Bây giờ bị đọc là “Viêm炎” xưa là “Việt炎”. Ngày xưa để lại tên “Viêm炎 Đế” mà thật ra thì phải gọi là “Việt炎 ĐẾ”, mà người ta không biết nên gọi là “Viêm Đế”. Hai chữ 燕yan và 炎yan trong tiếng Bắc Kinh phát âm giống nhau và đều là nói về “Trung tâm hỏa-Mặt trời”. 4*Việt = “Việt燕”, chữ “yến”燕 là Hỏa ở trung tâm, các tia sáng tỏa từ 8 phương với chữ có hình mặt trời được đại diện bằng “Khẩu口” ở chính giữa, và 4 chấm phía dưới là 4 nét của chữ Hỏa火.Tự điển online MDBG-Chinese English Dictionary ngày nay còn biết nguồn gốc và giải thích chiết tự của chữ “Việt燕” nầy là “Trung tâm hỏa: 中心火” chứ không phải là chim Én, “Yến燕” như cách hiểu bình thường của nhiều người. Việt nầy biến âm thành Yan, yen, Yến. Ghi thêm: nước Yến燕 thời Đông Chu liệt quốc là nước Việt燕, phải đọc phát âm chữ nước “Yến燕” nầy là nước Việt燕 thì mới đúng. “Yến燕” hay “Yan燕” là do biến âm đọc trệch. Nước Yến燕 là Việt燕, nói tiếng Việt, cho nên quan trong triều dưới cấp “Tướng” là “tá”… Ví dụ như: “Thượng đại大 phu夫” là Thượng “tá”, “Trung Đại Phu” là Trung “Tá”. Chữ “Đại大 Phu夫” ngày xưa vùng nầy đọc là “Tài Phá”, Tài-Phá là chữ đa âm của “Tá”! Chuyện Thái Tử “Đan丹” của nước “Yến燕” nhờ “Kinh荆 Kha轲” thích sát Tần Thủy Hoàng rất nổi tiếng. Thái Tử tên “Đen丹” thì đúng hơn, “Kinh-Kha/荆轲” tên là “Cả” đúng hơn…(Yến có nhiều dân Siberia nhập cư và làm vua: vẫn giữ tên Yến燕) 5*Việt = Việt楊. Việt viết bằng chữ “Dương楊”, cũng là chữ Dịch易Việt , chỉ thêm vào bên trái bộ Mộc木. Nước “Dương楊-Việt越” là nước “Việt 楊”, thêm vào thành ra là “Dương楊” “Việt越” để phân biệt với những nước Việt khác mà thôi. “Dương楊 Việt” vùng nầy phát âm như “yuôn”, “duyồn” gần với âm của tiếng khmer. Sau nầy còn gọi là “Yuồn” Việt. Vì chữ Hán Việt đã quên chữ “Việt楊” nầy mà đọc là “Dương” vì bắt chước âm “yuôn” nên phải thêm vào “Việt” thành ra “Yuôn Việt tức là Dương Việt”. Âm “Yuôn楊” Việt nầy là Nôm có trước, lâu quá đến đỗi người ta đã quên và chỉ nhớ là “Dương楊”. 6*Việt = Việt陽, thể hiện bằng chữ “Dương陽”, chữ nầy ngày nay vẫn dùng để chỉ mặt trời như chữ “Nhật日”. Có vua tên là “An安 Dương陽 Vương王” không? Vô lý! Thật ra là “An Việt陽 Vương”, chỉ là do người đời sau bị ngộ nhận do quên mà đọc sai theo âm mới là “Dương陽”, âm cũ là “Việt陽”. Chữ Nôm có trước quá lâu và người ta đã quên. 7*Việt = Việt有, viết bằng chữ “Hữu有”, “Việt有” nầy là ghép từ chữ Đại大 và Nguyệt月(Duyệt/Việt). Hữu有 Hùng thị thật ra là Việt有Hùng thị. “Hữu有 sào thị” thật ra là “Việt有 sàn thị” (Người Việt ở trên nhà sàn). Âm Bắc Kinh ngày nay đọc là “dù有” tương đương với “yuồn有”/ “Duyồn有” tức là “Việt有yuồn” mà người Khmer hiện nay vẫn dùng là “Yuồn”/ Việt. 8*Việt = Việt夜, thể hiện bằng chữ “Dạ夜” cũng là “Nguyệt月Việt” trong cách ghép chữ “người人” “Việt月/Diệt/duyệt” dưới ánh sáng “trăng月”. Chữ Nôm là “yẹ夜Duyệt/ Việt”, âm Quảng Đông “Yè夜” vẫn dùng cho đến ngày là có trước, biến âm thành “da” /Ya / Dạ). Nước Dạ夜 Lang朗 thật ra là nước Việt夜 Làng朗. Tức là “Làng Việt” hay là “Việt soi sáng”, Dạ-Lang còn sinh ra âm “dang” “dàng” và “dãng 楊-tiếng Bắc Kinh”. Xin chú ý: chữ Làng朗 nầy có nhật日 và nguyệt月 hai bên như chữ Minh明, khác với chữ Lang郎 là anh chàng “情tình 郎lang” 9*Việt = Việt吳, thể hiện bằng chữ “Ngô 吳”, với mặt trời là chữ “Khẩu口” phía trên chữ “Thiên天” nghĩa là mặt trời soi sáng trên bầu trời, phát âm là “uả, úa, Ổ, Ngổ , Ngô” là do biến âm của Việt/ Yué/ ué; Oắt-Úe thành “úa”, “uả吳-Tiếng Bắc Kinh” v v… Ngày nay chữ Hán Việt đọc là “Ngô吳”, xưa viết chữ “Việt吳Úa” nầy là hình mặt trời trên chữ Thiên吴 và đọc là “Duyồn吳” như tiếng Khmer, biến âm thành Dô吳, gô吳, Ngô吳. Úa, uả của tiếng bắc kinh là có sau, nước Ngô吳 là “Việt吳(yuồn)” cho nên gọi là tiếng Ngô吳Việt. Chữ Nôm “Duyồn吳Việt” có trước rồi biến âm “Dô” và Ngô… làm người ta quên đi cái gốc! Ghi thêm :“Cô Tô thành” của nước Ngô thật ra là “Cố đô thành”, sách Việt chép hoàn toàn bằng chữ Nôm là do Ngũ Tử Tư người Sở chạy qua Ngô吳 làm tướng biên chép là chủ yếu tại nước Ngô吳/duồn/dô/gô/ngô. (Xem bài : Phục nguyên Duy Giáp lệnh của Việt Vương Câu Tiễn) 10* Việt = Việt粵, thật ra thì chữ Việt粵 nầy thể hiện rất giống với chữ Việt易/dịch . Đa số người Việt và “Hoa” đều biết chữ “Việt粵” nầy. Đối với bên Trung Quốc thì đây là chữ Nôm của người “Quảng Đông”( tức là gốc Việt ) ở Hoa Nam. 11* Việt = Việt越, thể hiện bằng Việt越 nầy là vùng ven biển Đông, tên Việt Nam, Mân Việt, Ngô Việt , Âu Việt, Đông Việt, Ư Việt, Vu Việt, Việt Thường, v v… “Bách Việt” là dùng chữ “Việt越”nầy. Chữ Việt nầy giữ phát âm “Việt” nhưng khác với tất cả những chữ Việt khác, và mang ý nghĩa là “Vượt+vũ khí trong tay là cái Rìu Việt”. Nhưng chữ Việt nầy vẫn là mang ý nghĩa “chiếu越”, chiếu sáng, và hoàn toàn phù hợp với chữ Nôm có trước. Bộ “tẩu走” là chữ “chạy走” ghép với cái “qua戈” là cái “Riù”, thành ra âm “Chiếu越”. Người Việt ngày xưa gọi vua là “chiếu” hay “chúa” . chính vì âm “chiếu” mà người Triều châu Đọc “iếu越” và thành “oát越” ngày nay. Và người Dao lại đọc thành Yìu越, còn lên tới Sơn Đông và Bắc kinh đọc thành “Dù有/ gần giống như “yuồn’’(有Hửu)” 12* Việt = Việt瑤,thể hiện bằng chữ “Dao瑤”, âm chính của người thời nay được đọc bởi chính người Dao thì đọc là “Dìu瑤”, Diêu, Diều, yiu gần với âm “diệt” mà đọc theo dấu “huyền” cho nhiều là thành “Diều瑤”. Chữ Việt瑤/ Dao/ dìu nầy có bộ “nguyệt月” phía trên, bên góc phải. Đây cũng là chữ Nôm có trước, ngày xưa đọc “Dìu” hay “Diềt” . Người Dao瑤 hay chính xác gọi theo người Dao瑤 hiện nay tự xưng hô mình là người “Yíu瑤 Mien”, ”Dìu mien/ diềt mien”, thật ra là giống nhau với “Việt Mân”, hay là Mân Việt như người Triều Châu và Phước Kiến. Ngôn ngữ của người “Dao瑤 Việt” hiện nay là sự pha trộn bởi tiếng Triều Châu, Quảng Đông, Thái, Việt, Lào. (Tôi có nhiều tiếp xúc với người Dao瑤 từ xưa và nay, nên nhận rõ điều này.). 13* Việt: Việt夏. Chữ Việt nầy thể hiện bằng chữ Hạ夏, thật ra chữ nầy tiếng Triều châu đọc là “He夏” như “Hè夏” bên tiếng Việt, và chữ nầy cũng được dùng trong “mùa hè夏”. Chữ “hè夏” nầy có chữ “Hiệt頁” phía trên, phát âm “Hiệt頁” ngày xưa cũng tương đương là chữ “Diềt夏 Việt”. Chữ “biểu hiện bằng thanh và hình” nầy thật ra cũng là mặt trăng “nguyệt月” ở chính giữa, và các tia sáng được sắp xếp trên và dưới cho đẹp. 2000 năm trước thì Hứa Thận đã giãi thích không đúng chữ nầy trong sách Thuyết văn! Tiếng Quảng Đông và Triều Châu có lịch sử hơn 7000 năm còn vết tích đọc chữ nầy là “Hè夏” nhưng phát âm hơi giống “Hiệt”, rất khó phiên âm bên Triều Châu, và “Hà夏” bên Quảng Đông. Nhưng âm cổ xưa nhất bên Quảng Đông lại đọc như “Hè”, “Hẻ” và “Ẽ”, ở ngoại ô Quảng Châu là vùng còn mang tên là thành “Phiên Ngung” ngày nay đọc “Ẽ夏” hay “hè, he, hẹ, hạ夏” lại được dùng để chỉ người “Lão佬” hay “Lào佬” của nước “Hạ夏 Lào佬”, đều là “Ẽ, E tương đương Ye, Yué” tức là Việt. “Hè夏 vương” hay “Hạ夏/ Hà vương” âm đọc như là “Hùng夏-Vương”. Theo tôi thì Việt夏/Hè/ Ẻ cũng chính là “Hùng夏 vương”, và “Ẻ夏Lao佬-ẻ Lào-ẻ Lủ” của người Phiên Ngung lại là nói về người ở “Ai Lao” của nước Lào! Thủ đô “Viêng Chăn” của nước Lào hiện giờ vẫn được giải thích nghĩa là “thành phố Trăng”. 14* Việt: Việt黃, thể hiện bằng chữ Hoàng黃, thật ra là “Vàng黃” và thật ra là “dàng黃” và thật ra là “Yuồn黃” biến âm; “Hoàng黃 đế” chỉ là “Việt黃vàng/ dàng/ yuồn đế”…cho nên sử sách còn nói rõ: Hoàng黃 đế và Viêm炎 đế đánh nhau nhưng là anh em cùng một tộc._chính người Mường-Nhánh Hmong có rất nhiều người họ “Vang/ Vàng/Voòng” còn nhận họ là người ở Hoàng hà ngày xưa …phải chạy về phương Nam. 15* Việt華. Thể hiện bằng “Hoa華” hay là “Huê華”. Tiếng Triều Châu-Mân Việt còn đọc là “Hoe華” tương đương với “yue” là do biến âm từ “Yue/ tức là Việt” mà thành “Hoe華” và thành ra “Hoa華”, lại đọc là “Hoả華” theo tiếng Bắc Kinh… âm “Hoả火” là Nói về “Lữa火” như chữ “Viêm炎”, nhưng chữ nầy Rất đặc biệt, nhất là thể hiện bằng họ “Mi 芈” hay đọc là “Mỵ 芈” là họ của vua người Việt, chỉ thêm bộ “艹thảo” ở phía trên… Xin qúi vị đừng tra tự điển về chữ “Hoa華” hay là “Hoe華” do biến âm từ “yue/ tức là Việt” như tôi đã trình bày ở đây…Vì đâu có ai thấy chuyện nầy qua bao lớp bụi mờ của lịch sử mà đưa vào từ điển ???, ngày nay chử nầy đã được dùng để chỉ dân tộc “Hoa華”, …trong khi , đây lại là Họ Mỵ芈 hay Mi芈 của vua Việt và ngày xưa cở thời gian …trước khi Nhà Chu tiêu diệt nhà Thương thì chắc là phải đọc là “Việt-diềt-yue-yúe-hue-hoe華” bởi chữ My芈 hay Mỵ芈 và cũng là âm “dê羊(dương)” để sinh ra âm “Yue” hay “Diệt/Việt”. Khi nhà Chu lật đổ nhà Thương và tự xưng “ta là Hoa華-Hạ夏” thì đủ biết chữ Hoa華 nầy chính là Hạ夏 là Yúe là Việt với nguyên âm “Hiệt頁” hoặc “Nguyệt月” làm chủ: chỉ chờ sự khảo cứu kỹ lưỡng của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ “uy tín” và “đang có chức vụ” có nhiệm vụ nghiên cứu và xác định-Hoe-Hoa là Yue/ Việt biến âm mà thôi. -Các chữ “Việt” có rất nhiều âm Nôm cổ xưa biến âm chằng chịt cùng 1 gốc và gọi là “Bách Việt”, Ngoài ra, có những chữ Nôm là tên của quốc gia, mang tên và phát âm Nôm của người Việt, nhưng khó nhận ra nên cứ tưởng là từ Hán-Việt, đó là : -Nước Lỗ魯, thật ra tên là nước “Rõ魯” nghĩa là sáng rõ, không thoát khỏi ý nghĩa là: Mặt trời chiếu sáng, “Rõ魯” đọc không được “Đ” thì thành ra “Lỗ魯”. Rõ魯 mới nhìn vào tưởng như là “Ngư魚 và Nhật日”, nhưng thật ra chữ nầy được thể hiện bằng Nhật日, hoả火(Viết thành cái dấu phía trên 日… thành 4 chấm), Điền田, Cung弓-nghiã là Mặt trời/日-cháy/火-chiếu sáng-trên sông/弓 và ruộng/ 田; Nước Lổ魯 có Khổng Tử- 孔子 nổi tiếng mà ai cũng biết. -Nước Triệu 趙 âm xưa là “chiếu趙”, có chữ Nguyệt月 nằm bên phải,có nghĩa là chiếu sáng bởi ánh trăng,có kinh đô là “Tấn晉 Dương陽”(Tấn晉 là Tiến, Dương 陽là Việt như đã trình bày). -Nước Tấn晉,Tấn là Tiến, Tiến nầy lại là theo hướng mặt trời chiếu mà tiến. Phía dưới chữ Tấn晉Tiến nầy là “Nhật-日-Việt”, phía trên là chữ “Tùng從” viết tắt. “Tấn” nầy nghĩa là “theo nhật日-theo mặt trời日”. “Tấn” có âm xưa là “tiến” hay “chín” nên ngày nay tiếng Bắc Kinh là “Jín晉” -Nước Hàn韓, Hàn韓(hay “Hùng韓”) hay “Hòn韓,đọc theo tiếng Việt vùng Quảng Đông”, có kinh đô tên là “Dương Trì-陽翟” …thật ra là “ Việt Trì”, “Dương陽” là “Việt” như đã giải thích, còn “Trì翟” chính là chim “Trĩ翟”, Trĩ viết bằng “Vũ羽” là lông vũ ở phía trên, và “chim隹chuy” ở phía dưới. “韓Hòn” phát âm như “Hùng”, nhưng “Hòn” sau nầy còn biến âm là “Hon”, và “Hon漢” tiếng Quảng Đông, lại thành “Hán漢” bên tiếng Bắc Kinh, và cũng thành ra “Hán漢” bên từ Hán Việt, âm “Hán漢” là có sau. -Nước Tề齊, Tề thật ra là nước “Chói齊”, chữ nầy gồm mặt trời là chữ Khẩu viết theo “nghệ thuật” và các tia sáng chói được nghệ thuật hóa ở phía trên. Tiếng Triều Châu ngày nay vẫn đọc “齊齊-Tề Tề” là “choi chói- 齊齊”. “Tề齊” nầy nghĩa là “Sáng- đều đặn, đẹp”- “chói sáng-đầy đủ ánh sáng”. -Nước Đường唐, chữ “Đường唐” nầy có “khẩu口” là mặt trời viết ở phía dưới, và ruộng 田điền ở phía trên trong mái nhà cao, (nước “Tề齊” là nước Đường 唐 Cũ ở tỉnh Sơn Tây đổi tên); cần phân biệt nước Đường唐 ở các thời đại và địa phương khác nhau. “Đường唐” phát âm Bắc Kinh là “Thản唐” và Quảng Đông là “Thòn” đều là biến âm của “Thượng” và “Thường”. Người Triều Châu lại đọc “thường” thành ra “Từng唐”. Nhóm “Việt Đường” hay “Việt Thường” ngày xa xưa hay là người ở Hoa Nam thường tự xưng hô mình là người “Thòn唐”chính là “người Thường” hay “người Thượng” …và cũng còn chữ Việt Khác nữa, nhưng rắc rối hơn, cần giãi thích dài dòng hơn, cho nên tôi đã không đưa vào trong bài viết nầy. _Bài Viết nầy dù đã cố gắng ngắn gọn mà vẫn hơi dài…, vì để cần giãi thích cho rỏ mỗi 1 chữ là có thể thành ra 1 bài viết riêng thì mới rỏ hơn…, Tôi đã tóm tắt, Vì đây là bài viết chứng minh phát âm “Nôm” có trước, chứ không phải là “đi vào chi tiết của từng chử”. Xin hẹn qúi đọc giã: còn có thêm nhiều bằng chứng Chữ Nôm có trước… Đỗ Thành/ Nhạn Nam Phi Tham khảo : -Nguyễn Đức Hùng :http://vietsciences.free.fr/lichsu/lichsuchuhan.htm - Một quan niệm xưa nay thường thấy về nguồn gốc chữ Nôm: -Một trang chữ Nôm : http://www.lannhithiquan.com/st_kcuu.htm -Giới thiệu “Lược khảo chữ Nôm của Cụ Trần Văn Giáp” (Nguyễn Ngọc Bích). http://e-cadao.com/Chunom/gioithieulkvdcntranvangiap.htm -Bách khoa toàn thư mở wikipedia: Chữ Nôm : http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AF_N%C3%B4m -Chử Nôm và nguồn gốc tiếng Việt : http://ttvnol.com/forum/tiengviet/903135.t...mzyquv2gq8m37kj http://e-cadao.com/Chunom/chunomvacovan.htm -Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ :http://www.dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=444060 -字喃-Chữ Nôm:http://zh.wikipedia.org/zh/%E5%96%83%E5%AD%97 - 喃字:http://baike.baidu.com/view/71827.htm - 越南语-Việt nam Ngữ:http://baike.baidu.com/view/68830.htm Chữ Nho 儒字:http://zh.wikipedia.org/zh/%E8%B6%8A%E6%96%87%E6%BC%A2%E5%AD%97 -甲骨文 giáp cốt văn:http://zh.wikipedia.org/zh/%E7%94%B2%E9%AA%A8%E6%96%87 -金文Kim văn:http://zh.wikipedia.org/zh/%E9%87%91%E6%96%87 -Việt Nhân Ca-越 人歌:khoa hoc@doi song/Phat hien lai Viet Nhan Ca -“Duy Giáp Lệnh”Nh?n Nam Phi » Blog Archive » DUY GIÁP L?NH
    2 likes
  4. Dự Án Khu Đô Thị Mới Thủ Thiêm - Quận 2 Nhìn từ Phong Thuỷ Lạc Việt Nhóm nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt Chịu trách nhiệm chính: Achau Từ những năm 2000. TP HCM đã có những qui hoạch phát triển cho tương lai khi mong muốn Quận 2, đặc biệt là khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành một trung tâm Thương mại – Tài chính của TP nhằm có những bước đột phá chuyên sâu trong lĩnh vực này trong thời kỳ mới. Gần 10 năm trôi qua, cũng có một số nhà đầu tư cơ sở hạ tầng lớn trong và ngoài nước tới xem xét. Nhưng việc phát triển Quận 2 theo đúng qui hoạch gần như vẫn còn dậm chân tại chỗ. Nhìn trên bản đồ Thành phố HCM, có thể thấy lợi thế của bán đảo Thủ Thiêm nằm ngay giữa khu vực trung tâm của TP. Theo qui hoạch bán đảo Thủ Thiêm có vị trí rất thuận lợi về giao thông: Là cửa ngõ của TP, điểm đầu của nút giao thông xa lộ Hà nội đi các tỉnh phía Bắc, đại lộ Đông Tây đi qua khu vực bán đảo Thủ Thiêm nối liền các tỉnh miền Tây với miền Đông Nam bộ, khoảng cách từ bán đảo Thủ Thiêm đi sân bay quốc tế Long Thành - Đồng Nai trong tương lai cũng không phải là quá xa khi lưư thông bằng xa lộ. Dự án khu đô thị Thủ Thiêm (Hình minh họa) Đã có những phong thủy gia ca ngợi vị trí đắc địa của bán đảo Thủ Thiêm với những khái niệm chuyên môn, mà chúng ta có thể thấy được qua bài viết trên báo TT&VH sau đây: Nhưng ngược theo thời gian, chúng ta có thể thấy không phải chỉ bây giờ, mà ngay cả khi Sài Gòn là một thành phố sầm uất với danh xưng “Hòn ngọc Viễn Đông” thì bán đảo Thủ Thiêm vẫn là một khu vực có rất nhiều hộ dân có thể coi là nghèo, trình độ dân trí thấp. Dù về địa lý chỉ cách những khu vực sầm uất nhất của TP có một con sông Sài Gòn…. Rõ ràng, đây là thực tế trái ngược với những nhận xét của các phong thủy gia khi áp dụng một cách máy móc những khái niệm phong thủy. Không những vậy, mà ngay cả với những quyết tâm - Từ những năm 2000. TP HCM đã có những qui hoạch phát triển cho tương lai khi mong muốn Quận 2, đặc biệt là khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành một trung tâm Thương mại – Tài chính của TP, nhằm có những bước đột phá chuyên sâu trong lĩnh vực này trong thời kỳ mới. Gần 10 năm trôi qua, cũng có một số nhà đầu tư cơ sở hạ tầng lớn trong và ngoài nước tới xem xét. Nhưng việc phát triển Quận 2 theo đúng qui hoạch gần như vẫn còn dậm chân tại chỗ….. Nếu chúng ta loại suy những yếu tố ngoại quan khác và phân tích những nguyên nhân khiến cho bán đảo Thủ Thiêm chưa phát triển, dưới góc nhìn theo Phong Thuỷ Lạc Việt thì vị trí địa lý ở đây có những khiếm khuyết lớn cần khắc phục với mục đích mang lại sự phồn vinh nơi đây. Xét về Hình lý - Khí Nhìn qua ảnh vệ tinh, ta thấy toàn bộ khu vực đô thị mới bán đảo Thủ Thiêm nằm theo trục Đông Bắc - Tây Nam. Mặc dù được bao bọc bởi sông Sài Gòn. Nhưng lại nằm bên “Tả Ngạn”, có thể thấy rằng toàn bộ khu vực bán đảo không phải là một nơi tụ khí với sự phân tích về khí của Phong thủy Lạc Việt. Về hình dáng, cả khu vực bán đảo như một chiếc chậu bông nông đáy để nghiêng, đổ toàn bộ sinh khí của cuộc đất ra phía miệng chậu (phương Đông Bắc). Toàn bộ bán đảo với rất nhiều kênh rạch, thêm một chỉ dấu rất rõ của một cuộc đất yếu, có thể ví như một bình bông bị nứt rạn nên càng khó có thể giữ được nguồn sinh khí của cuộc đất. Khu vực từ Tây Bắc tới Tây (ô số 1): Khí lực cuộc đất của khu vực này rất kém. Mặc dù có phà Thủ Thiêm & tuyến đường Lương Đình Của nối từ Quận 1 sang. Cách cục của âm dương giao trì nhưng hầu như khu vực này có thể coi là phát triển rất chậm và chỉ mang tính cục bộ , dân cư hầu hết chỉ tập trung ở khu vực bên trái của tuyến đường Lương Đình Của. Khu vực từ Tây Nam- Nam (ô số 2): Khí lực cuộc đất của toàn bộ dải này đã kém lại bị cộng hưởng tác động xấu của sông Sài Gòn càng làm cho khu này khí bị thoái mạnh, nên có thể thấy, dù mật độ dân số của dân cư Quận 2 ngày càng tăng nhưng khu vực này có thể coi là có mật độ cư dân rất thấp. Khu Đông Bắc – Đông (ô số 3) Diện tích của bán đảo Thủ Thiêm khoảng 7km2, như một chiếc chậu bông nông đáy khổng lồ đổ toàn bộ khí lực sang khu Đông (miệng bình) trôi tuột ra phía Đông, nên có thể thấy khu vực này không thể coi là tốt được theo Phong Thuỷ Lạc Việt. Tuy nhiên vì khí dồn vào góc phía Đông, nên ở đây có cơ hội phát triển. Đó chính là khu đô thị mới Thủ Thiêm. Tuy nhiên vì tổng thể vô khí, nên sự phát triển chậm chạp. Dương khí qua các tuyến giao thông chính Phong thủy Lạc Việt quan niệm rằng: Những tuyến đường giao thông đều mang tới dương khí cho cuộc đất do tương tác của những phương tiện vận động, tính chất giống như những dòng sông chảy. Nhưng phân Âm Dương so với sông và là một sự tương tác với các khái niệm đồng đẳng theo Phong Thủy Lạc Việt. Trên cơ sở này, chúng ta xem xét sự tương quan của nguồn khí do giao thông đem lại. Điều này tương tự như ở Bắc sông Hồng (Tả ngạn), trước đây vốn là vùng đất không phát triển. Nhưng từ khi những cây cầu bắc qua sông Hồng hình thành , như: Cầu Thăng Long, cầu Thanh Trì….vv…xuất hiện thì trở thành khu đô thị trù phú. Giao thông đi lại hiện tại trong bán đảo Thủ Thiêm, gồm 2 tuyến chính như sau: Tuyến đuờng Trần Não từ chân cầu Sài Gòn cắt ngang qua đường Lương Đình Của kéo dài thẳng xuống khu vực phía Nam của bán đảo. Có tính chất tiếp khí từ cầu Sài Gòn và theo trục Bắc Nam. Nhưng do nằm không đắc cách, bị xéo tạo khúc gãy so với góc nhọn xa lộ Hà Nội. Đã vậy, tuyến đường khi chạy qua Thủ Thiêm thì dừng ở sông Sài Gòn, Như vậy, Dương khí bị bế không thông. Nên dù là đường lớn, nhưng việc kinh doanh ở tuyến đường này hầu như còn rất hạn chế. Tuyến đường Lương Đình Của từ phà Thủ Thiêm (Quận 1) đổ sang, chạy cắt ngang đường Trần Não từ ngày hợp tuyến với cầu Thủ Thiêm từ quận Bình Thành đổ sang và do tính tiếp khí tích cực của cây cầu này, cũng làm cho những hộ kinh doanh ở ven đường phát đạt hơn trước. Nhưng cũng chỉ mang tính cục bộ cho cư dân sinh hoạt hai bên đường. Qua đây, có thể thấy tại sao Khu đô thị mới Thủ Thiêm có vị trí rất gần Trung tâm TP, nhưng tốc độ phát triển qui hoạch lại diễn ra chậm trễ đến như vậy. Như vậy, theo quan điểm riêng của người viết từ góc nhìn của Phong thủy Lạc Việt, để khu đô thị mới Thủ Thiêm phát triển được theo đúng ý tưởng đề ra ban đầu thì rất có một qui hoạch thích hợp với vị trí Địa Lý cần tụ khí nơi đây. Người viết rất hy vọng rằng bài viết này dưới góc nhìn của khoa Phong Thủy sẽ góp phần cho khu đô thị Thủ Thiêm được tốt đẹp hơn với mục đích mang lại sự phồn vinh và phát triển của T/P chúng ta. Trong năm nay, theo huyền không thì sao Nhị Hắc vận niên tinh đều chiếu hướng Đông Bắc. Tuy đây là hai sao không được coi là tốt trong sinh hoạt, nhưng lại là sao Quý nhân cho những cuộc đất mới phát triển. Cho nên, người viết hy vọng rằng trong năm nay sẽ có nhiều cơ hội để những nhà đầu tư đến với dự án quy hoạch khu đô thị này.
    1 like
  5. Ngôi sao điện ảnh giá 200 triệu? 23/06/2010 0:59 Vũ Lâm tại tòa soạn Báo Thanh Niên - Ảnh: D.L Sau gần 2 tháng khép lại cuộc thi Ngôi sao điện ảnh triển vọng 2010 (NSĐATV) do Công ty Siêu Nhân Việt và Tạp chí Điện ảnh TP.HCM tổ chức, hôm qua, thí sinh Vũ Lâm (nghệ danh Lưu Ly - từng đoạt 3 giải phụ trong cuộc thi nói trên) đã tiết lộ một thông tin chấn động. Chuyển tiền đặt cọc qua ngân hàng... Lưu Ly kể: “Vào ngày 25.3.2010, tôi có gặp ông Khoa (nghệ danh Thanh Quỳnh - đạo diễn - Giám đốc Công ty Siêu Nhân Việt, thành viên BTC cuộc thi NSĐATV - PV) cùng Phi Ngọc Ánh (người đoạt giải nhì của cuộc thi nói trên) tại một quán cà phê trên đường Trần Hưng Đạo, TP.HCM. Qua cuộc gặp gỡ này, tôi biết ông Khoa đang tổ chức cuộc thi NSĐATV 2010 và tối hôm đó là đêm bán kết cuộc thi. Ông Khoa có ngỏ lời với tôi là nếu tôi chi số tiền 200 triệu đồng thì sẽ cho tôi giải nhất, là giải Hoa hậu Điện ảnh. Tôi đã đồng ý và chuyển khoản ngay cho ông Khoa 100 triệu đồng tiền cọc vào buổi trưa cùng ngày 25.3.2010 (có giấy tờ chuyển khoản) và thỏa thuận sau khi nhận được giải tôi sẽ trả hết số tiền còn lại. 7 giờ tối cùng ngày, ông Khoa đã cho tôi dự thi vòng bán kết mà không cần tập luyện gì, sau đó tôi được vào vòng chung kết. Một tuần sau, ông Khoa đã yêu cầu tôi đưa nốt số tiền còn lại để ông có... việc gấp, và nói sẽ giữ đúng lời hứa. Sau đó tôi đã đưa thêm cho ông Khoa 80 triệu đồng và yêu cầu ông viết giấy nhận tiền nhưng ông không đồng ý. Đến ngày 1.5.2010, tôi dự thi đêm chung kết ở Bình Dương và tôi chỉ nhận được giải phụ do báo chí bình chọn chứ không có giải chính như lời ông Khoa hứa. Bức xúc vì ông Khoa không giữ lời, tôi đã nhiều lần liên lạc với ông về vấn đề này nhưng ông tránh mặt và không trả lời tôi”. Khi được hỏi tại sao đến bây giờ Lưu Ly mới khiếu nại về số tiền cô đã đưa cho ông Thanh Quỳnh, cô cho biết: “Sau rất nhiều lần ngần ngại không tố cáo vụ việc này tôi đã quyết định đến tòa soạn báo trình bày. Tôi cũng đã gửi đơn đến Hội Điện ảnh TP.HCM và các cơ quan chức năng nhằm đưa sự việc này ra ánh sáng. Vả lại đây là một bài học đắt giá nên tôi phải lên tiếng để cho các bạn trẻ sau tôi đừng nhẹ dạ như thế”. “Phí đào tạo thí sinh”? Đạo diễn Thanh Quỳnh - Ảnh: Quang Thi Trả lời Thanh Niên hôm qua, Giám đốc Công ty Siêu Nhân Việt - đạo diễn Thanh Quỳnh - xác nhận ông có nhận số tiền 180 triệu đồng từ Vũ Lâm. Tuy nhiên, ông giải thích tất cả số tiền đó ông đã chi phí vào việc “đào tạo thí sinh” và lo các khoản như: áo dài, dạ hội, thuê đạo diễn tập luyện, thu âm, trang điểm, đạo cụ... trong thời gian... 1 tháng cho Lâm để mong có giải. Về việc thí sinh tố cáo rằng ông Thanh Quỳnh khẳng định sẽ “cho” thí sinh giải Hoa hậu Điện ảnh (chứ không phải giải phụ Hoa hậu Báo chí như cô Vũ Lâm nhận được), ông Thanh Quỳnh phản ứng: “Tôi không hứa hẹn cho cô ấy bất kỳ giải gì vì tôi không có khả năng này. Tôi chỉ hứa giúp đào tạo cô ấy có một giải xứng đáng. Tôi cũng khẳng định không có chuyện “mua - bán” giải ở đây. Tôi cũng từng đề nghị ký hợp đồng làm việc để công ty đào tạo nhưng cô ấy không chịu”. Thanh Quỳnh cũng nói thêm rằng ông không nhận tất cả 180 triệu mà chỉ có 150 triệu, số tiền 30 triệu phải đưa cho người... trung gian. Sau khi trình bày những vấn đề về việc đã “giúp” đào tạo thí sinh Vũ Lâm như thế nào, Thanh Quỳnh còn chia sẻ thêm là hiện tại ông rất bức xúc khi Vũ Lâm đã nhắn tin cho ông với những lời lẽ nặng nề và ông đang rất lo sợ cho sự an toàn của mình. Và ông bảo sẽ gom góp hồ sơ, chứng cứ về việc này để đưa ra pháp luật. Rõ ràng đây không còn là chuyện “tiền nong” dân sự đơn thuần giữa hai cá nhân mà đang mở ra những vấn đề hết sức tế nhị từ một cuộc thi lớn. Và câu chuyện có hay không “lời hứa” bán giải rất cần được làm sáng tỏ. Dạ Ly ---------------------------------------------Buồn nhỉ? Thấy người ta có giá đến 200. 000. 000VND. Còn Thiên Sứ ngày xưa đòi có hai triệu, mà người ta trả có 50. 000. Híc . :D THIÊN SỨ GIÁ BAO NHIÊU TIỀN? Số là vào cái "thời xa vắng", có một nghề rất lạ. Đó là các quí bà , quí cô cắp giỏ đệm đứng ở đầu chợ. Cứ có ai đi ngang qua, mà mặt mày lơ láo là có ngay một câu hỏi rất chi là thương mến: "Có gì bán không anh ơi?". Có một lần Thiên Sứ tui đạp cái xe cà tàng đi làm thì bị sì lốp. Đang tiu nghỉu dắt xe qua góc chợ thì các quí bà , quí cô chạy tới hỏi câu quen thuộc "Có gì bán không anh ơi". Bực mình vì trời nắng chang chang, xe lại hỏng, Thiên Sứ tôi gắt: "Chỉ có cái thân tôi bán, các bà có mua không?".Nói xong đắt xe đi. Tưởng là yên. Không ngờ có một bà sồn sốn kéo xe lại: "Này, dừng lại nói nghe coi". Thiên Sứ quay người lại. Bà ta lạnh lùng nhìn từ đầu xuống chân Thiên Sứ tôi, ra điều xem xét giá trị, rồi lấy tay lắc lắc cái xe đạp: "Cả người lẫn xe bao nhiêu đấy?" "Tôi không bán xe. Bán tôi thôi!". "Bao nhiêu? Nói nghe được giá thì mua?". "Hai triệu!" (Lương tháng Thiên Sứ tôi lúc ấy thuộc thứ xịn có 90.000 VND và rẻ hơn 100 lần "Ngôi sao Điện Ảnh"). Bà ta cuời phá lên :"Ối giời ơi! Bà con ra mà xem , thằng cha thế này mà đòi nói thách những hai triệu kìa!. Thôi thì chị trả mở hàng cho em lấy may nha - Năm chục! Có bán thì ở đây chị tìm mối bán lại kiếm chút cháo. Còn chê rẻ thì đi đi ông nội ".
    1 like
  6. May mắn cho bạn, xa quê mà lấy chồng cũng xa, mình nghĩ sẽ tốt rất nhiều cho 2 vợ chồng bạn. Tin vui, đẻ con gái rất xinh và thông minh Tin vui nữa, kô cần phải xem lá số ông chồng, bạn dư sức kô cần xử lý mà "lão" cũng sợ @ Bác Học trò: bác đoán tài thật, tả đúng anh chồng. Phải em, em đang định nói cô này lấy anh chồng lùn :D
    1 like
  7. Năm Mão hy vọng có thai ,đến năm Thìn mới có con hy vọng cao là con trai đầu lòng .
    1 like
  8. Năm nay cả 2 vợ chồng đi xa nên cẫn thận về xe cộ ,tốt nhất không nên cho người vợ đi xa hay lái xe ,người chồng coi chừng té ngã về xe cộ ,nhưng mức độ không nghiêm trọng bằng người vợ /vấn đề mệnh hỏa - thủy ; đây là diễn đàn lyhocdongphuong ,do sự nghiên cứu của bác Thiên Sứ ,tất cả những người nào mệnh Thủy sẽ đổi thành Hỏa hay ngược lại so với các sách vỡ khác dựa theo sách của người Tầu ,còn ở đây bác Thiên Sứ an theo sách Lacviet .
    1 like
  9. Tháng 07 âl sẽ có dịp đi xa thay đổi nghề nghiệp hay có được công việc mới ,công việc nầy tốt có nhiều quyền lợi hay lương cao , nhưng trong công việc này gặp nhiều áp lực ở trên bởi 1 người đàn bà ,hay nghịch ý xung khắc với người nầy ... có thể không được lâu bền cho đến tháng 10 âl có thể nghĩ việc và có công việc khác trong tháng 11 âl ,còn không trong tháng 11 âl nếu không nghĩ việc thì bị thay đổi hay chuyễn ngành khác .
    1 like
  10. Vậy cho quý cô 1 liều thuốc nữa, đắng lắm đấy nhé. - khoảng 26-27 lấy chồng, có lẽ cưới 26, đăng ký kết hôn 27 hoặc ngược lại, chồng là người ở rất xa, nếu lấy Tây hay giả Tây cũng ko có gì là lạ. ĐƯơng nhiên 1 quý cô sang trọng ko thể lấy anh Lùn rồi, chồng là người cao ráo, có da có thịt hoặc bụng hơi phệ. Hạnh phúc thì luôn bằng mặt với thiên hạ, còn ở trong chăn có lẽ hơi cô đơn, buồn tẻ. Hãy cầu yên ko cầu tan ắt sẽ sống với nhau lâu dài hoặc chọn kiếp. - Con cái rất khó nói, có lẽ hiếm mọn khó có con ngay được. Trình thấp xin phát biểu có 1 đứa, học hành khá, dáng vẻ đẹp đẽ. Khi nào có thì không dám đoán bừa.
    1 like
  11. Sao quý cô thích vặn véo thế? lúc bỏ tiền đi xem bói thì dạ vâng ngọt sớt với người ta, dù sai lè lè. Nói về quá khứ thì lại bảo là dễ ợt, nói về tương lai tốt thì sướng, ko vặn, nói về tương lai xấu thì hình như muốn cắt lưỡi, rút móng tay người bói online vậy. Có lẽ lần sau ko nói điềm gở nữa, chỉ toàn nói điềm tốt vậy. Quý cô được nhiều người yêu mến, luôn được vui vẻ trong các cuộc giao tế, quý cô là người nói hay, viết giỏi ắt được nhiều người ngưỡng mộ gần xa.
    1 like
  12. Chào bạn, mình cũng nhất trí quan điểm bác Học Trò. Đây là sự thể hiện của lá số, nếu biết trước thì bản thân có thể điều chỉnh và hạn chế được việc này. Đúng là Vũ Khúc rất thích sự chung thủy, coi hôn nhân làm trọng. Nhưng cung Mệnh quá nhiều Đào tinh, Nô vô chính diệu, Phu cho thấy vợ chồng nhiều lúc lạnh nhạt (mà chủ yếu do bạn hay cảm thấy người chồng kô hiểu mình, yêu chồng nhưng chồng yêu mình ít hơn :D ). Vì thế kô bản lĩnh rất dễ rơi vào tình cảnh như bác Học Trò luận đoán. Tình duyên kô có gì phải bàn, yêu sâu sắc, cũng chông gai nhưng kết quả tốt Tiền bạc vất vả, đau đầu vì tiền nhưng kô nghèo. Kô có tay giữ tiền. Sau này chồng nắm kinh tế gia đình là tốt nhất. Nói chung cứ phải sau 35 tài lộc mới giữ được. Con cái ổn, có thể bị trục trặc nho nhỏ vài lần nhưng kô sao. Tham Vũ Xương Khúc, nói nhiều làm ít -> theo nghề dẫn chương trình nhỉ :D :D
    1 like
  13. Chưa phải giờ khe đâu, tháng 5al, giờ âm lịch chính xác so với giờ hiện tại chênh 20', giờ Hợi từ 21h20 - 23h19! :D Lúc nãy lo chằm hăm trận Slovenia vs Anh, ko tập trung luận trận Mỹ , may mà ko chơi cá độ :D
    1 like
  14. nên tu nhân tích đức làm việc thiện: đặc biệt chú ý việc quan hệ bạn bè, có thể làm tình nhân phá vỡ hạnh phúc gia đình người khác. Ai cũng khổ, chẳng ai vui. Lại tạo nghiệp chướng. Mong giữ chừng mực.
    1 like
  15. 1 like
  16. Năm Nhâm thìn rất tốt là vì 4 tuổi Ngọ - Mùi và Thìn - Dậu tạo thành cách cục đặc biệt theo Luận tuổi Lạc Việt (hình thang cân theo các ô trên lá số tử vi). Tốt nhất là chọn năm 2015 - Ất Mùi
    1 like
  17. Sinh năm Nhâm Thìn 2012 Sinh năm Ất Mùi 2015, hoặc Tân Mão 2011
    1 like