• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 22/06/2010 in all areas

  1. Trên báo mạng nổi tiếng Vietnamnet.vn có bài nói về những sai lầm mà người ta dạy học sinh ở nhà trường trên thế giới. Từ những sai lầm này, khiến tôi có nhiều ý tưởng suy ngẫm về nó. Chia sẻ với các bạn. ----------------------------------------------------- Những lầm tưởng lớn nhất mà chúng ta được dạy ở trường Cập nhật lúc 07:14, Thứ Ba, 22/06/2010 (GMT+7) Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, có thể bạn đã được "nhồi" vào đầu những ý tưởng sai lầm rằng Napoleon rất thấp, Thomas Edison là người phát minh ra bóng đèn, ... Einstein học kém hồi còn ở trường Nhiều thế hệ học sinh đã được khích lệ với ý nghĩ rằng Albert Einstein - nhà khoa học nổi tiếng từng được trao giải Nobel Vật lý học rất kém hồi còn ở trường. Đáng tiếc, đây hoàn toàn là lầm tưởng. Thực tế, Einstein học rất giỏi, đặc biệt là đối với môn khoa học và toán. Có một điều chắc chắn là Einstein có thể xoay sở tốt với môn số học lớp 4. Trái ngược với niềm tin phổ biến, Einstein là một học sinh hàng đầu ở trường tiểu học, nhận hầu hết các điểm 4 (thang điểm của Đức chia tăng dần từ 1 - 4), mà những người Mỹ ngớ ngẩn sau đó đã kết luận, theo hướng ngược lại, là điểm "D". Điều này gây bế tắc bởi mọi người yêu ý tưởng rằng các học sinh kém cuối cùng có thể làm được những điều vĩ đại. Rất tiếc cho các bậc phụ huynh, thực tế Einstein đã tự học tính toán năm 12 tuổi. Chuột thích pho mát Tại sao chuột thích pho mát? Sữa bò chế biến không sẵn có trong môi trường sống của chúng. Thực tế, chuột thích bơ lạc, ngũ cốc và những thứ khác tương tự như các loạt hạt và hột mà chúng đã quen sử dụng qua hàng triệu năm tiến hoá hơn nhiều. Một số con chuột thậm chí không dung nạp đường sữa và sẽ chết nếu chúng ăn pho mát. Napoleon thấp Napoloean cao 1,7 mét - chiều cao trung bình của một người đàn ông Pháp trong các thế kỉ 18, 19. Việc hiểu lầm bắt nguồn từ sự khác biệt trong đơn vị đo độ dài "inch" của Anh (1 inch = 2,54cm) và "pouce" của Pháp (1 pounce = 2,7cm). Điều đó khiến người Anh nghĩ rằng Napolean chỉ cao 1,6 mét - sự lầm tưởng mà người Anh tìm mọi cách tuyên truyền. Thomas Edison phát minh ra bóng đèn Edison là một người giỏi giang nhưng ông đã không phát minh ra bóng đèn. Thực tế, một người khác đã làm việc đó đúng vào thời điểm ông bắt đầu tư duy về nó. Tuy nhiên, Edison là người đã chế ra chiếc bóng đèn đầu tiên thực sự hoạt động tốt cùng lúc với Joseph Swan, người Anh. Nước chảy theo các hướng khác nhau ở các bán cầu khác nhau Nước bồn cầu không xả theo một hướng cụ thể, phụ thuộc vào việc bạn đang ở bán cầu nào. Nước cũng chảy theo cùng cách như vậy, trừ khi bạn đang ở giữa một một trận cuồng phong lớn hoặc nếu bạn bạn đập vào nó rất mạnh bằng một mái chèo cáu bẩn mà chúng ta thường dùng đối với nước bồn cầu quay trở lại ở Minnesota. Con người tiến hoá từ khỉ Charles Darwin và bất kỳ người ủng hộ thuyết tiến hoá danh tiếng nào đều chưa từng tuyên bố con người tiến hoá từ vượn hoặc tinh tinh hay bất kỳ loài khỉ nào còn sống đến ngày nay. Họ đơn giản chỉ phát biểu rằng, khỉ và người cùng tiến hoá từ một tổ tiên chung vốn đã chết cách đây hàng triệu năm. Người Viking đội mũ có sừng Người Viking có thể đã được chôn cất cùng những chiếc mũ và sừng uống nước, rượu. Khi người Anh dưới triều đại Nữ hoàng Victoria (1837 - 1901) đào mộ của người Viking, thông qua những vật tìm thấy đã kết luận rằng người Viking đội mũ có sừng. Columbus tin rằng Trái đất phẳng Ngay từ thời Eratosthenes vào năm 240 trước Công nguyên, người ta đã nghi ngờ rằng Trái đất có thể hình tròn. Vì vậy, khi Columbus chỉ huy đội thuyền đi thám hiểm vào năm 1492, nhiều người đã biết rằng họ đang chu du trên một khối cầu. Mặc dù vậy, Columbus có thể đã nhầm lẫn về kích thước của khối cầu. Đó là lí do tại sao ông nhầm vùng Caribbe là Ấn Độ, dẫn đến sự hiểu lầm như ngày nay. Các phần khác nhau của lưỡi phát hiện các mùi vị khác nhau Đây hoàn toàn là một sự hiểu lầm. Mọi phần trên lưỡi của bạn có thể nhận diện tất cả các mùi vị khác nhau, mặc dù đối với một số người, sự nhạy cảm đôi chút tăng lên hoặc giảm xuống ở những phần lưỡi khác nhau . T.A (Theo Smile Panic) ----------------------------------------------- Qua những sự kiện này tôi nhận thấy rằng: Sách vở ghi lại là một chuyện. Nhưng nó có đúng không lại là chuyện khác. Tôi có thể lấy một thí dụ sau đây của một trong các hiện tượng trên: Qua hiện tượng này cho thấy rằng: Di vật khảo cổ không phải là bằng chứng duy nhất để xác định một sự thực lịch sử. Nó chỉ là một hiện tượng trực quan xuất hiện trong một thời kỳ lịch sử đó và con người để hiểu về lịch sử thời kỳ có di vật này, vẫn cần phải có một kiến thức hình thành một giả thuyết lý giải về nó. Giả thuyết đó đúng hay sai tùy thuộc vào chỉ số IQ của những bậc trong nhóm "hầu hết" và "cộng đồng". Nó vẫn có thể sai.
    3 likes
  2. Phim tài liệu Nhật về Điện Biên Phủ do tướng Giáp dẫn chuyện TUANVIETNAM.NET Tác giả: Huỳnh Phan Bài 21/06/2010 06:00 GMT+7 Điện Biên Phủ - Cuộc chiến 56 ngày đêm làm thay đổi thế giới là bộ phim tài liệu dài 50 phút do hãng NDN thực hiện, đã được phát trên đài NHK vào tháng 7.2004 trên toàn nước Nhật, và hai lần qua vệ tinh trên toàn thế giới, nhân kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Kỳ 1; Kỳ 2 Điều đặc biệt của bộ phim này là Đại tướng Võ Nguyên Giáp chính là người dẫn chuyện, và lời kể của ông được bổ sung bằng các hình ảnh, lời nói của các nhân chứng. Sau khi xem lại đĩa phim, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, theo lời kể của người thư ký, đã nhận xét rằng "đây là bộ phim hay, trung thực, và thể hiện được trọn vẹn diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ". Để thực hiện được điều này, ngoài các nhân chứng ở Việt Nam, các nhà làm phim NDN đã sang Pháp để gặp những nhân chứng từ phía bên kia trận tuyến. Nhưng điều làm Matsumoto, nhà đạo diễn nổi tiếng về phim chiến tranh của Nhật Bản, cảm thấy hồi hộp nhất là phút giây đầu tiên nhìn thấy Tướng Giáp tại tư gia. "Một ông già ngoại cửu tuần chầm chậm đi ra phòng khách, từ từ ngồi xuống ghế, và thở rất khó nhọc. Tôi đã thoáng lo sợ, bởi chương trình của chúng tôi dứt khoát phải có cuộc phóng vấn Tướng Giáp", Matsumoto nhớ lại. "Nhưng chỉ khi câu hỏi đầu tiên được đặt ra, vẻ mặt Lão Đại tướng đột nhiên thay đổi, mắt ông sáng lên, lanh lợi. Giọng nói ông dõng dạc, và đặc biệt ông nhớ đến từng chi tiết mà không cần xem lại giấy tờ gì cả", Matsumoto giải thích về sự chuyển trạng thái từ "lo lắng" đến "ngỡ ngàng" của mình. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã kể rằng trước khi lên Điện Biên Phủ, ông đã đến chào Chủ tịch Hồ Chí Minh. "Lúc ra về, vừa bắt tay tôi, Bác vừa căn dặn: Chắc thắng hãy đánh, không chắc thắng không đánh", Tướng Giáp kể lại. Để ngăn chặn sự mở rộng vùng tự do của phía Việt Nam, Pháp đã quyết định xây dựng một cứ điểm "bất khả chiến bại" ở vùng Tây Bắc, cách biên giới với Lào chừng 15 km theo đường chim bay. Cứ điểm Điện Biên Phủ nằm trong một thung lũng bao quanh bởi đồi núi, gồm 45 trận địa bao quanh Sở chỉ huy, với tổng số 16 ngàn quân. Nghi ngờ chủ trương "đánh nhanh - thắng nhanh", bao trùm trong tất cả chủ huy và binh sĩ Việt Nam lúc đó, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã cho trinh sát ngày đêm nắm lại tình hình Điện Biên Phủ, nhất là việc di chuyển của quân Pháp. Tướng Giáp đã kết luận rằng "đối đầu với quân Pháp mạnh như vậy không thể thắng được, mà chỉ hy sinh vô ích. Ông đưa ra chủ trương mới là "đánh chắc - tiến chắc". Chiến thuật của vị Tổng tư lệnh là vạch ra là bí mật vận chuyển một số lượng lớn vũ khí ra chiến trường, tấn công bất ngờ, khiến địch trở tay không kịp. Quân lương, vũ khí, và đặc biệt là hơn 20 khẩu pháo 105 ly, chiến lợi phẩm thu được từ quân Pháp và do Trung Quốc viện trợ, đã được đưa lên Điện Biên Phủ, với biết bao công sức, kể cả sự hy sinh tính mạng, của bộ đội và dân công. Tướng Giáp kể rằng khi quân đội Pháp bắt đầu nghĩ là quân đội Việt Nam chắc không đánh nữa, thì ngày 13.3.1954, ông hạ lệnh tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Mục tiêu đầu tiên là cứ điểm Him Lam. "Kế hoạch tác chiến của Tướng Giáp quả là không thể tin được, vì tất cả chúng tôi đều không nghĩ là địch rất mạnh. Không ai nhìn thấy pháo, và cũng không đoán được chúng nằm ở đâu. Một sĩ quan pháo binh của chúng tôi đã hốt hoảng tự sát. Thật đáng kinh ngạc!", cựu Trung tá Bizon, chỉ huy binh đoàn dù của Pháp ở Điện Biên Phủ, hồi tưởng. "Chúng tôi không đặt pháo trên đỉnh đồi, mà đặt bên sườn đồi, vì đặt trên đỉnh rất dễ bị lộ. Pháo được ngụy trang và giấu trong hầm, nên quân Pháp không hề nhận ra. Và đến ngày 8.3.1954, tất cả pháo 105 ly đã được bố trí bao vây lấy các căn cứ của quân Pháp", cựu pháo thủ Trần Xuân Luật, người trực tiếp tham gia chiến dịch, giải thích. Sau một tháng của chiến dịch, quân đội và dân công Việt Nam, với hệ thống giao thông hào của mình, đã bao vây quân Pháp ở một cự ly rất gần, tới mức có thể nhìn rõ mặt nhau. "Công sự cuối cùng đã được đào đến tận đỉnh đồi, nơi đơn vị tôi chốt giữ. Cứ 5 ngàn người ngã xuống thì một vạn người lên thay. Vì vậy, một vạn quân Pháp ở đây có thể bị tiêu diệt hết", cựu trung tá Bizon nói. Tướng Giáp giải thích: "Chiến thuật đào công sự này là do chuyên gia Trung Quốc giới thiệu, được rút ra qua bài học chiến tranh với Mỹ ở Triều Tiên của Quân Giải phóng Trung Quốc. Tấn công từ hệ thống công sự này bắt đầu phát huy mạnh mẽ tác dụng, và có uy lực rất lớn." Chiến dịch 56 ngày đêm đã kết thúc với sự đầu hàng của Tướng De Catri. Việt Nam đã chiến thắng! Nhưng với một cái giá không nhỏ: gần 8000 người đã chết, và gần gấp đôi số đó bị thương, so với 2700 binh sĩ Pháp bị chết và mất tích, 4400 bị thương và 10 ngàn bị bắt làm tù binh. "Tôi chưa về nhà ngay mà lên ngựa đi báo cáo với Bác Hồ. Bác nói: Mừng chú thắng trận trở về. Nhưng tiếp theo ta còn phải đánh Mỹ nữa", Tướng Giáp nhớ lại. Bộ phim gần như kết thúc bằng câu nói của Tướng Giáp: "Lúc ta chuẩn bị đánh Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc đều khuyên rằng 'làm sao đánh được Mỹ, các anh bỏ ý định đó đi'. Tôi đã trả lời rằng 'nếu chúng ta đánh theo cách của Liên Xô và Trung Quốc, chắc chẳng chịu được một tiếng đồng hồ. Nhưng theo cách đánh của Việt Nam thì chiến thắng là điều có thể." 21 năm sau, điều đó đã thành hiện thực! Và một năm sau khi thực hiện bộ phim này, Matsumoto lại có cơ hội thực hiện tiếp hai tập phim về chiến tranh Việt Nam, phát trên NHK, nhân kỷ niệm 60 năm kết thúc của Đại chiến thế giới thứ hai. Còn tiếp kỳ 4.......
    2 likes
  3. Hãy tưởng tượng bạn đang ở dưới một bầu trời xanh trong không một gợn mây.Bây giờ hãy tưởng tượng xem xung quanh bạn, khung cảnh nào làm cho bạn cảm thấy thư giãn nhất? 1.Một cánh đồng tuyết trắng xóa 2.Mặt biển xanh thăm thẳm 3.Một ngọn núi xanh rờn 4.Một cánh đồng hoa vàng Diễn giải nè :P :) :D Diễn giải: Màu xanh của bầu trời có sức ve vuốt làm dịu tâm hồn bạn. Còn những khung cảnh xung quanh thể hiện những khả năng tiềm ẩn trong tâm hồn không bị khuấy động của bạn. 1.Một cánh đồng tuyết trắng xóa: Bạn được tặng một khả năng nhạy cảm đặc biệt, có thể nắm bắt tình huống ngay từ cái nhìn đầu tiên và nhanh chóng tìm ra chìa khóa giải mã cho vấn đề phức tạp mà không cần phải có chứng cớ hay lời giải thích nào. Bạn có thể đưa ra những quyết định sáng suốt và tầm nhìn xa trông rộng. Hãy tin vào những linh cảm đầu tiên của mình bởi chúng là những người dẫn đường sáng suốt của bạn. 2.Mặt biển xanh thăm thẳm: Bạn có khả năng bẩm sinh giữa những mối quan hệ giữa người với người. Chỉ cần sự hiện diện của bạn đã là một sự giúp đỡ cho người khác làm việc được suôn sẻ hơn. Điều đó làm bạn trở thành một thành viên quan trọng trong bất cứ êkíp nào. 3.Một ngọn núi xanh rờn: Bạn có khả năng biểu lộ cảm xúc rất giỏi. Bạn luôn tìm được những lời lẽ thích hợp để diễn tả những gì mình cảm thấy và làm người khác nhận ra họ đang thực sự nghĩ gì. Khi mọi người chia sẻ với bạn, họ sẽ cảm thấy thoải mái hơn rất nhiều. 4.Một cánh đồng hoa vàng: Bạn là một kho kiến thức và sáng tạo, thường bất ngờ bật ra những ý tưởng và tiềm năng vô hạn. Hầu như không có việc gì là không thực hiện được với bạn.
    2 likes
  4. ĐI TÌM CỘI NGUỒN KINH DỊCH VÀ THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH. Nguyễn Vũ Tuấn Anh Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Kể từ khi hai nền văn minh Đông Tây giao lưu trong lịch sử phát triển của nhân loạị thì cả thế giới đều nhận thấy rằng: Kinh Dịch và hệ thống phương pháp luận liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành là một thành tố quan trọng tạo nên một cái nhìn bí ẩn và huyền vĩ về văn hóa Đông phương. Nhưng vẫn hoàn toàn bế tắc khi đi tìm bản chất và thực tại khách quan mà nó phản ánh. Có nhiều ý kiến khác nhau về lịch sử, nội dung và bản chất của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành, Nhưng tất cả đều chưa đủ sức thuyết phục. Những bài viết dưới đây là sự tóm lược trong những sách đã xuất bản của Nguyễn Vũ Tuấn Anh từ những năm 1998 trở lại đây nhằm xác định một cái nhìn về lịch sử, nội dung và mục đích của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. I - LỊCH SỬ THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG CỔ THƯ CHỮ HÁN. I – 1: Những vấn đề của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Từ trước đến nay, có thể nói rằng tuyệt đại đa số những ai biết về Kinh Dịch đều mặc nhiên coi kinh Dịch và tất cả những phương pháp ứng dụng liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành là của nền văn minh Hoa Hạ cổ với hàng ngàn đầu sách bằng bản văn chữ Hán viết về nó trong hàng thiên niên kỷ. Người ta không thấy một văn bản nào ngoài chữ Hán trong các sách vở từ hàng ngàn năm này liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Từ Thiên văn, lịch số, Đông y, phong thủy, các phương pháp bói toán…… Đã rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến Kinh Dịch. Những bản văn chữ Hán cổ này xác định rõ tác giả, thời gian xuất hiện trong lịch sử văn minh Hoa Hạ. Và những hiệu quả ứng dụng vượt thời gian trong lịch sử phát triển của con người và xuyên qua mọi không gian văn với khả năng tiên tri, đã biện minh cho tác giả và xuất xứ của nó. Nhưng, khi có sự giao lưu giữa nền văn hóa Đông Tây thì người ta đã nhận thấy sự bí ẩn và tính mơ hồ của những gía trị liên quan đến nguyên lý lý thuyết có tính nền tảng của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Nền văn minh Đông phương trở thành huyền bí trong nhận thức của tri thức khoa học hiện đại. Đã có một thời gian dài, các học giả Tây phương cho rằng Lý học Đông phương mang màu sắc tôn giáo và mê tín dị đoan. Nhưng những thập kỷ gần đây, những tri thức khoa học Tây phương đang chiếm ưu thế và được tôn vinh trong tri thức nhân loại hiện đại bắt đầu quan tâm đến nền văn hóa cổ Đông phương và nhận ra tính minh triết và đặt vấn đề về tính khoa học của nó. Cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã 4 lần tổ chức đại hội thảo về Kinh Dịch ở Bắc Kinh để tìm hiểu về Kinh Dịch, nhưng vẫn không có một kết luận cuối cùng về nó. Những bí ẩn của Kinh Dịch hay nói rộng hơn của Lý học Đông phương mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành vẫn không được khai thông. Những học giả Trung Quốc hiện đại trong những năm gần đây, đã dấy lên một phòng trào phủ nhận những gía trị của Đông Y và Phong thủy, vì cho rằng nó mơ hồ, không có cơ ở khoa học, nên đã không thể phát triển từ hàng ngàn năm nay. Kinh Dịch và nói rộng hơn là thuyết Âm Dương Ngũ hành vẫn sừng sững thách đố tri thức của nhân loại bằng sự mơ hồ của những khái niệm và hiệu quả trên thực tế từ hàng thiên niên kỷ. Nhưng có thể nói rằng: Cũng từ hàng ngàn năm nay, hầu hết những đề tài nghiên cứu này đều mặc nhiên coi những nguyên lý, những tiên đề ghi nhận trong Kinh Dịch là không bàn cãi và lấy đó làm tiêu chí để tìm hiểu nội dung bí ẩn của nó. Mặc dù xuất xứ của các nguyên lý có tính tiên đề đó hết sức thần bí. Đó là Hà Đồ được xác định là do con Long Mã xuất hiện trên sông Hoàng Hà trên minh mang những dấu ấn là những vòng xoáy trên lưng. Căn cứ vào đấy vua Phục Hy, được coi là vị vua Thái cổ của nền văn minh sử Hán đã lập nên đồ hình Hà Đồ. Từ đồ hình này, nhà vua đã tạo nên đồ hình Tiên Thiên Bát quái. Mở đầu cho một nền văn hóa Dịch học của xứ sở Đông Phương huyền bí. Con Long Mã huyền thoại từ 6000 năm trước, nay trở thành một biểu tượng cho điềm lành dùng trong những gia đình tin vào tác dung mang lại may mắn của nó. Nguồn: mynga.vn Đồ hình Hà Đồ điểm, được các đạo gia công bố vào đời Tống – 5000 năm sau khi lịch sử văn hóa Hán xác nhận thời điểm ra đời của nó, vào đời vua Phục Hy từ trên lưng con Long Mã hiện lên ở sông Hoàng Hà. Đồ hình Tiên Thiên Bát quái tương truyền do vua Phục Hy sáng tạo căn cứ vào Hình Hà đồ trên lưng con Long Mã. Sự huyền bí chưa dừng lại ở đây. Cổ thư chữ Hán còn xác định rằng: Đến thời Vua Đại Vũ – 4000 năm cách ngày nay – khi đi trị thủy ở sông Lạc – thấy con Thần Quy hiên lên. Trên đầu, lưng mai và đuôi có những vết chấm. Nhà vua nhìn thấy và làm ra đồ hình Lạc Thư. Căn cứ vào Lạc Thư ngài đã phát minh ra Ngũ Hành trong trước tác nổi tiếng là “Hồng Phạm cửu trù”. Hình minh họa những điểm trên thân Thần Qui hiện trên sông Lạc và đồ hình Lạc Thư điểm. Cũng do các đạo gia đời Tống công bố sau khi lịch sử văn hóa Hán xác nhận lịch sử ra đời 3000 năm sau đó. Cấu trúc cửu trù theo Lạc Thư – Trù thứ nhất nói về Ngũ hành. Một ngàn năm sau nữa, cũng theo cổ thư chữ Hán viết rằng: Vua Văn Vương nhà Chu, lúc còn là một chư hầu của nhà Hạ dưới đời Trụ Vương, đã bị Trụ Vương bắt nhốt vào ngục Dữu Lý, đã nghiệm ra Hậu Thiên Bát Quái và lập nên hệ thống 64 quẻ Dịch gọi là Chu Dịch, viết nên Soán Từ - tức là giải thích ý nghĩa của từng quẻ trong hệ thống 64 quẻ Hậu Thiên Bát quái. Sau đó con của ngài là Chu Công Đán đã viết tiếp Hào từ - Tức là giải thích ý nghĩa của từng vạch trong một quẻ. *** Phải chăng: Người ta đã không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Bất cứ cái gì xuất hiện trên thế gian đều phải có hoàn cảnh ra đời của nó. Một học thuyết thì phải có lịch sử ra đời theo thuận tự hợp lý với nội dung của nó. Thuyết Âm Dương Ngũ hành không thể từ trên trời rơi xuống, nên nó cũng không thể ngoại lệ. Chưa hết, Một học thuyết được coi là hoàn chỉnh, dù chưa biết đúng hay sai thì cũng không thể tự mâu thuẫn ngay trong cấu trúc nội dung của nó. Và nếu là một học thuyết khoa học thì nó phải mô tả được thực tế khách quan và giải thích một cách hợp lý những thực tại liên quan đến nó với khả năng dự báo. Trên cơ sở này, xin mời bạn đọc cùng xem lại những vấn đề được nêu ra ở trên để minh xác cội nguồn Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. I - 2: Những mâu thuẫn bất hợp lý trong lịch sử Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành từ cổ thư chữ Hán. Tất cả những ai tìm hiểu về Kinh Dịch, nếu chịu khó suy ngẫm một chút đều nhận thấy ngay tính bất hợp lý và mâu thuẫn trong lịch sử Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành qua cổ thư chữ Hán. Điểm lại thời gian xuất hiện của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành qua các bản văn chữ Hán, chúng ta dễ dàng nhận thấy ngay sự vô lý trong thời gian lịch sử của nó. Những sự kiện này, cổ thư chữ Hán miêu tả như sau: - Cách đây 6000 năm, Vua Phục Hy thấy con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng hà, trên mình có những xoáy bèn nghĩ ra Hà Đồ. Căn cứ trên Hà Đồ làm ra Tiên Thiên bát quái. Nhưng, những điều này chỉ được lịch sử ghi nhận sự kiện và không có văn bản nào cho biết rõ ký hiệu Tiên Thiên bát quái và Hà Đồ có cấu trúc như thế nào. Những đồ hình này chỉ thực sự xuất hiện vào đời Tống sau đó 5000 năm. - Sau đó 1000 năm – Tức 5000 năm cách ngày nay – Hoàng Đế là một vị vua được coi là khai sáng nên dân tộc Hán cùng các đại thần của ngài làm nên cuốn: Hoàng Đế nội kinh tố vấn. - Sau 1000 năm nữa tiếp theo – Tức 4000 năm cách ngày nay – Vua Đại Vũ cũng vốn là một vị vua huyền thoại, đi trị thủy trên sông Lạc gặp một con rùa Thần có những chấm trên đầu, chân, mai bèn nghĩ ra Lạc Thư và viết Hồng Phạm cửu trù. Trong Hồng Phạm cửu trù khái niệm Ngũ hành xuất hiện.. Hồng phạm cửu trù được nhắc tới trong thiên Vũ Cống của kinh Thư. Nhưng đồ hình Lạc thư như thế nào cũng không rõ và cũng chỉ được công bố vào đời Tống, tức là hơn 3000 năm sau khi cổ thư nhắc tới sự kiện này. - Tiếp theo 1000 năm nữa – Tức 3000 năm cách ngày nay – Vua Văn Vương bị giam trong ngục Dữu Lý 7 năm, dựa vào Lạc Thư, sắp xếp lại Tiên Thiên Bát quái thành Hậu Thiên Văn Vương và cấu trúc nên 64 quẻ Hậu Thiên. Ngài cùng con trai là Chu Công Đán viết Soán Từ, Hào từ cho 64 quẻ Chu Dịch. Đồ hình Hậu Thiên Bát quái Văn Vương, cũng chỉ được công bố vào đời Tống sau đó 2000 năm. - Tiếp theo 500 năm sau – Tức 2500 năm cách ngày nay – Khổng Tử lúc về già, viết thập Dực, Hệ từ thương, Hạ truyện và thuyết quái truyện - hoàn thành bộ Chu Dịch truyền đến ngày nay. Trong trước tác của Khổng tử nói tới Âm Dương, Thái cực và lưỡng nghi. - 200 năm tiếp theo – Tức khoảng 2300 năm cách ngày nay - Xuất hiện phái Âm Dương gia được coi là phát triền thuyết Ngũ hành. Dấu ấn của Ngũ hành còn thấy trong sách Lã Thị Xuân thu, được coi là của Lã Bất Vi, tể tường đời Tần. Các nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng thuyết Âm Duơng và Ngũ hành hòa nhập vào đời Hán. - 1000 năm sau Công Nguyên xuất hiện các đồ hình - Hà Đồ, Lạc Thư, Hậu thiên, Tiên thiên bát quái - do các đạo gia như Thiệu Khang Tiết, Trần Đoàn Lão Tổ công bố và họ vẫn thừa nhận tác giả những đồ hình này thuộc về Phục Hy, Đại Vũ và Chu Văn Vương như đã trình bày ở trên. Trần Đoàn Lão tổ còn được coi là tác giả của môn Tử Vi , Thiệu Khang Tiết còn được coi là tác giả của Mai Hoa Dịch số. Trong suốt hơn 2000 năm, việc nghiên cứu, tìm hiểu Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành được các nhà nghiên cứu Hán nho - tiềm hiểu từ đó đến nay - bắt đầu từ: Mao Diên Thọ, Kinh Phòng, Mạnh Hỷ - Đời Hán...vv..mỗi đời đều để lại những triết gia nổi tiếng về thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Nhiều thành tựu nhất là đời Tống nổi tiếng với Chu Hy với thuyết Vô cực và được nhiều người tin cho đến ngày nay. Riêng cuốn Hoàng đế Nội Kinh tố vấn - được các nhà nghiên cứu cho là xuất hiện từ thế kỷ thứ II BC đến thế kỷ I AC – nhưng có nội dung bản văn miêu tả Hoàng Đế đối thoại với Kỳ Bá và Quỉ Du khu từ 5000 năm cách ngày nay và hoàn toàn dùng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành - được coi là phương pháp luận căn bản của Đông Y thì không thể đặt vào bất kỳ thời kỳ lịch sử nào trong văn minh Trung Hoa. Bởi vì với nội dung này, nó đã xác minh rằng: Phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành đã xuất hiện trước tất cả những tác gỉa được coi là phát minh ra học thuyết này là Đại Vũ, Khổng Tử và cả phái Âm Dương gia (Vốn được cho là tồn tại vào khoảng thế kỷ thứ III BC. Tức là sau thời gian xuất hiện của cuốn Hoàng Đế nội kinh hơn 5000 năm?), khi phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành đã được ứng dụng trong nội dung của cuốn sách này. Mặc nhiên cuốn “Hoàng đế nội kinh tố vấn” đã phủ nhận toàn bộ lịch sử phát triển của thuyết Âm Dương Ngũ hành miêu tả trong cổ thư chữ Hán. 1 – 3: Kết luận: Bất cứ một lý thuyết nào cũng phải được hình thành từ nhận thức trực quan sinh động đến tư duy trừu tương và tổng hợp thành một lý thuyết. Tất nhiên nó phải có một nền tảng tri thức xã hội hình thành nên lý thuyết đó với những khái niệm được phổ biến trong nền văn minh tạo ra nó. Nhưng hàng ngàn năm tiếp theo đã trôi qua, Chính nền văn minh Họa Hạ cũng không lý giải được những khái niệm của một lý thuyết mà được coi là của họ . Những mâu thuẫn trong thuận tự lịch sử thời gian hình thành thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch trong cổ thư chữ Hán đã xác định nền văn minh Hoa Hạ không phải cội nguồn của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Muốn lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch thuộc về văn minh Hoa Hạ thì phải viết lại toàn bộ xuất xứ theo thuận tự nói trên, mà chính bản văn chữ Hán ghi nhận. Nhưng như vậy thì tức là tự phủ nhận toàn bộ lịch sử hình thành Thuyết âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch từ cổ thư chữ Hán. II – NỘI DUNG THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH VÀ KINH DỊCH TRONG BẢN VĂN CHỮ HÁN. Một học thuyết phải có một nội dung hợp lý với chính nó, cho dù chỉ là một sự hợp lý hình thức với những giả qui luật. Như vậy chỉ với tính mâu thuẫn trong lịch sử hình thành Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán, cũng đủ chứng tỏ nền văn minh Họa Hạ không thể là chủ nhân của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Khi những thuận tự xuất hiện trong lịch sử thời gian của nó hoàn toàn bất hợp lý theo kiểu: "Sinh con rồi mới sinh cha. Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông". Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng ở đây. Một bằng chứng sinh động nữa không kém phần quan trong và xác minh một cách rõ nét nhất rằng: Nền văn minh Hoa Hạ không thể là chủ nhân của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch chính là nội dung của nó. Mâu thuẫn trong nội dung của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán thể hiện ở những vấn đề quan yếu sau đây: II – 1: Nền tảng tri thức phổ biến trong văn hóa Hán và thuyết Âm Dương Ngũ hành với Kinh Dịch. Trên thực tế, một học thuyết xuất hiện phải trên cơ sở nền tảng tri thức phổ biến của xã hội đó để có thể tiếp tục những khái niệm của nó. Nhưng trong thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch lưu truyền trong cổ thư chữ Hán lại không thỏa mãn điều kiện này. Ngay bây giờ, chính Thiệu Vĩ Hoa - được coi là truyền nhân đời thứ 20 của Thiệu Khang Tiết - một danh gia đời Tống công bố Mai Hoa Dịch số - cũng không biết căn cứ vào đâu để có bảng Lục Thập Hoa giáp. Ông ta đã thừa nhận điều này trong các tác phẩm của mình. Đồng thời ông ta cũng xác định rằng: Đã nhiều thế kỷ, những nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng không thể hiểu được vì sao có bảng Lục thập hoa giáp. Thật là vô lý hết sức, khi mà cả một nền văn minh tự coi là cội nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ hành mà lại không thể biết được tổ tiên của họ căn cứ vào đâu để có chính những sản phẩm ứng dụng truyền lại. Điều này tự thân nó xác định rằng: Xã hội Trung Hoa cổ không phải là nền tảng tri thức để hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Đấy cũng chỉ là một thí dụ. Còn rất nhiều những khái niệm mơ hồ và mâu thuẫn ngay trong nội dung của học thuyết này mà chính những nhà nghiên cứu Hoa Hạ hiện đại cũng không giải thích được. Phong trào phủ nhận Đông Y và phong thủy vốn được coi là có xuất xứ Hoa hạ của chính các học giả Trung Quốc hiện đại chứng đỏ điều này. II – 2: Mâu thuẫn từ nguyên lý căn để của học thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch từ cổ thư chữ Hán. 2 - 1: Hà Đồ và Tiên thiên Bát quái. Đồ hình dưới đây miêu tả cửu cung Hà Đồ phối với Tiên Thiên Bát quái, được cho là của vua Phục Hi phát hiện trên lưng con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng Hà và nghĩ ra Tiên Thiên Bát quái phối với Hà Đồ. Đồ hình liên hệ Hà đồ và Tiên Thiên bát quái theo cổ thư chữ Hán. Quán xét đồ hình này – Theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán. Cụ thể là cuốn Mai Hoa Dịch , do Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống – chúng ta nhận thấy: * Càn (Trời / Kim) nằm ở độ số 7 Dương Hỏa/ Chính Nam trên Hà đồ. Như vậy Hỏa vị khắc Kim quái. * Đoài (Kim) thì nằm ở độ số 2 là Âm Hỏa/ Đông Nam trên Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Hỏa vị khắc Kim quái. * Ly (Hỏa) nằm ở độ số 3 Dương Mộc/ Chính Đông của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Mộc vị sinh Hỏa quái. * Chấn (Mộc) nằm ở độ số 8 Âm Mộc/ Đông Bắc của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Mộc vị hòa Mộc quái. * Khôn (Thổ) nằm ở độ số 1 Dương Thủy/ Chính Bắc của Hà đồ. Như vậy, Thổ quái khắc Thủy vị. * Cấn (Thổ/ Núi) nằm ở độ số 6 Âm Thủy/ Tây Bắc của Hà đồ. Trường hợp này: Thổ quái khắc Thủy vị. * Khảm (Thủy) nằm ở độ số 9 Dương Kim/ Chính Tây của Hà đồ. Trường hợp này Kim vị sinh Thủy quái. * Tốn (Gió / Mộc) nằm ở độ số 4 Âm Kim/ Tây Nam của Hà đồ. Trường hợp này, Kim vị khắc Mộc quái. Quán xét hiện tượng trên, chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng: Không hề có sự tương thích nào giữa hành của quái theo cổ thư chữ Hán với hành của phương vị trên Hà đồ. Có người dẫn sách khác cho rằng vị trí sắp xếp trên Càn - nằm ở phương Nam là không chính xác mà Càn nằm ở vị trí chính Bắc, Khôn nằm ở vị trí chính Nam trên Hà đồ. Tương quan các vị trí của các quái trong Bát quái Tiên thiên không thay đổi. Chúng tôi đã sắp xếp theo vị trí được đặt ra ở trên và thể hiện dưới đồ hình sau đây. Đồ hình liên hệ Hà đồ và Tiên Thiên bát quái II Quán xét đồ hình này – Theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán. Cụ thể là cuốn Mai Hoa Dịch , do Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống. * Càn (Trời / Kim) nằm ở độ số 1 Dương Thủy / Chính Bắc, * Đoài (Kim) thì nằm ở độ số 6 là Âm Thủy/ Tây Bắc trên Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Kim quái sinh Thủy vị * Ly (Hỏa) nằm ở độ số 9 Dương Kim / Chính Tây của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Hỏa quái khắc Kim vị. * Chấn (Mộc) nằm ở độ số 4 Âm Kim / Tây Nam của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Kim vị khắc Mộc quái. * Khôn (Thổ) nằm ở độ số 7 Dương Hỏa / Chính Nam của Hà đồ. * Cấn (Thổ/ Núi) nằm ở độ số 2 Âm Hỏa / Đông Nam của Hà đồ. Trường hợp này: Hỏa vị sinh Thổ quái. * Khảm (Thủy) nằm ở độ số 3 Dương Mộc / Chính Đông của Hà đồ. Trường hợp này Thủy quái sinh Mộc vị. * Tốn (Gió / Mộc) nằm ở độ số 8 Âm Mộc/ Đông Bắc của Hà đồ. Trường hợp này, Mộc quái tương hòa Mộc vị. Quán xét hiện tượng trên, chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng: Không hề có sự tương thích nào giữa hành của quái theo cổ thư chữ Hán với hành của phương vị trên Hà đồ đã được thay đổi như trên. Trên thực tế, với tương quan của đồ hình Tiên thiên bát quái thì dù bạn đọc có xoay như thế nào cũng không thể nào tìm được sự tương thích giữa quái vị và phương vị trên cơ sở Ngũ hành của Hà đồ và Ngũ hành của bát quái. Để tiếp tục tìm sự bí ẩn qua câu hỏi này, chúng ta tiếp tục quán xét sự tương thích theo cổ thư chữ Hán là: “Hậu thiên bát quái bản Lạc thư dã” (Đồ hình Hậu thiên bát quái xuất phát từ với Lạc thư - Chu Hy). Xin quí vị quan tâm xem hình dưới đây: Đồ hình Cửu cung Lạc thư theo cổ thư chữ Hán Hậu thiên bát quái Văn Vương liên hệ Lạc thư theo cổ thư chữ Hán Như vậy, với ngay cả Hậu thiên bát quái vốn là một cơ sở của những phương pháp ứng dụng bao trùm trên mọi lĩnh vực cũng không hề có sự tương thích với Lạc thư. Đây chính là nguyên nhân để học giả uyên bác Nguyễn Hiến Lê cho rằng: ”Nhất là so sánh những hình đó với hình Bát quái thì dù giàu trí tưởng tượng tới mấy cũng không thể bảo rằng Bát quái phỏng theo hai đồ hình đó được”. (Kinh Dịch - Đạo của người quân tử) Chính vì tính bất hợp lý của sự liên hệ ngay từ nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành là “Tiên thiên Bát quái phối Hà đồ” và “Hậu thiên Bát quái với Lạc thư” – được lưu truyền trong cổ thư chữ Hán từ hàng ngàn năm nay – đồng thời với sự xuất hiện muộn màng đến mức phi lý của những đồ hình này trong lịch sử văn minh Hán so với chính bản văn chữ Hán về sự xuất hiện của nó, đã cho thấy những mâu thuẫn rất căn bản ngay trong nội dung cua 3thuyết Âm Dương Ngũ hành theo cổ thư chữ Hán. Đồng thời đó cũng chính la 2nguyên nhân để có những kết luận sai lầm cho rằng: 1) Âm Dương trong Kinh Dịch không liên quan gì đến Ngũ hành. 2) Âm Dương Ngũ hành là của người Việt và Bát quái là của người Hán. Hai học thuyết này hoà nhập vào thời Hán. Những sai lầm của luận điểm này vì những nhà nghiên cứu đã không xuất phát từ một tiêu chí và phương pháp luận khoa học. Họ chỉ nhìn thấy một cách trực quan từ những nội dung trong bản văn chữ Hán và không biết rằng cổ thư chữ Hán Không phải là những căn bản hoàn chỉnh về thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chính từ những sai lầm từ nguyên lý căn để ngay trong nội dung của nó, khiến cho dù có sự cố gắng trải hơn 2000 năm, người Hán và cả thế giới này vẫn không thể tìm ra những bí ẩn của nền văn minh Đông Phương. Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. III – NỘI DUNG THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG BẢN VĂN CHỮ HÁN KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG PHẢN ÁNH THỨC TẠI KHÁCH QUAN. Một học thuyết ra đời phải xuất phát từ một thực tại khách quan trong quá trình tiến hóa và phát triển của nhận thức - Từ trực quạn sinh động đến nhận thức thực tại và cuối cùng là hình thành tư duy trừu tượng khái quát thực tại và sự tổng hợp những nhận thức đó tiến đến hình thành một học thuyết giải thích các hiện tượng nhận thức được. Dù đó là học thuyết gì, nhân danh tôn giáo, tâm linh, sự sai lầm hay đúng đăn, đúng một phần hay toàn bộ thì nó vẫn phải có một hiện thực để phản ánh mà con người nhận thức được. Thí dụ như cách giải thích theo tôn giáo cho các học thuyết tôn giáo: Giải thích từ sự hình thành vũ trụ - do ý muốn của Thượng Đế, cho đến sự vận động của các thiên hà, đến mọi hiện tượng ...đều do ý muốn của Thượng đế. Thuyết tôn giáo này giải thích thực tại khách quan mà con người nhận thức được. Thuyết tôn giáo này có tính hệ thống, tính nhất quán và nó giải thích một cách hợp lý trên cơ sở phương pháp luận của nó. Nhưng nó không mang tính khoa học vì thiếu tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Chẳng ai đoán được Thương Đế muốn cái gì và ý muốn của Thượng Đế thì không tuân thủ theo quy luật nào. Nhưng, trong các bản văn chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành thì chúng ta không thể lý giải được chúng phản ánh một thực tại nào làm nên khả năng tiên tri của Dịch và các bộ môn tiên tri. Những khái niệm rất mù mờ: Quẻ Càn vừa là trời, vừa là cha, vừa là con ốc, vừa là con ba ba....vv....Hoặc oái oăm hơn - Trong Phong Thủy thì Khôn lại tượng cho người đàn ông chứ không phải đàn bà, mẹ...vv...như trong Dịch học. Vậy bản chất của chúng là gì? Hoặc Cấn là núi, Đoài là đầm ..không lẽ trước khi vũ trụ hình thành đã có núi, có đầm? Đây cũng là thắc mắc của các nhà nghiên cứu Dịch ở miền Nam trước 1975. Hay nói chính xác hơn, người ta không thể hiểu được vì sao lại có mối liên hệ với các thực tại trên với nội dung các quẻ được miêu tả trong các bản văn chữ Hán. Nhưng khả năng tiên tri trong các phương pháp dự báo với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì cực kỳ huyền vĩ. Có thể nói rằng: Không có một lý thuyết khoa học hiện đại nhất được vinh danh trong thời đại hiện nay, có thể tạo ra những phương pháp tiên tri như vậy. Tuy nhiên, có thể nói rằng: Mặc dù trong các bản văn chữ Hán, thiếu hẳn tính hợp lý cho việc giải thích các vấn đề liên quan, thiếu tính nhất quán, tính hoàn chỉnh, nhưng đầy đủ tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri, thể hiện trong các phương pháp ứng dụng. Hay nói cách khác: Đây chính là hệ quả và những yếu tố phù hợp với tiêu chí khoa học cho một học thuyết khoa học. Cả thế giới đã chú ý đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã bốn lần tổ chức những cuộc hội thảo với qui mô hoàng tráng tại Bắc kinh - Thủ đô của nền văn minh Hoa Hạ - nơi được cả thế giới cho rằng là cội nguồn của nền văn minh Đông phương, nhưng họ đã không thu được kết quả nào từ những cuộc hội thảo hoàng tráng ấy. Người ta không thể lần ra manh mối những thực tại nào được phản ánh trong các khái niệm liên quan từ các bản văn chữ Hán liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. IV – KẾT LUẬN Như vậy, xét trên ba tiêu chí cho một lý thuyết khoa học là: Tính lịch sử, tính nhất quán và hợp lý trong nội dung, tính phản ánh thực tại khách quan đều không thể thỏa mãn cho việc Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch có cội nguồn từ văn minh Hán. Cho đến ngày nay, toàn bộ những di sản của thuyết Âm Dương Ngũ hành có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán vẫn dậm chân tại chỗ và không hề phát triển. Ngay tại Trung Quốc, nơi được coi là cội nguồn Lý học Đông phương thì chính các học giả Trung Quốc cũng lên tiếng đòi dep bỏ Đông y, coi Phong thủy chỉ là sự bịp bợm. Sự bế tắc cả hàng ngàn năm trong bản văn chữ Hán liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành là một minh chứng xác đáng tính mơ hồ và không có đủ khả năng phản ánh một thực tại khách quan trong các bản văn chữ Hán. Nên nó đã bị phủ nhận bởi chính người Trung Quốc và ngay cả những học giả uyên bác, cũng cho rằng: Lý học Đông phương chỉ truyền lại bởi trực giác và kinh nghiệm. Cội nguồn thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch không thuộc về nền văn minh Hoa Hạ thì nó từ đâu tới? Trong lịch sử văn minh Đông phương, ngay bên cạnh nền văn minh Hoa Hạ từ hơn 2000 năm trước, đã tồn tại một nền văn minh huyền vĩ với danh xứng văn hiến. Đó là quốc gia Văn Lang dưới triều đại của các vua Hùng có biên giới Bắc giáp Động Đình hồ; Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba thục và Đông giáp Đông Hải. Việc mình chứng cội nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch thuộc về nền văn hiến Việt cũng chính là một minh chứng sắc sảo: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến và biên giới Văn Lang một thời huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương tử: Danh xưng văn hiến của dân tộc Việt chính bởi căn cứ vào một học thuyết xuyên suốt giải thích từ sự hình thành vũ trụ, cho đến mọi vấn đề liên quan đến con người, từ những thiên hà khổng lồ đến các hạt vật chất nhỏ nhất. Bạn đọc có thể coi như đây là một giả thuyết và sẽ được tiếp tục minh chứng ở các bài viết tiếp theo. ------------------------------------ Tài liệu tham khảo: - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại. Nxb VHTT 2002. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. - Tìm về cội nguồn Kinh Dịch. Nxb VHTT 2002. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt. Nxb VHTT 2002. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. - Định mệnh có thật hay không? - http://www.lyhocdongphuong.org.vn
    1 like
  5. Dự Án Khu Đô Thị Mới Thủ Thiêm - Quận 2 Nhìn từ Phong Thuỷ Lạc Việt Nhóm nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt Chịu trách nhiệm chính: Achau Từ những năm 2000. TP HCM đã có những qui hoạch phát triển cho tương lai khi mong muốn Quận 2, đặc biệt là khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành một trung tâm Thương mại – Tài chính của TP nhằm có những bước đột phá chuyên sâu trong lĩnh vực này trong thời kỳ mới. Gần 10 năm trôi qua, cũng có một số nhà đầu tư cơ sở hạ tầng lớn trong và ngoài nước tới xem xét. Nhưng việc phát triển Quận 2 theo đúng qui hoạch gần như vẫn còn dậm chân tại chỗ. Nhìn trên bản đồ Thành phố HCM, có thể thấy lợi thế của bán đảo Thủ Thiêm nằm ngay giữa khu vực trung tâm của TP. Theo qui hoạch bán đảo Thủ Thiêm có vị trí rất thuận lợi về giao thông: Là cửa ngõ của TP, điểm đầu của nút giao thông xa lộ Hà nội đi các tỉnh phía Bắc, đại lộ Đông Tây đi qua khu vực bán đảo Thủ Thiêm nối liền các tỉnh miền Tây với miền Đông Nam bộ, khoảng cách từ bán đảo Thủ Thiêm đi sân bay quốc tế Long Thành - Đồng Nai trong tương lai cũng không phải là quá xa khi lưư thông bằng xa lộ. Dự án khu đô thị Thủ Thiêm (Hình minh họa) Đã có những phong thủy gia ca ngợi vị trí đắc địa của bán đảo Thủ Thiêm với những khái niệm chuyên môn, mà chúng ta có thể thấy được qua bài viết trên báo TT&VH sau đây: Nhưng ngược theo thời gian, chúng ta có thể thấy không phải chỉ bây giờ, mà ngay cả khi Sài Gòn là một thành phố sầm uất với danh xưng “Hòn ngọc Viễn Đông” thì bán đảo Thủ Thiêm vẫn là một khu vực có rất nhiều hộ dân có thể coi là nghèo, trình độ dân trí thấp. Dù về địa lý chỉ cách những khu vực sầm uất nhất của TP có một con sông Sài Gòn…. Rõ ràng, đây là thực tế trái ngược với những nhận xét của các phong thủy gia khi áp dụng một cách máy móc những khái niệm phong thủy. Không những vậy, mà ngay cả với những quyết tâm - Từ những năm 2000. TP HCM đã có những qui hoạch phát triển cho tương lai khi mong muốn Quận 2, đặc biệt là khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành một trung tâm Thương mại – Tài chính của TP, nhằm có những bước đột phá chuyên sâu trong lĩnh vực này trong thời kỳ mới. Gần 10 năm trôi qua, cũng có một số nhà đầu tư cơ sở hạ tầng lớn trong và ngoài nước tới xem xét. Nhưng việc phát triển Quận 2 theo đúng qui hoạch gần như vẫn còn dậm chân tại chỗ….. Nếu chúng ta loại suy những yếu tố ngoại quan khác và phân tích những nguyên nhân khiến cho bán đảo Thủ Thiêm chưa phát triển, dưới góc nhìn theo Phong Thuỷ Lạc Việt thì vị trí địa lý ở đây có những khiếm khuyết lớn cần khắc phục với mục đích mang lại sự phồn vinh nơi đây. Xét về Hình lý - Khí Nhìn qua ảnh vệ tinh, ta thấy toàn bộ khu vực đô thị mới bán đảo Thủ Thiêm nằm theo trục Đông Bắc - Tây Nam. Mặc dù được bao bọc bởi sông Sài Gòn. Nhưng lại nằm bên “Tả Ngạn”, có thể thấy rằng toàn bộ khu vực bán đảo không phải là một nơi tụ khí với sự phân tích về khí của Phong thủy Lạc Việt. Về hình dáng, cả khu vực bán đảo như một chiếc chậu bông nông đáy để nghiêng, đổ toàn bộ sinh khí của cuộc đất ra phía miệng chậu (phương Đông Bắc). Toàn bộ bán đảo với rất nhiều kênh rạch, thêm một chỉ dấu rất rõ của một cuộc đất yếu, có thể ví như một bình bông bị nứt rạn nên càng khó có thể giữ được nguồn sinh khí của cuộc đất. Khu vực từ Tây Bắc tới Tây (ô số 1): Khí lực cuộc đất của khu vực này rất kém. Mặc dù có phà Thủ Thiêm & tuyến đường Lương Đình Của nối từ Quận 1 sang. Cách cục của âm dương giao trì nhưng hầu như khu vực này có thể coi là phát triển rất chậm và chỉ mang tính cục bộ , dân cư hầu hết chỉ tập trung ở khu vực bên trái của tuyến đường Lương Đình Của. Khu vực từ Tây Nam- Nam (ô số 2): Khí lực cuộc đất của toàn bộ dải này đã kém lại bị cộng hưởng tác động xấu của sông Sài Gòn càng làm cho khu này khí bị thoái mạnh, nên có thể thấy, dù mật độ dân số của dân cư Quận 2 ngày càng tăng nhưng khu vực này có thể coi là có mật độ cư dân rất thấp. Khu Đông Bắc – Đông (ô số 3) Diện tích của bán đảo Thủ Thiêm khoảng 7km2, như một chiếc chậu bông nông đáy khổng lồ đổ toàn bộ khí lực sang khu Đông (miệng bình) trôi tuột ra phía Đông, nên có thể thấy khu vực này không thể coi là tốt được theo Phong Thuỷ Lạc Việt. Tuy nhiên vì khí dồn vào góc phía Đông, nên ở đây có cơ hội phát triển. Đó chính là khu đô thị mới Thủ Thiêm. Tuy nhiên vì tổng thể vô khí, nên sự phát triển chậm chạp. Dương khí qua các tuyến giao thông chính Phong thủy Lạc Việt quan niệm rằng: Những tuyến đường giao thông đều mang tới dương khí cho cuộc đất do tương tác của những phương tiện vận động, tính chất giống như những dòng sông chảy. Nhưng phân Âm Dương so với sông và là một sự tương tác với các khái niệm đồng đẳng theo Phong Thủy Lạc Việt. Trên cơ sở này, chúng ta xem xét sự tương quan của nguồn khí do giao thông đem lại. Điều này tương tự như ở Bắc sông Hồng (Tả ngạn), trước đây vốn là vùng đất không phát triển. Nhưng từ khi những cây cầu bắc qua sông Hồng hình thành , như: Cầu Thăng Long, cầu Thanh Trì….vv…xuất hiện thì trở thành khu đô thị trù phú. Giao thông đi lại hiện tại trong bán đảo Thủ Thiêm, gồm 2 tuyến chính như sau: Tuyến đuờng Trần Não từ chân cầu Sài Gòn cắt ngang qua đường Lương Đình Của kéo dài thẳng xuống khu vực phía Nam của bán đảo. Có tính chất tiếp khí từ cầu Sài Gòn và theo trục Bắc Nam. Nhưng do nằm không đắc cách, bị xéo tạo khúc gãy so với góc nhọn xa lộ Hà Nội. Đã vậy, tuyến đường khi chạy qua Thủ Thiêm thì dừng ở sông Sài Gòn, Như vậy, Dương khí bị bế không thông. Nên dù là đường lớn, nhưng việc kinh doanh ở tuyến đường này hầu như còn rất hạn chế. Tuyến đường Lương Đình Của từ phà Thủ Thiêm (Quận 1) đổ sang, chạy cắt ngang đường Trần Não từ ngày hợp tuyến với cầu Thủ Thiêm từ quận Bình Thành đổ sang và do tính tiếp khí tích cực của cây cầu này, cũng làm cho những hộ kinh doanh ở ven đường phát đạt hơn trước. Nhưng cũng chỉ mang tính cục bộ cho cư dân sinh hoạt hai bên đường. Qua đây, có thể thấy tại sao Khu đô thị mới Thủ Thiêm có vị trí rất gần Trung tâm TP, nhưng tốc độ phát triển qui hoạch lại diễn ra chậm trễ đến như vậy. Như vậy, theo quan điểm riêng của người viết từ góc nhìn của Phong thủy Lạc Việt, để khu đô thị mới Thủ Thiêm phát triển được theo đúng ý tưởng đề ra ban đầu thì rất có một qui hoạch thích hợp với vị trí Địa Lý cần tụ khí nơi đây. Người viết rất hy vọng rằng bài viết này dưới góc nhìn của khoa Phong Thủy sẽ góp phần cho khu đô thị Thủ Thiêm được tốt đẹp hơn với mục đích mang lại sự phồn vinh và phát triển của T/P chúng ta. Trong năm nay, theo huyền không thì sao Nhị Hắc vận niên tinh đều chiếu hướng Đông Bắc. Tuy đây là hai sao không được coi là tốt trong sinh hoạt, nhưng lại là sao Quý nhân cho những cuộc đất mới phát triển. Cho nên, người viết hy vọng rằng trong năm nay sẽ có nhiều cơ hội để những nhà đầu tư đến với dự án quy hoạch khu đô thị này.
    1 like
  6. Amour thấy rằng học tập mà có thể cùng bạn bè trao đổi, các bậc tiền bối vào chỉ bảo cho thì nhanh thành tựu. Nay muốn lập topic này để post bài học lên đây, qua đó mọi người cùng trao đổi, không biết có nên chăng? Nếu được thì Amour xin đánh liều post từng bài theo dạng giáo án, căn cứ vào bộ NHÂM ĐỘN ĐẠI TOÀN mà tiến hành, ACE thấy sao? xin cho biết ý kiến
    1 like
  7. Đáng lý ra cô ta lập gia đình năm Sữu ,nhưng chắc có gì trỡ ngại mà đến năm Dần mới làm đám cưới /năm nầy đại tiểu hạn đều có Long -Phượng -Riêu .
    1 like
  8. Theo những lời đương số thì lá số giờ Mão có nhiều tích hợp hơn /đây là số mệnh kiếp thân không cung mệnh vcd với địa kiếp độc thủ nên lấy Địa Kiếp làm chánh tinh đễ xác nhận ra hình dáng , nếu người nầy lúc nhỏ sanh ra bình thường dễ nuôi cho đến lớn thì trong tương lai sẽ bị tai nạn hay bệnh tật khá nặng ; Thiên MÃ thủ mệnh là người đa năng hiếu động , Cô Thần +Địa kiếp ,tánh hơi cố chấp bảo thủ và ích kỹ / chồng dạng người hơi cao thon người mặt dài ,nước da hơi trắng ,là con trưởng tánh tình hơi khó tánh hơi cằn nhằn ,vợ chồng cũng không mấy hòa thuận hay tranh caic lẫn nhau ,chồng trên đầu chắc phải có vết thẹo ... /bản mệnh vcd cung phúc kém lúc thiếu thời vất vã ,có nhiều cao vọng mưu sự nhiều việc nhưng không thành phải đến lúc đứng tuổi mới toại nguyện ,công danh nếu đi về hình luật pháp thì hợp cách hay thông dịch viên ,phát ngôn viên cũng tốt ; phúc đức kém nên sớm xa gia đình lập nghiệp thì mới hưởng phúc thọ và khá giả ,trong họ nhiều người ly tán vất vã hay mang cố tật ,đàn bà con gái thì không được may mắn / đến năm 30t cẩn thận coi chừng bị tai nạn , năm thìn và mão rất tốt cho việc làm và công danh .
    1 like
  9. Chơi game thua mãi, chán quá. Nhớ lại thời xa xăm thì hình như Amato nhớ nhầm. Cụ cóc không hề dạy dế mèn điều gì. Mà chỉ có đoạn như sau (Tôi nhớ không tuyệt đối chính xác. Nhưng chắc cũng không xa lắm với nguyên văn). Cụ cóc hỏi dế mèn: - Tôi hỏi khí không phải. Nhị vị tráng sĩ đi chu du thiên hạ có thấy thằng cháu trời nhà bỉ phu đâu không? Dề trũi nhếch mép cười, khiến dế men phải nháy mắt ra hiệu cho dế trụi im lăng và tiến lến đáp lễ mà rằng: - Kính thưa cụ. Tôi đi đến chân trời có hỏi thăm thì ông Trời nay bận đi làm mưa nơi khác nên không gặp. - À thì ra thế! Thì ra thế!kẹt. kẹt. Thì ra là thằng cháu trời nhà bỉ phu bận đi làm mưa. Kẹt, kẹt.... Vừa nói các cụ cóc ra cái điều hiểu biết miệng lẩm bẩm, nhảy lung tung khắp xóm..... Dế trũi hỏi tôi: "Anh hơi đâu mà trả lời mấy thằng dở hơi đó. cho nó phí nhời?". Đại để như vậy.
    1 like
  10. Trận Mexico (Xanh lá - Mộc) - Uruguay (Xanh - Thủy). Quẻ: Kinh (Kim) - Xích Khẩu (Kim) Ngày - Tháng - Năm: Kim - Mộc - Mộc Trận này khó luận đây, vì có thể Uruguay dùng màu vàng đất. Vì vậy BW xin phép luận 2 trường hợp. Trước mắt về thế trận thì chắc có lẽ 2 đội ăn miếng trả miếng (quẻ cùng hành Kim). Mặc dù cả 2 đội chỉ cần hòa là cùng dắt nhau vào vòng sau. 1. Xét đội Mexico: Mộc, Kim, Kim, Mộc, Mộc. Kim khắc Mộc nên Kim và Mộc cùng suy yếu. Do Kim không đủ nhiều để khắc chế được nên Kim sẽ yếu hơn. 2. Xét đội Uruguay: - Trường hợp 1: Thủy, Kim, Kim, Mộc, Mộc. Kim khắc Mộc và sinh Thủy, Thủy lại sinh cho Mộc. Cả 3 cùng suy yếu, tuy nhiên trong quá trình cả 3 cùng khắc nhau này với tương quan này, Kim yếu nhất vì Thủy và Mộc được sinh, và có lẽ là Thủy mạnh nhất. - Trường hợp 2: Thổ, Kim, Kim, Mộc, Mộc. Thổ sinh Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Cả 3 cùng suy yếu tuy nhiên trong tương quan và quá trình khắc nhau này, Kim được sinh nên sẽ mạnh nhất, Thổ và Mộc yếu. 3. Tương quan 2 đội: - Trường hợp 1: Thủy sinh cho Mộc, Kim khắc Mộc và sinh Thủy. Vì vậy mà Thủy vượng hơn. Tuy nhiên cũng không nhỉnh hơn mấy, trận này khả năng hòa rất cao. Nếu có chiến thắng thì khả năng nghiên về Uruguay. Chênh lệch cùng lắm 1 quả, tỉ số 0 - 0, 1 - 0 cho Uruguay. - Trường hợp 2: Mộc khắc Thổ, Kim lại khắc Mộc, Thổ sinh Kim. Trường hợp này thì Kim mạnh hơn, nhưng Kim ở đây lại không ứng cho đội nào cả. Vì vậy mà 2 đội chỉ tạo nên thế trận đẹp mắt cho người xem. Tình hình cũng ngang ngửa, khả năng hòa lại càng cao hơn. Tỉ số 0 - 0, 1 - 1. Kết luận: Nhìn chung là 2 đội tuy chỉ cần hòa là dắt nhau vào vòng trong nhưng vẫn trình diễn cho khán giả một trận cầu đẹp mắt. Tuy nhiên cũng vì yếu tố này mà 2 đội không muốn mạo hiểm quá. Và có 2 khả năng xảy ra (hi vọng Mexico sẽ mặc màu áo chính :D): 1. Nếu Uruguay mặc màu áo thuộc thủy (màu chính) thì khả năng chiến thắng (nếu có) nghiêng về Uruguay. 2. Nếu Uruguay mặc màu áo thuộc Thổ (màu phụ) thì khả năng 2 đội hòa gần như chắc chắn.
    1 like
  11. Thưa bác Văn Lang: Quẻ Bát Môn Thương, theo em thấy, thường ứng với 1 sự kiện như có cầu thủ chấn thương, hoặc cầu thủ bị thẻ phải rời sân, ảnh hưởng đến tâm lý và/hoặc lối đá của cả đội. Nhưng em chưa dám khẳng định chắc vì còn cần phải kiểm nghiệm thêm (điều này em có nhắc đến ở bài viết mấy trang trước). Trường hợp ở trên, em ra được quẻ chủ cho trận Chile - Thụy Sỹ là Sinh - Đại An, rất khó để luận được có người phải rời sân hay không. Tuy nhiên, quẻ độn tới là Thương - Lưu niên, vẫn có thể được dùng để luận đoán tình hình của trận đấu này. Quẻ Sinh hành Mộc ở trên ứng với Thụy Sỹ, quẻ độn tới là Thương Mộc cũng là Thụy Sỹ, vì vậy, theo em luận Thụy Sỹ có người phải rời sân. (Mặc dù khi đang giải thích với bác thế này, em dùng 2 quẻ, nhưng do bài ở trên ứng dụng cách dự đoán của bác BW nên em không xét tới quẻ độn sau quẻ chủ nữa) Quẻ Thương - Lưu niên, sau đó, lại được dùng làm quẻ chủ cho trận kế tiếp (Tây Ban Nha - Honduras), vẫn đúng là có người bị thương (cầu thủ gì đó em 0 nhớ tên bị rách miệng chảy máu). Điều này chỉ khẳng định thêm chân lý "Quẻ luôn đúng, chỉ có người luận chưa đúng" thôi! hì hì
    1 like
  12. Người mệnh Chấn thì Tây Nam là Tốn được Phúc đức. Đông Nam là Khôn thuộc Họa Hại Thân mến
    1 like
  13. Ai Cập phát hiện thành phố cổ 3.500 tuổi dưới lòng đất Cập nhật lúc 21:49, Thứ Hai, 21/06/2010 (GMT+7), Trong đợt khai quật mới đây, các nhà khoa học Áo đã khám phá ra kinh đô cổ của người Hyksos, những người đã xâm chiếm Ai Cập cách đây 3.500 năm. Ai Cập bị cai trị từ năm 1664-1569 trước Công nguyên, bởi Hyksos, một bộ lạc đến từ Châu Á. Việc khai quật vùng châu thổ phía đông sông Nile đã giúp các nhà khoa học Áo khám phá ra nhiều điều vẫn còn bí ẩn về Ai Cập. Ai Cập từ lâu vẫn được coi là vùng đất bí ẩn, nó luôn thôi thúc những nhà khoa học tìm hiểu và khám phá.(Ảnh: Getty) Irene Mueller, người đứng đầu nhóm khảo cổ của Áo, cho biết mục tiêu chính của dự án là xác định xem thành phố dưới lòng đất này kéo dài đến đâu. Các hình ảnh từ ra - đa cho thấy những phác thảo về các đường phố, nhà cửa và các đền thờ,... nằm dưới các cánh đồng xanh và thị trấn hiện đại Tel al-Dabaa, phía đông bắc thủ đô Cairo. Họ cũng đã phát hiện thấy một bến cảng và các giếng nước có đủ kích cỡ. Ông Zahy Hawass, Chủ tịch Hội đồng cổ vật tối cao Ai Cập, cho biết thông qua những nghiên cứu địa vật lý được thực hiện tại phía Đông bắc thủ đô Cairo, các nhà khoa học đã xác định được biên giới của Avaris, một thành phố dưới lòng đất. Avaris được coi là thủ phủ của người Hyksos. Để phát hiện ra công trình này, các nhà khảo cổ người Áo đã nghiên cứu khu vực này từ năm 1975. Lê Tình (theo Wral) [/size]http://vietnamnet.vn/tinnhanh/201006/Ai-Ca...ong-dat-917452/
    1 like
  14. Chính xác là như vậy. Tôi vẫn thường nói với các học viên Phong Thủy Lạc Việt là: Cần phải tiếp thu tất cả tinh hoa trong các sách cổ và còn rải rác trong dân gian. Còn rất nhiều kiến thức quý báu lưu truyền trong đó. Sự khác biệt giữa Phong Thủy Lạc Việt và các phương pháp ứng dụng có nguồn gốc cổ thư chữ Hán chỉ là nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" và tính hợp nhất, tính hệ thống, tính nhất quán của tất cả các phương pháp ứng dụng trong phong thủy theo nguyên lý này.
    1 like
  15. PTLV là sự hiệu chỉnh của các trường phái đang tồn tại hiện nay thông qua một số nguyên lý trong đó có việc thay đổi Tốn - Khôn, độ số Ly - Đoài! Cuốn Dương trạch tam yếu không phải vì thế mà bỏ đi. Việc tham khảo và nghiên cứu các sách vở hiện có là điều cần thiết để bổ sung cho sự phục hồi PTLV được hoàn thiện! Những vấn đề được nêu trong Dương Trạch Tam yếu đều có thể áp dụng vào PTLV, chỉ cần đổi lại Tốn - Khôn, áp dụng nguyên lý Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ thay vì Hậu Thiên Văn Vương Phối Lạc Thư như sách TQ hiện nay!
    1 like
  16. Trận: Tây Ban Nha (Đỏ - Hỏa) - Honduras (Trắng - Kim) Quẻ: Sinh (Mộc) Tiểu Cát (Mộc) 1. Xét đội TBN: Hỏa, Mộc, Kim, Mộc, Mộc. Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc nhưng Kim lại quá yếu, Mộc sinh Hỏa. Về phương diện này thì Hỏa quá vượng. 2. Xét đội Honduras: Kim, Mộc, Kim, Mộc, Mộc. Kim khắc Mộc nhưng Mộc lại quá nhiều. Kim và Mộc cùng suy yếu. 3. Tương quan 2 đội: - TBN Hỏa khắc Honduras Kim. Điều này ứng với trình độ của TBN thì hơn Honduras nhiều. - Honduras Kim khắc Mộc. Honduras dù gì vẫn còn có thể gây bất ngờ và vẫn còn cửa để lọt vào vòng 2. Cơ hội đối với họ chưa hẳn đã hết nên vẫn đá rất máu. Tuy nhiên càng đá càng yếu dần do sự chênh lệch trình độ và sự dồn ép của TBN. Trận này có 2 Kim nhưng có đến 4 Mộc, Kim lại còn bị Hỏa khắc, Mộc lại sinh Hỏa. BW nghĩ trận này chắc TBN thắng đậm. Khả năng chênh lệch khoảng 3 trái. Tỉ số 3 - 0 hoặc 4 - 1.
    1 like
  17. Bồ Đào Nha 7 - 0 CHDCNC Triều Tiên : Hỏa khắc Kim toàn tập :D Năm Canh Dần có nhiều biến động và WC năm nay cũng thế.
    1 like
  18. Nếu giải được cái xấu thì trên đời nầy chẵng ai khổ mà than oán hết ; mỗi người có 1 cái khổ coi như mình mắc nợ kiếp trước ...kiếp nầy oan gia gặp lại mà phải trả nợ thế thôi !!! ,nếu muốn giải được chỉ có cách xuống tóc vào chùa làm sãi làm sư .
    1 like
  19. - Bác GB cho tôi hỏi năm nay người này hay bị bệnh đâu bụng phải không ?
    1 like
  20. Thưa anh Giaback, trong lá số của em cung quan cũng có song hao hãm tọa thủ, và công việc hay thuyên chuyển nhiều và trong tâm lý cũng luôn muốn làm riêng hay thấy công việc không phù hợp hay không đúng khả năng của mình, em thấy nhiều lá số trên diễn đàn song hao tọa thủ cung quan về mặt tâm lý hay thực tế cũng có vài điểm chung như vậy, có lẽ lá số em và anh khác nhau là do chính tinh tọa thủ của em là Phá quân nên hay thay đổi chăng?
    1 like
  21. NASA: 'Năm đại họa' là có thật? Cập nhật lúc 10:06, Thứ Sáu, 18/06/2010 (GMT+7) Trong khi nhiều người còn đang lo lắng về “năm đại họa 2012” thì mới đây NASA đưa ra cảnh báo về trận bão từ sẽ làm thay đổi toàn bộ cuộc sống trên Trái đất vào năm 2013. Vào năm 2013, Mặt trời sẽ bước vào thời kỳ hoạt động mạnh mẽ. Ảnh: Ifeng.com. Các nhà khoa học có thâm niên của NASA cảnh báo, vào khoảng năm 2013, sau một "giấc ngủ say", Mặt trời sẽ “thức tỉnh”, bước vào giai đoạn hoạt động mạnh, tạo nên những cơn bão từ cực mạnh tấn công Trái đất. Sức mạnh của trận bão từ này có thể tương đương với sức công phá của 100 quả bom Hydro. Các chuyên gia cho rằng, khi Mặt trời bước vào thời kỳ hoạt động mạnh, hoạt động phun trào của các điểm đen Mặt trời cũng sẽ trở nên kịch liệt, giải phóng một lượng lớn các hạt mang điện và gây ra các cơn bão mặt trời. Sự ảnh hưởng của bão mặt trời, theo các nhà khoa học là vượt qua sự tưởng tượng của con người. Chúng có thể khiến toàn bộ Trái đất bước vào những ngày đen tối nhất. Không chỉ tầng ô-zôn bị phá hủy, hệ thống điện cũng như mạng thông tin điện tử có thể bị tê liệt. Từ đó, những cơ quan như bệnh viện, ngân hàng và sân bay,… cũng sẽ không thể hoạt động được chứ đừng nói đến điện thoại, máy tính hay GPS. Nếu như tất cả những điều kể trên xảy ra, chúng sẽ mang lại những tổn thất về kinh tế cực kỳ khủng khiếp, mà nhiều người dự tính là nhiều gấp 20 lần so với trận bão Katrina (Tổng thiệt hại do cơn bão này gây ra ước tính lên đến 125 tỷ USD). Đồng thời, nó cũng sẽ tạo nên một bước lùi lịch sử trong tiến trình phát triển của toàn nhân loại. Và một trận bão Mặt trời cực mạnh có thể sẽ tấn công Trái đất. Ảnh: Internet. Các chuyên gia về thiên văn chỉ ra rằng, hoạt động của điểm đen mặt trời có chu kỳ là 11 năm. Vào năm 1859, tức là 151 năm trước đây, Trái đất của chúng ta từng bị một cơn bão mặt trời cực mạnh tấn công. Tuy nhiên, khi đó hệ thống điện và thông tin vẫn chưa phát triển, do vậy hậu quả mà cơn bão này gây ra vẫn chưa đến mức nghiêm trọng. Lo lắng về sự nguy hại mà các cơn bão từ Mặt trời mang đến cho Trái đất, các nhà khoa học đã bắt đầu theo dõi sát sao Mặt trời. Vào ngày 11/2 vừa qua, một vệ tinh quan trắc các hoạt động của Mặt trời đã được phóng lên quỹ đạo. Các nhà khoa học hy vọng rằng việc theo dõi Mặt trời 24/24 sẽ giúp các nhà khoa học hiểu rõ kết cấu cũng như các hoạt động từ trường của Mặt trời, từ đó đưa ra được những dự báo chuẩn xác giảm thiểu nguy hại từ các cơn bão Mặt trời. Lê Văn (Theo Ifeng)
    1 like
  22. - Nếu bạn quyết định làm một chuyến du lịch quanh trái đất, bạn sẽ phải đi khoảng 40.000km. Với những ai không có điều kiện đi du lịch, hãy cùng chiêm ngưỡng những địa danh đẹp nhất thế giới qua tập ảnh sau đây, bắt đầu từ dòng sông Hồng ở Việt Nam. Sông Hồng – trung tâm văn hóa và lịch sử của Việt Nam Grand Canyon ở Mỹ, một khe núi dốc được tạo ra bởi sông Colorado ở bang Arizona Thác Iguazu ở biên giới Argentina và Brazil – một trong những thác nước đẹp nhất thế giới Được người dân địa phương gọi là “biển”, hồ Baikal (Nga) là một trong những hồ nước sâu nhất thế giới Thung lũng Geyser ở Kamchatka (viễn Đông Nga) – một trong những thung lũng suối nước nóng lớn nhất thế giới Công viên Zoological ở Zambia, nơi cư trú của khoảng 1.300 loài động vật hoang dại Quần đảo Kuril – chuỗi đảo núi lửa giữa bán đảo Kamchatka (viễn Đông Nga) và đảo Hokkaido của Nhật Bản Châu Nam Cực là một lục địa nằm xung quanh Nam Cực của Trái Đất, nơi sinh sống của chim cánh cụt Vườn quốc gia Komodo tọa lạc tại khu vực thuộc quần đảo Nusa Tenggara của Indonesia, nơi có động vật nổi tiếng nhất thế giới là rồng Komodo Dòng sông Taiga (Nga) Công viên Quốc gia Sequoia ở Mỹ, nổi tiếng với những loại cây có màu gỗ đỏ, trong đó có cây củ tùng có tên gọi là Gen. Sherman – cây lớn nhất thế giới Công trình địa chất có một không hai – một trong những hang đá vôi lớn nhất ở châu Âu, cách thành phố Perm của Nga 100km Hồ nước mặn ở Sa mạc Atacama (Nam Mỹ) Núi lửa trên đảo Java (Indonesia) Sông Mamberamo ở New Guinea
    1 like
  23. Thân gửi các bạn quan tâm !. Cám ơn các bạn đã có sự quan tâm tới các bài viết của tôi. Có một số bạn có lòng quan tâm hơn nữa về âm dương ngũ hành, thậm chí dịch lỹ nói riêng, đông phương học nói chung. Thú thực, Tôi cũng chỉ là một hậu bối. Có một lời tâm tư với các bạn thế này. Có nhiều người, thậm chí có nhiều - những người mà tôi đã gặp qua, cũng như đã đọc các trước tác, hay có trao đổi ý kiến - nhà khoa học, thật sự khoa học đó, cũng hiểu biết rất hạn chế về âm dương ngũ hành. Đó là do, âm dương ngũ hành thật sự không dễ học tý nào. Đó là lời phát biểu của tôi, khi tôi có giảng cho một số người, chứ không phải là do kinh nghiệm học từ tôi thì tôi không dám kết luận như vậy. âm dương ngũ hành có nhiều tầng. Tất cả những gì các bạn thấy qua các chủ đề trên hầu hết các diễn đàn cũng như sự giao thoa của nó với khoa học, với triết tây, chỉ là phần thấp nhất, phần cơ sở. Nhưng khi lên đến tầng cao hơn thì lại thấy tầng cơ sở này chỉ như là một trường hợp riêng mà thôi. Khi những người nghe tôi giảng, thoạt đầu có nghe được câu đó, đều có cảm giác bất phục. Nhưng khi thu nhận được một cách có hệ thống của tầng cơ sở, thì đã thấy "may mà chưa vội nhảy lên tầng cao" chứ không thì "ngã gãy chân, gãy tay mất". Đó là sự thật. Thành thử, Tôi có nói ở đây. Muốn học đông phương học cho có hệ thống, đúng đắn, thời phải có người truyền dạy, chứ không học linh tinh được đâu. Đấy là Tôi nói thực lòng. Bạn nào bất phục, cũng xin không cần phải phản ứng. Quyền kiểm nghiệm trên thực tế là của các bạn. Một khi đông phương học có khả năng kết nối với tây phương học, thì Tôi không dám nói to nhớn, bởi vì tôi chưa là gì so với cổ nhân cả, nhưng chí ít thì đối với cá nhân, cũng có thể giải thích được "thế giới quanh ta". Ví dụ như: Hiểu được tại sao Nguyên Trãi lại: Lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy trí nhân để thay cường bạo. Hiểu được tại sao Trần hưng Đạo lại dặn vua trước khi đi xa: Xin bệ hạ lấy dân làm gốc, vua tôi đồng lòng, thì xã tắc bền vững muôn đời !. TQ thì có khổng tử, to nhớn đến nhường nào, mà lại phát biểu: Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Trong khí VN ta thì : Thuận vợ thuận chồng, bể đông cũng tát cạn ?. Phải chăng cái lẽ âm dương của Nam Việt ta sâu sắc hơn, sâu sắc ở chỗ nào ?. Thật vậy. Với quan niệm thời xưa, đàn bà là âm, tiểu nhân. Nhưng đã có bố con là dương âm, chồng vợ là dương âm, thì đàn bà là âm, âm thuận tùng dương, nên vợ theo chồng là phải lẽ. Song Mẹ - Con thì vốn là Tiền bối, Hậu bối, huống chi trong gia đình có tôn ti, lớn nhỏ. Lớn trọng nhỏ khinh. Trong khinh, tiền hậu bối đều là âm dương, thì tại sao Khổng tử lại cố ý nêu rằng: phu tử thì tòng tử !. Rõ ràng là sự lộn ẩu của họ nhà tôm !. Cho dù sự biện luận con trai trong nhà làm rường cột thì phải lấy đó làm chủ, mà chủ thì phải dương, đàn bà là thứ yếu nên khinh, thuộc âm, nên mới sinh chuyện mẹ cũng phải theo con, để ngăn cấm không cho mẹ xuất giá xây dựng hạnh phúc. Đó có phải là chuyện nghịch thường và ích kỷ của Khổng Tử không ?. Các bạn hãy so sánh với tiền nhân Việt: Thuận vợ thuận chồng bể đông tát cũng cạn. Có thấy vai trò âm dương cân bằng hay không ?. Đó có phải là hình vẽ thái cực không ?. Xét như thế, dù có muốn biện hộ cho Khổng Tử thế nào thì cũng thấy Việt ta đúng là có gốc, tuân theo quy luật, chứ không áp đặt chủ quan như Khổng Tử. Mặc dù đều hiểu âm dương chuyển hóa. Bởi vậy, văn hóa TQ là văn hóa bành trướng, văn hóa việt tộc là văn hóa ôn hòa, hòa bình chung sống !. Hiểu và nhận thức đúng đắn, trong một ví dụ âm dương như thế, tiền nhân ta dạy con cháu muôn đời mai sau rằng: Phải cảnh giác với ông bạn lớn phương Bắc. Đừng quên, văn hóa của họ là văn hóa bành trướng. Mà văn hóa dân tộc, thì trường tồn, không bao giờ mất đi cái bản chất của nó. Bởi vì, đã là văn hóa, thì nó ngấm vào máu thịt, nó là quốc hồn, quốc túy. Nên khi thấy anh phương Bắc mà nói Hảo Hảo, chìa tay ra bắt thì phải cảnh giác. Đấy là một ví dụ !. Tôi không có bất cứ tham vọng gì, thấy các Bạn quan tâm tới đông phương học thì cũng vui, xem như đó cũng là một nhu cầu tinh thần, như bao nhu cầu tinh thần của mọi người. Mà vào đây, dù là tranh luận, đôi lúc có phần gay gắt, cũng vẫn thấy vui. Có nhiều người muốn trao đổi, muốn tôi giảng bài, thì thực sự là tôi không có khả năng, mặc dù cũng đã có giảng bài cho một số người, một khi sách của tôi chưa công bố - xin thông cảm. Xin vui đâu chầu đấy thôi. Nhân đây cũng nhắc mấy bạn, những vấn đề mà các bạn nêu ra trong chủ đề này, như chuyện vẽ vòng tròn, xem chuyển hóa thế nào. rồi hai mặt của đồng tiền, mặt nào dương, mặt nào âm ?. ... đều thuộc về âm học cả. Song ngay từ cách đặt vấn đề các bạn đã sai. Từ Từ rồi các bạn sẽ rõ. Nhiều người hiểu âm dương ngũ hành không đúng, thành ra, càng học càng thấy rối, càng nghiên cứu, lại càng thấy vô lý, bất cập. Đó là vì ngay từ đầu, đã sai căn bản rồi !. Thân ái. Chúc các Bạn thành tựu.
    1 like
  24. Thưởng thức tạo hình nghệ thuật từ rau củ Vietnamnet.vn Cập nhật lúc 19:02, Thứ Năm, 25/02/2010 (GMT+7) Sự tưởng tượng và khả năng sáng tạo của nhiều người thật khó hình dung nổi. Từ những loại rau củ hàng ngày, họ đã tạo ra các tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Kỳ Thư (Theo naturez)
    1 like
  25. Anh Longtuan thân mến. Tôi xin được phân tích cụ thể những luận điểm trong những bài viết của anh, như sau: Anh viết: Âm Dương là gì - Điều này tôi cũng như anh Vuivui đều xác định đó là một cặp phạm trù miêu tả tính đối đãi của các hiện tượng trong vũ trụ theo quan điểm của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Vấn đề tranh luận - về bản chất - chỉ còn là những thuộc tính của Âm Dương thôi. Cụ thể là "Âm tịnh Dương động" theo cổ thư chữ Hán, hay "Dương tịnh, Âm dộng" - nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Tất nhiên điều này mang tính lý thuyết và sự chứng minh sẽ là tính ứng dụng để giải thích một cách hợp lý trong những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó. Trong đó có Đông y - tôi sẽ phân tích sau bài này bài viết của anh liên quan đến điều này. Bởi vậy, anh cứ việc phân tích thẳng thắn luận điểm của anh và minh chứng tôi đã sai trên cơ sở học thuật. Điều này không có gì mất lòng. Tôi sẵn sàng chấp nhận sai, nếu phân tích của anh hợp lý. Anh cho rằng tôi "sẽ và không bao giờ đủ tài làm được việc này" thì đấy là nhận xét của anh, có thể đúng và cũng có thể sai. Điều này sẽ còn chờ thời gian trả lời. Nhưng tôi tin rằng sẽ không phải vì lời nhận xét của anh mà tôi sẽ làm, hay không làm việc này. Anh cũng đặt v/d các "đề tài của tôi đã được thế giới công nhận chưa?" thì đấy không phải là luận cứ phản biện, tôi đã nói ở bài trên và không lặp lại ở đây. Đoạn văn trên trong bài viết của anh không có luận cứ phản biện. Bây giờ chúng ta cùng phân tích đoạn tiếp theo. Anh viết: Tôi đã viết trong bài trên - Tôi là con nhà nòi về Đông Y, tuy không theo nghề Đông Y, nhưng không phải không biết về cơ sở lý luận của Đông Y theo sách Hán. Bởi vậy, việc những phương pháp chữa bệnh của Đông Y làm chấn động dư luận thế giới như thế nào tôi biết rất rõ - cũng như anh. Tôi cũng lưu ý anh rằng: Việc châm cứu gây tê - tên gọi chính xác của nó, do các bác sĩ Đông Y Trung Hoa giới thiệu đầu tiên trên thế giới. Điều này đã được giới thiệu trên "Họa Báo Trung Hoa" tiếng Việt từ những năm 60 của thế kỷ trước và tôi đã được xem. Nên tôi không ngạc nhiên khi ông Nguyễn Tài Thu phát huy và nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này. Nhưng điều đó không phải là luận cứ minh chứng "Âm tịnh Dương động". Anh không thể căn cứ vào đó để lập luận rằng "Liệu lý luận của đông y có thể sai được không ? ".Một người thợ sửa xe giỏi thì không có nghĩa là anh ta nói gì cũng đúng về cơ chế khoa học kỹ thuật của chiếc xe. Chính anh cũng thừa nhận: "Trong khi các bộ môn như phong thủy , tử vi, độn toán nhiều lúc xem có lúc đúng có lúc sai vẫn ở trên con đường nghiên cứu và tìm tòi". Vậy tại sao cở sở lý luận của Đông Y lại duy nhất đúng, khi các môn như Phong Thủy, Tử Vi, độn toán cũng cùng trên cơ sở phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành? Tôi hy vọng anh sẽ xem xét lại điều này. Anh viết: Tôi nghĩ lời khuyên của anh - hay v/d anh đặt ra là "sống ở đời phải biết trước biết sau, biết phải biết người biết ta đi đến tận cùng của một vấn đề là một điều không tưởng" , thì vế trên thuộc nhận thức về cuộc sống - tôi không bàn - cũng có thể tôi đồng ý với anh. Nhưng về dưới của câu trên là "đi đến tận cùng của một vấn đề là một điều không tưởng" cũng có thể đúng luôn anh ạ. Cuộc đời con người ngắn ngủi, khi đến lúc chết cũng chưa hiết hết được. Đức Phật Thích Ca nói - đại ý:"Những điều ta nói như nắm lá trong bàn tay của ta, nhưng những điều cần biết như lá trong rừng Kỳ Đà sau lưng ta. Bởi vậy các người cần phải tiếp tục hoàn thiện chân lý". Tất nhiên con người tôi, cái cá nhân nhỏ bé này làm sao mà đi đến tận cùng chân lý được. Nhưng nếu nó chỉ là một vấn đề trong vạn ức vấn đề thì khác. Và ngay cả việc đi tìm chân lý thì dù trong cuộc đời này tôi chưa thể tìm ra, nhưng không thể vì thế mà không đi tìm và xác minh cho chân lý.Nhưng ngay cả điều này - có thể anh đúng thì không có nghĩa là "Dương tịnh, Âm động" là sai và "Âm tịnh, Dương động" là đúng. Mà chúng ta đang bàn về đề tài này mà, phải không anh? Bởi vậy, chúng ta nên đi vào chủ đề chính. Anh viết: Thành thật để trả lời anh rằng: Tôi không hề yêu cầu học sinh của tôi phải tin tôi, mà tôi yêu cầu họ hãy so sánh tính hợp lý giữa cổ thư chữ Hán và những lập luận của tôi. Tôi không bắt được họ phải tin tôi. Hơn nữa, bản thân họ hầu hết đều có trình độ từ Đại học trở lên. Họ thùa khả năng tư duy độc lập để so sánh sự mù mờ trong cổ thư chữ Hán và những luận cứ của tôi. Còn nữa, luận điểm của tôi chỉ mới xuất hiện hơn 10 năm kể từ cuốn sách đầu tiên mới xuất bản - so với cổ thư chữ Hán trải ít nhất 2000 năm theo luận điểm của tôi và trên 5000 năm theo cách nhìn của người Hán và thế giới - thì tôi có thể khẳng định rằng: Nếu không có tính hợp lý, chắc chẳng ai gọi tôi là thày cả. Anh cho rằng "" Khôn cũng chết ,dại cũng chết , chỉ có biết là sống". Vậng! Tôi cũng hiểu điều này và còn nhiều điềun liên quan đến nó. Nhưng đó cũng không phải là luận điểm chứng minh tính đúng sai trong thuộc tính của cặp phạm trù Âm Dương. Nhưng nếu cái chết của con người xác định sự khôn dạ và cái biết của con người xác định sự trường thọ - thì tôi nghĩ rằng thế gian này chẳng ai khôn, chẳng ai dại, chẳng ai biết . Vì cuối cùng đều chết cả. Và điều này cũng không minh chứng được gì cho đề tài của chúng ta "Âm tịnh, Dương động" theo cổ thư chữ Hán đúng , hay "Dương tịnh, Âm động" nhân danh nền văn hiến Lạc Việt trải gần 5000 năm lịch sử đúng.Tôi mai tôi sẽ phân tích tiếp bài viết của anh liên quan trực tiếp đến Đông là chuyên môn của anh để làm sáng tỏ chân lý. .
    1 like
  26. Anh Longtuyên thân mến. Đây là một đoạn trong bản dịch Hoàng Đế Nội Kinh tố vấn của cụ Quan Đông Hoa. Trong bản dịch này cũng nói giống như đoạn anh đã dẫn. Để bảo đảm tính khách quan, tôi đưa đoạn văn dịch này lên đây: Như vậy là những bản Hoàng Đế liên quan đều nói đến Âm tịnh Dương động. Nhưng tôi vẫn cho rằng: Bản văn và thậm chi ngay cả di vật khảo cổ, nếu có ghi nhận những điều này thì điều này chỉ là sự minh chứng cho một lý thuyết và nó không phải bản thân lý thuyết đó. Ở đây tôi chưa nói đến khả năng có sự thêm thắt của người đời sau. Toàn bộ bản văn trên, nếu ta bỏ ngay câu "Âm tịnh - Dương động" thì câu văn vẫn nguyên gía trị. Chúng ta son sánh lại hăi đoạn dưới đây: 1 - Để nguyên văn. 2 - Bỏ câu "Âm tịnh - Dương động". Như vậy , chúng ta thấy rằng: Câu "Âm tịnh , Dương động" hoàn toàn không ăn nhập gì đến đoạn văn trên. Bởi vậy giả thiết đoạn này do người đời sau thêm vào hoàn toàn có cơ sở. Có thể người đời sau thêm vào ngay trong bản viết tay từ gốc chữ Hán.Bây giờ chúng ta xét tới đoạn văn anh trích dẫn: 1 - Nguyên văn: 2 - Bỏ câu "tĩnh là Âm, động là dương". Như vậy, chúng ta cũng thấy rằng: Nếu bỏ câu "Âm tịnh, Dương động" thì đọan văn liền mạch. Còn có câu "Âm tịnh, Dương động" không hề lý giải một trường hợp nào liên quan đến toàn văn cả. Bởi vậy, tôi vẫn tin vào điều mà tôi cho rằng: "Dương tịnh, Âm động" là một luận điểm nhất quán và hợp lý liên quan đến toàn bộ học thuyết Âm Dương Ngũ hành. Còn v/d anh cho rằng: "Âm trước Dương sau" là không có cơ sở hợp lý từ khởi nguyên vũ trụ. Trong qua trình tiến hóa của vũ trụ, khi phân loại vạn vật - cụ thể là "Nam là Dương, Nữ là Âm", Nhưng với hai vợ chồng khi người nữ sinh con trai. thì vẫn không thể nói là "Người nữ - mẹ là Âm trước và người con trai là Dương sau được". Lúc này người mẹ chính là Dương so với người con trai là Âm. Bởi vậy, cô thư chữ Hán truyền lại, nếu đúng hoàn toàn và hợp lý trong nội dung của nó thì mọi việc đã sáng tỏ từ lâu rồi. Chính vì những sai lệch mà khiến sự huyền bí và bế tắc đến tận bây giờ. Chắc anh cũng biết rất rõ rằng: Khi mà các phương pháp ứng dụng khác của thuyết Âm Dương Ngũ hành, như Tử Vi, Bốc Dịch...Bị cấm đoán một thời vì coi là mê tín dị đoan. Chỉ duy nhất có Đông y - cũng ứng dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành - được tôn trọng và được chính thức nghiên cứu từ rất lâu. Nếu tôi nhớ không nhầm thì ở Việt Nam Viện nghiên cứu Đông Y thành lập từ 1956. Nhưng hậu quả ra sao thì chúng ta đều biết - Hiệu quả lớn nhất của nó chỉ là tập hợp được các bài thuốc và hoàn toàn không phát triển được về lý luận và nay nó đã giải tán. Mà những nhà nghiên cứu Đông Y thời đó đều là những bậc tiền bối uyên bác. Ngay cả Trung Quốc - một nới được coi là cội nguồn của Đông Y - chính những nhà khoa học hàng đầu của họ cũng hô hào bỏ Đông Y cũng vì tính mơ hồ trong phương pháp luận và không phát trển được về mặt lý luận. Qua những bài viết của anh, tôi tin rằng anh rất nghiêm túc trong tranh luận học thuật và thực sự muốn tranh luận để cầu tìm chân lý. Bởi vậy, tôi thành tâm mà khẳng định rằng: Tôi hoàn toàn rất vui vẻ khi được tranh luận với anh. Nếu tôi sai thì sẵn sàng xem xét lại toàn bộ vấn đề. Nhân đây tôi cũng thành thật trình bày với anh là: Tôi đang cùng với cụ Quan Đông Hoa để diễn giải lại toàn bộ cuốn Hoàng Đế Nội Kinh. Cụ Quan Đông Hoa phụ trách diễn giải phần lâm sàng, còn tôi thì ứng dụng nguyên lý "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" và các mệnh đề liên quan đến thuộc tính của Âm Dương để diễn giải phần lý luận. Hiện nay do công viếc qua bận rộn, nên tiến độ rất chậm. Tôi hy vọng rằng tính hợp lý, nhất quán và hoàn chỉnh của các vấn đề liên quan, sẽ làm sáng tỏ sự huyền bí của Đông Y và tiếp tục mở ra một hướng nghiên cứu mới cho việc phục hồi lại những giá trị của nó. Cảm ơn sự quan tâm của anh.
    1 like
  27. Kính thưa quí vị quan tâm. Tôi xin phép được lấy đoạn viết của anh Vuivui về những luận điểm của tôi, làm điểm dừng trong loạt bài phân tích về thuộc tính của Âm động - Dương tịnh. Anh Vuivui viết: Thưa quí vị quan tâm Anh Vuivui đã nói đúng. Tôi đã làm thay đổi nhiều điều quan trọng trong nếp nghĩ của con người từ hàng ngàn năm nay và của đại bộ phân con người có quan tâm đến học thuật cổ Đông phương trên thế giới. Điều này là một thực tế. Cái thay đổi căn bản nhất là chứng minh rằng: Cội nguồn văn hóa cổ Đông phương thuộc về văn minh Lạc Việt và không phải Hoa Hạ. Cơ sở của sự minh chứng này là nguyên lý căn để của Lý học Đông phương - cụ thể là thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là: Hà đồ là đồ hình căn để có tính nguyên lý trong mọi phương pháp ứng dụng và Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ, chứ không phải là Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư như cổ thư chữ Hán nói tới. Trên cơ sở này, những hệ thống ứng dụng khác như Bảng Lục thập hoa giáp theo cổ thư chữ Hán được thay bằng bảng Lạc Thư hoa giáp - đổi vị trí thủy hỏa và từ đó - do lấy Hà Đồ làm nguyên lý căn để - hiệu chính môn Tử Vi vốn được coi là của Trần Đoàn thành Tử Vi Lạc Việt. Cũng từ đó, tồng hợp phục hồi lại từ những mảnh vụn, rời rạc của môn phong thủy đã thất truyền từ khi văn minh Việt sụp đổ ở miến Nam Dương Tử thành Phong Thủy Lạc Việt. Hiệu chỉnh lại những sai lầm do ngộ nhận của các học giả Hán đời sau như Chu Hy, Chu Đôn Di, để hiệu chỉnh lại những thuộc tính khái niệm liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành thí dụ như "Dương tịnh, Âm động" và "khí"(*)...........Tử đó chỉ thẳng đến vấn nạn của tri thức khoa học hiện đại: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một lý thuyết thống nhất vũ trụ và dân tộc Việt là nền văn hóa duy nhất nắm giữ những bí ẩn này. Tất cả những điều tôi đã làm đó, không hề làm đảo lộn mà chỉ là sự hiệu chỉnh với mục đích đi tìm chân lý và là một phương tiện sắc sảo để minh chứng cho một mục đích tối thượng của tôi là: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến với quốc hiệu Văn Lang. Dân tộc Việt một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử - Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục và Đông giáp Đông Hải từ hơn 2000 năm trước. Tôi chỉ minh chứng cho một chân lý và không hề làm đảo lộn mọi thứ. Mọi nhận thức của cái gọi là theo sách Tàu thực chất là sách Việt từ thời cổ sử bị sai lệch cần hiệu chỉnh, chứ không hề phủ nhận. Thiên Sứ tôi có thể sai và sẵn sàng chấp nhận sai nếu ai đó phản biện, minh chứng Thiên Sứ sai , dù chỉ một mắt xích trong hệ thống luận điểm của tôi, mà bản thân tôi không biện minh được. Nhưng đó phải là những phản biện nghiêm túc trên tinh thần học thuật thật sự, chứ không phải là những lời chỉ trích, đả kích và châm chọc như những kẻ thất phu. Thiên Sứ tôi sẵn sàng tiếp thu ý kiến của những học giả phản biện một cách nghiêm túc và suy ngẫm từ những ý kiến của quí vị. Tôi cũng hy vọng rằng quí vị cũng sẽ suy ngẫm một cách nghiêm túc từ những luận điểm của tôi trước khi phản biện. Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
    1 like
  28. Anh Longtuan thân mến. Anh viết: Tôi hỏi vậy, không phải là không tin anh đã dẫn sách. Tôi tin điều đó. Nhưng tôi muốn chứng nghiệm sự suy nghĩ của tôi là: "Cuốn sách ấy phải có sau thời Tống" và khi anh nói là của cụ Hải Thượng thì chứng nghiệm sự suy nghĩ của tôi là đúng. Bởi vì chỉ sau Tống mới xuất hiện quan điểm Âm tịnh Dương động còn trong các cổ thư thật sự liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành thì không hề có luận điểm này. Cụ Hải Thợng là một người tinh thông ứng dung y thuật. Nhưng điều đó không có nghĩa là cụ sẽ tinh thông và uyên áo về lý học. Chẳng qua cụ cũng suy ra từ luận điểm sai lầm của Chu Hy mà thôi. Anh và mọi người có thể đặt vấn đề: Cụ Hải Thượng là một bậc danh y không lẽ lại sai? Đây không phải là một câu phản biện. Tôi phân tích điều này ngay bây giờ trong bài này sai lầm của cụ Hải Thượng về lý Âm Dương. Bởi vậy, ngoài câu hỏi trên, tôi còn hỏi anh có quan niệm thế nào về Âm Dương để chúng ta cùng thống nhất tiêu chí và phân tich. Anh Longtuan viết: Chắc anh và tất cả những ai nghiên cứu sâu về Lý học thì đều biết những mệnh đề miêu tả thuộc tính về Âm Dương như sau: - Dương trước - Âm sau. - Âm thuận - tùng Dương. Và lấy ngay những nhận xét về Âm Dương trong câu viết của cụ Hải Thương mà anh dẫn là: - Dương làm ra chính khí để sống ,âm làm việc giữ gìn để đứng vững cho nói là kỷ cương của muôn vật . - Huyết là Âm, Khí là Dương. Trên cơ sở những tiêu chí này, (có một tiêu chí liên quan đến lý luận Đông Y) chúng ta quán xét vấn đề Âm dương động tịnh. I - Tính chất Âm tịnh - Dương động theo Chu Hy (Tống Nho). 1 - Nếu nói Âm tịnh, Dương động thì suy ngược lên khởi nguyên của vũ trụ Dương Động là cái có trước, vậy trước Dương Động là cái gì so với nó để gọi là Dương Động? Không lẽ trước cái Dương Động này lại là Âm tịnh?! Vậy là Âm trước Dương sau chăng? Điều này rõ ràng phi lý với mệnh đề "Dương trước Âm sau". Âm sau tịnh thì muôn vật này là Âm tinh hay sao? 2 - Xét về trạng thái: Lý là Dương - vật là Âm. Nếu nói Âm tịnh thì phi lý với thực tế quan xét được: Vật chất luộn luôn vận động. 3 - Với mệnh đề của chính Cụ Hải Thượng viết: So với sách cổ viết: "Khí nhẹ và trong bay lên thành trời, khí nặng và đục tụ xuống thành đất". Lại viết "Khí tụ thành hình" Như vậy, rõ rành là khí có trước thuộc Dương, vật có sau thuộc Âm". So với câu "Khí thuộc Dương, Huyết thuộc Âm" thì nếu Âm tịnh thì làm sao huyết lưu thông? Khí Dương động thì làm sao tụ?Bởi vậy, quan niệm của Chu Hy là một sai lầm. Cụ Hải Thương đã sai lầm khi tiếp thu ý kiến của Chu Hy và hoàn toàn sai khi viết: Âm dương kìm giữ nhau tắc bế vì làm sao giao hòa mà tuơng sinh và phát triển? Dương bị Âm sai khiến thì rõ ràng mâu thuẫn với mệnh đề "Dương trước Âm sau. Âm thuận tùng Dương". Phần chứng minh trên cho thấy sai lầm của Tống Nho và ảnh hưởng đến bây giờ. Người Hoa Hạ không phải chủ nhân đích thực của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bởi vậy, sau khi nền văn hiến Việt sụp đổ ở Nam Dương tử . Những học giả Hoa Hạ cố gắng tìm hiểu , giải nghĩa trải hơn 2000 năm, đến nay vẫn bế tắc. Vì một tri thức đồ sộ mà họ không thể tiếp thu nổi. Nếu quả là chủ nhân của thuyết Âm Dươntg Ngũ hành thì bản thân xã hội Hoa Hạ phải có một nền tảng tri thức phổ biến làm tiền đề cho học thuyết xuất phát từ nền văn hóa đó. Nếu thế thì họ chẳng việc gì mà cho đến hôm nay phải mày mò đi tìm bản chất của những khái niệm ghi nhận bằng chính ngôn ngữ của họ. Thí dụ như chính văn kinh Dịch chỉ viết: "Thái Cực sinh lưỡng nghi". Cho đến đời Tống, chính Chu Hy vẫn còn chẳng hiểu Thái Cực là gì, gán đại cho nó một khái niệm mới là Vô cực rồi giải thích vòng vo. Vậy mà đời sau cứ thế mà học thuộc lòng : Thái Cực là Vô cực. Cái Âm tinh Dương động cũng từ ông này mà ra. II - Tính chất Dương tịnh Âm động theo văn hiến Việt. Tôi đã phân tích sự chuyển hóa từ "Thái Cực sinh lưỡng nghi" , nên bây giờ không viết lại. Nhưng chính vì vậy mà xác định Âm đông Dương tịnh từ khởi nguyên của vũ trụ. Khái niệm này giải thích một cách hợp lý hầu hết những v/d liên quan đến nó. Nhưng vì Âm Dương là một khái niệm mang tính đối đãi phân biệt. Bởi vậy khi ứng dụng nguyên lý Âm động Dương tịnh vào thế giới vật chất luôn động, thì sự chính xác của nó là khả năng phân biết tính đối đãi cái nào là Dương, cái nào là Âm mà thôi. Tôi thí dụ ngay trong câu của cụ Hải Thương mà anh Longtuyen trích dẫn: Chúng ta đều biết rằng: Cả "Khí" lẫn "huyết" đều động so với sự quán xét của con người, cụ thể là những bạn đang tham gia thảo luận và đang xem trong topic này. Bởi vậy - vì tính động của cả "khí" lẫn "huyết" - nên chúng ta có thể bào là : Chúng đều là "dương động" theo sách Hán, hoặc đều là "Âm động" theo văn hiến Việt chăng? Nhưng nếu theo văn hiến Việt thì tất cả vật chất đều động và đều là Âm thì hoàn toàn chính xác. Nhưng theo sách Hán thì không lẽ tất cả vật chất đều là Dương thì cái gì là Âm? Quay trở lại sự tương quan "Khí" và "huyết". Khi đã có sự so ánh tương quan giữa hai trạng tahí tồn tại, thì phải xét một cái Âm một cái Dương. Nếu đã coi "Huyết là Âm" thì huyết phải tịnh theo sách Tàu chứ nhỉ? Nhưng trên thực tế quán xét thì rõ ràng nếu tụ huyết (Huyết Âm tịnh) thì chắc là phải - nhẹ thì chích huyết , nặng thì ...chết. Còn khí thì chúng ta cũng nhận thấy rằng chúng vô hình trong trực giác của con người. Nhưng vẫn nhận thấy sự tồn tại của nó qua phương pháp châm cứu. Huyệt trong cơ thể người chính là khí tụ. Khí động như huyết thì làm sao tụ. Bởi vậy khí thuộc Dương là vậy. Dương thi tịnh. Cái tịnh này trong thế giới vật chất chỉ là tương đối giữa "khí là Dương" và "Huyết là Âm" mà thôi. Trong thế giới vật chất sau khi hình thành vũ trụ - muôn vật đều động - thì vấn đề ở chỗ chúng ta phân biết đâu là Âm, đâu là Dương. Chính bởi sự phân biệt này - mà này sinh sự ngộ nhận quan điểm của Chu Hy. Nhưng đã là một lý thuyết thì phải có tính nhất quán trong khái niệm căn bản từ khởi nguyên vũ trụ cho đến mọi vấn đề liên quan đến nó.
    1 like
  29. Anh Vuivui thân mến. Tôi rất hân hạnh được anh quan tâm và phản biện luận điểm của tôi. Tôi hy vọng rằng: Với sự phản biện của anh thì mọi việc mới có thể sáng tỏ. Bởi vậy, tôi thực sự không hề buồn khi được anh quan tâm phản biện. Tôi thực sự không phải là người bảo thủ và sẵn sàng chấp nhận sai, nếu như không thể biện minh dù chỉ là một mắt xích trong hệ thống lý luận. Bởi vậy với luận điểm của anh dưới đây - xin được trích lại - để cùng quán xét: Anh Vuivui thân mến.Qua đoạn trích dẫn trên thì chúng ta cùng nhận thấy rằng: Thế giới vật chất luôn luôn động. Dù đó là hạt vật chất nhỏ bé nhất cho đến cả vũ trụ mênh mông này. Do đó, nếu quan niệm "Dương động" như Chu Hy thì cả thế giới vật chất này là Dương chăng? Vậy Âm tĩnh sẽ là cái gì? Bởi vậy, khái niệm Dương Âm trong phân loại vật chất chỉ là đối đãi tương đối. Động tịnh cũng chỉ là tương đối trong thế giới vật chất thuộc toàn thể vũ trụ này. Nếu chúng ta quán xét riêng mặt trời thì đúng như anh nói: Mặt trời đang động từ hạt ánh sáng - Dương Quang cũng đang động. Nhưng đấy là chúng ta đang quán xét một thực thể biệt lập là mặt trời. Thì cái động của mặt trời so với chính nó. Nếu nói cái động của mặt trời là Dương thì cái gì là Âm tĩnh so với chính nó? Bây giờ ta mở rộng sự quan sát tương quan giữa hai vật thể: Trái Đất so với Mặt trời - theo như anh thì: Như vậy theo luận điểm từ Chu Hy - mà anh minh chứng để phản biện - thì mặt trời Tĩnh thuộc Âm và trái Đất động là Dương chăng? Rõ ràng điều này phi lý trong mối tương quan với các giải thích khác của thuyết Âm Dương Ngũ hành: Trời Dương Đất Âm. Bây giờ chúng ta lại xét đến tương quan ba vật thể: Mặt trời, trái Đất, mặt trăng. Điều này sẽ cho thấy: Mặt trặng động so với trái Đất và Trái đất Động so với mặt trời. Nếu theo quan điểm "Dương Động, Âm tịnh" của Chu Hy thì cái nào là Âm, cái nào là Dương? Nếu áp dụng quan điểm của Chu Hy thì Mặt trời tịnh là Âm, Mặt trăng động là Dương chăng? Rõ ràng đây là điều phi lý với tất cả các phương pháp ứng dụng trong Lý học Đông phương của chính những gì mà cổ thư chữ Hán ghi lại. Ngay cả tên gọi của nó: Mặt trời Thái Dương, mặt trăng Thái Âm. Tại sao những học giả Hán Nho lại có những sai lầm mâu thuẫn như vậy? Câu trả lời hợp lý trên toàn bộ vấn đề chính là: Họ không phải chủ nhân đích thực của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Họ chỉ tiếp thu một cách rời rạc và sai lệch những mảnh vụn của nền văn hiến Lạc Việt một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương tử. Trước một tri thức lớn lao - Lý thuyết thống nhất vũ trụ - vượt qua cả tầm hiểu biết của tri thức hiện đại - nên họ đã giải thích sai lầm của tư duy thế kỷ thứ X sau CN. Nhưng nếu chúng ta sử dụng khái niệm "Dương tinh Âm động" để ứng dụng giải thích những vấn đề liên quan đến nó thì chúng ta thấy một sự hợp lý trùng khớp với tất cả những gì đang ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành , nhân danh quan điểm lịch sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến. Rất cảm ơn sự quan tâm của anh. Thân . Thiên Sứ
    1 like
  30. Anh Longtuan viết: Tôi đồng ý với lời anh dẫn từ cụ Hải Thượng : Nhưng vấn đề Dương tịnh Âm đông ứng dụng khi quan xét hiện tượng - vốn luôn luôn động - thì thế nào là tịnh, thế nào là động để xác quyết "Âm Tịnh Dương động" hay "Âm động, Dương tịnh" lại là chuyện khác.Thí dụ như: Ban ngày là Dương thì tịnh - bởi ánh Dương Quang có căn gốc từ mặt trời là Tịnh so với trái Đất động. Ban đêm là Âm động bởi Nguyệt Ảnh có căn gốc từ mặt Trặng là Động so với trái Đất. Do đó - cả mặt trời mặt trăng , Dương quang, Nguyệt Ảnh đều động - thì việc phân biệt tịnh động mang tính nguyên lý lý thuyết và phải nhất quán. Tôi trộm nghĩ: Kết luận Dương động, Âm tịnh từ thời Chu Hy chính là sự ngộ nhân từ thế giới Hậu Thiên luôn vận đông mà thôi. Nếu anh có ví dụ cụ thể, tôi sẽ xin đợc phân tích rõ và cụ thể hơn. Vài lời chia sẻ, cảm ơn sự quan tâm của anh.
    1 like
  31. Anh Longtuan thân mến. Tôi xin tường thêm rằng: Việc hiệu chỉnh và sửa chữa những khái niệm và sai lầm của người Trung Hoa khi tiếp thu học thuyết Âm Dương Ngũ hành của nền văn hiến Việt, không có nghĩa tôi phủ định tất cả. Một thì dụ sinh động cho việc này là việc đổi chỗ Thủy Hỏa trong lục thập Hoa Giáp và nguyên lý "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" dẫn đến sự hiệu chỉnh tử vi vốn được coi là của Trần Đoàn lão tổ với tên gọi mới là Tử Vi Lạc Việt. Rõ ràng Tử Vi Lạc Việt không hề phủ định những giá trị đã có mà chỉ là sự hiệu chỉnh và ứng dụng có quy luật, hợp lý với sự minh chứng rõ hơn - mắc dù chưa phải là tất cả - tính khoa học của môn phương pháp dự báo - vốn một thời bị miệt thị của giới khoa học coi là "mê tín dị đoan" - Những người biết xem tử vi vẫn ứng dụng Tử Vi Lạc Việt và xem chính xác. Hoặc thí dụ khác: Việc hiệu chỉnh và sửa chữa tương tự sách Hán trong phong Thủy đã dẫn đến hệ quả là Phong Thủy Lạc Việt ra đời. Minh chứng một cách khoa học môn phong Thủy. Một học viên lớp Phong Thủy Lạc Việt II - mới học được gần 1/2 chương trình (Học có 5 - 6 tháng nay) đã cho những phán đoán chính xác về thực trạng của con người qua sơ đồ một ngôi nhà. Anh có thể tham khảo điều nầy qua đường link dưới đây: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...amp;#entry33243 Còn về khả năng dự báo của Lạc Việt độn toán thì đã chứng nghiệm trên các diễn đàn Lý số từ năm 2004 qua những lời tiên tri. Bởi vậy, tôi tin rằng: Sự hiệu chỉnh và ứng dụng thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh quan điểm văn hiến sử Việt trải gần 5000 năm với nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ" và bảng "Lạc Thư hoa giáp" cùng một số vấn đề liên quan như Dương tịnh, Âm Dộng.....sẽ làm sáng tỏ tính khoa học trong Đông Y và phát triển được một học thuật cổ truyền Đông phương không bị mai một. Trong thực tâm tôi rất tha thiết mong muốn hợp tác với các nhà chuyên môn về Đông Y để phục hồi lại về bộ môn này.
    1 like
  32. LUẬN ÂM DƯƠNG Anh Vuivui thân mến. Như tôi đã trình bày ở trên: Âm Dương là hai khaí khái niệm căn bản cấu thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nhưng đồng thời nó cũng là sự khái quát hóa của mọi hiện tượng trong vũ trụ từ sau khởi nguyên được coi là Thái cực. Do đó, những thuộc tính của nó cần được xác định một cách nhất quán trong toàn bộ học thuyết này. Bởi vậy: Dương hoặc Âm không thể vừa tịnh - vừa động. Tức là không thể cả hai luận điểm - "Dương tịnh Âm động" và "Dương động Âm tịnh" đều đúng. Để xác quyết vấn đề này, chúng ta lại cần trở lại trạng thái từ khởi nguyên của vũ trụ. Khi Thái Cực - tuyệt đối - chí tịnh, hoặc chí động là không thể luận bàn, mà tôi đặt ký hiệu tốc độ vũ trụ = /0/ - nhưng khi "cái đối đãi" với Thái cực ra đời thì Thái cực trở thành "Dương trước" và "cái đối đãi" với nó chính là "Âm sau". So với Thái Cực thì "cái đối đãi" với nó và tương tác với Thái Cực đã phát triển thành vũ trụ như hiện nay. Vật chất trong toàn thể vũ trụ luôn vận động và so với cái đối đãi ban đầu - ["Dương trước" / Thái cực] thì nó là Âm. Vật chất chính là một khái niệm của khoa học hiện đại nằm trong phạm trù "Âm" của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bởi vậy, quan niệm "Âm đông" của thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt - chính là phù hợp với thực tế quan sát được của vật chất và quan niệm về thuộc tính của vật chất luôn vận động trong khoa học hiện đại. Tất nhiên, đối đãi với Âm động thì Dương phải tịnh. Điều này cần xác định nhất quán về thuộc tính căn bản, có tính lý thuyết trong hệ thống lý thuyết của thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh quan điểm văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Nhưng khái niệm Âm Dương và thuộc tính của nó "Dương tịnh Âm động" - một mắt xích quan trong của học thuyết nhất quán Âm Dương Ngũ hành - không chỉ ứng dụng để giải thích duy nhất trường hợp "Thái cực sinh lưỡng nghi" ở trang thái khới nguyên của vũ trụ, mà nó còn phải ứng dụng một cách nhất quán trong toàn bộ lịch sử vũ trụ để giải thích mọi hiện tượng liên quan. Khi khái niệm Âm/ vật chất - xuất hiện thì trong mối tương tác của vật chất cũng phân Âm Dương (Âm/ vật chất - được phân loại theo thuyết Âm Dương Ngũ hành - chính là Ngũ hành. Nhưng đây tạm thời không phải chủ để thảo luận của topic này). Chính trong sự phân Âm Dương trong tính tương đối của sự động Âm/ vật chất, trong toàn thể vũ trụ này, nên có thể thấy tất cả những cái được coi là Dương - trong Âm/ vật chất - đều vẫn động. Bởi vậy, luận điểm "Dương tịnh - Âm động" chính là tính đối đãi tương đối khi giải thích các sự vận động tương tác trong vũ trụ hiên nay và xác quyết tính đúng sai của luận điểm này. Bởi vậy tôi đồng quan điểm với anh, khi anh viết: Nhưng vấn đề ngày và đêm trên trái Đất thì lại không phải trái Đât tự quay quanh trục gây ra. Chúng ta giả thiết rằng: Trái Đất ngừng quay thì vẫn có ngày và đêm ở 1/ 2 bên này hay bên kia của Trái Đất - Trái Đất quay quanh trục thì chỉ tạo ra sự chuyển hóa Ngày và Đêm thôi. Tức chuyển hóa Âm Dương (Đây chính là một yếu tố rất quan yếu cho sự phát triển sự sống trên trái Đất, giải thích theo thuyêt Âm Dương Ngũ hành).Quan niệm cho rằng: Nếu lấy sự sinh hoạt của sinh vật trên Trái Đất để luận thuộc tính Âm Dương trong quan hệ Ngày - đêm , thì theo tôi - đây là một sự xác định sai đối tượng trong mối quan hệ Ngày và Đêm. Bởi vì sự quan sát hoạt động sinh vật trên trái Đất, không phản ánh một khái niệm có tính bao trùm và giải thích mọi hiện tượng vũ trụ, qua khái niệm Âm Dương và thuộc tính của nó trong thuyết Âm Dương ngũ hành liên quan. Bởi sự hoạt động của các sinh vật lệ thuộc vào Ngày và Đêm, chứ nó không quyết định tính Ngày và Đêm trên trái đất.Sự phân biệt Ngày Đêm trên trái Đất theo khái niệm Âm Dương, cũng không hề phụ thuộc vào chuyển động tự quay của trái Đất - như tôi đã trình bày ở trên. Mà nó phụ thuộc vào đối tượng tương tác với trái Đất liên quan đến ngày và đêm, khi chúng ta lấy đối tượng chịu tương tác này là Trái Đất. Bởi vậy, không hề có cặp ba như anh hiểu nhầm ý tôi: Mà chỉ có hai đối tượng tương tác với trái Đất để xác định là: Mặt trời và mặt Trăng. Để diễn ta một cách cụ thể hơn, tôi xin lấy ví dụ: Khi tôi quán xét hai vợ chồng trước mặt tôi thì không thể cả tôi vào là ba đối tượng , mà chỉ là hai cặp vợ chồng kia thôi. Vợ là Âm chồng là Dương. Bởi vậy, khi chúng ta phân loại Âm Dương và thuộc tính của nó trong mối quan hệ ngày và đêm trên trái Đất thì vấn đề là nguyên nhân tương tác trong mối quan hệ Âm Dương này chính là mặt Trời và mặt Trăng. Và mối quan hệ xác định Âm Dương này vẫn là sự đứng yên tương đối của mặt Trời và sự vận động tương đối của mặt Trăng với trái Đất đã xác định Dương Tịnh - Âm động một cách nhất quán với mênh đề căn bản của nó giải thích từ khởi nguyên vũ trụ với môi hiện tượng liên quan. Cảm ơn sự quan tâm của anh. Thân Thiên Sứ
    1 like
  33. Anh Vuivui thân mến. Rất xin lỗi anh vì đoạn sau đây tôi viết thiếu, do không tập trung: Xin bổ sung thêm là: Anh Vuivui thân mến.Tôi hoàn toàn đồng ý với anh trong luận điểm này: Nhưng đoạn sau đây chính là đề tài quán xét của chúng ta để tìm một chân lý địch thực rốt ráo trong việc tìm hiểu những giá trị của thuyết Âm Dương Ngũ hành: Và việc chúng ta quan tâm chính là từ đây - trích lại ở đoạn trên: Tôi nghĩ sự phủ định giữa hai quan niệm trái ngược hoàn toàn : "Dương tịnh - Âm động" và "Dương động - Âm tịnh" - là rất quan trọng. Bởi tính nhất quán và hoàn chỉnh của một học thuyết. Không thể trong cùng một học thuyết có hai khái niệm miêu tả khác nhau và mâu thuẫn nhau, cho thuộc tính của hai khái niệm căn bản lại cùng tồn tại - Cho dù học thuyết đó nhân danh khoa học hay duy lý. Nếu chúng ta dùng khái niệm "độc tôn" cũng không sai - vì chân lý chỉ có một mà thôi. Chúng ta dùng hình ảnh theo truyền thuyết - khi mà Đức Phật ra đời đã phát biểu: "Thiên thượng - Địa hạ, duy ngã độc tôn". Bởi vì chân lý chỉ có một. Trên cơ sở này thì chỉ có một luận điểm đúng: Hoặc "Dương tịnh - Âm động" đúng, hay "Dương động - Âm tịnh" đúng. Bởi vì đây chính là sự miêu tả thuộc tính hai khái niệm căn bản của học thuyết Âm Dương Ngũ hành. Do đó mà Thiên Sứ tôi sẽ chấp nhận sai và xem xét lại toàn bộ hệ thống luận điểm của mình khi khẳng định: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến - thông qua một trong những phương tiện sắc bén nhất là Lý học Đông phương - khi xác định thuộc về nền văn hiến Việt - Nếu một mắt xích quan yếu của hệ thống luận điểm này - "Dương tịnh - Âm đông" bị minh chứng là sai. Quan điểm: "Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử" phải được minh chứng một cách sắc sảo đủ ba yếu tố: - Thời gian lịch sử: gần 5000 năm. - Nội dung lịch sử: Nền văn hiến Việt - cụ thể là Lý học Đông phương có cội nguồn bởi Bách Việt, chứ không phải Hoa hạ. - Không gian lịch sử: Nam sông Dương tử. Tất cả ba điều kiên trên , đều nhất quán và hoàn chỉnh tuân thủ theo tiêu chí khoa học cho một giả thuyết khoa học và chỉ cần một yếu tố sai - không biện minh được - thí du như luận điểm "Dương tịnh Âm động" sai - thì Thiên Sứ tôi sẽ coi như toàn bộ hệ thống sai. Do đó, ngay cả việc: Chấp nhận một lúc hai quan niệm tịnh động với thuộc tính của Âm Dương đều đúng, thì Thiên Sứ tôi cũng bị coi là sai. Bởi quan điểm khoa học xác định rằng: Chân lý chỉ có một. Rất cảm ơn sự quan tâm của anh. Còn tiếp
    1 like
  34. Anh Vuivui thân mến. Trong những khái niệm, ngôn từ được diễn đạt thuộc thuyết Âm Dương Ngũ hành - cũng như những lý thuyết khoa học khác - tôi cũng thống nhất với anh là: Có những khái niệm là sự khái quát hóa hiện tương khách quan, như Âm Dương, Ngũ hành, Sinh - Vượng - Mộ ....Nhưng cũng có những khái niệm miêu tả thực tại khách quan, như: Động tĩnh, khí....Bởi vậy, trong việc tìm hiểu, phục hồi học thuyết này rất cần phân loại các khái niệm và danh từ. Mà điều chúng ta bàn ở đây là khái niệm Âm Dương. Đây là danh từ tổng hợp và khái quát hóa mọi hiện tượng vũ trụ từ khởi nguyên, mà khái niệm của nó là đối đãi, so sánh. Và điều chúng ta đang bàn ở đây là một trong những mệnh đề thuộc tính của nó là tính tịnh - Động của Âm Dương. Vì Âm Dương mang tính khái quát mọi hiện tượng, nên tính chất động tĩnh liên hệ với Âm Dương, cũng mang tính khái quát và tính tương đối sau khi vũ trụ vận đông và phát triển từ khởi nguyên. Từ cơ sở này, chúng ta xét đến vấn đề Dương tịnh - Âm động trong mối quan hệ giữa ngày và đêm. "Dương tịnh Âm Động" trong văn hiến Việt - giải thích vần đề ngày và đêm trên Địa cầu. Ban ngày hầu hết muôn sinh vật động, ban đêm hầu hết muôn sinh vật tĩnh; ban ngày là Dương, ban đêm là Âm - điều này ai cũng biết. Nhưng việc muôn sinh vật động vào ban ngày và tĩnh vào ban đêm có phải là cơ sở để kết luận Dương tịnh và Âm đông khi ứng dụng thuộc tính của Âm Dương trong việc lý giải các hiện tượng trên Địa Cầu không? Hoàn toàn không? Tại sao vậy? Bởi vì sự hoạt động và tĩnh lặng của sinh vật trên địa cầu là một thực tại vận động, không phải là khái niệm được khái quát hóa của Dương và Âm trong vũ trụ với thuộc tính động và tĩnh. Ban thân khái niệm "ban ngày" và "ban đêm" được phân Âm Dương, trong đó ban ngày thuộc Dương và ban đêm thuộc Âm cũng chỉ là sự phân loại hiện tượng trong khái niệm Âm Dương của thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt. Ban ngày là kết quả của ánh sáng mặt trời - Dương quang. Ban đêm là ảnh hưởng của mặt Trăng - Nguyệt ảnh. Bây giờ chúng ta xét mối quan hệ của mặt Trời , mặt Trăng và Trái đất với sự vận động tương đối của nó trong Thái Dương hệ với trái Đất là chủ thể vì chính con người sống vtrên trái Đất này quan sát và nhận thức vũ trụ - trong một quan niệm nhất quán là: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một một lý thuyết Vũ trụ - thì chúng ta thấy rằng: Với trái Đất thì mặt trời - Dương tịnh: Trái đất quay quanh nó và mặt trăng Âm động quay quanh trái Đất. Như vậy chúng vta thấy rằng: Quan niệm Dương tịnh - Âm động nhân danh nền văn hiến huyền vĩ Việt một thời hoàng Kim ở bờ nam sông Dưiơng tử là hoàn toàn nhất quán, hoàn chỉnh trong việc giải thích vũ trụ. Nhưng qua một hiện tương này, chúng ta lại càng thấy trí tuệ siêu việt của tổ tiên khí khái quát hóa mọi hiện tượng vũ trụ trong khái niệm Dương tịnh - Âm động trong sự vận động của Thái Dương hệ, mà mới cách đây 500 năm, người tiên phoing của thiên văn học hiện đại chút xíu thì lên dàn hỏa. Dương tịnh - Âm động trong việc giải thích mối quan hệ này chỉ là một hiện tượng rất nhỏ trong muôn ngàn bí ẩn của vũ trụ trong thuyết Âm Dương Ngũ hành một thời huyền bí. Vài lời tường sở ngộ. Cuộc đời bận rộn, nói không hết ý. Cảm ơn sự quan tâm của anh và quí vị.
    1 like
  35. Anh Thiên Sứ thân mến !. Đáp ứng lời đề nghị của anh, Tôi xin trao đổi cùng anh về một số vấn đề, mà qua đọc bài của anh, xem ra có vẻ như là then chốt,có vai trò như là khởi nguồn của những kết quả mang tính logic. Thưa anh Thiên Sứ. Bài trước, trong việc giải thích về sự xác định Ngày - động, Đêm - tĩnh. Tôi đã dừng lại ở đúng cái điểm cần chứng minh, mà không đi tiếp - thực chất là do bận - vào các suy luận của anh. Định vài bữa là sẽ vào trao đổi tiếp. Nhưng thời gian không cho phép. Hôm nay, thấy liên tiếp hai bài của anh, phát triển và hệ thống lý luận dẫn đến kết quả Dương - tinh, Âm - động của Anh. Để tránh sự quá dài cho sự trao đổi sau này. Tôi cố gắng thu xếp thời gian vào đây. Nhận xét sơ lược toàn bộ ý tưởng và lập luận qua mấy bài, chủ yếu là hai bài cuối thì phải thấy rằng: -Suy luận của anh về mặt logic là có tính hệ thống. Điều này khiến cho những người phản biện rất khó vạch ra những lỗi mang tính hệ thống. Mà điều này nếu không làm được, thì về mặt lý luận, sẽ đương nhiên phải công nhận những hệ quả mang tính lô gic mà anh đã đạt được. -Biện chứng của anh thuyết phục bởi tính phong phú của dẫn chứng, dẫn giải. Điều này rất dễ khiến người đối thoại bị "cuốn theo chiều gió". Mà nếu không bị cuốn theo chiều gió thì việc trình bày luận cứ phản biện sẽ rơi vào trạng thái hỗn loạn. Tự nhiên tính phản biện sẽ thiếu sức thuyết phục. -Tư duy của anh mang tính khái quát cao. Thể hiện khả năng khái quát của anh. Đây là lợi điểm cho người phản biện, bởi chỉ cần ngắn gọn, súc tích là anh đã có thể "nối vòng tay lớn". Nhưng sẽ dễ đẩy đối phương đến "lý sự cùn" nếu như không đủ khả năng khái quát vấn đề. Đặc điểm này đã dẫn đến tình trạng trên các diễn đàn mà anh đã "đi qua" là sự hỗn loạn với tâm lý ấm ức trong tranh luận với anh của nhiều người. Mà cụ thể là thường dẫn tới những thái độ mất cân bằng trong tranh luận với anh, bởi tranh luận thì không đủ lực, nhưng hệ quả mà anh đã suy ra lại trái với những gì truyền thống mà họ đã thu nhận được. Còn một số đặc điểm nữa, thiết nghĩ không cần phải nêu ra đây nữa. Mà chỉ với ba đặc điểm trên, đã khiến, nếu Tôi không vì thái độ khiêm hòa của anh, chắc cũng phải suy nghĩ cân nhắc khi trao đổi cùng anh. Bởi trao đổi với Anh đâu có Dễ. Tôi xin phép bắt đầu: Như anh viết: Bây giờ chúng ta vẫn nhất quán với giả thiết là mệnh đề "Dương trước Âm sau" là đúng - như đã dùng giả thuyết này để minh chứng quan niệm "Dương động - Âm tịnh" trong cổ thư chữ Hán là sai. Nhưng với giả thiết này thì nó lại minh chứng cho quan niệm "Dương tịnh - Âm động" - nhân danh quan điểm xác định nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Thì chúng ta phải thấy ở đây: mệnh đề "Dương trước âm sau" cũng như "Dương động âm tĩnh" hay "Dương tĩnh âm động" gì gì đi chăng nữa không phải là mệnh đề Gốc, để từ đó có thể xác lập những tiên đề. Đây là điểm then chốt. Bởi Anh đã xuất phát từ đây, đúng ra là Anh cần phải đi Xuôi, thì Anh đã đi Ngược !. Tại sao vậy ?. Bởi vì rằng: Chúng ta đã biết Âm - Dương là Lưỡng nghi. Vốn không phân biệt. Dừng ở Lưỡng nghi là không phân biệt. Như Trái với Phải là tương đương. Cao với Thấp là tương đương. Thiên với Ác là bất phân. Nhân với Quả là giống nhau, nên nhà Phật có câu: Sống với Chết đâu có phân biệt. Bởi vậy Cao tăng đắc đạo đâu có sợ chết. Họ dùng cách ngôn: Chết là Viên tịch. Là sự Trở Về, ứng với khi Sống là sự Đi. Nhờ sự xác định Lưỡng nghi mà Không - Thời gian mới Đẳng Hướng !. Mà nguyên lý quan tính của Newton, nguyên lý tương đương của Einstein, các phép biến đổi Gallileo hay Lorentz mới tồn tại. Mặc dù các nhà Vật lý hay Triết học Tây phương hoàn toàn không biết gì đến Âm - Dương. Nhưng Hệ thống Nhị nguyên luận của triết Tây và Âm dương của triết Đông đã đồng hành với nhau trên hai phương trời cách biệt Tây - Đông cả hàng ngàn năm. Đã là Nhị nguyên luận, thì tính đồng đẳng là trên hết, mang nội dung đối lập và thống nhất. Bởi thế Âm - Dương, như cách phát biểu của Tây phương, đó là Cặp phạm trù. Thì chúng Đồng "sinh" - Đồng "tử". Hay nói đúng hơn, là không có khái niệm sinh hay tử. Khái niệm Động - Tĩnh, Trước - Sau cũng vậy. Vốn nó là cặp âm dương. Động - Tĩnh không phải là Cặp phạm trù, mà là Cặp trạng thái vận động của vạn vật. Đây là điểm then chốt: Là trạng thái vận động. Chứ không phải là phạm trù. Phạm trù có tính phổ quát hơn rất nhiều, còn trạng thái tuy tổng quát, nhưng chúng thuộc về những đối tượng. Do đó, Cổ nhân, khi nói Âm Dương - Lương nghi được Sinh thì có Thái cực. Chứ không thể nói Dương sinh Âm hay ngược lại ở thể Lưỡng nghi. Mà mệnh đề đó thuộc về Tứ Tượng. Nên nói Thái cực là khởi nguyên của Vũ trụ thì được, chứ Thái cực không phải là khởi nguyên của Vạn vật. Vạn vật có được phải sau Tứ Tượng. Đối với Đông phương, còn phải sau Bát quái nữa, một khi có mặt của Ngũ hành !. Có nghĩa là Anh đã dùng Mệnh đề thuộc về Tứ Tượng để luận Ngược trở lại với Thái cực. Đó là đi từ hướng Ngọn trở lại Gốc, và lấy một "điểm" dừng từ hướng Ngọn làm Gốc. Chứ thực ra, những hệ luận của anh, vốn không Sai về mặt logic. Như ta nói: Âm Dương có Động Tĩnh, hay Động Tĩnh thuộc về Âm Dương. Âm Dương phân Trước Sau, chứ không nói Trước Sau phân Âm Dương, mà chỉ có thể nói Trước Sau đã xác định tính Âm Dương về mặt thời gian của mọi quá trình. Rõ ràng, với cách nói như vậy đã thể hiện nội dung của Tứ Tượng rồi. Bởi thế câu: Âm thuận tùng Dương cần hiểu là Dương Động thì Âm theo. Ví như Chàng đi Thiếp xin theo cùng. Nó có nội dung Tứ Tượng. Nên người xưa mới dùng: Vạn vật khởi từ Tý - chú ý từ Vạn vật - bởi ở Tý thì Nhất Dương sinh. Và suy luận của Anh đã bắt đầu từ đây, hoàn toàn đúng khi anh nói: Âm phải có trước, Dương phải Sau. Có vậy thì Nhất dương mới được Sinh, và cái Sinh này "lộ" ra trong Âm - Thái âm. Chính cái Nhất dương này là Thiếu dương vậy !!!. Và đây mới là điều quan trọng: Bởi vòng sinh trưởng của Vạn vật, khởi từ Tý, thì đã thấy Thiên nhiên "lộ" ở Dần, Dần là đất Tràng sinh. Đó là Vạn vật vậy. Chứ nếu đi ngược về Thái cực thì điều đó không thể !. Nhưng với câu Tại Ngọ nhất Âm sinh - Thiếu âm, thì lại không nói Vạn vật khởi từ Ngọ, mà lại nói là Hủy từ Ngọ, đó là do Nhất âm đã sinh ở Ngọ, đại diện cho nửa Hủy trong đối đãi âm dương Thành - Thịnh (Dương từ Thiếu dương đến Thái dương) - Suy - Hủy (Âm từ Thiếu âm đến Thái âm). Tóm lại. Phân biệt đúng Gốc - Ngọn, đã thấy sự nhất quán của cổ nhân, mỗi câu mỗi ý đều ở chỗ nhằm vào đối tượng mà trình bày. Và như thế, câu Dương Đông - Âm Tĩnh, thuộc về Tứ Tượng, thể hiện cho vận động âm dương của Vạn vật, những đối tượng của Vũ trụ, chứ không phải là Vũ trụ. Vì thế Ngày Đêm có Vạn vật trong nó sinh sinh diệt diệt, nên nói Ngày thời Động, Đêm thời Tĩnh, chứ không ai được phép nói Ngày là Động, Đêm là Tĩnh. Xem thế, Lý học Đông phương chặt chẽ và tinh tế. Sai một ly thời đi một dặm. Chứ suy luận và các phép biện chứng của Anh, đâu có Sai. Mấy dòng gửi tới Anh. Với ba đặc điểm khởi đầu mà Tôi đã trình bày ở trên. Thì nội dung mà Tôi viết, đến đây là đầy đủ. Từ đây mà phát triển các lý thuyết của Anh, thì Anh hơn Tôi nhiều. Vì lòng Tôn trọng Anh, Tôi đã lấy một tiểu mục - rất quan trọng - trong chương Âm Dương học trong Tử vi của cuốn: Tử vi - Phương trình đời người, của Tôi. Viết thêm nữa, thực Tôi không muốn. Và trong suốt mấy năm nay, viết bao nhiêu bài trên các diễn đàn, đây là bài đầu tiên Tôi "rút Ruột Tôi ra". Mong Anh thông cảm. (tức là nếu có viết nữa thì Tôi sẽ không lấy từ Sách - đó là điều không muốn vậy - Bậc như Anh, không lấy từ Sách thì khó quá). Cám ơn sự quan tâm của Anh. Thân ái.
    1 like
  36. DƯƠNG TỊNH - ÂM ĐỘNG & SỰ GIẢI THÍCH KHỞI NGUYÊN VŨ TRỤ TRONG VĂN HIẾN VIỆT. Tiếp theo Anh Vuivui và quí vị quan tâm thân mến. Bây giờ chúng ta vẫn nhất quán với giả thiết là mệnh đề "Dương trước Âm sau" là đúng - như đã dùng giả thuyết này để minh chứng quan niệm "Dương động - Âm tịnh" trong cổ thư chữ Hán là sai. Nhưng với giả thiết này thì nó lại minh chứng cho quan niệm "Dương tịnh - Âm động" - nhân danh quan điểm xác định nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Anh Vuivui và quí vị quan tâm thân mến. Chúng ta đều biết rằng: Trong bản văn cổ nhất của Chu Dịch - Hệ từ - khi viết về trạng thái khởi nguyên của vũ trụ chỉ vỏn vẹn một câu: "Thái cực sinh lưỡng nghi". Sau này, khi nghiên cứu về kinh Dịch - chủ yếu là đời Đường Tống và đại biểu là Chu Hy và Chu Đôn Di - các nhà nghiên cứu Hán nho mới ghép cho lưỡng nghi là Âm Dương. Như vậy, với cách hiểu của họ - Dịch từ tiếng Hán ra tiếng Hán - thì nghiễm nhiên "Thái Cực" là một khái niệm tách rời khỏi Âm Dương và không phải "Âm Dương". Nhưng vì xác định Thái Cực tịnh - nên buộc họ phải quan niệm theo sự hợp lý hình thức tiếp theo là : Dương phải động - so với cái tịnh của Thái Cực. Và tất yếu theo tính hợp lý hình thức - Dương trước - Âm sau - thì Dương đã được họ coi là Động thì Âm phải coi là tịnh. Như vậy chính quan niệm cho rằng "Lưỡng nghi" là Âm Dương đã hình thành bộ ba khái niệm tách rời nhau ở trạng thái khởi nguyên vũ trụ là: "Thái Cực" - "Dương" - "Âm" , đã khiến khái niệm Âm Dương với ý nghĩa là sự đối đãi , phân biệt trở nên phi lý khi có thêm một trạng thái gọi là "Thái Cực". Bởi vì, tự khái niệm "Thái Cực" với một trong hai khái niệm "Âm" hoặc "Dương" thì tự nó đã là Âm Dương. Chính vì tính phi lý này khiến Chu Hy phải thêm vào một trạng thái thứ tư trong khởi nguyên của vũ trụ một cách rất ư là mập mờ , mà ông ta gọi là "Vô cực". Nhưng rất tiếc, vì được coi là một trong những bậc thày của Tống Nho nên mặc nhiên cách giải thích của ông Chu Hy, Chu Dôn Di cứ thế lưu truyền, lặp đi, lặp lại qua bao thế hệ. Nhưng với cách giải thích của tôi - nhân danh quan niệm Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến - Thì "Lương Nghi" chính là trạng thái đối đãi của Thái Cực với trạng thái khởi nguyên của vũ trụ sau Thái cực - Thái Cực là trạng thái khởi nguyên của vũ trụ - chúng ta có thể liên hệ trạng thái này với giây /o/ của vũ trụ. Thái Cực chí tịnh trở thành Dương trước - khi trạng thái động đối đãi với nó được coi là Âm xuất hiên sau đó. Với luậm điểm này thì hoàn toàn phù hợp và nhất quán với quan niệm cho rằng "Dương trước Âm sau". Đó là luận cứ xác định "Dương Tịnh Âm Dộng" được giải thích ngay từ trang thái khởi nguyên của vũ trụ - nhân danh quan điểm Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương Tử. Bây giờ chung ta ứng dụng khái niệm "Dương tịnh Âm động để giải thích một hiện tượng rất cụ thể được tranh luận là: Ban ngày "Dương" và ban đêm "Âm" - với một hiện tương mà tất cả chúng ta đều biết là: Vạn vật đều sinh hoạt - động - phần lớn vào ban ngày và yên nghỉ - tịnh - vào ban đêm. Vậy phải chăng đây là bằng chứng thực tế minh chứng sắc sảo rằng: Quan niệm "Dương tịnh - Âm động" - nhân danh quan điểm Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến đã sai? Một lý thuyết hoặc giả thuyết khoa học bị coi là sai, nếu người ta chỉ ra được một mắt xích sai trong chuỗi luận cứ của nó mà nó không thể tự biện minh được. Như vậy, quan điểm mà tôi kỳ công chứng minh hơn 10 năm nay xác định sẽ sụp đổ, nếu mắt xích quan trong này bị coi là sai, mà tôi không thể biện minh được. Sau đó, vấn đề của "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" - nhân danh quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt - vốn được sự ủng hộ của "Cộng đồng khoa học thế giới" cho rằng "Thời Hùng Vương chỉ là liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố" sẽ được xác nhân là đúng trước một luận chứng phản biện bị sụp đổ và cá nhân Thiên Sứ tôi sẽ ngừng tất cả các cuộc tham gia về vấn đề này. Bởi vì - với tôi - Lý học Đông phương là phương tiện sắc sảo chứng minh cho nền văn hiến Việt. Do đó, khi nó sai thì vấn đề chân lý của Việt sử không còn gì để bàn cãi - ít nhất với luận chứng của tôi. Còn tiếp "Dương tịnh Âm Động" trong văn hiến Việt giải thích vần đề ngày và đêm trên Địa cầu.
    1 like
  37. Anh Vuivui thân mến. Vì anh đang có sự tham biện với anh Votruoc, nên tôi cũng cảm thấy không muốn để anh chi phối thêm về vấn đề này. Bởi vậy, tôi viết bài này - nếu anh thấy rộng rãi thời gian thì tham gia. Nếu anh bận thì tôi chờ đợi. Quan điểm của tôi cho rằng: Khái niệm Âm Dương là một khái niệm triết học, nó là sự tổng hợp của sự nhận thức mọi hiện tượng trong vũ trụ để có được khái niệm này. Khái niệm Âm Dương về nội dung thể hiện sự đối đãi phân biêt. Nếu diễn giải liên hệ với tri thức hiện đại thì có thể liên hệ với khái niệm "tính mâu thuẫn và thống nhất của các mặt đối lập" trong biện chứng pháp của Hegel. Nhưng tôi cho rằng: Khái niệm của Hegel chỉ là trường hợp riêng của khái niệm Âm Dương. Bởi vì, khái niệm Âm Dương còn bao gồm cả tương tác và chuyển hóa - nhưng không phải là đồng đẳng giữa Âm và Dương. Khái niệm Âm Dương mô tả mọi quan hệ trong vũ trụ từ khởi nguyên đến sự phát triển tiến hóa của vật chất - trong đó có cuộc sống của con người và xã hội, trong thuyết Âm Dương Ngũ hành Bởi vậy, những mệnh đề phụ thuộc như: Dương trước Âm sau, Dương tịnh Âm động (Theo quan niệm - từ minh triết Việt) hay "Dương Động Âm tịnh" (Theo quan niệm từ văn minh Hán)...vv...đều phải là mang tính nhất quán và hoàn chỉnh trong hệ thống của nó. Một lý thuyết khoa học bị coi là sai, nếu người ta chỉ ra một mắt xích sai trong hệ thống luận cứ của nó, mà lý thuyết này không biện minh được. Bởi vậy, mệnh đề "Dương Động - Âm tịnh" theo văn minh Hán, hay "Dương tịnh Âm động" nhân danh văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, chính là một trong những mắt xích trong hệ thống lý luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh Việt sử 5000 năm, hay thuộc văn minh Hán - như mọi người thường quan niệm. Đó là nguyên nhân mà tôi rất hy vọng cùng anh làm sáng tỏ điều này, vì chân lý và khoa học. Tôi xin bắt đầu từ sự khởi nguyên của vũ trụ: Chúng ta quán xét một mệnh đề trong hệ thống lý luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành là: "Dương trước Âm sau - Dương sinh Âm và Âm thuận tùng Dương" Đây là một mệnh đề ghi nhận trong cổ thư chữ Hán về nguyên lý tương tác của Âm Dương. Chúng ta giả thiết rằng: Mệnh đề này đúng! Trên cơ sở này, chúng ta quán xét các mệnh đề khác liên quan trong cổ thư chữ Hán có nhất quán và không mâu thuẫn với mệnh đề trên không? Bây giờ, chúng ta đặt vấn đề từ mệnh đề trong cổ thư chữ Hán là: "Dương Động Âm tịnh". Vậy vấn đề được đặt ra trong khởi nguyên vũ trụ là Dương trước phải Động - vậy cái Dương động này so với cái gì có trước nó để kết luận nó đông? Vậy phải chăng trước cài Dương động theo cổ thư chữ Hán , vũ trụ tồn tại một cái tĩnh để đối đãi với cái Dương động? Nếu như vậy thì cái có trước Dương trong vũ trụ là gì? Nếu thừa nhận một cái có trước Dương ở giai đoạn khởi nguyên của vũ trụ thì mệnh đề "Dương trước Âm sau" - cũng có trong cổ thư chữ Hán sai. Hay nói một cách khác: Trong cổ thư chữ Hán đã mâu thuẫn ngay trong nội dung của chính nó khi ứng dụng khái niệm Âm Dương trong miêu tả sự khởi nguyên của vũ trụ. Nếu khiên cưỡng mà giải thích rằng: Trước Dương là Vô cực - theo Chu Hy - thì chính Vô cực và Dương đã là hai trạng thái đối đãi phân biệt - tức là tự nó đã phân biệt Âm Dương. Do đó, khái niệm Âm Dương sẽ tự phủ định ở trạng thái khởi nguyên vũ trụ và thay thế là "Vô cực - Dương". Điều này mâu thuẫn. Chính mâu thuẫn này phủ định khái niệm "Dương Động - Âm tịnh" trong cổ thư chữ Hán và chứng tỏ rằng: Nền văn minh Hán không phải chủ nhân của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Vì họ đã hiểu sai khi xác lập mệnh đề này để hoàn chỉnh một tri thức vũ trụ bị thất truyền, mà họ đã tiếp thu một cách không hoàn chỉnh hệ thống của nó. Vậy khái niệm "Dương tịnh - Âm Động" - được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt, chủ nhân đích thực của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong lịch sử 5000 năm giải thích như thế nào sự khởi nguyên vũ trụ và những vấn đề liên quan đến nó? Dương tịnh - Âm động và sự giải thích khởi nguyên vũ trụ trong văn hiến Việt. Còn tiếp
    1 like
  38. Gửi anh Thiên Đồng, Nam sinh 1977 Vợ sinh 1983 Con 2007 Vậy đẻ năm nào tốt hả anh Thiên Đồng ? Chân thành cám ơn anh Thiên Đồng nhé.
    1 like