• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 19/06/2010 in all areas

  1. Dự Án Khu Đô Thị Mới Thủ Thiêm - Quận 2 Nhìn từ Phong Thuỷ Lạc Việt Nhóm nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt Chịu trách nhiệm chính: Achau Từ những năm 2000. TP HCM đã có những qui hoạch phát triển cho tương lai khi mong muốn Quận 2, đặc biệt là khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành một trung tâm Thương mại – Tài chính của TP nhằm có những bước đột phá chuyên sâu trong lĩnh vực này trong thời kỳ mới. Gần 10 năm trôi qua, cũng có một số nhà đầu tư cơ sở hạ tầng lớn trong và ngoài nước tới xem xét. Nhưng việc phát triển Quận 2 theo đúng qui hoạch gần như vẫn còn dậm chân tại chỗ. Nhìn trên bản đồ Thành phố HCM, có thể thấy lợi thế của bán đảo Thủ Thiêm nằm ngay giữa khu vực trung tâm của TP. Theo qui hoạch bán đảo Thủ Thiêm có vị trí rất thuận lợi về giao thông: Là cửa ngõ của TP, điểm đầu của nút giao thông xa lộ Hà nội đi các tỉnh phía Bắc, đại lộ Đông Tây đi qua khu vực bán đảo Thủ Thiêm nối liền các tỉnh miền Tây với miền Đông Nam bộ, khoảng cách từ bán đảo Thủ Thiêm đi sân bay quốc tế Long Thành - Đồng Nai trong tương lai cũng không phải là quá xa khi lưư thông bằng xa lộ. Dự án khu đô thị Thủ Thiêm (Hình minh họa) Đã có những phong thủy gia ca ngợi vị trí đắc địa của bán đảo Thủ Thiêm với những khái niệm chuyên môn, mà chúng ta có thể thấy được qua bài viết trên báo TT&VH sau đây: Nhưng ngược theo thời gian, chúng ta có thể thấy không phải chỉ bây giờ, mà ngay cả khi Sài Gòn là một thành phố sầm uất với danh xưng “Hòn ngọc Viễn Đông” thì bán đảo Thủ Thiêm vẫn là một khu vực có rất nhiều hộ dân có thể coi là nghèo, trình độ dân trí thấp. Dù về địa lý chỉ cách những khu vực sầm uất nhất của TP có một con sông Sài Gòn…. Rõ ràng, đây là thực tế trái ngược với những nhận xét của các phong thủy gia khi áp dụng một cách máy móc những khái niệm phong thủy. Không những vậy, mà ngay cả với những quyết tâm - Từ những năm 2000. TP HCM đã có những qui hoạch phát triển cho tương lai khi mong muốn Quận 2, đặc biệt là khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành một trung tâm Thương mại – Tài chính của TP, nhằm có những bước đột phá chuyên sâu trong lĩnh vực này trong thời kỳ mới. Gần 10 năm trôi qua, cũng có một số nhà đầu tư cơ sở hạ tầng lớn trong và ngoài nước tới xem xét. Nhưng việc phát triển Quận 2 theo đúng qui hoạch gần như vẫn còn dậm chân tại chỗ….. Nếu chúng ta loại suy những yếu tố ngoại quan khác và phân tích những nguyên nhân khiến cho bán đảo Thủ Thiêm chưa phát triển, dưới góc nhìn theo Phong Thuỷ Lạc Việt thì vị trí địa lý ở đây có những khiếm khuyết lớn cần khắc phục với mục đích mang lại sự phồn vinh nơi đây. Xét về Hình lý - Khí Nhìn qua ảnh vệ tinh, ta thấy toàn bộ khu vực đô thị mới bán đảo Thủ Thiêm nằm theo trục Đông Bắc - Tây Nam. Mặc dù được bao bọc bởi sông Sài Gòn. Nhưng lại nằm bên “Tả Ngạn”, có thể thấy rằng toàn bộ khu vực bán đảo không phải là một nơi tụ khí với sự phân tích về khí của Phong thủy Lạc Việt. Về hình dáng, cả khu vực bán đảo như một chiếc chậu bông nông đáy để nghiêng, đổ toàn bộ sinh khí của cuộc đất ra phía miệng chậu (phương Đông Bắc). Toàn bộ bán đảo với rất nhiều kênh rạch, thêm một chỉ dấu rất rõ của một cuộc đất yếu, có thể ví như một bình bông bị nứt rạn nên càng khó có thể giữ được nguồn sinh khí của cuộc đất. Khu vực từ Tây Bắc tới Tây (ô số 1): Khí lực cuộc đất của khu vực này rất kém. Mặc dù có phà Thủ Thiêm & tuyến đường Lương Đình Của nối từ Quận 1 sang. Cách cục của âm dương giao trì nhưng hầu như khu vực này có thể coi là phát triển rất chậm và chỉ mang tính cục bộ , dân cư hầu hết chỉ tập trung ở khu vực bên trái của tuyến đường Lương Đình Của. Khu vực từ Tây Nam- Nam (ô số 2): Khí lực cuộc đất của toàn bộ dải này đã kém lại bị cộng hưởng tác động xấu của sông Sài Gòn càng làm cho khu này khí bị thoái mạnh, nên có thể thấy, dù mật độ dân số của dân cư Quận 2 ngày càng tăng nhưng khu vực này có thể coi là có mật độ cư dân rất thấp. Khu Đông Bắc – Đông (ô số 3) Diện tích của bán đảo Thủ Thiêm khoảng 7km2, như một chiếc chậu bông nông đáy khổng lồ đổ toàn bộ khí lực sang khu Đông (miệng bình) trôi tuột ra phía Đông, nên có thể thấy khu vực này không thể coi là tốt được theo Phong Thuỷ Lạc Việt. Tuy nhiên vì khí dồn vào góc phía Đông, nên ở đây có cơ hội phát triển. Đó chính là khu đô thị mới Thủ Thiêm. Tuy nhiên vì tổng thể vô khí, nên sự phát triển chậm chạp. Dương khí qua các tuyến giao thông chính Phong thủy Lạc Việt quan niệm rằng: Những tuyến đường giao thông đều mang tới dương khí cho cuộc đất do tương tác của những phương tiện vận động, tính chất giống như những dòng sông chảy. Nhưng phân Âm Dương so với sông và là một sự tương tác với các khái niệm đồng đẳng theo Phong Thủy Lạc Việt. Trên cơ sở này, chúng ta xem xét sự tương quan của nguồn khí do giao thông đem lại. Điều này tương tự như ở Bắc sông Hồng (Tả ngạn), trước đây vốn là vùng đất không phát triển. Nhưng từ khi những cây cầu bắc qua sông Hồng hình thành , như: Cầu Thăng Long, cầu Thanh Trì….vv…xuất hiện thì trở thành khu đô thị trù phú. Giao thông đi lại hiện tại trong bán đảo Thủ Thiêm, gồm 2 tuyến chính như sau: Tuyến đuờng Trần Não từ chân cầu Sài Gòn cắt ngang qua đường Lương Đình Của kéo dài thẳng xuống khu vực phía Nam của bán đảo. Có tính chất tiếp khí từ cầu Sài Gòn và theo trục Bắc Nam. Nhưng do nằm không đắc cách, bị xéo tạo khúc gãy so với góc nhọn xa lộ Hà Nội. Đã vậy, tuyến đường khi chạy qua Thủ Thiêm thì dừng ở sông Sài Gòn, Như vậy, Dương khí bị bế không thông. Nên dù là đường lớn, nhưng việc kinh doanh ở tuyến đường này hầu như còn rất hạn chế. Tuyến đường Lương Đình Của từ phà Thủ Thiêm (Quận 1) đổ sang, chạy cắt ngang đường Trần Não từ ngày hợp tuyến với cầu Thủ Thiêm từ quận Bình Thành đổ sang và do tính tiếp khí tích cực của cây cầu này, cũng làm cho những hộ kinh doanh ở ven đường phát đạt hơn trước. Nhưng cũng chỉ mang tính cục bộ cho cư dân sinh hoạt hai bên đường. Qua đây, có thể thấy tại sao Khu đô thị mới Thủ Thiêm có vị trí rất gần Trung tâm TP, nhưng tốc độ phát triển qui hoạch lại diễn ra chậm trễ đến như vậy. Như vậy, theo quan điểm riêng của người viết từ góc nhìn của Phong thủy Lạc Việt, để khu đô thị mới Thủ Thiêm phát triển được theo đúng ý tưởng đề ra ban đầu thì rất có một qui hoạch thích hợp với vị trí Địa Lý cần tụ khí nơi đây. Người viết rất hy vọng rằng bài viết này dưới góc nhìn của khoa Phong Thủy sẽ góp phần cho khu đô thị Thủ Thiêm được tốt đẹp hơn với mục đích mang lại sự phồn vinh và phát triển của T/P chúng ta. Trong năm nay, theo huyền không thì sao Nhị Hắc vận niên tinh đều chiếu hướng Đông Bắc. Tuy đây là hai sao không được coi là tốt trong sinh hoạt, nhưng lại là sao Quý nhân cho những cuộc đất mới phát triển. Cho nên, người viết hy vọng rằng trong năm nay sẽ có nhiều cơ hội để những nhà đầu tư đến với dự án quy hoạch khu đô thị này.
    3 likes
  2. Các báo điện tử đã đăng những nhận xét về khu vực Ba Vì trên phương diện phong thủy của Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, http://my.opera.com/doanducthanh/blog/show.dml/11634542 http://www.baomoi.com/Info/Phong-thuy-gia-...139/4195101.epi http://www.ngoclan-vpp.com/NewsDetail.aspx...=17&tuto=63 http://www.ovsclub.com.vn/show_article.php?aid=25202&lg=vn Bài phỏng vấn Phong thủy gia Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Khu vực Ba Vì không đủ "tụ khí" Xét từ quan điểm cá nhân nghiên cứu dưới góc độ phong thủy, tôi không tán thành đưa trung tâm hành chính quốc gia vào khu vực Ba Vì. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Ảnh: LAD Hiện nay dư luận đang rất quan tâm đến chuyện đặt trung tâm hành chính quốc gia về chân núi Ba Vì. Từ góc độ khoa học phong thủy, ông có thể nói gì về điều này? Tôi có đến xem mô hình quy hoạch Hà Nội, theo cảm quan riêng - có thể rất chủ quan, vì tôi không được trực tiếp cung cấp thông tin nào cụ thể - thì với cách đặt trung tâm hành chính ở đó, có thể là người quyết định đặt ở vị trí này có tư duy về phong thủy. Đằng trước có hồ Đồng Mô, đằng sau tựa núi Ba Vì, ở giữa có khoảng đất trống, đặt trung tâm hành chính quốc gia vào đó. Nhưng tôi e rằng, đó là kiến thức sai. Vì khu vực này khí chất rất hẹp, không đủ tụ khí. Xét từ quan điểm cá nhân nghiên cứu dưới góc độ phong thủy, tôi không tán thành đưa trung tâm hành chính quốc gia vào khu vực này. Hầu hết các thành phố lớn trên thế giới nằm ở hữu ngạn sông nếu nhìn từ đầu nguồn xuống. Trong lý luận phong thủy của tôi, khí gặp gió thì tán, gặp thủy thì tụ. Trong sự vận động của trái đất ngược chiều kim đồng hồ, thì bên hữu ngạn sông khí tụ, bên tả ngạn thì khí tán. Vậy ông có suy nghĩ gì về hướng quy hoạch cho phù hợp với khoa học phong thủy? Từ thời điểm đặt thành Đại La đến nay đã hơn ngàn năm, khí đã tụ nhiều. Do đó tôi tán thành với quan điểm mở rộng Thủ đô. Nhưng mở như thế nào lại là chuyện khác. Tất nhiên không thể cố chấp là phải dồn mọi thứ vào khu khí tụ. Nguyên tắc căn bản nhất là phải tôn trọng sự hòa nhập với thiên nhiên cao. Hiện nay nhiều người đòi trung tâm hành chính phải chuyển về gần Hồ Tây. Những người có kiến thức sơ sơ về phong thủy cũng đều biết là nơi gần hồ nước lớn thì đều là nơi tụ khí, âm dương hài hòa. Nhưng vùng đất đó, khí tụ đến đâu thì chưa hẳn là lấy hồ nước đó làm trọng tâm, có thể lùi lại, tiến lên, sang phải trái tùy tính toán cụ thể. Còn những thảo luận về vấn đề trục Thăng Long - một dự án lớn của Thủ đô, ông có ý kiến như thế nào? Khí sinh ra sự tương tác của các vật thể. Sự di chuyển vận động trên con đường tạo ra khí. Nếu con đường càng thẳng, luồng xung xát khí càng mạnh. Bởi vậy, trong phong thủy thường kiêng con đường thẳng đâm thẳng vào nhà. Nếu mình muốn làm con đường thẳng, phải tùy vào con đường đó đâm vào đâu. Xấu tốt là quan niệm của con người, chứ bản thân thiên nhiên không có vấn đề đó. Con đường tạo ra xung xát khí, chưa hẳn là xấu. Phải xem con đường đi vào đâu, nối với cái gì thì trở thành tốt. Tôi chưa có ý kiến cụ thể về con đường này vì chưa được xem kĩ lưỡng toàn bộ các quy hoạch xung quanh nó, và chưa thật hiểu ý đồ của người vẽ dự án. Sẵn lòng chia sẻ "Luận tuổi Lạc Việt" Một câu chuyện khác cũng rất thú vị là, trong dân gian hiện đang phổ biến cách tính tuổi tác để quyết định nhiều việc lớn trong cuộc đời theo phương pháp Âm dương, vậy làm thế nào để xác định được cách tính toán có đúng không? Tôi cũng trăn trở là nhiều người chỉ học sách và đem ra áp dụng cứng nhắc, có khi đúng khi sai. Nhưng vì họ có tâm, và khách quan, không ảnh hưởng lớn lắm đển quan hệ xã hội. Song cũng có người dùng điều này để mưu lợi bản thân và dọa dẫm thân chủ, thì rất không tốt. Tôi mong muốn có những nghiên cứu đích thực và phổ biến để dẹp mê tín dị đoan. Để xem cho chính xác, chẳng hạn chỉ để bốc được một quẻ dịch thì cần những nhà chuyên môn nghiên cứu rất lâu và phải có kinh nghiệm. Còn những cách tính tuổi vợ chồng lấy nhau có hợp hay không, thì thực ra rất khập khiễng. Tôi có quan điểm là yêu nhau cứ việc lấy. Không có vợ chồng nào khắc nhau cả. Bằng chứng là tôi đã làm những thống kê tuổi vợ chồng rất là khắc, thậm chí cả tuổi tôi và bà xã tôi, trong sách nói là rất xấu. Nhưng thực tế là nhiều cặp vợ chồng rất giàu có hạnh phúc. Tôi tìm hiểu ra một phương pháp nữa là luận tuổi Lạc Việt. Xác định rằng đứa con trong gia đình ảnh hưởng đến hạnh phúc như thế nào. Kết luận của tôi là yêu nhau cứ việc lấy, miễn là sinh tuổi con đừng khắc tuổi mẹ. Nhiều người không biết, cứ kiên quyết là tuổi này không được lấy tuổi kia, gây nên sự chia ly đau lòng cho nam nữ. Cái lý của việc tính tuổi để kết hôn là gì? Và cái không hợp lý của nó là gì? Có nhiều phương pháp tính tuổi vợ chồng. Người ta chia tuổi người nam và tuổi người nữ ra 8 cung bát quái. Phối 8 cung lại ra quy ước tốt xấu, tổng cộng 64 trường hợp. Trong trường hợp sự kết hợp ra ô xấu, thì họ đưa ra kết luận là cặp này lấy nhau sẽ xấu. Phương pháp tính khác là Cao Ly đồ hình, dùng thập thiên can của người nam, phối với 12 địa chi của người nữ, ra 120 trường hợp tuổi nam nữ lấy nhau. Ngoài ra, còn có cách tính 12 địa chi phối với 12 địa chi, ra 144 trường hợp. Với dữ kiện ban đầu chỉ có như vậy, thì các kết quả không thể vượt quá con số trên. Nhưng thế giới có ít nhất có 6 tỉ người, tính tối thiểu là có 1,5 tỉ cặp vợ chồng. Nếu cứ tính theo kiểu tốt xấu như các phương pháp trên, thì không lẽ có nửa số vợ chồng lấy nhau phải nghèo hoặc gặp hoạn nạn ngay? Điều này vô lý ngay trên thực tế và dễ dàng thấy sai. Nhưng cách tính dân gian lại có một cơ sở trên thuyết Âm Dương ngũ hành như trên vừa nói. Vậy từ đó, tìm ra một phương pháp đúng như thế nào? Qua tính toán, tôi thấy là tuổi người con út ảnh hưởng rất lớn. Có những cặp vợ chồng lấy nhau, nếu xét tuổi theo phương pháp cũ thì rất xấu, và ngược lại. Tôi đã ứng dụng luôn để khuyên nam nữ yêu nhau thì cứ lấy, chỉ căn làm sao để có đứa con hợp với tuổi mẹ. Vì người nữ trong thuyết Âm dương ngũ hành, thuộc về âm - âm là sự tăng trưởng, nền tảng gia đình. Thực tế là cách tính tuổi tác để kết hôn đã gây đau khổ chia rẽ cho nhiều đôi nam nữ. Nó tuy không được nói trên thông tin đại chúng, nhưng lại phổ biến ngấm ngầm nhiều đời nay và rất khó thay đổi. Cá nhân tôi rất sẵn sàng chia sẻ phương pháp của mình, không cần bản quyền, để giúp mọi người hiểu hơn. Về mặt lý thuyết, đối với những vấn đề đã tiên tri được, bản thân người nghiên cứu và dự đoán trước được sự việc, có cách gì để thay đổi trong tương lai không? Điều này rất phức tạp. Chẳng hạn, tôi và 2 người nữa đã dự đoán được cuộc chiến tranh Iraq sẽ xảy ra, nhưng sức mình không thay đổi được. Chỉ trừ phi những điều dự đoán này được nhiều người quan tâm, đặc biệt là những người có trách nhiệm, thì có thể hành động để hạn chế bớt. Biết trước là một chuyện, điều kiện tác động lại là chuyện khác. Tác giả: Tuần Việt Nam
    2 likes
  3. Bí mật “huyệt trai tân” giải oan tội hiếp dâm Cập nhật lúc 14:59, Thứ Tư, 19/05/2010 (GMT+7) , “Ngày 22/04/2002, ba thanh niên ở xã Yên Nghĩa, Hà Đông (Hà Nội) là Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Kiên, Nguyễn Đình Tình, phải nhận án tổng cộng 41 năm tù vì tội hiếp dâm, cướp tài sản. Dù các bị cáo đều một mực không nhận tội trước toà. Thậm chí trong phiên phúc thẩm, khi biết bị bác kháng cáo kêu oan, cả ba bị cáo nhất loạt xin…lĩnh án tử hình. Và sau gần 10 năm lĩnh án, ba thanh niên này đã được minh oanbởi một phụ nữ kỳ lạ . Đó là lương y chuyên sâu Phạm Thị Hồng, công tác tại bệnh viện đa khoa Hà Đông (Hà Nội). Chị là người phụ nữ có thận phận đặc biệt, và sự quyết liệt hiếm có khi sẵn sàng tự thiêu để chứng minh nhận định của mình là đúng. Mọi chuyện chỉ bắt đầu khi chị phát hiện ba chàng trai này chưa bao giờ có quan hệ với phụ nữ, nhờ một huyệt đạo bí mật, nói theo dân dã thì họ vẫn còn là trai tân… Từ một huyệt đạo mang tên “Dương Minh” Chị Hồng tự giới thiệu mình là người say mê những pho sách cổ, đặc biệt là các sách về Đông y. Chị thường say sưa nghiên cứu những huyệt đạo, những quy luật âm – dương của cơ thể con người, những kiểu giáo trình này người ta không đưa vào chương trình giảng dạy các trường khoa Đông y. “Chỉ vì tò mò nên tôi đọc tất cả những cuốn sách cổ về y thuật nếu bắt gặp thú vị vô cùng” - chị Hồng nói. Chị kể: vào năm 2006, trại giam Thanh Xuân có đưa đến một phạm nhân nam, còn rất trẻ tuổi tên là Nguyễn Đình Lợi. Bệnh nhân này được nhập viện trong thể trạng suy yếu, gần như liệt nửa người. Sau khi bắt mạch, chị quyết định châm cứu để phục hồi chức năng cho Lợi. Khổ nỗi cậu ta là phạm nhân nên luôn bị xích ở cổ chân mà nơi ấy là một huyệt quan trọng để châm cứu. Thấy vậy chị đề nghị cán bộ của trại giam tháo xích để tiến hành châm cứu. Vị cán bộ trại giam sợ sai nguyên tắc nên từ chối, chị đã phải thuyết phục rằng, phạm nhân này không thể chạy trốn vì anh ta đang bị liệt nửa người…Thuyết phục mãi cán bộ trại giam mới tháo xích và giúp chị bê bệnh nhân lên giường để châm cứu. Huyệt đạo mang tên "Dương Minh" để kiểm tra trinh tiết đàn ông nằm ở vị trí dưới dái tai Cảm kích trước hành động của vị bác sĩ, phạm nhân Lợi bật khóc tức tưởi. Lợi mếu máo rằng, đã lâu lắm rồi chưa được ai quan tâm và chăm sóc tốt như thế…Chị Hồng cười rồi bảo: thanh niên gì mà khóc nhè thế, biết hối hận thì chăm chỉ cải tạo rồi ra thôi…Lần này Lợi lại càng khóc to hơn kêu rằng mình bị oan, nhất định muốn chết!. Thấy lạ, chị Hồng quay sang hỏi cán bộ trại giam thì biết được cậu ta mắc tội tày đình: hiếp dâm, cướp của, lĩnh 16 năm tù. Cái tội hiếp dâm ai cũng ghét, tôi cũng thế nên thấy ghê tởm” - chị Hồng nói. Thế nhưng khi nhìn vào khuôn mặt tái dại, đôi mắt trong sáng của phạm nhân này, bỗng nhiên chị cảm thấy điều gì đó bất thường. Chị bèn hỏi đùa: “cậu quan hệ với phụ nữ bao nhiêu lần rồi?”/. Phạm nhân Lợi giãy nảy rằng, chưa ! Chưa bao giờ quan hệ với phụ nữ. Chị Hồng bật cười rồi doạ: “này, chị là lương y, chị biết nhìn trinh tiết đàn ông đàn bà đấy, đừng nói bừa!”. Nghe vậy, phạm nhân Lợi vẫn kiên quyết khẳng định, mình là trai tân, chưa hề biết thế nào là phụ nữ! Nếu có chết cũng không dám nói bừa! Quá tò mò, chị quyết định bấm huyệt “Dương Minh”, cái huyệt này nằm ở vị trí dưới dái tai. Theo giải thích của chị, những người đàn ông chưa bao giờ quan hệ tình dục với phụ nữ thì cái huyệt ấy vẫn chưa đứt. Huyệt này chỉ đứt khi có khí âm hút vào. Ngược lại với phụ nữ huyệt này gọi là “Khuyết Ấm”, nằm ở vùng ức và nếu chưa có quan hệ với đàn ông thì nó cũng sẽ không đứt. Ngày xưa, khi tuyển cung phi cho vua chúa, những lương y thường xem huyệt này để kiểm tra trinh tiết… Chị mô tả rằng, huyệt này nó như sợi chỉ màu hồng rất đẹp, nếu đúng ngày nó nổi lên, khi ấy cơ thể con người có một luồng khí rất mạnh, tươi mới tinh khôi… đàn ông sẽ trở nên mạnh mẽ, phụ nữ sẽ trở nên đẹp lạ lùng ! Những lương y có nghề sẽ biết cách xem cái huyệt này. Và chị hoàn toàn bất ngờ khi thấy huyệt “Dương Minh” của phạm nhân Lợi còn nguyên vẹn. “Nói thật, lúc ấy tôi vừa mừng vừa lo, mừng vì cậu ta nói thật nhưng lo nhất là sẽ chẳng ai tin chuyện này…” - chị Hồng bùi ngùi nhớ lại. Chị bảo, cái huyệt đạo này người theo học y thuật phương Đông đều biết, nhưng nhiều người không để ý vì nó chẳng mấy tác dụng trong việc chữa bệnh, ngoài chức năng chứng minh sự trinh tiết. Hơn nữa nó lại thuộc y học phương Đông, nếu đem ra làm chứng cứ thì rất khó thuyết phục nguời khác. Nhưng cứ nhìn đôi mắt oan ức của Lợi, trong chị lại dâng lên một quyết tâm lạ lùng: phải minh oan bằng được! Sẽ tự thiêu để chứng minh sự thật Chị đã đi gặp GS. Nguyễn Tài Thu - một trong số ít người quan tâm đến cái huyệt đó. GS. Nguyễn Tài Thu sau khi nghe chị thuật lại sự việc cũng lắc đầu bảo, khó lắm con ạ (GS luôn gọi chị là con ) chuyện này không đùa được, liên quan đến luật pháp, mà cái huyệt này chỉ những người rành y thuật phương Đông mới hiểu, khó làm chứng cứ minh oan lắm…Nói vậy nhưng GS cũng rất thương cho phạm nhân Lợi, chính ông đã móc ví lấy tất cả số tiền trong đó là 800 ngàn đồng gửi chị mua thuốc để tiêm cho Lợi, rồi động viên chị hãy bình tĩnh, làm từng bước cho chắc chắn. Sau nhiều ngày suy nghĩ, chị quyết định tìm đến nhà phạm nhân tìm tài liệu về vụ án, lên Viện kiểm sát xin đọc hồ sơ…chị hết sức bất ngờ vì đó là một vụ án còn nhiều mâu thuẫn, có nhiều tình tiết cần được làm sáng tỏ, nó cũng củng cố thêm cho niềm tin của chị. “Tôi đã quyết định đứng tên viết đơn kêu oan, nhưng lẳng lặng làm, ai hỏi thì nói là tìm hiểu cho biết…” - Chị Hồng nói. Chị đã đi tất cả 36 cơ quan, những nơi liên quan đến vụ việc này, viết vài trăm lá đơn, trình bày tất cả những hiểu biết của mình về y học để chứng minh rằng Lợi vô tội. Tất cả những lá đơn gửi đi đều bặt vô âm tín, nếu có trả lời thì cũng khẳng định rằng bản án đã được tuyên đúng người đúng tội, có cả bản tự thú của phạm nhân, cơ quan pháp luật không sai. Mệt mỏi, chán chường, thỉnh thoảng lại bị ai đó gọi điện hăm doạ, rồi cứ xểnh ra là mất xe máy (chị đã mất tới 4 cái xe máy trong quá trình đi kêu oan giúp). Nhiều người thân bạn bè cũng khuyên can rằng , việc khó lắm lại là người dưng, chẳng quen biết gì, lao đầu vào như thế không may chuốc hoạ vào thân thì khổ “tôi không chịu, tôi vẫn quyết tâm vì tôi có lý do…” - chị Hồng vừa nói vừa lục ra 1 lá thư đã cũ, được ép nhựa cẩn thận. Đó là bức thư của ba chị - một chiến sỹ cách mạng hy sinh rất anh dũng, bạn hoạt động cùng thời với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, chính ba Sáu Dân đã giao lại bức thư cho chị hồi còn bé. Trong đó có đoạn “… Con không được phản bội lại chính lương tâm mình với bất kỳ lý do nào. Cuộc sống của con phải lấy nhân nghĩa làm lẽ sống…”. Chị Hồng rơm rớm nước mắt kể: Đời chị chưa bao giờ biết mặt ba. Lá thư này là ba viết cho chị trước lúc địch mang ông ấy ra trường bắn, không lâu sau má chị cũng bị chúng giết chết. Chị được gửi lại cho một gia đình nông dân ở huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ). Cha mẹ nuôi của chị cũng tốt vô cùng, họ không bao giờ tiết lộ chị là con nuôi, chỉ sau khi chị lớn, ba Sáu Dân và một số bạn hữu của ba má đẻ chị tìm tới, giao lại lá thư, chị mới biết mình là con nuôi, người gốc Bến Tre, ba má tập kết ra Bắc thì sinh chị, nhưng vì nhiệm vụ cách mạng, họ phải gửi chị lại để tiếp tục vào Nam chiến đấu… “Từ đó tôi lấy đuợc cái đức của ba má mà sống. Tôi không thể chịu đựng được khi thấy sự oan ức mà không hành động!” - chị Hồng khẳng định. Thế rồi đến năm 2008, một lần nữa Lợi đựơc đưa ra bệnh viện điều trị, lần này chị có cơ hội tiếp xúc lâu hơn với bệnh nhân. Chắp nối tất cả các dữ kiện, cùng những chứng cứ thu nhập được, chị quyết định, tìm gặp các vị lãnh đạo cao cấp để minh oan. Thế nhưng mọi chuyện vẫn như vậy, họ vẫn giữ quan điểm ban đầu rằng họ không sai. Quá bức xúc, chị tuyên bố rằng sẽ tự thiêu để chứng minh nhận định của mình. Chị tin rằng, sau cái chết của mình sẽ có người lật lại toàn bộ hồ sơ sự việc. Chị đã tính đến việc gửi lại hai đứa con của mình cho người thân nếu chị tự thiêu. Với sự lỳ lợm đến khó tin cuối cùng câu chuyện cũng đến được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ông đề nghị VKSND tối cao xem xét lại bản báo cáo. Cuối năm 2009, các cơ quan tố tụng có công văn gửi các cấp lãnh đạo thừa nhận: “ quá trình điều tra và xét xử đã có những thiếu xót…cơ quan điều tra đã thiếu khách quan, không đầy đủ và triệt để, những chứng cứ gỡ tội chưa được xác minh làm rõ…”. Và kết quả là họ trả tự do cho ba thanh niên đó. Chúng tôi - những người làm báo đến nghe chị kể chuyện đã hỏi: “Chị định tự thiêu là để làm thật hay doạ nếu họ không nghe?”. Chị Hồng khẳng định: “ tôi không doạ, tôi chưa bao giờ đùa trong chuyện này. Ngày mới gặp Lợi, tôi hứa sẽ đi đến cùng để minh oan, và tôi đã làm như thế. Tôi là lương y, cứu người là nhiệm vụ, và chết vì người khác cũng không phải là cái gì đó ghê gớm!”. Nhìn người phụ nữ 53 tuổi này mà chúng tôi thấy ấm lòng, cuộc sống sẽ đẹp hơn nếu có nhiều và rất nhiều người như chị ! Kiến thức, lòng quyết tâm của chị đã giúp ba chàng thanh niên đòi lại công lý, đòi lại nhân phẩm, và cũng cảnh báo với những người đang cầm cân nảy mực, có trách nhiệm phải thật cẩn trọng với pháp luật vì chỉ một sai xót nhỏ cũng có thể huỷ diệt cuộc đời một con người. Theo Đang yêu
    1 like
  4. Anh em thân mến. Xem topic dự báo thấy loạn cào cào cả. Trận nọ nối trận kia khó theo dõi quá. Chẳng biết ai đoán đúng hay sai. Nên tôi mở thêm topic này để anh em thấy ai đoán đúng - hoặc tự mình - đưa lên đây. Đoán sai thì căn cứ vào thực tế để nghiệm lại quẻ. Cảm ơn anh chị em.
    1 like
  5. NGỒI THIỀN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC VÀ TĂNG CƯỜNG SỨC KHỎE Lương y VÕ HÀ Thử nhìn xuống một hồ nước. Khi mặt hồ yên tĩnh, trong xanh ta dễ dàng nhìn rõ được mọi vật dưới đáy. Trái lại, khi làn nước gợn sóng, hình ảnh sẽ bị phản chiếu lệch lạc. Bộ não con người cũng giống như vậy. Khi tinh thần yên tĩnh, tập trung, tâm trí sẽ sáng suốt. Trái lại, khi có tạp niệm xen vào hoặc lúc lo âu căng thẳng, sự phán đoán sẽ kém chính xác. Sự căng thẳng sẽ làm mệt bộ não, cơ thể tiêu phí nhiều năng lượng mà việc giải quyết công việc lại kém hiệu quả. Một sinh viên thiếu tập trung sẽ khó tiếp thu bài giảng. Một công nhân đứng máy lơ đểnh sẽ dễ mắc tai nạn lao động. Một nhà nghiên cứu mà tinh thần không ổn định sẽ khó có thể hoàn thành công trình của mình. Ngoài ra, trong điều kiện phát triễn của nền văn minh công nghiệp với tính cạnh tranh cao, con người luôn phải đối mặt với nhiều loại áp lực thì việc phải gánh chịu stress làm giảm sức đề kháng và dễ dẫn đến nhiều bệnh tật là điều đáng lo ngại. Từ những thực tế nầy nhiều người đã tìm đến với thiền. THIỀN LÀ GÌ? Nói một cách đơn giản, thiền là những phương pháp giúp hình thành thói quen tập trung tư tưởng để làm đúng công việc mà chúng ta muốn làm và đang làm. Đặc biệt thiền giúp điều chỉnh lại tình trạng mất cân bằng giữa hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh do quá trình sinh hoạt và làm việc căng thẳng gây ra. Có nhiều phương pháp thiền khác nhau, nhưng tựu trung vẫn là giúp người luyện tập có thể tập trung chú ý vào một điểm ở trong hoặc ngoài cơ thể, vào một đề tài, một hình ảnh hoặc một câu "chú" nhất định nhằm đưa cơ thể tiến dần vào tình trạng nhập tĩnh khi tâm không còn bất cứ ý niệm nào. CÁC BƯỚC THÔNG THƯỜNG CỦA MỘT LẦN NGỒI THIỀN 1. Chuẩn bị: Trước khi ngồi thiền, cần hoàn tất các công việc thường nhật trong ngày để tư tưởng khỏi vướng bận; Tắm rửa sạch sẽ, nới lỏng quần áo; Chọn một nơi yên tĩnh, thoáng mát, không có ruồi muỗi. 2. Tư thế: Có thể chọn tư thế ngồi xếp bằng thông thường, ngồi bán già hoặc ngồi kiết già. Lưng thẳng, cằm hơi đưa vào để cột sống được thẳng. Đầu lưỡi chạm nhẹ nướu răng trên. Hai bàn tay buông lỏng đặt trên hai đùi hoặc đan chéo nhau để trước bụng, miễn sao hai tay cảm thấy thoải mái, dễ giãn mềm cơ bắp là được. Tư thế kiết già (thế hoa sen), đặc biệt thích hợp cho việc ngồi thiền: Ngồi xếp bằng tự nhiên, dùng hai bàn tay nắm bàn chân phải từ từ gấp chân lại và đặt bàn chân lên đùi trái, gót chân ép sát bụng, lòng bàn chân ngửa lên trời. Kế tiếp dùng hai bàn tay nắm bàn chân trái gấp lại, đặt bàn chân trái lên đùi phải, kéo nhẹ gót chân vào sát bụng, bàn chân ngửa lên trời. Các đạo sư Yoga cho rằng vị thế khóa nhau của hai chân trong tư thế kiết già sẽ tạo sức ép lên hai luân xa ở dưới cùng của cơ thể, khiến dòng năng lượng có khuynh hướng đi lên để nuôi dưỡng các trung tâm lực dọc theo cột sống và kiểm soát toàn bộ hệ thần kinh. Những thí nghiệm khoa học về Yoga cho thấy chỉ cần ngồi tư thế hoa sen, dù ta không cố gắng tập trung tư tưởng, vẫn có một sự thay đổi ở sóng não từ nhịp Beta khoảng 20 chu kỳ mỗi giây xuống nhịp Alpha khoảng 8 chu kỳ mỗi giây. Nhịp Alpha là tình trạng sóng não của một người đang trầm tĩnh và minh mẫn. Điều nầy có nghĩa là tự thân tư thế kiết già đã có công năng làm êm dịu thần kinh chưa kể đến những cố gắng khác của việc ngồi thiền. Kết quả trên cũng phù hợp với những lý luận của y học cổ truyền khi biết rằng ở thế kiết già, xương mác ở cẳng chân trái đã tạo một sức ép khá mạnh lên đúng vị trí huyệt Tam âm giao ở chân phải (huyệt Tam âm giao ở chỗ lõm bờ sau xương chày, trên mắt cá chân trong khoảng 6cm). Như vậy, trong suốt thời gian ngồi kiết già, huyệt Tam âm giao sẽ được kích thích liên tục. Tam âm giao là huyệt giao hội của 3 đường kinh âm: Tỳ, Can và Thận nên tác động kích thích này sẽ có tác dụng "thông khí trệ", "sơ tiết vùng hạ tiêu" và điều chỉnh những rối loạn nếu có ở những kinh và tạng có liên quan, đặc biệt là tác dụng "Dưỡng âm kiện Tỳ" và "Sơ Can ích Thận" mà các thầy thuốc châm cứu đều biết khi tác động vào huyệt này. Những người có dấu hiệu căng thẳng thần kinh, những bệnh nhân "Âm hư hỏa vượng" hay gặp các cơn bốc hỏa về chiều và những phụ nữ đang ở tuổi mãn kinh sẽ dễ dàng cảm nhận được hiệu quả khi ngồi vào thế kiết già. 3. Giảm các kích thích giác quan: Một trong những yếu tố quan trọng để dễ nhập tĩnh là không bị các kích thích bên ngoài quấy nhiễu. Người xưa gọi là "bế ngũ quan". Trên thực tế, những quan sát qua điện não đồ cho thấy chỉ cần nhắm mắt để loại bỏ thị giác là đã giảm được 50% các kích thích từ bên ngoài. Do đó, nên nhắm mắt lúc ngồi thiền. Khi nhắm mắt chỉ cần khép hờ để bảo đảm không có sự căng cơ ở vùng mặt. 4. Giãn mềm cơ bắp: Ngày nay, khoa học đã biết rất rõ tác động qua lại giữa 2 yếu tố thần kinh và cơ. Khi thần kinh căng thẳng, trương lực cơ bắp cũng gia tăng. Ngược lại, nếu điều hòa trương lực cơ bắp ở mức thư giãn thì thần kinh cũng sẽ được ổn định. Chúng ta dễ dàng nhận thấy điều này khi quan sát một người đang giận dữ. Khi tức giận, gân cổ nổi lên, cơ bắp căng cứng, bàn tay nắm chặt...; đó là lúc thần kinh quá căng thẳng. Ngược lại, hãy nhìn một người đang ngồi ngủ gật trên xe. Lúc người này thiếp đi là lúc thần kinh ở mức thư giãn, tâm không còn ghi nhận ý niệm gì cụ thể và cơ bắp cũng giãn mềm nên đầu dễ dàng ngoẹo sang một bên. Vì vậy, trong quá trình hành thiền, việc chủ động giãn mềm cơ bắp sẽ thúc đẩy nhanh quá trình thư giãn, nhập tĩnh. Trên thực tế, chỉ cần quan tâm giãn mềm cơ mặt và cơ bàn tay là đủ. Điều này căn cứ vào hai quy luật: Thứ nhất, mặt và hai bàn tay là những vùng phản chiếu có các điểm tương ứng với toàn bộ cơ thể, do đó nếu thư giãn được vùng mặt hay hai bàn tay sẽ thư giãn được toàn thân. Thứ hai, theo học thuyết Paplop, khi tập trung gây ức chế thần kinh một vùng hoặc một điểm ở vỏ não (qua hiệu ứng thư giãn) thì sự ức chế này sẽ lan tỏa gây ức chế toàn bộ vỏ não. 5. Tập trung tâm ý: Đây là giai đoạn chính của buổi hành thiền. Như đã nói ở phần trên, thiền chính là sự tập trung tư tưởng vào một điểm hoặc một đề mục duy nhất để dần dần đạt đến tình trạng trống rỗng, không còn vướng mắc vào bất cứ một ý niệm nào. Để thư giãn thần kinh hoặc để chữa bệnh, chỉ cần duy trì tình trạng tập trung vào điểm hoặc vào đề mục tập trung trong một thời gian nhất định là đủ. Điều quan trọng là nên tập đều đặn hàng ngày, mỗi ngày một hoặc hai lần. Lúc đầu, ngồi khoảng 15 phút mỗi lần, dần dần tăng lên. Sau một thời gian, khi não bộ đã ghi nhận thói quen thiền thì việc ngồi vào tư thế, nhắm mắt, việc đầu lưỡi chạm nhẹ nướu răng trên hoặc ám thị giãn mềm cơ bắp sẽ hình thành nên những phản xạ có điều kiện để đưa người tập vào trạng thái thiền định. Về điểm để tập trung tư tưởng, một vị trí ở vùng bụng dưới mà nhiều trường phái thường chọn làm điểm tập trung khi ngồi thiền là huyệt Đan điền, cách dưới rốn khoảng 3cm. Nên tập trung vào điểm này vì nhiều lẽ. Theo y học cổ truyền, "thần đâu khí đó". Do đó, khi tập trung vào một điểm ở vùng dưới cơ thể thì khí và huyết sẽ lưu chuyển về phía dưới, làm nhẹ áp lực ở vùng đầu, dễ dẫn đến nhập tĩnh. Đan điền còn gọi là Khí hải hay Khí huyệt, ngụ ý là nơi "luyện thuốc", là "bể chứa khí". Đan điền là một huyệt quan trọng trong việc luyện dưỡng sinh của các đạo sĩ, các nhà khí công. Có nhiều trường phái khác nhau và việc tu luyện rất phức tạp. Tuy nhiên, các công phu của đạo gia nói chung và việc phát sinh nội khí để chửa bệnh nói riêng đều dựa vào bí quyết "hồi quang nội thị" hoặc "ngưng thần nhập khí huyệt". Tâm không duyên ra ngoài, hướng đôi mắt vào trong gọi là hồi quang, tập trung thần vào bên trong cơ thể gọi là nội thị. Ngưng thần nhập khí huyệt chính là tập trung tâm ý tại Đan điền để phát sinh nội khí. Lâu dần chân khí được sung mãn sẽ khai thông các kinh lạc bế tắt hoặc bồi bổ cho ngủ tạng để tăng cường sức khoẻ. Một số người tâm dễ xao động có thể cần một phương pháp kiểm soát tâm chặt chẽ hơn. Trường hợp này, nên kết hợp quan sát hơi thở với việc tập trung tại Đan điền bằng cách quan sát sự phồng lên và xẹp xuống tại bụng dưới. Lúc hít vào bụng dưới hơi phồng lên, lúc thở ra bụng dưới hơi xẹp xuống. Chỉ cần thở bình thường. Không cần quan tâm đến thở sâu hay thở cạn, đều hay không đều. Điều quan trọng ở đây là tập trung quan sát để biết rõ ta đang hít vào hay đang thở ra thông qua chuyển động phồng lên hay xẹp xuống ở bụng dưới. Sở dĩ chọn quan sát hơi thở ở bụng dưới mà không phải ở đầu mũi hoặc ở ngực là nhằm tạo quán tính thở sâu kết hợp với việc phát sinh nội khí ở Đan điền như đã dẫn ở phần trên. Thỉnh thoảng sẽ có những lúc tâm bị phân tán, các tạp niệm xen vào. Điều này là bình thường. Chỉ cần khi nhớ ra hãy tập trung trở lại Đan điền hoặc tiếp tục quan sát hơi thở vào ra là đủ. Lâu dần, những tạp niệm sẽ bớt đi, thời gian tập trung sẽ dài hơn, hơi thở sẽ đều, chậm và nhẹ hơn, cho đến lúc không còn ý niệm và quên luôn cả hơi thở. Nếu thường xuyên đạt đến tình trạng này, có nghĩa người tập đã tiến được một bước rất dài. Không chỉ là không bệnh tật mà còn là sự tự tin, cảm thông và hoà hợp để dần dần đạt đến điều mà người xưa gọi là thiên nhân hợp nhất. 6. Xả thiền: Sau khi ngồi thiền, trước khi đứng dậy cần làm một số động tác để cơ thể hết tê mỏi và khí huyết lưu thông bình thường. Từ từ buông thõng hai chân, xoay người qua lại nhiều lần, xoay ở vùng hông và vùng cổ. Dùng hai tay vuốt nhẹ hai bên sóng mũi từ đầu mũi xuống chót cằm, vuốt ấm vành tai. Xoa hai lòng bàn tay vào nhau cho ấm rồi áp vào mắt. Dùng hai bàn tay xoa bóp dọc theo hai chân, từ đùi dài xuống bàn chân. Xoa ấm hai lòng bàn chân. Việc xả thiền tùy thuộc vào mỗi buổi thiền. Nếu chỉ thiền khoảng 15 phút hoặc khi có công việc cần đứng lên gấp thì chỉ cần co duỗi hai chân và xoay người, hoặc lắc cổ qua lại nhiều lần là đủ. NGỒI THIỀN CÓ GÂY NGUY HIỂM GÌ KHÔNG? Một vấn đề cuối cùng mà những người mới tập thiền thường thắc mắc là liệu ngồi thiền có gây nguy hiểm gì không? Câu trả lời sẽ tùy thuộc vào phương pháp và động cơ của việc ngồi thiền. Một số phương pháp thiền có phối hợp với vận khí hoặc có sự hỗ trợ khai mở một số trung tâm lực trong cơ thể nhằm thúc đẩy nhanh quá trình sinh khí và gia tăng nội lực. Các phương pháp này có thể gây những nguy hiểm đi kèm nếu người tập thiếu những kiến thức về khí công, về y học truyền thống hoặc không có đạo sư hướng dẫn để vận dụng và kiểm soát kịp thời nguồn năng lực mới phát sinh. Trái lại, nếu ngồi thiền để đạt đến sự tĩnh lặng trong tâm trí, để thư giãn thần kinh và tăng cường sức khỏe, không vận khí, không bám víu vào bất cứ ảo giác, âm thanh hoặc hình ảnh nào thì không có gì nguy hiểm./. NHỜ ĂN CHAY VÀ NGỔI THIỀN, MỘT BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐÃ THOÁT CHẾT VÀ BÌNH PHỤC Bác sĩ Thú y Ian Gawler bị bệnh ung thư xương vào năm 1975. Lúc đó ông vừa đúng 25 tuổi. Ông được đưa vào bệnh viện và kết quả bị cưa mất hết bên chân phải. Một năm sau, bệnh tái phát trầm trọng. Bác sĩ điều trị bảo ông chỉ còn sống sót được trong một thời gian từ 3 tới 6 tháng mà thôi. Trước tình trạng tuyệt vọng đó, ông Gawler không chịu ngồi bó tay và buồn rầu chờ chết mà cương quyết chống chọi với tử thần hầu tìm cho mình một con đường sống. Ông nghiên cứu các phép ăn chay và ngồi thiền của một số giáo phái Đông Phương rồi cương quyết đem ra áp dụng để tự chữa. Được sự hỗ trợ tinh thần của vợ là Grace Gawler, ông Ian Gawler ăn chay một cách nghiêm chỉnh và đúng cách, đồng thời cũng ngồi thiền một cách thành tâm và chăm chỉ. Kết quả bệnh tình của ông càng ngày càng thuyên giảm rõ rệt và cuối cùng đã hoàn toàn bình phục. Năm 1978, lần xét nghiệm y khoa cuối cùng đã chứng minh ông không còn mang mầm móng gì của bệnh ung thư nữa cả. Ba năm sau kể từ ngày khỏi bệnh, ông bà Gawler chu du khắp nước Úc, đem những kiến thức và kinh nghiệm của mình để thuyết giảng và khuyến khích những bệnh nhân đồng cảnh ngộ hãy hun đúc lòng tự tin và áp dụng phương pháp tự chữa bằng cách ăn chay và ngồi thiền. Cũng dựa vào những kinh nghiệm của chính bản thân đó, ông Gawler đã cho xuất bản hai quyển sách liên quan tới dưỡng sinh và sức khỏe. Quyển thứ nhất có nhan đề là You can conquer Cancer (Bạn có thể Khống chế Bệnh Ung thư) và quyển thứ hai là Peace of Mind (Tâm Bình An). Được hỏi vì sao ông nghĩ ăn chay và ngồi thiền là phương pháp tốt để trị bệnh, ông bảo: "Ăn chay để cho cơ thể của chúng ta có cơ hội thanh lọc và đào thãi ra ngoài tất cả những độc tố đã tích lũy lâu ngày và gây bệnh cho chúng ta. Thịt vốn có những độc tố và những mầm bệnh không khác gì cơ thể của con người. Do đó chúng ta không nên hấp thụ thêm những gì có thể gây phương hại cho cơ thể. Vả lại ăn chay cũng phải dùng những loại rau quả tươi tốt để bảo toàn phẩm chất thiên nhiên. Nấu nướng cầu kỳ biến các thức ăn chay trở thành thơm ngon cho hạp với khẩu vị cũng làm mất đi rất nhiều các chất bổ dưỡng cần thiết. Tốt hơn hết chúng ta nên dùng các thức ăn chay giản dị, thuần khiết, chưa qua giai đoạn chế biến khoa học và đầy đủ phẩm chất bổ dưỡng theo nhu cầu của cơ thể". Quan niệm về vấn đề ngồi thiền, ông Gawler bảo: "Sự thiền định không những là một phương pháp tốt khiến cho tinh thần được an ổn mà còn gia tăng sức khỏe, củng cố đặc tính miễn nhiễm của cơ thể và làm cho cơ thể có khả năng bẩm sinh đề kháng lại một số bệnh tật. Việc ngồi thiền đòi hỏi chúng ta phải có lòng tự tin, thành tâm và ý chí cương quyết. Sự ích lợi của việc ngồi thiền giúp chúng ta có cơ hội trở về với trạng thái tĩnh lặng của tinh thần lẫn vật chất. Do đó cơ thể của chúng ta sẽ trở lại vị trí ban đầu còn thanh khiết của lúc sơ sinh: Quân bình thể chất là làm cho chúng ta có một sức khỏe tự nhiên nhờ ở trạng thái thư dãn của các cơ quan và ngũ tạng. Quân bình tinh thần khiến chúng ta có cách suy nghĩ rõ ràng và chín chắn, có khả năng tự chủ và tự quyết định mọi vấn đề một cách nhanh chóng và dứt khoát. Quân bình tâm linh là sự hòa hợp của các bản thể nội tại. Trong lúc ngồi thiền, chúng ta sẽ trực giác được chính mình là ai và từ đó sẽ thấy tâm hồn của mình rất là đơn thuần. Đồng thời lòng vị tha và bác ái càng thêm phát triển. Ngoài ra thể nghiệm trực tiếp trong nội tâm cũng giúp chúng ta củng cố được lòng tin nội tại, saün sàng đối đầu với tất cả mọi thử thách kể cả khi cận kề với cái chết mà mình không thể tránh được. Năm 1992, ông bà Gawler đã cho thành lập trung tâm điều dưỡng tại Yarra Valley ở về phía Đông và cách thủ phủ Melbourne 70 cây số. Trung tâm này có khả năng cung cấp nơi tạm trú cho một số khách thập phương đến tham khảo và thực tập phương thức dưỡng sinh để trị bệnh. Trung tâm cũng có khu riêng biệt cho các bệnh nhân thực tập ngồi thiền. Đặc biệt bà Grace Gawler phụ trách săn sóc và hướng dẫn các bệnh nhân phụ nữ mắc bệnh nan y tự chữa trị mà phần lớn là những phụ nữ bị bệnh ung thư nhũ hoa. Trung tâm cũng mở các khóa hướng dẫn cách thức nấu ăn chay bổ dưỡng và thanh khiết. Hàng năm trung tâm cũng có tổ chức các cuộc hội thảo quốc tế về phương pháp chữa bệnh nan y bằng cách ăn chay và ngồi thiền. Đặc biệt trong hai cuộc hội thảo hồi tháng 3 và tháng 9 năm 1997, bàn thảo về đề tài Phương pháp tự chữa bệnh ung thư hiện đang lan tràn trên thế giới. Ông Gawler bảo thỉnh thoảng cơ quan y tế của chính phủ cũng có theo dõi kết quả của các bệnh nhân đã chữa bệnh ung thư bằng phương pháp ăn chay và ngồi thiền do chính vợ chồng ông chủ trương và điều khiển. Ông bảo chữa bệnh bằng phương pháp này thường không gây ra các phản ứng phụ. Tuy nhiên việc chữa bệnh nan y bằng phương pháp dưỡng sinh không được phổ biến lắm vì chỉ căn cứ trên kinh nghiệm rồi đem ra áp dụng và chờ kết quả, chớ không dựa trên cơ sở khoa học là phân tích, thí nghiệm, chứng minh rồi mới đem ra áp dụng sau. Vì lẽ đó phần đông các chuyên gia y tế đã thờ ơ trước những kết quả tốt đẹp mà phương pháp này đã mang lại khá nhiều ích lợi cho bênh nhân. Tóm lại thảo luận về vấn đề ăn chay và ngồi thiền theo quan niệm tôn giáo sẽ gây ra nhiều tranh cãi. Tuy nhiên phương pháp tự chữa bệnh nan y bằng cách ăn chay và ngồi thiền đã đạt được nhiều kết quả khả quan và đã lôi kéo được sự chú ý của khá đông quần chúng Úc. Ngoài trung tâm chữa bệnh nan y bằng phương pháp dưỡng sinh do ông bà Gawler sáng lập ra ở Victoria, tại tiểu bang New South Wales, cũng có một trung tâm điều dưỡng tương tợ do các bác sĩ và chuyên gia dinh dưỡng của Hội Sức Khỏe Tự Nhiên (Natural Health Association) thiết lập. Đó là trung tâm Hopewood tọa lạc tại khu vực Blue Mountain.
    1 like
  6. Vợ chồng cùng tuổi sinh năm nào cũng được. Cái này tôi nói rồi mà. Con út nên là Đinh Dậu. Con trai tốt hơn con gái.
    1 like
  7. Chắc khoảng 27 lấy chồng, yêu ai nhiều nhất thì cưới, duyên số rồi, kô chọn được tuổi đâu. Đã nói cung Phu rất tốt, kô có chuyện lằng nhằng, chỉ sợ cô kô giữ mình = chồng thôi :D Tham Vũ đồng hành tham vọng kinh doanh có sẵn trong máu rồi, nhưng ít ai thành công trước 30 Nói là chăm chồng chăm con, nhưng Thân cư di con người như của xã hội, hiếm người nội trợ đảm đang. Đàn ông lấy vợ Thân cư di, bắt buộc phải học nấu cơm rửa bát chăm con là thế
    1 like
  8. Anh Vusonganh phân cung chưa chuẩn rồi nà, mũi tên chỉ hướng ko song song với hướng nhà ^^. Mà hình vẽ thế này thì sao mà xem cho kĩ được, chắc đợi bản vẽ khác của gia chủ ^^ (chủ topic nên xem các bài khác có hình vẽ trong mục này để tham khảo)
    1 like
  9. Chào anh Cháu lớn nhà anh vẫn còn nhỏ, kô nên xem cho cháu, anh hãy đợi cháu lớn hơn chút nữa (13 tuổi) thì tốt cho cháu hơn. Tuy nhiên anh chị nên lưu ý có biện pháp giáo dục và định hướng cho cháu từ nhỏ. Về việc sinh cháu thứ 2, nếu có sự lựa chọn giữa 2011 và 2013, theo tôi năm 2013 sẽ tốt hơn và khả quan hơn 2011. Xin hỏi anh, anh có anh chị em liên quan đến hình pháp? Chúc anh chị hạnh phúc
    1 like
  10. Mối tình Công Vinh - Thủy Tiên qua con mắt của nhà tướng số học Tôi là một nhà tướng số học, cũng là người yêu bóng đá, đặc biệt ngưỡng mộ cầu thủ Lê Công Vinh. Vì ngưỡng mộ cầu thủ này, ông đã quan tâm đến tất cả những vấn đề liên quan đến Công Vinh. Và thật đặc biệt, tôi quan tâm đến mối tình Công Vinh - Thuỷ Tiên. Theo tôi, sở dĩ tiền đạo số một Việt Nam đang gặp trắc trở trên sân cỏ vì vướng vào mối tình này. Sự trắc trở này có liên quan đến âm - dương, tướng - số… >> Công Vinh: Đi một ngày đàng, học một sàng... dại? Tôi viết những điều này dựa trên cơ sở tướng số học. Đây là một bộ môn khoa học phương Đông, thực tế thì nhiều người đều biết để xem số theo cách này. Nhưng thông thường, các học giả đều dựa trên những công thức đã được đúc kết từ trước. Họ thường lấy ngày, giờ, năm sinh… rồi dựa theo những bản mẫu đã có sẵn để luận giải. Làm như vậy sẽ rơi vào sự cứng nhắc, thậm chí sai hoàn toàn. Việc xem tướng số, hay tử vi không đơn giản như vậy. Người nào nghiên cứu sâu về bộ môn này sẽ thấy rõ rằng, những công thức trên chỉ là cơ bản, xương sống. Để xem chính xác cần sự “cảm nhận” hết sức tinh ý. Vinh có một năng lượng rất dồi dào, khả năng chịu đựng tốt, đặc biệt là lý trí thể hiện ở đôi mắt (nhãn quang) Hơn nữa, việc xem lá số một con người liên quan đến vô vàn thứ khác, không đơn giản chỉ ở năm sinh tháng đẻ… Tôi đã có dịp gặp cầu thủ Lê Công Vinh, dù chưa một lần trực tiếp trò chuyện cùng cậu ấy, tôi vẫn cảm nhận được năng lượng từ con người này. Điều đầu tiên tôi cảm nhận là Vinh có một năng lượng rất dồi dào, khả năng chịu đựng tốt, đặc biệt là lý trí thể hiện ở đôi mắt (nhãn quang). Từ lần gặp đầu tiên ấy, tôi đã đoán ngay cậu ta chỉ có thể cầm tinh con trâu. Và đúng như vậy, khi tôi tra ngày sinh tháng đẻ của cậu ấy. Công Vinh sinh năm Ất Sửu, bản mệnh theo sách là Hải Trung Kim (vàng giữa biển)… tất nhiên những “dữ liệu” này không nói lên điều gì to tát và cũng chưa quyết định đến đường đi của lá số cậu ta. Nếu cứ kiến giải theo kiểu tra công thức như vậy thì ai cũng có thể trở thành nhà xem tướng, tất cả cứ co rúm theo một khuôn mẫu định sẵn thì còn gọi gì là cuộc sống? Sự sống, hay số mệnh của mỗi người được quyết định bằng chính người đó. Đây là điều cốt lõi nhất của văn hoá phương Đông, cũng là cách để chúng ta kiến giải về lá số từng người. Lê Công Vinh là một cầu thủ giỏi. Cậu ấy giỏi trước hết nhờ vào bản tính cần cù của những người tuổi Sửu, chúng ta sẽ rất dễ gặp bản tính chăm chỉ, cần mẫn, quyết tâm ở những người sinh năm Sửu. Đó chính là căn mệnh đã định của lá số, nói đơn giản là người đó được hưởng một thứ năng lượng có sẵn từ khi sinh ra. Thế nhưng sự cần cù, chăm chỉ ấy chỉ được phát huy nếu bản thân, hay thể xác anh ta sống trong một môi trường thật khắc nghiệt. Tức là phải chịu đựng thử thách, luôn gặp điều khó khăn kể cả cuộc sống tinh thần. Chỉ có môi trường “nặng” như vậy mới đủ sức “đè” để tất cả những nguồn năng lượng định sẵn trong cung của người sinh tuổi Sửu bùng nổ. Và khi cái năng lượng kia phát huy nó sẽ biến con người (cơ thể, tinh thần) trở thành một tổ hợp mạnh mẽ. Nói nôm na là được rèn luyện mà thành. Trong trường hợp của Lê Công Vinh thì đúng hoàn toàn, và bản thân cậu ấy cũng đã thừa nhận như vậy với công chúng. Những người tuổi Sửu là nam giới như Công Vinh, lại sống trong môi trường bóng đá, cần nhiều thể lực nên phát huy rất tốt khả năng này. Thế nhưng theo quy luật của âm - dương, những người có lý trí, thể lực mạnh mẽ lại yếu về cung âm, ở trường hợp Lê Công Vinh có sao chủ mệnh là Cự Môn nên rất dễ bị người khác dựa vào. Nói chính xác hơn là dễ bị “hút” năng lượng nếu không gặp được người hoà hợp. Hơn nữa những người có sao chủ thân là Thiên Tướng, lại sống trong môi trường cạnh tranh mạnh như Công Vinh sẽ rất dễ rơi vào trạng thái hụt hơi, mệt mỏi, thậm chí đột quỵ nếu không tập trung, hoặc dàn trải sức lực quá nhiều. Ca sĩ Thủy Tiên và cầu thủ Lê Công Vinh Trở lại mối tình của Vinh với ca sỹ Thuỷ Tiên, người cũng sinh năm Ất Sửu, rất tiếc tôi không có thông tin về ngày giờ sinh của cô ca sỹ này. Thế nhưng cũng đủ để kiến giải tại sao sự “hoà hợp” của họ là không nên. Người mang Âm Nữ lại sinh năm Sửu như Thuỷ Tiên về mặt cuộc sống cũng tựa như nam giới, tức là sẽ phát huy được nguồn năng lượng của mình nếu sống trong môi trường khắc nghiệt. Nếu xét trên bình diện thực tế thì Thuỷ Tiên có khả năng độc lập về công danh, tài lộc… nghĩa là không cần dựa vào bất cứ ai cũng có thể phát huy được khả năng của mình. Thế nhưng do là Âm Nữ nên phần âm mạnh mẽ, lý trí không ổn định, luôn suy nghĩ nhiều và hay hướng ngoại (tưởng tượng). Nếu như sức hướng nội (cũng là một dạng năng lượng tưởng tượng) của Thuỷ Tiên tốt thì hoà hợp được âm – dương chính trong thể xác. Nhưng khi xem qua nhân tướng (chân dung) của Thuỷ Tiên tôi thấy đây là một phụ nữ ít hướng vào bên trong, thậm chí không có, chỉ phụ thuộc phần nhiều vào tâm trí, mà tâm trí thì luôn vận động không ngừng. Vì vậy cô ấy có sắc tướng yếu ớt, xanh xao, lạnh về nhãn quang, gầy về cơ thể, xương to hơn cơ… những yếu tố này tạo nên một thứ “năng lượng” quanh cơ thể, luôn thôi thúc cơ thể làm việc không ngưng nghỉ. Chính điều này tạo ra sự bất hoà khi gần với năng lượng của Công Vinh. Gần đây tôi có xem qua nhân tướng (chân dung) của Công Vinh thấy rất rõ sự bất hoà về năng lượng bên trongSự bất hoà này bản thân người trong cuộc sẽ không nhận ra, bởi con người thường xúc chạm với nhau bằng vật chất thôi (cơ thể, tinh thần), còn thứ năng lượng cốt yếu lại nằm ở thể vi tế (rất thanh nhẹ) khó cảm nhận được bằng các giác quan thông thường. Hơn nữa trong quan hệ nam - nữ, xét về bản chất thì nam (dương) đang đi tìm nữ (âm) ở chính trong cơ thể mình. Nói đơn giản rằng, người phụ nữ bên ngoài nếu tương hợp được chính người phụ nữ bên trong của người đàn ông thì anh ta sẽ yêu và ngược lại với phụ nữ cũng vậy. Trong trường hợp của Công Vinh và Thuỷ Tiên do cùng sinh năm Sửu, lại rất giống nhau về môi trường sinh trưởng (vất vả, khắc nghiệt…) nên họ dùng nhiều tâm trí, trong đó lý trí của họ quyết định mọi việc. Vì thế cái năng lượng ở thể vi tế (thanh nhẹ) bị lấn át, hoặc mất hoàn toàn. Vì dùng tâm trí nên dễ bị đánh lừa rằng họ đang cần nhau, ở đây không có chỗ của cảm xúc vì thế họ hoàn toàn không nhận ra, mà còn cảm thấy thoả mãn vì sự xúc chạm ở thể thô của năng lượng. Chẳng hạn như chúng ta rất dễ cảm nhận vị ngon của thức ăn, nhưng sẽ không cảm nhận được sự chuyển hoá năng lượng của nó. Nói một cách nôm na rằng, họ ít có cảm xúc và mọi hành động đều dựa trên sự “chỉ huy” của lý trí, mọi xúc chạm cũng chỉ dừng ở mức độ năng lượng thô… Vì vậy dẫn đến tình trạng “bất hoà năng lượng bên trong”. Có thể hiểu đơn giản thế này, cái năng lượng bên trong của họ rất muốn gặp nhau, nhưng bị ngăn cản bởi tâm trí vì tâm trí họ vận động rất mạnh nên không cho phép cảm xúc xuất hiện. Khi cảm xúc bị ức chế sẽ dẫn đến tình trạng “đè nén” năng lượng. Khi ấy cơ thể trở nên mệt mỏi, dù tâm trí có mạnh đến đâu cũng có ngưỡng của nó. Bản chất thiên nhiên đã tạo ra những quy chuẩn để tồn tại, nếu một cái gì đó vượt ngưỡng, chẳng hạn như cơ thể quá mệt vì vận động sẽ sinh ra truỵ tim (ngất tạm thời), thực ra đó là cách tự cứu mình mà tự nhiên đã định hình. Và tâm trí cũng vậy, khi vận động quá mức sẽ sinh ra một dạng năng lượng xấu, và nếu cộng thêm cơ thể mệt mỏi sẽ phát tán ra thứ năng lượng bất bình thường nằm ngoài sự kiểm soát của cơ thể, cũng như tinh thần. Công Vinh là nạn nhân của vấn đề này, cơ thể cậu ấy đã bị vận động quá nhiều, lại thêm tâm trí hoạt động cực đại nên thường gặp những sự cố không mong muốn . Với tư cách là một học giả, nghiên cứu sâu về bộ môn khoa học Đông Phương này, tôi tiên đoán mối tình họ sẽ sớm tan Và gần đây tôi có xem qua nhân tướng (chân dung) của Công Vinh thấy rất rõ sự bất hoà về năng lượng bên trong. Đặc biệt nhãn quang (mắt) của cậu ấy đã mất đi sự nhạy bén của lý trí, tức là tận sâu trong cơ chế của tự nhiên đã khoá lại để cứu nguy cho cơ thể và tinh thần bên ngoài, hiểu cách khác là chặn sự vượt ngưỡng (tâm thần phân liệt cũng là một dạng như thế). Nếu như bây giờ tâm trí của Vinh không bị phân tán, hay nói đúng hơn là không bị ảnh hưởng nhiều vì năng lượng âm của Thuỷ Tiên sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Cơ chế của tự nhiên sẽ “nhả khoá” để nguồn năng lượng trở về vị trí cũ và phát huy như vốn có. Tôi cá trăm phần trăm rằng thị lực của tiền đạo này đang gặp vấn đề! Hơn nữa khi năng lượng đã bị khoá, mà tâm trí vẫn thôi thúc nghĩa là cậu ấy đang “tiến” không theo một quy luật nào, nói nôm na như kiểu chúng ta tham gia giao thông mà không đi đúng luật, ngay lập tức sẽ bị va chạm. Thực tế chứng minh, Công Vinh thi đấu không tốt, hay va chạm và gặp chấn thương, chưa kể tinh thần bất ổn định… Với dung lượng của một bài viết sẽ không đủ để kiến giải kỹ lưỡng về trường hợp của Công Vinh, tôi chỉ cô gắng nói thật đơn giản. Nếu họ vẫn cố đến với nhau như vậy sẽ gặp những trắc trở khó lường. Tất nhiên, lý trí, hay tâm trí luôn chỉ đạo mọi việc với con người, nhưng đến một lúc nào đó cơ chế của tự nhiên sẽ ngăn chặn bằng sự tinh tế vốn có của nó. Với tư cách là một học giả, nghiên cứu sâu về bộ môn khoa học Đông Phương này, tôi tiên đoán mối tình họ sẽ sớm tan. Cũng may, họ là những thực thể mang năng lượng còn tươi nguyên, chưa bị nhuốm bẩn nên cái gọi là tình yêu của họ sẽ tự tan rã để bảo toàn tính tự nhiên của nó. Quy luật của tự nhiên là vậy, cũng như nghệ thuật phong thủy, hiểu một cách cơ bản nhất là sự hài hoà, nếu bất hoà sẽ tán khí và mất năng lượng, đơn giản chỉ có thế. Dù rất yêu mến, ngưỡng mộ tài năng của Công Vinh - Thủy Tiên và luôn cầu mong cho họ những điều tốt nhất nhưng những kiến giải trên đây hoàn toàn là vấn đề tướng số học. Các cụ nhà ta vẫn có câu “Trăm đường không tránh khỏi số phận” nhưng cũng có câu “Đức năng thắng số”. Tôi ước cho họ ở vào trường hợp thứ hai… Theo Hoàng Thanh Long Bóng đá 4.4.2
    1 like
  11. - Thưa Anh Giaback ! Người này dáng cao, người gầy mặt lộ hầu lộ. Tính nóng nảy nhưng liêm khiết, trong lòng anh ta luôn ôm chặt một khối tình có thể là trong tình yêu hai người phải xa nhau hoặc thất bại trong tình yêu nhưng vẫn giũ được mối tình ấy mãi mãi. - Một đặc điểm của người này là tìm thấy tài lộc nơi viễn phương càng đi nhiều anh ta càng kiếm được nhiều tiền , người này kiếm tiền bằng nghề lưu động di chuyển nhiều. - Năm nay anh ta có thể thay đổi nghề nghiệp hoặc chỗ ở , cũng có thể phải bán bất động sản. Hoặc phải đi xa đi lại nhiều. Có thể là tháng 4 hoặc tháng 7 âm lịch có sự thay đổi
    1 like
  12. ngày canh tí 8 tháng nhâm ngọ năm canh dàn giờ ngọ. Anh - Angeria Đoán cho đội Anh, quẻ Cảnh Lưu Linh. Đoán: trận này có vẻ gây cấn, có thể có va chậm giữa các cổ động viên, đội anh chơi mạnh bạo, hiểm hốc, đôi khi có vẻ không "lịch sự như người Anh". Đội Anh để lỡ một trái ở ngay hiệp đầu, gỡ lại được 1 trái cho lần sau. Angeria thì ngược lại, chơi chiến thuật phòng vệ tấn công, sẽ ghi 2 bàn do chân suýt của 2 hậu vệ. Tỷ số nghiêng về Angeria 2 - 1. Hà Lan - Nhật Bản Đội nào thắng? Tử Tốc Hỷ Đội Nhật sẽ thua trong danh dự của tinh thần Samurai. Họ sẽ được ngợi khen vì tinh thần thể thao trong sáng và nhận lãnh một trái bóng danh dự xứng đáng và đẹp mắt. Tỷ sẽ là 4-1 hoặc 4-2, Hà Lan tiếp vào vòng trong. Ghana - Australia Ghana là ai? Có lập nên thành tích? Kinh Xích Khẩu Đoán: Trận đấu này sẽ quyết liệt gay cấn đến phút chót, có va chạm giữa các cầu thủ trên sân cỏ và giữa các hollygan. Hai bên đều chơi tấn công, Australia có nhiều pha bàn đẹp và bất ngờ, các tiền vệ tấn công hoạt động năng nổ mọi góc sân đấu. Chiến thắng xít sao của Ghana làm cho australia nản lòng, 4 - 3. Muốn biết sự thể ra sao, xem 3 trận tối hôm nay sẽ rỏ. Hong biết trúng mấy quả nữa. hic. Chắc đi vài "xị" qué. :D Thiên Đồng
    1 like
  13. ĐỨC PHẬT VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Thích Minh Thiện Cuộc đời của Đức Phật, từ khi Đản sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, độ sanh, cho tới khi nhập Niết Bàn, tất cả hành động của Ngài đều là những bài học vô cùng giá trị cho nhân thế. Đức Thế Tôn từng tuyên bố: “Nầy các Tỳ kheo, xưa cũng như nay, ta chỉ dạy hai điều: là sự khổ và con đường đưa đến diệt khổ” (Trung Bộ Kinh III), Đức Phật cũng đã dạy rằng: “Như Lai ra đời vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc cho đời, vì an lạc cho chư Thiên và loài người” (Trường Bộ kinh II). A . DẪN NHẬP Cuộc đời của Đức Phật, từ khi Đản sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, độ sanh, cho tới khi nhập Niết Bàn, tất cả hành động của Ngài đều là những bài học vô cùng giá trị cho nhân thế. Đức Thế Tôn từng tuyên bố: “Nầy các Tỳ kheo, xưa cũng như nay, ta chỉ dạy hai điều: là sự khổ và con đường đưa đến diệt khổ” (Trung Bộ Kinh III), Đức Phật cũng đã dạy rằng: “Như Lai ra đời vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc cho đời, vì an lạc cho chư Thiên và loài người” (Trường Bộ kinh II). Lúc sanh tiền, mỗi khi Ngài đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng, lúc ngủ, hay thức thì sự chánh niệm của Ngài đều là những bài học vô cùng sống động và hữu ích cho chúng sanh. Hôm nay, nhân kỷ niệm mùa Phật Đản tôi xin chia sẻ cùng hội chúng về nhà GIÁO DỤC VĨ ĐẠI, ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI. B. NỘI DUNG I./ ĐỊNH NGHĨA 1. Theo thế gian : “Giáo dục”: Nghĩa là tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, để họ dần dần có những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. Giáo có nghĩa là dạy bảo, khuyên nhủ, dạy dỗ, nhắc nhở nhằm phát triển về mặt tinh thần. Dục nghĩa là nuôi nấng, nuôi dưỡng, chăm sóc nhằm phát triển về mặt thể xác 2. Theo quan điểm Phật giáo .Trong Kinh điển Phật giáo, giáo dục phải hiểu là “giáo hóa”. Từ nầy có gốc từ tiếng Phạn pri-pàka. Giáo là khiến cho con người hiểu và hành được các thiện pháp; Hóa là khiến cho con người xa lìa các ác bất thiện pháp. Tương tợ như từ giáo hóa, trong kinh điển ta còn bắt gặp các từ khai hóa, nhiếp hóa, khuyến hóa, cảm hóa, chuyển hóa,…Tất cả từ “Hóa” trên đây, cái nghĩa của chúng rất quan trọng như: chuyển hóa phàm phu thành Thánh nhân, chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc, chuyển hóa tham, sân, hôn trầm, thụy miên, trạo hối, nghi ( năm triền cái) thành năm thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Vậy Giáo dục ở đây đồng với nghĩa tu hành. II/. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC: “Nhược vô thế gian Sư trưởng tất bất giải lễ nghĩa Nhược vô xuất thế gian Sư trưởng tất bất giải Phật pháp Bất tri lễ nghĩa tắc đồng ư dị loại Bất giải Phật pháp tắc hà dị tục nhơn” ( Tỉnh Am Đại Sư - Khuyến Phát Bồ Đề Tâm) Theo quan điểm thế gian, người ta quan niệm rằng mục đích giáo dục là đào tạo con người có nghề nghiệp giỏi và có mảnh bằng tốt trên tay, phát triển cả trên phương diện nhân cách đạo đức để mưu cầu sự sống cho bản thân và xã hội ngày càng tốt hơn. Tóm lại, mục đích Giáo dục ở thế gian hướng đến đảm bảo trên cả hai phương diện: vật chất và tinh thần. Theo đạo Phật, mục đích Giáo dục Phật giáo mang ý nghĩa cao tột hơn, giáo dục Phật giáo không chỉ là việc dạy và học mà là một quá trình chuyển hóa nội tâm. Chuyển hóa cái xấu thành cái tốt, nuôi dưỡng, tưới tẩm, vun bón cái tốt, trang bị cho mỗi cá nhân nhận thức chánh kiến, niềm tin chánh kiến, phẩm chất, tâm linh thanh cao. Đây là hành trang cho mỗi cá nhân đi vào đời có cuộc sống an lạc, gia đình hạnh phúc, xã hội công bằng, giàu đẹp. Do đó, ta có thể nói giáo dục Phật giáo là giáo dục hòa bình, giáo dục nhân cách con người, giáo dục sự bình đẳng, không phân biệt, kỳ thị giai cấp, tôn giáo,….. Đức Phật dạy: “Không có giai cấp ở những con người có dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn” Với mục đích hoằng dương Chánh Pháp, Đức Phật đã dạy các đệ tử của Ngài hãy tiếp tục ra đi, vì lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn đối với đời, vì lợi ích, an lạc và hạnh phúc của Chư Thiên và loài người. “Nầy các Tỳ kheo, hãy đem lại sự tốt đẹp, hoằng pháp lợi ích cho nhiều người, hãy hoằng dương Chánh Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối, toàn hảo cả trong tinh thần và văn tự, hãy công bố đời sống thiêng liêng, cao thượng và toàn thiện” (Kinh Mahàvagga - Sanyatta – Nikaya). Kho tàng Giáo lý mà Đức Phật để lại cho nhân gian ví như ngọn đèn trong đêm tối, như la bàn cho người đi biển. Đức Phật đã dạy rất cụ thể trong Kinh Chuyển Luân Thánh Vương, thuộc Trường A Hàm, nền tảng để người đệ tử Phật thực thi nếp sống vững chải, an lạc, hạnh phúc : “Các ngươi phải siêng năng tu tập các điều thiện mà được mạng sống lâu dài. Nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ”. Vì vậy, mục đích Giáo dục của Đức Phật là để giúp con người có cái nhìn chánh kiến, hiểu rõ nhân quả, nghiệp báo, luân hồi, duyên khởi của các pháp, đưa con người trở về tâm an định, vững vàng, không sợ hãi, không rơi vào những thói quen tham lam, giận dữ, thù hận, đau khổ, tuyệt vọng, có phương pháp chế ngự và chuyển hóa các tâm bất thiện thành tâm thuần thục. Rèn luyện cho con người kỹ năng tự tin, lạc quan. “Từ bi” và “Trí tuệ” là phương châm hình thành nhân cách toàn thiện của Phật giáo, để đạt sự an lạc giải thoát, hạnh phúc ở ngay hiện tại. III. Đối tượng Giáo dục của Đức Phật .Đối tượng Giáo dục Phật giáo gần gũi nhất chính là con người và mọi người. Đức Phật dạy: “Ta ra đời vì một sự nhân duyên lớn, mở bày phương pháp hướng chúng sanh đi vào tri kiến Phật” (Khai, thị, ngộ, nhập – Kinh Pháp Hoa). Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Thế Tôn đã dạy Anan: “Này Anan, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác” . Chỉ có con người mới nương tựa Chánh pháp để giác ngộ chính con người, ngoài con người, không có vị thần linh nào giải thoát cho con người cả. Đối tượng giáo dục của Đức Phật nhắm vào năm cấp độ: Nhân Thừa: Lấy con người làm đối tượng giáo hóa. 1.Về mặt đạo đức cá nhân: nền tảng căn bản chính là hành giả phát tâm thọ tam quy và trì ngũ giới: 1.1 >Tam Quy: Quay về nương tựa ba ngôi báu : Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo Quy y Phật, Pháp, Tăng thì được kết quả là bất đọa địa ngục, bất đọa ngạ quỷ, bất đọa bàng sanh … 1.2> Ngũ Giới: sau khi Quy y Tam bảo, người Phật tử cần thọ trì năm điều giới cấm, năm giới thuộc về Luật, là hàng rào răn nhắc hành giả giữ gìn ba nghiệp được thanh tịnh, là nền tảng hình thành nhân cách, đạo đức của mỗi cá nhân: Tôn trọng sự sống và hạnh phúc của muôn loài. Đồng nghĩa là không sát sanh. Tôn trọng tài vật và sản phẩm của mọi người. Đồng nghĩa là không được trộm cắp và hối lộ. Tôn trọng quyền hạnh phúc gia đình và bình đẳng nam nữ. Đồng nghĩa là không được ngoại tình trong sự chung sống vợ chồng. Tôn trọng quyền chính đáng phát biểu ý kiến xây dựng và thân ái. Đồng nghĩa là không được nói láo và thô bạo. Tôn trọng quyền hưởng thụ và giải trí lành mạnh. Đồng nghĩa là không được ăn chơi bừa bãi, uống rượu say sưa, dùng ma túy, phim ảnh, sách báo, văn hóa phẩm có nội dung dồi trụy... 2. Về mặt quan hệ hành xử: Mỗi người cần hành xử và quan hệ đúng đắn, có tình có lý trong trong sáu quan hệ, mối tương quan giữa con người và xã hội, cộng đồng được nêu bật qua lời dạy của Đức Phật trong Kinh Thi Ca La Việt : (Quan hệ giữa Cha Mẹ và con cái, giữa Thầy và trò, giữa chồng và vợ, giữa bạn bè với nhau, Quan hệ giữa chủ nhà và người giúp việc, Quan hệ giữa tu sĩ và cư sĩ ) Thiên Thừa: Đức Phật giáo hóa hành giả tu tập theo 10 điều lành (Thập thiện nghiệp) dựa trên nền tảng giữ gìn ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý thanh tịnh. Thân (có 3): Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm Khẩu: (có 4) : Không nói láo, không nói thêu dệt, không nói kiểu trước mặt, sau lưng bất nhất, không nói thô ác. Ý: (có 3): Không tham dục, không oán thù, không mê chấp. Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa: Đức Phật chỉ bày cho những vị tu theo đạo xuất thế, như những người nghe Đức Phật giảng pháp Tứ đế mà ngộ đạo, thì gọi là Thanh Văn; còn những người sanh ra đời không gặp Phật, tu tập, quán chiếu thuần thục về 12 nhân duyên mà đắc đạo, gọi là Bích Chi Phật hay Phật Độc Giác (Duyên giác Thừa). Về mặt hành xử: Tất cả đều phải tri và hành đầy đủ pháp môn: Tứ đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên,… Bồ Tát Thừa: Lấy các vị tu xuất gia và tại gia mà có trình độ giác ngộ và lòng từ bi, cứu khổ, lợi tha làm đối tượng giáo hóa. Về mặt đạo hạnh: Mỗi vị Bồ tát phải tu dưỡng thân tâm bằng 10 giới trọng và 48 giới khinh làm cơ sở đạo đức. Về mặt thực hành: Tu Bồ tát thừa, vị ấy cần thực hành hai pháp môn: Tứ hoằng thệ nguyện, Lục độ Ba La Mật. Phật thừa: Quả vị giác ngộ cao đẹp nhất. Lấy quả vị thành Phật làm đối tượng giáo hóa. Bỡi lẽ, chư Phật lấy tất cả chúng sanh làm tâm mình, và lấy tất cả vũ trụ thế giới nầy làm thân mình. Do vậy, Đức Phật lấy: Đại từ bi, đại trí tuệ, đại dũng mảnh hay Đại hùng, Đại lực, Đại Từ bi làm phương tiện tu dưỡng. Giác ngộ, giải thoát và bình đẳng làm cứu cánh thành đạt. IV. Phương pháp giáo dục của Đức Phật: Nguyên tắc: Thế Tôn vận dụng khéo léo Tứ khế (lý, cơ, thời, xứ) như thầy thuốc chữa bệnh cho người bệnh. Đức Phật dạy: “Ta như vị lương y tùy bệnh cho thuốc”. Vì vậy, trong giáo dục Phật giáo, phương pháp được áp dụng từ kinh nghiệm thực tế của sự tu tập nơi chính bản thân. Tùy theo căn tánh, trình độ, hoàn cảnh,…mà Đức Phật có phương pháp giảng dạy cho đối tượng. Thí dụ người nặng lòng sân thì Đức Phật dạy tu quán từ bi, người nhiều tham dục Ngài dạy pháp quán bất tịnh. Đây là lối giáo dục linh động và thiện xảo. “Từ bi thắng sân hận Hiền thiện thắng hung tàng Bố thí thắng xan tham Chân thật thắng hư ngụy” Pháp cú 103, ghi: “Chiến thắng vạn quân không bằng t ự chiến thắng mình, tự chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất” Trong kinh Pháp Hoa, phẩm 5, Dược Thảo Dụ, Phật dạy “ Ví dụ trong một trận mưa, nước mưa rơi xuống đất, thấm nhuần các chủng loại cỏ cây, cây lớn hút nước nhiều, cây nhỏ hút nước ít, song qua quá trình mưa xuống, tất cả đều hút nước và tươi tốt. Cũng vậy, trong buổi thuyết pháp của Đức Phật, có vô số chúng sanh nghe pháp, người trí nghe và hiểu pháp nhiều, người kém trí nghe và hiểu ít, song qua quá trình nghe pháp, mọi người đều nghe và lần lượt giải thoát” Như chúng ta đã biết, Đức Phật - một nhà giáo dục tuyệt vời, giáo hóa vô số chúng sanh, trong đó có các vua chúa, quần thần, tôi tớ, người giàu sang, kẻ nghèo hèn, ngoại đạo, giặc cướp, kỷ nữ,…không có việc giáo hóa nào giống giáo hóa nào. Bỡi lẽ, Ngài biết vận dụng nhiều phương pháp khác nhau, nhưng tất cả đều không ngoài việc giáo dục con người đi theo con đường Bát chánh đạo và trên cơ sở Giới Định Tuệ, nhắm tới việc hoàn thiện, rèn luyện một con người có đầy đủ nhân cách, hạnh đức, tâm đức và tuệ đức theo đúng tinh thần giáo dục Phật giáo . Trong Kinh Tăng Chi III, chương Tâm Pháp, phẩm lớn, Phật dạy: “Ví như nước biển chỉ có một vị mặn, cũng vậy, này Pahàrada, pháp và luật của ta chỉ có một vị, đó là vị giải thoát” Ngoài giáo dục bằng khẩu giáo, ý giáo, truyền đạt tư tưởng nền tảng, xây dựng nên nhân cách đạo đức trên Tam Vô Lậu Học. Bên cạnh đó, ta thấy rõ giáo dục Phật giáo rất xem trọng thân giáo. Thân giáo nói lên nhân cách, đạo hạnh, nét đẹp khả kính của vị Thầy. Đức Phật thường dạy: “tri hành hợp nhất” (nghĩa là lời nói phải đi đôi với việc làm). Hình ảnh của vị Thầy thế gian được ví như người lái đò chở người sang sông. Trong Phật giáo, người Thầy chẳng những là người đã chở khách sang bờ sanh tử, mà còn là người được kính trọng từ sự thanh cao, mẫu mực, ví như tấm gương sáng để mọi người soi vào mà tu tập, sửa đổi. Ngoài ra, trong quá trình giáo dục Phật giáo, Đức Phật dạy chúng ta ứng dụng Tứ nhiếp pháp vào quy trình giảng dạy để đạt kết quả tốt đẹp hơn. Ngoài ra ở các Kinh Xà Dụ, Kinh Kim Cương, Kinh Gò Mối,…còn có nhiều phương pháp bằng ví dụ nổi tiếng và phổ biến như: “Giáo lý như chiếc bè để qua sông, không phải để nắm giữ” “Giáo lý như ngón tay chỉ mặt trăng, như bản đồ chỉ đường” Đức Phật : nhà Giáo dục tuyệt vời. D. KẾT LUẬN: Tóm lại, phương pháp giáo dục của Đức Phật, chính là con đường hoàn thiện nhân cách, là phương pháp giáo dục đặc thù. Làm nền tảng cho tất cả các phương pháp giáo dục khác ở thế gian, được kết tinh từ tuệ giác tu chứng của Đức Thế Tôn, nhằm giúp cho con người đạt được hạnh phúc và giải thoát khổ đau. Đây là những phương pháp giáo dục rất nhân bản, rất tâm lý, rất khoa học, rất đơn giản và cũng rất là súc tích, ẩn chứa cả một nội dung giáo lý thâm diệu của đạo Phật và có thể đem lại nhiều kết quả tốt đẹp cho học đường hiện đại ngày nay, góp phần làm giảm thiểu sự tha hóa, băng hoại đạo đức của giới trẻ, của mọi người. Đây là đóng góp to lớn và quan trọng của nhà Giáo dục vĩ đại Bổn Sư Thích ca Mâu Ni đã đem đến cho con người, và cộng đồng xã hội ./. Thích Minh Thiện
    1 like
  14. Em cũng có hai người bạn 1 nam 1 nữ đều có mệnh thiên phủ bình địa và hai người đó đều thấp nam 1m65 nữ chỉ 1m50, nhưng ở trong diễn đàn khi bác và các anh chị luận giải về hình dáng của thiên phủ bình lại có 1 số người khá cao nên phần hình dáng em cũng chưa biết luận giải ra sao. Phần về người vợ em luận vậy vì thê có thiên hình mệnh vũ khúc cung tài có đào hoa... Có lẽ đúng là thiên phủ thai cáo long đức hồng loan át thiên hình, cảm ơn anh Giaback mong được học hỏi thêm từ anh và mọi người.
    1 like
  15. Quẻ Đỗ Đại An là chuẩn nhất rồi bác ạ! 2 đội dắt tay nhau "đại an". Hơi tiếc 1 tí, e lại đoán Anh thắng! :P
    1 like
  16. Chào HoangTrieuHai ! Cảm ơn vì Hải đã chỉ dẫn , nhưng tôi ở ngoại thành Hà Nội ,mà ban ngày lại bận đi làm nên không thể đến trung tâm tận TPHCM theo học được . Không biết có hình thức học nào khác nữa không hả bạn ? Tôi đã đọc các bài viết của Hải và thấy rất ngưỡng mộ ,đặc biệt là việc Hải đi làm phong thủy ở nước ngoài ,ở những nơi vốn chỉ tin phong thủy Trung Hoa . Tôi cũng đã đọc xong cuốn :Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại và :Cuốn tìm về cuội nguồn kinh dịch của chú Nguyễn Vũ Tuấn Anh . Chú ấy thật đáng được kính trọng và khâm phục về lòng yêu cội nguồn dân tộc , sự kiên trì và tính dũng cảm trong khoa học . khi đọc Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại ,tôi thật sự vui mừng , súc động và tự hào về dân tộc ta . Giá như có cách gì để những nhà lãnh đạo đất nước chú ý và quan tâm tạo điều kiện cho chú Nguyễn Vũ Tuấn Anh và các cộng sự nghiên cứu để chứng minh với thế giới rằng đó là sự thật thì hay biết mấy . Thú thật từ nhỏ tôi đã có niềm tin rằng dân tộc Việt Nam chúng ta chắc chắn không phải là dân tộc tầm thường .Nay chú Tuấn Anh đã làm tôi thảo mãn được niềm tin đó . Rồi đây tôi sẽ còn tìm đọc nhiều nhơn nữa sách của chú Tuấn Anh các cộng sự ở trung tâm Lý học đông phương để nâng cao tầm nhận thức xã hội . Tuy nhiên trước mắt tôi muốn tìm hiểu phong thủy Lạc Việt để cải tạo nhà và đất của mình , vì chắc chắn tôi đang ở căn nhà và thửa đất không thuận theo phong thủy nên gặp rất nhiều bất lợi .Hi vọng sẽ tìm được chân lý đúng đắn tại Lý học đông phương.Xin chào !
    1 like
  17. Nền văn minh Samuier (Bí ẩn của những điều vượt qua trí tuệ con người ) Ai đã sáng tạo ra nền văn minh Samuier? Các nhà lịch sử học cho rằng, cực văn minh Trái Đất, nơi khởi nguồn, có khả năng là khu vực sinh sống của người Samuier. Vì các nền văn minh Maya và Samuier có rất nhiều điểm tương tự, thậm chí giống nhau. Người Samuier đột nhiên xuất hiện, rồi lại đột nhiên biến mất khỏi vùng hạ du sông Tigre và Sông Euphrate. Vào khi nào, bằng cách nào họ đã học được chữ hình chêm và kỹ thuật kiến trúc bảo tháp cho đến nay vẫn là câu đố lịch sử khó giải, là một sự thách thức đối với các nhà khảo cổ học. Samuier là thành phố có nền văn minh lâu đới nhất trong lịch sử các nền văn minh nhân loại, hình thành khoảng 4000 năm trước Công Nguyên. Nó đột nhiên xuất hiện ở khu vực hạ du hai con Sông Tigre và Euphrate thuộc vùng Trung Đông, tức phía Nam Iraq ngày nay. Các nhà lịch sử chính thống và các nhà khảo cổ học đã có được ý kiến thống nhất khi cho rằng: Thành phố Samuier không chỉ là cội nguồn văn minh phương Đông cổ đại sau này mà còn có thể nói một cách chuẩn xác, nó là cội nguồn của nền văn minh Thế giới hiện đại. Thành phố Samuier nằm ở khu vực Mesopotamie (Vùng Lưỡng Hà). Khu vực này hàng nghìn năm trở lại đây luôn luôn là khu vực có môi trường tồi tệ, khô hạn, nóng nực, sông ngòi có dòng chảy hung hãn, không thích hợp cho việc sinh sống của con người. Vậy tại sao nền văn minh sớm nhất của con người lại được sản sinh ra từ hoàn cảnh tự nhiên vô cùng khắc nghiệt. Nói tới nền văn minh Samuier, điều mà người ta nghĩ tới đầu tiên là phát minh văn tự hình chêm (một loại văn tự do người miền Nam Mesopotamie sáng tạo từ 3000 năm trước Công Nguyên, nét chữ giống cái chêm. Người Babylon, Ba Tư... đều đã từng sử dụng loại văn tự này). Người Samuier không chỉ phát minh ra chữ viết mà còn phát minh ra các loại kỹ thuật như: Cày ruộng, xây dựng, tưới tiêu, nhiều nghành khoa học hình học, pháp luật, thiên văn học, toán học và cả phương pháp quản lý dân chủ của Nhà nước, thành phố... Hơn nữa, đứng từ góc độ thời gian lịch sử mà nói, tất cả những tri thức này của người Samuier đều được sáng tạo một cách đột ngột trong khoảng thời gian cực ngắn. Thực tế này càng khiến các nhà sử học và khảo cổ học không thể hiểu nổi, cũng không thể tranh cãi hay bàn bạc được điều gì. Họ chỉ có thể đặt câu hỏi: Ai là người có bản lĩnh lớn như thế trong khoảnh khắc đã khiến cho người Samuier trở nên thông minh để sáng tạo ra một nền văn minh không thua kém bất kỳ nền văn minh nào của các quốc gia ở thế kỷ XX. Tiến sỹ Thaytacasag, nhà Khoa học Vũ trụ Mỹ đã đưa ra cách giải độc đáo: "Văn minh Samuier là dựa vào sự giúp đỡ của sinh vật hệ nhân loại vô cùng hùng mạnh mà được sản sinh ra". Cuối Thế kỷ II trước Công Nguyên Jisirosuansi của Babylon đã vận dụng sách cổ văn thần điện viết cuốn sử Babylon với độ tin cậy rất cao. Sách đã viết: "Khi nhân loại ở vùng Babylon cổ xưa sống cuộc sống hoang dã giống như loài thú hoang không có trật tự, ở vịnh Ba Tư xuất hiện một loài sinh vật Oyanasi hình thể giống cá, nhưng phía dưới đầu cá lại có một cái đầu khác, có chân tay giông như người, tiếng nói cũng giống người". Loài sinh vật này, ban ngày xuất hiện ở biển, nói chuyện với con người, dạy con người văn hóa, nghệ thuật, khoa học, pháp luật, kiến trúc, nguyên lý hình học, hái lượm hoa quả, phân biệt thực vật,... nhưng nó không ăn gì mà vẫn tồn tại. Do loài sinh vật này là động vật lưỡng thể, nên khi Mặt trời lặn về phía Tây, nó liền nhảy xuống biển ẩn náu dưới đó, đến sáng lại lập tức xuất hiện". Cách giải lý này, thực sự khiến người ta khó tiếp thu. Tiến sỹ Calusag suy đoán, khoảng 4000 năm trước Công Nguyên hoặc sớm hơn, nền văn minh ngoài nhân loại đã tiếp xúc với loài người ở bờ biển Vịnh Ba Tư, mà di tích Aliduo cổ nhất của Samuier lại ở chính trên mảnh đất này. Di tích Aliduo hiện đã được các nhà khảo cổ học xác nhận, căn cứ vào kết quả phân tích được ghi lại bằng văn tự chêm rằng "Aliduo trước nạn Đại Hồng Thủy là đô thành sớm nhất của ngũ quyền từ trên trời giáng xuống". Tiến sỹ Calusag còn chỉ rõ: "Nếu như lấy loài sinh vật Oyanasi có thân thể giống như cá coi như là áo Vũ trụ hoặc áo lặn, cái đầu khác dưới cái đầu cá chỉ là cái mặt của mũ Vũ trụ hoặc mũ lặn, thì chúng ta có thể kết luận một cách nhanh chóng, đó chính là sinh vật có tính trí năng hệ phi nhân loại trong đại dương". Ngoài ra, còn có rất nhiều người thử nghiệm đưa ra kiến giải của mình với chủ trương: tích cực và mạnh dạn giải thích nền văn minh Samuier. Nhà ngôn ngữ học kiêm nhà nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Đông quốc tịch Mỹ nhưng mang trong mình huyết thống Trung Đông tên là Caglia Xijin, nói: "Cội nguồn nền văn hóa Samuier có thể nói là dựa vào sự giúp đỡ của người ngoài hành tinh, cũng có ý kiến cho rằng: Trước nạn "Đại Hồng Thủy", Samuier bị người ngoài hành tinh xâm chiếm, biến thành đất thuộc địa, nền văn minh Samuier chính là di sản văn hóa của họ được giữ lại trên mảnh đất thuộc địa này". Caglia Xijin đã quan xát và nhận thấy, xuyên suốt các nền văn hiến của khu vực Trung Đông Mesopotamie (từ Samuier đến Asayria), Ai Cập, Hilblai đến Thánh Kinh cùng một ngôn ngữ đã từng xuất hiện, đều có một từ đơn "Sai mu", và bất luận là tài liệu gì đều thường xuyên lấy nó dùng trong trường hợp ghi lại những cuộc đi lại của các thiên thần trên trời hoặc của con người lên trời. "Sai mu" trong văn tự hội thoại (hình thái sớm nhất của văn tự chêm) lúc đó có ý nghĩa là lên cao vuông góc - lên thẳng. Từ đó có thể thấy, nó phải là vật thể phi hành như các loại tên lửa, phi thuyền vũ trụ. Trên thực tế, trong bài thơ ca tụng dân lên nữ thần Isidare của Babylon có một câu thơ miều tả rất rõ nó đúng là một vật thể phi hành: "Nữ thần ở trên trời cưỡi "Sai mu" bay xuống Trái đất, nơi loài người sinh sống". Ngoài các điều này ra các tác phẩm hội họa, phù điêu, điêu khắc thời đó cũng đều có vật thể hình dáng giống như tên lửa. Rất có khả năng những tác phẩm đó được làm ra để biểu thị sức mạnh của "Sai mu". Cội nguồn của nền văn minh Samuier có nhiều cách giải thích nhưng đều rối ren, chưa thống nhất, giống như cách nói "Người nhân thấy thế gọi là nhân, người trí thấy vậy gọi là trí". Dù là cách nói nào đi chăng nữa, chúng ta vẫn phải chờ các nhà khảo cổ học tiếp tục khảo sát và nghiên cứu. Nguồn : Khoahoc.com.vn
    1 like
  18. Bí mật diệt vong nền văn minh cổ nhất Mới đây, các nhà khoa học đã đưa ra một giả thuyết về nguyên nhân dẫn đến sự diệt vong của nền văn minh Lemuria – nền văn minh cổ xưa nhất của nhân loại. Theo giả thuyết này, Lemuria đã bị biến mất khỏi lịch sử loài người, sau một trận động đất kinh hoàng do sự dịch chuyển địa cực trên Trái Đất gây ra cách đây 26.000 năm. Nhà khảo cổ David Hatcher đứng bên một di tích cổ. Sự dịch chuyển địa cực đã làm thay đổi trục của Trái Đất và gây nên trận Đại hồng thủy, nhấn chìm Lemuria xuống đáy Ấn Độ Dương. Lemuria, hay còn gọi là Mu, là quốc gia cổ đại nhất mà ngày nay con người còn biết đến. Lemuria hình thành khoảng 78.000 năm trước trên một đại lục địa có tên gọi tương tự. Lục địa này nằm trên Ấn Độ Dương ngày nay, được cho là “chiếc cầu nối” giữa các lục địa. Chính Lemuria là nơi khởi nguồn của các loài động-thực vật hiện chỉ tìm thấy ở cực Nam của các đại lục địa. Nền văn minh này đã tồn tại trong suốt 52.000 năm, trước khi bị diệt vong. Nhiều khả năng vào thời điểm bấy giờ, trên Trái Đất chỉ tồn tại duy nhất một quốc gia Lemuria cùng với ngôn ngữ độc nhất của nó. Mỗi công dân Lemuria đều phải trải qua 21 năm học tập về các quy luật của vũ trụ, đến năm 28 tuổi mới được công nhận là một công dân trưởng thành. Giả thuyết trên được nhà khảo cổ học người Mỹ David Hatcher ủng hộ. David Hatcher là người chuyên nghiên cứu về các khu vực cổ xưa và xa xôi nhất trên hành tinh. Ông đã viết 6 cuốn sách về các thành phố và các nền văn minh đã biến mất. Vietbao (Theo: Bee) ----------------------------------------- Thiên Đồng xin nhàn bàn: Khoa học thế giới đã phát hiện ra một "Nền văn minh này đã tồn tại trong suốt 52.000 năm, trước khi bị diệt vong." Vậy mà một nền văn minh vớn đồ đồng trống đồng với danh xưng Lạc Hầu, Lạc Tướng, Hùng Vương mà bị sách Tàu viết là "tộc Việt đại đa số đang còn ở mạt kỳ xã hội nguyên thủy,hoặc vừa mới bước sang ngưỡng cửa xã hội phong kiến,còn chưa hình thành một quốc gia,lúc đó chỉ có quân trưởng của liên minh bộ lạc." Đúng thật là Tàu lao!!! Ba xạo hết chổ nói!!! Thiên Đồng
    1 like
  19. Bài thơ này, tôi tìm ra đến 11 cách đọc đấy. 1 - Cách đọc thứ 1 là đọc xuôi bình thường : " Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời Thú vui thơ rượu chén đầy vơi Hoa cài giậu trúc cành xuân biếc Lá uqyện hương xuân sắc thắm tươi Qua lại khách chờ sông lặng sóng Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười " 2 - Đến cách đọc thứ 2 là đọc ngược từ phải sang trái và từ dưới lên : " Cười mỉm mắt ai bóng thướt tha Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa Người đông bến đợi thuyền xuôi ngược Sóng lặng sông chờ khách lại qua Tươi thắm sắc xuân hương quyện lá Biếc xanh cành trúcgiận cài hoa Vơi đầy chén rượu thơ vui thú Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta " 3 - Cách đọc thứ 3, là đọc xuôi như cách đọc thứ 1, nhưng mổi câu thơ bỏ hai từ đầu : " Cảnh xuân ánh sáng ngời Thơ rượu chén đầy vơi Giậu trúc cành xanh biếc Hương xuân sắc thắm tươi Khách chờ sông lặng sóng Thuyền đợi bến đông người Tiếng hát đàn trầm bỗng Bóng ai mắt mỉm cười " 4 - Cách đọc thứ bốn là đọc xuôi theo cách 1, bỏ 3 từ cuối Ta mến cảnh Xuân Thú vui thơ rượu Hoa cài giậu trúc Lá quyện hương Xuân Qua lại khách chờ Ngược Xuôi thuyền đợi Xa ngân tiếng hát Tha thướt bóng ai 5 - Cách đọc thứ năm là bỏ 3 từ đầu theo cách 1. Xuân ánh sáng ngời rượu chén đầy vơi trúc cành xanh biếc Xuân sắc thắm tươi chờ sông lặng sóng đợi bến đông người hát đàn trầm bổng ai mắt mỉm cười 6 - Cách đọc thứ sáu là đọc theo cách 2, bỏ 3 từ đầu Cười mỉm mắt ai Bổng trầm đàn hát Người đông bến đợi Sóng lặng sông chờ Tươi thắm sắc Xuân Biếc xanh cành trúc Vơi đầy chén rượu Ngời sáng ánh Xuân 7 - Cách đọc thứ bẩy là đọc theo cách 2 bỏ 2 từ đầu mắt ai bóng thướt tha đàn hát tiếng ngân xa bến đợi thuyền xuôi ngược sông chờ khách lại qua sắc Xuân hương quyện lá cành trúc giậu cài hoa chén rượu thơ vui thú ánh Xuân cảnh mến ta 8 - Cách đọc thứ tám là bỏ bốn từ đầu mỗi câu - Ðọc xuôi- theo cách 1 Ánh sáng ngời Chén đầy vơi Cành xanh biếc Sắc thắm tươi Sông lặng sóng Bến đông người Ðàn trầm bổng Mắt mỉm cười 9 - Cách đọc thứ chín là bỏ bốn từ cuối mỗi câu - Ðọc ngược - theo cách 2 Bóng thướt tha Tiếng ngân xa Thuyền xuôi ngược Khách lại qua Hương quyện lá Giậu cài hoa Thơ vui thú Cảnh mến ta 10 - Cách đọc thứ mười là đọc theo cách 1 bỏ 5 từ cuối Ta mến Thú vui Hoa cài Lá quyện Qua lại Ngược xuôi Xa ngân Tha thướt 11 - Cách đọc thứ 11 là đọc theo cách 2 ngược , bỏ 5 từ cuối. Cười mỉm Bổng trầm Người đông Sóng lặng Tươi Thắm Biếc xanh Vơi đầy Ngời sáng.
    1 like
  20. Nhời bàn của Thiên SứTrước đây, rộ lên một cách diễn đạt một con đướng đại lộ lớn trong dự án chạy xuốt Hanoi là "Trục Tâm Linh", hay "Trục Hoàng Đạo". Cách gọi làm giới kiến trục ngơ ngác và hổng dám có ý kiến, vì nó nằm ngoài "chuyên môn". Nhưng giới phong thủy cũng ....ngớ ngẩn luôn. Vì trong các sách "Thánh hiền" để lại không có công trình kiến trúc đường lộ nào gọi là "Trục Tâm Linh" cả (Ngoại trừ những quần thể kiến trúc có kết cấu trên một trục thẳng hàng và liên quan đến vị trí vào những thời điểm nhất định của các vì sao trong vũ trụ. Nhưng nó lại ở tận....Ai Cập. Và họ cũng không gọi nó là "trục Tâm linh" khi dịch ra tiếng Việt). Nhưng lúc đầu, những nhà làm dự án cứ gọi như thế cho nó "Oai". Bây giờ thì được các quan chức kết luận là không phải. Thôi thì gọi là gì cũng được. Nhưng cái vấn đề là có cần thiết về mặt thực tế phải có một con đường như vậy hay không? Nó mang lại những điều lợi thiết thực cho việc phát triển Hanoi bây giờ và tương lai? Con đường đó có phải là giải pháp duy nhất đúng để bảo đảm sự phát triển đó hay không? Tương lai của con người ngày càng có xu hướng tiết kiệm thời gian: Tốc độ cao trong di chuyển, truyền đạt thông tin....để đạt mục đích của nó. Nhưng một con đường xuyên tâm như vậy trong một khu vực nhỏ - như Hanoi mở rộng - so với tổng thể quốc gia vốn không lớn như Việt Nam thì có cần thiết không? Chẳng ai làm một con đường tốn kém như vậy với mục đích phóng xe cho nhanh lên Ba Vì để....đi Ao Vua chơi cả. Cho rằng, trong tương lai khi vực cuối đường sẽ là nơi có những dự án kinh tế đồ sộ khiến cho nó phải có một con đường nối với Trung tâm văn hóa, chính trị xã hội ở Hà Nội cũ, thì điều này cũng chưa phải là lý do để làm con đường như vậy. Chưa nói đến việc dự án kinh tế cần thiết phải có một trục đường đó có khả thi hay không? Hay nó cũng chỉ là một ý tưởng chủ quan để rồi phải bỏ không cho hoang phế (Tôi đã nhìn thấy những khu đô thi ngay tại Hanoi, mà những khu nhà xây nên không có người ở)? Trên đây, tôi chỉ trình bày một cái nhìn trực quan với các vấn đề đặt ra và chỉ đặt ra với mục đích nhằm tới sự có lợi, chưa nói đến việc mặt trái của việc làm con đường có khả năng làm xáo trộn không gian văn hóa xung quanh Hà Nội cũ như Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện nói tới ở bài trên. Còn nếu xét về phương pháp luận của khoa phong thủy - vốn là kiến thức tổng hợp nghiên cứu sự tương tác nhiều mặt của môi trường - thì vấn đề còn phức tạp hơn nhiều.
    1 like
  21. 1 like
  22. Hôm nay mình mới đọc được topic này và đã đọc liền mạch từ đầu đến cuối. Siết chặt tay với Haiphuong nhé! Chúc chồng em mau bình phục, gia đình may mắn.
    1 like
  23. Đừng để nỗi sợ không đúng làm mình tổn hại Trước thắc mắc của bạn đọc “Tuy chỉ là những ngôn ngữ rất bình thường: các xáo trộn của tuyến vú, nhưng tôi có cảm tưởng điều đó đang che đậy cửa tử…”, BS. Nguyễn Chấn Hùng nhấn mạnh: “Câu trả lời vừa đúng, vừa rất sai”. Bởi không phải xáo trộn nào cũng là ung thư mà ngay cả khi bị ung thư chăng nữa cũng không phải tuyệt vọng. Hôm nay, chúng ta không chỉ bàn về ung thư mà sẽ nói với nhau về những câu chuyện của tuyến vú. Những xáo trộn lành tính, những xáo trộn ác tính, câu chuyện về đôi gò bồng đảo mà tạo hoá đã vẽ nên một cách tuyệt mỹ trên thân thể người phụ nữ”.Ung thư: bi quan, tuyệt vọng, chuyện xưa rồi Bác sĩ Chấn Hùng khuyên: “Chỉ cần bà con nhớ điều này: đến khoảng 30 tuổi trở lên, có một cục nhỏ không đau hoặc ít đau thì nên cảnh giác. Còn lại những xáo trộn của tuyến vú như: nang vú, xơ nang, sợi bọc… người chuyên môn gọi là xáo trộn lành tính. Nhưng cũng có khi còn có cục khác, không lành… vì thế đừng ỷ y, nên đi thăm khám bác sĩ”. “Vậy đã bị ung thư, trở thành gánh nặng cho chồng con làm chi, thôi để chết cho rồi”, một bạn đọc than. Bác sĩ Chấn Hùng trấn an ngay: “Muốn cho đỡ gánh nặng chồng con, bỏ đi sao được. Không nên bi quan như thế mà cần nhìn tươi sáng. Có trường hợp như bệnh tim mạch đột tử, chết cái bụp, tiểu đường mù mắt… nhưng ung thư nếu phát hiện sớm, chữa đúng cách, tuy có đau đớn nhưng sẽ qua. Tất nhiên cũng không loại trừ trường hợp tái phát. Tôi có nhiều bệnh nhân, nghe tin mình bị ung thư, bình tĩnh lắm, còn nghĩ đến chuyện phải tranh thủ thời gian điều trị kịp thời, sau đó còn rất tự tin, xốc vác lo cho mọi người”. Bác sĩ Trần Văn Thiệp kể: “Chúng tôi khám bệnh, người phụ nữ luôn có chồng đi theo, phần lớn mấy bà đều nói: “Con tui nhỏ quá, làm sao tui chết được bác sĩ ơi!” - “Còn ổng đây chi!” - “Trời ơi làm sao ổng lo được, lỡ ổng đi lấy vợ bé bỏ con…”. Bác sĩ Thiệp kể tiếp, cũng có tình huống người bệnh bình tĩnh, trong khi người chồng quá lo lắng đến nỗi tôi phải la: “Thôi, chị thấy bình thường mà anh làm hồi chị quýnh giờ”. Chúng tôi rất hiểu và gặp nhiều trường hợp như vậy, mỗi người một kiểu. Đó là những cảm xúc đáng được chia sẻ. Nhưng kinh nghiệm của chúng tôi thì chẩn đoán, phát hiện bệnh sớm, giai đoạn 1 thì đến 90% là sống tốt”. Bác sĩ Chấn Hùng nhẹ nhàng tư vấn thêm: “Tôi đã hơn 40 năm trong nghề và luôn luôn cập nhật những kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới trong điều trị ung thư: nhiều tiến bộ về chẩn đoán và phương pháp điều trị. Với kinh nghiệm và kiến thức của mình, tôi nghĩ, nếu không tin vào y học, lạc quan trong điều trị mà chỉ bi quan, sợ hãi, không điều trị đúng cách thì chỉ có hại cho mình thôi. Ai cũng có thể bị bệnh ung thư, điều quan trọng là chú ý giữ gìn sức khoẻ cá nhân, phát hiện bệnh sớm thì kết quả điều trị tốt. Cũng có thể nói là rất tốt. Bi quan và thành kiến về ung thư, là nan y, là bi kịch, là chuyện xưa lắm rồi!”. Đàn ông có bị “xáo trộn tuyến vú”? Một người đàn ông nhấp nhổm một lúc, rồi cũng đứng lên: “Đếm đi đếm lại, phòng có trăm người thì chưa tới chục người là đàn ông. Nhưng gia đình tôi có trường hợp này, ông nội và hai bác trai đều bị ung thư vú, vậy cháu trai có bị không?”. Câu hỏi vừa dứt, đã nghe nhiều tiếng lao xao trong phòng. Bác sĩ Chấn Hùng trả lời ngay: “Con trai cũng có vú thì cũng có thể bị ung thư nhưng rất hiếm so với phụ nữ. Các bệnh khác của tuyến vú nam gồm có: trẻ nhỏ 5-6 tuổi có khi có hột nhỏ trong vú, chỉ thoáng qua một thời gian, nhưng thường nhất là người lớn thấy vú mình phì lớn, thường ở một bên như của phụ nữ, bác sĩ gọi là nữ hoá tuyến vú, cần khám bác sĩ để cho thuốc, có khi cần mổ, chứng này là xáo trộn lành tính”. Bác sĩ Thiệp bổ sung: “Thường đàn ông ít ai để ý, đây là một tình huống hy hữu. Đối với ung thư vú ở nam giới, cũng có tính di truyền, nhưng gene khác với phụ nữ. Có hai gene gây ung thư vú, và thường gene số 2 gây ung thư vú ở nam. Đây là tình huống ít gặp, câu hỏi khó đối với chúng tôi. Ung thư vú đàn ông khó trị hơn phụ nữ vì các bậc mày râu không nghĩ tới bệnh này nên đến khám trễ. Hơn nữa, bộ phận này của nam giới rất thô sơ, không có rào cản, căn bệnh tiến triển nhanh. Triệu chứng thông thường là có một cục cộm trong vú, thường không đau”. Bác sĩ Chấn Hùng nhấn mạnh: “Nên nhớ không cứ có mối liên hệ di truyền mà ung thư xuất hiện. Ung thư phần lớn được phát hiện trễ là vì các triệu chứng ban đầu phần lớn im lìm, không tương xứng với căn bệnh mà ai cũng biết là rất dữ, do đó cần tự mình giữ gìn sức khoẻ cá nhân, sống cân bằng, lành mạnh”. Ông cho biết thêm, trong phẫu thuật điều trị ung thư vú gồm có hai phần: đoạn nhũ để điều trị bướu và nạo hạch nách để điều trị hạch di căn. Trong ung thư vú, giai đoạn sớm thì tỷ lệ di căn hạch rất thấp, khoảng 20%. Nếu nạo hạch nách thường quy có thể để lại di chứng như giới hạn cử động cánh tay, phù nề mạch bạch huyết cánh tay… Phẫu thuật điều trị ung thư vú có khác nhau ở nam giới và nữ giới, do tuyến vú của nam giới có cấu trúc thô sơ nên bướu dễ xâm lấn vào cơ ngực. Tuy nhiên, ngày nay người ta nhận thấy ung thư vú ở nam giới có tiên lượng tốt, vì tỷ lệ thụ thể nội tiết dương tính cao hơn ở nữ giới. Người bệnh có thể được hưởng lợi ích từ điều trị nội tiết và nếu ung thư vú ở nam giới được phát hiện sớm cũng chỉ cần đoạn nhũ đơn giản, không cần phải cắt sâu tới cơ ngực”. Phẫu thuật thẩm mỹ cho bộ ngực Vấn đề phẫu thuật thẩm mỹ làm cho bộ ngực của phụ nữ trở nên đẹp hơn là nhu cầu chính đáng. Đã có nhiều bệnh viện và các bác sĩ chuyên khoa thẩm mỹ làm việc này. Còn đối với chị em phụ nữ kém may mắn bị ung thư vú phải đoạn nhũ là một mất mát, đôi khi làm cho họ sống trong mặc cảm. Không ít trường hợp tan vỡ hạnh phúc gia đình. Bác sĩ Thiệp trả lời một câu hỏi của một bạn đọc nhưng đồng thời cũng là tâm sự của ông: “Hiện nay, phẫu thuật đoạn nhũ và phẫu thuật đoạn nhũ tiết kiệm da – tái tạo vú tức thì, có mức độ an toàn như nhau về mặt điều trị ung thư. Điều này đã được chứng minh ở các nước tiên tiến trên thế giới cũng như công trình nghiên cứu của bệnh viện ung bướu TPHCM. Hiện nay, với các tiến bộ của phẫu thuật, có thể giữ được hình dạng của bộ ngực và bảo đảm được kết quả điều trị là niềm hạnh phúc lớn lao của tôi khi áp dụng được cho phụ nữ Việt Nam. Trường hợp tái tạo vú đầu tiên của tôi là cho một phụ nữ rất trẻ. Cô sắp lập gia đình, có nguy cơ phải huỷ hôn ước vì lo sợ điều trị sẽ bị mất một bên vú. Sau khi điều trị, cô vẫn giữ được dáng hoa và đã lập gia đình được 5 năm nay. Đó là điều làm cho tôi rất hạnh phúc mà quên đi mệt nhọc trong công việc”. Những câu chuyện cảm động tương tự rất nhiều tại buổi tư vấn. Bác sĩ Chấn Hùng rất cảm động khi trả lời trực tiếp cho một bạn đọc dám nói trước mọi người chị đã trải qua điều trị hai căn bệnh ung thư khác nhau và nhờ ông tư vấn những chuyện cụ thể để phòng bệnh tái phát. Dù rắn rỏi nhưng đôi mắt của người phụ nữ ấy ngấn nước. Cả khán phòng như chùng xuống. Nhưng không khí ấy qua mau, bởi những câu chuyện kể thân tình, những lời khuyên thiết thực, bổ ích... như một bàn tay ấm áp kịp thời của bác sĩ đã kéo những bệnh nhân chênh vênh bên bờ vực tinh thần trở lại cuộc sống. Bác sĩ Chấn Hùng nhắn nhủ, theo ông, cần có mấy điều kiện để cho sức khoẻ mọi người, nếu biết tuân thủ, sẽ không cần phải uống thuốc bổ dưỡng nào, mà chỉ cần sống thuận theo tự nhiên của mình. Đó là ăn lành (ăn đúng cách, điều độ), ngủ đủ (sẽ tiết ra nội tiết giúp cơ thể điều hoà, da dẻ khoẻ đẹp), tập đều (tập luyện đều đặn, đúng cách không chỉ chống béo phì mà chính trong quá trình tập luyện, những nội tiết hữu ích tiết ra làm cơ thể khoẻ mạnh), sống vui (nụ cười không chỉ thể hiện niềm vui mà chính nó tác động ngược trở lại vào bên trong, làm cho cơ thể hài hoà). Chưa kể nếu chúng ta nghĩ đến những điều tốt đẹp thì những người chung quanh ta cũng sẽ bắt được “tần số” ấy để cùng sống vui với mình, tạo ra “làn sóng lành” mà đạo sư người Ấn Độ lừng lẫy Vive Kananda đã nói. Đó cũng là cái lý lớn hơn cả việc phòng và chữa bệnh của bác sĩ. Nó tụ lại tất cả những bài thuốc hiệu nghiệm mà thâm sâu và cũng là những điều rất cơ bản để con người có thể tự phòng và chữa bệnh. Theo Trung Dũng - Ngân Hà SGTT
    1 like
  24. Tướng nhục kế. (nhân mùa Phật Đản Sanh, Wild xin chuyển tải bài viết Tướng nhục Kế của Ngài) HỎI: Tôi xem các tranh tượng Đức Phật Thích Ca và chư Tăng thì thấy Phật có tóc mà tất cả chư Tăng thì cạo đầu. Xin quý Báo cho biết tại sao?(THÍCH TRÍ TUỆ; thichtritue...@ymail.com) ĐÁP: Thầy Thích Trí Tuệ thân mến! Theo lịch sử Đức Phật Thích Ca, sau khi vượt thành Ca-tì-la-vệ, Ngài đã xuống tóc xuất gia. Đến khi đắc đạo, hóa độ đệ tử, thành lập Tăng đoàn, Thế Tôn và các Tỷ kheo, Tỷ kheo ni đều mang hình tướng “đầu tròn, áo vuông”. Tuy nhiên, Đức Phật có tướng tốt nhục kế và tóc xoăn thành vòng theo chiều bên phải nên khi tạc tượng hay vẽ tranh ảnh Ngài, tướng nhục kế và tóc xoăn (hình trôn ốc) được khắc họa nổi bật khiến chúng ta thấy như chỉ có các Tỷ kheo và Tỷ kheo ni mới cạo tóc, còn Phật thì không. Nhục kế, theo Từ điển Phật học Huệ Quang (tập IV, tr.3384), Phạn ngữ Usnisa, Hán dịch Phật đảnh, Đảnh nhục kế tướng, Đảnh phát nhục cốt thành tướng… là thịt xương (có sách nói búi thịt-nhục) trên đảnh của Phật nổi cao lên như búi tóc (kế), 1 trong 32 tướng Đại trượng phu của chư Phật. Theo Phật Bản Hạnh Tập Kinh (q.9), nhục kế trên đảnh Phật cao rộng, bằng phẳng tốt đẹp. Kinh Tam Thập Nhị Tướng (Trung A Hàm) ghi, trên đảnh của bậc Đại nhân có tướng nhục kế tròn đầy. Kinh Quán Vô Lượng Thọ (q.thượng) mô tả nhục kế trên đảnh Phật như hoa Bát-đầu-ma, trên nhục kế có một bình báu đựng các thứ ánh sáng, hiện tất cả Phật sự. Kinh Brahmayu (Trung Bộ kinh), kinh Tướng (Trường Bộ kinh) đều ghi nhận tướng tốt nhục kế nhô lên trên đỉnh đầu của Phật. Chư Phật và Bồ tát đều có tướng nhục kế, nhưng tướng nhục kế của chư Phật thù thắng hơn chư Bồ tát rất nhiều lần. Tướng nhục kế hình thành nhờ công đức tu hành trong vô lượng đời kiếp ở quá khứ. Kinh Bảo Nữ Sở Vấn (q.4) ghi, chư Phật có tướng nhục kế nhờ các đời quá khứ biết kính thờ hiền Thánh và các bậc tôn trưởng. Kinh Vô Thượng y (q.hạ) ghi, ngoài việc tu thập thiện, Bồ tát còn hóa độ dẫn dắt chúng sanh tu hành, thấy người tu hành liền hoan hỷ khen ngợi, lại dùng bốn tâm vô lượng từ bi hỷ xả mà phát tâm hoằng hóa, nhiếp dẫn chúng sanh trở về Chánh pháp. Nhờ những nghiệp nhân này mà thành tựu tướng tốt nhục kế nổi cao lên tự nhiên thành búi tóc. Ngoài ra, một số kinh luận khác nói nhờ các nhân duyên như bố thí, trì giới, thiền định… mà thành tựu tướng hảo này. Trong tướng nhục kế, có cái đỉnh điểm mà tất cả trời người đều không thể thấy được nên gọi là vô kiến đảnh tướng. Quán Phật Kinh (q.3) ghi, búi tóc thịt trên đỉnh đầu Đức Phật sinh ra vạn ức ánh sáng, lớp lớp ánh sáng lần lượt chiếu rọi tới vô lượng thế giới. Các trời người và thập địa Bồ tát cũng không thể thấy. Vô kiến đảnh tướng cũng là một trong 80 vẻ đẹp của Thế Tôn. Kinh Ưu Bà Tắc Giới (q.1) cho biết, vô kiến đảnh tướng có được nhờ công đức trong vô lượng đời kiếp đều lễ bái tất cả Thánh hiền, sư trưởng, cha mẹ, tôn trọng khen ngợi, cung kính cúng dường. Nhục kế và vô kiến đảnh tướng là tướng hảo biểu thị trí tuệ của chư Phật. Cùng với tướng nhục kế (búi thịt nhô cao) và vô kiến đảnh tướng là một tướng tốt khác, tóc xoăn thành vòng theo chiều bên phải. Vì thế, khi tạo hình tượng Phật thì những nghệ nhân phải thể hiện được các tướng tốt này (nhục kế nhô cao, tóc xoăn), cùng các tướng tốt khác. Do đó, nhìn vào tranh tượng Phật, ta thấy Ngài có tóc, còn các vị đệ tử xuất gia thì chỉ thuần túy “đầu tròn, áo vuông”. Chúc thầy an lành và tinh tấn! Bài từ nguồn Giacngo.vn online.
    1 like
  25. Các phép chọn ngày nhiều lắm, nhưng theo các thầy giỏi ở Hà Nội thì người Tàu hiện chỉ theo: 1. Đổng công tuyển trạch nhật yếu lãm. 2. Hiệp kỷ biện phương thư: Sách do nhà xuất bản văn hóa - thông in ấn hành năm 2008. Chỉ cần xem phần lập thành (cho 12 tháng x 60 ngày can chi) từ trang 317 đến 586 của cuốn 2. 3. Tụ bảo lâu: Nhà sách Hiến Chương - Bắc Kinh (chưa dịch Việt ngữ). Ngoài ra các thày theo môn phái nào thì kết hợp với chọn ngày theo kiểu riêng của môn phái đó như: Huyền Không, Lục Nhâm đại độn, Thái Ất, v.v... Dân ta hiện nay hay dùng nhiều phép chọn ngày được ấn hành ở Sài Gòn trước 1975, như ngày Thanh Long Hoàng Đạo - đây là cách chọn ngày tốt của một dòng họ ở Vân Nam, Người Trung Hoa coi thường và không thèm dùng. Mời mọi người download bản dịch Đổng Công có chua chữ Tàu và âm Hán Việt tại đây: http://www.mediafire.com/?tzoonmdgytm hoặc: http://www.mediafire.com/file/tzoonmdgytm/Dong cong tuyen trach nhat yeu lam.pdf Bản này vẫn chưa hoàn thiện, khi nào hoàn thiện tôi lại up tiếp ! Vì có chua chữ Tàu nên tôi để vào file có định dạng đuôi .pdf, định dạng này mọi người xem được luôn nếu máy đã cài Adobe Acrobat mà không phải cài font phức tạp.
    1 like
  26. Kính các bậc tiền bối ! Cũng có thể ngày này được chọn theo sách này HỨA CHÂN QUÂN NGỌC HẠP KÝ (ĐÂY LÀ BÀI ĐẦU NGỌC HẠP ) Ông Hứa Chân thấy người đổi tác phúc thi nguyện , bái biểu thượng chương , làm chay , hoặc có kẻ được phúc , có kẻ tội (tai họa ) có nhà lê cầu đảo lại sinh ra tại họa , phá tận con cháu như thế là tại sao ? Vì thế ông Chân Quân xét trong bản án Thiên Tào , chỉ vì những kẻ không biết chọn ngày mà trung tiến tiên tổ , không biết những ngày lục giáp (trong vòng 60 ngày ) lục giáp tuần , trong các vì sao hoặc ở địa phủ hoặc ở nhân gian , đi trí phạm phải mà con cháu phải chịu tai họa , vì vậy ngài Chân Quân mới chép rành rẽ làm quyển Ngọc Hạp này để cho những vị Quốc sư đạo xài nhân dân , mỗi khi muốn kế tự , cầu thân , lễ phật , tránh những ngày Thiên cách , Tuần cách , Quỷ cách trong vòng lục giáp (60 ngày ) Lục giáp tuần trung ấy thì tự nhiên biết được cát hung vậy. 1. -Ngày Giáp tý , Ất sửu : Cầu các thần đều ở dưới đất , nếu ai là chay , lễ phật cầu thần cầu tự , cầu phúc thì được phúc 100% . 2. -Ngày Bính dần : Nhật chư tại thiên (thần ở trên trời ) , nếu ai lễ bái cầu phúc , tế tự thần núi sông , chiêu hồn , thay mệnh thì chiếu tai họa không nên dùng . 3. -Ngày Đinh mão , Mậu thìn , Kỷ tỵ : Mọi thần ở tại đất , 3 ngày này rất tốt , nếu lễ bái , thượng biểu tứ tự triều hôn , bái mệnh lập đàn làm chay cầu con cái được phúc 100% . 4. -Ngày Canh ngọ , Tân mùi : Chư thần ở trên trời , hai ngày này không nên tế tự , lễ bái gì cả . 5. -Ngày Nhâm thân : Mọi thần đều ở trên trời rồi lại xuống địa phủ , nếu ai tế tự cầu phúc , thượng biểu (dâng sớ ) ,bái chương (dâng lên ) cầu trai , xin gái thụ phúc 100% . 6. -Ngày Quý dậu : Tế tự thần Hà bá , Thuỷ quan thì tốt , còn các việc lễ bái khác đều xấu . Các thần ở trên trời không ở nhân gian địa phủ chỉ nên làm những việc lễ bái nhỏ như lễ cầu yên nhưng lễ vào giờ thìn thì tốt ngoài ra thì xấu . 7. -Ngày Bính tý , Đinh sửu , Mậu dần : 3 ngày này rất xấu không nên lễ tế vì chư thần phá thiên tào , vận của Ngọc Hoàng Tây – Hà Tiểu – Thạch sao trực ngạn cho nên ai lễ bái cầu phúc tai chiêu , tai hoạ hại người tốn của . 8. -Ngày Kỷ mão , Canh thìn : Các thần tại địa phủ nếu ai cầu phúc thì lợi ích cho con cháu được vinh hoa phú quý vì ngày này là ngày sinh nhật của vị thiên thánh được 44 sinh là tốt . 9. - Ngày Tân tỵ : Các thần ở cửa nhà trời vận chuyển đất đá rất khổ cực , cho nên ai lễ bái cầu phúc sẽ bị tử vong , con cháu 3 đời nghèo khổ điên loạn , kiện cáo , tai bay vạ gió rất xấu . 10. -Ngày Nhâm ngọ , Quý mùi : Chư thần thần tại thiên , nếu lễ bái cầu phúc thì 3 năm trước được tốt nhưng 3 năm sau chịu tai họa , chết dưới chân nhà rất xấu . 11. -Ngày Giáp thân, Ất dậu : Chư thần tại thiên rồi lại xuống địa phủ nhân gian 2 ngày này lễ rất tốt . 12. -Ngày Bính tuất, Đinh hợi : Chư thần tại thiên rồi lại xuống địa phủ nhân gian nếu người nào có phúc , tế tự hoàn nguyện thượng biểu chương tài được công đức vô lương . 13. -Ngày Mậu tý , Kỷ sửu : Chư thần tại nhân gian địa phủ , nếu ai cầu phúc , tế lễ thì ân liễu nguyệt ngày rất tốt , nếu ngày ấy làm việc chú chớ , thề bồi thì đại hung . 14. -Ngày Canh dần : Chư thần tại trời để liên hợp tính xét các bản án , nếu tế tự cầu phúc , trần tâu lễ nguyện thì hại thần , hại chủ rất xấu . 15. -Ngày Tân mão : Chư thần tại địa phủ nếu cầu xin việc gì hoặc chiêu hồn đại mệnh hoặc thiết lập bàn thờ hoặc đặt bài vị gia tiên thì bình bình tạm được . 16. -Ngày Nhâm thìn , Quý tỵ: Chư thần tại thiên , là ngày khám hỏi sổ sinh tử nếu tế tự thì sinh đau ốm bệnh tật hại thầy , hại chủ rất xấu . 17. -Ngày Giáp ngọ : Chư thần xuống khắp cõi nhân gian , nếu có người thượng chương , tiến biểu , lễ tạ thổ công , thổ địa …thì được phúc gấp 10 rất tốt . 18. -Ngày Ất mùi : Chư thần tại thiên nếu tế lễ tạm được – tốt nhỏ thôi . 19. -Ngày Bính thân ,Đinh dậu ,Mậu tuất : Chư thần tại thiên hầu Ngọc Hoàng làm sổ sách sinh tử , ghi thiện ác của nhân gian địa phủ . Nếu ai làm lễ cầu thọ , tế tại thượng biểu chương triệu hồn là rất tốt . 20. -Ngày Canh tý ,Tân sửu : Chư thần tại thiên nếu cầu phúc tế tự chủ tật bệnh và tai hoạ rất xấu . 21. -Ngày Nhâm dần ,Quý mão : Chư thần hội họp để ký sổ ai lễ bái cầu phúc thì rất tốt . 22. -Ngày Giáp thìn : Chư thần tại cung trời lễ bái cầu phúc rất xấu . 23. -Ngày Ất tỵ : Chư thần tại nhân ngian địa phủ , cầu phúc tế tại , lễ bái rất tốt . 24. -Ngày Bính ngọ : Chư thần ở trên trời không có ở nhân gian nên tế lễ và cầu phúc rất xấu . 25. -Ngày Đinh mùi : Chư thần tại địa phủ nếu cầu phúc lễ bái , biểu chương liễu nguyệt rất tốt . 26. -Ngày Mậu thân : Chư thần ở trên trời không ở nhân gian địa phủ nếu tế lễ bị sát sự , tổn gia trưởng . 27. -Ngày Kỷ dậu : Trên thượng giới có lệnh đại xá nếu lễ bái tế tự tiến diền dạm rất tốt . 28. -Ngày Canh tuất , Tân hợi : Chư thần tại thiên , nếu lễ bái hà bá dạo lộ tạm được tốt , còn tiến biểu chương thì lại bị tai hoạ rất xấu . 29. -Ngày Nhâm tý , Quý sửu : Lễ bái rất xấu vì các vị thần ở thiên cung. 30. -Ngày Giáp dần, Ất mão: Chư thần ở nhân gian địa phủ lễ bái cầu phúc mọi sự đều tốt cả . 31. -Ngày Bính thìn ,Đinh tỵ , Mậu ngọ , Kỷ mùi : Chư thần tại thiên 4 ngày này tế tự rất xấu . 32. -Ngày Canh thân : Ngày mở đường năm phúc cửa tròi mở rộng nếu tế lễ làm chay thượng biểu được phúc 100% rất tốt . 33. -Ngày Tân dậu : Chư thần hầu Ngọc Hoầng sai xuống nhân gian địa phủ nếu lễ bái tế sự rất xấu . 34. -Ngày Nhâm tuất , Quý hợi : Là ngày Lục thần cùng nhật , nhân gian cầu phúc phạm phải sẽ bị cô quả bần cùng 100 việc đều không lợi rất xấu .
    1 like
  27. Kính bác Hà Uyên. Thiên Sứ tôi xin được trình bày những hiểu biết của mình về ngày mùng 1 thánh 10 . Ngày 1 - 10 năm 2010 Dương lịch nhằm ngày Giáp Thân 24 tháng 8 Ất Dậu, năm Canh Dần. Ngày: Bạch Hổ Hắc đạo. Trực Bế, Sao Quỷ, Tiết Thu phân . Các sao Cát tinh gồm có; Thiên phúc, Nguyệt không, Thiên mã, Thánh tâm, Ngũ phú, Cát khánh, Phúc hậu, Bất tương, Sát cống. Các sao Hung tinh gồm có: Thiên ôn, Bạch Hổ, Lôi công, Kim thần thất sát (trực). Thiên Sứ tôi nhận thấy rằng: Nên chọn ngày mùng 9/ 10 - 2010. Âm lịch nhằm ngày 2 tháng 9 năm Canh Dần. Ngày này trước ngày kỷ niệm 10/ 10/ 1954 tiếp quản Thủ Đô Hà Nội khỏi quân xâm lược Pháp. Nhưng thông số của ngày 9/ 10/ 2010 là: Ngày Thanh Long Hoàng đạo Trực Phá, Sao Đê, Tiết Hàn lộ Các sao cát tinh gồm có: Nguyệt không, Giải thần, Ich hậu, Mẫu thương, Thanh Long, Sát cống. Các sao Hung tinh gồm có: Nguyệt phá, Lục bất thành, Vãng vong, Thổ kỵ, Kim thần thất sát (năm), Tiểu không vong. Trong kinh nghiệm dân gian lưu truyền: Phàm không biết ngày xấu tốt thì cứ mùng 9, 19, 29 mà làm. Huống chi đây lại là ngày Thanh Long Hoàng Đạo, có lẽ sẽ tốt hơn. Than ôi! "Thiên cơ bất khả lậu", ngày xưa Hoàng Đế Hán Vũ Đế oai danh lừng lẫy một thời, chinh Nam , dẹp Bắc vậy mà mời tất cả các cao thủ coi ngày trên toàn đế quốc Hán để xem ngày lấy vợ cho chính mình mà cũng không xong. Sử ký Tử Mã Thiên - bài Nhật giả liệt truyện còn ghi rành rành ra đấy. Nay bọn phọt phẹt, coi sách Hán như thánh kinh, bày đặt coi ngày, muốn hơn chính cao thủ Hán thì thật buồn thay!. Vài lời tâm sự mong bác bỏ qua.
    1 like
  28. CHÚC MỪNG NĂM MỚI ! Chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hanoi, được tổ chức trọng thể vào sáng ngày 1/10/2010. http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/Preview/...mp;cn_id=344857 Ngày 1-10 không biết có phải là ngày đẹp không (???), Cũng là ngày Quốc khánh nước CHND Trung Hoa. (!!!)
    1 like
  29. 1 like
  30. Cảm ơn Langkhach. Tôi xin phép được đưa bài viết của bạn - chắc còn tiếp tục - ra trang chủ của diễn đàn. Riêng trong mục này, tôi đưa lên hạng "Những bài viết cần chú ý". Một lần nữa xin cảm ơn tác giả - Bác Lê Văn Sửu và Langkhach.
    1 like
  31. THÁNG HAI Nguyệt kiến Mão: Kinh trập - Xuân phân. (Từ ngày 5-6 tháng 3 DL) Trước Xuân phân 1 ngày là Tứ ly Sau Kinh trập là Tam sát tại phương Tây, trên Tân, Dậu, Tuất, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Mão: Không nên dùng việc, phạm cái đó tổn gia trưởng, và con trai út (thiếu phòng), con cháu gặp ôn dịch, nghèo khổ, khóc lóc, lớp, lớp chồng chất, trong vòng 3-5 năm, xa hơn thì 9 năm, bị kiện ngang trái, bại vong. Tháng hai vào ngày Mão đều là ngày trời đất chuyển sát. NGÀY TRỪ là ngày Thìn: Không lợi cho dời chỗ ở, về nhà mới, hôn nhân, khai trương các loại, mưu trù làm việc, phạm cái đó trong vòng 60 ngày, 120 ngày, chủ bị gọi vì việc quan, tốn của, bại ruộng vườn, tằm, mất sản nghiệp. Ngày Giáp Thìn, Mậu Thìn, sát tập trung cung càng xấu, trong ba năm mất người trưởng trạch, cái vật làm quái hỏa, trộm vào lừa. NGÀY MÃN là ngày Tị: Vãng vong, Thiên không, không nên động thổ, nếu tu tạo trăm việc đều tốt. Nếu như ở hai cung Càn, Tốn khởi tạo đều tốt, xuất hành, khai trương, hôn nhân, nhập trạch, trong có Hoàng la, Tử đàn, Điền đường, Khố trữ tinh, che, chiếu, trong năm đó nhà sinh quý tử, ruộng, tằm hưng vượng, suốt đời tốt lành. NGÀY BÌNH là ngày Ngọ: Chỉ nên làm sinh cơ, như các việc hôn nhân, tu tạo, dùng cái đó trong 60 ngày, 120 ngày bị gọi vì việc quan, tổn nhân khẩu, 3-6-9 năm lạnh lùng mà lui. (Sinh cơ là thọ mộc (?) và sinh cơ - tức quan tài và gò mả làm trước, khi chủ còn sống). NGÀY ĐỊNH là ngày Mùi: Không lợi việc hôn nhân, khởi tạo, hệ âm cung, chủ việc không nên hướng vào trong nhà, động làm nên nhất thiết sửa sang phía ngoài nhà thì sẽ không hại. Ất Mùi là Bạch hổ nhập trung cung, càng xấu, phạm cái đó tổn nhân khẩu. Là một tháng duy chỉ có một ngày Quý Mùi là thủy nhập Thái châu, do quý thủy gặp trường sinh tướng vượng việc đi (thương ?), trong đó có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng tinh, che, chiếu, lợi người sống lâu, thêm con cháu, tiến ruộng đất, rất tốt. Ngoài ra, mọi ngày Mùi đều bất lợi. NGÀY CHẤP là ngày Thân: Có Thiên nguyệt nhị đức, nên tu tạo, động thổ, mai táng, hôn nhân, khai trương, nhập trạch, xuất hành, và có Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân khố lâu, Bảo tàng tinh, che, chiếu, trong vòng 3-6-9 năm rất vượng, thêm nhân khẩu, sinh quý tử, tăng điền sản, rất tốt. Duy ngày Canh Thân là Xuân chính tứ phế, trăm việc phải tránh, kiêng. NGÀY PHÁ là ngày Dậu: Tiểu hồng sa, Thiên tặc, không lợi cho việc hôn nhân, tu tạo, phạm cái đó, trong vòng 60 ngày, 120 ngày bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, người âm trở lại, hao miệng nhỏ, tật bệnh. Tân Dậu chính tứ phế càng xấu, ngày đó là ngày Nguyệt phá, rất xấu. NGÀY NGUY là ngày Tuất: Nên hợp phản (Ghép ván gỗ thành quan tài), làm sinh cơ. Nếu tu tạo, đi gặp cha mẹ, hôn nhân thì không lợi con trai trưởng, trước là thoái điền địa, lửa, trộm vào lừa. Lại nói Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, càng xấu. NGÀY THÀNH là ngày Hợi: Thiên hỉ, có Thiên hoàng, Địa hoàng, Hoàng la, Tử đàn, Ngọc đường,Tụ bảo tinh, che, chiếu, nên hôn nhân, khai trương, nhập trạch, xuất hành, khởi tạo, an táng, định tảng (đặt móng), buộc giàn, trong vòng 60 ngày, 120 ngày tiến hoành tài, quý nhân tiếp dẫn, mưu việc rất tốt. Là Tân Hợi, Quý Hợi trong tháng đó tốt trên hết. NGÀY THÂU là ngày Tý: Kị hôn nhân, khởi tạo, nhập trạch, khai trương, phạm cái đó trong vòng ba năm tất thoái của, không tiến thêm, chủ về không kiện cáo thì sản nghiệp cũng hư hao. NGÀY KHAI là ngày Sửu: Không lợi về tạo tác, sửa sang, hôn nhân, gặp cha mẹ, phạm cái đó chủ về điền, tằm không có thu hoạch, trong nhà có người đẻ bị nguy, bị tai nạn về nước sôi và bỏng lửa. Đinh Sửu, Quý Sửu là sát nhập trung cung càng xấu, chủ về quan không, tổn nhân khẩu, tiểu nhân vào làm hại. NGÀY BẾ là ngày Dần: Hoàng sa, có Hoạt dược tinh nên ghép ván làm sinh cơ, nhưng bất lợi về tu tạo, động thổ, hôn nhân, nhập trạch, khai trương. Là ngày mà ngũ hành vô khí, bình thường mà dùng thì có thể, tuy không có hại lớn, không dùng là hay nhất. THÁNG BA Nguyệt kiến Thìn: Thanh minh - Cốc vũ. (Từ ngày 4-5 tháng 4 DL) Sau Thanh minh là Tam sát tại phương Nam, trên Tị, Ngọ, Mùi, kị tu tạo động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Thìn: Có Địa võng, Câu giảo, không lợi về tu tạo, an táng, hôn nhân, khai trương, phạm cái đó chủ bị bỏng nước sôi, bỏng lửa, chim ác (chim thiu) làm hại, tự do sinh nam, sinh nữ nhưng đều rất xấu xí, có ác tật, vô ích. Ngày Giáp Thìn, Mậu Thìn, là Sát nhập trung cung, càng xấu, chủ về trong ba năm nhà bị phá, người mất. NGÀY TRỪ là ngày Tị: Đinh Tị nên tu tạo, nhập trạch, di cư, động thổ, làm đồ dùng, hôn nhân, thì rất tốt. Kỷ Tị tạo tác, nhập trạch, cũng tốt. Nếu mai táng thì phạm trùng tang bất lợi dụng. Ất Tị có 10 thứ ác xấu. Tân Tị tuy có hỏa tinh, ngược lại có Xương quỷ (quỷ cuồng vọng), bại vong, lại là ngày thập ác phạt, không nên dùng. Quý Tị, Thiên thượng Không vong, lại phạm thổ quỷ cũng không nên dùng. Đây đều là tất ứng mọi việc. NGÀY MÃN là ngày Ngọ: Thiên phú. Giáp Ngọ có thổ quỷ. Bính Ngọ bình thường, không thể thấy tốt. Mậu Ngọ có Xương quỷ, bại vong, và phạm trùng tang, tức là an táng cũng thuộc không nên. Canh Ngọ là ngày thập ác, không thể dùng. Nhâm Ngọ là Thiên đức, Nguyệt đức, dùng là tốt vừa (thứ cát). NGÀY BÌNH là ngày Mùi: Cũng giống như tháng giêng, tháng năm, không nên dùng, tức là mưu trù nho nhỏ (tiểu tiểu doanh) là cũng không lợi. Nếu như Ất Mùi càng thêm xấu, hiểm. Cái số trực Thiên cang, lại phạm Câu giảo, Chu tước. NGÀY ĐỊNH là ngày Thân: Giáp Thân, Bính Thân nên phát chặt cây cỏ, phá đất, định tảng, buộc giàn, an táng rất tốt, trong 2-3 năm thêm con, cháu, tiến tài lộc. Nhâm Thân có Thiên đức, Nguyệt đức, Hoàng la, Tử đàn, Thiên tinh, Địa tinh, Kim ngân khố lâu tinh, che, chiếu, là ngày thập toàn rất tốt, rất lợi. Mậu Thân, Thiên cang, Không vong, Xương quỷ, bại vong, xấu. Canh Thân tháng giêng, tháng tư, bỏ, cũng xấu. Ngày Thân lại thuộc Vãng vong, xuất hành, xuất quân, phó nhậm (nhận việc đi trước) không lấy ngày này. NGÀY CHẤP là ngày Dậu: Ất Dậu nên tu tạo, nhập trạch, hôn nhân, khai trương, xuất hành. Quý Dậu an táng thì rất tốt. Đinh Dậu an táng thì tốt vừa. Ất Dậu (Kỷ Dậu?) có cửu thổ quỷ. Tân Dậu ở Chính tứ phế, không nên dùng. NGÀY PHÁ là ngày Tuất: Trực với Nguyệt kiến xung phá mọi việc, không nên dùng. Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, càng xấu. NGÀY NGUY là ngày Hợi: Thiên thành, có hung bạo. Kỷ Hợi có Hỏa tinh, có Văn Xương tinh, che, chiếu, học nên rất tốt, các việc còn lại tốt vừa. Ất Hợi dùng cũng tốt vừa. Tân Hợi đàn bà đó kim, "âm phủ đã đến kỳ quyết điều khiển", âm khí toàn thịnh, không có chỗ hợp ở dương gian. Đinh Hợi lại trực Hắc sát. Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp, ngũ hành không có khí, chủ về tuyệt nhân, lại là Thụ tử, việc không thể dùng. NGÀY THÀNH là ngày Tý: Hoàng sa, Thiên hỉ. Nhâm Tý tuy có Thiên đức, Nguyệt đức, là nhất bạch, chủ việc Mộc đả bảo bình chung (gỗ đánh vào bình quí cuối cùng), là nơi tắm gội ở phương Bắc, ngũ hành không có khí, phú lực nông, nhưng mưu trù nho nhỏ, làm thì có thể. Nếu như khai trương, xuất hành, nhập trạch, sửa sang, và hôn nhân, hạng (?), dùng ngày đó sẽ thấy xấu, bại, họa hại, tai thương. Ngày đó gọi là bình vỡ băng tiêu (phạn giải băng tiêu). NGÀY THÂU là ngày Sửu: Tiểu hồng sa, Thiên tặc. Đinh Sửu, Quý Sửu là sát nhập trung cung, không lợi cho tu tạo, hôn nhân, nhập trạch, phạm cái đó chủ thoái tài, tật bệnh, tranh tụng phải trái, xấu. Còn lại Sửu là cũng không tốt, phòng tiểu nhân hình hại. NGÀY KHAI là ngày Dần: Thiên tặc. Mậu Dần là Thiên xá, dùng ngày đó lại tốt. Nhâm Dần có Thiên đức, Nguyệt đức, chỉ nên mai táng và ghép ván làm sinh cơ, dùng cái đó thêm con cháu, tiến điền địa, thăng quan chức, tốt trên hết. Ngoài đó ra, Dần là tốt vừa, nhưng có lục bất thành, lục bất hợp ở đó, ngưng dùng cái đó, cuối cùng là bất lợi, nên cẩn thận cái đó. NGÀY BẾ là ngày Mão: Không nên tạo tác, hôn nhân, mai táng, nhập trạch, phạm cái đó tổn thương, tật đau, lãnh thoái, xấu cho trăm việc, không nên dùng. THÁNG TƯ Nguyệt kiến Tị: Lập hạ - Tiểu mãn. (Từ ngày 5-6 tháng 5 DL) Trước Lập hạ 1 ngày là Tứ tuyệt. Sau Lập hạ, Tam sát tại phương Đông, trên Dần, Mão, Thìn, kị tu tạo động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Tị: Tiểu hồng sa, không lợi cho xuất hành, giá thú, an táng, tạo tác, nhập trạch, khai trương, phạm cái đó chủ lãnh thoái, tật bệnh, ruộng, tằm không có thu hoạch, chết ở nơi xa không về, tài sản phá tán, ngày đó là ngày thụ tử. NGÀY TRỪ là ngày Ngọ: Hoàng sa. Canh Ngọ là Nguyệt đức. Duy Giáp Ngọ, Nhâm Ngọ có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, các tinh che, chiếu, nên tu tạo, hôn nhân, khai trương, xuất hành, nhập trạch, trong vòng 60 ngày, 120 ngày, tăng điền địa, tiến nhân khẩu, sinh quý tử, rất vượng. Ngày Bính Ngọ, Mậu Ngọ là thiên địa chuyển sát, dùng cái đó xấu. NGÀY MÃN là ngày Mùi: Thiên phú, Thiên tặc. Ngày Tân Mùi có Thiên đức, Nguyệt đức. Kỷ Mùi có Hỏa tinh, đều là tốt vừa, nên định tảng, tạo giàn, mai táng, nhưng hai việc hôn nhân, khởi tạo là không chịu được. Lại theo tu tạo lịch nói là ngày Bạch hổ nhập trung cung, dùng cái đó không thể là lợi, cần tra lại năm, tháng, ngày, nếu như có cát tinh, và mệnh cung cùng hợp phương thì được, nếu có dính với Nguyệt yếm, Thiên tặc, phạm những cái đó chủ về xấu, lãnh thoái. NGÀY BÌNH là ngày Thân: Chu tước, Câu giảo, không lợi cho xuất hành, an táng, hôn nhân, nhập trạch, chủ về bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, âm nhân, trẻ em sinh tai ách. Ngày Giáp Thân, Canh Thân là Sát nhập trung cung, càng xấu, tất chủ về tiểu nhân lôi kéo vào việc vạ, phá của, sinh con xấu như con quái, có tai nguy về thủy, hỏa. NGÀY ĐỊNH là ngày Dậu: Tuy có Cửu thổ quỷ, không nên động thổ, mai táng, nếu mưu trù nho nhỏ là ở vào tháng tư. Ngày Dậu là ngày tốt vừa, như hôn nhân, nhập trạch, nên cấm không dùng, chủ về xấu. NGÀY CHẤP là ngày Tuất: Có Câu giảo. Ngày Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, trăm việc đều rất xấu. Duy có ngày Giáp Tuất mưu trù nho nhỏ là tốt vừa, hai m­ơi bốn hướng mọi thứ Sát trầu trời đã có sửa sang, thì có thể hôn nhân, an táng, nhập trạch, khai trương, không có chỗ nào nên dùng, chủ về tổn trạch trưởng (người lớn nhất trong hộ), hại tay chân, hao tiền tài, rất xấu. NGÀY PHÁ là ngày Hợi: Vãng vong, Chu tước, Câu giảo, hại về bị gọi vì việc quan, tiểu nhân mùa thu thì tại đó chủ về tổn tiền tài, bị tạp bệnh. Quý Hợi ở tháng giêng, tư, bỏ, càng xấu. Là ngày Hợi trong tháng thì mọi việc đều kị. NGÀY NGUY là ngày Tý: Canh Tý là Nguyệt đức. Bính Tý, Mậu Tý, khởi tạo, hôn nhân, hưng công, động thổ, xuất hành, khai trương, di đồ thì sẽ tiến nhân khẩu, thêm con cháu, vượng điền, tàm (tằm), tăng tài sản, làm lớn thì phát lớn, làm nhỏ thì phát nhỏ. Giáp Tý là kim tự tử, ngũ hành vô khí. Nhâm Tý là mộc đả bảo bình, nơi mà phương Bắc tắm gội, phúc lực mỏng, lại là Sát tứ phế, dùng cái đó tổn nhân khẩu, chủ lãnh thoái, rất xấu. Hai ngày Giáp Tý, Nhâm Tý là thấy ngay tiêu sách (xơ xác cô đơn), tổn phá. NGÀY THÀNH là ngày Sửu: Thiên hỉ, Thiên thành, ngược lại, phạm Chu tước, Câu giảo, dùng cái đó bị gọi việc quan, khẩu thiệt, tiểu nhân vu vạ bừa bãi, mất hỏng. Đinh Sửu, Quý Sửu là Sát nhập trung cung, càng xấu, số ngày đó phạm không vong, phá tài, tiểu nhân hãm hại. NGÀY THÂU là ngày Dần: Giống như trên, ngày Tuất, Sửu, cũng không lợi. NGÀY KHAI là ngày Mão: Tân Mão là Thiên đức. Quý Mão, Ất Mão có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng tinh che, chiếu, xuất hành, hôn giá, tạo tác, khai trương, nhập trạch, mọi việc đều rất tốt, chủ về mưu việc được hanh thông, có quý nhân tiếp dẫn, tiến tài lộc. Ngoài đó ra các ngày Mão còn lại là tốt vừa. NGÀY BẾ là ngày Thìn: Mậu Thìn, Giáp Thìn là Sát nhập trung cung, không lợi cho tu tạo, khai trương, nhập trạch, an táng, phạm cái đó tổn nhân khẩu, lục súc không vượng, tài sản có bị mất. Ngày Canh Thìn tuy có trực Nguyệt đức, nhưng lại là Thiên địa chuyển sát chi ngưng. Bính Thìn, Nhâm Thìn, hỏa tinh, mưu trù nho nhỏ làm thì được, không nên khởi tạo, hôn nhân, dời đồ, khai trương, rất xấu. THÁNG NĂM Nguyệt kiến Ngọ: Mang chủng - Hạ chí. (Từ ngày 5-6 tháng 6 DL) Trước Hạ chí một ngày là Tứ ly. Sau Mang chủng, Tam sát tại phương Bắc, trên Hợi, Tý, Sửu, kị tu tạo, động thổ, mai táng. NGÀY KIẾN là ngày Ngọ: Giáp Ngọ là Thiên xá, tuy hệ chuyển sát, nhưng dùng cái đó tốt vừa. Những ngày Ngọ còn lại mai táng cũng không lợi, nếu dùng chủ về bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, cô quả, cùng khổ, bệnh tật. Cái tháng năm gặp Ngọ đều hệ Thiên địa chuyển sát. NGÀY TRỪ là ngày Mùi: Duy Ất Mùi là một ngày rất bất lợi, nếu lấy vợ, khai trương, nhập trạch, tu tạo, chủ về thoái nhân khẩu, sinh bệnh tật, tổn của. Ngoài ngày đó ra, những ngày Mùi còn lại, nếu làm việc nhỏ thì có thể dùng nhưng tốt vừa. NGÀY MÃN là ngày Thân: Thiên phú, Thiên hỉ. Giáp Thân, Bính Thân, Mậu Thân, nên an táng, khởi tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương xuất hành, thì tốt vừa, không nên động thổ. Canh Thân chỉ nên an táng, không nên tu tạo, nhập trạch, là ngày tây trầm, ngũ hành không có khí, không thể dùng, tuy là ngày táng, nhưng nguyệt lệnh không lợi. NGÀY BÌNH là ngày Dậu: Tiểu hồng sa, có Chu tước, Câu giảo, Đáo châu tinh, bị gọi vì việc quan, tổn trưởng, sơ, nhà xuống cảnh lênh đênh (linh đình), trăm việc không nên phạm cái đó, rất xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Tuất: Giáp Tuất, Canh Tuất, Mậu Tuất, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân bảo tàng, Điền bồi tầng, Châu tụ thâm, Giá mã quy, Thánh du thuận, các tinh che, chiếu, rất tốt. Nếu khởi tạo, hưng công, động thổ, nhập trạch, khai trương, hôn nhân, mai táng, mọi việc thì được gia quan, tiến tài, sinh quý tử, thêm hoành tài. Duy Bính Tuất, Nhâm Tuất là hai ngày Sát nhập trung cung, tuy có cát tinh chiếu giải, nhưng cuối cùng thì khó được ích. NGÀY CHẤP là ngày Hợi: Ngày Ất Hợi, nhỏ thì có thể tu sửa vì là tốt vừa. Đinh Hợi, Kỷ Hợi, cũng là tốt vừa. Tân Hợi là ngày âm phủ hỏa thoái. Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp, lại chính tứ phế, rất xấu. NGÀY PHÁ là ngày Tý: Thiên tặc, không nên cưới, đi gặp cha mẹ, tạo tác, an táng, nhập trạch, mọi việc phạm cái đó bị gọi về việc quan, tổn lục súc, điền sản không thu, rất xấu. Nhâm Tý là chính tứ phế, càng xấu, ngày đó trăm việc không lợi, phạm vào thụ tử. NGÀY NGUY là ngày Sửu: Đinh Sửu, Quý Sửu không nên giá thú, đi gặp cha mẹ, tạo tác, an táng, nhập trạch, phạm cái đó thì điền sản không thu, tài vật thất thoát, hổ cắn, rắn hại, nhiều sự xấu. Những ngày Sửu còn lại cũng không tốt, tổn lục súc, bị gọi vì việc quan, trăm việc không lợi. NGÀY THÀNH là ngày Dần: Hoàng sa, thiên hỉ. Bính Dần là Thiên đức, Nguyệt đức. Canh Dần, Mậu Dần, Giáp Dần có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân khố lâu, Ngọc đường bảo tàng, là những cát tinh cùng chiếu, hưng công, động thổ, định tảng, buộc giàn, nhập trạch, khai trương, trong vòng 60 ngày, 120 ngày sẽ thêm của, tăng, nhà cửa từ đó giầu thịnh, đường đời thấy an khang, rất tốt. Cũng là Nhâm Dần của tháng tuy có sao tốt chiếu ở trong giữa, chỉ có Sát tinh tương khắc mà thành tốt vừa. NGÀY THÂU là ngày Mão: Vãng vong, có Chu tước, Câu giảo, tiểu nhân hình hại, vạ nạn triền miên, bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, tổn lục súc, trăm việc không nên, rất xấu. NGÀY KHAI là ngày Thìn: Thiên thành. Bính Thìn có Nguyệt đức. Canh Thìn, Nhâm Thìn, có Hoàng la, Tử đàn, là những sao tốt che, chiếu, dùng ngày đó thì điền sản và lục súc hưng vượng, sinh quý tử, trăm việc rất tốt. Duy Mậu Thìn, Giáp Thìn là Sát tập trung cung, rất xấu. NGÀY BẾ là ngày Tị: Ất Tị, Tân Tị có Hoàng la, Tử đàn, che, chiếu, hưng công, tạo tác, động thổ, tu tạo đường trì, thương khố (làm hoặc sửa đường, ao, kho chứa), chuồng trại trâu, dê, hôn nhân, khai trương, xuất hành, nhiều ích lợi, nhà cửa, con cháu Xương (vượng) thịnh, điền sản bội thu, nhân khẩu an khang, rất tốt. Các ngày Tị còn lại không tốt. THÁNG SÁU Nguyệt kiến Mùi: Tiểu thử - Đại thử. (Từ ngày 7-8 tháng 7 DL) Sau Tiểu thử Tam sát ở phương Tây, trên Thân, Dậu, Tuất kiêng tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Mùi: Ất Mùi là Sát nhập trung cung, không lợi cho những việc tu tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương, lên quan, phạm cái đó không tốt, nhiễm ôn dịch, tổn nhân khẩu, mất của cải, rất xấu. NGÀY TRỪ là ngày Thân: Giáp Thân có Thiên đức, Nguyệt đức, Hoàng la, Tử đàn tinh che, chiếu, lợi cho việc dựng cột, khởi tạo, an táng, động thổ, khai sơn, phạt cỏ, xuất hành, khai trương, trăm việc đều tốt. Các ngày Thân còn lại (Bính Thân, Nhâm Thân) cũng rất tốt. Duy có Bính Thân là một ngày ngũ hành không có khí, không thể dùng. Ngày Canh Thân dùng phải thận trọng. NGÀY MÃN là ngày Dậu: Thiên hỉ, Thiên phú. Ất Dậu, Tân Dậu, phạt mộc, buộc giàn, đặt móng (định tảng), khởi tạo là tốt vừa. Ngày Kỷ Dậu là cửu thổ quỷ. Quý Dậu là ngày tiểu táng, lại phạm Hắc sát sở thuộc, cẩn thận có thể hung với việc cấp dùng. Ngày Đinh Dậu gặp ngày Mãn cũng bất lợi, đó là ngày hại, sợ rằng trong tốt có xấu, cuối cùng là không đẹp, dùng thì nên cẩn thận. NGÀY BÌNH là ngày Tuất: Có Chu tước, Câu giảo, lại phạm Đáo châu tinh, không lợi cho nhập trạch, hôn nhân, phạm vào cái đó chủ về bị gọi vì việc quan, không xấu nhiều. Duy ngày Giáp Tuất là một ngày Huyền nữ trộm sửa, tám hướng đều trắng, ngày đó ở 24 hướng chư thần chầu trời, có khí, có thể dùng. NGÀY ĐỊNH là ngày Hợi: Kỷ Hợi là Hỏa tinh. Đinh Hợi có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, các tinh che, chiếu. Ất Hợi có Văn Xương trực nhật, nên xuất hành, nhập trạch, hôn nhân, nhập học, tu tạo, động thổ, tham quan (đi gặp quan), thấy quý, chiêu tài lộc (thu hút được tài lộc), sinh quý tử làm việc lớn thì phát lớn, làm việc nhỏ thì phát nhỏ. Lại nói Văn Xương Ất Hợi tại Ngọ, Văn Xương là Thái dương ở cung Ngọ, là ngôi của Thái dương, cho nên Có Văn Xương tinh trực nhật là đã rất tốt. Tân Hợi là phụ nhân chi kim, âm khí của kim thịnh. Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp, ngày ấy ngũ hành không có khí, hai ngày đó không nên dùng. NGÀY CHẤP là ngày Tý: Hoàng sa. Bính Tý, Canh Tý lợi cho khởi tạo, hưng công, động thổ, làm kho chứa, nhập trạch, di đồ, khai trương, xuất hành. Mậu Tý là tốt vừa. Giáp Tý tuy là đầu của lục giáp, ở tháng giêng, tháng sáu, trực Thiên đức, Nguyệt đức nên không thể dùng Sát tự tử chi kim, ngũ hành không có khí, người bình thường không thể gặp được (bất năng dương), đó là Hắc sát ở phương Bắc, tướng quân chi khí. Nhâm Tý là mộc đả bảo bình, Bắc phương mộc dục chi địa, lại là chính tứ phế, càng kị dùng. NGÀY PHÁ là ngày Sửu: Tiểu hồng sa, ngày đó không có cát tinh (sao tốt), không thể mưu trù làm, là vạn bất đắc, khi đã cần chọn cẩn thận làm những việc nho nhỏ cấp dùng, nếu như khởi tạo, khai trương, xuất hành, hôn nhân, chủ về tổn lục súc, bị gọi vì việc quan. Đinh Sửu, Quý Sửu là Sát nhập trung cung, phạm cái đó sát nhân, xấu không thể nói. NGÀY NGUY là ngày Dần: Mùa hạ là quỷ thần không vong. Giáp Dần Thiên đức, Nguyệt đức, Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân khố lâu, Lộc bảo lâu, ích đế ngự tinh, che, chiếu, nhưng không lợi cho đi xa, định, tạo, nhập trạch, hôn nhân, cớ là Quỷ thần hung trạch chi ngưng, nếu khai sơn, mai táng, mưu trù trăm việc, trong vòng 60 ngày, 120 ngày sinh quý tử, gia nghiệp hưng vượng, có quý nhân tiếp dẫn, tiến sản nghiệp, rất tốt. Các ngày Dần còn lại tốt vừa. NGÀY THÀNH là ngày Mão: Thiên hỉ. Ất Mão, Tân Mão có Hoàng la, Tử đàn, Loan dữ (xe kiệu) bảo cái, Lộc âm, mã vãng, và Quỳnh ngọc Kim bảo, Thiên đế tụ bảo, mọi thứ sao tốt chiếu lâm, lợi cho nhập trạch, khai trương, xuất hành, hôn nhân, chủ về thêm con cháu, vượng điền sản, tiến hoành tài, tăng cư ốc (nhà ở), sinh quý tử, rất tốt. Các ngày Mão còn lại tốt vừa. NGÀY THÂU là ngày Thìn: Giáp Thìn có Thiên đức, với Bính Thìn và Nhâm Thìn là ba ngày tốt vừa, lợi thâu mới sửa sang, chủ về thêm điền sản, vượng lục súc, cũng nên an táng, mưu trù. Là Canh Thìn làm Đằng sà (rắn biết bay), Chu tước. Không nên dùng Mậu Thìn vì cũng không tốt. NGÀY KHAI là ngày Tị: Thiên thành, Thiên tặc, Phúc sinh. Chỉ nên Ất Tị, Quý Tị thì hưng công, động thổ, nhập trạch, khai trương, là tốt vừa. Các ngày Tị còn lại bất lợi, phạm Nguyệt yếm, xấu. NGÀY BẾ là ngày Ngọ: Vãng vong. Giáp Ngọ là Thiên xá, không hệ chuyển sát, lại trực Nguyệt đức, sát, cũng chỉ có thể dùng việc nhỏ, bởi vì có Thụ tử, khí đó không chọn vẹn. Bính Ngọ là táng nhật, nếu mưu trù nho nhỏ thì cũng là tốt vừa. Nhâm Ngọ, Canh Ngọ táng nhỏ là tốt vừa, các việc còn lại khác thì không nên. Mậu Ngọ là trùng tang, không thể dùng. THÁNG BẢY Nguyệt kiến Thân: Lập thu - Xử thử. (Từ ngày 7-8 tháng 8 DL) Trước Lập thu 1 ngày là Tứ tuyệt. Sau Lập thu, Tam sát tại phương Nam, trên Tị, Ngọ, Mùi, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Thân: Mậu Thân là Thiên xá (?). Giáp Thân, Nhâm Thân là ngày tỷ hòa, chỉ nên mai táng. Nhưng nguyệt kiến trên xấu, không thể dùng. Canh Thân là Sát nhập trung cung. Bính Thân là ngũ hành không có khí, càng xấu. NGÀY TRỪ là ngày Dậu: Vãng vong. Ất Dậu không có sao xấu, khai sơn, phạt cỏ, an táng, hưng công, định tảng, buộc giàn, sửa mới, tạo tác, xuất hành, khai trương, nhập trạch, di cư là tốt vừa. Kỷ Dậu là Cửu thổ quỷ. Đinh Dậu xấu bại. Quý Dậu là Phục kiếm chi kim, Bắc phương Hắc sát tướng quân chi khí, tổn thương, xấu, ác. Tân Dậu là Thiên địa chuyển sát chính tứ phế, xấu. NGÀY MÃN là ngày Tuất: Thiên phú, Thiên tặc. Bính Tuất, Nhâm Tuất là Chu tước, Câu giảo, Bạch hổ nhập trung cung, dùng ngày đó chủ về bị gọi vì việc quan, là không nhà cửa, suy bại, tổn nhân khẩu, tật bệnh triền miên, một lần dậy là một lần ngã, không rời giường chiếu, rất xấu, kị cái đó. NGÀY BÌNH là ngày Hợi: Đằng sà triền miên, tổn nhân khẩu, gặp việc quan, khẩu thiệt, vạ ngang, xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Tý: Bính Tý là lúc nước sạch sẽ, lại gặp vượng địa, trực Hoàng la, Tử đàn tinh, che, chiếu, nên tu tạo, an táng, gặp gỡ người thân, khai trương, xuất hành, nhập trạch, hưng công, động thổ, rất tốt. NGÀY CHẤP là ngày Sửu: Có Chu tước, Câu giảo, Đằng xà, Bạch hổ, chi sát, không nên dùng vào việc, phạm cái đó chủ thoái tài, hại nhân khẩu. Đinh Sửu, Quý Sửu là Sát nhập trung cung, đều không thể dùng, là ngày thụ mệnh. NGÀY PHÁ là ngày Dần: Giáp Dần là Chính tứ phế. Canh Dần, Mậu Dần, Bính Dần đều không tốt, mọi việc không nên, chủ có việc lên quan, thoái tài (giảm của), nhân khẩu thì nheo mắt nói nhỏ. Duy có 1 ngày Nhâm Dần có Nguyệt đức, chỉ lợi cho an táng. NGÀY NGUY là ngày Mão: Ất Mão là chính tứ phế, xấu. Quý Mão, Đinh Mão, có Thiên đức, Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân khố lâu, Ngọc đường tụ báu tinh, che, chiếu, nên khởi tạo, hôn nhân, giá thú, hưng công, động thổ, đặt móng, buộc giàn, khai trương, xuất hành, nhập trạch, thượng quan, làm kho chứa, chuồng trại trâu dê, chủ về gia nghiệp xương thịnh, nhân khẩu hưng vượng, sinh quý tử, tiến hoành tài, giàu sang lúa gạo. Các ngày Mão còn lại (Kỷ Mão, Tân Mão) là tốt vừa. NGÀY THÀNH là ngày Thìn: Thiên hỷ. Nhâm Thìn là Nguyệt đức, Canh Thìn, Bính Thìn là ba ngày táng, tốt vừa, không nên dùng vào việc lớn. Mậu Thìn, Giáp Thìn là Bạch hổ nhập trung cung, phạm cái đó trong 3-6-9 năm sách (?)gặp xấu. NGÀY THÂU là ngày Tị: Tiểu hồng sa, có Chu tước, Câu giảo, Đằng xà, mọi việc bất lợi, phạm cái đó bị gọi vì việc quan, nhân khẩu rất xấu. NGÀY KHAI là ngày Ngọ: Hoàng sa. Nhâm Ngọ, Nguyệt đức, Bính Ngọ, Mậu Ngọ, là ba ngày lợi về gặp cha mẹ (thân), giá thú tu tạo, mai táng, khai trương, xuất hành, nhập trạch, động thổ, mọi việc đó trong vòng 60 ngày - 120 ngày tài tụ tập phúc dẫn về, quý nhân tiếp dẫn, điền sản hưng vượng, người thân thuộc (quyến nhân) an khang. Các ngày Ngọ còn lại (Giáp Ngọ) là tốt vừa. Riêng Canh Ngọ rất xấu. NGÀY BẾ là ngày Mùi: Thiên thành, Thiên tặc. Quý Mùi là Hỏa tinh, Thiên đức. Kỷ Mùi là Hỏa tinh, nên tu tạo nhập trạch, đặt móng, buộc giàn, xuất hành, khai trương, là tốt vừa. Tân Mùi, Đinh Mùi dùng vào việc nhỏ, cũng tốt vừa. Riêng Ất Mùi là Sát nhập trung cung, nếu như ở trong sân đóng đinh, gõ vật, ồn, ào, gọi to, kêu gào,v.v.., làm kinh động, Thần sát trừng phạt gia trưởng, tổn thương đầu, mặt, tay, chân, rất xấu, chủ về huyết quang (bị về chảy máu), tai nạn về nước sôi, lửa bỏng, không đến việc vạ, tiểu nhân chiếm hại, kiện cáo, cãi vã, liên miên. Phàm là Sát nhập trung cung, ngày đó đều nên phòng cái đó, chọn mà tránh. THÁNG TÁM Nguyệt kiến Dậu: Bạch lộ - Thu phân. (Từ ngày 7-8 tháng 9 DL) Trước Thu phân một ngày là Tứ ly Sau Bạch lộ, Tam sát tại phương Đông, trên Dần, Mão, Thìn, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Dậu: Tiểu hồng sa, Thiên thành, nhưng khi ngũ hành tự bại, trăm việc đều xấu, thêm phạm Thiên địa chuyển sát càng xấu, gặp việc quan, nguy khi đẻ, người con gái đẹp bị tai nạn về nước, con cháu bỏ trốn tan tác, bại gia không dứt. NGÀY TRỪ là ngày Tuất: Ngày Canh Tuất là Thiên đức, Nguyệt đức. Mậu Tuất, Giáp Tuất nên hưng công, động thổ, nhập trạch, khai trương, hôn nhân, mọi việc dùng ngày đó là tốt vừa. Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, mọi việc không nên phạm, chủ về mất của, lãnh thoái, rất xấu. NGÀY MÃN là ngày Hợi: Thiên phú. Ất Hợi là Văn Xương quý hiển tinh. Đinh Hợi, Kỷ Hợi có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Hoa thái, Thao trì, Lộc mã, là những tinh che, chiếu, lợi cho khởi tạo, hưng công, động thổ, buộc giàn, nhập trạch, hôn nhân, giá thú, khai trương, xuất hành, doanh (mưu trù), là mọi việc làm lớn thì phát lớn, làm nhỏ thì phát nhỏ, trong vòng 60 ngày, 120 ngày, chậm là đủ vòng năm lại thấy tài thành, nhà sinh con quý, vượng điền sản và lục súc. Tân Hợi là ngày âm phủ ương khiển (phóng thích hết), không phải là chỗ cho dương gian dùng. Quý Hợi là ngày tận cùng của lục giáp, ngũ hành không có khí, không thể dùng. NGÀY BÌNH là ngày Tý: Vãng vong, Chu tước, Câu giảo, bị gọi vì việc quan, tổn trạch trưởng (chủ trang trại). Bính Tý là khi nước trong sạch (khiết tinh). Canh Tý là hỏa tinh dựa vào Thiên đức, Nguyệt đức, và Mậu Tý nữa là ba ngày lợi cho khởi tạo, giá thú, nhập trạch, xuất hành, động thổ, dùng ngày đó rất tốt. Giáp Tý cũng có Hỏa tinh, nhưng là Bắc phương Hắc sát chi khí. Nhâm Tý là lúc thảo mộc điêu linh (tàn hại), ngũ hành không có khí, không thể dùng. NGÀY ĐỊNH là ngày Sửu: Tân Sửu, Quý Sửu, Ất Sửu, Đinh Sửu là tốt vừa. Duy có Kỷ Sửu bất lợi cho mọi việc, không nên phạm cái đó, chủ về tật bệnh, sinh tai (vạ) xấu. * * * * * Tra ngày Định là Sửu ở Đổng công trong nguyên bản, có chép:- Tân Sửu, Quý Sửu, là ngày dùng việc thì tốt vừa. - Ất Sửu, Đinh Sửu cũng tốt vừa. - Duy có Kỷ Sửu là bất lợi. - Các nhà thố pháp (người làm việc chôn quan tài) nói Đinh Sửu, Quý Sửu phạm Chu tước, Câu giảo, lại có Bạch hổ, Sát nhập trung cung, những cái đó xấu. - Mà Tân Sửu thẳng mùa Thu là ngũ mộ, can chi không có khí, trăm việc kị dùng. * * * * * Tựa như khó nói cái đó là tốt, tuy có cẩn thận bàn về đầu mối mới nói là Đinh Sửu, Kỷ Sửu nên làm việc hôn nhân, giá thú.Nhưng 4 ngày Sửu là Đinh, Kỷ, Tân, Quý của tháng đó, đều có hung Sát, huống hồ Kỷ Sửu càng có thập ác chi hung (xấu vì có mười thứ ác), Xương quỷ (quỷ cuồng vọng), bại vong, đã nghiệm, dùng làm sao được, nếu như những ngày đó nói chung đã không dùng mới là ẩn cái mừng (một cách) cao minh, thế là vì sao? Duy có Ất Sửu tiếp đối các sách đều nói là tốt trên hết, hoặc có thể dùng? NGÀY CHẤP là ngày Dần: Hoàng sa. Canh Dần là Thiên đức, Nguyệt đức, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân bảo tàng, Điền đường khố, Châu tụ, Lộc đới mã loan, và Cung Diệu chúng cát tinh chiếu lâm, nên khởi tạo, hôn nhân, động thổ, di cư, khai trương, xuất hành, vượng điền sản, tiến hoành tài, tăng lục súc, thêm nhân khẩu, và con cháu cải đổi nhà, sân, gia đạo hưng thịnh. Các ngày Dần còn lại cũng tốt vừa, có thể dùng. Riêng Giáp Dần là chính tứ phế, xấu. NGÀY PHÁ là ngày Mão: Thiên tặc. Quý Mão, Ất Mão, dùng vào việc thì tốt vừa. Các ngày Mão còn lại bất lợi, có Chu tước, Câu giảo, bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, kiêm phạm Nguyệt yếm là xấu. Ất Mão là chính tứ phế, cũng xấu. NGÀY NGUY là ngày Thìn: Nhâm Thìn là lúc nước trong sạch. Bính Thìn nên phá đất, hưng công, khai trương, xuất hành, nhập trạch, hôn nhân, trăm việc thuận lợi, rất tốt. Mậu Thìn thảo mộc điêu linh. Canh Thìn là thiên địa cùng phế, không tốt. Giáp Thìn là Sát nhập trung cung, rất xấu. NGÀY THÀNH là ngày Tị: Thiên hỉ. Ất Tị, Kỷ Tị, có Tử đàn, Đới lộc, Dịch mã, tập tụ ở Khúc đường, mọi sao che, chiếu, nên hôn nhân, nhập trạch, hưng công, động thổ, khai trương, xuất hành, khởi tạo kho chứa, chuồng dê ngựa, đều rất tốt, trăm việc thuận lợi. Các ngày Tị còn lại là tốt vừa. NGÀY THÂU là ngày Ngọ: Phúc tinh, có thể yên tĩnh. Kiến, Phá lại xung. Nhâm Ngọ là Hỏa tinh, dùng vào việc là tốt vừa. Duy Mậu Ngọ có Hỏa tinh, bất lợi. Canh Ngọ cũng bất lợi. Bính Ngọ động thổ, an táng, các loại mưu trù cũng là tốt vừa, phạm cái đó tổn con cháu, bị gọi vì việc quan, lãnh thoái, xấu. NGÀY KHAI là ngày Mùi: Đinh Mùi, Kỷ Mùi, Tân Mùi, Quý Mùi đều hệ tốt vừa, ngày đó chỉ nên phạt cỏ, mở núi (khai sơn), nhổ cây, an táng. Duy Ất Mùi trăm sự không lợi, xấu, phạm thì suy, bại, tử, tuyệt. NGÀY BẾ là ngày Thân: Mậu Thân là Thiên xá. Canh Thân, Bính Thân là Thiên đức, Nguyệt đức, nên xuất hành, sửa mới, động thổ, hưng công, đặt móng, buộc giàn, hôn nhân, nhập trạch, an táng, khai trương, làm kho chứa, chuồng trâu, dê, lợn, lợi con cháu, vượng điền sản, tiến hoành tài, nhà cửa phát đạt, tốt nhất (thượng cát). Giáp Thân, Nhâm Thân là tốt vừa. THÁNG CHÍN Nguyệt kiến Tuất: Hàn lộ - Sương giáng. (Từ ngày 8-9 tháng 10 DL) Sau Hàn lộ, Tam sát tại phương Bắc, trên Hợi, Tý, Sửu kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Tuất: Bính Tuất là Thiên đức, Nguyệt đức, rất tốt. Các ngày Tuất còn lại bất lợi, nếu như dùng cái đó thì tổn của, bần cùng, rất xấu. NGÀY TRỪ là ngày Hợi: Thiên thành. Ất Hợi, Đinh Hợi, nên khởi tạo, khai trương, giá thú, nhập trạch, xuất hành, động thổ, mọi việc rất tốt, con cháu hưng vượng, giàu sang mãi mãi. Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp, không thể dùng. Tân Hợi thuần là khí âm, không có chỗ dùng ở dương gian. Kỷ Hợi là Hỏa tinh, chỉ có khởi tạo, hôn thú là tốt. NGÀY MÃN là ngày Tý: Hoàng sa, Thiên phú. Bính Tý là lúc nước trong sạch, kiêm có Thiên đức, Nguyệt đức, Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Tầng tiêu Liên châu (chuỗi nhọc trên tầng không), Lộc mã, là mọi sao tốt che, chiếu, nên hôn nhân, giá thú, khai trương, xuất hành, nhập trạch, hưng công, động thổ, đặt móng, buộc giàn, an táng, thêm nhà cửa, lợi con cháu, vượng điền sản, tiến lục súc, tăng hoành tài, trong vòng 60 ngày, 120 ngày sẽ thấy nghiệm. Nhâm Tý là Mộc đả bảo bình, thảo mộc (cây cỏ) điêu linh, rất xấu. Các ngày Tý còn lại không nên dùng việc. Giáp Tý có Hoàng la, Tử đàn là sao che, chiếu, có thể dùng. NGÀY BÌNH là ngày Sửu: Tiểu hồng sa, có Phúc tinh, bị Nguyệt kiến xung, phá, Chu tước, Câu giảo, bị gọi vì việc quan, kết chiếm mọi việc không lợi, nếu mưu trù nhỏ là trong đó có phúc sinh, cũng phải cẩn thận, có thể mượn dùng tạm, nhưng cuối cùng là không có lợi ích, dùng việc lớn vào cái đó thì thấy ngay là xấu. Đinh Sửu, Quý Sửu là sát nhập trung cung, càng xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Dần: Bính Dần là Thiên đức, Nguyệt đức. Canh Dần, Mậu Dần có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, mọi sao tốt che, chiếu, nên khởi tạo, giá thú, xuất hành, nhập trạch, khai trương, nhất thiết mọi việc, chủ về tiến của, sinh quý tử, hưng gia đạo, vượng lục súc, rất tốt. Nhâm Dần phạm Nguyệt yếm, Thụ tử, không giải. Nhưng Bính Dần, Mậu Dần, Canh Dần, tuy 3 ngày đó phạm Nguyệt yếm nhưng trong đó có mọi sao tốt che, chiếu, cho nên rất tốt. Duy có Giáp Dần là chính tứ phế, xấu. NGÀY CHẤP là ngày Mão: Tân Mão, Kỷ Mão có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, mọi sao tốt che, chiếu, nên giá thú, khai trương, xuất hành, nhập trạch, động thổ, sửa mới, khởi tạo, kho chứa, chủ về tiến của cải, tăng nhân khẩu, hưng gia đạo, vượng lục súc, rất tốt. Các ngày Mão còn lại là tốt vừa. Duy Ất Mão là chính tứ phế, xấu. NGÀY PHÁ là ngày Thìn: Vãng vong, Thiên đức, Nguyệt đức, tu tạo thì tốt ít, kị giá thú, khai trương, nhập trạch, đi ở (đồ cư), chủ về tổn lục súc, hao của, tụ tập khẩu thiệt. Những ngày Thìn còn lại càng không tốt. Mậu Thìn, Giáp Thìn là Sát nhập trung cung, rất xấu. NGÀY NGUY là ngày Tị: Ất Tị nên phạt cỏ, an táng, hưng công, tạo tác, hôn thú, khai trương, nạp thái (nộp lễ vật xin cưới), di cư, xuất hành, nhập trạch, chủ về thêm con cháu, gia đạo hưng thịnh, phát tài, rất tốt. Những ngày Tị còn lại là tốt vừa, chỉ nên làm việc nhỏ thì có thể dùng, không lợi cho hôn nhân, chuyển chỗ ở, khai trương, xuất hành, phạm cái đó xấu, bại. NGÀY THÀNH là ngày Ngọ: Thiên hỷ. Bính Ngọ là Thiên đức, Nguyệt đức, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân khố lâu là các sao che, chiếu, nên khởi tạo, giá thú, nhập trạch, xuất hành, thương mại, khai trương, động thổ, an táng, tốt cả, nhất thiết phát tài, giàu sang, thêm đinh (đàn ông), người hầu (nô tỳ) tự đến, mưu vọng thì thắng, luôn luôn. Các ngày Ngọ còn lại là tốt vừa, đều có thể dùng. NGÀY THÂU là ngày Mùi: Ất Mùi là ngày mộ. Tân Mùi, Quý Mùi là đặt móng, buộc giàn, là tốt vừa, nhưng không lợi cho khởi tạo, hôn nhân, xuất hành, nhập trạch, an táng, khai trương, thương khố (kho chứa), tổn, gặp ôn dịch. Ất Mùi là Chu tước, Câu giảo, Bạch hổ nhập trung cung. Đinh Mùi cũng xấu. NGÀY KHAI là ngày Thân: Thiên tặc. Mậu Thân là Thiên xá. Giáp Thân là khi nước trong sạch, có Hoàng la, Tử đàn, Tụ lộc đới mã, là những sao che, chiếu, nên an táng, làm sinh cơ. Nhưng ngày Tây trầm ngũ hành không có khí, huống hồ là đúng đêm mùa thu, khí hậu đó không nên khởi tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương. Duy an táng thì rất tốt, thêm con cháu, nhà cửa phát đạt. Các ngày Thân còn lại là tốt vừa. Canh Thân là Bạch hổ nhập trung cung, phạm cái đó, sát nhân, càng xấu. NGÀY BẾ là ngày Dậu: Lúc đó là giao giới hai mùa thu và đông, đều là Sát thương. Kỷ Dậu là Cửu thổ quỷ. Ất Dậu là ngày an táng. Các ngày Dậu còn lại cũng nên dùng vào việc nhỏ, nhưng ngũ hành không có khí, tên là bạo tán sát trùng, ngày đó không nên khởi tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương, dùng thì lãnh thoái, xấu. THÁNG MƯỜI Nguyệt kiến Hợi: Lập đông - Tiểu tuyết. (Từ ngày 7-8 tháng 11 DL) Trước Lập đông 1 ngày là Tứ tuyệt. Sau Lập đông, Tam sát ở phương Tây, Trên Thân, Dậu, Tuất, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Hợi: Không lợi cho khởi tạo, khai trương, hôn thú, nhập trạch, xuất hành, an táng, dùng cái đó bị gọi vì việc quan, tổn gia trưởng. Như Ất Hợi, Kỷ Hợi cũng chỉ nên làm nhỏ, mưu trù là có lộc. Tháng 10 ngày Kiến Hợi là không lợi. NGÀY TRỪ là ngày Tý: Tuy là ngũ hành vượng tướng, nhưng giao giới giữa hai mùa thu và đông, thoạt đầu có chuyển sát là xấu. Ngạn ngữ nói rằng "Chuyển Sát nhi thương vị khả khinh dụng", nghĩa là Chuyển Sát mà hại chưa thể coi nhẹ mà dùng. Giáp Tý là Thiên xá, không phải là Chuyển Sát, dùng cái đó không hại. NGÀY MÃN là ngày Sửu: Thiên phú, Thiên thành, Thiên tặc. Đinh Sửu, Quý Sửu là Sát nhập trung cung, không lợi cho khởi tạo, giá thú, cổ nhạc (trống khua nhạc cử) ồn ào, và cả tới việc các cách đóng đinh vào cửa (đinh môn các cách), làm kinh động thần Sát, tổn nhân đinh, hại lục súc. Những ngày Sửu còn lại cũng không nên dùng, chỉ có thể thanh hồn, nhập mộ. Phàm kim nhập cung Sửu là ngũ hành không có khí và phạm Nguyệt sát, Thiên tặc, xấu. NGÀY BÌNH là ngày Dần: Thiên phú, Thiên thành, có Đáo châu tinh, việc đến phủ quan mà sau đó tán. Duy có Giáp Dần là tốt trên hết. Nhâm Dần, Canh Dần là tốt vừa, sửa nho nhỏ thì có thể, làm lớn thì không nên. Những ngày Dần còn lại xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Mão: Ất Mão là Thiên đức. Tân Mão, Kỷ Mão nên động thổ, hưng công, định tảng (đặt móng), đặt nóc (thượng lương), giá thú, nhập trạch, xuất hành, khai trương, dùng các ngày đó tốt, có cát diệu chiếu lâm. Những ngày Mão còn lại là xấu. NGÀY CHẤP là ngày Thìn: Giáp Thìn là Thiên đức, Nguyệt đức, chỉ có thể sửa trộm, nếu khởi tạo, hưng công, giá thú, nhập trạch thì không lợi. Duy Bính Thìn có thể mở núi, phạt cỏ, an táng là tốt vừa. Mậu Thìn là Sát nhập trung cung, rất xấu. NGÀY PHÁ là ngày Tị: Tiểu hồng sa, lại phạm Chu tước, Câu giảo, mọi việc không nên. Duy Ất Tị có Thiên đức, mưu trù việc nho nhỏ thì có thể dùng, là tốt vừa. Đinh Tị là chính tứ phế, phạm cái đó thì lôi đình tan bại, việc ngang trái, mất của. NGÀY NGUY là ngày Ngọ: Hoàng sa. Giáp Ngọ là Nguyệt đức, có Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân khố lâu, mọi sao tốt che, chiếu, giá thú, khai trương, khởi tạo, động thổ, xuất hành, nhập trạch, an táng, rất tốt. Những ngày Ngọ còn lại là tốt vừa. Bính Ngọ là chính tứ phế, xấu. NGÀY THÀNH là ngày Mùi: Là tam hợp tích của nguyệt kiến. Ất Mùi là Sát nhập trung cung, kị xuất hành, an táng, giá thú, nhập trạch, khai trương, tu tạo. Duy Quý Mùi, hỏa tinh, Thủy nhập Tần châu, là quý nhân tinh, trực với Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân Liên châu tinh, che, chiếu, nên khởi tạo, giá thú, nạp thái (nạp lễ vật khi xin cưới), vấn danh (lễ ăn hỏi), xuất hành, gặp quý nhân, gia trạch an ninh mãi mãi, chủ về cả năm, 100 ngày được quý nhân tiếp dẫn, tiến điền sản, sinh quý tử, phát phúc, tốt trên hết. Các ngày Mùi còn lại tốt vừa. NGÀY THÂU là ngày Thân: Ngược lại phạm Đáo châu tinh (?), dùng cái đó bị gọi vì việc quan, tổn nhân khẩu. Duy Giáp Thân là khi nước trong sạch, thủy thổ trường sinh cư Thân (?), lợi cho an táng, hôn thú, xuất hành, nhập trạch, động thổ, khai trương, khởi tạo, mưu trù việc làm, chủ về trong vòng một năm, 100 ngày, quý nhân tự đến dẫn dậy, mọi việc toại ý. Canh Thân là Thụ tử, không có khí, lại là Sát nhập trung cung, phạm cái đó chủ sát nhân rất xấu. NGÀY KHAI là ngày Dậu: Ất Dậu là Thiên đức, là ngày táng, nên giá thú, gặp cha mẹ, nhập trạch, khởi tạo, khai trương, dùng các ngày đó là tốt nhất, chủ về tăng điền trạch, thụ chức, lộc, sáng cửa nhà (rạng rỡ), nô tỳ, nghĩa bộc tự đến xin làm công, mọi việc thuận toại ý. Kỷ Dậu là cửu thổ quỷ, an táng thì được, không nên dùng vào việc lớn. Các ngày Dậu còn lại là tốt vừa. NGÀY BẾ là ngày Tuất: Hỏa tinh. Giáp Tuất là Nguyệt đức, nên giá thú, khai trương, xuất hành, nhập trạch. Nhưng không lợi cho động thổ, khởi tạo, mai táng, di cư. Bính Tuất, Mậu Tuất, trăm việc đều xấu, bại. THÁNG MƯỜI MỘT Nguyệt kiến Tý: Đại tuyết - Đông chí. (Từ ngày 7-8 tháng 12 DL) Trước Đông chí một ngày là Tứ ly. Sau Đông chí, Tam Sát tại phương Nam, trên Tị, Ngọ, Mùi kị tu tạo động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Tý: Hỏa tinh. Giáp Tý là Thiên xá, là ngày tiến thần ích, bị Nguyệt Kiến xung phá, dùng cái đó chủ việc quan, phá bại, thỉnh Thiên xá không hợp với ngày đó. Bính Tý tuy trực lúc thủy vượng, Tiến thần làm địa chuyển, cũng cùng với Nguyệt Kiến tương xung, lúc đó thủy đoạn (nước hết), sức suối chảy cũng rất giảm, cuối cùng trong tốt có dấu hiệu xấu, chủ về Trước là có ích, sau là hại, nước hết bình vỡ. NGÀY TRỪ là ngày Sửu: Thiên ôn. Ất Sửu là quê hương kim mộ, nên tụ họp với cha mẹ, khởi tạo, xuất hành, khai trương, động thổ, phạt mộc, khai sơn, có cát tinh che, chiếu, chủ quý nhân tiếp dẫn, mưu vọng toại ý. Những ngày Sửu còn lại là tốt vừa. NGÀY MÃN là ngày Dần: Hoàng sa, Thiên phú, là thổ ôn, nhưng không nên động thổ. Vì có phúc tinh và Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, là các sao che, chiếu, nên hôn nhân, nhập trạch, khởi tạo, an táng, xuất hành, khai trương, trăm sự thuận toại ý. Nhâm Dần, Mậu Dần tốt trên hết. Bính Dần, Canh Dần tốt vừa. Giáp Dần là tốt vừa. NGÀY BÌNH là ngày Mão: Thiên tặc. Tân Mão, Hỏa tinh, lại phạm Chu tước, Câu giảo, dùng cái đó bị gọi vì việc quan, tổn tài vật, khởi việc tranh nhà cửa, thương tình nghĩa, lắm ác tật, xấu. Duy có một ngày Ất Mão là tốt vừa. Những ngày Mão còn lại chủ Phụ tử, huynh đệ bất nghĩa, tranh nhà cửa, tự thắt cổ, người ác cướp hại, phá tán, rất xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Thìn: Tuy nói tốt, lại có Thiên la, Địa võng, là hung họa, quý nhân không gặp, mưu trù việc làm không lợi, Sát nhập trung cung, phạm cái đó sát nhân, xấu. Duy chỉ có Nhâm Thìn tuy phạm Quan phù, nhưng trong có Thiên đức, Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, là những sao che, chiếu, chỉ nên an táng, an môn (đặt cửa), giá thú, nhập trạch, những việc còn lại là ngày dùng thận trọng, nhưng vẫn là ngày Tử khí, phạm Quan phù, Kiếp sát, không phải cung Quan phù cùng đến phương đó, cho nên không lợi. NGÀY CHẤP là ngày Tị: Ất Tị, Quý Tị, Kỷ Tị, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng là những sao che, chiếu, nên an táng, đặt cửa, hưng công, động thổ, giá thú, nhập trạch, xuất hành, khai trương, mưu trù làm mọi việc dùng ngày đó thêm nhân khẩu, vượng gia đạo, sinh quý tử, tăng điền địa, rất tốt. Tân Tị là tốt vừa. Đinh Tị là chính tứ phế, xấu. NGÀY PHÁ là ngày Ngọ: Thiên tặc. Nhâm Ngọ là Hỏa tinh, cạnh Nguyệt đức, cẩn thận, có thể nho nhỏ mà gấp thì dùng. Các ngày Ngọ còn lại thì dẫn đến ôn dịch, hại lục súc, và là ngày Nguyệt Kiến xung phá, xấu. Bính Ngọ là chính tứ phế, xấu. NGÀY NGUY là ngày Mùi: Đinh Mùi là khi nước đại hải trong sạch, dùng cái đó trăm việc tốt hết. Kỷ Mùi mai táng là tốt vừa. Những ngày Mùi còn lại cũng tốt. Hai ngày đó (?) dùng việc chủ về tiến nhân khẩu, tăng điền sản, được tài ngang (hoành tài). Tân Mùi, Quý Mùi mọi việc bất lợi. Ất Mùi là Sát nhập trung cung, càng xấu. NGÀY THÀNH là ngày Thân: Thiên hỷ. Nhâm Thân là Thiên đức, Nguyệt đức. Giáp Thân, Mậu Thân là lúc ngũ hành không có khí, trực Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân Bảo tàng khố lâu, là mọi sao tốt che, chiếu, nhất thiết làm là trăm phúc cùng đến (biền trăm), mọi việc thuận theo, sinh quý tử, vượng tài lộc. Ngày Canh Thân chỉ nên an táng và tu tạo nho nhỏ phía ngoài nhà chính thì có thể được, nếu như khởi tạo công lớn và hôn nhân, nhập trạch, khai trương thì thấy ngay vạ hung (xấu), chủ tổn gia trưởng, hại đàn bà và trẻ con, vì cái đó là ngũ hành không có khí, Sát thần tụ vào trung cung, Thiện nhân không thể giáng phúc. * * * * * Ta từ khi còn ít tuổi được cái đó, khi ở giang hồ không thiết, đến lúc trung tuổi và về già thấy có người chọn dùng ngày đó, sức làm trở ngại người đó không nghe(?), liền thấy ngay tai vạ. Qua đó có thể biết sách chọn ngày đó thực là có kinh nghiệm, không thể xem nhẹ. * * * * * Ngày Bính Thân dùng việc thì sợ phạm quỷ khốc, hiệu như thần, càng nên cẩn thận cái đó.NGÀY THÂU là ngày Dậu: Tiểu hồng sa, có Đáo châu tinh, việc đến quan mà sau đó tán, chỉ nên mai táng là tốt vừa, kị khởi tạo, khai trương, xuất hành, nhập trạch, giá thú, những việc trên phạm vào cung đó không lãnh thoái cũng tổn thương tài vật, xấu. Các ngày Dậu còn lại(?) cũng bất lợi. NGÀY KHAI là ngày Tuất: Vãng vong, tiểu táng cũng phải chuẩn bị đầy đủ và có vì cấp thì dùng ngày đó cũng chỉ tốt vừa. Như Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, mọi việc kị dùng. Giáp Tuất tám phương đều trắng, 24 hướng mọi thần trầu trời Nguyên nữ, trộm sửa ngày đó có thể dùng. NGÀY BẾ là ngày Hợi: Ất Hợi, Kỷ Hợi là những sao Văn Xương, Quý hiển, Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Bài châu (thẻ bằng ngọc), Thiên đăng, Tụ lộc Đới mã, Kim ngân khố lâu, Bảo tàng là những sao tốt che, chiếu, nên khởi tạo, mưu trù là trăm việc đều tốt, tám phương, 24 hướng đều lợi dụng cái đó, gia đạo phong dinh (nhiều thừa), sinh quý tử, tiến tài lộc, vượng lục súc. Đinh Hợi là ngày tốt vừa. Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp. Tân Hợi là ngày phụ nhân chi kim (vợ của kim), âm phủ quyết quán chi kỳ (kỳ ở âm phủ quyết trốn tránh). Một năm có bốn mùa, duy chỉ tháng hai là có ngày Tân Hợi tốt. Các ngày Hợi còn lại đều không thể dùng. THÁNG MƯỜI HAI (Tháng chạp) Nguyệt kiến Sửu: Tiểu hàn - Đại hàn. (Từ ngày 5-6 tháng 1 DL) Sau Tiểu hàn là Tam sát tại phương Đông, trên Dần, Mão, Thìn, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Sửu: Vãng vong, Hồng sa. Ất Sửu, Kỷ Sửu, nên khai sơn, phạt cỏ, hưng công, động thổ, giá thú, khai trương, xuất hành, nhập trạch, là ngày tốt vừa. Đinh Sửu là Sát nhập trung cung, không nên khua nhạc, trống, làm ồn ào, hôn nhân, mọi việc đó hại gia trưởng, trạch mẫu. Quý Sửu tuy vượng nhưng lục sát nhập trung cung, tổn thương nhân khẩu, xấu. NGÀY TRỪ là ngày Dần: Canh Dần là Hỏa tinh, Thiên đức, Nguyệt đức. Giáp Dần, Bính Dần, Nhâm Dần, đều có Hỏa tinh, và Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Bảo liễu (xe ngọc quý), Khố châu phúc lộc, Văn Xương, Lộc mã quan ích là những sao tốt chiếu lâm, nên khởi tạo, hôn nhân, an táng, nhập trạch, khai trương, xuất hành, trăm việc thuận lợi, dùng ngày đó gia môn phát đạt, động thổ thấy tiến tài sản, tên là "Đăng hổ bảng". Mậu Dần cũng có Hỏa tinh nhưng là tốt vừa, ngày đó có thể dùng. * * * * * Theo "Thích kỷ biện phương", Dần ở tháng chạp là thiên tặc, là ngày Dần trong tháng có Hỏa tinh thì không ghi, đó là hai thuyết nên tồn lưu để tham khảo. * * * * * NGÀY MÃN là ngày Mão:Thiên phú, Thổ ôn, không nên động thổ, Thiên ôn một năm. Nếu dùng ngày Mão vào việc cưới, gặp cha mẹ, ăn hỏi, cũng tốt nhỏ nhưng có lục bất thành, lục bất hợp, cái đó ngừng. Duy có Tân Mão, tạo tác, hưng công, nhưng là tốt vừa. NGÀY BÌNH là ngày Thìn: Có Đáo châu tinh, việc đến quan mà sau đó tán. Duy có Nhâm Thìn nên mai táng, cưới vợ, gặp cha mẹ, hưng công, động thổ, xuất hành, nhập trạch là tốt vừa. Canh Thìn là Thiên đức, Nguyệt đức, nên làm nhỏ cũng tốt vừa. Mậu Thìn thảo mộc điêu linh, lúc đó ngũ hành không có khí, và là thoái tinh, lại kiêm Sát nhập trung cung, mọi việc bất lợi, xấu. NGÀY ĐỊNH là ngày Tị: Thiên thành. Một thuyết nói là Quan phù tinh phi, nhưng nói là ngày Tử khí, nếu phương tu tạo trực với Phi cung Châu bách, Quan phù, thấy ngay, nếu như phương đó hợp với cát thần tụ tập sẽ cầu cái đó xấu dùng cũng được. Quý Tị tuy trực kim thủy trong sạch lúc đó. Hoặc có thể khai sơn, phạt cỏ, nhưng ngày đó tốt vừa, nếu cưới vợ chồng hoặc khai trương, xuất hành, nhập trạch, đặt móng, buộc giàn, lại là thiên thượng đại không vong nạp âm Tị, tuyệt không nên dùng. Đinh Tị là Chính tứ phế, xấu, một năm bốn mùa (quý), dùng ngày Tị chủ khẩu thiệt, tuy có Hỷ thần hoá giải cũng thuộc khó thoát. Như tốt thì vượng, xấu thì suy, tất cần xét rõ mệnh tuổi và sơn hướng không phạm xung khắc thì mới có thể dùng. NGÀY CHẤP là ngày Ngọ: Canh Ngọ là Thiên đức, Nguyệt đức, như Canh Ngọ làm Canh sơn Giáp hướng có thể thâu vào nạp âm, huống hồ ngày đó có dùng giờ Canh Thìn, giờ đó gặp tam hợp chiếu Thân, Canh diện Canh lộc, cư Thân, Thìn mã trực Nhâm Thân đó sinh thành lộc mã nhật, sẽ là mã gặp lộc tinh, Thánh nhân nam diện tinh, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân bảo lâu, là những sao tốt che, chiếu, chủ về thêm con cháu, vượng gia môn, tiến điền sản, đạt lộc vị. Nhâm Ngọ cũng tốt. Các ngày Ngọ còn lại là tốt vừa. Bính Ngọ là chính tứ phế, xấu. NGÀY PHÁ là ngày Mùi: Đinh Mùi là "Thủy cư cự mẫn" (trong nước có con cá bể to tên là mẫn). Quý Mùi là "Thủy nhập Tần châu nội", "Văn Xương quý hiển tinh", động thổ, hưng công, xuất hành, nhập trạch, cưới vợ, khai trương, trăm việc rất tốt. Kỷ Mùi, Tân Mùi là Sát nhập trung cung, xấu. Ất Mùi cũng không lợi. NGÀY NGUY là ngày Thân: Canh Thân là Thiên đức, Nguyệt đức, nên sửa chôn (?), an táng, mưu trù làm việc nho nhỏ là thứ cát (tốt vừa), nếu nhà to, có hàng nghìn, hàng trăm thợ trở lên, thì những việc khởi tạo, khai trương, nhập trạch, hôn nhân, lại không nên, vì là ngày Sát nhập trung cung, không lợi cho người gia trưởng. Mùa xuân tuy có Thiên đức, Nguyệt đức cũng không có tác dụng gì, tổn thương tay, chân, người thợ phá mất, tổn hoại khí huyết, làm lớn thì nhanh thấy, làm nhỏ thì ứng chậm. Nếu làm chuồng trâu, dê, lợn, thì trong 60 ngày, 120 ngày sẽ thấy hổ lang làm bị thương, lại sinh ôn dịch thời khí. Giáp Thân, khởi tạo, an táng tốt. Bính Thân, Nhâm Thân, chỉ nên mai táng. NGÀY THÀNH là ngày Dậu: Thiên hỉ. Ất Dậu, Quý Dậu là khi kim vượng. Ất Dậu là lúc nước trong sạch, có Hoàng la, Tử đàn, Kim ngân khố lâu, Tụ lộc đới mã, là những tinh che, chiếu, lợi cho việc cưới vợ, khởi tạo, khai trương, nhập trạch, an táng, là ngày tốt chọn vẹn, chủ về con cháu hưng vượng, trăm việc vừa lòng (xứng tâm). Đinh Dậu cũng thuộc kim vượng, chỉ có mai táng là tốt nhất, những việc còn lại là tốt vừa. Tân Dậu là Kim loan (nhạc ngựa bằng vàng), tốt vừa. NGÀY THÂU là ngày Tuất: Có Đáo châu tinh, việc đến công đường mà sau đó tán. Canh Tuất có Thiên đức, Nguyệt đức, tám vị Kim tinh, có "Nam tử chi hoan" (cái hang của con trai), trước hết bị khẩu thiệt mà sau đó thì rất tốt. Giáp Tuất tám phương đều trắng, ở 24 hướng mọi thần đều chầu trời Nguyên nữ, ngày đó trộm sửa có thể dùng. Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, trăm việc đều kị. Ngày Mậu Tuất cũng không thể dùng. NGÀY KHAI là ngày Hợi: Thiên tặc, Nguyệt yếm. Ất Hợi có Văn Xương tinh. Kỷ Hợi có Hỏa tinh, có Văn Xương hiển quý tinh, nên đặt móng, buộc giàn, hôn nhân, khai trương, nhập trạch, xuất hành, trù mưu làm mọi việc, đều tốt trọn vẹn. Nên dùng giờ Mậu Thìn. Là ngày tuy phạm Thiên tặc nhưng lại có Thiên cẩu huyên, cho nên không hại vì thế là tốt trên hết. Nếu như gặp ngày này người sống rất hoại cái mệnh (?). Đinh Hợi cũng nên dùng việc. Ngày Tân Hợi âm khí rất bạo, không phải là chỗ dùng của dương gian. Quý Hợi là ngày cùng của lục giáp, không thể dùng. Mà Kỷ Hợi vì có Hỏa tinh nên mọi việc có thể dùng, không thể không thuận mà xứng lòng, như ý. NGÀY BẾ là ngày Tý: Hoàng sa. Canh Tý tuy có Thiên đức, Nguyệt đức nhưng lại là lúc Thiên Địa chuyển Sát. Nhâm Tý, Bính Tý là Thiên địa chuyển trục, không nên hưng công, động thổ, phạm cái đó rất xấu. Giáp Tý là Thiên xá, là Tiến thần. Và Mậu Tý nên việc nhỏ thì có thể sửa là tốt, nếu dùng việc lớn thì xấu,vạ triền miên, chẳng lành, không biết Đại mã nạp âm, hung sát và Bắc phương tạo độc chi thần (thần làm cờ lớn ở phương Bắc), thuần âm hắc sát chi khí Dư tào túc lệnh (chủ quản đông người nghiêm chỉnh lệnh), không phải là rất quý, không cảm thấy đáng dùng, phải cẩn thận. ***** LỜI CUỐI Có đủ ngày tốt xấu trong các tháng. Đại phàm dùng việc nhà, đều nên tra tỷ mỉ, nghiệm thấy không có chỗ nào không ứng, hiệu. Quý thay, cẩn thận thay, để cho tuyển chọn đầy đủ: 1 - Chọn ngày phải đem sách này và Hiến thư (Sách chung về ngày tốt xấu), khảo sát ở hiến thư, là tốt, sách đây cũng tốt, dùng cái đó là rất tốt. Nếu như Hiến thư chưa thấy rất tốt mà sách này tốt thì dùng cái đó không hại. Nếu như Hiến thư tựa như tốt, mà sách này không tốt đều không thể dùng. Lại có kinh nghiệm trong Hiến thư nếu gặp Nhị thập bát tú trong đó có Kim thần thất sát trực nhật đều không thể phạm dùng, kiêng đó. 2 - Chọn ngày đã cùng với Hiến thư tra xét rõ ràng, sau đó lại sẽ tốt nhất ở ba sao Sát cống, Trực tinh, Nhân chuyên. Gặp một trong các sao đó trực nhật thì dùng cái đó càng rất tốt. Nhưng Sát cống, Trực tinh, Nhân chuyên có thể giải các sao xấu mà không thể giải Kim thần thất sát. Nếu gặp Kim thần thất sát trực nhật thì tuy có Sát cống, Trực tinh, Nhân chuyên vẫn không thể dùng. Cái Kim thần thất sát rất là hung hiểm, đều nên tránh đi. 3 - Mệnh niên của người đó và cùng với hướng kiểm duyệt ở Hiến thư chỗ ghi nam cơ cung, nữ cơ cung, phải biết trong cái đó chia ra Đông tứ mệnh và Đông tứ trạch, Tây tứ mệnh và Tây tứ trạch, tức là cái đó nói cũng là tốt. Người Kham dự (thầy địa lý thiên văn) hỏi chủ nhân tuổi năm nay để định phương hướng, nếu như đông tứ cung mệnh nên ở Khảm bắc phòng là tốt nhất, đông phòng là bình thường, tây phòng là tốt vừa, nam phòng thì nên ở chính giữa mở cửa lớn làm đường đi cũng rất tốt. Phàm Đông tứ cung mệnh do mệnh đó tọa ở Đông nam gồm các phương Ly, Chấn, Khảm, Tốn, cho nên ở phương nam tại chính giữa mở cửa, làm đường đi. Cái đó là như thế nào? Nguồn gốc cái đó là ở phương Khảm tên là Thủy Hỏa ký tế mà thành giao thái, khí, cũng hướng về tốt. Nếu tây Tứ mệnh nên ở đông, Tây phòng rất tốt. Nếu như ở nam phòng sao cái đó không đi Càn phương Thanh long mà đi Cấn phương Bạch hổ. Bởi vì Tây tứ cung mệnh thì ở nam phòng là Bạch hổ, Trước nó mở cửa ở Cấn phương là ở đông bắc là có thể được Tử khí (khí màu đỏ tím), mùa đông về thì sinh phát ra tốt. Không đi Càn phương lấy kim, thủy rất hàn, cho nên phương bắc tuy tốt nhưng khó để thuận lòng toại ý, đó là đại ý về dương trạch. PHỤ LỤC Ngày Kim Thần Thất Sát: Năm ............. Hành ........ Ngày Kim thần thất sát Giáp, Kỷ ........ Thổ ........... Ngọ, Mùi Ất, Canh ........ Kim ........... Thìn, Tị Bính, Tân ....... Thủy ......... Tý, Sửu, Dần, Mão Đinh, Nhâm ..... Mộc .......... Tuất, Hợi Mậu, Quý ....... Hỏa .......... Thân, Dậu
    1 like
  32. Đổng Công tuyển trạch nhật yếu dụng Lê Văn Sửu dịch từ “Tân Mão niên đại tự thông thư - 1951”, dịch xong tháng 3/1992. THÁNG GIÊNG Nguyệt kiến Dần: Lập xuân - Vũ thủy. (Từ ngày 4-5 tháng 2 DL) Trước Lập xuân một ngày là Tứ tuyệt Sau Lập xuân, Tam sát ở phương Bắc, trên Hợi, Tý, Sửu, kị tu tạo, động thổ. NGÀY KIẾN là ngày Dần: Ngày Vãng vong, không lợi cho việc khởi tạo, kết hôn nhân, lạp thái (ăn hỏi), chủ về gia trưởng bị bệnh, bị gọi vì việc quan, trong vòng 60 ngày và 120 ngày tổn tiểu khẩu, trong vòng một năm thấy trùng tang, trăm việc không nên dùng. NGÀY TRỪ là ngày Mão: Không nên khởi tạo, hôn nhân, phạm vào cái đó thì trong vòng 60 ngày tổn gia trưởng, bị gọi vì việc quan, trong vòng 3-6 năm thấy xấu, lãnh thoái, chủ về huynh đệ bất nghĩa, mọi nghiệp chia tan, gặp phải người ác, sinh ly tử biệt. NGÀY MÃN là ngày Thìn: Là Thiên phú, Thiên tặc, là Thiên la, lại nói: Giáp Thìn tuy có khí khích giống với Mậu Thìn, cung mà sát tập trung, trăm việc đều kị, phạm phải cái đó thì chủ về việc khởi đầu giết người, của bị giảm (thoái), rất hung. Trừ mà ở ngày Thìn cũng không tốt. NGÀY BÌNH là ngày Tị: Là Tiểu hồng sa, có Chu tước, Câu giảo đáo châu tinh, phạm vào cái đó chủ về bị gọi vì việc quan, tổn gia trưởng trạch, đàn bà, con gái trong vòng 3-5 năm lớp lớp bất lợi, phá của, rất hung, ruộng tằm không thu được sản vật, chết vì tự thắt cổ, bị người ác cướp bóc. NGÀY ĐỊNH là ngày Ngọ: Là Hoàng sa, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân, Khố lâu, Điền đường, nguyệt tài khố trữ tinh che, chiếu, nên khởi tạo, an táng, dời chỗ ở, khai trương, xuất hành, trong vòng 60 ngày, 120 ngày, tiến hoành tài, hoặc nhân phụ ký thành gia (nhờ vả mà thành nghiệp), làm lớn thì phát lớn, làm nhỏ thì phát nhỏ, chủ về ruộng, tằm thu lớn, vàng bạc đầy kho. NGÀY CHẤP là ngày Mùi: Là Thiên tặc, có Chu tước, Câu giảo, trong vòng 60 ngày, 100 ngày lục súc hại, lừa ngựa thành ác tật. Ất Mùi sát tập trung cung càng kị khởi tạo, nhập trạch (về nhận nhà mới), hôn nhân, khai trương, tu chỉnh. NGÀY PHÁ là ngày Thân: Có Chu tước, Câu giảo, bị gọi vì việc quan, khẩu thiệt, giảm gia súc và của, trong vòng 3-5 năm thấy mộ đàn bà, việc xấu. Ngày Canh Thân là chính tứ phế, càng xấu. NGÀY NGUY là ngày Dậu: Tân Dậu ở tháng giêng, tư, bỏ, không nên dùng vào việc. Duy có ngày Đinh Dậu có Thiên đức, Phúc tinh che, chiếu, nên an táng, hoàn phúc nguyện, xuất hành, khai trương, vào việc quan gặp quý, tốt, chỉ không nên các việc khởi tạo, hôn nhân, giá thú, vẫn cái đó vào ngày đó. Ngoài ra, các ngày Dậu khác không nên dùng. NGÀY THÀNH là ngày Tuất: Có Thiên hỉ, nhưng lại là ngày Địa võng, mọi việc không nên phạm ngày đó, chủ về gia trưởng bệnh, nhân khẩu không có nghĩa, lạnh lùng mà lui (lãnh thoái). Lại nói Bính Tuất, Mậu Tuất, Canh Tuất, Nhâm Tuất là sát tập trung cung, phạm vào cái đó chủ về khởi đầu giết người, anh em bất nghĩa, tử biệt sinh ly, kị trước nhất là khởi tạo, hôn giá, nhập trạch, tu tác. NGÀY THÂU là ngày Hợi: Có Câu giảo, không nên dùng vào việc, phạm cái đó tổn gia trưởng, hại con cháu, trong vòng 60 ngày, 120 ngày, chủ phương Nam Bạch y hình hại, nam nữ nhiều tai vạ, rất xấu. Duy có ngày bình địa chi với nguyệt kiến âm dương hợp đức, là tốt vừa phải (thứ cát). NGÀY KHAI là ngày Tý: Ngày Giáp Tý là kim tự chết, ngày ngũ hành âm kị. Nhâm Tý là mộc đả bảo bình chung (gỗ đánh vào bình quí cuối cùng), là phương Bắc, nơi tắm gội (mộc dục), không nên khởi tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương. Chỉ có riêng ba ngày Mậu Tý, Bính Tý, Canh Tý duy thủy thổ sinh người, dùng cái đó rất tốt, trong có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân, tàng tài trữ, liên châu, chúng tinh che, chiếu. Trong vòng 60 ngày, 120 ngày được rất nhiều của, quý nhân tiếp dẫn, giữ chức lộc, mưu việc thì nhiều may mắn, vượng lục súc, thêm tài sản, cũng nên an táng. NGÀY BẾ là ngày Sửu: Không lợi cho hôn nhân, khởi tạo, phòng hổ và rắn làm hại, lừa ngựa đá phải thành ác tật, bần, bệnh, rất xấu.
    1 like