• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 11/06/2010 in all areas

  1. Hic Cũng thấy buồn, khi đọc bài này. Ông mặt đen Bao Công bên Tàu chỉ là một quan địa phương nhỏ nhoi thoi, ấy vậy mà được văn chương làm PR qua hàng trăm năm "thăng quan" lên tới hàng nhất phấm đại quan triều đình, coi như một vị đại minh quan của lịch sử Tàu. Thương cho cả dân Tàu và dân Ta đều bị...lầm. Nhìn lại xứ mình, một Tô Hiến Thành lẫm lẫm nghiêm minh, chính thực là một bậc đại quan của triều đình, một vị đại minh quan hơn cả ông "Thanh Thiên" kia ngàn trượng mà cũng bị vùi chôn trong tro tàn lịch sử, rất ít được biết đến. Buồn thay! Quay lại chuyện Sín sán họ Phùng kia, chỉ ra 2 chiêu "kinh điển" ...phổ thông, 1 xem có vẽ thần bí, 1 xem có vẻ khoa học nhưng cả 2 nếu áp dụng một cách máy móc, chủ quan duy ý chí thì coi chừng...gậy ông đập lưng ông. Thiên Đồng
    4 likes
  2. Cho đến tận thời nhà Thanh Quan Công cũng chỉ là một nhân vật được "yêu mến" vừa tầm. Tuy nhiên bắt đầu từ thời này Quan Công rất được yêu mến do có một vị vua người Mãn rất mê Tam quốc và nhân vật này. Ông đã ra phong cho tước "thượng đẳng thần" rồi "đại đế",... Không chỉ vậy sai lập miếu thờ khắp nơi và khuyến khích dân chúng lập miếu thờ. Nhờ đó Quan Công cũng như Tam quốc trở nên nổi tiếng hơn bao giờ hết. Quan Công tuy là một nhân vật có thật nhưng được hư cấu, phóng đại lên quá mức như cạo xương khi đang chơi cờ, tính tình đại nghĩa trượng phu, mặt đỏ râu dài,...Nếu nhìn rộng ra thì La Quán Trung cũng như bao nhà văn khác của TQ bị ảnh hưởng của tư duy điển cố tức là tuy chỉ là một sự kiện, một nhân vật có một chút gì đó rồi tán chuyện, xây dựng thành một hình mẫu (nói theo cách hiện đại bây giờ) PR. Cũng nhờ nét văn hóa này mà người ta có cảm tưởng văn hóa Trung quốc rất rực rỡ và lịch sử oai hùng do khi nghĩ, khi nói về nó có nhiều cái dễ dàng nhớ đến. Ngược lại văn hóa Việt như mang tính Thủy. Sâu sắc nhưng trầm lặng và cũng vì thế khi nói về nó nhiều người nước ngoài cứ tưởng nó rất đơn giản và không có gì. Trong nhà tôi có tượng Đức Thánh Trần. Cụ vĩ đại hơn Quan Công gì đó nhiều.
    3 likes
  3. Kính thưa toàn thể Thành viên Diễn đàn Lý học Đông phương, Được sự đồng ý của Sư phụ Thiên Sứ, Random tạo chủ đề "DỰ ĐOÁN BÓNG ĐÁ - WORLD CUP 2010" kính mời toàn thể các Thành viên cùng tham gia Dự đoán diễn biến, kết quả các trận đấu bóng đá trong WORLD CUP 2010 tại Nam Phi với tinh thần vui vẻ và sảng khoái :lol: , có dao dùng dao, có súng dùng súng, không có dao và súng thì dùng tay không :P . Kính chúc toàn thể các Thành viên sức khỏe và niềm vui cùng WORLD CUP 2010, chúc WORLD CUP 2010 thành công tốt đẹp.
    2 likes
  4. Thật oan uổng cho công trình khoa học của tiến sĩ Masaru Emoto khi bị Chanthiennhan dán cái mác "tâm linh" làm mê hoặc người đọc nhằm cũng cố cho cái PLC huyễn hoặc vì thật ra những nghiên cứu trên chẳng có liên quan gì đến PLC cả
    2 likes
  5. Hoan nghênh Random đã mở topic này. Chúng ta xem "bói" "Uốc cúp" trên tinh thần "pha học", chứng nghiệm. Không chịu trách nhiệm đúng sai. Ai cá độ ráng chịu. Trân trọng kính mời các cao thủ của các môn dự báo tham gia. Các cao thủ Lạc Việt độn toán như BBW đoán trúng với tỷ số 24/ 32 trận với 14 trận đúng liên tiếp. Cao thủ Dộc Cô Cầu Thắng đã ẵm trọn giải thưởng là một cái TV của FPT cho ai đoán trúng với tỷ số cao nhất. Cao thủ Linh Trang và Công Minh đoán trúng tỷ số và cả diễn biến trận đấu y như tường thuật viên. Kinh quá! Riêng Thiên Sứ tôi về khả năng này lại dở ẹc - Lá số Tử Vi đã xác định không bén duyên với cái gì liên quan đến cá độ, nên sẽ ủng hộ nhiệt liệt. Xin nhân danh cá nhân tặng: Giải nhất: Một chai rượu trong số những chai rượu Thiên Sứ có (Vì không biết chai nào có giá trị, nên sẽ chụp ảnh dưa lên đây và người giải nhất chọn). Giải nhì: Xin được tặng 3 cuốn sách của Thiên Sứ và Trung tâm đang và đã in: - Định mệnh có thật hay không? - Thuyết Âm Dương Ngũ hành từ văn minh Lạc Việt (Đang viết, tựa có thể thay đổi). - Kỷ yếu hội thảo Phong Thủy. - Cuốn thứ tư thì người nhận có quyền từ chối là tập thơ Thu Say, vì có thể bị chê :( . Các nhà hảo tâm ủng hộ topic này, có thể bổ xung thêm giải.
    2 likes
  6. Vào tối thứ 3 và thứ 5 hàng tuần, tại lầu Bát Giác (vườn hoa LTT) có biểu diễn chương trình tôn vinh tiếng Đàn Bầu. Chương trình biểu diễn miễn phí, các bác xem xong nhớ vỗ tay nhế :( .
    2 likes
  7. Kính chú Random, thật vinh hạnh khi nhận được lời mời của chú sang bên này, cháu xin "khai mạc" WC (World Cup ý ạ) bằng quẻ đã dự đoán bên Tư vấn (paste lại sang đây :lol:) Đội nào sẽ thắng trong trận mở màn ngày mai? 20h50' ngày 28 tháng 4 năm C.Dần Quẻ: Đỗ Đại An Ngày Tùng bách mộc Tháng Bạch lạp kim Đỗ hỏa sinh Đại An thổ, ngày Tùng bách mộc, quẻ Đỗ càng có sức. Quẻ đẹp thế này, Đại An thổ nội quẻ ứng vào màu vàng áo tuyển Nam Phi. Nam Phi sẽ giành chiến thắng trước Mê xi cô dù có hơi muộn, có lẽ là hiệp 2. Luận thêm tí nữa: Đỗ ngoại quẻ là sự việc tác động vào, được người giúp, có lẽ Nam Phi chiến thắng một phần nhờ trọng tài nữa. tongue.gif Tỉ số: 2 - 0
    2 likes
  8. THĂNG LONG HOÀI CỔ Tạo hóa gây chi cuộc hý trường Đến nay thấm thoát mấy tinh sương Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương Ngàn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh ấy người đây luống đoạn trường Tác giả: Bà Huyện Thanh Quan
    2 likes
  9. (em cũng chưa hiểu gương lồi này là gương như nào ) ??? Cái này phải đọc lại sách vật lý phổ thông phần Quang học nhé. Mãi chơi quên hết lời cô dặn dò rùi. Hé he. Còn đây là hình của kiếng ...... Gương cầu lồi là gương có bề mặt là một phần của hình cầu và có lớp bạc hướng về mặt lồi. Gương cầu lồi cho ta ảnh ảo và nhỏ hơn vật. Vùng nhìn thấy của gương cầu lồi rộng hơn vùng nhìn thấy của gương phẳng có cùng kích thước. Gương cầu lồi có thể biến một chùm tia sáng song song thành chùm tia phản xạ phân kì, từ chùm tia hội tụ thành chùm tia phản xạ phân kì hay song song. Người ta dùng cái tô đỏ trên để vào phong thũy thui. Dể ợt ****/ Có vài cách trấn kiểu sát nầy, đặt ông Quan Công trấn sát cũng được nhưng chứng tõ thầy nầy chưa cao tay ấn, cũng phãi thôi vì là cô Phùng dùng phong thũy theo tràng phái (giáo viên sư phạm)....... Cô lại sử dụng tinh thần dân tộc lên cao, đúng là tàu thâm thiệt. Tàu họ dụng tượng Quan Công trấn sát cầu phúc lợi, có ly do nhất định của nó như họ cho rằng ông QC là thần linh nhà trời, dựa vào uy dũng công đức khi còn tại thế của ông ấy để trấn tromg phong thũy ...vv. Nhưng dù sao đó là thần nhân dân tộc cũa họ. Nên họ thờ Quan Công thì ta củng nên tôn trọng, ko pĩ báng vì đó là một người có Đức Dũng. Nhưng luôn nhớ đây vẩn là người Tàu. Trong khi nước Việt ta có một anh hùng dân tộc rất nổi tiếng được thế giới ghi nhận. Ngài công đức vô lượng, pháp thuật cao cường sát qũy trừ tà, uy linh hiển hách, đời đời thờ phụng .... đó là Đức Thượng Phụ Thượng Quốc Công Bình Bắc đại nguyên soái Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Gia hiếu tử, quốc trung thần, công liệt chiến đan thanh, ninh chỉ lưỡng hồi an xã tắc; Văn kinh thiên, vũ bát loạn, anh linh tham khí hóa, thượng lưu chung cổ điện sơn hà” Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông :... "Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...". ( nếu so sánh công lao thành tựu ra thì ông Quan Công còn thua xa Ngài - Người Hoa vùng Nam TQ xưa kia họ còn dụng mượn danh Ngài để dạy và nuôi dưỡng đứa trẻ nhỏ ) . Tho61ng kê mà đầy đũ ra thì cả nước hiện nay phải có đến gần 1 ngàn nơi có thiết lập bàn thờ Ngài. Hàng năm những dịp lễ hội, quan dân nô nức dâng hương tưởng nhớ và cầu khẫn. Thế mà người ta không phụng sự Ngài ngay tại gia, mà nương nhờ công đức của Ngài cầu phúc tránh họa. Người Việt mừoi muơi lại cứ rước ông Quan Công bên tàu về thờ.Thật là thiếu sót và thiếu hiểu hiểu biết nghiêm trọng. Phải nói là người Tàu từ bấy lâu họ xấu với mình trong cái chuyện thôn tính đất đai, cai trị nhân lực.... Nhưng phải thừ nhận họ có nhiều cái giõi hơn mình. Ghét hay không thích là về quan điễm sống này nọ, còn giõi thì phải học thôi. Nội cái Nho - Y _ Lý _ Số họ cũng đầy người có tên tuỗi bấy lâu. Không vì lịch sử ngườn gốc nọ kia mà ta đang đưa nó về đúng sự thật của vấn đề mà rồi giũ bỏ tất cả, đó là cực đoan. Còn nữa là trong Y _ Lý _ Số, các nhà Y Lý 1chân chính phải là người có đức độ, thương người, ko hám dnh lợi. Còn không trời ko dung đất ko tha, ai đi vào cái món này cả Việt Tàu Cao Ly Nhự bổn .... mà chẵng biết. Nên cũng ko nói tất cả đêu xấu được. Vậy họ có cái hay thì mình học, nhưng học thì học áp dụng phải có định hướng, quan điểm và tư tưởng Việt. ( Phải xây dựng phát triển đất nước bằng nền kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN và tư tưởng HCM ) chớ ! Nếu cậu có tâm, nên di thĩnh tượng Ngài Hưng Đạo Đại Vương về thờ để trấn sát trừ tai. Nói trộm zía chứ đại diện các cơ quan công quyền thứ bậc lớn đùng còn lạy Ngài như tế sao khi có việc này kia. Huống chi cái đồn CA phương nhỏ tí đó. Năm xưa tôi có đọc được bài : Linh thiêng đức thánh Trần trên trang web nào đó, rất giá trị cậu tìm đọc cho rõ, không bảo là tôi ba xạo.
    2 likes
  10. Híc híc, 3 quẻ của 3 người đầu tiên đều sai! T_T Nhưng không sao, xét tiểu tiết thì em vẫn đúng đc chi tiết trọng tài và ghi bàn hiệp 2 (hề hề, đây gọi là chữa ngượng :() Típ nào: Uruguay - Pháp, đội nào sẽ thắng? 10h30' ngày 29 tháng 4 năm C.Dần Quẻ: Cảnh - Lưu niên Hây da, 2 đội đá cống hiến đây, ngang tài ngang sức (ăn theo bác BW) dưng mà nhiều tình huống do dự quá đâm ra các chân sút có vẻ sẽ thành "chân gỗ" hết! Tỉ số: 0 - 0 hoặc 1 - 1.
    1 like
  11. Kết quả cuối cùng Nam phi - Mexico: 1 - 1. Chưa có ai dự đoán trúng :(, nhưng phải vui và sảng khoái. Kính mời các thành viên dự đoán tiếp tục, còn nhiều trận đấu đang chờ đợi.
    1 like
  12. Namie mới được người bạn khoe là cô ấy có công việc fulltime. Mừng cho cô ấy mà buồn cho Namie quá. Sao số người thì lận ận, người thì may mắn đến vậy. Cô ấy không đúng nghề, ko có kinh nghiệm vậy mà lại được trong khi đó Namie kinh nghiệm, bằng cấp lại bị từ chối thẳng thắn. Đời mới bạc làm sao :(. Cầu mong cho lời NDK để Namie có thể đền đáp công ơn cha mẹ.
    1 like
  13. Chào toàn thể Thành viên, Random dự đoán trận Nam Phi vs Mexico, Giờ Tý - 0h30 ngày 29 / 4 / Canh Dần Thương Xích khẩu Nam Phi - chủ nhà - Xích khẩu Kim được sự ủng hộ của đông đảo khán giả sẽ chiến thắng Mexico - Thương mộc. Kết quả trận đấu: Nam Phi thắng Mexico Tỷ số trận đấu: 2 - 1 hoặc 3 - 2. Nhận xét trận đấu: Trận đấu quyết liệt với những pha tấn công liên tục từ Hiệp 1, 02 bàn thắng sẽ được ghi trong hiệp 1, không loại trừ khả năng thi đấu quyết liệt quá mà sẽ có cầu thủ bị chấn thương phải ra khỏi sân :( . Theo lịch sử các kỳ world cup, trận khai mạc thường buồn tẻ và ít bàn thắng được ghi, nhưng trận đấu khai mạc giữa Nam Phi và Mexico sẽ làm hài lòng khán giả với những bàn thắng và những pha tấn công đẹp mắt. Chúc World Cup 2010 thành công, toàn thể Thanh viên đều tham gia với tinh thần vui vẻ và sảng khoái.
    1 like
  14. lá số này rất xấu, ko thể kinh doanh gì mà giầu lên được, nếu quý cô sống bàng quang với đồng tiền thì đỡ khổ hơn nhiều, tuy nhiên nên xem xét đến vấn đề chồng có sống được với mình ko, hạnh phúc thế nào, có con dễ dàng hay ko. Nếu đúng số thì vấn đề chồng - con là nan giải lắm. Khuyên quý cô nên thực tế hơn, ko nên mơ màng huyễn hoặc mình nhiều (khuyên theo lá số)
    1 like
  15. Mỹ muốn VN vào Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương - Mỹ ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia chính thức Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một cơ chế hợp tác khu vực có thể tác động gia tăng nhanh chóng thương mại, đầu tư giữa hai nước. Ảnh: XLPhó Đại diện Thương mại Mỹ, Đại sứ Demetrios Marantis trao đổi với báo chí chiều 10/6 tại Hà Nội nói: TPP sẽ giúp loại bỏ trở ngại trong chuỗi cung, giúp các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa vào thị trường của nhau “rẻ hơn, dễ hơn và nhanh hơn”. TPP với 4 thành viên sáng lập gồm New Zealand, Singapore, Chile, Brunei và 4 nước khu vực đang đàm phán tham gia cơ chế TPP mở rộng gồm Australia, Mỹ, Peru và Việt Nam. Hồi tháng 3 vừa qua, 8 nước đã khởi động vòng đàm phán đầu tiên về TPP tại Melbourne (Australia). Việt Nam đã tham gia vòng đàm phán với tư cách "thành viên liên kết" trước khi quyết định có tham gia TPP như một thành viên chính thức. Đại sứ Demetrios Marantis đang ở thăm và làm việc tại Việt Nam đã gặp gỡ với Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Nông thôn Cao Đức Phát, đại dêện Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội… Ông Marantis nói trong tiến trình 15 năm bình thường hóa quan hệ, thương mại và kinh tế đã trở thành trọng tâm dẫn dắt mối quan hệ đối tác giữa Mỹ và Việt Nam. Sau Hiệp định thương mại song phương (BTA), việc Việt Nam gia nhập WTO, ông Marantis cho rằng TPP sẽ là cơ chế giúp Mỹ và Việt Nam ngày càng gắn kết với nhau và tăng tính cạnh tranh của Việt Nam trong nền kinh tế thế giới. “Cộng đồng doanh nghiệp Mỹ rất lạc quan về triển vọng đầu tư ở Việt Nam. Cùng thời gian này, một đoàn 23 công ty của Mỹ đang có mặt tại Việt Nam để tìm hiểu môi trường đầu tư, kinh doanh theo chương trình của Hội đồng kinh doanh Mỹ - ASEAN. Điều này thể hiện mối quan tâm của công ty Mỹ với thị trường Việt Nam. Tôi tin TPP sẽ tạo ra hứng khởi mạnh mẽ hơn cho các DN Mỹ với thị trường này”, Đại sứ nói. TPP là ý tưởng về một khu vực tự do thương mại xuyên Thái Bình Dương, được kỳ vọng trở thành một khuôn khổ thương mại toàn diện chất lượng cao. Các ý kiến cho rằng việc tham gia hiệp định này sẽ tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội, trong đó việc tham gia vào chuỗi cung cấp toàn cầu, đưa các sản phẩm thế mạnh của Việt Nam ra thị trường thế giới. Trước đó, Đại sứ Australia Allaster Cox cho rằng Việt Nam vẫn còn một số thách thức khi tham gia TPP như cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, cải cách thủ tục hành chính. Xuân Linh
    1 like
  16. Cá bác bấm quẻ thì hay, nhưng tôi lại lo là có bạn nào đấy, căn cứ vào thông tin này mà đi cá độ bóng đá thì nguy :(
    1 like
  17. Bởi vậy người dân mình nói rất đúng cho những ai nói quá sự thật hay nói xạo là " nói chuyện Tàu lao"! :(
    1 like
  18. BabyWolf rất hứng thú với việc dự đoán các sự kiện bóng đá vì kết quả có nhanh sau khi dự đoán, ngoài ra cũng có nhiều trường hợp để nghiệm quẻ. BW bấm ra quẻ Khai Tốc Hỷ. Với phương pháp của BW tự nghiệm từ Euro 2008 thì BW dự đoán Nam Phi sẽ thắng Mexico 2-1. Về thế trận, trận này thì có vẻ Mexico đá hay hơn. Tuy nhiên Nam Phi có môi trường hỗ trợ (cổ động viên, trọng tài) nên đã giành lợi thế chung cuộc, việc đá hay hơn của Mexico không thể giúp đội tuyển này giành chiến thắng. Đội tuyển Nam Phi theo BW đoán thì chắc một phần do phòng thủ kém, tạo khá nhiều cơ hội cho Mexico nhưng đội này lại không tận dụng được tốt cơ hội của mình. Thân,
    1 like
  19. Giờ Tỵ / dạng người cao lớn dạm dở ,mập ,nước da ngâm đen ,chân mày đậm mắt to lộ ,mặt có nhiều nếp nhăn sớm ,lúc nhỏ cho tới trước 12t hay bệnh rất khó nuôi ,ốm yếu gầy cọc ,lúc sanh ra mẹ sanh khó ,lúc lớn lên hay có bệnh đau về xương gân .Bên tay hay chân trái có bị gẫy xương hay trật khớp lúc nhỏ ,hay trên vai ở lưng trái có vết thẹo dài /anh chị em 2-3 người tất cả đều thuận hòa khá giả / cha mẹ giàu có khá giả ,mẹ có của ơn cha và cũng là người cầm quyền trong gia đình ,nói chung cha mẹ hòa thuận ,trong cha hay mẹ là con trưởng nếu không cũng đoạt trưởng .Giờ Ngọ / dạng người hơi cao , nước da trắng ,mặt hơi dài ,đầy đặn ,dáng người dong dỏng không mập ,có khiếu ăn nói hùng biện hay ... là con trưởng trong gia đình /cha mẹ bất hòa xung khắc nhau ,nếu không lúc nhỏ cũng từng xa cah mẹ sớm và được nuôi dưỡng bởi người thân trong họ ,cha hay mẹ cũng có lần tan vỡ gia đạo ,có anh chị em cùng mẹ khác cha ? nhiều lắm là 2 người anh em không thuận .
    1 like
  20. Chữa bệnh từ cây Thanh Long Chữa rôm sẩy từ cây thanh long Thanh long là loại cây ăn quả được trồng khá phổ biến ở một số tỉnh miền nam Việt Nam, những nơi có khí hậu nóng. Đây là loại cây cho hoa đẹp, quả ngon, có nhiều chất dinh dưỡng, và đồng thời cũng là một vị thuốc thông dụng. Quả thanh long rất tốt cho người bị rôm sẩy, mụn nhọt, táo bón.Thanh long còn được gọi là cây mắt rồng, tường liên, cây lòng chảo... thuộc họ xương rồng, là loại cây thân leo trườn dài tới 10m, bám vào giá thể nhờ những rễ phụ. Thân màu lục, có 3 cạnh dẹp khía tai bèo, thường hoá sừng ở các mép, gai không nhiều lắm, rất ngắn. Hoa có đường kính tới 30cm, màu trắng hay vàng nhạt. Lá đài và cánh hoa nhiều, dính nhau thành ống; nhị nhiều; bầu dưới. Quả màu đỏ tươi, mọng nước, có phiến hoa còn lại, dài 18-20cm, đường kính từ 12-15cm. Sau lớp vỏ dầy màu đỏ là phần thịt màu trắng với nhiều hạt màu đen nhánh, nhỏ hơn hạt vừng. Thu hoạch quả vào mùa hè thu. Thanh long có vị ngọt, nhạt, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, lợi tiểu, nhuận tràng, chỉ khái hoá đàm, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như viêm phế quản, lao phổi, viêm hạch bạch huyết, quai bị, mụn nhọt... Thân cây có tác dụng thư cân hoạt lạc (giúp gân cốt co duỗi khoẻ khoắn và làm thông suốt các kinh lạc) và giải độc. Hoa có tác dụng bổ phế, trừ ho. Quả thanh long là một loại quả ăn giải nhiệt, nhuận tràng. Dùng quả ăn tươi rất tốt cho những người bị rôm sẩy, mụn nhọt, táo bón,... Đặc biệt, chất nhầy trong quả thanh long giúp làm giảm cholesterol. Do đó, người béo phì, người có hàm lượng cholesterol cao, huyết áp tăng nên ăn thanh long. Thanh long còn thích hợp với người bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp... Thanh nhiệt, giải độc, chữa rôm sẩy, mụn nhọt, nhuận tràng: Dùng quả tươi ăn hàng ngày. Chữa bỏng nhẹ: Thân cây thanh long gọt bỏ vỏ và gai, rửa thật sạch với nước muối loãng, giã nát lấy nước bôi hay dùng bã để đắp chỗ bỏng sẽ làm hết rát. Chữa mụn nhọt, gãy xương kín: Thân cây thanh long (bỏ vỏ và gai) giã nát đắp vào vị trí tổn thương. Chữa ho, viêm phế quản: Dùng 15 - 30g hoa tươi, sắc uống hoặc 10 - 12g khô sắc uống hoặc hãm thay trà để uống. Hoặc lấy 30g hoa thanh long nấu với thịt lợn nạc làm canh ăn, có tác dụng bổ phế, trừ ho. Phòng chống bệnh scorbut (bệnh do thiếu hụt vitamin C kéo dài) và một số chứng chảy máu thông thường: Ăn mỗi ngày 600 - 700g quả thanh long (khoảng 2 quả to).
    1 like
  21. Có người cho rằng đàn ông thích uống rượu rắn vì nó có công dụng "tăng bản lĩnh đàn ông". Ngày xửa ngày xưa, rất xưa... Vào thời mà loài người chỉ có chàng A-đam và nàng E-va sống trên thiên đàng, khi đó cuộc sống của họ thật là vui vẻ. Chàng A-đam suốt này ca hát, rong ruổi theo hươu, theo nai, tìm kiếm những mảnh đất mới đầy hương đồng gió nội. Còn nàng E-va chỉ mải đuổi bướm, hái hoa và ca hát. Hai người chưa biết "ái tình" là gì nên chưa ai từng thốt lên "ái chà chà" khi trông thấy người kia.Rồi một hôm, xuất hiện con rắn hoa đến ở chung với hai người ngay trong "thiên vườn" như bao con vật khác. Nhưng rắn là loài tinh quái, nó biết A-đam và E-va có một bí mật mà chính hai người cũng không biết, và nó hiểu rằng họ sẽ không "trông thấy bí mật nếu không dùng "bửu bối". Vậy là nó xui hai người ăn trái cấm, trái mà ngày nay chúng ta gọi là quả táo. Và... Lúc đầu, A-đam lấy làm sung sướng và hạnh phúc lắm lắm. Chàng ca hát nhiều hơn, tập thể hình nhiều hơn và còn hái rất nhiều hoa tặng E-va nữa. Nhưng cũng từ đó, chàng A-đam mất hẳn tự do, đi phải thưa về phải báo, hễ uống chút rượu hay về nhà khuya là bị E-va cằn nhằn liền. Hoặc giả ăn xong mà chàng chưa kịp dọn, sẽ được nghe "lời không nhạc" ngay, đâu còn được... như ngày nào. Lúc đầu để nàng vui lòng nên A-đam chấp nhận tất cả, chịu cả sự quản lý về giờ giấc mà không phàn nàn gì. Rồi dần dần chàng thấy tù túng quá. A-đam đâm ra buồn bực, hay cáu gắt và... chống đối. cười suốt 24H Thế là các cuộc cãi vã diễn ra. Nhiều lần hai người lời qua tiếng lại ỏm củ tỏi, khiến "thiên vườn" náo động. Trời lấy làm bực, bèn đuổi cả hai người xuống trần gian. Trời cũng đuổi luôn con rắn (là nguyên nhân đầu tiên của sự ồn ào đó) xuống mặt đất. Cuộc sống trần gian của A- đam còn khốn khổ hơn trên thiên đàng. Vì ở đây có quá nhiều thứ để E-va đòi hỏi: siêu thị, phim ảnh, vàng bốn số 9, quần áo, xe máy, nhà cửa... Dĩ nhiên là A-đam lấy làm bực với E-va lắm, nhưng chàng còn bực với con rắn hơn. "Nếu nó không xui ta ăn táo thì đâu đến nỗi này!" - Chàng nghĩ. Việc đầu tiên là chàng đuổi con rắn ra khỏi nhà, bắt nó sống chui lủi bờ bụi cho hả giận. Buồn thay, cái sự hận của A-đam càng ngày càng tăng, chàng phải uống rượu cho vơi đi mà không được. Và vì uống rượu hoài nên A-đam phát hiện ra rằng nếu rượu được ngâm thêm cái gì đó thì uống vào sẽ "phê" hơn, chuyện này chắc chắn đàn ông ai cũng thích! Lúc đầu, chàng uống rượu ngâm cây cỏ (sau này con cháu gọi là rượu thuốc). Rồi chàng nảy ra ý tưởng ngâm con rắn vào rượu, uống rượu đó mới hả cơn hận thù. Thế là số phận con rắn đó được định đoạt trong hũ rượu. Cũng may mà nó đã kịp lấy vợ, sinh con duy trì nòi giống. Nhưng E-va vẫn còn đó với bao nỗi phiền toái cho A-đam. Hơn nữa, bà E-va còn dạy cho con cái, cháu gái cách ngự trị những chàng A-đam trẻ khác. Ngày nay, các đấng mày râu lớp A-đam hậu sinh vẫn uống rượu rắn dài dài cho hả cơn hận sầu là vì thế!
    1 like
  22. Thứ năm, 10-06-2010 PHONG THỦY Chuyện thường ngày : - Hãy thiết kế cho tôi một ngôi nhà hài hòa phong thủy ! - Để chờ “thầy” xem xong rồi sẽ quyết định chỗ đặt bếp ! - Cuối năm nay phải cất nhà rồi, năm tới là kỵ, còn một tháng làm nhà ba tấm có kịp không? TPHCM với Kênh Nhiêu Lộc nhìn từ trên cao Qua điện thoại, e-mail hay gặp trực tiếp, mỗi ngày người thiết kế đều nhận rất nhiều những yêu cầu như thế, lúc giống mệnh lệnh, khi như van nài, mà tựu trung chỉ nhằm một mục đích: quyết tâm làm nhà theo những chỉ định về Phong Thủy! Nhưng nếu ngồi nói chuyện lâu hơn để hỏi phong thủy thực chất là thế nào , tại sao lại kiêng cữ chỗ này chỗ kia… thì các gia chủ vừa rất cương quyết ấy cũng phân vân chẳng kém. Thôi “thầy “ đã phán vậy rồi, anh ráng giúp tôi!!!. Gia chủ về rồi, còn lại người thiết kế với một đống “đơn thuốc” chi chít, từ Mệnh Trạch Bát Quái đến kích thước Lỗ Ban; bếp quay hướng này, giường nằm phía kia…“Cả đời chú chỉ có mỗi ngôi nhà này” - lời vị gia chủ tóc hoa râm cứ văng vẳng bên tai. Phương án thiết kế có chỉnh sửa được chăng? Tạm quên mình là kiến trúc sư, tự xem ta là gia chủ: “Có thờ có thiêng”, chuyện cất nhà là đại sự, không lẽ không kiêng cữ? Mà nhà tui tui ở chứ mấy anh vẽ xong có ở đâu!”. Một góc Văn Miếu Hà Nội Lại nghĩ về vấn đề phong thủy đã gặp từ thuở vô tình xem mấy cuốn Bát Trạch như đọc truyện, chẳng hiểu nhiều nhưng ngấm lúc nào không biết. Khi học trường kiến trúc, mới ngộ ra vì sao cha ông ta ngày xưa làm nhà dựng cửa hài hòa tự nhiên như hơi thở, đặt đâu trúng đó, phải chăng “hay không bằng hên”? Chắc là không rồi, vì khi đi vào kho tàng văn hóa dân gian, thấy rõ việc nhà cửa xưa nay luôn là chuyện rất thiết thân trọng đại, ai dám xem thường? Nhưng “lưu trữ thông tin” qua bao lần dâu bể đến đời con cháu thời @ hôm nay đã bị “tam sao thất bản” nhiều quá. Lên mạng gặp bao nhiêu website về phong thủy, muốn xem hướng nhà chỉ cần một cái click chuột; làm ăn trục trặc hay gia đạo bất yên là kêu do… phong thủy xấu. Nhưng ba chủ thể tạo dựng ngôi nhà (người thiết kế, người xây dựng và người sử dụng) vẫn loay hoay thắc mắc thực hư về một vấn đề xưa như… kiến trúc. Vâng, nhiều giải pháp phong thủy luôn song hành với giải pháp kiến trúc, hay có người còn đùa rằng: ông tổ phong thủy chắc là người làm kiến trúc, thấy thuyết phục gia chủ khó quá bèn dùng phong thủy để khẳng định các ý tưởng của mình! Thực ra trong kiến trúc dân gian, việc xây nhà dựng cửa chủ yếu nhờ dân nghề thổ mộc, gia chủ cũng cùng tham gia từ đầu tới cuối, kinh nghiệm phong thủy hình thành từ quá trình xây cất và sử dụng, rồi truyền khẩu như một dạng kinh nghiệm sống. Còn kiến trúc sư hôm nay với chức năng nhiệm vụ được quy định rõ ràng thì đối xử với phong thủy thế nào? Người gật đầu chiều chuộng, kẻ tự ái gạt phăng, nhưng nhà nhà mới xây vẫn có sự can thiệp của “thầy phong thủy”, vẫn phải đập chỗ này, sửa chỗ kia… và vẫn thiếu đối thoại giữa gia chủ với nhà chuyên môn về chuyện phong thủy. Chuyện hôm qua - hôm nay Mọi ngôi nhà đều không thể tách rời các điều kiện thiên nhiên và điều kiện giao tiếp xã hội. An cư mới lạc nghiệp - ai cũng mong muốn ngôi nhà cho mình và cả thế hệ sau ở phải thật an, tức là thích ứng tốt với các biến động ngoại cảnh, tạo nên một môi trường hòa hợp cao với các thành viên cư trú cụ thể, đảm bảo bình yên và phát triển (khái niệm nhà nở hậu nên hiểu cả theo nghĩa thời gian, tức là về sau luôn được phát triển vững bền). Quan niệm như vậy nên cung cách chọn đất cất nhà của cư dân Việt xưa đề cao tính linh hoạt và thái độ ứng xử mềm dẻo với môi trường xung quanh. Thay vì tìm cách trấn áp thiên nhiên, nếp nhà truyền thống luôn khai thác tốt lợi điểm và khắc phục các hạn chế của thiên nhiên với biện pháp đơn giản, chi phí tiết kiệm, khẳng định văn hóa ở đặc sắc và phong phú: nhà phải đón được gió lành và thông thoáng tự nhiên, che chắn mưa tạt nắng chói, tổ chức cây xanh và mặt nước, tạo vùng chuyển tiếp trong - ngoài... Những dữ liệu từ thiên nhiên đều giải quyết ngay từ khâu chọn hướng, chọn đất lúc ban đầu, sau đó mới đến bố cục không gian và kỹ thuật xây cất. Mặc dù phong thủy là một khoa học – nghệ thuật gắn bó chặt chẽ với tổ chức không gian - môi trường sống, có lúc người ta đã nhầm lẫn và đánh đồng phong thủy với những yếu tố kỳ bí nhuốm màu mê tín dị đoan. Vì thế tiếp cận phong thủy còn phải luôn dựa trên quan điểm kế thừa và chỉnh lý, các luận đề trước đây và hiện nay về phong thủy hoàn toàn có thể soi rọi dưới ánh sáng khoa học và không ngừng kiểm nghiệm từ cơ bản đến chi tiết. “Chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở”, chữ trạch trong Dương Trạch chính là sự tuyển chọn, tìm cái tốt nhất trong điều kiện có thể. Bài toán phong thủy trong bối cảnh hôm nay mang thêm nhiều phức tạp củasự gia tăng dân số, ô nhiễm môi trường, đất đai khan hiếm và thiên nhiên biến động. Tìm kiếm cuộc đất – ngôi nhà tốt chính là lựa chọn và giải quyết các hạn chế để từ đó nâng cao chất lượng môi trường ở. Tích hợp kinh nghiệm truyền thống và khoa học hiện đại, môn phong thủy ngày nay đang hướng đến những lời giải phù hợp và linh hoạt hơn, bởi mô hình cư trú cũng đa dạng hơn (biệt thự, nhà phố, chung cư). Nhưng chặng đường tìm kiếm bản sắc Việt (ít ra là về mặt phong thủy) xem ra vẫn lắm gian nan. Bước vào căn hộ chung cư có khi gặp ngay nơi bếp núc, chỗ đặt bàn thờ thì tìm mãi chẳng thấy - chỉ hai chuyện tối kỵ đó thôi đủ khiến nhiều người hoài niệm nếp nhà cũ, từ chối lên ở chung cư. Các vấn đề về vật lý kiến trúc, cấu tạo và địa chất công trình cũng đều là phong thủy đó chứ, nhưng chẳng hiểu sao ngày càng bị lấn át bởi sự dễ dãi hưởng thụ các sản phẩm kỹ thuật tân kỳ, quên mất thân xác của mình vốn vẫn đang chịu sự kiểm soát của Bà Mẹ Thiên Nhiên vĩ đại và nghiêm khắc. Chuyện niềm tin - trách nhiệm Trái đất vẫn quay cho dù ta không cảm nhận được, hay chỉ cảm nhận gián tiếp qua ngày và đêm, mặt trời mọc và lặn… Cũng thế, khoa phong thủy – theo tôi, gọi đích danh là khoa học và nghệ thuật về tổ chức nơi cư trú – vẫn tồn tại song hành với những người làm nghề lẫn dân ngoại đạo. Nhiều người hay xem phong thủy là độc quyền của Trung Hoa, nhưng thực ra bản năng xếp đặt nơi cư trú đã cùng tiến hóa với loài người dưới nhiều tên gọi tại nhiều vùng văn hóa khác nhau. Khoan đề cập những phạm trù sâu rộng và liên ngành của quy trình chọn lựa địa điểm xây dựng, của ứng dụng triết lý âm dương - ngũ hành, của sắp xếp bài trí nội thất sao cho hài hoà tâm sinh lý người sử dụng… mà chỉ xét đơn thuần ở khía cạnh tâm lý con người thì phong thủy là điều mọi cư dân đất Việt khi tạo dựng chốn ăn ở luôn nghĩ đến trước tiên và ám ảnh lâu dài, bất kể trình độ nhận thức và các nhầm lẫn về tên gọi cũng như tính xác thực. “Có bệnh thì vái tứ phương”, mà không bệnh (hay chưa bệnh) thì cũng luôn muốn “phòng bênh hơn chữa bệnh”. Y học hiện đại đã chứng minh rồi: yếu tố tâm lý chiếm quá nửa trong điều trị. Vấn đề là giảm thiểu những mơ hồ và biết đặt niềm tin đúng chỗ. Đó là phần gia chủ. Còn ở phía đối diện, việc thêm một dữ liệu cho bài toán của người làm kiến trúc, thêm chút thử thách (đôi khi chỉ vài câu “tôi muốn…” rất cá nhân của gia chủ thôi) cũng như thêm sự thú vị và bài toán giải được càng có giá trị hơn. Vậy tại sao người làm kiến trúc lại phải “nói không” với phong thủy? Nếu anh có thể xử lý những vấn đề phong thủy một cách khoa học, chắc chắn anh sẽ tròn trách nhiệm hơn, chủ động và sáng tạo nhiều hơn. Mặt khác, phong thủy trong nhà ở mới chỉ loay hoay nhỏ hẹp quanh một đối tượng sử dụng cụ thể, một miếng đất riêng biệt nào đó. Còn việc chọn địa điểm xây dựng khu dân cư hay khu công nghiệp, đô thị hay cả một vùng cư trú (quy trình tầm long – điểm huyệt – lập hướng) mới là vấn đề rộng và phức tạp hơn nhiều. Thế mà “từ thuở mang gươm đi mở cõi”, cha ông ta đã có những cái nhìn phong thủy đầy tính chiến lược và sáng tạo, minh chứng rõ ràng từ Thăng Long - Hà Nội đến Huế, Sài Gòn – TP.HCM… đâu đâu cũng in dấu những xếp đặt đầy ý tứ và hài hòa, rất gần gũi với kiến thức về Địa lý (Geography) của khoa học phương Tây và Địa phong thủy của phương Đông (*). Chẳng lẽ thế hệ sau với nhiều thuận lợi và phương tiện hiện đại lại không thể kế thừa và phát triển tốt hơn? Như Lão Tử đã từng nói về việc vo đất làm bình để hữu dụng cái phần rỗng trong chiếc bình, ta thấy rằng kiến trúc làm nhà không chỉ tạo ra các bề mặt vật chất, mà để gửi gắm qua những Hình ấy một Thế cụ thể, cho môi trường, cho gia chủ và cho cả nghiệp sáng tạo của mình. Vẽ phần rỗng, phần không khí đó (**) để ai đến nhà cũng buột miệng: nhà có kiến trúc sư có khác, tự hào lắm chứ ! Và cũng nhiều trăn trở lắm trước thực trạng thiếu tiếng nói chung giữa gia chủ và người chuyên môn khi đụng chạm vấn đề phong thủy. Mặt khác, cũng đừng xem phong thủy như liều thuốc an thần, mà hãy tự tạo cho mình chỗ ngủ ấm êm, một thân thể thanh sạch, một đầu óc thảnh thơi để giấc ngủ an nhiên tìm đến nhẹ nhàng. Bài và ảnh : Hoài An ----------- * KTS Lý Thái Sơn – Lá thư Geo 01-05. ** KTS Nguyễn Văn Tất – Lời tựa tập sách Không Gian Kiến Trúc Thực Và Ảo – NXB Trẻ, 2003.
    1 like
  23. Nhà đối diện Công an Phường, an ninh tốt chứ nhỉ? :lol: .
    1 like
  24. Nôm Na Là Cha Mách Qué Ngôn từ của tiếng Việt đã được sinh ra như thế nào? Câu tục ngữ “Nôm na là cha mách qué”có lẽ phải hiểu là “người Nam nói ra cho ta biết quẻ”tức ý nghĩa của quẻ nói gì.Mỗi từ của tiếng Việt là một tiếng (đơn âm) và hai tiếng (song âm) dính nhau,mỗi tiếng thể hiện tính Âm hoặc Dương rất rõ nét. Trong tiếng Việt,một phần tử gọi là một KẺ.Trong ý nghĩa phồn thực thì KẺ là một NÒI,một giống.Các làng Việt xưa đều có tên Nôm bằng một “tiết”liền với tiết KẺ là để chỉ cộng đồng người làng đó(ví dụ KẺ chợ,KẺ quê,KẺ ĐĂM,KẺ NOI-Kẻ Noi sau phiên âm bằng tên chữ thành Cổ Nhuế…).Chữ KẺ ấy ký hiệu bằng một kẻ liền(một gạch ngang­­ —­ )là biểu thị Dương(giống đực)giống như một cái KOE thẳng, KỨNG-KỎI,sau thành từ QUẺ(rút THẺ hay rút thăm là rút một cái QUE để coi QUẺ-người Hán phiên âm tiết QUẺ là “quái”).Do từ KẺ giống đực ấy mà mới có từ CU(thằng cu),CÒ(thằng cò-tiếng Thanh Hóa),tiếng Nhật gọi là KO khi đọc chữ kanji, hay KODOMO khi nói, nghĩa là CON trai.KẺ để biểu thị Âm là một kẻ mềm hơn,được thể hiện bằng một kẻ có đứt ở giữa(một gạch ngang ,đứt ở giữa — —)nói lên rằng KẺ ấy KHẼ-KHÀNG hơn,tức mềm hơn,biến thành từ CÁI,chỉ con gái. Nhìn hình tượng “nhị nguyên”gồm một QUE liền(—)và một QUE đứt(— —)cũng có thể liên tưởng đến truyền thuyết của người phương Tây “Thượng Đế lấy một xương sườn của Ađam(con đực,một cái que)bẻ đôi ra để tạo Eva(con đẻ,que bị đứt gãy ở giữa),Ađam sinh ra trước rồi mới đến Eva.Ađam và Eva trộm hái trái cấm trong vườn của trời…Cho ta thấy rằng loài người sinh ra lúc đầu sống bằng hái lượm và săn bắt.KẺ liền(—)và KẺ đứt(— —)thành khái niệm Dương và Âm, “nhất nguyên”sinh “nhị nguyên”.Những tộc người thiên về săn bắt và chăn thả tiến tới chế độ phụ hệ,nên trong kết cấu cú pháp của những ngôn ngữ đó thì những cặp từ đối nghịch đều là theo kết cấu đực trước ,cái sau,là ĐỰC/ĐẺ( Fater/Mather,On/Off,Phu/Phụ…).Những tộc người thiên về hái lượm là những tộc người làm nông nghiệp trồng trọt đầu tiên,họ có chế độ mẫu hệ,họ là chủ nhân của thuyết Âm Dương.Kết cấu cặp đối nghịch Âm/Dương là kết cấu của cú pháp Việt,như Đóng/Mở… chứ không nói On/Off…(người Hán phiên âm Âm/Dương lại nguyên si là Yin/Yang,ngược với kết cấu Phu/Phụ,Phụ/Mẫu mà họ quen nói,về sau người phương Tây cũng gọi là thuyết Yin/Yang).Cũng như chữ Thần Nông là giữ nguyên cú pháp Việt khi phiên âm,chứ nếu theo cú pháp Hán thì phải là “Nông Thần”.Những từ ghép mà là cú pháp Việt như vậy trong Kinh Thi hay trong cổ văn thường gặp nhiều.Âm/Dương chính là con số 0 (Cái,Âm) và con số 1(Đực,Dương) trong hệ đếm nhị phân,trong hệ đếm đó chỉ có hai con số đếm là 0 và 1 của máy tính ngày nay(nhưng nó là tạo ra tất cả nền văn minh hiện tại và nền văn minh tương lai của nhân loại).Số 0 và 1 tương ứng với khái niệm “Phủ định”(Âm)và “Khẳng định”(Dương) tức 0 ! và 1 ! như No ! và Number One ! của tiếng Anh, hay như Nỏ ! và Nì ! của tiếng Việt. Nhưng số đếm trong tiếng Việt thì thuở ban sơ nó là MÔ(0) và MỘT(1).(MÔ là “không” nên sinh ra từ VÔ,còn MỘTdẫn đến các từ MÓN là một thứ-“thích món nào” nghĩa là “thích một thứ nào”-,MỌN là một ít và MỐC là một điểm làm chuẩn,từ MỐC này được mượn và chú âm bằng chữ Hán là chữ MỤC目-chính là do từ MẮT của tiếng Việt-còn người Hán gọi mắt là “yanjing”NHÃN TINH,nhưng chữ “nhãn”thì lại là do từ “nhìn”của tiếng Việt.Bởi vậy trong tiếng Hán có từ ghép MỤC ĐÍCH để chỉ cái mốc là một điểm làm chuẩn.Chữ MỤC ĐÍCH目的 “mu di” chỉ là do dùng con chữ Hán có âm tiết tương tự để phiên âm từ “mốc đấy”của tiếng Việt,chứ về biểu ý của chữ Hán ấy chẳng liên quan gì đến con số MỘT cả.Chữ 目的 “mu di”theo biểu ý là “của mắt”,của mắt thì có nhiều thứ chứ “mốc đấy” thì chỉ có một,ngắm bia để bắn thì ngắm vào một điểm chuẩn tức “mốc đấy”.Việt ngữ lại mượn lại chữ MỤC ĐÍCH để chỉ một cái mốc mà con người ta nhằm tới vì thấy MỤC ĐÍCH nghe nó có vẻ trang trọng hơn ,chứ lại khinh “nôm na”-có nghĩa là “người Nam nói”- và thường hay nói tắt là ĐÍCH vì quen tư duy một tiết là có một nghĩa chính xác,chứ từ gồm hai tiết mà dính nhau không thể đảo ngược thì chỉ mang nghĩa không chính xác ,tức “lấp-lửng”,ví dụ NHƯ là chính xác giống,còn NA-NÁ chỉ là hơi giống,NHANG-NHÁC là giống nhưng hơi khác,NGỜ-NGỢ là có vẻ giống,chưa tin chắc lắm). Về số học thì 0 nhảy cóc ngay lên 1(xử lý kỹ thuật số-digital).Còn trong tư duy khái niệm thì MÔ không thể nhảy cóc lên MỘT được,mà nó phải từ từ(xử lý kỹ thuật tương tự-analog).Trong tiếng Việt một “tiết”tức một từ là một khái niệm cụ thể có ý nghĩa rõ ràng.Nó đã được xử lý như thế nào để đẻ ra nhiều khái niệm tương tự khác(chi ly hóa một khái niệm chung ban đầu),tức đẻ ra nhiều “tiết”là nhiều từ khác? Người Việt đã xử lý bằng cái NÔI Âm Dương,tức cái hình tròn biểu tượng Âm Dương,trong đó có con Âm và con Dương đang cuộn tròn lấy nhau,con Âm lớn dần lên,cực đủ thì thành Dương,con Dương cũng lớn dần lên,cực đủ thì thành Âm.Trong cái NÔI đó một “tiết”(một từ)giống như một tế bào,một cái trứng, sẽ tự tách đôi(sự phân đôi để sinh sản của tế bào)để thành hai tiết mới,khi đang còn trong quá trình phân đôi thì nó là hai tiết còn dính nhau không thể đảo ngược(ta quen gọi là “từ láy”,khi viết hai tiết dính nhau không thể đảo ngược thì nên có gạch nối giữa chúng, biểu thị còn dính nhau,đây là gợi ý của giáo sư Nguyễn Lân khi truyền bá chữ quốc ngữ).Cái NÔI là cái hình biểu tượng Âm Dương ấy gọi là “nôi khái niệm”,nó như là một cái bọc đẻ ra trăm trứng tức trăm tiếng, hay tiết, của Việt ngữ.Một trứng trong bọc đó sẽ tự chia đôi ra,lúc đầu thành hai tiết còn dính nhau,rồi tách rời hẳn nhau thành hai tiết mới,một tiết chỉ khái niệm Âm,một tiết chỉ khái niệm Dương.Ví dụ,hình dung cái “NÔI” khái niệm là cái bọc tròn biểu tượng Âm Dương ấy như là một cái “nồi”nấu kẹo,từ VO là một động tác hình tròn(như nói “vo”gạo)trong cái nồi ấy VO sẽ tách đôi sinh ra hai tiết dính nhau là VÒNG-VÈO chỉ động tác khoắng quấy tròn theo hai chiều ngược nhau.Trong bọc biểu tượng Âm Dương ấy,con Âm và con Dương quấn tròn lấy nhau, con VÒNG là con Âm,nó lớn lên sẽ làm thành sản phẩm Dương là VIÊN(tức “tròn”,hướng tích cực,Dương,sản phẩm tốt, “viên”kẹo thành phẩm rất tròn);con VÈO là con Dương,nó lớn lên sẽ làm thành sản phẩm Âm là VẸO(tức “méo”,hướng tiêu cực,Âm,sản phẩm xấu,kẹo phế phẩm không tròn lắm).Như vậy trong “nồi” kẹo ấy đã có năm từ đơn âm tiết là VO…VÒNG…VÈO…VIÊN…VẸO là những khái niệm cùng gốc,tương tự nhau, chỉ thao tác sản xuất và thành phẩm phế phẩm tạo ra.Từ một(VO)nhờ biến hóa Âm Dương mà thành được năm là nhiều tiết nhất rồi(sẽ giải thích “năm”và “prăm” ở đoạn sau)và có thêm một khái niệm lấp-lửng không hẳn tròn ,không hẳn méo là VÒNG-VÈO. “Vòng-Vèo”là từ láy gồm hai tiết dính nhau không thể đảo ngược.Tách “cưỡng chế”khi chúng đang còn dính nhau trong nôi(hay gọi là cho nở non)thì VÒNG vẫn có ứng dụng của “vòng”và VÈO vẫn có ứng dụng của “vèo”(dân nuôi tôm gọi loại lưới mắt lớn để quây rộng là “cái vòng”còn loại lưới mắt bé quây nhỏ ở góc ao để giữ tôm khi còn nhỏ là “cái vèo”). Ta hãy xem MÔ(0) và MỘT(1) tức khái niệm Âm và khái niệm Dương được sinh ra trong NÔI biểu tượng Âm Dương ấy từ cái trứng nào?Đó chính là cái “trứng”-“tiếng”- MỖI(là một KẺ,một thực thể).Tiết MỖI ấy trong cái NÔI bọc nước biểu tượng Âm Dương, nó tự tách đôi như tế bào phân đôi,lúc đầu là hai tiết còn dính nhau, cho ta một từ láy là MẬP-MỜ, “mập-mờ”là một khái niệm không chính xác,nó chẳng là 0 cũng chẳng là 1.Nhưng trong hai con MẬP và MỜ dính nhau,quấn quít nhau trong cái bọc tròn biểu tượng Âm Dương ấy thì con MẬP chính là con Cái,nó đang lớn dần lên, “béo” dần lên,khi lớn đủ,nó biến thành MỘT là Dương.Còn con MỜ chính là con Đực,nó cũng đang lớn dần lên,khi lớn đủ,nó biến thành MÔ là Âm.Từ trong bọc tròn biểu tượng Âm Dương,là cái NÔI khái niệm, ta lấy ra được bốn khái niệm:MỖI(một thực thể),MẬP-MỜ(chẳng rõ là không hay một,khái niệm lấp-lửng),MÔ(là 0)và MỘT(là 1).Tất cả thì có năm tiết là MỖI…MẬP…MỜ…MÔ…MỘT(có quan hệ với hệ đếm ngũ phân thuở ban đầu,sẽ giải thích ở đoạn sau).Từ chữ NÔI viết bằng mẫu tự Latin ta cũng thấy được nó là cái “nôi khái niệm”, tạo ra khái niệm Âm và khái niệm Dương: (Âm=Negative)=N…NÔI…I=(Innegative=Dương) Giữa là chữ Ô ,như cái vòng tròn biểu tượng Âm Dương(Sách giáo khoa dạy vỡ lòng của giáo sư Hoàng Xuân Hãn khi truyền bá chữ quốc ngữ có câu đầu tiên là “O tròn như quả trứng gà”),một bên là N=Negative=Âm,một bên là I=Innegative=Dương. Khái niệm vật thể cũng vậy.Trong cái NÔI “trứng nước” là cái bọc tròn biểu tượng Âm Dương ấy là hình hai con NÒNG-NỌC cuộn tròn lấy nhau.Từ láy NÒNG-NỌC có hai tiết dính nhau không thể đảo ngược là do tế bào NÒI, là một cái trứng giống(từ “nòi” của Việt ,“nọi”hay“neo”của tiếng Lào(trong cụm từ “neo lao hắc xạt”), đã biến âm qua “lòi”-“loài”rồi thành “lây”trong tiếng Hán rồi quay lại là “loại”khi người Việt đọc chữ Hán theo âm Việt)đang tự tách đôi trong cái NÔI biểu tượng Âm Dương.Trong NÔI ấy rõ ràng con Âm(con Cái) là con NÒNG(như câu “nòng súng đẻ ra nhiều viên đạn”),nó đang lớn dần lên,khi lớn đủ, nó đứt đuôi thành con NHÁI ,là con đực(thành Dương-người ta còn hay gọi đứa con trai nhỏ là “thằng nhãi”),còn con Dương(con Đực)là con NỌC(như câu “đưa heo nọc đi nhảy thụ tinh cho heo nái”),nó đang lớn dần lên,khi lớn đủ,nó đứt đuôi thành con NHÓC,là con cái(thành Âm-người ta còn hay gọi đứa con gái nhỏ là “con nhóc”) .Con NÒNG-NỌC là con lưỡng tính,khi đang còn đuôi dài và ở dưới nước nó chưa phát dục rõ là đực hay cái.(Trống đồng Lạc Việt có nhiều cái có tượng cóc chầu quanh mặt trống,và thời cổ đại người Việt có chữ viết tượng thanh ngoằn ngoèo như con nòng nọc nên người Hán gọi là chữ “khoa đẩu”-tiếng Hán “khoa đẩu” nghĩa là con nòng nọc,từ “khoa đẩu” ấy cũng có hai âm tiết nhưng không phải là một tiếng Âm một tiếng Dương như là NÒNG với NỌC trong từ Nòng-Nọc của tiếng Việt,trong Việt ngữ có vô vàn tên côn trùng,động vật là bằng từ láy(hai tiết dính nhau không thể đảo ngược) có tiếng Âm tiếng Dương để nói cơ thể sống là một sự cân bằng Âm Dương,như Châu-Chấu,Đom-Đóm,Niềng-Niễng,Muồm-Muỗm,Đòng-Đong,Cân-Cấn,Săn-Sắt,Cun-Cút,Chão-Chuộc,Cà-Cuống,Bông-Bống,Vò-Vẽ,Se-Sẻ,Chiền-Chiện,Cồng-Cộc…). Các cặp từ đối nghịch cái đực trong tiếng Việt vốn là những từ có cùng một gốc do tách đôi ra mà thành như ĐẺ/ĐỰC(ở Bắc Bộ có vùng người ta vẫn gọi là ông đực bà đực,ông đẻ bà đẻ chứ không gọi là ông nội bà nội,ông ngoại bà ngoại),CÁI/CỘC,NÁI/NỌC,MÁI/MỒNG, MỤ/MỘNG…dùng tương ứng cho nhiều loài. Các khái niệm từ Phủ định đến Khẳng định thì nhất định ở giữa là một loạt từ láy mang nghĩa không chính xác,không hẳn là bên này hay bên kia.Ví dụ: Phủ định(0) Không chính xác Khẳng định(1) VÔ VỚ-VẨN VIỆC HỔNG HỜI-HỢT HỆT LỖ LẤP-LỬNG LỜI CÓC QUA-QUÝT CÓ ĐẾCH ! ĐÙN-ĐẨY ĐẤY ! LẶN LẤP-LÓ LÒI CHỢP(nhắm) CHẬP-CHỜN CHỘ(thấy) Ứ ! ỠM-Ờ Ừ ! DỀ ! DO-DỰ DẠ ! MÍM MẮP-MÁY MỞ NGẬM NGỌ-NGUẬY NGOÁC NHỊN NHÚC-NHÍCH NHẢY RE(im) RỤC-RỊCH RUNG ĐÓNG ĐỤNG-ĐẬY ĐỘNG LẨN (trốn) LĂM-LE LỘ NÍT(nhỏ) NẢY-NỞ NẬY(lớn) NHỎ NHINH-NHỈNH NHỚN NÍN NÔN-NÓNG NÓI ĐỪNG ĐẮN-ĐO ĐÁNH THIẾP THOI-THÓP THỞ Từ Phủ định đến Khẳng định,đó là một vòng tròn từ Âm đến Dương. Đến như cường độ ánh nắng mặt trời(hay “đường đi”của mặt trời trong đêm và ngày) cũng được diễn tả bằng cặp lớn “L”(cùng gốc với “lui”vào bóng “túi”)đến “R”(cùng gốc với “ra”ánh sáng):Con Âm trong NÔI Âm Dương như là nửa ban đêm,nó bắt đầu lớn dần từ LẶN…LỌ-LEM…LE-LÓI…LÒI là kết thúc(Chú ý tiếng Việt xưa gọi mặt trời là “lời”do gốc từ tiếng Mường là “blời”),kết thúc Âm là nó biến thành con Dương,là nửa ban ngày,con Dương bắt đầu lớn dần từ RỌI…RỰC-RỠ…RỆU-RÃ…RỤI là kết thúc,kết thúc Dương thì nó biến thành con Âm(Từ “rệu rã”dẫn đến “chiều tà”,từ “rụi”dẫn đến “túi”).Con Âm và con Dương trong cái NÔI biểu tượng Âm Dương chính là ban đêm và ban ngày. Trong cái hình tròn biểu tượng Âm Dương ấy có con màu đen và con mầu trắng quấn tròn lấy nhau,chúng có thể là con NÒNG và con NỌC khi nói về sinh vật,chúng có thể là MÔ và MỘT khi nói về số nhị phân(hình tròn biểu tượng Âm Dương như là một “bit”thông tin có hai giá trị xác suất là 0 và 1),chúng cũng có thể là con LEM và con CLẮNG khi nói về vũ trụ(từ LEM dẫn đến Đen,từ CLẮNG nghĩa là Trắng tiếng Mường,ngày trắng tiếng Hán gọi là “bạch nhật” tức ban ngày).Và các khái niệm về sự chuyển dịch đêm ngày như sự lớn lên từ Âm tới Dương ,rồi từ Dương tới Âm trong ngôn từ Việt lại là cùng gốc một nôi khái niệm(L và R trong tiếng Việt chuyển đổi được cho nhau,như “rồng”với “long” “rừng”với “lâm”…).Những từ chỉ diễn biến ngày và đêm trong tiếng Hán không có cùng gốc và chuyển đổi Âm Dương như vậy.Cái bọc tròn biểu tượng Âm Dương gồm một con Đen và một con Trắng chính là con “LEM”(sau thành từ Đêm,rồi Đen)và con “CLẮNG”(“clắng”tiếng Mường nghĩa là “Trắng”)của BLỜI tức trời,cũng là thể hiện sự chuyển dịch giữa đêm và ngày. Số 0(MÔ) và số 1(MỘT) cũng như các cặp từ đối nghịch khác như Âm với Dương đã được sinh ra trong cái NÔI biểu tượng Âm Dương như vậy. Hệ đếm lúc đầu của người Việt là hệ đếm của người Khơ Me,chỉ có 5 số đếm,đến 5 là nhiều nhất trong các con số đếm: Việt: Một Hai Ba Bốn Năm Khơ Me: Muôi Tê Pây Buôn Prăm là hết một vòng đếm,sau đó người Khơ Me đếm quay lại,6 là Prăm Muôi. Do số 5 (Prăm)là số nhiều nhất trong các con số của hệ đếm ngũ phân,nên cái gen “ăm” ấy tạo nên trong tiếng Việt từ “dăm”rồi nhiều hơn là “lắm”mang nghĩa khái niệm là nhiều(“Lắm thầy rầy ma,lắm cha con khó lấy chồng”)và có từ “trăm”,chính xác là con số 100,nhưng cũng mang nghĩa khái niệm là nhiều(nên mới có truyền thuyết bọc trăm trứng-trăm nhánh Việt tức trăm con của Lạc Long Quân và Âu Cơ-,trăm họ.Người Hán mới dịch ý ra thành bách Việt,bách tính,chứ trong tiếng Hán chữ “pải”là một trăm và chữ “tua” là nhiều chẳng có gốc gác liên quan logic gì với nhau cả,người Hán dùng chữ vạn để ám chỉ nhiều) . Vài nhóm Bách Việt ở vùng Triết Giang xưa kia còn có hệ đếm 7 chữ số.Còn hệ đếm của Lạc Việt về sau phát triển đến dùng mười chữ số gọi là hệ đếm thập phân.Xuất hiện số 6,người Việt đọc là SÁU, người Hồ Nam đọc là LẤU,người Quảng Đông đọc là LỤC,người Hán đọc là LÌU.Cũng giống như từ Việt sang Hán: “sắc” thành LÌ,”sức thành LÌ , “sụp”thành LIE,“sót” thành LUA, “sáng” thành LIANG, “sen”thành LIÁN v.v.Còn số 10,vốn trong hệ thập phân nó gọi là CHỤC(do sinh ra từ CHÍN sẽ giải thích sau),nhưng trong số học thì số một và số không viết liền là 10 đọc là MỘT MÔ do lấy lại từ MỘT và MÔ thuở ban đầu, “một mô này!”đã lướt thành “mười”. Từ “lắm”có nguồn gốc từ “prăm” của tiếng Khơ Me là con số nhiều nhất trong hệ đếm ngũ phân chỉ có năm con số đếm, nên nó mang khái niệm là nhiều trong tiếng Việt,nó lại được người Hán phiên âm là “rán”(Bởi người Hán không phát âm được các âm tắc có phụ âm cuối là “m”, “p” như người Việt hay người Lưỡng Quảng-tiếng Lưỡng Quảng thì Trung Quốc gọi là phương ngữ Việt âm-tức khi phát âm các cặp từ đối nghịch như Râm/Nắng=Âm/Dương=Đóng/Mở thì cặp môi đều thể hiện rõ động tác Ngậm/Toang tức khép kín môi và mở rộng môi rất phân biệt.Cặp từ Âm/Dương người Hán phiên âm là Yin/Yáng,hai tiết ấy trong tiếng Hán cặp môi phát âm đều mở cả chứ không có “Đóng” rồi “Mở” như “Âm” rồi “Dương” như của người Việt.Từ “rán” đó viết bằng chữ Hán là然 ,người Việt lại đọc là “nhiên”.Những từ ghép như Tự Nhiên,Thiên Nhiên là những từ xuất hiện về sau ,người ta chỉ hiểu khái niệm đó chứ hầu như không còn nghĩ đến gốc gác của nó nữa,Tự Nhiên là tự sinh ra lắm thứ(chỉ vũ trụ),Thiên Nhiên là trời sinh ra lắm thứ(chỉ trái đất). Số đếm trong tiếng Việt cứ nhiều lên,bắt đầu là từ MỖI…MÔ…MỘT…MƯỜI…MUÔN.Khi muốn phủ định là hoàn toàn không có thì nói “MÔ-MỒ”(tiếng Quảng Đông “không có”nói là “mẩu”,tiếng Nghệ An còn có từ nhấn mạnh của “mô” là “máu”,khi nói “có máu mô mồ”có nghĩa nhấn mạnh là hoàn toàn không hề có),khi khẳng định là “có” tức “rõ”thì nói “rõ MỒN-MỘT”hay “có MƯỜI-MƯƠI”.Sự nở bung ra “trăm”từ Việt là theo kiểu sinh sản tự phân đôi của tế bào. Từ “prăm”của tiếng Khơ Me sinh ra từ “lắm”của tiếng Việt,rồi sinh ra từ “rán”của tiếng Hán,người Việt đọc chữ Hán “rán”(然)đó là “nhiên”,đều ý thức được là nhiều.Nhưng từ “rán”trong Hán ngữ không đẻ ra được những tiết có cùng gốc,cùng khái niệm với nó theo qui luật tách đôi Âm Dương.Vì là từ mượn nên từ “rán”trong Hán ngữ rất đơn độc.Nếu nói một tiếng “rán”trơ trọi thì người Hán không hiểu là ý gì,không như nói một tiếng “tua”(đa)nghĩa là nhiều của Hán ngữ thì họ hiểu ngay.Từ “rán”(nhiên)trong Hán ngữ chỉ dùng trong các từ ghép như “tự nhiên”, “thiên nhiên”.Nhưng từ “nhiên”khái niệm nhiều trong Việt ngữ,bởi nó vốn là gen Việt, thì vẫn theo qui luật tách đôi của tế bào trong cái NÔI biểu tượng Âm Dương để đẻ ra nhiều tiết mới đều mang khái niệm nhiều.NHIÊN khi tách ra thành hai tiết đang còn dính nhau thì nó là từ láy NHAN-NHẢN.Trong bọc tròn biểu tượng Âm Dương ấy con NHAN là con Cái(Âm),lớn lên nó biến thành con Đực(Dương)là NHẶN.Còn con NHẢN là con Đực(Dương),lớn lên nó biến thành con Cái(Âm)là NHIỀU.Rõ ràng khái niệm NHIỀU thì số lượng mà nó bao hàm ít hơn số lượng mà NHẶN bao hàm,vì nó âm hơn(khoa học ngày nay chứng minh dương 9 mà âm chỉ có 6).Các khái niệm hình thành từ NÔI mà tiết “nhiên”đẻ bằng cách tự phân đôi là NHIỀU…NHAN-NHẢN…NHẶN và ta có cặp đối nghịch tương đương cặp Âm/Dương là cặp Nhiều/Nhặn(cũng giống như cặp Ít/Nhiều hay dùng ngày nay),đều cho số lượng không chính xác,chúng không hoàn toàn chính xác như cặp Mô/Một là khái niệm số.Cái gen của “prăm” hay “năm” để lại dấu ấn khái niệm “nhiều”trong rất nhiều từ song âm(cũng là cặp Âm/Dương)nhấn mạnh ý “nhiều”như:đều đặn,đầy đặn,khỏe khoắn,đúng đắn,chin chắn,tươi tắn,khó khăn,cục cằn,già giặn,tục tằn,nhỏ nhắn,xinh xắn,vuông vắn,vừa vặn,may mắn,đỏ đắn,xăm xắn,chắc chắn,muộn mằn,tròn trặn,thẳng thắn,bằng bặn v. v. Ngày nay ta hay dùng cặp Ít/Nhiều,và thường chỉ dùng một cặp ấy nên bị nghèo đi,thực ra đây là một cặp đã được đổi “ngôi”hay đổi “nôi” để “ngồi” vào vị trí thay thế.Nguyên sơ của nó là tiết “ƯỚC”(một số lượng không chính xác rất nhỏ như “ước chừng”,qua NÔI biểu tượng Âm Dương nó sẽ đẻ thành ÍT…ĂM-ẮP…ỎI(gốc mẫu số chung của chúng là:cùng vắng phụ âm đầu).Từ ỎI bao hàm số lượng nhiều hơn từ ÍT vì nó dương hơn,nên ta có cặp đối nghịch Âm/Dương là ÍT/ỎI.Từ ÍT sinh ra các từ BÍT,BỊT,DỊT,MỊT,MÍT,NỊT,NÍT,TỊT,THÍTv.v.là những khái niệm có logic với nghĩa “ít”.Từ ỎI sinh ra từ GÓI là một cái bọc có dăm(không nhiều lắm)thứ ở trong,và từ DỎI(biết nhiều hơn biết ít gọi là “giỏi”hơn).DỎI tách Âm Dương ra thành DỒI…DƯ-DẢ…DÀO,ta có cặp đối nghịch Âm/Dương là Dồi/Dào mang khái niệm nhiều tương đối,nhưng số lượng mà cặp này bao hàm thì nhiều hơn số lượng mà cặp Ít/Ỏi bao hàm.(Từ “dồi”còn đẻ ra “trội”và từ “dào”còn đẻ ra “trào”đều là hệ quả của “nhiều” và “bao”là một cái bọc có nhiều thứ ở trong hơn là cái “gói”,đều mang khái niệm nhiều).Từ “dào”ấy là cái “gen”để ở cái NÔI mà từ “nhiên” vào thì đã sinh ra Nhiều…Nhan-Nhản…Nhặn ,cho ta cặp đối nghịch Âm/Dương là Nhiều/Nhặn,cũng là khái niệm nhiều,nhưng số lượng mà cặp này bao hàm lớn hơn số lượng mà cặp Dồi/Dào bao hàm.Tiết LƯỢNG cũng là một số nhiều,số mà LƯỢNG bao hàm nó nhiều hơn là số mà ƯỚC bao HÀM.Tiết LƯỢNG khi tách đôi trong cái nôi biểu tượng Âm Dương nó theo cái gen “ỏi” và “ăm”mà tách ra thành từ láy LẤP-LỬNG nghĩa là không biết chính xác ít hơn hay nhiều hơn,để rồi thành hẳn một từ Âm là LỎI và một từ Dương là LẮM(“xấu đều còn hơn tốt lỏi”).Cái NÔI đó là LỎI…LẤP-LỬNG…LẮM và ta có cặp tương tự Âm/Dương là Lỏi/Lắm và cặp đối nghịch ghép lộn nôi là Ước/Lượng(nghĩa là hoặc ít hoặc nhiều).Từ “lượng” ấy mượn sang tiếng Hán đọc là “liang”,nhưng “liang”trong tiếng Hán không đẻ ra được các từ cùng gốc với nó như là LỎI,LÂP-LỬNG và LẮM .Trong tiếng Việt cặp Ước/Lượng cũng có nghĩa tương tự cặp Ít/Nhiều là những cặp do lấy từ hai Nôi khác nhau ghép thành,gọi là cặp đổi ngôi(hay lộn nôi).Từ SỐ cũng là một số nhiều,nhưng cái mà nó bao hàm ít hơn là cái mà LƯỢNG bao hàm,SỐ khi tách đôi Âm Dương nó tạo ra SO…SAN-SÁT…SẮM, “SO” là một cái đầu tiên(“gà đẻ trứng so,người đẻ con so”), “SAN-SÁT”là nhiều cái ở gần nhau, “SẮM” cũng ý là nhiều ,sau dùng để nói mua nhiều thứ gọi là “sắm”(SỐ trong tiếng Hán là SỔ nghĩa là nhiều,nhưng nó không chia Âm Dương để tạo ra nhiều từ cùng gốc chung khái niệm).Vì vậy cặp đối nghịch Số/Lượng là lấy từ hai nôi khác nhau cặp lại,cũng tương đương như cặp Ít/Nhiều(ta nói “một số tiền”hay “một lượng tiền”là nói đúng,tuy hàm chứa khác nhau,nhưng có vẻ chính xác,chứ nói “một số lượng tiền”là nói thừa một từ hoặc “số”hoặc “lượng”,có vẻ không chính xác).Lượng ánh sáng khi được ĐỐT (“đốt lửa”)lên nó cũng diễn biến từ ít đến nhiều như trong cái nôi Âm Dương tạo thành ĐỐM…ĐOM-ĐÓM…ĐỎ,cặp đối nghịch Đốm/Đỏ biểu thị ánh sáng Ít/Nhiều,từ láy“đom-đóm” được lấy đặt tên cho côn trùng là con đom đóm, có khả năng phát sáng nhấp nháy.Từ “đốt”sang tiếng Hán là “điểm”(điểm hỏa nghĩa là đốt lửa,nhưng “điểm”ở tiếng Hán không đẻ ra được các từ cùng gốc chung khái niệm như ở tiếng Việt).Cũng như CHÂM(“châm lửa”)đã cho ra các khái niệm CHẤM…CHẬP-CHỪNG…CHÁY là từ một chấm lửa ban đầu đến chập-chừng rồi cháy bùng hẳn.Từ “cháy”sang tiếng Hán là “jiao”nghĩa là đốt cho vàng,nó chẳng có những từ khác cùng gốc chung khái niệm. Như vậy số lượng trứng mà NÔI Âm Dương đẻ ra cứ nhiều dần, “lúc đầu còn Ít/Ỏi,dần dần đã khá Dồi/Dào,đến giờ thì đã quá Nhiều/Nhặn rồi”.Nhưng vẫn chưa hết.Từ “nhiều”(còn biến thành từ “giàu”trong tiếng Việt)người Hán mượn từ “giàu”,chú âm bằng một chữ Hán là “ráo”(饶),chữ Hán ấy người Việt đọc là “nhiêu”.Từ “ráo”trong Hán ngữ vì là từ mượn nên nó đơn độc,không đẻ ra được các tiết cùng gốc,cùng khái niệm với nó.Nó chỉ được sử dụng trong các từ ghép như từ “phì nhiêu”.Nhưng “nhiêu” thì vốn có gen Việt nên nó vẫn đẻ trong NÔI biểu tượng Âm Dương bằng cách phân đôi thành hai con dính nhau là NHUNG-NHÚC,con NHUNG là con Cái(giống như con NÒNG),lớn lên nó biến thành Đực(Dương)là NHỮNG,còn con NHÚC là con Đực(giống như con NỌC),lớn lên nó biến thành Cái(Âm)là NHÚM(liên tưởng từ “phum”trong tiếng Khơ Me nghĩa là cộng đồng nhỏ).NÔI này ta có NHÚM…NHUNG-NHÚC…NHỮNG và cặp đối nghịch Âm/Dương là Nhúm/Những.Cứ vậy tiếp tục đẻ nhiều nữa,cho đến ở cái NÔI mà nó cho ra là ĐÁM…ĐÔNG-ĐÚC…ĐÀN,ta có cặp đối nghịch Âm/Dương là Đám/Đàn,tất nhiên Đàn bao hàm số lượng nhiều hơn Đám vì nó dương hơn(miệng phát âm”đàn” mở ra chứ không khép ngậm như “đám”).Chỉ xét riêng tiết “ĐÚC”trong từ láy ĐÔNG-ĐÚC(chú ý,cũng như ở các NÔI khác,ở đây từ “đông”có thể sử dụng độc lập được như “đông cứng lại”,từ “đúc”cũng có thể sử dụng độc lập được như “đúc đồng”,nhưng từ “đông-đúc”thì hai tiết phải dính nhau theo trật tự như trong bọc của nó,biểu thị ý rất nhiều phần tử tập họp lại,nhưng không thể nói đảo ngược là “đúc-đông”được) ta đã thấy khối lượng thông tin(các phần tử) được nén trong tiếng “đúc”ấy đã là vô cùng nhiều rồi.Ấy vậy mà lúc đầu nó chỉ đơn sơ như cái bánh “đúc” làm bằng ty tỷ phần tử bột gạo.Nhưng thử hỏi, nếu không có cái gen Lạc Việt thì làm sao nó có thể đẻ ra “giống như đúc” được?Chính người Việt đã đẻ ra cái thuyết Âm Dương và vẽ nên cái hình tròn biểu tượng Âm Dương là cái nôi có con NÒNG-NỌC,cái “nôi”ấy sinh ra mọi “nời” “nói”của tiếng Việt và cặp đối nghịch CÓC/CÓ của tiếng Việt sinh ra mọi khái niệm trong tiếng Việt,mà ở các ngôn ngữ khác kể cả tiếng Hán không có cái kiểu sinh ra như vậy. Một ý kiến như bài viết này chỉ như là một CHIẾC,đang đi CHẬP-CHỮNG,mong bạn đọc chia sẻ, để càng nhiều ý kiến hội nhập thành CHẬP-CHÙNG ,rồi sẽ đến một cái CHUNG. Các số đếm trong tiếng Việt đã được sinh ra như thế nào? Các số đếm ở tiếng Việt đã bắt đầu từ hệ nhị phân MÔ và MỘT,rồi đến hệ ngũ phân MỘT…HAI…BA…BỐN…NĂM,rồi đến hệ cửu phân có chín con số,rồi mới đến hệ thập phân ngày nay.Trong số học thì số 0 xuất hiện sau cùng so với các con số đếm.Nhưng ở tiếng Việt thì số 0 là MÔ xuất hiện cùng thời với số 1 là MỘT.MÔ và MỘT là hai chị em sinh đôi từ một cái trứng là MỖI,trong cái nôi biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt cái trứng MỖI ấy tách đôi ra như một tế bào đang tự phân đôi ,lúc đầu nó thành hai nửa Âm và Dương còn dính nhau,quấn tròn lấy nhau trong nôi là MẬP-MỜ,hai nửa cũng là hai cái phôi của hai con trong nôi đang lớn dần lên.Con MẬP là con cái mang tính Âm(phát âm tiếng “mập”thì cặp môi người Việt “ngậm” kín lại như là “Âm”),lớn lên cực đại thì nó biến thành MỘT là Dương,con MỜ là con đực mang tính Dương(phát âm tiếng “mờ”thì cặp môi người Việt “toang”ra như là “Dương”),lớn lên cực đại thì nó biến thành MÔ là Âm.Cái Nôi mà MỖI sinh ra là MÔ…MẬP-MỜ…MỘT.Con MÔ là con số 0 ra trước,là con chị,là Âm, tức là gái nên trong tiếng Việt do gen Âm của MÔ mà có các từ :lol: ,CÔ,U,BU,BỦ,MỤ,NỤ,NỮ,NÀNG,NƯƠNG,BẦM,MAN,MỰ,MỆ,MẸ,MÁ,Ả,BÀ chỉ đàn bà(tiết “mụ”người Hán đọc là “mủ” tức Mẫu,tiết “u”người Đài Loan đọc là “u”nghĩa là Mẹ).MÔ mang nghĩa khái niệm là “ không”bởi nó có cái gen là từ con “NÒNG”(tiếng Quảng Đông là “mẩu”,tiếng Nghệ An ngoài “mô” còn có từ “máu”cũng nghĩa là không,để nhấn mạnh hơn, “có máu mô mồ”tức hoàn toàn không hề có).MÔ dẫn đến từ VÔ là không có.MÔ còn cho ra khái niệm phủ định là NỎ và các khái niệm về sự trống rỗng như LỖ,RÒ và cái cá thể “KẺ LỖ”hay “KẺ RÒ” dẫn đến từ zero là số 0 trong tiếng Latin.MỘT dẫn đến từ Mải là chuyên vào một việc,rồi từ láy Mải-Miết để nhấn mạnh(tiếng Hán mượn từ Mải này và chú âm bằng chữ “Mẩy”tức Mỹ(đẹp)là mượn âm chứ không đúng biểu ý của chữ).MỘT còn dẫn đến từ Miệt-Mài là chăm chắm vào một việc,Mãi Mãi là cứ một thứ kéo dài lâu không đổi.Do đã có số 0 là MÔ,NỎ nên cũng có số âm và khái niệm âm là những khái niệm về quá khứ:Từ NỎ trong cái Nôi biểu tượng Âm Dương nó sẽ tách đôi về phía số âm và về phía số một,khi đang tách đôi nó cho ra từ láy NẢY-NỞ là đang trong quá trình lớn lên.Trong Nôi,con Âm là NẢY lớn lên thành Dương là NI rồi NAY,đó là khái niệm hiện tại,con Dương là NỞ lớn lên thành Âm là NỚ rồi NẤYrồi ẤY,đó là khái niệm quá khứ,là số âm so với NỎ là số 0(cái Nôi của 0 tức NỎ là: NỚ…NẢY-NỞ…NAY).Khái niệm NAY là hiện tại,và NI cũng là hiện tại,khẳng định là NÌ,NÀY.Người Việt nói “bên ni,bên tê”là nói vị trí thứ nhất và vị trí thứ hai(“tê” tiếng Khơ Me là con số 2).Từ NI tức Nhất còn dẫn đến “yi”trong tiếng Hán là con số 1,chữ ấy đọc là NHẤT.Đứng ở hiện tại tức đứng ở vị trí số 1,người Việt nói “bên ni”,ở vị trí thứ hai tức tương lai là “bên tê”(“Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát”),ở vị trí quá khứ tức vượt qua NỎ là 0 thì là “bên nớ”.Cái đang có ở hiện tại là “cái ni,cái này”,cái đã có trong quá khứ là “cái nớ,cái nấy,cái ấy”tức ở vị trí của con số âm. Chỉ từ một tiết MỖI ,do sinh sản theo cách của tế bào là tách đôi thành Âm và Dương mà có được hai số đếm của hệ đếm nhị phân là MÔ và MỘT.Do chế độ nguyên thủy là chế độ mẫu hệ,nên kết cấu cú pháp là Cái trước Đực sau,khi đếm số người trong gia đình người ta sẽ đếm từ Mẹ rồi đến Cha tương ứng với 1 rồi 2 mà trong tiếng Khơ Me là “Muôi”(tạo nên gen mẹ)rồi “Tê”(tạo nên gen cha),chính từ “Tê”này đã thành từ “Tía”trong tiếng Việt mà về sau đọc mềm đi thành “Cha”(người Hoa ở vùng Hoa Nam cũng gọi là “Tia”).Cái hình biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt là cái hình tròn trong đó có hai con Nòng-Nọc đen trắng quấn quýt nhau,đó là xét theo sinh học,còn xét theo vũ trụ quan thì con “đen” và con “trắng” chính là con “Lem”(đêm)và con “Clắng”(ngày)của “Blời” (tiếng Mường)là mặt trời,còn xét theo số học thì đó là con MÔ và con MỘT,tức số 0(Âm)và số 1(Dương)của hệ đếm nhị phân.Như vậy cái hình biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt chính là biểu tượng của một “bit” thông tin(thông tin ngày nay có bộ nhớ đến hàng trăm Giga “by”,một “by”bằng tám “bit”),một “bit” thông tin bao giờ cũng có hai giá trị xác suất,hoặc nó sẽ là 0,hoặc nó sẽ là 1,vượt qua ngưỡng đi về phía Âm nó sẽ thành 0 là MÔ,vượt qua ngưỡng đi về phía Dương nó sẽ thành 1 là MỘT,giá trị ngưỡng chính là ranh giới giữa MẬP và MỜ nên MẬP-MỜ còn dính nhau.Ra đời từ MỖI,ở cái Nôi MÔ…MẬP-MỜ…MỘT,con số MÔ dẫn đến NỎ rồi đẻ ra số âm là NỚ.Còn MỘT cũng đẻ tiếp để có các con số đến số 9 của hệ đếm thập phân.Đó là một sự phát triển của số học,đồng thời ở tiếng Việt các con số dẫn đến các khái niệm ngôn ngữ.Ta theo dõi nó sinh sản tiếp như sau: MỘT ở trong Nôi Âm Dương sẽ có cái thai sinh đôi là MỚI-MẺ(MỚI là gái , nặng gen mẹ là “muôi”còn MẺ là trai,nặng gen cha là “tê”, đang hướng đến con số mới là 2 .Khái niệm Mới-Mẻ là một cái mới bắt đầu nảy sinh.Khái niệm Mới là một cái vừa xuất hiện và đã được khẳng định.MỚI là con Âm,con gái,lớn cực đại nó thành MAI là Dương(“Con gái giống cha ,mười ba bến nước”).Mai là khái niệm ở vị trí tiếp của khái niệm hiện tại là MỘT,do đó nó được dùng chỉ ngày tiếp của ngày hôm nay,đó là “ngày mai”(tiếng Hán mượn từ Mai và chú âm bằng chữ Minh,nghĩa biểu ý là Sáng,để có từ ghép “Minh Thiên” là ngày mai,chứ chữ Minh không có liên quan gì đến con số 2).Mai dùng chỉ đại từ nhân xưng ngôi thứ hai,đó là từ “Mày”;chỉ động tác lần hai đó là từ “Lại”(“miếng bánh đưa qua đồng quà đưa lại,tiếng bấc ném đi tiếng chì ném lại”),từ Lại này dẫn đến từ “zai”tức “tái”trong tiếng Hán(người Hán đếm nhất nhị tam tứ…,cũng có khi đếm nhất tái tam tứ…đối với các động tác lặp đi lặp lại);chỉ vị trí thứ hai trong khâu phân phối đó là từ “Lái”nên mới có từ ghép “thương lái”.Từ “Tương Lai”trong tiếng Hán là một từ ghép, là bắt nguồn do từ Mai.Chính từ Mai đã dẫn đến con số Hai,nên mới có câu ca dao “Bây giờ em đã lấy chồng,một mai em có con bồng con mang”.Khái niệm MẺ là Dương nhưng chưa đầy đủ,nó biểu thị sự khuyết thiếu,sự khuyết ấy đang lớn lên trong Nôi,( “cái bát mẻ”),nếu MẺ phát triển đến cực đại thì nó thành Âm là MẤT,(vết mẻ trên cái bát mà cực đại thì cái bát cũng MẤT luôn và bản thân cái khái niệm “mẻ”cũng không còn,chỉ còn khái niệm “mất”).Khái niệm Mất là không còn gì nữa,là con số 0,do nó chia về hướng của Mô nên nó nặng gen của Mô và cả gen của Một để thành MẤT.Cái Nôi mà MỘT đẻ ra là: MẤT…MỚI-MẺ…MAI,và đã cho ra con số HAI.Con số 2 mang đến nhiều khái niệm trong tiếng Việt,như trên đã nói “Tê”cho ra “Tía”,cũng giống như “Muôi”cho ra “Mẹ”,vì mẫu hệ nên đếm từ Mẹ trước rồi mới đến Cha sau(“Một mai con học tinh thông,Đền ơn non nước thỏa lòng mẹ cha”). Tương tự như MỘT đã đẻ bằng cách tự phân đôi,số HAI cũng sẽ phân đôi để đẻ ra: HẾT…HỜI-HỢT…HỆT.Khái niệm Hời-Hợt có nghĩa là hoặc nhiều hoặc ít,nó đang nhiều hơn HAI nên nó là “Hời”,nhưng nó cũng có thể ít hơn HAI như cái nửa “Hợt”này thì đang đi dần đến thành HẾT,là con số 0.Khái niệm HỆT là vì đếm đến cái thứ hai là có sự so sánh,khi đếm một mặt hàng thì cái thứ hai cũng giống cái thứ nhất nên gọi là HỆT.Từ HỆT dẫn đến từ Hoạt nghĩa là sống động vì nó đang được sinh ra trong cái Nôi Âm Dương.HỆT cũng dẫn đến những khái niệm chỉ số nhiều hơn 1 như Hộc (là một dụng cụ để đong lường,có nhiều hơn 1 thì mới phải đong lường),Vốc,Vài (đều nhiều hơn 1),và Bay(Bay là đại từ nhân xưng số nhiều ngôi thứ hai).Từ Bay (“bọn bay”-nếu “bay”có khoảng bốn năm đứa-, “tụi bay”-nếu “bay”có khoảng bảy tám đứa-)chỉ số đông trong ngôi thứ hai so với mình là ngôi thứ nhất.Bay dẫn đến BA(do có gen của “pây”là số 3 trong tiếng Khơ Me)được lấy chỉ con số 3.Ta còn có từ ghép “vài ba”. BA đẻ ra : BỎ…BỀ-BỘN…BỐN.Khái niệm Bề-Bộn là chỉ một số nhiều, ( “công việc bề bộn”), “BỀ”mang cái gen của “tê”là con số 2, “BỎ”mang gen của NỎ là không còn nữa,là con số 0.Hệ đếm đến bốn con số là hệ tứ phân đã được dùng khá lâu trong tiếng Việt,nên khá nhiều khái niệm mang ý “nhiều” là từ con số 4:hay đi xin nhiều lần gọi là “Bòn”,lo lắng nhiều gọi là “Xốn xang”,để nhiều đồ lung tung gọi là “Lộn xộn”gây ra mất trật tự nhiều nên gọi là “Bừa bộn”,hoảng loạn nhiều gọi là “Nhốn nháo”, khi có nhiều việc phải làm thì gọi là “Bận”,nhiều cá thể người hay động vật họp lại thì gọi là “Bọn”,một số lượng nhiều gọi là “Bộn”(“hắn có bộn tiền”), tiền nhiều để đầu tư kinh doanh gọi là “Vốn”,tiêu phí nhiều gọi là “Tốn”,thiệt hại nhiều gọi là “Tổn”,nhiều thứ hình dạng không đồng đều gọi là “Lổn nhổn”,thiếu nhiều thứ gọi là “Thiếu thốn”,nóng ruột nhiều gọi là “Bồn chồn”ăn nhiều gọi là “Ngốn”,nằm theo nhiều hướng gọi là “Ngổn ngang”,chỗ tập trung nhiều người gọi là “Chốn”(sau được dùng để viết chữ “Trấn”là thị trấn,ngược với “Nơi”là chỗ ít người hơn,chỉ hơn “Nôi”một tí thôi,cặp đối nghịch là Nơi/Chốn,“nơi”là chỗ có thể cất được “hai” vật, “chốn” là chỗ có thể cất được “bốn” vật,hai và bốn ở đây ám chỉ ít hơn và nhiều hơn mà thôi chứ không phải là con số chính xác),chạy nhiều tốc độ gọi là “Bon bon”(dẫn đến từ “pân”tức Bôn là chạy, trong tiếng Hán),màu đỏ nhiều gọi là “Hon hỏn”(dẫn đến từ “húng”là Hồng ,trong tiếng Hán),ngu nhiều gọi là “Đần độn”.Khái niệm “Bỏ”( do nó nặng gen của Mô và Nỏ) tức là không còn giữ gì nữa,là con số 0,( “tôi bỏ thuốc lá rồi”).Do hệ đếm tứ phân được sử dụng thời gian khá lâu,khi người Lạc Việt vẽ nên cái hình “tứ tượng”bằng những kẻ vạch,nên số 4 là số nhiều nhất trong các số đếm của hệ này đã để lại nhiều từ cùng gen 4 mang ý là “nhiều” trong tiếng Việt đến như thế,trong khi số 2 và số 3 thì không để lại ý là “nhiều”.Tuy vậy,số 2 vì mang cái gen của “tê”nó không đại diện cho khái niệm nhiều,nhưng nó đại diện cho “lần thứ hai”, “lần làm lại”,nên mang ý bổ túc nhấn mạnh nghĩa cho tiếng đầu của một từ láy như các từ Chặt-chẽ,Cặn-kẽ,Vui-vẻ,Suôn-sẻ,Vắng-vẻ,Lặng-lẽ,Quạnh-quẽ,Đẹp-đẽ,Rủ-rê,Chán-chê,Mải-mê,Mới-mẻ v.v. “Vắng”có đệm “vẻ”có nghĩa là vắng thêm lần hai tức càng vắng hơn.(Giữa hai tiếng của từ láy nên có gạch nối là một gợi ý hợp lý ,để tránh lẫn lộn với từ khác,ví dụ “mới-mẻ” thì khác với “mới mẻ” có nghĩa là vừa mới bị mẻ,hay “săn-sóc”thì khác với “săn sóc”có nghĩa là săn bắt con sóc). BỐN đẻ ra: BẾT…BẤP-BÊNH…BẪM.Khái niệm Bấp-Bênh là không chắc chắn giữa ít và nhiều,(“thu nhập bấp bênh”).Khái niệm “Bẫm”có nghĩa là được nhiều, (“đi câu vớ bẫm”),và nó đã dẫn đến từ “Năm”(do cái gen “prăm”là số 5 trong tiếng Khơ Me), “Bầm”là tụ máu đen nhiều, “Thâm”là độ sâu nhiều, “Lâm râm”là mưa phùn nhiều thời gian, “Lẩm cẩm”là lẫn lộn nhiều thứ trong suy nghĩ.Đó là những khái niệm khi đã vượt 4 sang 5.Con số 5 là con số nhiều nhất trong hệ ngũ phân,là hệ đếm mà người Khơ Me còn giữ nhiều dấu ấn trong số đếm cho đến ngày nay.Cái gen của “prăm” in quá đậm trong các khái niệm Việt mang ý nhiều như “Dăm”, “Lắm”, “Trăm”,có nhiều trong vốc tay gọi là một “Nắm”,vun đất nhiều lại thì có một “Nấm”,xắt rau nhỏ ra thành nhiều gọi là “Băm”,chém nhiều nhát gọi là “Băm vằm”,sức lực nhiều gọi là “Vâm”,nồng độ nhiều gọi là “Đậm”,vị đậm nhiều gọi là “Mặn”,màu tối nhiều gọi là “Thẫm”v.v.,chứng tỏ người Việt đã dùng hệ đếm ngũ phân trong thời gian dài nhất cùng với người Khơ Me.Hàng loạt từ trong tiếng Việt mang gen con số NĂM để nhấn mạnh ý “nhiều” như:nhiều nhặn,đều đặn,đầy đặn,dầy dặn,vừa vặn,vuông vắn,khỏe khắn,đúng đắn,chín chắn,tươi tắn,khó khăn,cục cằn,tục tằn,già giặn,nhỏ nhắn,xinh xắn,may mắn,đỏ đắn,chắc chắn,muộn mằn,tròn trặn,xăm xắn,chằn chặn,bằng bặn v.v.Số 5 là “prăm”còn để lại trong tiếng Khơ Me từ chỉ người có “nhiều”quyền lực nhất và nhận được “nhiều” sự kính trọng nhất,đó là từ “Xăm đéc”(tựa như ông “Năm Đức”vậy). NĂM đẻ ra: NON…NỞ -NANG…NẬU.Trong hệ ngũ phân đến NĂM là nhiều nhất rồi.Bây giờ trong Nôi Âm Dương nó lại đang tách đôi và lớn dần lên tức Nở-Nang ra,làm nảy sinh khái niệm “Nậu”nghĩa là nhiều,ngược với “Non”là ít hơn(càng ít nữa khi Non dẫn đến Gọn,Gọn Lỏn,Mọn rồi Mất). “Nậu”tiếng NamTrung Bộ dùng chỉ số nhiều người ở ngôi thứ ba.Từ Nậu dẫn đến các từ Sáu (người Hồ Nam đọc số 6 là “lấu”),Giàu,Nhiều.Xuất hiện số đếm 6.Hệ đếm lục phân có lẽ cũng đã được dùng một thời gian dài, nên do số 6 là số cuối cùng của hệ đếm này mà có từ “Sau”,6 lại là số nhiều nhất trong các số đếm của hệ này nên cũng để lại khái niệm “nhiều”trong nhiều từ Việt:màu đỏ nhiều gọi là “đỏ Au”,cấy nhiều dé lúa trên một đơn vị vuông gọi là cấy “Mau”,dệt nhiều sợi dập sát nhau trên một vuông vải gọi là dệt Mau,ngược lại là sưa do gen của so hay sót,đi nhiều bước dồn dập gọi là đi Mau,đi nhiều vội vàng gọi là “Rảo”bước,đi thong thả nhưng mất nhiều thời gian gọi là đi “Dạo”,chờ nhiều thời gian gọi là “Lâu”,nhăn nhúm nhiều gọi là “Ngầu”hay “Nhàu”,bực nhiều gọi là “Cáu”,nói cau có nhiều gọi là “Quạu”,ham muốn nhiều gọi là “Máu”hay “Háu”,trốn nhiều thời gian gọi là “Náu”,chờ chực với ham nhiều gọi là “Hau háu”,nôn nóng nhiều gọi là “Đau đáu”,nói nhiều mà thiếu suy nghĩ trước gọi là “Láu táu”,quí nhiều gọi là “Báu”(thành từ “bảo”trong tiếng Hán)v.v. SÁU đẻ ra: SÓT…SƠ-SÀI…SÂY.Khái niệm Sơ-Sài nghĩa là mới sinh ra chưa được hoàn chỉnh lắm,Sơ mang nặng gen của Nỏ,còn Sài mang nặng gen của Hai.Khái niệm Sây nghĩa là nhiều( “cây sây quả”).Sây dẫn đến từ Dầy, Dày, Đầy, Bầy,Bấy (do mềm nhiều),Bẩy tức Bảy ,và Bảy được lấy làm con số 7.Từ Sót là do nặng gen của Một,nó còn dẫn đến từ So nặng gen của Nỏ,So nghĩa là cái đầu tiên, “gà đẻ trứng so,người đẻ con so”. BẢY đẻ ra: BỚT…BỪA-BÃI…BỤI.Khái niệm Bừa-Bãi nghĩa là nhiều quá thành ra không còn trật tự.Bớt nghĩa là ít hơn.Bụi là một tập hợp nhiều, (“bụi cây”, “bụi bặm”chính là từ bụi lắm,là rất nhiều bụi bẩn),dẫn đến Tụi là một nhóm nhiều cá thể.Bặm dẫn đến Ngâm,Dầm Tắm(đều là để nhiều thời gian trong nước)rồi Tám là con số 8.Đến số 7 là có hệ đếm thất phân,hệ này đã được dùng lâu trong tiếng Việt(người Bách Việt ở vùng Triết Giang còn dùng hệ đếm thất phân đến tận thời các nước Sở,Ngô,Việt)nên cũng để lại lắm khái niệm là “nhiều” trong tiếng Việt.Số đông tức quần thể gọi là “Bầy”.Số 7 ở Bắc Bộ nói là “bẩy”,các vùng khác nói là “bảy”đều đúng con số 7.Nhưng để lại trong khái niệm Việt với ý là nhiều thì “Dầy”có ý nhiều về độ hậu( “mặt dầy mày dạn”do lấy từ “dầy dặn”)ngược với “Dẻ”là mỏng(nên mới có từ ghép “mảnh dẻ”),từ “dầy”mang gen của “bẩy”là con số 7 là do từ DIỆN sinh ra trong Nôi Âm Dương: DẺ…DÂY-DƯA…DẦY,(DIỆN là mặt,cặp đối nghịch của DIỆN là DẺ/DẦY,cặp đối nghịch của MẶT là MỎNG/MẪM,còn BỀ cũng là mặt nên có từ ghép là “bề mặt”,BỀ tạo nên cái nôi BẠC…BÊ-BỐI…BÉO,cặp đối nghịch của BỀ là BẠC/BÉO), “bánh dầy”ngược với bánh mỏng,cặp đối nghịch Âm/Dương đúng nôi của nó là DẺ/DẦY.Từ MẶT trong Nôi Âm Dương đã chia ra thành MỎNG(do gen của “không” “nòng”),cái Nôi đó là MỎNG…MẤP-MÔ…MẪM(do còn gen của “năm”),cặp đối nghịch Âm/Dương là MỎNG/MẪM (“mầm mẫm”nghĩa là rất dầy,vải dệt bằng sợi thô gọi là vải dầy,dệt bằng sợi mịn gọi là vải mỏng,dệt sợi sát nhau gọi là vải mau ,dệt sợi cách nhau gọi là dệt sưa cho ra vải mùng).Từ “dày”cũng mang gen con số 7 nhưng khái niệm này là nhiều vật bố trí sát nhau(lược nhiều răng sát nhau gọi là lược “Dày”,ngược lại là lược sưa).(Cặp đối nghịch Âm/Dương là Mỏng/Dầy hay dùng ngày nay là một cặp đổi ngôi).Cây nhiều quả gọi là “Sây”quả.Làm nhiều việc xấu gọi là làm “Bậy”.Sưng to nhiều lên gọi là sưng “Tấy”.Dính nhiều bẩn gọi là “Vấy”.Rôm mọc nhiều gọi là “Sảy”.Tò mò sờ nhiều vào việc không thạo gọi là “Táy máy”.Nước tuôn nhiều gọi là “Chảy”.Quá nóng nhiều thì là “Cháy”.Chiếm dụng vốn người khác nhiều thời gian gọi là “Vay”chứ ít thời gian chỉ gọi là mượn hay mượn tạm.Xát lúa nhiều thời gian gọi là “Xay”.Trái cây chín lâu rồi gọi là chín “Bấy”.Lật đất nhiều phải dùng “Cày”chứ ít thì chỉ dùng cuốc thôi.Phải đi đến quá nhiều cửa quan gọi là “Chạy vạy”.Đạt được nhiều hơn mình mong gọi là “May”.Bắt khổ ải nhiều gọi là “Đày”.Chỉ vẽ cho biết nhiều gọi là “Bày”.Ốm nhiều quá gọi là “Gầy”.Gây thích thú nhiều gọi là “Hay”, khen là quá hay thì nói “Hết xảy”.Ngủ mà phát ra tiếng ồn nhiều gọi là “Ngáy”.Chuyển động nhiều vòng gọi là “Quay”. “Vẩy”ra nhiều nước gọi là “Rảy”.Giữ nóng nhiều thời gian cho khô gọi là “Sấy”.Nhiều người “quây” bắt thú gọi là “Vây”.Xếp nhiều viên gạch lên nhau gọi là “Xây”.Dính vào nhiều chuyện gọi là “Dây”v.v.(“Đong “vơi”đong “đầy””thì cũng chẳng khác gì so sánh đong bằng “hai”với đong bằng “bảy”). TÁM đẻ ra: TẺ…TUA-TỦA…TÍM.Khái niệm Tẻ(nặng gen của Tê là con số 2 trong tiếng Khơ Me) nghĩa là rất ít, “tẻ ngắt”là rất ít sôi động, “tẻ nhạt”là rất ít nhiệt tình,Tẻ dẫn đến Ghẻ (mẹ ghẻ ý là ít tình cảm hơn), “ghẻ lạnh”là thái độ lạnh nhạt.Tua-tủa nghĩa là rất nhiều cái chọc lên trời, (“nhà cao tầng siêu mỏng mọc lên tua tủa”),nó đã dẫn đến từ “tua”trong tiếng Hán nghĩa là nhiều,mà chữ Hán ấy người Việt đọc là “đa”.Tím là màu đậm nhiều,Tím dẫn đến Đậm ,Thẫm,Túm,Trùm,Chùm,CHÍN.Hệ đếm bát phân cũng đã từng được sử dụng lâu dài khi người Lạc Việt dựng nên hình “bát quái”bằng các kẻ vạch,lưu lại nhiều từ mang khái niệm “nhiều” trong tiếng Việt:dính nhiều thời gian tức dính lâu gọi là “Bám”,muốn nhiều gọi là “Hám”,muốn lấy nhiều về mình gọi là “Tham lam”,nhiều cá thể họp lại gọi là “Đám”,khói đọng nhiều gọi là “Ám”,chịu đựng nhiều gọi là “Cam”,dũng khí nhiều gọi là “Dám”,gánh việc nhiều gọi là “Đảm”,nhiều lần gây chán gọi là “Nhàm”,nói nhiều câu vô nghĩa gọi là “Lảm nhảm”,phơi nhiễm nắng nhiều gọi là “Rám”,màu đen nhiều gọi là “Sậm”,màu tối nhiều gọi là “Xám”,độ sâu nhiều gọi là “Thăm thẳm”,sức lực nhiều gọi là “Vâm”v.v. “Tím” đọc mềm hóa đi thì thành “Chín”cũng giống như“Tía”của người Bách Việt đọc mềm hóa đi thì thành “Cha”(“Tía”do từ “Tê”là số 2, “Mẹ”là do từ “Muôi”là số 1 trong tiếng Khơ Me,mẫu hệ ,nên đếm là từ mẹ trước ,cha sau).Từ Chín được chọn làm con số 9.Con số 9 cũng đem lại khái niệm “nhiều” trong tiếng Việt,hạt lúa và trái cây được nhiều nắng thì đến “Chín”,cơm nấu lâu cũng đến “Chín”,người sống nhiều tuổi rồi thì tính tình cũng đến “Chín chắn”.Chín cho ra khái niệm nhiều là “Chùm”(“Một chùm quả”), “Chòm”(một xóm nhiều nóc nhà).Quyền lực nhiều nhất cũng là số 9 là từ “ông Trùm”,đòi hỏi của người quyền lực cao cũng là đòi hỏi “nhiều”nhất như vua Hùng đòi “voi Chín ngà,gà Chín cựa,ngựa Chín hồng mao”(trong chuyện cổ tích Sơn Tinh Thủy Tinh,tại sao cứ phải là số 9 mà không là con số khác?)chứng tỏ đến thời Hùng Vương người Việt đã sử dụng khá lâu hệ đếm cửu phân rồi sau đó mới đến dùng hệ thập phân(môn số học của nhân loại sử dụng hệ thập phân khá muộn,sau khi đã dùng các con chữ số của người Ả Rập rồi sáng tạo ra con số zero là số 0).Hệ đếm cửu phân chắc dùng ngắn hơn hệ ngũ phân đã từng dùng trong thời tiền sử cùng với người Khơ Me,nó nhanh chóng được chuyển sang dùng hệ thập phân ,khi giao lưu quốc tế đã nhiều và rộng rãi hơn,nhân loại sử dụng chung các con chữ số của người Ả Rập. CHÍN đẻ ra: CHẮC…CHẬP-CHÙNG…CHỤC.Cặp đối nghịch Chắc/Chục là nói đi từ số ít nhất đến số nhiều nhất trong hệ thập phân.Khái niệm Chắc ở tiếng Bắc Trung Bộ nghĩa là một cá thể đơn độc, “một chắc”nghĩa là “một mình”.Chắc dẫn đến Cắc là một đồng xu có giá trị nhỏ nhất,tiếng Quảng Nam có cặp từ đối nghịch Cắc/Củm nghĩa là góp nhặt dành dụm từ xu nhỏ nhất đến nhiều(tích tiểu thành đại),khác nghĩa với từ Cần Kiệm nghĩa là chăm chỉ và tiết kiệm.Chập-Chùng nghĩa là rất nhiều.Chục là đủ mười .Chục dẫn đến “xặp”là mười trong tiếng Quảng Đông, “xịp”là mười trong tiếng Thái,đến “thập”,đến “xấp”là lượng đếm đủ một lô giấy,đến“sấp”rồi thành“sứ”trong tiếng Hán là 10.Số 10 là nhiều nhất trong hệ đếm thập phân nên “chục”và “thập” để lại ý “nhiều”trong khái niệm Việt:nhờ vả nhiều gọi là “Cậy cục”,xích mích nhiều gọi là “Lục đục”,săn đón nhiều gọi là “Vồ vập”,liên tiếp nhiều gọi là “Dồn dập”,run do lạnh nhiều gọi là “Lập cập”,xích mích nhiều gọi là “Va vấp”,lần lượt đến nhiều gọi là “Lục tục”,quá nhiều gọi là “Nhung nhúc”,tập trung nhiều gọi là “Đông đúc”,béo nhiều gọi là “Nung núc”,nói nhiều không rõ tiếng gọi là “Lắp bắp”,thẳng nhiều gọi là “Thẳng tăm tắp”,chấp hành nhiều cương quyết gọi là “Răm rắp”(vừa dùng “nhiều”của hệ Năm,vừa dùng “nhiều”của hệ Mười,chứng tỏ hai hệ này được dùng lâu nhất trong tiếng Việt .Chục là nhiều nhất trong hệ đếm thập phân nên Chục cũng dẫn đến khái niệm để chỉ người nhiều quyền lực nhất,đó là từ “Chậu”trong tiếng Lào,từ “Chúa” rồi “Chủ”trong tiếng Việt và từ “Trủ” trong tiếng Hán.Trong hệ thập phân này con số MỘT đã được thay bằng CHẮC do nó được sinh ra từ trong Nôi do CHÍN.Con số 1 là CHẮC cũng được dùng thời gian khá lâu trước khi thay nó bằng cách dùng lại từ Một, nên dấu ấn của CHẮC trong khái niệm Việt cũng khá đậm,CHẮC là 1,là hạng nhất, tức “Number One”,nên những từ mang gen “CHẮC” cũng mang nghĩa nhấn mạnh nó là Number One như : được hơn cả gọi là “Đắc”,đậm hơn cả gọi là “Đậm đặc”,nồng hơn cả gọi là “Nồng nặc”,đông cứng hơn cả gọi là “Đông đặc”,sáng vàng lâu hơn cả gọi là “Vằng vặc”,dài lâu hơn cả gọi là “Dằng dặc”,thuần chất hơn cả gọi là “Rặc”(thuần ngôn ngữ và văn hóa Nam Bộ như nhà văn Sơn Nam được gọi là “ông già rặc Nam Bộ”).Về sau trong số học, hệ đếm thập phân đã lấy lại MỘT có từ trước thay cho CHẮC có sau,lại do đã sử dụng chữ số Ả Rập nên khi dùng số học,con số 10 người Việt đọc là MỘT MÔ,khi đếm đến hết vòng đếm là “MỘT MÔ này!”đã lướt thành “mười !”sinh ra từ MƯỜI.Do hệ đếm cửu phân và hệ đếm thập phân cách nhau về thời gian không xa nên khái niệm nhiều trong tiếng Việt giai đoạn này thường gắn “chín mười”với nhau :Thời gian ủ đã nhiều,lâu rồi gọi là “Chín muồi”, “thương nhau Chín bỏ làm Mười”, “vượt qua Chín núi Mười sông”, “Mười yêu”, “ru con con ngủ cho Muồi”,mất sức nhiều gọi là “Đuối”,mệt nhiều gọi là “Luội”,thuận lợi nhiều gọi là “Xuôi”,làm biếng nhiều gọi là “Lười”,ủ nhiều thời gian cho ngấu mắm gọi là “Muối”,vọc vạch nhiều gọi là “Bươi”việc,xả nước nhiều gọi là “Tưới”. Tóm lại do có hình tròn biểu tượng Âm Dương mà các con số trong tiếng Việt đã được sinh ra từ một tiếng đầu là MỖI tức một thực thể,một KẺ, để tạo ra mười con số đếm từ số không: MỖI MÔ…MẬP-MỜ…MỘT MỘT MẤT…MỚI-MẺ…MAI----------Mày,Lại,Lái,Tái,HAI HAI HẾT…HỜI-HỢT…HỆT------- Hoạt,Hộc,Vốc,Vài,Bay,BA BA BỎ…BỀ-BỘN…BỐN--------Bọn,Bận BỐN BẾT…BẤP-BÊNH…BẪM---------Bầm,Thâm,Lâm,Lắm,NĂM NĂM NON…NỞ-NANG…NẬU----------Nhiều,Giàu,SÁU SÁU SÓT…SƠ-SÀI…SÂY-----------Dầy,Dày,Bầy,BẢY BẢY BỚT…BỪA-BÃI…BỤI---------Tụi,Bụi-Bặm,TÁM TÁM TẺ…TUA-TỦA…TÍM----------Túm,Túm-Tụm,Chùm,Trùm,CHÍN CHÍN CHẮC…CHẬP-CHÙNG…CHỤC-------Thập,Xặp,Xấp,Sấp, (“Sứ”tiếng Hán). Trong tiếng Việt khái niệm MÔ là con số 0 ,có đầu tiên, “KẺ MÔ” này,hay “KẺ RÒ”(hình dáng là 0) chính là “ ZERO” trong tiếng Latin, khi số học phát triển đến hình thành con số 0. Trong hệ đếm thập phân,con số 10 người Việt đọc là MỘT MÔ,khi đếm đến hết vòng là câu khẳng định “MỘT MÔ này!” ,rồi do lướt mà thành “MƯỜI !”.Các khái niệm về “ít”và “nhiều”trong tiếng Việt là bắt nguồn do các từ chỉ con số đếm 1 đến 10 hoàn toàn thuần Việt trong tiếng Việt. Lãn Miên Giải thích câu thành ngữ “Hai năm rõ mười” Câu thành ngữ “Hai năm rõ mười”xuất hiện trong Việt ngữ năm nghìn năm trước,vào thời đại các vua Hùng,khi xã hội đã phát triển,sản vật của nền văn minh lúa nước đã rất phong phú,sự giao lưu trao đổi sôi động,trống đồng Lạc Việt phổ biến khắp vùng Đông Nam Á nơi địa vực của văn minh lúa nước trải dài từ nam sông Dương Tử đến quần đảo Indonexia.Đương nhiên hệ đếm cũng đã phát triển đến dùng hệ đếm thập phân,là các con số MỘT HAI BA BỐN NĂM SÁU BẢY TÁM CHÍN và con số 0 trong Việt ngữ là MÔ(sau mới gọi là KHÔNG). Thời thượng cổ người Việt đã đặt ra hệ đếm nhị phân là hai con số MÔ(0) và MỘT(1),đó là hình con NÒNG và con NỌC,gọi là hai con Nòng-Nọc, quấn quýt nhau trong cái vòng tròn(biểu tượng Âm/Dương của người Lạc Việt),MÔ=0=Âm,MỘT=1=Dương.Cái hình biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt là hình tượng hóa một “bit” thông tin,một “bit” thông tin luôn có hai giá trị xác suất,hoặc nó mang giá trị 0,hoặc nó mang giá trị 1(Ngày nay tin học có bộ nhớ tới hàng trăm Giga “bit”).Cái hình biểu tượng Âm/Dương của người Lạc Việt cũng là một cái nôi “sinh ra mọi từ trong tiếng Việt”.Nhân loại cũng tiến đến sử dụng hệ đếm thập phân,con số 0 xuất hiện trong số học là xuất hiện sau chín con số kia,gọi là ZERO,mà tiền thân của nó là MÔ,người Việt gọi là “KẺ MÔ”,còn có từ “KẺ RÒ”là cái lỗ rò hình dáng 0,dẫn đến con số “ ZERO”.Đến thời hiện đại nhân loại quay lại sử dụng hệ đếm nhị phân của người Việt thượng cổ,số 0 (MÔ) và số 1 (MỘT)trong tin học,nhưng nó “sinh ra mọi sáng tác văn minh của nhân loại trong tương lai”.Đây là một sự lặp lại của lịch sử,có điều là ở trình độ cao hơn. Tiếp đến,người Việt thượng cổ dùng đến hệ đếm ngũ phân như của người Khơ Me,gồm có năm con số đếm là Việt: MỘT HAI BA BỐN NĂM Khơ Me: MUÔI TÊ PÂY BUÔN PRĂM (người Khơ Me đếm đến hết 5 “prăm”thì quay lại vòng đếm mới,6 là “prăm muôi”,2 là TÊ,từ “tê”trong tiếng Việt chỉ vị trí thứ hai,“Đứng bên ni đồng ngó bên “tê” đồng mênh mông bát ngát”). Trong hệ đếm ngũ phân này con số 5 là con số nói lên sự nhiều nhất trong các con số của hệ đếm.Do vậy “prăm”trong tiếng Khơ Me để lại dấu ấn trong từ chỉ người “nhiều”quyền lực nhất và được “nhiều kính trọng” nhất gọi là “Xăm Đéc”(cũng tựa như ông “Năm Đức” vậy).Dấu ấn này còn lại rất đậm trong Việt ngữ ở những từ chỉ ý “nhiều” như “lắm”(“lắm thầy rầy ma,lắm cha con khó lấy chồng”),hay “trăm”(“trăm năm trong cõi người ta”, “trăm nghe không bằng một thấy”).Lưu lại truyền thuyết đẻ trăm “TRỨNG”(cũng như nôi biểu tượng Âm/Dương đẻ ra trăm “TIẾNG”),trăm trứng ấy là trăm nhánh Việt,con của Lạc Long Quân và Âu Cơ,trăm họ,(sau mới do dịch ý mà xuất hiện từ “Bách Việt”, “bách tính” trong Hán ngữ,chứ từ “bách”trong Hán ngữ không có liên quan logic gì với “nhiều”cả,người Hán dùng từ “vạn”để ám chỉ số nhiều). Đến thời đại Hùng Vương người Việt đã sử dụng đến hệ đếm cửu phân gồm 9 con số.Trong hệ đếm này số 9 mang nghĩa “nhiều nhất”trong các con số(thời kỳ này người Bách Việt ở vùng Triết Giang còn dùng hệ đếm thất phân,có 7 con số),CHÍN mang nghĩa nhiều nên lúa hay trái cây được nắng nhiều rồi cũng đến “Chín”,con người lắm tuổi rồi thì tính tình cũng thành “Chín chắn”,đòi hỏi nhiều để thể hiện quyền lực cao nhất như vua Hùng đòi “voi Chín ngà,gà Chín cựa,ngựa Chín hồng mao”(chuyện cổ tích Sơn Tinh Thủy Tinh),chứ lại không đòi các số khác.Người quyền lực nhất trong cộng đồng cũng lấy con số “chín” tức nhiều như “chùm”mà gọi,nên gọi là “ông Trùm”.Cũng thời kỳ này ,trong số học, người Việt lấy lại con số 0 thuở ban đầu của mình là MÔ để có hệ đếm thập phân.MỘT MÔ là con số 10,khi đếm thì người ta nói là “MỘT MÔ này!”,lướt thành MƯỜI.Dùng đến hệ đếm thập phân,con số 10 là nhiều nhất trong hệ đếm,nên khái niệm nhiều cũng từ Mười(“Ru con con ngủ cho Muồi”nghĩa là lâu,nhiều về thời gian),đồng thời vì nhớ hệ cửu phân cách đó chưa lâu nên hay gắn Chín Mười để chỉ nhiều(“Thời gian ủ đã Chín Muồi”, “Thương nhau Chín bỏ làm Mười”). Đến lúc này mới có câu thành ngữ “Hai năm rõ mười”.Tại sao không nói “hai hai rõ bốn” hay “hai ba rõ sáu”,cũng cho ý so sánh sự chính xác như thế vậy?Vì,khi đã dùng đến hệ thập phân,đương nhiên con số mười là nhiều nhất trong hệ đếm,trong tâm thức người Việt vẫn còn nhớ hệ đếm ngũ phân sử dụng lâu dài nhất thuở xa xưa cùng với người Khơ Me.Lấy con số nhiều nhất của hệ cổ xưa là 5 và con số nhiều nhất của hệ hiện tại là 10 để tạo nên câu thành ngữ “hai năm rõ mười”với ngụ ý rằng:buôn bán dù có đến số “nhiều”tiền nhất,công việc dù có đến “nhiều” việc nhất,điều luật dù có ban hành đến “nhiều” điều luật nhất thì vẫn phải MINH BẠCH, xưa cũng đã vậy và hiện tại cũng phải vậy.Đó là cái lẽ phải để tồn tại và phát triển mãi mãi của con cháu Lạc Hồng. Lãn Miên
    1 like
  25. Ý nghĩa chữ "ĐỘN" theo cách hiểu của Người xưa trong thuật Lục Nhâm: 1. ĐỘN: hàm nghĩa "ẩn, theo". Khi sử dụng thuật toán của Lục Nhâm, thì Can - Chi ngày chiêm được coi là trọng yếu, đặc biệt là Can ngày chiêm. Mối quan hệ của Can ngày chiêm với những Tuần Can, căn cứ từ Ngũ hành sinh khắc tỷ hoà, để xác định được mối quan hệ của những Can trong từng Tuần can "ẩn theo" Can ngày chiêm quẻ. - Ví dụ: ngày Canh Thân thuộc trong tuần Giáp Dần. Xác định Ngũ hành khắc Can ngày chiêm: ngày chiêm Canh thuộc Kim, do vậy Ngũ hành khắc Kim sẽ là Hỏa. Trong tuần Giáp Dần, thấy chi Thìn gặp can Bính hợp thành Bính Thìn, chi Tị gặp can Đinh hợp thành Đinh Tị => Bính Đinh thuộc hoả khắc can ngày Canh kim. Ta hiểu rằng: Bính Đinh ẩn theo can Canh trong mối quan hệ "khắc", được gọi là Quan quỷ. Trong thuật toán Lục Nhâm, khi ta nói Can Quỷ, Can Phụ hay Can Tài... thì ta hiểu theo nghĩa: "độn" = "ẩn theo". Độn = ẩn theo: nhằm định mối quan hệ Ngũ hành, chỉ ra sự ảnh hưởng lẫn nhau trong những Tuần can - Ngũ hành của một Can nào đó trong Tuần khắc Can ngày thì gọi là Can Quỷ - Ngũ hành Can ngày chiêm khắc ngũ hành một Can nào đó trong Tuần, thì gọi là Can Tài - Ngũ hành của một Can nào đó sinh ra ngũ hành của Can ngày chiêm, thì gọi là Can Phụ ........v.v..........
    1 like
  26. @ ktsb 27/5/ canh dần, giờ hợi Cảnh Lưu Niên Hiện em đã tham dự phỏng vấn vào 1 cơ quan của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, thông thưởng họ chỉ kiểm tra ý kiến của đồng nghiệp khi đã quyết định nhận. Vậy mà họ kiểm tra ý kiến cho trưởng hợp của em gầ 2 tuần rồi mà ko hề trả lời. Theo anh liệu em có được nhận vào đây không anh? - Đến nay chưa thấy gì, tức là cũng sẽ...không có gì. Đợi cơ hội khác vậy. Em cũng tham gia phỏng vấn công ty truyền thông, họ cũng đã đồng ý nhận, xong lại có vấn đề gì đó mà hiện tại vẫn chưa thấy thông báo chính thức. Theo anh em có được công việc này không? - ráng chờ thêm tới cuối trung tuần tháng 5 âm xem sao? Chắc có thể được. Nếu có được cả 2 công việc này, em nên làm công việc nào hả anh? - Làm ở cơ quan Liên Hiệp quốc thì có vẻ hợp ý hơn, nhưng nay thì chưa có cơ hội, để cơ hội tiếp theo. Chúc thành công Thiên Đồng
    1 like
  27. "Con Lạc, cháu Hồng" là một thành ngữ lưu truyền từ hàng ngàn năm nay và là niềm tự hào của Việt tộc. Chính nó làm nên sự sống mãnh liệt vượt qua bao thăng trầm của lịch sử. Kể cả những thời gian u tối của Việt sử. Khái niệm Hồng đã được diễn giải là Hồng Bàng thị - Dòng tộc lớn và bao trùm. Một danh xưng đã ghi trong chính sử và truyền thuyết. Vài thằng hủ nho, ngốc nghếc, biết dăm ba chứ bày đặt suy luận với sự hợp lý ngắn ngủn, chỉ giới hạn trong cái kiến thức bằng lá mít, nhưng cứ tưởng là đúng, rồi dương dương tự đắc. Đó chính là trường hơp này. Phân tích về các phương diện lịch sử, ngữ nghĩa, tính cấu trúc đặc thù của ngữ pháp Việt....vv.....thì việc hiểu "con Lạc cháu Rồng" thấy ...chán hẳn. Nếu không muốn nói là cố tình xuyên tạc làm tiền đề phủ nhận tinh thần văn hiến Việt. Đại loại nó giống như vị giáo sư nào đó đổi tên "bánh Dày" thành "bánh Giày". Nhưng báo chí lại la lối đăng tải rùm beng. Cuối cùng, cũng được một số kẻ dở hơn công nhận cái dở ẹc của giáo sư kia. Đúng là phát chán. Ngôn từ, chữ viết, không phải muốn đặt thế nào thì đặt. Nhất là tiếng Việt, một ngôn ngữ rất cao cấp, có tính hệ thống, tính quy tắc, phân loại phạm trù ngữ nghĩa rất cao....Nó có thể dịch tất cả mọi ngôn ngữ trên thế giới ra ngôn ngữ Việt. Còn ngôn ngữ trên thế giới thì còn lâu mới có thể dịch hết ý ngôn ngữ Việt ra ngôn ngữ của nó. "Giày" là một khái niệm chỉ chiếc giày trong y phục. Nay đem chỉ cái bánh thì....thật hết ý để bình luận. Giáo sư còn ....giỏi như vậy, bọn phọt phẹt thì....chán hẳn.
    1 like
  28. HỎI - ĐÁP VỀ TRÙNG TANG LIÊN TÁNG . Nguồn: Blog Dienbatn Lời dẫn : Trong thời gian vừa qua, có rất nhiều bạn đọc gọi điện đến để hỏi dienbatn về hiện tượng TRÙNG TANG LIÊN TÁNG . Nay dienbatn xin viết bài này theo dạng hỏi - đáp để trả lời chung cho tất cả mọi người , ngõ hẫu có thể tránh được tai họa thảm khốc từ Trùng tang liên táng gây ra . Mỗi khi trong nhà có người mất , việc đầu tiên là chúng ta phải kiểm tra xem ngày giờ mất của người đó có phạm Trùng tang liên táng hay không . Việc này rất dễ thực hiện , nhưng có khả năng ngăn ngừa cao những sự việc đau thương xảy ra sau này . Xin các bạn chớ coi là thường . dienbatn . 1/ HỎI : Thế nào là Trùng tang liên táng . ĐÁP : Trùng tang liên táng là một hiện tượng có thật trong cuộc sống của chúng ta . Không có nhiều tư liệu viết về hiện tương này , nhưng trong dân gian vẫn truyền tụng với nhau những trường hợp chết phạm vào Trùng tang liên táng hết sức đau thương , thậm chí có nhà nhân đinh đông đúc là thế mà chỉ vài ba năm phải chịu cảnh tuyệt tự . Tại miền Bắc Việt Nam có một trung tâm nhốt Trùng lớn nhất nước : Đó chính là chùa Hàm Long ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh .Chùa được xây dựng vào thời Lý, tương truyền đây là nơi tu hành của Thiền sư Dương Không Lộ. Nơi đây từ ngày xưa , các vị sư tăng đã có những phương pháp Trấn Trùng rất huyền bí mà hiệu quả . Hàng ngày , vào buổi chiều , các sư ở đây phải nấu một nồi cháo to , cúng thí thực cho Trùng và vong bị nhốt ở đây, bữa nào quên là gà vịt của dân quanh vùng thay nhau chết la liệt . Ngoài ra , tại miền Bắc Việt Nam , từ xưa đã có các môn phái Pháp Sư theo Bắc Tông , Pháp sư các môn phái Phù thủy của đồng bằng bắc Bộ nhất là tại các tỉnh Bắc Ninh , Hải Phòng , Nam Định ... có khả năng hóa giải Trùng tang liên táng rất hay . Thông thường , các vị sư trong chùa chỉ học theo đạo Phật chứ ít khi học theo kiểu Pháp sư , Phù Thủy , thế nhưng đặc biệt ở chùa Hàm Long - Bắc Ninh , Liên Phái - Hà Nội và một vài chùa nữa lại có những bộ ván khắc in phù giải Trùng tang liên táng từ hàng trăm năm . Trùng tang liên táng là một hiện tượng rất hay xảy ra trong cuộc sống , nó được cha ông ta nghiên cứu từ ngàn xưa . Biểu hiện của nó là sau khi trong nhà có một người bị chết vì bất cứ lý do nào , sau 49 ngày thì trong dòng họ trực hệ của người mất lần lượt có hiện tượng chết nhiều người thường là có nguyên nhân không xác đáng hay chết bất đắc kỳ tử . Nhiều trường hợp như dienbatn gặp tại Hà Tĩnh , sau khi người cha mất , lần lượt 9 người con trai của người đó chết vì những lý do không ngờ được : Chết đuối , chết cảm , chết tai nạn giao thông ....Cuối cùng chỉ còn duy nhất bà mẹ già 90 tuổi sống côi cút với mấy con bò. Khi gặp , dienbatn ngồi tính lại mới thấy rằng , ông cụ khi chết phạm cả 4 cái trùng tang : Năm , tháng , ngày , giờ . Ngồi nhìn bà cụ còm cõi theo mấy con bò , dienbatn ứa nước mắt . Nếu có hiểu biết sớm , chắc chắn sẽ cứu được rất nhiều người con của bà . Chỉ tiếc rằng - Đất Hà Tĩnh ngày xưa có nhiều Thày giỏi , nay đã quy tiên hết mất rồi . 2/ HỎI : Cách tính trùng tang liên táng như thế nào ? ĐÁP : Trùng tang liên táng được tính theo tuổi âm lịch và tháng , ngày giờ âm lịch khi mất . Các bạn có thể tự mình tính theo bảng hướng dẫn sau : Trong bảng này , nam đi thuận chiều kim đồng hồ , nữ đi nghịch chiều kim đồng hồ . Nam khởi 10 tại Dần , nữ khởi 10 tại Thân . dienbatn xin lấy một ví dụ gần nhất : Nam mất năm 64 tuổi ( 1947) , mất vào tháng 3 , ngày 8 , giờ Ngọ (12g40 ngày 8/3/2010) . Nam khởi 10 tại Dần theo chiều kim đồng hồ , 20 tại Mão , 30 tại Thìn , 40 tại Tỵ , 50 tại Ngọ, 60 tại Mùi , 61 tại Thân , 62 tại Dậu , 63 tại Tuất , 64 tại Hợi. Như vậy năm phạm Trùng tang Nhất xa ( kéo theo 1-3 người chết theo ) . Tiếp tục tháng 1 tại Tý , tháng 2 tại Sửu , tháng 3 tại Dần - Như vậy tháng phạm trùng tang Nhị xa ( kéo theo 3-5 người chết theo ) . Tiếp tục , ngày 1 tại Mão , ngày 2 tại Thìn , ngày 3 tại Tỵ , ngày 4 tại Ngọ , ngày 5 tại Mùi , ngày 6 tại Thân , ngày 7 tại Dậu , ngày 8 tại Tuất - Ngày được Nhập Mộ . Tính tiếp - Giờ Tý tại Hợi .....giờ Ngọ tại Tỵ - Như vậy ngày phạm trùng tang Tam xa ( kéo theo 5-9 người chết theo ) . Cách tính cho nữ cũng tượng tự nhưng theo chiều ngược kim đồng hồ và khởi 10 tại Thân . 3/ HỎI :Những ai trong gia đình bị ảnh hưởng bởi Trùng tang liên táng : ĐÁP : Chỉ những người có dòng máu trực hệ với người mất mới chịu tác động của Trùng tang liên táng . Như trong gia đình thì có cha , mẹ , vợ , con , anh chị em ruột , cháu nội là chịu tác động của Trùng tang liên táng . Các người khác như con dâu , con rể , cháu ngoại , người làm công thì không chịu động của Trùng tang liên táng . Trùng tang liên táng không lây qua những người không thuộc dòng máu trực hệ. 4/ HỎI : Trùng tang liên táng tác động theo thời gian như thế nào ? ĐÁP : Trùng tang liên táng sẽ bắt đầu tác động sau khi người chết phạm Trùng tang liên táng được 49 ngày ( hết thời gian vong hồn người mất ở Thân Trung ấm ) và kéo dài liên tục có khi đến 10 năm . Nếu những người chết sau mà lại tiếp tục phạm Trùng tang liên táng thì thời gian kéo dài rất nhiều năm . 5/ HỎI : Những biểu hiện có thể nhận biết khi một người bị ảnh hưởng của Trùng tang liên táng sắp mất ? ĐÁP : Thông thường , nếu không chú ý sẽ không thể nhận ra được . Nhưng nếu quan sát kỹ , khi trong gia đình có người chết phạm Trùng tang liên táng , thì nếu trong gia đình có người có những biểu hiện kỳ quặc , khác thường , ít ăn , hay ngủ , không tin sự chết chóc ...thì gần như chắc chắn là người đó sẽ là người chết kế tiếp . Trong nhiều trường hợp nặng hơn dienbatn gặp phải , có hiện tượng tru như chó sói , ngất xỉu , nói năng bậy bạ , điên loạn , tức là người đó đã nhiễm phải Trùng tang liên táng , đã lậm vào người cực kỳ khó chữa . 6/ HỎI : Bản chất của Trùng tang liên táng là như thế nào ? Người xưa và ngày nay đã nghiên cứu đến đâu rồi ? ĐÁP : Trùng tang liên táng hoàn toàn có thật , bản chất của sự việc này ra sao thì chưa có một nghiên cứu nào khả dĩ có thể giải thích được . Trong quá trình nghiên cứu về hiện tượng này , dienbatn cho rằng đó tương tự như một loài vật sống ký sinh trên xác người chết phạm vào giờ trùng . Đó chính là một trường năng lượng xấu tồn tại cùng với trường năng lượng của người chết phạm trùng . Vì lý do " Đồng thanh tương ứng - Đồng Khí tương cầu " hay hiện tượng cộng hưởng tần số . . Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương :Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và tần số của Trùng ,nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào.Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống ,dòng họ.Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều,nên trong lý thuyết về Nhạc,loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia ).Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống. Chính điều này cũng giải thích được hiện tượng chỉ có những người cùng huyết thống với người chết phạm phải giờ trùng tang liên táng mới bị , còn những người khác và con Dâu , con Rể cùng sống trong gia đình không bị ảnh hường . 7/ HỎI : Khi trong nhà có người mất và phát hiện phạm Trùng tang liên táng thì mọi người cần phải làm gì ? ĐÁP : Ngày sau khi trong nhà có người mất , việc đầu tiên là phải tính xem có phạm Trùng tang liên táng hay không ? Cách tính theo phần đã viết ở trên . Trùng tang liên táng cần có những việc phải kiêng kỵ trước khi hoá giải . LIÊN QUAN GIỮA CÁC TUỔI CẦN TRÁNH KHI PHẠM TRÙNG TANG . Sách cũng viết rằng : Trùng tang Nhất xa - Ba người chết theo . Trùng tang Nhị xa - Năm người chết theo , Trùng tang Tam xa - Bẩy người chết theo . Sinh năm Kỷ Dậu nên bị Phục tang tại Địa hộ Tỵ - Tam xa . Phục - Sự quay trở lại của Vong hồn . Trùng _ Sự nhập của Vong hồn vào người sống , bắt đi theo . Trùng tang ngày là nặng nhất . Trùng tang Tháng là nặng nhì . Trùng tang Giờ là nặng thứ ba . Trùng tang Năm là nhẹ nhất . KIÊNG KỴ : Người nhà kiêng người Tam hợp tuổi , kiêng tuổi xung , kiêng tuổi Hình với Vong mệnh . Kỵ Long - Hổ - Kê - Xà tứ sinh Nhân ngoại ( Người khách các tuổi Thìn - Dần - Dậu - Tỵ không được có mặt khi khâm liệm ) . Kiêng người có cung phi Bát trạch xung khắc với Vong mệnh . Kiêng khóc thành tiếng khi đang liệm . 8/ HỎI : Hóa giải Trùng tang liên táng như thế nào ? ĐÁP : Trùng tang liên táng là một sự thực , dù cho người ta đến ngày hôm nay vẫn chưa tìm ra bản chất của nó . Từ xa xưa , người Việt chúng ta đã có quá trình theo dõi , điều trị có hiệu quả việc này . Thực ra sau khi tính toán và phát hiện ra người chết phạm vào Trung tang liên táng , việc điều trị rất đơn giản và hiệu quả rất cao . Điều cần thiết là khi phát hiện ra phải điều trị càng sớm càng tốt . dienbatn xin giới thiệu một số phương pháp hóa giải Trùng tang liên táng có kết quả mà dienbatn sưu tập được và một vài phương pháp dienbatn thường sử dụng đạt được kết quả khá tốt . Một điều cần chú ý là có nhiều phương pháp hóa giải Trùng tang liên táng , nhưng những phương pháp của Tiên Gia , Phù thủy , Đạo gia thường là những phương pháp bắt nhốt Trùng . Cách này tuy hiệu quả nhưng thực ra rất nguy hiểm vì khi công lực của Thày còn cao , Trùng còn phải chịu hãm trong vòng tù ngục , nhưng khi Thày chết , không còn ai cai quản nhà tù nữa , Trùng sẽ thoát ra gây ảnh hưởng rất nặng đến Gia đình Thày và Thân chủ . Phương pháp tốt nhất là dùng Mật Tông , trì chú cho Trùng được siêu thoát , sau đó hồi hướng công đức cho họ . Phương pháp này dùng những năng lực của Phật pháp , siêu độ cho Trùng rất tốt , khiến cho Trùng sớm siêu thăng tịnh độ , không còn làm ác được nữa . Có nhiều cách hóa giải Trùng tang liên táng theo nhiều pháp môn . Mỗi pháp môn có cái hay và cái dở riêng . Trong Nam dienbatn chưa thấy có người nào hay môn phái nào chú ý đến hiện tượng này . Ngoài Bắc thì cách đây gần 1000 năm ( Thời Lý ) đã có những trung tâm trấn trùng nổi tiếng là Chùa Hàm Long ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh . Chùa này còn lưu giữ bộ ván khắc Bùa Trấn trùng đầy đủ nhất . Sau này , không hiểu cơ duyên nào , chùa Liên Phái tại Hà Nội cũng có được bộ ván khắc này . ( Bộ linh phù trấn trùng tang. http://www.4shared.com/file/ZTnDUeth/bo_linh_phu_de_yem_trung_tang.html) Tuy nhiên theo đánh giá của dienbatn , cách hóa giải này có tính chất trấn áp , dùng lực của Thày quá nhiều , gây những hậu quả không hay về sau khi Thày mất đột ngột . Điều đó có nghĩa là trong quá trình hóa giải Trùng tang liên táng , Vị Pháp sư đã dùng lực và sức mạnh của Thày Tổ , Thần linh , binh gia bắt nhốt Trùng và vong linh người mất cho vào hũ và trấn bằng những lá Bùa trên miệng để khỏi chạy ra . Cách này trong thời hạn 3 năm ( từ khi mất đến lúc bốc mộ ) , người nhà phải nhờ người khác đem di ảnh và bát nhang lên chùa để nghe đọc Kinh liên tục . Trong nhà tuyệt đối không được thờ cúng , gọi tên hay than khóc vì làm như vậy Trùng sẽ gỉai thoát ra ngoài . Các bạn đọc những dòng sau của một người đã từng đưa Vong lên chùa để hiểu thêm : " Nhà có người chết trùng phải lập tức gửi người đó lên chùa, tuy nhiên không phải chùa nào cũng giữ được vong chết trùng. Nó phụ thuộc vào sự linh thiêng của chùa và mức độ cao tay của vị sư trụ trì. Nếu trùng nhẹ các bạn có thể gửi lên một ngôi chùa nào đó gần nhà, các nhà sư sẽ hàng ngày đọc kinh niệm phật cho vong hồn siêu thoát( hay nói đúng ra là nhốt vong vào trong ngục, không cho đi lung tung kẻo quỷ sứ bắt được nó sẽ tra tấn và khai ra tên họ người nhà, càng những người hợp với vong chết trùng càng dễ bị bắt). - Nếu trùng nặng, tôi khuyên chân thành bạn phải gửi ngay vào chùa Hàm Long, dù có ở trong Nam thì cũng nên cấp tốc đi máy bay ra mà gửi. Các chùa khác nổi tiếng về cái gì thì tôi không biết nhưng đệ nhất giữ vong phải là chùa Hàm Long ( Ở Thành phố Bắc Ninh). Đây là ngôi chùa cổ mấy trăm năm nằm trên sườn núi, địa thế rất đẹp. Chùa có những cây cổ thụ cực to, và cũng là một trong những nơi đào tạo các nhà sư ở Việt Nam. Từ trong nam ngoài bắc trùng tang đều đem về đó gửi. Hàng ngày vào buổi sáng tôi thấy các nhà sư tụng kinh niệm phật cúng vong rất cẩn thận. - Khi gửi vào chùa rồi, bạn có thể yên tâm ăn ngủ nếu thực hiện đúng các điều sau( các nhà sư chắc cũng sẽ nói lại cho bạn nếu bạn đến đó): 1- sau khi gửi lên chùa, ở nhà không được lập bàn thờ cúng bái người đã chết nữa kể cả ngày giỗ tết, vì có hương là có hồn, chỉ cần bạn đốt hương và đọc tên người chết thì đó coi như chìa khoá mở ngục cho vong thoát ra ngoài. 2- Khi đưa vong lên chùa phải nhờ người không phải là họ hàng, nếu nhờ được bạn bè là tốt nhất, còn nếu không cũng phải nhờ người bên họ ngoại. Vì vong chết trùng thường rất khôn ngoan, nếu thấy người quen đưa đi thì thường nó sẽ đi theo về hoặc tệ hơn là nó đã biết trước và không đi theo. Thế nên không nên bàn chuyện đưa tiễn vong lên chùa ở nhà người chết. 3- sau khi nên mộ tròn tức là người chết đã về với tổ tiên, mới được thờ cúng lại bình thường. * Có một nhà sư đã nói đặc điểm của người chết trùng (không phải ai chết trùng cũng có đặc điểm này, tôi chỉ ví dụ để bạn tham khảo thôi)là : dù có ốm thập tử nhất sinh người đó vẫn luôn tin mình sẽ sống ( kể cả là ung thư giai đoạn cuối thì vẫn tin có phép tiên), nên nếu bạn có hỏi xem người ấy có muốn trăn trối gì không thì họ thường lảng tránh câu đó không muốn trả lời. Thêm nữa nếu mất trong khoảng giữa đêm hoặc gần 6h sáng thì cũng nên cẩn thận vì đó là giờ quan, nên đi xem xét cho cẩn thận kẻo bị trùng tang mà không biết. * Ở chùa Hàm Long có các lá bùa để gia đình đeo vào trong khoảng 3 năm để tránh tai hoạ, tôi thấy một mặt là chữ nho một mặt là phật bà. * Rất tiếc là tôi không nhớ địa chỉ cụ thể, tuy nhiên bạn có thể đi đường cao tốc về thành phố Bắc Ninh, có 1 cái cầu vượt, tay trái đi vào thị xã, tay phải đi về phía chùa. Tuy nhiên chùa ở núi nên còn đi vào khá xa, tôi chỉ nhớ là có đi qua nhà máy kính nổi. sau đó thì bạn hỏi đường tiếp nhé, vì nó khá nổi tiếng mà,với lại cũng có biển chỉ đường đi về chùa đó. Tôi đã đi nhiều chùa nhưng đó là ngôi chùa cổ u tịch nhất mà tôi biết, khi tôi đến đó thấy cả dãy dài ô tô từ tứ phương đổ về- thường là những người đi gửi vong chứ ít ai đi vãn cảnh chùa lắm có lẽ vì tâm lý đó là nơi giữ vong, mọi người đến thường xong việc đi luôn, chắc cũng vì sợ ở lâu chỉ thêm đau long do thương xót người đã mất. Các gia đình sau khi gửi vong thường chỉ thực hiện được một thời gian đầu những điều cần kiêng, sau vì thương tiếc người thân đã cúng lại vì sợ ma bị đói. Đây là điều cần hết sức tránh vì các nhà sư cúng bái còn cẩn thận hơn chúng ta nhiều. Có nhiều gia đình phải gửi đi gửi lại nhiều lần vì vong theo về, vì cúng khấn ở nhà. Vì vậy bạn nên tránh những điều tôi đã nói nhé. " Về cách giải khác , các bạn có thể đọc ở đây : http://vn.360plus.yahoo.com/dienbatn/article?mid=739 9/ HỎI : Ngoài việc chết Trùng tang liên táng như trên còn có loại Thần trùng nào khác nữa hay không ? ĐÁP : Trùng tang liên táng như vậy là thông dụng nhất . Ngoài ra còn có một số loại Trùng trong sách cổ còn ghi lại như sau : "THẦN TRÙNG. Cách này ở nhiều sách hay lầm lẫn với các ngày Trùng tang, Tam tang, Trùng Phục...Thần Trùng là trong gia quyến , thân chủ có người chết nhằm ngày đó , nếu không Nhương Ếm thì sẽ bị tai họa chết trùng , người ta gọi là Trùng tang Liên Táng , trong thân sẽ có người chết tiếp. Những ngày đã nói ở trên không kỵ chết mà chỉ kỵ những việc an táng , tẩn liệm , mặc đồ tang , chôn cất , xả tang... Còn như chết nhằm ngày Thần Trùng mới đáng sợ. Sau đây là ngày Thần Trùng : _ Tháng 1,2,6,9,12 : Chết nhằm ngày Canh Dần hay Canh Thân là phạm Thần Trùng " Lục Canh Thiên Hình ". Nếu thêm thấy năm tháng cũng vậy là càng nặng. _ Tháng 3 : Chết nhằm ngày Tân Tị hay Tân Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Tân Thiên Đình " , nếu gặp thêm năm , tháng nữa càng nặng hơn _ Tháng 4 : Chết nhằm ngày Nhâm Dần hay Nhâm Thân là phạm Thần Trùng " Lục Nhâm Thiên Lao " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 5 : Chết nhằm ngày Quý Tị hay Quý Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Quý Thiên Ngục " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 7 : Chết nhằm ngày Giáp Dần hay Giáp Thân là pahm5 Thần Trùng " Lục Giáp Thiên Phúc " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 8 : Chết nhằm ngày Ất Tị hay Ất Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Ất Thiên Đức " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 10 : Chết nhằm ngày Bính Dần hay Bính Thân là phạm Thần Trùng " Lục Bính Thiên Uy ". nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 11 : Chết nhằm ngày Đinh Tị hay Đinh Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Đinh Thiên Âm " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng " - NCD . 10/ HỎI : Theo anh , việc giải Trùng tang liên táng như thế nào là đơn giản và có hiệu quả nhất ? ĐÁP : Qua một thời gian nghiên cứu khá lâu , từ một bài thuốc Trấn trùng tang liên táng bí truyền của dòng họ , dienbatn đã kết hợp sử dụng một số Sớ , Phù Bắc Tông được vẽ hai lớp bằng mực và Kỳ Nam ( Tinh chất của Trầm Hương ) và vận dụng Đàn pháp Mật Tông Tỳ Lô Giá Na , Dược Sư , Chuẩn Đề, tụng chú liên tục trong 3 ngày sẽ là một thứ thuốc dùng để xông mộ và người rất hiệu quả . Phương pháp này khi xông xong mộ và người sống , chúng ta vẫn được thờ cúng người mất như bình thường , không cần phải gửi lên chùa Hàm Long . Trải qua hàng trăm trường hợp đã thực hiện trong những năm vừa rồi , tỷ lệ thành công trấn Trùng là 100% . Nguyên lý của bài thuốc này là không bắt nhốt Trùng và Vong hồn người chết nhốt vào tháp , mà dùng hơi thuốc , kết hợp với Quang năng của chư Phật , cầu siêu , giải thoát cho Trùng , biến nó từ Âm Binh thành Thiên Binh . Sau khi vỡ cái Vô Minh vốn có , họ rất vui mừng , cảm tạ . Cách này làm cho Vong linh của người mất , nhờ các Đà La Ni của chư Phật cũng được giải thoát rất nhanh . Có những trường hợp do Trùng đã xâm nhập cơ thể , các phương pháp khác đành bó tay thì sau khi xông thuốc của dienbatn cũng đều được qua khỏi . Về bản chất của vấn đề theo cách hiểu của Khoa học thời nay thì do tác động của thuốc xông , của Phù , chú ...hiện tượng cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống sẽ không xảy ra nữa . 11/ HỎI : Anh có gì nhắn nhủ mọi người về vấn đề này không ? ĐÁP : Trong sách kinh Phúc Âm có viết " Phúc cho ai không thấy mà tin " . dienbatn biết rằng vấn đề Trùng tang liên táng không khỏi có người nghi ngờ , diễu cợt . Tuy nhiên , mạng sống của con người là vô cùng quan trọng . Đừng để đến lúc xảy ra mất người rồi thì hối cũng không kịp . Mỗi khi trong nhà có người mất , các bạn nên giành 10 phút để kiểm tra theo hướng dẫn ở trên , 10 phút đó nhiều khi giá trị bằng nhiều mạng người đó các bạn . Thân ái . Dienbatn .
    1 like
  29. KHAI TRƯƠNG THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ . dienbatn khai trương THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ miễn phí . Các bạn có thể tải về để đọc . Nguồn sách là của dienbatn và các cuốn sách sưu tầm khác trên các trang web khác khoảng gần 10.000 cuốn , dienbatn sẽ đưa lên dần. Tạm thời chia ra các chuyện mục sau : 1/ SÁCH PHONG THỦY - TỬ VI - TỬ BÌNH - THÁI ẤT- KINH DỊCH - NHÂN TƯỚNG ... 2/ SÁCH HUYỀN MÔN ( BÙA CHÚ, NGẢI NGHỆ ...) 3/SÁCH VỀ MẬT TÔNG VÀ CÁC ĐẠO PHÁP KHÁC . 4/SÁCH NGHIÊN CỨU . 5/ SÁCH VĂN HỌC . 6/ CÁC BÀI KHẢO CỨU SƯU TẦM . dienbatn xin cảm ơn nguồn sách của các trang web khác khi sưu tầm đã lâu mà quên mất nguồn . Chúc các bạn có thêm nhiều tư liệu cho việc nghiên cứu của mình. Thân ái . dienbatn . Tải sách tại đây : http://vn.360plus.yahoo.com/dienbatn/artic...4&next=3582
    1 like
  30. Chào cô Haiphuong. Chúc cô và gia đình vạn sự an lành. Hôm nay tôi mới thấy lại topic này. Rất vui vì chồng cô có tiến triển tốt. Cô hãy yên tâm, theo quẻ của tôi - nhnh thì ngay tháng này. Chậm thì giữa tháng năm, âm lịch , chồng cô sẽ phục hồi. Cô nên làm hai việc sau đây: 1 - Tìm một thày giỏi về nhân điện (Hình như tôi có giới thiệu) để phụ giúp chồng cô. 2 - Thả chim phóng sinh, ngay tai căn nhà vợ chồng cô thuê. Phương pháp như sau: Ra chợ bán chim. Chọn lồng chim có nhiều chim nhất (Nếu không đủ tiền mua hết tất cả chim ở đó) - có quyền trả giá sát nhíp - nói họ chở về nhà, hoặc tự mình chở về và thả ở đó. Con nào yếu không bay được thì nuôi cho đến khi nó khỏe bay đi. Chết thì chôn. Sinh khí và sự giải thoát của chúng sẽ giúp cho chồng cô chóng khỏi. Cái này khó giải thích (Chứ không phải không giải thích được). Nhưng đây là điều có thật Tôi cũng thường xuyên thả chim.
    1 like