-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 26/05/2010 in Bài viết
-
Thế sau này , không cần dùng đến xe hơi , con người ta có thể đi đến những nơi mong muốn chỉ trong tíc tắc , chắc bạn không chê chứ ? Còn lang băm hay bác sĩ cũng chưa biết ai băm mạnh hơn ai . :P dienbatn không nghĩ rằng Phongthuysinh lại nghĩ như vậy . Kiểu này chắc phải đổi nick lại là Phongthuytu ??? :lol: Vì Lý học đông phương mất đi cái gốc , người ta chỉ nắm giữ cái ngọn nên cơ sự mới là vậy . Lẽ ra Phongthuytu phải là người góp phần vào khôi phục và chấn hưng Đông Phương học , đưa nó áp dụng vào thực tiễn để dân giầu , nước mạnh, không còn tàn phá Thiên nhiên , môi trường , phá hoại cuộc sống tương lai của con cháu chúng ta mới phải chứ ??? Khoa học nguyên tử thời nay sẽ dẫn con người đến chỗ diệt vong vì cái việc phá vỡ cân bằng sinh thái , môi trường và khí quyển này của Trái đất . Xin tặng Phongthuytu vài câu kinh sấm của tương lai : "Thế thời trong buổi sàng nhânThấy con khờ dại ngu đần mà thương Phong trần thuỷ hoả tai ương Đam mê vật chất vấn vương trong lòng Tham lam, sân hận khôn cùng Tương lai nào thấy mịt mùng tối đen Trầm luân khổ ải đua chen Mạt sang xoá sạch ngu hèn con ơi!" Thân ái . dienbatn .4 likes
-
Chiến Trường Tống Lý
monsoon and one other liked a post in a topic by VinhL
Thư viết cho tuổi trẻ tộc Việt Để giải những nghi vấn lịch sử : Đi thăm chiến trường thời Tống Lý. (Tựa bộ Nam Quốc Sơn Hà) Những giòng dưới đây tôi viết dành cho tuổi trẻ Việt, chưa có chút vốn về thư tịch của chiến thắng Bắc phạt thời Lý, đánh chiếm các châu Ung, Liêm, Dung, Nghi, Bạch. Mong những bậc cao minh bỏ qua. Chẳng nên bận tâm. Trân trọng. Hồi còn để chỏm, tiền nhân giảng dạy sử Hoa-Việt cho tôi, mỗi khi đề cập đến những chiến công oanh liệt của năm lần phạt Tống, một lần kháng Tống thời Lý, các người thường giảng rất kỹ, rất chi tiết, cùng bình luận. Nhưng chỉ giảng kỹ bốn lần đầu thôi. Còn lần cuối, với lần kháng Tống, vĩ đại nhất, oanh liệt nhất thì lại lướt qua. Trong khi lướt qua, các người ít chịu nhắc đến huân nghiệp của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt; thảng hoặc bất đắc dĩ phải đề cập đến, thì nói bằng giọng lạnh nhạt : « Người cầm quân đánh sang Khâm, Ung, Liêm là ngài Tôn Đản, công-chúa Ngô Cẩm-Thi với viên hoạn quan Lý Thường-Kiệt» Rồi khi khuyên tôi Viết lịch-sử tiểu-thuyết, chỉ khuyên viết các bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam, thuật cuộc khởi nghĩa của vua Trưng cùng 162 tướng; Anh hùng Đông-a thuật cuộc bình Mông thời Trần; Anh hùng Lam-sơn, thuật cuộc khởi nghĩa của vua Lê; Anh-hùngTây-sơn, thuật chiến công đánh Mãn-thanh của vua Quang-Trung. Còn những chiến công thời Lý thì bỏ qua. Tâm lý chung của tuổi trẻ là tò mò. Vì các người không nhắc đến, thì tôi lại âm thầm tìm hiểu. Mỗi khi tìm thấy những điều mới lạ, mà người trên không biết, không cần biết tới, không muốn biết, tôi lại cảm thấy thú vị. Sau lớn lên, tôi mới biết rằng sở dĩ các người lãnh đạm với huân nghiệp của Lý Thái-úy, vì ngài là một hoạn quan. Mà trong lịch sử Hoa-Việt, các Nho-gia cực kỳ ghét bọn hoạn quan. Vì bọn này thường nhờ vào vị thế hầu hạ, tôi tớ các vị vua, các bà trong hậu cung, rồi lộng quyền, làm hại dân, hại nước. Chính vì thế, mà tiền nhân tôi không khuyến khích tôi viết về thời Lý, chứ không cấm. Những năm sau 1975, tôi làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaceutique, viết tắt là CEP) , Viện Pháp-á (Institut Franco- Asiatique, viết tắt là IFA), Ủy-ban y học Pháp-Hoa (Comité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), có nhiều phương tiện tìm hiểu lịch sử thời Lý, tôi thấy rằng: Vì thiếu sử liệu, nên các sử gia Việt chỉ biết tên có hai tướng cầm quân Bắc phạt là Lý Thường-Kệt với Tôn Đản; rồi cho rằng huân công Bắc phạt, kháng Tống là của hai vị này. Trên thực tế, hai vị này chỉ là hai trong mấy chục anh hùng thời đó. Vì vậy, không ngần ngại, tôi đã viết năm bộ về thời Tiêu-sơn, dù tiền nhân không khuyến khích (chứ không cấm). - Một là, Anh-hùng Tiêu-sơn, 3 quyển, 907 trang, thuật công nghiệp của các vị tăngni yêu nước đã lập lên triều Lý; cuộc Bắc-phạt lần thứ nhất. - Hai là, Thuận-Thiên di sử, 3 quyển, 909 trang, thuật việc dùng đức từ-bi, bác-ái của nhà Phật; nhân-nghĩa của nhà Nho để trị nước...Khiến sử gia Hoa, Việt không ngớt khen ngợi rằng đây là thời kỳ dân Việt sung sướng như thời Nghiêu, Thuấn bên Trung-hoa. Nhưng sự thực các sử gia Trung-quốc đã lầm. Vua Lý Thái-tổ đã dùng chủ đạo của tộc Việt (Idéology) cai trị dân mà thôi. - Ba là, Anh-hùng Bắc-cương, thuật công cuộc giữ nước của 207 bộ tộc của các sắc dân thiểu số ở biên giới Hoa-Việt; cùng cuộc Bắc phạt lần thứ nhì. Tôi cũng trình bầy rất chi tiết, rất rõ ràng những vùng như núi Ngũ-lĩnh, sông Tương với ba địa danh Tương-trung, Tương-âu, Tương-Nam là nơi phát sinh ra Quốc-mẫu Âu-Cơ. Nhất là trình bầy vùng đất linh của tộc Việt : Núi Thiên-đài, nơi vua Đế Minh lập đàn tế cáo trời đất phân chia lãnh thổ cho Trung-nguyên, Lĩnh-Nam. - Bốn là, Anh-linh thần võ tộc Việt, thuật cuộc Bắc-phạt lần thứ ba. Sang lần thứ tư giúp Nùng Trí Cao chiếm lại lãnh thổ thời vua Hùng, vua An-Dương , vua Trưng, lập nước Đại-Nam. - Năm là, Nam-quốc sơn hà, thuật cuộc Bắc phạt lần thứ năm, và cuộc kháng Tống. Trong năm bộ trên, với những sử liệu tìm được, tôi đã trình bầy không biết bao nhiêu bí ẩn lịch sử tiềm ẩn trong các sách Hoa-Việt, bao gồm: Quốc-sử, địa dư chí (quốc chí, địa phương chí, phủ huyện chí), truyện ký, thần-tích ngọc phả, mộ-chí, bia-đá, gia-phả. Trong ba bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại-sử, Cẩm-khê di-hận, cứ mỗi cuối hồi, cuối một quyển, tôi lại chú giải, ghi chép các sử liệu, để giới trẻ biết nguồn gốc sử liệu, mà tìm hiểu sâu sa hơn. Sang bốn bộ Anh-hùng Tiêu-sơn, Thuận-Thiên di sử, Anhhùng Bắc-cương, với ý nghĩ lẩm cẩm rằng: Chú giải, ghi chép thêm là thừa, nên giới trẻ có nhiều ngộ nhận : Chính những sự kiện lịch-sử, thì bị coi là tiểu thuyết, những yếu tố tiểu thuyết lại được coi là lịch sử. Cho nên sang bộ Nam-quốc sơn-hà, lúc đầu, tôi chú giải sau mỗi hồi. Nhưng tiếp xúc với ông Trương Đình-Nho, giám đốc nhà xuất bản Đại-Nam, tôi mới biết rằng: Khi đọc đến chỗ chú giải, độc giả lại phải mất công lật xuống cuối hồi để tìm tòi; sao bằng chú giải ngay dưới sự kiện. Đây là một kinh nghiệm mà tôi học được. Cho nên sang quyển hai, thì tôi không còn chú giải ở cuối hồi nữa. Bây giờ tái bản ở trong nước, tôi quyết định, tất cả chú giải ngay dưới sự kiện. Trong bộ Nam-quốc sơn hà này, tôi cố gắng trình bầy một số sự kiện lịch-sử. Trước tiên là: 1. Bốn nghi vấn lịch sử Trong năm bộ sách, thì bộ cuối cùng là bộ tôi đắc ý nhất. Nam-quốc sơn-hà là bốn chữ lấy trong bài thơ, tương truyền của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt, sáng tác trong trận đánh sông Như-nguyệt với quân Tống vào năm 1076: Nam-quốc sơn hà, Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư. Như-hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Nghĩa là, Nước Nam là nơi vua nước Nam cai trị, Điều này đã định tại bộ sách trời. Bọn giặc kia, sao dám xâm phạm ? Nhất định bọn bay sẽ phải đại bại. Bài thơ này đến nay (1996) trải 920 năm, mà dường như hầu hết người đọc đều hiểu lầm ý nghĩa chữ Thiên-thư. Các sách đều giải thích rằng Lý Thường Kiệt dùng chữ Thiên-thư như một vật thể trừu tượng là ý trời. Cũng có sách không giải thích. Hồi niên thiếu, khi được tiền nhân giảng Tống-sử, phần Chân-tông bản kỷ, tôi đã được giải thích tỷ mỉ. Thiên-thư là tên một bộ sách, được soạn vào thời vua Tống Chân-tông. Việc chép Thiên-thư này, được ghi rõ trong Tống-sử quyển 7, Chân-tông bản kỷ, trang 135. Sự thực bấy giờ phía Bắc Tống bị Liêu uy hiếp, bắt cắt đất, nộp vàng lụa. Phía Tây bị Tây-hạ tấn công. Phía Nam bị Đại-Việt ép. Bọn 5 gian thần bị Tống-sử gọi là Ngũquỷ gồm Vương Khâm Nhược, Trần Nghiêu Tá (Tẩu) , Đinh Vị, Trần Bành Niên, Lưu Thừa Hoa mới bầy ra trò bịp bợm. Niên hiệu Đại-trung Tường-phù đời vua Chân-Tông (1008) thay vì tổ chức binh bị giữ nước, thì Tể-tướng Vương Khâm Nhược đề nghị nên dùng hình thức Phong-thiện, tức tế cáo trời đất ở núi Thái-sơn để trấn phục bốn phương. Nhưng muốn tỏ ra việc cúng tế đó là linh ứng tự trời, cần phải tạo ra bộ sách, dối là Thiên thư, của Thiên-đình ban xuống. Bộ sách này được chính Tể-tướng Vương Khâm Nhược, điều động một số văn thần soạn, đến tháng ba niên hiệu Thiên-hy thứ ba ( Kỷ Mùi 1019, vẫn thời vua Chân-Tông) thì xong. Vua sai viên Tuần-kiểm Chu Năng cùng viên Thái-giám Chu Hoài Chính đem dấu vào hang núi Càn-hựu, phía Nam Trường-an, rồi sai bọn đồng cốt nói rằng : « Từ nghìn xưa, có sách từ trời rơi xuống hang núi Càn-hựu ». Song sĩ dân không ai tin. Bấy giờ danh sĩ Khấu Chuẩn, trước từng là Tể-tướng, bị biếm vì tội nói thẳng, rất được sĩ dân tin tưởng. Oâng đang trấn nhậm đạo Vĩnh-hưng quân gần núi Càn Hựu. Sĩ dân nói rằng : « Cái vụ Thiên-thư là bịa đặt. Nếu như có thì ắt Khấu Chuẩn đã dâng về triều ». Vua Chân-Tông mật sai Chu Hoài Chính ngỏ ý rằng Khấu Chuẩn nên giả vào núi, tìm thấy Thiên-tư rồi dâng lên vua, sẽ được vua tái trọng dụng. Lúc đầu Khấu Chuẩn từ chối, nhưng vì say quyền hành, muốn về triều, ông phải bán rẻ cái chính khí. Khi ông mang Thiên-thư về Biện-kinh, nhà vua thân ra cổng thành rước. Dĩ nhiên Khấu Chuẩn thanh vân đắc lộ. Thế là tháng sáu năm đó, Vương Khâm Nhược chết, Khấu Chuẩn được phong chức Tể-tướng kiêm Lại-bộ thượng-thư. Một danh sĩ đương thời là Ngụy Dã người Thiểm-châu đã đã làm một bài thơ châm biếm Khấu Chuẩn. Khấu Chuẩn đau lắm, ông làm thơ để biện luận cho mình như sau : Tặng Ngụy Dã xử sĩ. Nhân văn danh lợi tẩu trần ai, Duy tử cao nhàn hối thịnh tài. Hâm chẳm dạ phong huyên tiết lệ, Bế môn xuân vũ trưởng môi đài. Thi đề viễn tụ kinh niên đắc. Tăng luyến u hiên kế nhật lai, Khước khủng minh quân trưng ẩn dật, Khê vân nan đắc, cận bồi hồi. Dịch. Người đời danh lợi thích bon chen, Duy chỉ ngài đây quả thực nhàn. Ôm gối ngồi nghe thanh gió thổi, Mưa xuân, cửa khép cảnh rêu lan. Hang núi xa xăm thư gửi lại, Tăng nhân yêu thích hiên hoang tàn. Chỉ sợ vua trưng người ở ẩn, Còn đâu mây, suối cảnh xanh lam ! Thế rồi, triều đình tế cáo khắp nơi, nào núi Thái-sơn, nào Khổng-miếu, nào tế Đạo-tổ. Các châu quận cũng tế , dân cũng tế, náo loạn cả nước. Nội dung Thiên-thư nói rằng : Vua Trung-nguyên là thiên-tử được sai xuống cai trị Thiên-hạ. Sắc dân Bắc là Địch, Tây là Nhung, Đông là Di, Nam là Man phải quy phục. Trong sách cũng định rõ cương thổ của Trung-nguyên với bốn vùng Đông, Tây, Nam, Bắc. Sách lại được vua cho người núp trên các nóc đền thờ Tam-hoàng, Ngũ-đế đọc. Dân chúng nghe thấy tưởng đâu trời sai thiên tướng xuống đọc. Họ chép lại rồi lưu truyền. Sau vụ này tinh thần quân, dân Tống hưng khởi lên, giữ được cương giới phía Bắc hơn năm mươi năm. Ghi chú. Bộ sách này Trung-hoa thư cục Bắc-kinh có tái bản nhiều lần, bản mà tôi đọc là bản do Bắc-kinh đệ nhị Tân-hoa ấn chế xưởng in năm 1965. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết đem quân sang đánh Đại-Việt, quân Tống tiến tới sông Như-nguyệt, chỉ còn cách Thăng-long có 25 km. Lý Thường-Kiệt cho làm bài thơ, ngụ ý Thiên-thư đã định ranh giới Hoa-Việt, kẻ nào xâm lăng Đại-Việt là trái với sách trời, ắt phải bại. Sau đó ông sai người núp trong đền thờ chư thần, mà đọc. Binh tướng Tống nghe được, lại tưởng là trời sai thần xuống kể tội, rồi truyền nhau về sự tích Thiên-thư, về trận đánh Hỏa-giáp. Họ thì thầm: Như vậy việc Tống ra quân trái với Thiên-thư, thì trước sau rồi cũng đến chết hết. Đó là một nguyên do đưa đến quân Tống mất hết tinh thần chiến đấu, rồi bị bại. Suốt 920 năm qua, người Việt đọc bài thơ trên thấy câu ”Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư” thì cứ cho thiên thư là danh từ chung để chỉ sách trời do Thường-Kiệt bịa ra; không ai biết rằng đó là danh tự riêng để chỉ bộ sách ra đời vào thời vua Chân-Tông. Vì hệ thống tuyên truyền của Tống triều trải từ thời Chân-Tông qua thời Nhân- Tông, Anh-Tông, bấy giờ là thời Thần-tông, (1076) trên từ vua, đại thần, cho đến dân Trung-hoa đều tin vào Thiên-thư nên Thường-Kiệt mới nhân đó, dùng gậy ông đập lưng ông. Chỉ độc giả Nam-quốc sơn hà mới hiểu rõ ý nghĩa chữ Thiên-thư này mà thôi. Thái-úy Lý Thường-Kiệt là nhân vật tài trí bậc nhất thời Thần-vũ (Lý Thánh-tông) và Anhvũ Chiêu-thắng (Lý Nhân-tông). Ngài là một anh hùng đã lập được huân công vĩ đại cho tộc Việt. Hiện còn nhiều đền thờ ngài. Tôi đã được viếng thăm đền thờ tại xã Ngọ-xá, huyện Vĩnh-lộc, tỉnh Thanh-hóa hai lần. Hiện hầu hết các đền thờ anh hùng dân tộc trong nước đều được dân địa phương trùng tu rất khang trang. Nhưng dân Ngọ-xá quá nghèo, vì vậy đền tiêu điều như hình trên.(Hình chụp tháng 8-2001) Trên giữa cổng chính là ba chữ Lý Đại Vương (chữ Lý ở giữa. Bên phải là chừ Đại, bên trái là chữ Vương. Đôi câu đối cổng chính: Phạt Tống, bình Chiêm vạn cổ danh phương thùy vũ trụ, Hộ dân bảo quốc thiên thu công đức quán sơn hà. (Phạt Tống, bình Chiêm tiếng thơm vạn cổ tràn vũ trụ. Giúp dân, giữ nước, công đức nghìn thu khắp non sông). Hình dưới là cổng phụ bên trái, đôi câu đối là: Anh hùng chí khí sinh dũng tướng, Hào kiệt uy phong hóa phúc thần. (Chí khí anh hùng sinh tướng mạnh, Oai phong hào kiệt hóa phúc thần) Còn cổng bên phải có đôi câu đối: Hách hách uy phong trừ nội nghịch, Đường đường kính khí diệt ngoại xâm. (Uy phong hách hách trừ phản tặc, Khí cứng đường đường diệt ngoại xâm) Tưởng niệm vị đại anh hùng dân tộc, mà không có lối vào nên nét mặt như bị bỏ đói mấy ngày! Hình chụp năm 1994, cổng vào đền thờ của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt tại xã Ngọ-xá, huyện Vĩnh-lộc, tỉnh Thanh-hóa: Cánh cổng không còn. Thuật giả muốn vào thắp hương tưởng niệm vị đại anh hùng dân tộc, mà không có lối vào nên nét mặt như bị bỏ đói mấy ngày! Đền thờ chính Mái ngói lâu ngày đã mục hết. Các đồ thờ bên trong còn mục hơn nữa. Dân xã nghèo quá, ăn không đủ, lấy tiền đâu mà cúng, mà trùng tu Nội dung bộ Nam-quốc sơn hà thuật giai đoạn hùng tráng nhất lịch sử Việt-Nam. Phía Nam, bình Chiêm, sát nhập ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh vào lãnh thổ Đại- Việt. Phía Bắc ba lần đánh Tống. Đây là cuộc Bắc-phạt lừng danh nhất lịch-sử Việt-Nam. Bởi các chiến công khác đều là cuộc kháng chiến giữ nước, còn cuộc đánh Tống này, do Đại-Việt khởi sự, chiến cuộc diễn ra trên đất Trung-nguyên. Tiếp theo, Đại-Việt lại đánh bại cuộc xâm lăng của Tống, trả thù trận Ung, Liêm, Khâm. Chiến công có một không hai trong lịch-sử Đại-Việt này vĩ đại biết là chừng nào, thế nhưng những bộ sử như Đại-Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), Việt-sử lược (VSL), Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), chỉ dành chỗ cho khoảng một trang mà thôi. Trong khi Tống-sử (TS), Tục tư trị thông giám trường biên (TTTTGTB), Ung-châu kỷ sự (UCKS)ï, Tống Thần-tông thực lục (TTTTL), Quách thị Nam-chinh (QTNC), Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ ký (TTCTGCK), Tống triều công thần bi ký (TTCTBK) của Trung-quốc lại chép rất chi tiết tỷ mỉ. Vì sự khác thường ấy, người sau đặt ra những nghi vấn lớn như: 1.1.-Nghi vấn thứ nhất : Người lãnh đạo. Một là, chiến cuộc xẩy ra trong ba năm 1075, 1076, 1077, dưới thời vua Lý Nhân Tông. Bấy giờ vua mới chín tuổi, cho rằng vua thông minh, tài trí đi; thì với cái tuổi đó làm sao có thể quyết định một việc lớn như vậy? Làm sao có đủ khả năng chỉ huy tiếp vận cho một chiến cuộc vĩ đại như vậy? Thế ai là người lãnh đạo Đại-Việt bấy giờ? Ai là người tổ chức tiếp vận? 1.2.- Nghi vấn thứ nhì :Tiểu sử các tướng. Hai là, sử sách đều cho rằng chiến công này của Lý Thường-Kiệt và Tôn Đản. Ngoài ra còn nhắc đến một vài tên nữa như hoàng tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn, đô-đốc Lý Kế-Nguyên, lang tướng Nguyễn Căn. Trong khi truyền-sử lại nói có 18 tướng và 18 phunhân đã chiến đấu oanh liệt, rồi tuẫn quốc. Thế 18 tướng ấy hành trạng ra sao? Huân nghiệp thế nào? Gia phả của họ Lý ở Hùng-xuyên, Đại-hàn cũng có đôi câu đối nói về việc này: Thập bát anh hùng, giai Phù-đổng, Tam thiên nữ kiệt, tỷ Mê-linh. Nghĩa là: Mười tám anh hùng đều là con cháu Phù-Đổng thiên vương, ba nghìn nữ kiệt đều sánh với gái Mê-linh (để chỉ nữ binh thời Trưng-vương). 1.3.- Nghi vấn thứ ba : Tôn Đản là ai ? Ba là, ngay hai tướng lịch sử ghi danh là Tôn Đản, Lý Thường-Kiệt, thì cũng không biết Tôn Đản là ai. Thế tiểu sử ngài ra sao? Sử cũ cho rằng ngài là một tướng nào đó. Lại có những người đưa ra lý luận ngớ ngẩn, nhân thấy âm Tôn Đản với Nùng Tông-Đán hơi giống nhau, thì cho ngay rằng Tôn Đản chính là tên Nùng phản phúc Nùng Tông-Đán đã theo Tống từ lâu. 1.4.- Nghi vấn thứ tư :Ý nghĩa bài thơ đánh Tống. Bốn là, chữ Thiên-thư trong bài thơ trên, người sau không tham khảo kỹ Tống-sử, cho rằng thiên-thư là danh từ chung, Lý Thường-Kiệt dùng như một hiện thể trừu tượng để chỉ ý trời. Nhưng thực ra đó là tên bộ sách làm chủ đạo cho Tống triều mang tên Thiên-thư nghị chế. Lý Thường-Kiệt dùng gậy ông đập lưng ông. Dưới đây tôi xin giải các nghi vấn đó. 2. Về nghi vấn thứ nhất, Người chỉ đạo cuộc chiến là Linh Nhân hoàng thái hậu. Người chỉ đạo, cũng là người nắm vững guồng máy cai trị, bảo đảm an ninh hậu phương, tiếp vận cho tiền tuyến là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Nhưng tại sao sử Việt lại không chép sự kiện này? 2.1. Lý do sử Việt không chỉ rõ, Ta thấy nguyên nhân có ba: 2.1.1. Một là sự nhập cung của bà có hơi khác thường. Vua gặp gỡ giữa đường, đem về phong là Ỷ-Lan phu-nhân. Khác với tất cả cung-phi khác, phải qua nhiều cuộc tuyển chọn phức tạp. Bà nhập cung vượt ra khỏi luật lệ Lý triều, nên chi người sau cho rằng bà chỉ là một cô gái quê tầm thường, nhờ con làm vua, mà trở thành Linh-Nhân hoàng thái hậu, rồi nhiếp chính. 2.1.2. Hai là, sau Linh-Nhân hoàng thái hậu, triều Lý có đến ba bà thái-hậu nhiếp chính rồi lăng loàn, dâm đãng, đưa đến mất nghiệp. Đó là Lê thái hậu vợ vua Thần-tông; Đỗ thái hậu vợ vua Anh-tông và Trần thái hậu vợ vua Huệ-tông. Các Nho gia với quan niệm: Sử là tấm gương cho người sau soi chung, nên không muốn có sự tham dự của đàn bà vào chính sự, mà dân gian gọi là tình trạng gà mái gáy. Vì vậy khi chép sử, các sử gia đã bỏ bà ra ngoài huân nghiệp vĩ đại của Linh-Nhân hoàng thái hậu. 2.2. Trong thực tế, chúng ta thấy chính Linh-Nhân hoàng thái hậu là người lãnh đạo cuộc Bắc phạt. Tôn Đản, Lý Thường-Kiệt chỉ là tướng cầm quân mà thôi. Vì: 2.2.1. Bấy giờ vua Nhân-tông mới chín tuổi, Linh-Nhân hoàng thái hậu nhiếp chính. Nói khác đi là cầm quyền. Bảo rằng nhà vua chỉ đạo, thì không ai có thể chấp nhận. Vì với tuổi đó, dù thông minh chăng nữa, nhà vua cũng không đủ trí khôn, kiến thức để thấu đáo vấn đề; huống hồ đưa ra quyết định lớn lao, táo bạo. 2.2.2. Cuộc Bắc phạt thời Thái-Ninh (1075) với đạo quân hơn mười vạn người ngựa, ít ra cũng phải có 40 vạn dân phu chuyên chở, tiếp tế lương thảo; chi tiêu cực kỳ tốn kém. Tiếp theo là cuộc kháng Tống giữ nước. Những công việc khó khăn đó, đòi hỏi ba điều. Một là nền cai trị vững chắc để có an ninh ở hậu phương. Hai là tiếp vận lương thảo, cực kỳ tốn của, tốn sức người. Ba là bổ xung tổn thất; phi người tài trí, không đương nổi. Vì thế trong bộ Nam-quốc sơn hà tôi sẽ trình bầy rõ: Linh-Nhân hoàng thái hậu đã dùng tới bẩy phụ tá, như một siêu triều đình. Đó là công chúa Thiên-Ninh, Thiên-Thành, Động-Thiên, vương phi Trung-Thành vương là Nguyễn-thị Trinh-Dung, vương phi Tín-Nghĩa vương Lê Ngọc- Nam, phu nhân tướng Nguyễn-Căn là Vũ Thanh-Thảo, phu nhân tướng Bùi Hoàng-Quan là Trần Ngọc-Huệ. Điều này chưa một sử sách Việt nào nói tới. 2.2.3. Cũng có người bảo rằng chính Thái-sư Lý Đạo-Thành đã chủ trương, chỉ đạo cuộc Bắc phạt. Vô lý, bởi ông bị Linh-Nhân hoàng thái hậu đầy vào Thanh-Nghệ, chỉ được ân xá về triều để giúp việc nội trị khi cất quân Bắc phạt. Hơn nữa ông là người chủ hòa, lại ở vào tuổi tám mươi hơn, nên quyết định Bắc phạt không thể là ông; mà phải là Linh-Nhân hoàng thái hậu. 2.2.4. Bảo rằng, quyết định này của Lý Thường-Kiệt ư? Có thể. Bấy giờ Thường- Kiệt lĩnh chức Thái-úy (QTNC nói ông lĩnh chức Đại-tư-mã), nhưng quyết định tối hậu vẫn là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Bởi ngay thời vua Thánh-tông còn tại thế, trong khi bình Chiêm, đã giao quyền cho bà. Không những bà tổ chức cai trị, tiếp vận chu đáo; mà còn tỏ ra xuất sắc hơn nhà vua trong lúc không chiến tranh nữa. 3. Di tích về Linh-Nhân hoàng thái hậu. Vì những huân nghiệp vĩ đại, nên sau khi băng hà, bà được thờ kính khắp nơi. Tôi tạm ghi ở đây những đền hiện nay (1995) vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói, vì ngài rất linh ứng: 3.1. Phú-thị từ (Đền Phú-thị) Ở xã Phú-thị, tiếng nôm là làng Sủi (tên thời Lý là làng Thổ-lỗi hay Thổ-lội, sau đổi ra Siêu-loại), thuộc tổng Kim-sơn, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh cũ, nay thuộc Hà-nội. Tài liệu ghi chép. Bắc-ninh tỉnh thần tích. 3.2. Lý thái hậu từ (Đền Lý Thái-hậu) Ở xã Dương-xá, tổng Dương-quang, huyện Siêu-loại tỉnh Bắc-ninh, sau thuộc tỉnh Hà-Bắc. Nay là xã Dương-xá huyện Gia-lâm, Hà-nội. Tài liệu ghi chép Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. Cổng chính từ ngoài vào Hình chụp năm 1994, tại xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội: một trong 72 ngôi chùa, Linh-Nhân hoàng Thái-hậu (Minh-Đệ) xây để đáp lời hứa với Minh-Không thiền sư. Chùa này nằm trong cùng khuôn viên với đền thờ ngài 3.3. Lý triều đệ tam hoàng thái hậu từ. Ở xã Quang-lệ, huyện Phù-dung, sau là huyện Phù-cừ, tỉnh Hưng-yên, nay là huyện Phù-tiên, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép Đại-Việt địa dư chí, Bắc-thành địa dư chí lục. 3.4. Lý hoàng thái hậu từ. (Đền thờ hoàng thái hậu triều lý). Ở xã Cẩm-cầu, huyện Gia-lộc, tỉnh Hải-dương. Tài liệu ghi chép Bắc-thành địa dư chí lục. Đồng-Khánh địa dư. Đại-Nam nhất thống chí (Hải-dương). 3.5. Hội-châu từ (Đền Hội-châu). Ổ thôn Bản-kỷ, xã Hội-châu, huyên Thanh-quan, nay là huyện Thái-thụy tỉnh Tháibình. Đây là quê ngoại của ngài. Tài liệu ghi chép Thái-bình địa dư-ký. 3.6. Yên-thái từ (đền An-thái). Ở làng Yên-thái, huyện Thọ-xương, nay là số 8, ngõ Tạm-thương, Hà-nội. Tài liệu ghi chép Kim-cổ thôn bi ký. Hà-nội tỉnh thần tích. 3.7. Cẩm-đới đình. Ở làng Cẩm-đới, tổng Bao-trung, huyện Gia-lộc, nay là Tứ-lộc, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép Hải-dương tỉnh thần tích. 3.8. Đồng-thiên quán Một trong bốn quán lớn ở Thăng-long. Hồi sinh thời ngài dựng để thờ Tam-thanh (Ngọc-thanh, Thượng-thanh, Thái-thanh) ở thôn Kim-cổ huyện Thọ-xương. Nay ở số 73 Đường Thành, Hà-nội. Đã bị hủy hoàn toàn, chỉ còn bức tường. Tài liệu ghi chép Bắc-thành địa dư chí lục. Hoàng-Việt địa dư chí. Thăng-long cổ-tích khảo. Long-biên bách nhị vịnh. Đại-việt địa dư chí. 3.9. Đồng-lâm tự (chùa Đồng-lâm) Chùa nằm ở giữa hai thôn Ngọc-trì và Vệ, xã Cổ-linh, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắcninh. Nay thuộc huyện Gia-lâm Hà-nội. Đây là một trong 72 ngôi chùa, mà hồi sinh thời bà cho dựng lên. Tài liệu ghi chép: Lâm-cổ ký. Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. 4. Những cuộc bình Nam, Bắc phạt thời Tiêu-sơn. Thời Lý (1010-1225) các văn gia xưa gọi là thời Tiêu-sơn, vì Tiêu-sơn là ngọn núi phát tích ra triều Lý. Thời nào Đại-Việt ta cũng có những vị anh hùng xả thân cứu nước. Công nghiệp của các ngài, thành cũng nhiều, mà bại cũng lắm. Dù thành, dù bại, sau khi các ngài lìa thế thì hoặc dân chúng, hoặc các triều đại kế tiếp đều lập đền thờ, để tưởng nhớ huâncông. Ngoài chính sử ra, tại đền thờ các ngài, thường có cuốn phổ (còn gọi là ngọc phổ hay ngọc phả) chép hành trạng. Năm 1407, Trương Phụ, Mộc Thạch đã phá hầu hết di-tích, đền-miếu thờ các ngài đã đành, mà còn thu tất cả các cuốn phổ mang về Kim-lăng. Năm 1428, vua Lê Thái-tổ tái lập nền tự-trị, một số di-tích, đền-miếu được trùng-tu, được táitạo. Những cuốn phổ cũng được chép lại theo trí nhớ, thành ra tam sao thất bản, không còn đúng với sự thực. Lại nữa người Việt có tục kiêng húy, nên những di-tích, đền-miếu tuy đã dựng lại, mà đôi khi người sau không còn nhớ được họ, tên các ngài. Thủa nhỏ, tiền nhân giảng dậy cho tôi rất kỹ về huân-nghiệp của các anh hùng năm nghìn năm tộc Việt. Trong đó có lướt qua cuộc đánh Tống, bình Chiêm thời Tiêu-sơn. 4.1. Các cuộc bình Chiêm. Về bình Chiêm có ba lần. 4.1.1. Lần thứ nhất. Vào thời vua Thái-tổ (1020), người cầm quân là Khai-Thiên vương (sau là vua Thái-tông) với Đào Thạc-Phụ. Mục đích cuộc hành quân chỉ để trừng phạt Chiêm vào cướp phá Nam biên Đại-Việt. 4.1.2. Lần thứ nhì, Do Khai-Quốc vương lãnh-đạo (1044), vua Thái-tông thân chinh, Tôn Đản tổng chỉ huy. Cuộc hành quân này có mục đích phá chủ lực quân Chiêm, vì bấy giờ Chiêm liên kết với Tống, dự trù đánh vào Nam thùy, khi Tống tiến quân vào Bắc-cương. Kết qủa, vua Chiêm là Sạ-Dẩu bị giết tại trận, ta còn bắt cả hoàng hậu Mỵ-Ê mang về. Hai chiến công này đã thuật sơ trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt. 4.1.3. Lần thứ ba (1069) Do vua Thánh-tông thân chinh, Lý Thường-Kiệt tổng chỉ-huy, Tôn Đản làm quân sư. Cuộc hành quân này có hai mục đích; một là phá thế liên minh Tống, Chiêm dự xâm lăng Đại-Việt; hai là chiếm vùng đất Chiêm có nhiều Việt kiều sinh sống. Kết quả, vua Chiêm là Chế-Củ bị bắt cùng với năm vạn quân. Chế-Củ dâng ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh để được ân xá. Cuộc hành quân này được thuật tỷ mỉ trong bộ Nam-quốc sơn-hà. 4.2. Các cuộc phạt Tống. Về việc đánh Tống có sáu lần, thì trong đó có năm lần đánh sang lãnh thổ Trungquốc và một lần kháng chiến chống xâm-lăng. 4.2.1. Lần thứ nhất, Do vua Lý Thái-tổ ban chỉ, Khai-Thiên vương tổng chỉ huy, đánh sang trại Nhưhồng của Tống, để trừng phạt quân Tống tại đây thường vượt biên sang Đại-Việt cướp bóc. Toàn thắng. Cuộc chiến tranh có tính cách trừng phạt một khê-động. 4.2.2. Lần thứ nhì , Do Khai-Quốc vương lãnh đạo, tổng chỉ huy là công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa và phò-mã Thân Thừa-Quý. Mục đích chiếm lại mấy châu động đã mất về Tống, do các biên thần Tống chủ trương. Toàn thắng. Cuộc chiến có tính cách tự vệ, dằn mặt các biên thần Quảng-Tây. Tống triều không chủ trương. 4.2.3. Lần thứ ba, Dưới thời vua Thái-tông, do Khai-Quốc vương lãnh đạo (1053), mục đích chiếm lại lãnh thổ thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng, bị người Hán chiếm mất, rồi đẩy dân Việt về sống ở vùng Bắc-cương thành 207 trang-động. Cuộc khởi binh thành công, đưa Nùng Trí-Cao lên làm vua, lấy lãnh thổ vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, Quý-châu lập thành nước Đại-Nam. Cuộc ra quân này, đã thuật chi tiết trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt. Lúc đầu thắng, sau bị bại. Cuộc chiến tranh có tính cách toàn diện. Đại-Việt không ra mặt khai chiến với Tống. Tống biết, nhưng không dám trả thù. 4.2.4. Lần thứ tư, Cũng do Khai-Quốc vương lãnh đạo, diễn ra dưới thời vua Thánh-tông. Người tổng chỉ huy là công-chúa Bình-Dương với phò mã Thân Thiệu-Thái (1059-1060). Mục đích cuộc Bắc phạt này là chiếm lại một số trang động do các bộ tộc thiểu số tự trị; bị Tống lấn chiếm, hoặc chiêu dụ phản Việt theo Tống. Sau khi chiếm lại các trang đã mất, trả đất cho các tộc bị mất, quân Việt tiến sâu vào vùng Tả-giang, Hữu-giang, chiếm hơn mười ải, giết nhiều tướng Tống. Tống cực kỳ phẫn uất, nhiều đại thần khuyên vua Tống Nhân-tông đem quân sang đánh Đại-Việt để trừng phạt; nhân đó chiếm nước đặt làm quận huyện. Ngặt vì bấy giờ phía Tây, Tống đang mắc họa với Hạ, phía Bắc thì Liêu chiếm đất, đòi cống vàng lụa; vả vua Tống cũng sợ binh hùng tướng mạnh của Đại-Việt, nên bàn hòa. Công-chúa Bình-Dương đòi nhiều điều kiện khắt khe mới chịu rút quân. Tống cũng phải nhượng. Thắng toàn diện. Chiến công oanh liệt trên thuật trong bộ Nam-quốc sơn-hà. Đến đây chiến cuộc leo thang. Đại-Việt ra mặt khai chiến với Tống, nhưng để cho công chúa Bình- Dương, phò-mã Thân Thiệu-Thái làm. 4.2.5. Lần thứ năm, Diễn ra dưới thời vua Nhân-tông vào năm 1075, bấy giờ vua mới chín tuổi, Linh- Nhân hoàng thái hậu phụ chính. Vua còn thơ, chư sự lớn nhỏ đều do Linh-Nhân hoàng thái hậu quyết định. Nguyên do: Vua Tống Thần-tông dùng những cải cách về kinh-tế, nôngnghiệp, binh-bị, tài-chánh của Vương An-Thạch từ năm 1066, đã được chín năm, khiến binh lực trở thành hùng hậu, quốc-sản sung túc. Nhà vua muốn nhân đó tiến quân lên Bắc đánh Liêu, chiếm lại đất cũ, để rửa nhục. Nhưng Vương An-Thạch lại khuyên nên đánh Đại-Việt trước. Sau khi bại Đại-Việt, thì Chiêm-thành, Chân-lạp, Ai-lao, Xiêm-la, Đại-lý phải quy hàng. Bấy giờ dùng nhân lực, tài lực sáu nước, đem lên Bắc, thì thắng Liêu dễ dàng. Vua nghe theo, bí mật cho các châu Nam biên luyện binh, tích trữ lương thảo. Cuộc chuẩn bị được ba năm, thì bị Đại-Việt biết được. Linh-Nhân hoàng thái hậu quyết định: Ngồi yên đợi giặc, sao bằng mình ra tay trước. Mục đích cuộc hành quân là phá hết các kho lương thảo, vũ khí, thành trì, cầu cống, diệt các đạo quân mới huấn luyện của Nam thùy Tống. Thế là cuộc Bắc phạt nổ ra vào cuối năm 1075. Quân Việt tiến đánh 18 ải dọc biên thùy Tống, rồi công phá các châu Khâm, Liêm, Ung, Dung, Nghi, Bạch, cùng diệt viện quân ở núi Đại-giáp. Nhiệm vụ chu toàn rồi, quân Việt rút về. Thắng toàn diện. Đến đây Đại-Việt ra mặt khai chiến với Tống. Cả hai bên cùng đem toàn lực ra đối phó với nhau. 4.3. Kết qủa cuộc Bắc phạt vĩ đại, Cuộc ra quân của Việt lần này quá lớn lao, phá nát kế hoạch cải cách của Tống ở Giang-Nam. Quá uất hận, Tống chịu nhục; nhường Hạ ở phía Tây, cắt đất dâng cho Liêu ở phương Bắc... để cho rảnh tay, rồi họ mang quân nghiêng nước sang định chiếm Đại-Việt đặt làm quận huyện (1076-1077). Nhưng Tống lại bị thất bại phải rút quân về, và chịu hòa. Người có hùng tâm, tráng-chí, lãnh đạo là một thiếu phụ ở tuổi ba mươi, đó là Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan). Còn người Tổng chỉ huy cuộc vượt biên Bắc phạt là Lý Thường- Kiệt, Tôn Đản, Lý Hoằng-Chân, Lý Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên. Nội dung bộ Nam-quốc sơn hà thuật cuộc Bắc phạt, cùng kháng Tống trên. 4.4. Rung chuyển Trung-nguyên, Sau cuộc Bắc phạt, và giữa lúc cuộc kháng Tống của Đại-Việt, chiến cuộc đang diễn ra cực kỳ khốc liệt (1076), Vương An-Thạch bị cách chức Tể-tướng, giáng xuống tri Giang-ninh phủ lĩnh Trấn-Nam quân tiết độ sứ, Đồng-bình chương-sự. Lúc Vương độ giang, bị một nhân sĩ bắt con sâu bỏ lên xe rồi làm bài thơ mỉa mai như sau: Thanh-miêu, trợ-dịch lưỡng phương nông, Thiên hạ ngao ngao oán tướng công. Độc hữu hoàng trùng thiên cảm đức, Hữu tùy xa giá, quá Giang-Đông. Dịch : Thanh-miêu trợ dịch hại canh nông, Thiên hạ nhao nhao oán tướng công. Chỉ có sâu vàng theo tiễn biệt, Cùng trên xa giá, quá Giang-Đông. Có người ví cái thất bại của Vương An-Thạch cũng đau đớn như cái thất bại của Hạng Võ xưa, khuyên Thạch nên tự tử: Khi Hạng-Vương mưu đuổi hươu ở Trung-nguyên, bị thất bại, lui về Nam; lúc qua sông này tự cảm thấy xấu hổ, đã tự tử, mà hậu thế kính phục. Tôi khuyên ông cũng nên tự tử để lưu danh muôn thủa. Nhưng Thạch không đủ can đảm. Tiếc thay, một cuộc cải cách về kinh-tế, binh-bị, tài-chánh, xã-hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ; bị tan vỡ, bị hủy bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại-Việt của Vương An-Thạch. Mà đau đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung-quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung-quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song, e rằng muôn đời mặt trời vẫn ở phương Đông, chứ không ngả về Tây như hồi thế kỷ thứ 18 cho đến nay và bao giờ..???...??? 5. Tìm những danh tướng thời Tiêu-sơn. 5.1. Đi tìm anh hùng nghìn năm trước. Chủ trương Bắc-phạt là của Linh-Nhân hoàng thái hậu. Tướng cầm quân là Thường-Kiệt, Tôn Đản. Thế nhưng không phải chỉ hai tướng ấy mà tạo ra chiến công lừng lẫy như vậy! Phải có thêm nhiều người. Sử nhắc đến Lý Hoằng-Chân, Lý Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên, Nguyễn-Căn. Nhưng vào cái thời đó, cứ một người ra trận, thì phải năm người tiếp vận; ấy là không kể bộ máy kinh-tế, tài-chánh, cai trị để cung cấp nhu cầu cho binh tướng. Vậy những nhân vật nào đã làm bằng ấy công tác? 5.1.1. Tìm trong nhà. Khi tiền nhân giảng về giai đoạn lịch sử này cho tôi, các người thường than thở rằng: Tương truyền bấy có sáu vị nữ quan, phụ trách sáu bộ, cạnh Linh-Nhân hoàng thái hậu như một siêu chính phủ. Thế mà nay sử sách không lưu truyền sáu bà ấy là những bà nào. Lại nữa, trong cuộc đánh Tống, Việt có mười tám tướng, cùng mười tám phu nhân cũng là mười tám nữ tướng; mà mười hai vị xuất thân cùng khổ; tất cả đều tuẫn quốc trong trận kháng Tống, nhưng tiếc thay tiểu sử lại rất mơ hồ. Nếu nói quá đi, gần như không còn. Lúc lớn lên, tôi có tìm đọc những sách do Quốc-sử quán triều Nguyễn soạn để tìm hiểu thêm. Về sử như Đại-Nam thực lục tiền biên, Đại-Nam thực lục chính biên. Về chí như Đại-Nam nhất thống chí, Đại-Nam quận huyện phong thổ vật lược chí, các bộ Địaphương chí, Phủ-huyện chí, Truyện ký, Thần-tích, Ngọc-phả. Nhưng cũng không tìm ra được chút ánh sáng nào. 5.1.2. Tìm ở nước người. Cho đến khi ra trường (1964) có chỗ đứng trong xã hội về tài chính, có phương tiện, tôi đã lần mua đọc các bộ sách của Trung-quốc. Từ những bộ lớn như: Tục tư trị thông giám trường biên, Tống Thần-tông thực lục, Tống-sử v.v. tới những bộ nhỏ như Ung-châu kỷ-sự, Hy-Ninh cảo lục. Nhưng cũng không tìm ra được gì hơn. Phải chờ đến giai đoạn 1977-1995, nhờ đi trong phái đoàn trao đổi y-học Pháp-Hoa (CMFC), Liên-hiệp các viện bào chế châu Aâu (CEP), viện Pháp-Á (IFA) tôi có dịp lần mò vào những thư viện, bảo tàng địa phương Trung-quốc. - Nào thư-viện, bảo-tàng cao nhất của cấp tỉnh, nào thư viện đại học Văn-sử, nào thư viện đại học Sư-phạm... cho tới thư-viện cấp huyện của các tỉnh Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-châu, Hồ-Nam. - Tôi đã đi Nam-ninh (Ung-châu) lên núi Đại-giáp, Hỏa-giáp, suối Ngọc-tuyền; tới Khâmchâu, Liêm-châu để quan sát địa hình chiến trường thời Tống-Lý. - Nhờ các cuốn địa-phương chí, nhân vật chí, địa dư chí từ đời Minh, đời Thanh còn lưu truyền; tôi tìm ra đền thờ các tướng Tống tử trận trong chiến tranh Tống-Lý, được lập đền thờ. Trong các chí đó, có nói đến nhiều danh tướng Việt. - Tôi cũng lần mò đọc các tấm bia ở ngoại ô Nam-ninh trên gò chôn tập thể dân quân Tống chết trong trận Ung-châu. Tại núi Đại-giáp, tôi được thăm lăng mộ, đền thờ, đọc bia ký của năm tướng Trương Thủ-Tiết, Hứa Dự, Ôn Nguyên-Dụ, Trương Biện, Vương Trấn. Các tướng này tử trận khi mang quân cứu viện thành Ung. Trong các bia, phổ, gia phả của năm tướng, thuật rất chi tiết về chiến cuộc Côn-lôn, Đại-giáp, và nhắc đến tên nhiều tướng Đại-Việt. Cảm động nhất là trong khi viếng đền, tôi được gặp hậu dụệ chư tướng ấy đang họp nhau, quyên góp tiền trùng tu đền. Họ đem sổ vàng ra, khiến tôi không biết phải hành-xử như thế nào? Bởi cúng, thì tôi còn mặt mũi nào để đến quỳ gối tại đền thờ Linh- Nhân hoàng thái hậu? Công chúa Thiên-Ninh, và 18 anh-hùng tuẫn quốc thời Thái-Ninh! Mà chối thì hóa ra người hẹp hòi, gây khó khăn khi mượn gia phải của chư tướng Tống để tìm tài liệu lịch sử! Cuối cùng tôi đành để người bạn gái người Hoa là danh ca Chu Cẩm- Hồ cúng một số tiền nhỏ (500 $ US, dĩ nhiên tiền đó của tôi), gọi là tưởng nhớ những người trung-nghĩa mà bỏ mình. - Tại một số thư viện khác, tôi đã tìm ra không biết biết bao tài liệu quý báu. Tài liệu quý nhất là bộ Tống triều công thần bi ký nội dung chép văn bia, mộ chí của hầu hết những nhân vật văn võ thời Tống liên quan đến Đại-Việt. Nhờ nội dung văn-bia, tôi biết thêm nhiều chi tiết lịch-sử, mà trong các bộ sử lớn, nhỏ không chép. 5.1.3. Tìm di tích bằng y-khoa. Xin mở cái ngoặc ở đây: Khi chúng tôi sang Trung-quốc công tác cho CMFC thường có hai phái đoàn, một phái « trao tức giảng dạy cho người, một phải đoàn « đổi tức học của người. Lúc đầu tôi đi trong các phái đoàn với tư cách thông dịch viên, sau kiêm thêm liên lạc tổ chức, rồi dần dần (sống lâu lên lão làng) tôi làm trưởng phái đoàn cho đến nay (1995). Vì dịch riết rồi những vấn đề dịch nhập tâm, lĩnh hội được, nên tôi thu thái rất nhiều khi « trao. Như trước 1978 tôi chỉ có một số kiến thức khiêm tốn về giải phẫu chỉnh hình (orthopédie), nhất là giải-phẫu thẩm mỹ như lột da, căng da, cắt mắt, nâng cao mũi, lấy mỡ bụng, làm môi trái đào, sửa ngực. Đến năm 1981 tôi nghiễm nhiên trở thành phụ giảng khi trao, và từ năm 1986, tôi là một trong những giảng viên về các món lỉnh kỉnh này. Tôi nghĩ: Xưa Lã Bất-Bi buôn vua, thì nay tôi cũng buôn y-học. Tôi dùng khả năng y-học thẩm mỹ để làm quen với quý bà. Ở cái xã hội nào cũng thế, các bà đều thích đẹp, và cồng bà bao giờ cũng mạnh hơn lệnh ông. Lệ không thành văn của phái đoàn trao đổi y-học là: Ngoài công tác chính tại các đại-học, bệnh viện, các giáo-sư có quyền điều trị cho dân chúng, nhưng không được nhận thù lao. Dùng cái võ công lột da mặt, cắt mắt, làm môi trái đào, lấy mỡ bụng, nâng cao mũi, tôi đã thành con mọt sách lớn, lọt vào được những tủ sách gia đình, địa phương của nhiều tộc mà tôi muốn. Tôi đã làm quen, đã tìm lại được giòng dõi các quan lại, các tướng liên hệ đến việc sang đánh Đại-Việt của Tống, rồi xin đọc gia phả Tổ tiên anh hùng của họ. Tôi đã được đọc gia phả chép về Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh, Tiêu Chú, Oân Cảo, Tiêu Cố, Lý Sư-Trung, Vương An-Thạch, Thẩm Khởi, Lưu Di, Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ, Diêu Tự, Lý Hạo, Trương Chi-Giám, Dương Vạn, Lôi Tự-Văn, Lữ Chân, Lý Hiếu- Tôn, Trương Thế-Cự, Địch Tường, Khúc Chẩn, Quản Vi, Vương Mẫn. 5.1.4. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ. May mắn nhất là năm 1985, nhờ làm đẹp cho mấy phu nhân của những sĩ quan cao cấp của Bộ Tư-lệnh hai Quân-khu tiếp giáp với Việt-Nam và của Bộ Chỉ-huy Quân-sự hai tỉnh Quảng-Tây, Quảng-Đông tôi đã được vào thư viện của bộ Tư-lệnh hai quân khu có chung biên giới vơí Việt-Nam. Mặc dầu bấy giờ cách thư viện tôi ngồi không bao xa, giữa quân đội Trung-Quốc, Việt-Nam đang nã đại pháo vào nhau; mặc dù các sĩ quan Trungquốc đều biết tôi là Tây gốc Việt. Nhưng họ cũng biết rằng tôi là tên thầy thuốc dốt chính trị nhất thế giới, khù-khờ lẩm cẩm nhất thế giới. Vì vậy họ cho tôi đọc thả dàn, đọc sướng con mắt; đọc đến phải mang bánh bao, vịt quay vào thư viện vừa ăn, vừa đọc! Nhưng họ không cho tôi mang máy vào, sợ tôi scaner Ngồi bên kho tài liệu, tôi cảm thấy kinh hoàng vô cùng, vì Trung-Quốc bảo tồn được tất cả những tài liệu liên quan đến ngoại-giao, quân-sự giữa hai nước để các sĩ quan tham khảo thiết kế hành quân. - Cổ nhất là cuộc đánh sang Việt thời Tống Thái-tông của Hầu Nhân-Bảo, Tôn Toàn-Hưng, Quách Quân-Biện, Triệu Phụng-Huân (981); - Ba cuộc tiến quân thời Lý Bắc-phạt (1053, 1059, 1075), - Cuộc Nam xâm thời Tống Thần-tông (1076-1077); - Ba lần (1257, 1285, 1288) Mông-cổ đánh Đại-Việt, - Cuộc xâm lăng của Trương Phụ (1407)... cuối cùng là cuộc hành quân chưa xong của Bắc-kinh dạy Việt-Nam bài học, mà chúng tôi thường đùa rằng đó là cuộc tiến quân môi cắn răng 1978; vẫn chưa dứt. Trong thư viện ấy, tôi tìm được hai bộ sách chưa xuất bản, in bản thạch, rồi photocopie. Đó là hai bộ nhật ký hành quân của Quách Quỳ tên Quách-thị Nam chinh (QTNC), của Triệu Tiết mang tên Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký (TTCTGCK); là hai tướng tổng chỉ huy cuộc đánh Đại-Việt thời Lý (1076-1077). Hai bộ sách do chính Quách Quỳ, Triệu Tiết chép, sau này con cháu họ có tu bổ. Vào niên hiệu Thiệu-Hưng thứ tư (1134); cháu bốn đời Quách Quỳ là Quách Gia; cháu năm đời Triệu Tiết là Triệu Dụng có dâng lên vua Tống Cao-Tông để xin minh oan, cùng phục hồi danh dự cho tổ tiên mình. Bấy giờ Lý Hồi mới được giữ chức Đoan-minh điện đại-học sĩ, quyền tri tam tỉnh, Khu-mật viện-sự tức Tể-tướng toàn quyền. Ông này sợ Quách Gia, Triệu Dụng được trọng dụng; nên bài bác các đoạn nói về sức mạnh, về tổ chức quân đội, cùng tiểu chuyện các tướng Đại-Việt thời Thái-Ninh, Anh-vũ chiêu-thắng (1072-1084), và cho rằng đó là những điều bịa đặt. Tuy vậy trong hai tập sách trên có ghi chép đầy đủ hình thể núi sông, phong tục, tiểu-sử công thần, tổ chức hành chánh, quân sự Đại-Việt, nên nhà vua vẫn sai trao chu Khu-mật viện cất để làm tài liệu. 5.2. Anh hùng nước tôi còn đó. Sau khi kiểm lại các bộ gia-phả, địa-phương chí, địa dư chí, nhân vật chí, bia đá, mộ chí cùng đọc kỹ hai bộ trên. Tôi đã giải được gần như trọn vẹn những nghi-vấn về lịch sử do tiền nhân tôi để lại. Tôi tin đến tuyệt đối, vì những điều trong sử Việt, Hoa bỏ qua không ghi như: 5.2.1. Bà chúa kho, Sử Hoa-Việt nói đến công-chúa Thiên-Thành hạ giá với phò-mã Thân Cảnh-Long; có nói đến công-chúa Động-Thiên, còn công chúa Thiên-Ninh thì không hề nói tới. Trong thực tế, đền thờ công-chúa Thiên-Ninh (Bà chúa kho) rất lớn, mà dân miền Bắc ai cũng biết; nhất là dân Hà-nội, cứ vào đầu Xuân, lũ lượt kéo nhau đến đền thờ bà xin... vay tiền. Trong hai bộ QTCN và TTCTGCK chép rất chi tiết tiểu sử của bà, chép rõ đền thờ tại đâu, xây cất năm nào nữa. Trên: Cổng ngoài, cổng trong. Dưới: Chính điện thờ Công-chúa Thiên Ninh (Bà chúa kho) ở Thị-cầu, Bắc Ninh. 5.2.2. Hoàng tử Hoằng Chân, Chiêu Văn, Sử Hoa-Việt chép vài giòng về hoàng-tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn tử trận Kháotúc, không chép hai ngài giữ chức gì, tiểu sử ra sao? Hai bộ QTCN và TTCTGCK chép rất chi tiết rằng hai vị là con của Khai-Quốc vương và quốc-mẫu Thanh-Mai. Tước phong của Hoằng-Chân là Trung-Thành vương và Chiêu-Văn là Tín-Nghĩa vương. 5.2.3. Sáu nữ tướng thời Anh-vũ Chiêu-thắng. Sử không chép về phu nhân của các tướng. Trong khi đó hai bộ trên chép rất chi tiết: Sáu nữ phụ tá của Linh-Nhân hoàng thái hậu, như một siêu chính phủ bấy giờ gồm: - Phụ-tá về Binh-bộ là công chúa Thiên-Thành; - Phụ-tá về Hộ-bộ là công chúa Thiên-Ninh; - Phụ tá về Hình-bộ là công-chúa Động-Thiên; - Phụ-tá về Lễ-bộ là bà Trần Ngọc-Huệ phu-nhân của tướng Bùi Hoàng-Quan; - Phụ-tá về Công-bộ là bà Vũ Thanh-Thảo, phu nhân của tướng Nguyễn Căn; - Phụ-tá về Lại-bộ là bà Lê Ngọc-Nam, vương-phi của Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn; - Phụ tá về Khu-mật viện là bà Nguyễn-thị Trinh-Dung, vương phi của Trung- Thành vương Lý Hoằng-Chân. 5.2.3. Quan sát y phục, biết danh tính, Khi hành hương đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu ở xã Dương-xá, huyện Gia-lâm Hànội, tôi thấy tượng Thái-hậu ngồi chính giữa, mỗi bên có ba tượng của ba bà, mà bà thủ từ chỉ biết tên có một bà tên Nguyễn-thị Trinh-Dung. Như vậy rõ ràng hai bộ QTNC và TTCTGCK đã chép chi tiết, chép đúng với chính sử. Từ trái sang phải: 1. Ninh-đức, Trang-duệ, Hiếu-khang công chúa nhũ danh Lê Ngọc-Nam. 2. Công-chúa Động-Thiên. 3. Hòa-huệ, Ninh-tĩnh, Ôn-văn công chúa Vũ Thanh-Thảo Từ trái sang phải: 4. Công-chúa Thiên-Thành, 5. Công chúa Động-Thiên, 6. Công chúa Nguyễn-thị Trinh-Dung. Ghi chú. Giữ đền này (1994) có tới bốn người, tôi không nhớ tên. Tôi chỉ nhớ được hai người. - Một người to lớn tự giới thiệu đã ớ trong ngành Công-an ba mươi năm, nay được cử về đây để bài trừ tín ngưỡng dị đoan. Theo lời ông thì: Vua Tống là Vương An-Thạch đem quân sang đánh VN !!! Tôi có nhắc: Không phải đâu, các vua Tống đều họ Triệu; hồi đem quân đánh Việt-Nam thời Linh-Nhân hoàng thái hậu là Tống Thần-tông. Vương An- Thạch chỉ là tể tướng, một tể tướng rất yếu. Nhưng ông này vẫn không chịu. Tôi biết ông là một thứ « ông bình vôi, nên cười, rồi cáo từ. - Một người nữa là một bà lớn tuổi phụ trách thắp hương, dâng lễ, tôi tạm gọi là bà thủ-từ. Tôi có cúng một số tiền nhỏ (200 USD) dùng tu bổ đền. 5.2.4. Chi tiết cuộc Bắc phạt, Sử Tống, Việt chép về việc Lý đánh các châu Khâm, Liêm, Ung, Nghi, Dung, Bạch của Tống rất sơ sài, vỏn vẹn có mấy trang. Trong khi hai bộ trên chép rất kỹ, rất chi tiết về trận đánh 18 ải biên giới; trận đánh Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu; trận đánh viện binh ở Côn-lôn, ở Đại-giáp. 5.3. Hành trạng các tướng, Về chư tướng, sử Việt, Hoa chỉ thấy nói đến Lý Thường-Kiệt, Tôn-Đản và vài giòng về Hoằng-Chân, Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên, Nguyễn Căn. Người sau muốn biết thêm thì không tìm ra đến một chút chi tiết nhỏ. Thế nhưng tương truyền bấy giờ Việt có 18 tướng trí dũng tuyệt vời, và các phu nhân cũng theo quân giữ nước. Khi 18 tướng tuẫn quốc, các phu nhân cũng tuẫn quốc một lúc. Sau chiến tranh, triều đình lao tưởng, cho lập đền thờ. Vậy thì 18 tướng ấy là ai? Đền thờ ở đâu? Không ai biết. Nhưng trong hai bộ QTNC và TTCTGCK lại chép rất chi tiết về xuất thân của 18 tướng, 18 phu nhân cùng huân công đánh Chiêm, đánh sang Ung, Khâm, Liêm của các ngài; rồi (Quách Quỳ, Triệu Tiết) khoe rằng họ giết được các ngài trong trường hợp nào, đền thờ tại đâu. 6. Thập bát anh hùng giai Phù-Đổng. Căn cứ vào QTNC, TTCTGCK chép, tôi đã tìm ra một điều thú vị vô cùng tận, rồi bật lên tiếng than: Hỡi ơi! Những đền thờ các ngài vẫn còn đó. Huân nghiệp các ngài có chép trong rất nhiều các sách sử Việt-Nam của Quốc-sử quán triều Nguyễn như Đại-Nam nhất thống chí, Bắc thành địa dư chí, hay những cuốn phổ. Nhưng vì tam sao, thất bản đến nỗi chỉ biết đền thờ rất sơ lược, mà không biết rõ tên tuổi sự nghiệp ra sao. Căn cứ vào hai bộ sách trên, tôi đối chiếu với sách Việt, tìm lại rất đầy đủ tên họ, quê quán, huân nghiệp và chỉ rõ đền thờ hiện còn hay mất, ở đâu. Dưới đây là những danh tướng, sử ghi tên, nhưng không đầy đủ, nhất là bỏ sót tên các nữ anh hùng. 6.1. Lý Hoằng-Chân, Chức tước như sau: - Kiểm-hiệu thái-sư, Thượng trụ quốc, Thượng-thư lệnh kiêm trung-thư lệnh, Thăng-long tiết độ-sứ, Tả kim-ngô đại tướng quân, quản Khu-mật viện, Trung-Thành vương. - Vương phi là Nguyễn-thị Trinh-Dung, tước phong Minh-đức, thạc-hòa, chí nhu công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Kháo-túc. Tượng thờ vương phi Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân, nhũ danh Nguyễn-thị Trinh- Dung. Tước phong của ngài là Minh-đức, Thạc-hòa, Chí-nhu công chúa.Hình chụp tại đền thờ Linh-nhân hoàng Thái-hậu ở xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội. 6.2. Lý Chiêu-Văn, Chức tước như sau: - Kiểm-hiệu thái-phó, khai-phủ nghị đồng tam tư, Võ-minh quân tiết độ-sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Phụ-quốc đại tướng quân, Khu-mật viện sứ, Tín-Nghĩa vương. - Vương-phi Lê Ngọc-Nam tước phong Ninh-đức, Trang-duệ, hiếu khang công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Kháo-túc. 6.3. Bùi Hoàng-Quan, Chức tước như sau: - Thái-tử thiếu-bảo, Phiêu-kị đại tướng quân, Khu-mật viện sứ, Binh-bộ tham-tri, Gia-viễn hầu. - Phu nhân là Trần Ngọc-Huệ tước phong Nhu-mẫn, đoan-duệ, anh-văn công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Vĩnh-an (Ngọc-sơn). Tượng thờ Nhu-mẫn, đoan-duệ, anh-văn công chúa Trần Ngọc-Huệ 6.4. Dư Phi, Chức tước như sau: - Thái-tử thiếu-sư, Vũ-dực đại-tướng quân, đồng-tri Khu-mật viện, Nam-sơn hầu. Tuẫn quốc trận Đâu-đỉnh (Bắc-sơn). 6.5. Nguyễn Căn, Chức tước như sau: - Quang-lộc đại phu, Trấn-Bắc thượng tướng quân, Tản-viên hầu. - Phu-nhân là Vũ Thanh-Thảo, tước phong Hoà huệ, ninh tĩnh, ôn văn công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc tại chiến lũy Như-nguyệt. Tượng thờ vương phi của Nhân-võ, Hùng-huân, Trấn-Bắc đại vương Nguyễn Căn, nhũ danh 6.6. Phò-mã Hoàng Kiện, Chức tước như sau: - Phụ-quốc thái-úy, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Binh-bộ thượng thư, Kinh-Bắc tiết độ sứ, Uy-viễn đại học sĩ, Khu-mật viện sứ, Sơn-Nam quốc-công. - Vương-phi là công chúa Động-Thiên, con vua Thánh-tông. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Phú-lương. 7. Anh linh thánh Gióng. Trên đã thuật về mười một vị có cấp bộ cao nhất tử trận. Kế tiếp là hai mươi bốn vị ở cấp trung, nhưng chết rất oai hùng. Đó là: Long-biên ngũ hùng và Tây-hồ thất kiệt, gồm mười hai vị, cộng mười hai phu nhân là hai mươi bốn vị. Long-biên ngũ hùng có tên Phạm Dật, Vũ-Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Tây-hồ thất kiệt có tên Trần Di, Dương Minh, Triệu Thu, Mai Cầm, Quách Y, Ngô Ức, Tạ Duy. Sáu tướng, năm phu nhân trên trong sử có nói đên, tôi không cần nhắc lại nữa. Ở đây tôi xin chép tiểu chuyện của 12 tướng có xuất thân rất đặc biệt: Ăn mày, ăn trộm, móc túi, thế rồi nhờ lòng yêu nước mà trở thành anh hùng. Mười hai tướng đó, được vua Lý Thánh-tông phong cho mỹ hiệu là Long-biên ngũ hùng và Tây-hồ thất kiệt. 7.1. Long-biên ngũ hùng. Long-biên ngũ hùng là năm đại tướng quân thời vua Lý Thánh-tông, Lý Nhân-tông. Năm vị có tên là Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Long-biên ngũ hùng đều xuất thân từ chùa Từ-quang ở làng Thổ-lội, huyện Gialâm, lộ Kinh-Bắc, ngày nay là xã Phú-thị, huyện Gia-lâm, Hà-nội. Năm vị đều là con mồ côi, được sư Viên-Chiếu đem về nuôi dạy. Cả năm đều chịu nhiều thăng trầm thời thơ ấu với Linh-Nhân hoàng thái hậu (Tức Ỷ-Lan thần phi nhũ danh Yến-Loan); được bà nhận làm em nuôi. Sau cả năm được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Năm vị học văn, luyện võ đều thành. Năm vị thu nhận một số thiếu niên đồng tuổi, rồi luyện võ, dạy bắn cung cho họ, lập thành đội Thần-tiễn Long-biên khoảng 500 người. Mỗi tráng sĩ trong đội Thần-tiễn đều có thể bắn trúng chim đang bay. Vua Thánh-tông ban cho năm vị mỹ hiệu là Longbiên ngũ hùng. Năm 1069, Long-biên ngũ hùng mang đội Thần-tiễn tùng chinh đánh Chiêm, được đặt dưới quyền chỉ-huy của Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương có hai thiếu nữ Việt-kiều tên Lê Kim-Loan, Võ Kim- Liên cảm tài đức, kết bạn với năm ngài, xin theo trong quân làm thông dịch và dẫn đạo. Kim-Loan kết bạn thanh mai trúc nhã với Phạm Dật; Kim-Liên với Vũ Quang. Sau chiến thắng Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Long-biên ngũ hùng được lệnh trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn ở mặt trận Nam-giới. Trong trận đánh Bố-chánh, năm ngài gặp thêm hai thiếu nữ Việt-kiều tên Trần Ngọc-Liên, Trần Ngọc- Hương kết bạn, xin theo trong quân làm thông dịch viên và dẫn đường. Ngọc-Liên kết bạn thanh mai trúc nhã với Lý Đoan; Ngọc-Hương với Trần Ninh. Riêng Đinh Hoàng-Nghi gặp một thiếu nữ Chàm là tù nhân, tên Câu-thi Lị-ha-thân Bài-ma-la Nang Chang-Lan (Sri Varman Nangchanglan). Suốt trận chiến, Long-biên ngũ hùng cùng bốn người bạn gái lập đại công trong trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Ma-linh, Địa-lý, Nam-giới, Nhậtlệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Chiến thắng trở về, Ỷ-Lan thần-phi làm lễ cưới cho Long-biên tứ hùng với bốn thiếu nữ. Riêng Đinh Hoàng-Nghi với thiếu nữ Chàm, vì kẻ Việt người Chàm, rồi có chuyện hiểu lầm sinh duyên tình trắc trở, Chang-Lan bỏ đi tu, khiến ngài ôm mối hận tình suốt đời. Ngài được Ỷ-Lan thần phi hỏi một thiếu nữ văn võ kiêm toàn, nhan sắc diễm lệ con gái đô-đốc Trầm Lâm tên Trần Phương-Quỳnh cho. Khi phong công thần bình Chiêm, Long-biên ngũ hùng đều được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, mỗi vị chỉ huy một hiệu Thiên-tử binh. Bốn vị phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu bên Tống, Long-biên ngũ hùng cùng các phu-nhân được đặt dưới quyền chỉ huy của Longthành ẩn-sĩ Tôn Đản, và phu nhân Ngô Cẩm-Thi. Năm vị lập huân công lớn, đánh chiếm 18 ải biên giới, rồi tiến lên vây Ung-châu. Khi Tống sai năm danh tướng từ Kinh Hồ giải vây Ung-châu. Năm ngài được lệnh mang quân đánh viện ở Hỏa-giáp, Đại-giáp, Ngọctuyền, phá tan năm đạo binh, giết năm tướng. Năm ngài đánh những trận rung động Trungquốc, khiến các tướng Tống đặt cho mỹ danh là Giao-chỉ ngũ kiêu (năm con cú của đất Giao-chỉ). Chiến thắng trở về cả năm được phong chức thượng tướng quân, tước hầu. Các phu nhân đều được phong quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân đánh Đại-Việt, Long-biên ngũ hùng cùng năm phu nhân tử chiến, và đều tuẫn quốc. Cả năm được phong tước đại vương, các vị phu-nhân được phong công chúa, lập đền thờ. Trải qua bao thỏ lặn, ác tà của nghìn năm, ngày nay tôi còn tìm được bốn đền thờ của các ngài Phạm Dật, Vũ Quang, Lý Đoan, Trần Ninh. Dân chúng vẫn hương khói thờ cúng vào dịp giỗ các ngài hay ngày sóc ngày vọng. Còn đền thờ ngài Đinh Hoàng-Nghi ở Ninh-bình thì không tìm được dấu vết. Có tài liệu nói rằng ngài là con cháu vua Đinh, nên đương thời Linh-Nhân hoàng thái hậu truyền tu bổ đền thờ vua Đinh, rồi ngài được phối thờ. Tôi đã hành hương đền thờ vua Đinh, nay ở thị-xã Ninh-bình; thì chỉ thấy tượng, bài vị thờ vua Đinh Tiên-hoàng, Việtvương Đinh-Liễn, thái-tử Hạng-Lang, Vệ-vương Đinh-Toàn. Còn bài vị thờ ngài thì không thấy, nên tôi không tin thuyết này. Dưới đây là tiểu chuyện các ngài. 7.1.1. Phạm-Dật (1049-1077) Tên thực là Lê Dương-Thịnh, quán làng Đông-cứu, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Vì mắt ngài hơi lé, nên bạn hữu gọi đùa ngài là Dật-lé. Phụ-thân là Lê Dương-Thái, mẫu thân là Đặng-thị Nhạn. Song thân ngài vốn là tá điền, chẳng may gặp năm mất mùa, không đủ lúa nộp tô cho chủ điền, ông phải làm lực điền cho chủ kiếm ăn. Bà thì đi ở, còn ngài thì được sư Viên-Chiếu nhận làm học trò, nuôi cho ăn học cùng với bốn người bạn là Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Vì tức giận chủ điền hành hạ cha mẹ, một đêm ngài lẻn đến nhà y, cầm dao giết cả hai vợ chồng ác nhân, rồi cải tên là Phạm Dật, trốn lên Thăng-long ăn mày. Sau ngài được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử; ngài học văn rất uyên bác, làu thông kinh-sử, giỏi võ-nghệ. Năm 1069, ngài theo vua Lý Thánh-Tông bình Chiêm. Ngài được đặt dưới quyền của Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương ngài gặp một Việt kiều tên Lê Kim-Loan, tình bạn thanh mai trúc nhã sinh ra. Hai vị hợp sức đánh giặc, lập đại công trong các trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Sau khi chiến thắng trở về ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Ngự-long; bà được Khai-Quốc vương nhận làm con nuôi, được phong nhất phẩm-phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm bên Tống, hai ngài được đặt thuộc quyền chỉ huy của Thái-tử thiếu bảo, Quảng-nguyên hầu, Phiêu-kị đại tướng quân Lưu-Kỷ, phụ trách đánh các ải Thái-bình, Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Quy-hóa. Các tướng Tống như Giám-áp trại Quách Vĩnh-Nghiêm, Quản-hạt Ngũ Cử, Trấn Nam tướng quân Thái Bằng; kẻ bị ngài đánh bại, kẻ bị bắt làm tù binh, người bị giết. Có lần đóng quân ở làng An-cư, sai quân giúp dân khẩn hoang, trừ ác thú. Sau đó ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản và phu-nhân Ngô Cẩm-Thi tiến lên đánh Ung-châu, rồi đem quân chặn viện binh Tống, giết năm tướng Tống. Chính ngài cùng phu nhân đã cùng với Đô-thống Trần Ninh và phu nhân đồng chế ra loại Lôi-tiễn, gây kinh hoàng cho quân Tống. Sau chiến thắng, triều đình nghị công tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong ngài là Long-nhương thượng quân, tước Thiện-Tâm hầu. Bà được phong Thiên-ân Nhu-mẫn quận-chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân sang đánh Đại-Việt. Hai ngài phụ trách giữ phòng tuyến cuối cùng bảo vệ Thăng-long. Chiến lũy Như-nguyệt bị phá, quân Tống tràn về Thăng-long như nước vỡ bờ. Hai ngài chỉ huy hiệu binh Ngư-long dưới quyền chỉ huy của công chúa Thiên Ninh, đánh bật quân Tống về Bắc Như-nguyệt. Cuối trận đánh cả hai ngài đều tuẫn quốc. Triều đình truy phong ngài là Long-biên, Vũliệt, Chiêu-thắng đại vương, bà được phong Thiên-ân, Nhu-mẫn, Hồng-đức công chúa; truyền lập đền thờ ở đình xã An-cư tục gọi là làng Gờ, tổng Đông-bối, huyện Linh-giang, nay là huyện Linh-thanh, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép. Việt-Nam, Hải-dương tỉnh thần tích. Trung-quốc: a/. Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, Tống-triều công thần bi ký, Ung-châu kỷ-sự, Quảng-Tây địa dư ký, Quảng-Tây chư thần ký, Hy-Ninh hận sự bi ký, Thần-tích Hoả-giáp ngũ đại vương từ, b/. Thái-bình phong vật chí, Hoành-sơn sơn xuyên phong vực, Ôn-nhuận sự tích, Quý-hóa địa dư chí. 7.1.2. Vũ Quang (1050-1077) Tên thực là Vũ Thành, bản tính ngài hiền hậu, nhưng rất can đảm. Hồi thơ ấu các bạn gọi đùa ngài là Quang con gái. Phụ thân ngài tên Vũ An, thân mẫu tên Trần-thị Nữ. Phụ thân ngài mất khi ngài mới bẩy tuổi. Mẫu thân không có tiền chôn cất phải vay tiền của một phú gia. Vì không trả được nợ, bà phải làm lẽ phú gia để trừ nợ. Nhưng ông nhà giầu chỉ thích mẹ, mà không ưa con, nên đánh đập ngài hoài. Sư Viên-Chiếu làng Thổ-lội (nay là Phú-thị, huyện Gia-lâm, Hà-nội) đem ngài về nuôi dạy cùng bốn người bạn là Phạm Dật, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Ngài lầu thông binh pháp, giỏi võ nghệ. Sau được Khai-Quốc vương nhận làm đệ tử. Năm 1069, Đại-Việt đem quân bình Chiêm, ngài được vua Thánh-tông cho tòng chinh. Ngài được đặt dưới quyền Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương, ngài gặp một Việt kiều tên Võ Kim-Liên, con gái danh-y Võ Thương. Tình bạn thanh mai trúc nhã sinh ra. Hai ngài cùng sát cánh trong các trận đánh Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang; lập đại công. Thắng Chiêm, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Quảngthánh. Bà được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch châu bên Tống. Hai ngài được đặt thuộc quyền Thái-tử thiếu bảo, Môn-châu hầu, Trấn Bắc thượng tướng quân Hoàng Kim-Mãn, phụ trách đánh ải Vĩnh-bình. Tướng trấn thủ Vĩnh-bình là Tô Tá bị ngài bắt sống. Sau khi chiếm Vĩnh-bình, hai ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, đem quân tiến về Ung-châu. Trong trận Ung-châu, hai ngài phụ trách đem hiệu Thiên-tử binh Quảng-thánh chặn viện quân đến từ Quế-châu. Hết giặc trở về, triều đình nghị công, tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong ngài là Hổuy thượng tướng quân, tước Thành-Tâm hầu, bà được Trang-hòa, Thiên-đức quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh sang Đại-Việt, vượt sông Như-nguyệt sắp tới Thăng-long. Hai ngài đem quân đánh cảm tử chặn giặc. Bị chém một đao gần đứt cổ, ngài ôm đầu chạy về đến xã A-hộ, huyện Lục-ngạn, trấn Kinh-Bắc; gặp một người đàn bà, ngài hỏi trong cơn mê loạn: Đầu bị chém có sống được không? Người đàn bà đáp: E không sống được. Ngài buông kiếm, buông đầu, ngã ngựa, tuẫn quốc. Phu-nhân chỉ huy hậu quân rút về đến nơi, thấy ngài chết rồi, cũng rút kiếm tự tử theo. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong ngài là Tri-tôn đầu thượng tướng quân, quả cảm Hùng-vĩ đại vương. Phu nhân được phong Trang-hòa, Thiên-đức, Trinh-tĩnh côngchúa, truyền lập đền thờ. Hiện đền thờ hai ngài vẫn còn, mang tên đền Bảo-linh, ở xã Ahộ, huyện Lục-ngạn, nay là xã Biện-sơn, huyện Lục-ngạn, tỉnh Hà-Bắc. Trên đây tôi thuật theo Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký và Tống-triều bi thần ký. Còn Lục-Nam địa dư chí chép rằng ngài được vua Lý gả công chúa cho. Khi công chúa nghe tin ngài tuẫn quốc, thì tự tử theo. Tài-liệu ghi chép. Việt-Nam, Lục-Nam địa chí. Trung-quốc: a/. Xem Phạm-Dật . b/. Vĩnh-bình sơn xuyên phong vực chí, Vĩnh-bình chư thần chí. 7.1.3. Đinh Hoàng-Nghi (1051-1077) Ngài con của Tể-tướng Đinh Nho-Quan triều đình Đại-Nam (Nùng Trí-Cao), thân mẫu là Dương Hồng-Hạnh. Hồi còn niên thiếu, người ngài hơi thấp, nên bạn bè gọi đùa là Nghi-lùn. Trong trận đánh cuối cùng ở Côn-luân phố giữa quân Tống với quân Đại-Nam. Đại-Nam bị bại, bà Hồng-Hạnh tuẫn quốc. Đinh Nho-Quan lưng đeo con trai duy nhất phá vòng vây, chạy về làng Thổ-lội. Nho-Quan được sư Viên-Chiếu chữa trị. Sau khi vết thương lành, Nho-Quan trao đứa con nhờ Viên-Chiếu giữ dùm, để đi cứu bạn hữu. Viên- Chiếu đặt cho đứa trẻ đó cái tên Hoàng-Nghi, ngài nuôi dạy cùng bốn trẻ khác là Phạm Dật, Vũ Quang, Lý Đoan, Trần Ninh. Lớn lên Hoàng-Nghi được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Ngài học một biết mười, lầu thông kinh, sử, tử tập, võ nghệ cao cường, mưu thần chước thánh. Năm 1069, vua Lý Thánh-tông bình Chiêm, ngài được tùng chinh, đặt đưới quyền Trung-Thành vương. Sau khi thắng trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được lệnh trợ chiến Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn ở Nam-giới để đánh Bố-chánh. Trong trận này ngài gặp một cô gái Chàm mang tên Câu-thi Lị-ha-thân Bài-ma-la Nangchang-Lan (Sri Varman Nangchanglan) kết bạn thanh-mai trúc nhã. Vì ngài lập đại công trong các trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang, ; chiến thắng trở về ngài được phong tước Bá, lĩnh chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Quảng-vũ. Vì vấn đề kẻ Việt, người Chàm, rồi sinh hiểu lầm đưa đến Chang-Lan bỏ đi tu, làm ngài ôm hận suốt đời. Ngài được Ỷ-Lan thần phi hỏi cho một tiểu-thư sắc nước hương trời con gái đô-đốc Trần Lâm tên Phương-Quỳnh. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Liêm, Khâm châu bên Tống. Ngài được đặt thuộc quyền của Thái-tử thái phó, Trấn-võ thượng tướng quân, Tô-mậu hầu Vi Thủ- An. Ngài cùng phu nhân phụ trách đánh ải Cổ-vạn. Các tướng Tống như Tả-lãnh vệ đại tướng quân Chu-Am, Bát-tác sứ Toàn-Hưng, Chiêu-thảo sứ Nùng Hiệp-Thành, bị hai ngài giết chết. Hạ ải xong, ngài đem quân chặn đánh viện quân giặc từ Khâm-châu tiến về cứu Tây-bình, Cổ-vạn, rồi tiến về vây Ung-châu. Tiếp theo, Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản giao cho hai ngài đem quân trấn ở đỉnh Hỏa-giáp, đánh viện binh Tống tiếp cứu Ung-Liêm. Sau chiến thắng, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hâu phong ngài là Quán quân thượng tướng quân, tước Chính-Tâm hầu. Phu nhân được phong Tuyên-đức, Thạc-hòa quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân trấn tại Chi-lăng, khiến quân Tống không tiến được, phải đi vòng sang vùng Tam-đảo. Khi quân Tống tiến đến Như-nguyệt, quân của ngài mất đường về. Ngài cùng phu nhân rút vào rừng kháng chiến đánh tập hậu. Nhận lệnh phò mã Thân Cảnh-Long, ngài cùng phu nhân vượt biên đánh cảm tử, đốt lương quân Tống ở Liêm-châu. Cả hai ngài đều tuẫn quốc trận này. Quách thị Nam-chinh chép thêm rằng: Khi ngài và phu nhân tuẫn quốc, chính Nang-chang-Lan bí mật đem xác về Trường-yên (Ninh-bình) chôn trong một ngôi chùa, không rõ chùa nào? Hết giặc, triều đình phong ngài là Hiển-uy, Trung-nghĩa, Duệ mưu đại vương phu nhân được phong Nghi-hòa, Tuyên-đức, Trang-duệ công chúa truyền lập đến thờ ở vùng Nho-quan, Trường-yên, ngày nay là Ninh-bình. Chúng tôi không tìm ra di tích đền này. Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ ký chép thêm rằng ngài được Linh-Nhân hoàng thái hậu yêu thương như con. Khi ngài tuẫn quốc, thái-hậu khóc đến bỏ ăn bỏ ngủ. Một hôm ngài hiện về trong giấc mộng nói với Hậu rằng: Ngài không phải là người thường, tiền thân ngài là con của Lạc-long quân vâng lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế đầu thai làm Việtvương Đinh Liễn đánh 12 sứ quân. Nay lại đầu thai đánh Tống. Vì vậy Linh-Nhân hoàng thái hậu sai tu sửa đền thờ vua Đinh ở Trường-yên, trong đền thờ cả Việt-vương Đinh Liễn, tức là ngài. Đền nay vẫn còn ở thị-xã Ninh-bình. Tôi không mấy tin thuyết này. Tài-liệu Việt-Nam: không. Trung-quốc: a/. Xem Phạm-Dật ở trên . b/. Khâm-châu địa dư chí, Hổ-môn chư thần ký, Cổ-vạn sơn xuyê cương vực ký. 7.1.4. Lý Đoan (1051-1077) Ngài tên thực là Lê Phúc, thân phụ tên Lê Mậu, thân mẫu tên Trần-thị Nương. Nguyên ông Lê Mậu là thợ rèn, ứng nghĩa tòng quân, được xung vào đạo Thiên-tử binh Đằng-hải. Trong cuộc khởi binh của Nùng Trí-Cao, tướng Lý Nhân-Nghĩa được lệnh Khai- Quốc vương đem quân giúp Trí-Cao, vượt biên đánh trại Như-hồng, ông tử trận. Triều đình phủ tuất ruộng cho bà Nương nuôi con. Ngài được ban quốc tính Lý. Mấy năm sau bà Nương chết, làng giao ruộng cho sư Viên-Chiếu trông coi nuôi dạy ngài cùng với Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Trần Ninh. Ngài rất giỏi y lý, nhưng bạn hữu gọi đùa ngài là lang-băm. Sau ngài trở thành thầy thuốc danh tiếng. Ngài lại được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Năm 1069, ngài theo vua Lý Thánh-Tông bình Chiêm, đặt trực thuộc Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Sau khi đánh chiếm Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được lệnh trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Lý-Chiêu-Văn đánh Bố-chánh. Trong trận này ngài gặp một thiếu-nữ Việt kiều tên Trần Ngọc-Liên. Hai vị kết bạn thanh-mai trúc nhã, sát cánh đánh giặc lập đại công trong các trận Bố-chánh, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Khải hoàn, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổngnhật, phu nhân được phong Liên-hương, Nhu-mẫn quận chúa. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch của Tống; hai ngài được đặt thuộc quyền chỉ huy của Kiểm-hiệu tư-không, Thượng-thư hữu bộc-xạ, Khu-mật viện sứ, Phụ-quốc đại tướng quân, Nghĩa-dũng quốc công tức phò-mã Thân Cảnh-Long. Hai ngài được trao nhiệm vụ đánh ải Tây-bình. Tây-bình bị hạ, tướng trấn thủ là Chiêu-thảo-sứ Nùng Toàn-An bỏ chạy, Trấn-viễn đại tướng quân Lưu Khải bị bắt. Tiếp theo hai ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, đem hiệu Thiên-tử binh Bổng-nhật vây Ung-châu, chặn đánh viện binh Tống ở núi Hỏa-giáp. Sau trận này ngài có đề nghị với nguyên-soái Lý Thường-Kiệt nên đem quân vượt Ngũ-lĩnh chiếm Trường-sa, nhưng không được chấp thuận. Chiến-thắng trở về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong cho ngài chức Hoài-hóa thượng tướng quân, tước Trực-Tâm hầu. Phu nhân được phong Thiên-y, Đại-từ quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân sang đánh Đại-Việt, hai ngài được lệnh trấn vòng đai thứ ba, tại Yên-dũng, bảo vệ Thăng-long. Khi danh tướng Yên Đạt, Khúc Chẩn, phá vỡ chiến lũy Phú-lương, công chúa Động Thiên, phò mã Hoàng Kiện tuẫn quốc. Quân Tống như nước vỡ bờ tấn công Yên-dũng. Ngài cùng phu nhân dùng Ngư-binh đánh tan quân Tống, chiếm lại chiến lũy Phú-lương. Trong trận đánh, dù bị thương, hai ngài vẫn cương quyết chiến đấu. Đạt thắng lợi, hai ngài mới tuẫn quốc. Hết giặc, ngài được phong Thiên-y, Ưu-dũng, Chí-nhân đại-vương. Phu nhân được phong Nam-thiên, Liên-hoa, Đoan-nhu công-chúa. Truyền lập đền thờ. Đền thờ hai ngài ở làng Cẩm-chàng, xã Bồng-lai, huyện Quế-dương nay là huyện Quế-võ tỉnh Hà-Bắc. Tài liệu Việt-Nam, Bắc-ninh tỉnh thần chí. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Tây-bình chư thần chí, Tây-bình sơn xuyên cương vực chí. 7.1.5. Trần Ninh (1052-1077) Thời niên thiếu, da ngài hơi đen, nên bạn hữu gọi đùa là Ninh-đen hay Ninh Mai Hắc-đế. Thân-phụ tên Trần Công-Bình, thân mẫu tên Lưu Tuệ-Trinh, quán làng An-mỹ, tổng Dương-quang, huyện Gia-lâm, lộ Kinh-Bắc. Ông Trần Công-Bình nguyên giữ chức thủ-bạ ở làng Thổ-lội. Trong một lần đi qua bờ sông Nguyệt-đức (sông Cầu), đêm bà mơ thấy một vị sứ giả của Ngọc-Hoàng thượng đế giáng xuống nói rằng : Vợ chồng nhà ngươi ăn ở phúc đức, nên Ngọc-Hoàng truyền cho con trai thứ chín của Lạc-Long quân giáng sinh làm con; sau sẽ làm đại tướng trấn thủ Nam-phương. Trở về bà mang thai, đẻ ra ngài. Khi ngài mới bẩy tuổi, thì song thân đều qua đời. Sư Viên-Chiếu đem về làng Thổ-lội nuôi dạy cùng với Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan. Lớn lên ngài được Khai- Quốc vương thu làm đệ tử. Ngài học văn, luyện võ đều thành. Ngài có biệt tài leo cây nhanh như vượn, lặn dưới nước như cá. Trong lần bình Chiêm (1069), vua Lý Thánh-tông cho ngài tùng chinh, đặt dưới quyền Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Sau khi lập công trong trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được gửi đến trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Chiêu-văn ở trận Nam-giới. Tại trận đánh Bố-chánh ngài gặp một thiếu nữ Việt-kiều tên Trần Ngọc-Hương. Hai ngài kết bạn thanh mai trúc nhã, cùng sát cánh đánh giặc. Hai ngài đã lập đại công trong trận Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Chiến thắng trở về, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải. Bà được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Tống, chiếm châu Khâm, Liêm, phá châu Ung, Dung, Nghi, Bạch; hai ngài với hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải được đặt thuộc quyền chỉ huy của Kiểm-hiệu tư không, Thượng-thư hữu bộc xạ, Khu-mật viện sứ, Phụ-quốc đại tướng quân, Nghiã-dũng quốc công tức phò mã Thân Cảnh-Long. Hai ngài có nhiệm vụ đánh ải Lộc-châu. Lộc-châu bị phá, tướng trấn thủ là Chiêu-thảo sứ Nùng Tông-Đán bỏ chạy. Tiếp theo, ngài nhận lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, mang quân tiến về đánh Ungchâu, rồi đem quân chặn đánh viện binh ở núi Đại-giáp. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài lĩnh ấn Vân-ma thượng tướng quân tước Nhu-Tâm hầu. Phu-nhân được phong Thiên-hương, Thuần-mẫn quận chúa. Khi Quách Qùy, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt. Hai ngài theo Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân, Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn đánh trận Kháo-túc. Cả hai ngài đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình phong ngài là Anh-duệ, Chiêuthắng, Trung-liệt, Nguyệt-đức Long-vương. Phu nhân được phong Trang-duệ, Thuần-mẫn, Thiên-hương công chúa; truyền lập đền thờ ở bờ sông Nguyệt-đức, thuộc hai xã Chân-hộ, Hộ-trung huyện Yên-phong tỉnh Bắc-ninh, nay là tỉnh Hà-Bắc. Trên đây tôi thuật theo Quách-thị Nam chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký và Tống triều công thần bi ký. Còn tài liệu Việt thì chép giản dị rằng: Đền bên sông Nguyệtđức xã Chân-hộ, Hộ-trung huyện Yên-phong tỉnh Bắc-ninh thờ Thủy-thần thủy tộc Longvương. Nguyên thần là con Lạc-Long quân. Đền còn thờ hai vị thần nữa là Hoàng-Hà đoan khiết phu nhân, và Tam-giang công chúa. Tài liệu Việt-Nam, Đại-Việt địa dư chí, Bắc-ninh tỉnh địa dư, Bắc-thành địa dư chí lục, Đại-Nam nhất thống chí, Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Lộc-châu sự tích, Lộc-châu cương vực chí. 7.2. Tây-hồ thất kiệt Tây-hồ thất kiệt là bẩy đại-tướng quân thời vua Lý Thánh-tông, Lý Nhân-tông. Vì hoàn cảnh nhà nghèo khó, cả bẩy vị đều sống lang thang ở Thăng-long; khi thì quét nhà, rửa chén cho những tửu lầu ở đế đô; khi thì làm mướn cho ngư-dân quanh sông Hồng, hồ Tây. Có lúc nghèo túng quá, cả bẩy vị đều đi ăn mày, móc túi, ăn cắp vặt. Duyên may đến, bẩy vị được Minh-Không bồ-tát thu làm đệ tử, rồi đem gửi cho hoàng-tử Lý Chiêu- Văn nuôi. Hoàng-tử Chiêu-Văn là con trai Khai-Quốc vương. Một dịp may đến nữa bẩy vị lại được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Về văn, các ngài chỉ học đủ đọc sách, nhưng về võ, các ngài luyện tập được bản lĩnh tối cao. Trong thời gian ở hồ Tây, bẩy ngài luyện được phép lặn dưới nước như giao-long. Một cơ duyên khác, bẩy vị gặp một thiếu nữ tên Lê-thị Yến-Loan, được nhận làm em nuôi. Khi Yến-Loan được phong làm Ỷ-Lan phu nhân, bà đem tài bẩy ngài tâu lên vua. Vua ban cho mỹ hiệu là Tây-hồ thất kiệt. Bẩy ngài là những người đầu tiên chế ra bánh tôm. Sau này mang tên bánh tôm Tây-hồ, mà bất cứ người Việt nào cũng từng nếm qua. Nơi mà thời thơ ấu, năm ngài lưu ngụ ăn mày, nay nằm khoảng từ đền Trấn-vũ tới đê Yên-phụ. Thời gian này Tây-hồ thất kiệt thu dụng 500 thiếu niên cùng khổ, ăn mày, đem về nuôi dạy, khiến cho họ có bản lĩnh bơi lội dưới nước như rái cá, rất giỏi thủy chiến, được vua Thánh-Tông ban cho mỹ hiệu Giao-long Tây-hồ. Năm 1069, cả bẩy ngài với đội Giao-long Tây-hồ đều theo vua Lý Thánh-tông bình Chiêm; từng lập công lớn trong trận Nam-giới, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Khải-hoàn trở về cả bẩy ngài đều được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống. Mỗi ngài chỉ huy một hiệu Thiên-tử binh. Ỷ-Lan thần-phi cưới cho bẩy ngài bẩy tiểu thư văn-võ toàn tài, đệ tử của Lý Thường-Kiệt, để phu thê có thể cùng nhau phò tá xã-tắc. Năm 1075, trong cuộc vượt biên đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch bên Tống; bẩy ngài lập công lớn. Trở về, bẩy ngài đều được phong đại-tướng quân, tước hầu. Bẩy phu-nhân được phong quận-chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt mang quân sang đánh Đại-Việt. Bẩy ngài cùng bẩy quận-chúa đánh những trận kinh thiên động địa, nên trong Quách-thị Nam chinh, người Tống gọi bẩy ngài là Giao-long thất quái. Trong Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký gọi bẩy ngài là Giao-chỉ thất long. Bẩy ngài và bẩy phu nhân đều tuẫn quốc trong cuộc kháng Tống. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong bẩy ngài tước đại-vương, các phu-nhân được phong tước quận chúa, truyền lập đền thờ. Trải qua nghìn năm, ngày nay đền thờ các ngài vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói vào ngày giỗ, ngày sóc, ngày vọng. Dưới đây là tiểu chuyện các ngài: 7.2.1. Trần-Di (1051-1077) Thủa niên thiếu dáng người ngài gầy, mà cao, nên còn có tên là Di-sậy. Phụ thân tên là Nguyễn Giang-Hồng, mẫu thân tên Trần-thị Yến. Ông bà làm nghề đánh cá ở xã Mộ-đạo, huyện Vũ-tiên, phủ Kiến-xương. Nay là huyện Vũ-thư, tỉnh Thái-bình. Ông bà ngoại của ngài không có con trai, nên nuôi ngài như con. Vì vậy ngài mang họ Trần. Năm ngài lên tám tuổi, song thân đi đánh cá, gặp bão thuyền lật, cả hai đều qua đời. Ngài lưu lạc theo thuyền buôn lên Thăng-long. Tại Thăng-long ngài gặp sáu người đồng cảnh mồ côi, kết bạn với nhau, sau vua Lý Thánh-tông ban cho bẩy ngài mỹ hiệu là Tây-hồ thất kiệt. Tương truyền Tây-hồ thất kiệt có tài lặn dưới nước hàng giờ, hai tay không bắt được cá, và chạy nhanh hơn ngựa. Ngài lớn tuổi nhất trong Tây-hồ tất kiệt. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, Tây-hồ thất kiệt lập công lớn ở trận Nam-giới, Nhật-lệ, Pandurango. Trở về, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vũ-thắng. Ỷ-Lan thần phi cưới cho ngài một tiểu-thư sắc nước hương trời, văn võ kiêm toàn tên là Bùi Phương-Lý, cháu của quan Văn-minh điện đại-học sĩ Bùi Hựu. Trong cuộc Bắc phạt năm 1075, ngài cùng phu-nhân chỉ huy hiệu Vũ-thắng, phụ trách đánh ải Thiên-long. Đây là ải kiên cố nhất, quân phòng thủ cũng tinh nhuệ nhất. Hai ngài phải đánh hai ngày mới hạ được, tướng trấn thủ là Giám-áp Phong Hiển bị bắt. Sau khi hạ Thiên-long, hai ngài được lệnh đánh Nghi-châu. Nghi-châu bị hạ trong năm ngày. Tín-Nghĩa vương lại ra lệnh cho hai ngài đem quân tiến về đánh Ung-châu. Chiến thắng trở về, ngài được phong chức Quy-đức đại tướng quân, tước Hư-Tâm hầu. Vì phu-nhân có theo trong quân trợ chiến, nên được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Qùy, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân sang đánh Đại-Việt. Ngài được lệnh trấn ở phòng tuyến Vạn-xuân. Quách-Quỳ dùng cách đánh biển người. Ngài cùng phu nhân tuẫn quốc. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong ngài là Nhân-dũng, Tráng tiết, Thần oai, Thủy-tế Long-vương, phu nhân được phong Hoà-thạc, Chí nhu, uyển mị Đông-hải công chúa, truyền lập đễn thờ tại quê ngài. Trải qua nghìn năm mưa nắng, biết bao lớp sóng phế hưng, ngày nay đền thờ ngài vẫn còn tại xã Mộ-đạo, huyện Vũ-thư, tỉnh Thái-bình. Trên đây tôi thuật theo bộ Quách-thị Nam chinh và bộ Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, Quảng-Tây địa dư chí, và một số bia đá, mộ chí của các tướng Tống. Trong khi tập Ngọc-phả cổ lục của Việt-Nam chép rằng: Ngài có tên chàng Hai, cha mẹ làm nghề đánh cá. Một hôm bà bị giao-long nổi lên quấn quanh người. Đêm đó ông mơ thấy thần tự xưng là Đệ-nhị thủy thần dưới Long-cung đầu thai, sau giúp vua giữ nước. Quả nhiên bà mang thai, rồi sinh ra một bọc. Bỗng có tiếng sét nổ lớn rồi bọc vỡ ra. Trong bọc có bé trai lớn, khắp người phủ vảy cá, phụ thân đặt tên là chàng Hai. Năm tám tuổi, chàng Hai cao lớn dị thường. Vua Lý Nhân-tông nghe tiếng mời ra cầm quân đánh Chiêm. Sau khi bình Chiêm, chàng Hai trở về quê. Một ngày trời mưa, nước lụt, chàng Hai cùng đám giao long bơi về Long-cung mất. Dân làng vớt quần áo mang về thờ. Tôi giải đoán rằng: Sau khi ngài tuẫn quốc, triều đình cho lập đền thờ, chắc có chép phả đầy đủ. Nhưng năm 1407, Trương-Phụ thu mang về Kim-lăng. Cho đến khi vua Lê dành lại độc lập, dân làng mới chép lại phả theo lối huyền thoại như trên. Tài liệu: Việt-Nam, Ngọc-phả cổ-lục. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Thiên-long địa dư chí, Khâm-châu chư thần ký, Nghi-châu địa dư chí. 7.2.2. Dương-Minh (1051-1077). Trong mười hai đại tướng quân tuẫn quốc vào thời gian kháng Tống (1076-1077) thì Trung-vũ đại tướng quân Cao-sơn đại vương được thờ nhiều nhất, cũng bị huyền thoại hóa nhiều nhất. Vào thời Trần, có khoảng 21 đền, miếu thờ ngài. Ngài là vị thần còn nhiều di tích nhất. Với hoàn cảnh khó khăn sau bao nhiêu thăng trầm, cho đến nay (1995) chúng tôi ghi lại được chín di tích như sau: 7.2.2.1. Đình thờ chung của ba xã Ôn-cập (làng Gắp), Lạc-yên (làng Khốm), Hoàng-liên (làng Sen), tổng Hoàng-vân. Nay thuộc huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-Bắc. Khi tử trận Kháo túc, ngài uất ức than rằng: Sao đã vội chết, khi chưa đền xong nợ nước. Nên sau đó ngài lại đầu thai trở lại. Bắc-giang tỉnh thần tích chép kiếp này ngài được tiên ở cầu Thấp-tần cho áo tàng hình. Ngài thường tàng hình vào công khố lấy thóc lúa, tiền bạc giúp dân nghèo. Đời vua Lý Anh-tông, nhà Tống sai Đàm Hữu-Lượng đem quân sang đánh Đại-Việt. Ngài dùng áo tàng hình vào trại bắt tướng giặc. Ngài được vua gả công chúa, cho cai quản từ sông Lục-đầu tới Cao-bằng. Sau ngài mất ở Thạch-long. Vua Lý Anh-Tông thương tiếc, cho dân ba xã trên lập đền thờ. 7.2.2.2. Đền thờ thần Cao-sơn ở xã Lương-nhàn, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-hưng. Tương truyền thần thường hiện ra làm thầy lang chữa bệnh cho dân. Có lần thần trị được hàng trăm trẻ bị bệnh đậu mùa sắp chết. Khi dân húng tiễn thầy lang về, thì thầy chỉ lên ngọn núi Lương-nhàn mà bảo: Nhà ta ở đó, rồi biến mất. Dân chúng lần theo tay thầy lang chỉ, lên ngọn núi, thấy toà cổ miếu, trong có tượng, cổ tượng có vết đao chém, thì biết là ngài. 7.2.2.3. Đền thờ Cao-sơn đại vương ở phường Đông-tác, huyện Thọ-xương, nay thuộc quận Đống-đa, Hà-nội. Tương truyền thần là một trong năm mươi con của Lạc-Long quân theo mẹ lên núi, và là vị thần thứ nhì được thờ bên tả đền Tản-viên. Đến thời vua Lý Thái-tông, thần được lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế xuống đầu thai để giúp vua đánh Tống, bình Chiêm. Trong trận đánh sông Như-nguyệt, bị chém vào cổ, thần ôm đầu chạy về quê, rồi tuẫn quốc. Hồi vua Lê Tương-Dực (1505-1516) bị binh biến phải chạy về Thanh-hóa. Vua từng đến đều cầu xin trợ giúp. Sau khi hết giặc, vua về Thăng-long, sai Đông-các đại học sĩ, Lễ-bộ thượng thư, Quốc-tử giám tế tửu Lê Tung soạn văn bia để ghi ơn. 7.2.2.4. Đình thờ ở thôn Điền-niêm, xã Đông-tạ, huyện Vĩnh-bảo, nay thuộc Hải-phòng. Tương truyền thời vua Giản-Định đời hậu Trần, dân gian có nhiều người bị bệnh đậu mùa, cầu trời; thì có thần hiện xuống cứu, xưng là Cao-Sơn đại vương. Thần trị hết bệnh cho tất cả dân chúng. 7.2.2.5. Đền thờ Cao-sơn đại vương ở thôn Bất-lự, xã Đại-sơn, huyện Tiên-du, nay là huyện Tiên-sơn, tỉnh Hà-bắc. Đền thờ thần Tản-Viên. Nhưng lại nói, đến thời vua Lý Thái-tông, thần vâng lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế đầu thai, làm tướng đánh Tống, bình Chiêm. Sau tuẫn quốc ở trận Như-nguyệt. 7.2.2.6. Đình thờ làng Cung-bái, huyện Lục-ngạn, nay là huyện Yên-thế, tỉnh Hà-Bắc. Đền thờ Cao-Sơn đại vương và Quý--Minh đại vương. Tương truyền hai thần sinh vào thời vua Hùng Duệ-Vương. Bà mẹ mơ thấy rồng phun nước vào bụng, rồi sinh ra một bọc, nở ra hai con trai. Lớn lên hai ngài đều có tài văn võ, giúp vua Hùng đánh Thục, sau tuẫn quốc ở núi Tản. Đến đời Lý, thần Cao-Sơn đầu thai xuống làm tướng giúp vua Lý Thánh-tông bình hiêm, giúp vua Nhân-tông đánh Tống, rồi tử trận ở sông Như-nguyệt. 7.2.2.7. Đình thờ làng Đông-lỗ, tổng Đông-lỗ, huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-Bắc, thờ thần tên Cao-Sơn Quý-Minh, tên thực là Dương Tự-Minh quê ở làng Quan-triều, huyện Phú-lương, tỉnh Thái-nguyên. Thần nguyên là tướng thời vua Lý Nhân-tông, tử trận sông Như-nguyệt, tái đầu thai. Nhân được thần cho chiếc áo tàng hình, ngài thường vào cung lấy trộm vàng bạc đem giúp dân nghèo. Chẳng may một lần bị bắt, đem chém. Vua Lý Anh-tông thương tình tha cho. Bấy giờ quân Tống sang xâm lược, ngài dẹp giặc có công, được vua gả công chúa Thiều-Dung cho. Ngài lại có công dẹp nội loạn Anh-Vũ, được vua gả công chúa Diên-Bình. Sau ngài cáo quan về quê ở Phú-lương. Có kẻ tố cáo ngài mưu phản, vua sai bắt chém, nhưng khi giải đến bờ sông, ngài hóa. Vua thấu tình phong làm thần, truyền cho các làng từ Cao-bằng đến sông Lục-đầu lập đền thờ. 7.2.2.8. Đền thờ ở xã Quỳnh-giản, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-dương. Thần tích giống như đền thờ xã Lương-nhàn, mục số 7.2.2.7 trên. 7.2.2.9. Đình thờ xã Đồng-áng, tổng Hoàng-vân, huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-bắc, thần tích giống như đền Đông-lỗ, mục số 7.2.2.7. trên. Tài liệu ghi chép, Việt-Nam, Đại-Nam nhất thống chí, Đồng-Khánh địa dư chí, Công-dư tiệp ký, Hoàng-Việt địa dư, Bắc thành địa dư chí lục, Hà-nội sơn-xuyên phong tục, Đại-Việt địa dư chí, Thăng-long cổ-tích khảo, Hải-dương tỉnh thần tích, Bắc-giang tỉnh thần tích, Chư dư tạp biên. Trung-quốc, a/. Như Phạm-Dật trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Như-tích sơn xuyên phong vực chí, Để-trạo địa dư chí, Dung-châu sư tích. QTNC và TTCTGCK chép ngài tên thực là Dương Minh, thân phụ là Dương Đức, thân mẫu là Vũ-thị Ngân. Vì thời thơ ấu ngài hơi ngọng, nên các bạn gọi ngài là Minh ngọng. Song thân ngài làm nghề đánh cá ở sông Lục-đầu. Khi ngài lên bẩy tuổi, thì ông bà đi đánh cá bị gió cuốn, thuyền lật chết đuối. Ngài phải ăn mày khắp nơi kiếm sống. Năm mười một tuổi (1062) ngài lưu lạc về Thăng-long, gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết bạn với nhau. Bẩy ngài cắt gỗ, dựng lều tranh ở ven hồ Tây, rồi khi thì kéo lưới mướn, khi thì mò cua bắt ốc, có khi phải xúc phân trâu bán. Một vài lần đói quá phải ăn cắp gà, móc túi. Trong thời gian này, ngài được Khai-Quốc vương phi dạy về y. Tương truyền ngài đã tìm ra phương thuốc chữa bệnh đậu mùa, bênh đậu Lào, và thường đeo túi lang thang đi trị bệnh cho dân. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, được vua Thánh-tông cho tòng chinh, ngài lập công lớn trong trận Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandu- rango. Khi luận công phong thần, ngài được phong tước bá, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Long-dực. Ỷ-Lan thần phi hỏi cho ngài một tiểu thư tài sắc vẹn toàn tên Hoàng Phương-Lý, con quan Hình-bộ thượng thư Hoàng Khắc-Dụng. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Long-dực, phụ trách đánh ải Như-tích, Để-trạo. Gặp sức kháng cự của quân Tống cực kỳ mãnh liệt, ngài và phu nhân đều bị thương, nhưng vẫn cương quyết đi tiền phong xung sát. Sau hai ngày cầm cự, Như-tích, Để-trạo thất thủ. Tướng trấn thủ là Ngũ Hoàn bị giết tại trận. Sau đó ngài được lệnh Tín-Nghĩa vương tiến đánh Dung-châu. Chỉ sau ba ngày, hiệu Long-dực hạ được thành Dung, tướng trấn thủ là Đô-giám Vương Kính tử thương. Tiếp theo ngài tiến quân về đánh Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, ngài được phong chức Trung-vũ đại tướng quân tước Kính-Tâm hầu. Phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt (1076-1077), ngài cùng phu nhân nhận nhiệm vụ đánh cảm tử vào khu đóng quân của Tống. Công tác hoàn thành, nhưng hai ngài đều tử thương. Hết giặc, triều đình nghị công, truy phong ngài là Cao-Sơn, Thiên-y, Trung-vũ đại vương. Phu nhân được phong Trang-Hòa quận chúa, truyền lập đền thờ. 7.2.3. Triệu Thu (1052-1077) Ngài quán làng Cao-xá, trấn Nghệ-an. Phụ-thân tên Phạm Dung, mẫu-thân tên Trần Ngọc-Lan. Hai vị làm nghề đánh cá, chỉ sinh được mình ngài, đặt tên là Phạm Minh. Năm ngài lên bẩy tuổi, thì song thân qua đời. Ngài được một ngư dân ở phường Thọ-xương tên Triệu Nguyên nhận làm con nuôi, vì vậy ngài mang họ Triệu. Năm ngài mười tuổi, thì nghĩa phụ chết, để lại một căn nhà nhỏ, với chiếc thuyền câu. Ngài đem sáu người bạn cùng lứa, đang lang thang vô sở bất chí quanh hồ Tây về sống chung. Được năm tháng, lý trưởng trong làng muốn chiếm đất, nhà của ngài, y vu cáo cho bẩy ngài là phường du thủ, du thực. Vì vậy ngài phải cùng các bạn sống lang thang ven hồ Tây, khi thì ăn mày, khi thì kéo lưới mướn, có khi đói quá phải đi móc túi. Năm 1069, trong cuộc bình Chiêm, bẩy ngài cùng đội Giao-long Tây-hồ được vua Thành-tông cho tùng chinh. Ngài từng lập đại công trong trận đánh Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Ca khúc khải hoàn, ngài được phong tước bá, giữ chức đôthống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Thần-điện. Ỷ-Lan thần phi cưới tiểu thư con quan Thamtri Hộ-bộ Phàn Trọng-Tân, là Phàn Phương-Liễu cho. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Thần-điện đánh úp căn cứ thủy quân, cùng xưởng đóng chiến thuyền của Tống. Hai ngài thành công thực dễ dàng, rồi kéo quân về Khâm-châu. Tín-Nghĩa vương lệnh cho hai ngài đem quân công phá Bạch-châu. Gặp sức kháng cự mãnh liệt của quân Tống, ngài dùng hỏa công đốt thành. Sau mười ngày, dân trong thành hết lương đánh lại quân Tống, mở cửa xin hàng. Hạ Bạch-châu, ngài tiến quân về công hãm Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công tâu Lê, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Tuyên-vũ đại tướng quân, tước Tín-Tâm hầu. Phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt, hai ngài tử chiến ở trận Kháo-túc, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công, ngài được truy phong Anh-văn Tuyên-vũ đại vương. Phu-nhân được phong Trang-Ninh quận chúa, truyền lập đền thờ. Hiện đền thờ ngài ở xã Cung-nhượng, tổng Thọ-xương, phủ Lạng-giang, tỉnh Bắcgiang, nay là tỉnh Hà-Bắc. Bắc-giang tỉnh thần tích chép ngài theo vua đánh Chiêm, khi trở về được ba tháng, thì Chiêm cho người sang ám sát, xác ngài trôi theo sông Thiên-đức tới làng Cung-nhượng thì dạt lên bờ. Phu nhân nghe tin này nhảy xuống sông tự tử. Tài liệu ghi chép. Việt-Nam, Bắc-giang tỉnh thần tích. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Đông-hải Hy-Ninh bản mạt, Bạch-châu địa dư chí. 7.2.4. Mai-Cầm (1052-1077) Ngài quán tại trang Vạn-phân, huyện Đông-thành, tỉnh Nghệ-an. Vì ngài có cái thẹo trên cằm, nên các bạn gọi là Cầm-thẹo. Thân mẫu ngài tên Mai Xuân-Huệ, không chồng mà chửa, lúc lâm bồn sinh ra một con trai, đặt tên là Mai-Cầm. Bà bị làng bắt khoán, nên phải bỏ quê ra đi; đến làng Đạo-sử thì được một phú ông tên Lưu Khánh cưu mang, đổi tên ngài là Lưu Hùng. Năm ngài lên chín tuổi, thì nghĩa phụ và thân mẫu bị cọp vồ chết. Các con ông Lưu Khánh đuổi ngài ra khỏi nhà. Ngài lang thang ăn mày, lưu lạc tới Thăng-long, rồi gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết thành bạn. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, ngài được vua Thánh-tông cho tùng chinh. Nhờ lập đại công trong trận đánh Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Panduran- go. Sau khi chiến thắng khải hoàn, ngài được phong tước bá, giư chức đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư con quan Kinh-lược an-vũ sứ Trường-yên tên Tôn Sơn là Tôn Phương-Đơn cho. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài được nguyên-soái Thường-Kiệt trao cho nhiệm vụ tấn công vào cửa Đông, sau đó vượt ra cửa Tây, trấn ở Tiểu-dã để chặn phục binh. Việc đánh chiếm Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu xong, nguyên soái Thường- Kiệt truyền cho ngài đem quân về đánh Ung-châu. Hạ xong thành Ung, quân Việt rút về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong ngài chức Tuyên-uy đại tướng quân, tước Từ-Tâm hầu. Phu-nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân đánh đại Việt, ngài cùng phu nhân trấn ở phòng tuyến Như-nguyệt, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công truy phong ngài là Tuyên-uy phúc tướng đại vương. Phu nhân được phong Trang-Mẫn quận chúa, truyền lập đền thờ. Trải qua gần nghìn năm, đến nay đền thờ ngài vẫn còn tại làng Đạo-sử, tổng Phálãng, huyện Lang-tài, nay là xã Phá-lãng, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Một đền thờ thứ nhì tại làng Đông-hương, tổng Phá-lãng nay là xã Phá-lãng, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Trong Bắc-ninh tỉnh thần tích lại chép rằng: Thân mẫu ngài thấy con trâu vàng tắm ở ven biển. Khi bà tới hần thì trâu biến mất, chỉ còn lại hai cái lông, bà giắt hai cái lông vào gấu áo. Hai cái lông chảy thành nước, ngấm vào bụng bà. Từ đó bà mang thai, sinh một bọc hai trai. Bị dân làng chê cười, bà bỏ làng ra đi. đến làng Đạo-sử được một phú ông cưu mang. Bà đặt tên con là Hùng và Huy. Hùng có tài võ, huy có tài văn. Sau hai anh em theo vua bình Chiêm. Thắng trận hai ông trở về làng khao thưởng quân sĩ rồi vào triều nhận chức. Khi thuyền chở hai ông đến trang Đông-sá, phủ Thiên-trường thì bị đắm. Xác hai ông trôi về quê sắc diện còn tươi. Dân làng dâng biểu về triều, vua ban cho sắc phong để thờ phụng. Tài liệu ghi chép, Việt-Nam, Bắc-ninh tỉnh thần tích. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Liêm-châu địa dư chí, Hổ-môn chư thần chí. 7.2.5. Quách Y (1052-1077) Tên thực ngài là Phạm Trọng-Y. Chính quán ngài tại đâu không rõ. Chỉ biết song thân ngài làm nghề trồng hoa. Thân phụ tên Phạm Trọng-Khâm, thân mẫu tên Quách-thị Phùng. Vì ngài hói đầu, nên bạn hữu gọi đùa là Y-hói. Khi ngài lên bẩy thì song thân cùng bị bạo bệnh qua đời. Ngài được người cậu đem về nuôi, cải tên là Quách-Y. Năm ngài mười tuổi lại đến lượt ông cậu qua đời. Ngài sống bơ vơ, ăn xin độ nhật ở Thăng-long. Sau cùng gặp sáu người đồng tuổi, đồng cảnh ngộ, kết thân với nhau làm nghề kéo lưới mướn, rửa bát. Có lúc nghèo quá phải đi ăn mày, móc túi, ăn cắp vặt để sống. Bẩy ngài sau được vua Thánh-tông ban cho mỹ hiệu Tây-hồ thất kiệt. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, ngài được vua Lý Thánh-tông cho tùng chinh, từng lập đại công trong các trận Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công phong cho ngài tước bá, giữ chức đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư Phạm Phương-Tiên con quan Kinh-lược an-vũ sứ Thanh-hóa là Phạm Nhật-Chiêu cho ngài. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh, tiến đánh thành Khâm. Thành Khâm bị hạ, ngài được lệnh tiến về công thành Ung. Sau khi chiến thắng trở về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Minh-uy đại tướng quân, tước Minh-Tâm hầu, phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân sang đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân tử chiến ở phòng tuyến Như-nguyệt, rồi tuẫn quốc. Sau khi hết giặc, triều đình nghị công phong ngài là Minh-uy Lôi-trấn đại vương, phu nhân được phong Trang- Thanh quận chúa. Hồi đem quân bình Chiêm trở về, ngài có dừng quân ở núi Lôi-sơn, xã Hữu-biệt, huyện Nam-đàn, trấn Nghệ-an. Bấy giờ trong núi có bầy sói cực kỳ hung bạo, thường hay tràn về thôn xóm bắt bắt gia súc ăn thịt. Ngài dùng đại nỏ bắn mã-não, hoàng thạch giết sạch bầy sói. Nên dân chúng lập đền thờ sống ngài. Sau khi ngài tuẫn quốc, triều đình ban ruộng cho dân làng để tiếp tục hương khói. Cho đến nay, gần nghìn năm trôi qua, đền thờ của ngài vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói quanh năm. Nhưng trong Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Hoàn vũ ký, Đại-Nam nhất thống chí thì chép giản dị rằng: Tương truyền đời Lý có tướng quân họ Phạm, không rõ tên, đem quân đi dẹp giặc, khi qua núi Hữu-biệt, huyện Nam-đàn, trấn Nghệ-an thình lình có tiếng sấm nổ, rồi ngài biến mất. Vua Lý cho lập đền thờ, gọi là đền Độc-lôi(!). Tài liệu ghi chép, Việt-Nam, Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Hoàn vũ ký, Đại-Nam nhất thống chí. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. 7.2.6. Ngô Ức (1053-1077) Ngài là hậu duệ của Ngô-vương Quyền, thuộc giòng dõi Nam-Tấn vương Ngô Xương-Văn, thế hệ thứ 5 (Quyền sinh Văn, Văn sinh Đức, Đức sinh Tuệ, Tuệ sinh Ức). Phụ thân tên Ngô Vĩnh-Tuệ, quê ở xã Đường-lâm, huyện Phúc-thọ, thuộc thị-xã Sơn-tây. Thời vua Lý Thái-tông, ông nộp đơn dự thi tuyển võ tướng. Khai-Quốc vương đọc bản cung khai lý lịch, biết ông là cháu Ngô-vương, đặc cách cho ông khỏi thi. Sau khi huấn luyện, ông được phong chức đô-thống coi hiệu binh trấn ở Tiên-yên. Tương truyền sau khi thắng quân Nam-Hán, Ngô-vương kéo quân về thăm cố-đô Cổ-loa, tu bổ cố-cung thời vua An-Dương, lại trồng một cây đa rồi tuyên chỉ rằng Khi nào cây đa này chết, thì linh khí Cổ-loan mới hết. (Cây đa này, nay là năm 1995 vẫn còn). Vì vậy một lần về Thăng-long hội quân, ông Đinh Vĩnh-Tuệ hành hương Cổ-loa, rồi qua đêm tại đây. Đêm đó ông mơ thấy vua An-Dương hội triều thần, có tứ trụ đại thần là Tể-tướng Phương-chính hầu Trần Tự-Minh, Đại-tư-mã Vạn-tín hầu Lý Thân, Đại-tư đồ Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Đại-tư-không Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung đứng hầu. Ông hành lễ với đức vua. Đức vua chỉ một võ quan bảo: - Ta thấy hung khí phương Bắc thịnh, thì thời gian con vua Bắc-đế đem quân Nam xâm đến nơi rồi. Vậy người hãy mau đầu thai để bảo vệ Viêm-bang. Viên võ quan hỏi: - Tâu bệ hạ, thần sẽ đầu thai vào cửa nào? Vua An-Dương chỉ vào Vĩnh-Tuệ: - Ta thấy Vĩnh-Tuệ là kẻ có lòng, vậy nhà ngươi hãy đầu thai làm con y. Thấy viên võ quan còn ngần ngữ, ngài dạy: - Ta chỉ bắt người xuống thế có hai mươi lăm năm mà thôi. Đừng có ngại ngùng. Hôm sau Vĩnh-Tuệ rời Cổ-loa ra đến đầu làng thì gặp một thiếu nữ xinh đẹp hái hoa sen, chẳng may bị rắn cắn vào bụng. Không kể nguy hiểm, ông ghé miệng hút nọc độc cứu cô. Người con gái thoát nạn, chắp tay: - Đa tạ tướng quân cứu mạng. Tên thiếp là Cao Tường-Vân. Tướng quân ơi! Tiểu nữ là con gái đồng trinh, thân thể chưa nhiễm bụi trần. Nay vì bị nạn, mà phải tùng quyền để tướng quân chạm vào khắp người, thì cái thân này thuộc về tướng quân vậy. Vĩnh-Tuệ bèn cưới Tường-Vân làm vợ, năm sau sinh ra một trai, đặt tên là Ngô Vĩnh-Ức. Khi Vĩnh-Ức được một năm, thì Vĩnh-Tuệ đem quân đi bắt cướp, trúng tên chết. Tường-Vân đem con về ở Nghi-tàm, ngoại ô Thăng-long làm nghề trồng hoa sống qua ngày. Năm Vĩnh-Ức bẩy tuổi, thì mẹ qua đời. Không nơi nương tựa, ngài lang thang cùng sáu người bạn,(sau là Tây-hồ thất kiệt), sống vất vưởng ở Thăng-long. Khi thì kéo lưới mướn, khi thì rửa bát, có khi phải ăn cắp vặt, móc túi kiếm sống. Vì khi cười miệng ngài hơi méo, nên bạn hữu họi ngài là Ức-méo. Rồi duyên may đưa đến, bấy ngài gạp Minh-Không thiền sư, Khai-Quốc vương, đgợc thu làm đệ tử, lại được Ỷ-Lan phu nhân nhận làm em nuôi. Năm 1069, vua Thánh-tông đem quân bình Chiêm, Tây-hồ thất kiệt được tùng chinh, và được đặt dưới quyền Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn. Sau chiến thắng Nam-giới, Bố-chánh, ngài lại tham dự trận Nhật-lệ. Trong trận này ngài là người duy nhất bị thương. Tiếp theo ngài dự trận Thi-nại, Pandurango. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư Quách Phương-Dược, con quan Lễ-bộ thượng thư Quách Sĩ-An cho ngài. Trong những ngày cùng Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt luyện quân, chính ngài là người chế ra loại tên lửa mang theo ống nứa trộn nhựa cháy, mã não, hoàng thạch để đốt thành địch. Đây là sáng kiến đầu tiên, rồi sau này Phạm Dật, Trần Ninh mới chế loại Lôi-tiễn gây kinh hoàng cho quân Tống trong trận Côn-lôn, Đại-giáp, Ung-châu. Trong cuộc Bắc chinh năm 1075, ngài cùng phu nhân đem hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược tham dự trận đánh Khâm-châu, rồi tiến về đánh thành Ung. Ca khúc khải-hoàn, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Định-viễn đại tướng quân, tước Huệ-Tâm hầu. Phu nhân được phong Trang- Ninh quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt. Ngài cùng phu nhân tử chiến ở Vạn-xuân, Kháo-túc, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công, truy phong ngài là Định-viễn Lôi-thần đại vương, phu nhân được phong Trang-duệ, Ninh-tĩnh quận chúa; truyền phối thờ ở đền Kê-lạc cùng với tiên vương Ngô triều. Trải bao lớp sóng phế hưng, nắng mưa, nay (1995) đền Kê-lạc vẫn còn tại xứ Kêlạc, xã Nghĩa-chế, huyện Tiên-lữ, tỉnh Hưng-yên; nay là huyện Phù-tiên, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép Việt-Nam, Hưng-yên tỉnh nhất thống chí, Bắc-kỳ giang-sơn cổ-tích danh thắng bị khảo, Các tỉnh địa dư chí, Đồng-khánh địa dư chí lược. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. 7.2.7. Tạ Duy (1053-1077) Nguyên quán ngài tại An-lãng, thuộc Cửu-chân, trấn Thanh-hóa. Phụ thân tên Tạ Trọng-Nguyên, mẫu thân tên Lưu Huyền-Mẫn. Ông là một thầy đồ dạy học thuộc lộ Kinh- Bắc thời vua Lý Thái-tông. Ông bà sinh được hai con trai, con lớn tên Tạ Duy hay Tạ ĐộĐàm, con nhỏ tên Tạ Giang-Ba. Vì ông bà ngoại không có con, nên Tạ Giang-Ba mang họ ông ngoại, cải tên là Lưu Ba. Năm Tạ Duy tám tuổi, thì cha mẹ bị đắm thuyền chết hết. Hai anh em phải ở với người thím họ. Gặp bà thím ác độc đánh đập, hành hạ khổ sở, hai anh em bỏ nhà ra đi, và lạc nhau. Tạ Duy lên Thăng-long, vô sở bất chí, gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết bạn với nhau, sau là Tây-hồ thất kiệt. Bẩy người lang thang ở Thăng-long, khi thì kéo lưới mướn, khi thì rửa bát. Có khi túng thiếu quá, phải ăn cắp vặt, móc túi kiếm sống. Vì dáng người ngài hơi thấp, nên các bạn gọi là Duy-lùn. Trong dịp bình Chiêm năm 1069, vua Thánh-tông cho Tây-hồ thất kiệt tòng chinh, đặt dưới quyền Tín-Nghĩa vương Lý Hoằng-Chân. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, ngài được phong tước bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vạn-tiệp. Ỷ- Lan thần phi hỏi tiểu thư Lý Phương-Quế, con gái đại đô đốc Lý Kế-Nguyên cho ngài. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vạn-tiệp đánh thành Khâm-châu, rồi tiến về công hãm Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong ngài chức Ninh-viền đại tướng quân, tước Dũng-Tâm hầu, phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân sang đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân tử thủ phòng tuyến sông Như-nguyệt, cả hai tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình truy phong ngài là Ninh-viễn Trung-chính đại vương, phu nhân được phong Trang-hòa Ninh-tĩnh quận chúa, truyền lập đền thờ. Hiện nay đền thờ hai ngài vẫn còn tại xã Lưu-xá huyện Hưng-nhân, thuộc huyện Hưng-hà, tỉnh Thái-bình. Hưng-yên tỉnh nhất thống chí ghi giản dị: Anh là Lưu Độ-Đàm, em là Lưu Ba có công đánh Tống, bình chiêm, được phong chức Tiết-độ sứ. Sau khi mất được dân chúng lập đền thờ, mộ cũng chôn tại đấy. Trong đền thờ có tấm hoành phi sơn son thiếp vàng khắc bài thơ của vua Lê Hiển-Tông đề, nhắc công lao hai vị. Nhiều người lầm Lưu Độ-Đàm tức Ngô Ức với Lưu Khánh-Đàm sau này. Về Lưu Khánh-Đàm, Đại-Việt sử ký toàn thư, Lý kỷ, Nhân-tông bản kỷ chép rằng niên hiệu Thiên-phù Khánh-thọ, tháng 12 (DL 1228) vua Lý Nhân-tông sắp băng, tuyên triệu Thái-úy Lưu Khánh-Đàm vào cung để thác việc lập thái tử Dương-Hoán nối ngôi, lại cũng ghi Khánh-Đàm mất năm Thiên-chương Bảo-tự thứ tư (DL.1136). Tài liệu ghi chép. Việt-Nam, Hưng-yên tỉnh nhất thống chí, Đại-Việt sử ký toàn thư ( Lý kỷ, Nhân-tông kỷ). Trung-quốc a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. Trên đây, tôi đã dẫn quý độc giả lướt sơ qua trang sử anh hùng thời Tiêu-sơn. Tôi xin ngừng ở đây, và mời quý độc giả đi vào hào quang của tổ tiên ta để lại, trong bộ Nam quốc sơn hà này. Viết tại Pontault Combault, Pháp-quốc, mùa hè, tháng sáu, năm Ất-hợi (1995). Yên-tử cư-sĩ Trần-Đại-Sỹ.2 likes -
Mời mọi người tham gia facebook của Sư phụ thiên sứ và giới thiệu đến bạn bè của mình nhé :lol: http://www.facebook.com/?ref=home#!/pa...30440546?ref=ts Sẽ rất vui đấy :P2 likes
-
2 likes
-
"Bí hiểm cầu "ma ám" Thứ Hai, ngày 24/05/2010, 08:09 (24h) - Một cây cầu được xây dựng cực kỳ hiện đại và kiên cố. Tuy nhiên bỗng chốc cầu lại uốn lượn như một dải lụa. Hãy xem video để thấy cây cầu bị "ma ám" như thế nào. Cây cầu bị "ma ám" Xem Video ở đây: http://hn.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/bi...c46a298834.html Nếu không xem được video vui lòng bấm vào đây để tải và cài flash player2 likes
-
Chiến Trường Tống Lý
fansipan and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Tôi biên tập - chủ yếu là sắp xếp các mục và sửa chính tả. Nhờ Artmisia đưa vào trang chủ.Cảm ơn nhiều. --------------------------------------- Đi thăm chiến trường thời Tống Lý. (Tựa bộ Nam Quốc Sơn Hà) Thư viết cho tuổi trẻ tộc Việt Để giải những nghi vấn lịch sử : Những giòng dưới đây tôi viết dành cho tuổi trẻ Việt, chưa có chút vốn về thư tịch của chiến thắng Bắc phạt thời Lý, đánh chiếm các châu Ung, Liêm, Dung, Nghi, Bạch. Mong những bậc cao minh bỏ qua. Chẳng nên bận tâm. Trân trọng. I - Mở đầu. Hồi còn để chỏm, tiền nhân giảng dạy sử Hoa-Việt cho tôi, mỗi khi đề cập đến những chiến công oanh liệt của năm lần phạt Tống, một lần kháng Tống thời Lý, các người thường giảng rất kỹ, rất chi tiết, cùng bình luận. Nhưng chỉ giảng kỹ bốn lần đầu thôi. Còn lần cuối, với lần kháng Tống, vĩ đại nhất, oanh liệt nhất thì lại lướt qua. Trong khi lướt qua, các người ít chịu nhắc đến huân nghiệp của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt; thảng hoặc bất đắc dĩ phải đề cập đến, thì nói bằng giọng lạnh nhạt : « Người cầm quân đánh sang Khâm, Ung, Liêm là ngài Tôn Đản, công-chúa Ngô Cẩm-Thi với viên hoạn quan Lý Thường-Kiệt» Rồi khi khuyên tôi Viết lịch-sử tiểu-thuyết, chỉ khuyên viết các bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam, thuật cuộc khởi nghĩa của vua Trưng cùng 162 tướng; Anh hùng Đông-a thuật cuộc bình Mông thời Trần; Anh hùng Lam-sơn, thuật cuộc khởi nghĩa của vua Lê; Anh-hùngTây-sơn, thuật chiến công đánh Mãn-thanh của vua Quang-Trung. Còn những chiến công thời Lý thì bỏ qua. Tâm lý chung của tuổi trẻ là tò mò. Vì các người không nhắc đến, thì tôi lại âm thầm tìm hiểu. Mỗi khi tìm thấy những điều mới lạ, mà người trên không biết, không cần biết tới, không muốn biết, tôi lại cảm thấy thú vị. Sau lớn lên, tôi mới biết rằng sở dĩ các người lãnh đạm với huân nghiệp của Lý Thái-úy, vì ngài là một hoạn quan. Mà trong lịch sử Hoa-Việt, các Nho-gia cực kỳ ghét bọn hoạn quan. Vì bọn này thường nhờ vào vị thế hầu hạ, tôi tớ các vị vua, các bà trong hậu cung, rồi lộng quyền, làm hại dân, hại nước. Chính vì thế, mà tiền nhân tôi không khuyến khích tôi viết về thời Lý, chứ không cấm. Những năm sau 1975, tôi làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaceutique, viết tắt là CEP) , Viện Pháp-á (Institut Franco- Asiatique, viết tắt là IFA), Ủy-ban y học Pháp-Hoa (Comité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), có nhiều phương tiện tìm hiểu lịch sử thời Lý, tôi thấy rằng: Vì thiếu sử liệu, nên các sử gia Việt chỉ biết tên có hai tướng cầm quân Bắc phạt là Lý Thường-Kệt với Tôn Đản; rồi cho rằng huân công Bắc phạt, kháng Tống là của hai vị này. Trên thực tế, hai vị này chỉ là hai trong mấy chục anh hùng thời đó. Vì vậy, không ngần ngại, tôi đã viết năm bộ về thời Tiêu-sơn, dù tiền nhân không khuyến khích (chứ không cấm). - Một là, Anh-hùng Tiêu-sơn, 3 quyển, 907 trang, thuật công nghiệp của các vị tăng ni yêu nước đã lập lên triều Lý; cuộc Bắc-phạt lần thứ nhất. - Hai là, Thuận-Thiên di sử, 3 quyển, 909 trang, thuật việc dùng đức từ-bi, bác-ái của nhà Phật; nhân-nghĩa của nhà Nho để trị nước...Khiến sử gia Hoa, Việt không ngớt khen ngợi rằng đây là thời kỳ dân Việt sung sướng như thời Nghiêu, Thuấn bên Trung-hoa. Nhưng sự thực các sử gia Trung-quốc đã lầm. Vua Lý Thái-tổ đã dùng chủ đạo của tộc Việt (Idéology) cai trị dân mà thôi. - Ba là, Anh-hùng Bắc-cương, thuật công cuộc giữ nước của 207 bộ tộc của các sắc dân thiểu số ở biên giới Hoa-Việt; cùng cuộc Bắc phạt lần thứ nhì. Tôi cũng trình bầy rất chi tiết, rất rõ ràng những vùng như núi Ngũ-lĩnh, sông Tương với ba địa danh Tương-trung, Tương-âu, Tương-Nam là nơi phát sinh ra Quốc-mẫu Âu-Cơ. Nhất là trình bầy vùng đất linh của tộc Việt : Núi Thiên-đài, nơi vua Đế Minh lập đàn tế cáo trời đất phân chia lãnh thổ cho Trung-nguyên, Lĩnh-Nam. - Bốn là, Anh-linh thần võ tộc Việt, thuật cuộc Bắc-phạt lần thứ ba. Sang lần thứ tư giúp Nùng Trí Cao chiếm lại lãnh thổ thời vua Hùng, vua An-Dương , vua Trưng, lập nước Đại-Nam. - Năm là, Nam-quốc sơn hà, thuật cuộc Bắc phạt lần thứ năm, và cuộc kháng Tống. Trong năm bộ trên, với những sử liệu tìm được, tôi đã trình bầy không biết bao nhiêu bí ẩn lịch sử tiềm ẩn trong các sách Hoa-Việt, bao gồm: Quốc-sử, địa dư chí (quốc chí, địa phương chí, phủ huyện chí), truyện ký, thần-tích ngọc phả, mộ-chí, bia-đá, gia-phả. Trong ba bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại-sử, Cẩm-khê di-hận, cứ mỗi cuối hồi, cuối một quyển, tôi lại chú giải, ghi chép các sử liệu, để giới trẻ biết nguồn gốc sử liệu, mà tìm hiểu sâu sa hơn. Sang bốn bộ Anh-hùng Tiêu-sơn, Thuận-Thiên di sử, Anhhùng Bắc-cương, với ý nghĩ lẩm cẩm rằng: Chú giải, ghi chép thêm là thừa, nên giới trẻ có nhiều ngộ nhận : Chính những sự kiện lịch-sử, thì bị coi là tiểu thuyết, những yếu tố tiểu thuyết lại được coi là lịch sử. Cho nên sang bộ Nam-quốc sơn-hà, lúc đầu, tôi chú giải sau mỗi hồi. Nhưng tiếp xúc với ông Trương Đình-Nho, giám đốc nhà xuất bản Đại-Nam, tôi mới biết rằng: Khi đọc đến chỗ chú giải, độc giả lại phải mất công lật xuống cuối hồi để tìm tòi; sao bằng chú giải ngay dưới sự kiện. Đây là một kinh nghiệm mà tôi học được. Cho nên sang quyển hai, thì tôi không còn chú giải ở cuối hồi nữa. Bây giờ tái bản ở trong nước, tôi quyết định, tất cả chú giải ngay dưới sự kiện. II - Làm sáng tỏ những sự kiện lịch sử thời Lý Trong bộ Nam-quốc sơn hà này, tôi cố gắng trình bầy một số sự kiện lịch-sử. Trước tiên là: II - 1. Bốn nghi vấn lịch sử Trong năm bộ sách, thì bộ cuối cùng là bộ tôi đắc ý nhất. Nam-quốc sơn-hà là bốn chữ lấy trong bài thơ, tương truyền của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt, sáng tác trong trận đánh sông Như-nguyệt với quân Tống vào năm 1076: Nam-quốc sơn hà, Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư. Như-hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Nghĩa là, Nước Nam là nơi vua nước Nam cai trị, Điều này đã định tại bộ sách trời. Bọn giặc kia, sao dám xâm phạm ? Nhất định bọn bay sẽ phải đại bại. Bài thơ này đến nay (1996) trải 920 năm, mà dường như hầu hết người đọc đều hiểu lầm ý nghĩa chữ Thiên-thư. Các sách đều giải thích rằng Lý Thường Kiệt dùng chữ Thiên-thư như một vật thể trừu tượng là ý trời. Cũng có sách không giải thích. Hồi niên thiếu, khi được tiền nhân giảng Tống-sử, phần Chân-tông bản kỷ, tôi đã được giải thích tỷ mỉ. Thiên-thư là tên một bộ sách, được soạn vào thời vua Tống Chân-tông. Việc chép Thiên-thư này, được ghi rõ trong Tống-sử quyển 7, Chân-tông bản kỷ, trang 135. Sự thực bấy giờ phía Bắc Tống bị Liêu uy hiếp, bắt cắt đất, nộp vàng lụa. Phía Tây bị Tây-hạ tấn công. Phía Nam bị Đại-Việt ép. Bọn 5 gian thần bị Tống-sử gọi là Ngũquỷ gồm Vương Khâm Nhược, Trần Nghiêu Tá (Tẩu) , Đinh Vị, Trần Bành Niên, Lưu Thừa Hoa mới bầy ra trò bịp bợm. Niên hiệu Đại-trung Tường-phù đời vua Chân-Tông (1008) thay vì tổ chức binh bị giữ nước, thì Tể-tướng Vương Khâm Nhược đề nghị nên dùng hình thức Phong-thiện, tức tế cáo trời đất ở núi Thái-sơn để trấn phục bốn phương. Nhưng muốn tỏ ra việc cúng tế đó là linh ứng tự trời, cần phải tạo ra bộ sách, dối là Thiên thư, của Thiên-đình ban xuống. Bộ sách này được chính Tể-tướng Vương Khâm Nhược, điều động một số văn thần soạn, đến tháng ba niên hiệu Thiên-hy thứ ba ( Kỷ Mùi 1019, vẫn thời vua Chân-Tông) thì xong. Vua sai viên Tuần-kiểm Chu Năng cùng viên Thái-giám Chu Hoài Chính đem dấu vào hang núi Càn-hựu, phía Nam Trường-an, rồi sai bọn đồng cốt nói rằng : « Từ nghìn xưa, có sách từ trời rơi xuống hang núi Càn-hựu ». Song sĩ dân không ai tin. Bấy giờ danh sĩ Khấu Chuẩn, trước từng là Tể-tướng, bị biếm vì tội nói thẳng, rất được sĩ dân tin tưởng. Oâng đang trấn nhậm đạo Vĩnh-hưng quân gần núi Càn Hựu. Sĩ dân nói rằng : « Cái vụ Thiên-thư là bịa đặt. Nếu như có thì ắt Khấu Chuẩn đã dâng về triều ». Vua Chân-Tông mật sai Chu Hoài Chính ngỏ ý rằng Khấu Chuẩn nên giả vào núi, tìm thấy Thiên-tư rồi dâng lên vua, sẽ được vua tái trọng dụng. Lúc đầu Khấu Chuẩn từ chối, nhưng vì say quyền hành, muốn về triều, ông phải bán rẻ cái chính khí. Khi ông mang Thiên-thư về Biện-kinh, nhà vua thân ra cổng thành rước. Dĩ nhiên Khấu Chuẩn thanh vân đắc lộ. Thế là tháng sáu năm đó, Vương Khâm Nhược chết, Khấu Chuẩn được phong chức Tể-tướng kiêm Lại-bộ thượng-thư. Một danh sĩ đương thời là Ngụy Dã người Thiểm-châu đã đã làm một bài thơ châm biếm Khấu Chuẩn. Khấu Chuẩn đau lắm, ông làm thơ để biện luận cho mình như sau : Tặng Ngụy dã xử sĩ. Nhân văn danh lợi tẩu trần ai, Duy tử cao nhàn hối thịnh tài. Hâm chẳm dạ phong huyên tiết lệ, Bế môn xuân vũ trưởng môi đài. Thi đề viễn tụ kinh niên đắc. Tăng luyến u hiên kế nhật lai, Khước khủng minh quân trưng ẩn dật, Khê vân nan đắc, cận bồi hồi. Dịch. Người đời danh lợi thích bon chen, Duy chỉ ngài đây quả thực nhàn. Ôm gối ngồi nghe thanh gió thổi, Mưa xuân, cửa khép cảnh rêu lan. Hang núi xa xăm thư gửi lại, Tăng nhân yêu thích hiên hoang tàn. Chỉ sợ vua trưng người ở ẩn, Còn đâu mây, suối cảnh xanh lam ! Thế rồi, triều đình tế cáo khắp nơi, nào núi Thái-sơn, nào Khổng-miếu, nào tế Đạo-tổ. Các châu quận cũng tế , dân cũng tế, náo loạn cả nước. Nội dung Thiên-thư nói rằng : Vua Trung-nguyên là thiên-tử được sai xuống cai trị Thiên-hạ. Sắc dân Bắc là Địch, Tây là Nhung, Đông là Di, Nam là Man phải quy phục. Trong sách cũng định rõ cương thổ của Trung-nguyên với bốn vùng Đông, Tây, Nam, Bắc. Sách lại được vua cho người núp trên các nóc đền thờ Tam-hoàng, Ngũ-đế đọc. Dân chúng nghe thấy tưởng đâu trời sai thiên tướng xuống đọc. Họ chép lại rồi lưu truyền. Sau vụ này tinh thần quân, dân Tống hưng khởi lên, giữ được cương giới phía Bắc hơn năm mươi năm. Ghi chú: Bộ sách này Trung-hoa thư cục Bắc-kinh có tái bản nhiều lần, bản mà tôi đọc là bản do Bắc-kinh đệ nhị Tân-hoa ấn chế xưởng in năm 1965. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết đem quân sang đánh Đại-Việt, quân Tống tiến tới sông Như-nguyệt, chỉ còn cách Thăng-long có 25 km. Lý Thường-Kiệt cho làm bài thơ, ngụ ý Thiên-thư đã định ranh giới Hoa-Việt, kẻ nào xâm lăng Đại-Việt là trái với sách trời, ắt phải bại. Sau đó ông sai người núp trong đền thờ chư thần, mà đọc. Binh tướng Tống nghe được, lại tưởng là trời sai thần xuống kể tội, rồi truyền nhau về sự tích Thiên-thư, về trận đánh Hỏa-giáp. Họ thì thầm: Như vậy việc Tống ra quân trái với Thiên-thư, thì trước sau rồi cũng đến chết hết. Đó là một nguyên do đưa đến quân Tống mất hết tinh thần chiến đấu, rồi bị bại. Suốt 920 năm qua, người Việt đọc bài thơ trên thấy câu ”Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư” thì cứ cho thiên thư là danh từ chung để chỉ sách trời do Thường-Kiệt bịa ra; không ai biết rằng đó là danh tự riêng để chỉ bộ sách ra đời vào thời vua Chân-Tông. Vì hệ thống tuyên truyền của Tống triều trải từ thời Chân-Tông qua thời Nhân- Tông, Anh-Tông, bấy giờ là thời Thần-tông, (1076) trên từ vua, đại thần, cho đến dân Trung-hoa đều tin vào Thiên-thư nên Thường-Kiệt mới nhân đó, dùng gậy ông đập lưng ông. Chỉ độc giả Nam-quốc sơn hà mới hiểu rõ ý nghĩa chữ Thiên-thư này mà thôi. Thái-úy Lý Thường-Kiệt là nhân vật tài trí bậc nhất thời Thần-vũ (Lý Thánh-tông) và Anhvũ Chiêu-thắng (Lý Nhân-tông). Ngài là một anh hùng đã lập được huân công vĩ đại cho tộc Việt. Hiện còn nhiều đền thờ ngài. Tôi đã được viếng thăm đền thờ tại xã Ngọ-xá, huyện Vĩnh-lộc, tỉnh Thanh-hóa hai lần. Hiện hầu hết các đền thờ anh hùng dân tộc trong nước đều được dân địa phương trùng tu rất khang trang. Nhưng dân Ngọ-xá quá nghèo, vì vậy đền tiêu điều như hình trên.(Hình chụp tháng 8-2001) Trên giữa cổng chính là ba chữ Lý Đại Vương (chữ Lý ở giữa. Bên phải là chừ Đại, bên trái là chữ Vương. Đôi câu đối cổng chính: Phạt Tống, bình Chiêm vạn cổ danh phương thùy vũ trụ, Hộ dân bảo quốc thiên thu công đức quán sơn hà. (Phạt Tống, bình Chiêm tiếng thơm vạn cổ tràn vũ trụ. Giúp dân, giữ nước, công đức nghìn thu khắp non sông). Hình dưới là cổng phụ bên trái, đôi câu đối là: Anh hùng chí khí sinh dũng tướng, Hào kiệt uy phong hóa phúc thần. (Chí khí anh hùng sinh tướng mạnh, Oai phong hào kiệt hóa phúc thần) Còn cổng bên phải có đôi câu đối: Hách hách uy phong trừ nội nghịch, Đường đường kính khí diệt ngoại xâm. (Uy phong hách hách trừ phản tặc, Khí cứng đường đường diệt ngoại xâm) Tưởng niệm vị đại anh hùng dân tộc, mà không có lối vào nên nét mặt như bị bỏ đói mấy ngày! Hình chụp năm 1994, cổng vào đền thờ của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt tại xã Ngọ-xá, huyện Vĩnh-lộc, tỉnh Thanh-hóa: Cánh cổng không còn. Thuật giả muốn vào thắp hương tưởng niệm vị đại anh hùng dân tộc, mà không có lối vào nên nét mặt như bị bỏ đói mấy ngày! Đền thờ chính Mái ngói lâu ngày đã mục hết. Các đồ thờ bên trong còn mục hơn nữa. Dân xã nghèo quá, ăn không đủ, lấy tiền đâu mà cúng, mà trùng tu Nội dung bộ Nam-quốc sơn hà thuật giai đoạn hùng tráng nhất lịch sử Việt-Nam. Phía Nam, bình Chiêm, sát nhập ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh vào lãnh thổ Đại- Việt. Phía Bắc ba lần đánh Tống. Đây là cuộc Bắc-phạt lừng danh nhất lịch-sử Việt-Nam. Bởi các chiến công khác đều là cuộc kháng chiến giữ nước, còn cuộc đánh Tống này, do Đại-Việt khởi sự, chiến cuộc diễn ra trên đất Trung-nguyên. Tiếp theo, Đại-Việt lại đánh bại cuộc xâm lăng của Tống, trả thù trận Ung, Liêm, Khâm. Chiến công có một không hai trong lịch-sử Đại-Việt này vĩ đại biết là chừng nào, thế nhưng những bộ sử như Đại-Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), Việt-sử lược (VSL), Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), chỉ dành chỗ cho khoảng một trang mà thôi. Trong khi Tống-sử (TS), Tục tư trị thông giám trường biên (TTTTGTB), Ung-châu kỷ sự (UCKS)ï, Tống Thần-tông thực lục (TTTTL), Quách thị Nam-chinh (QTNC), Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ ký (TTCTGCK), Tống triều công thần bi ký (TTCTBK) của Trung-quốc lại chép rất chi tiết tỷ mỉ. Vì sự khác thường ấy, người sau đặt ra những nghi vấn lớn như: II.1.1. - Nghi vấn thứ nhất : Người lãnh đạo. Một là, chiến cuộc xẩy ra trong ba năm 1075, 1076, 1077, dưới thời vua Lý Nhân Tông. Bấy giờ vua mới chín tuổi, cho rằng vua thông minh, tài trí đi; thì với cái tuổi đó làm sao có thể quyết định một việc lớn như vậy? Làm sao có đủ khả năng chỉ huy tiếp vận cho một chiến cuộc vĩ đại như vậy? Thế ai là người lãnh đạo Đại-Việt bấy giờ? Ai là người tổ chức tiếp vận? II.1.2. - Nghi vấn thứ nhì :Tiểu sử các tướng. Hai là, sử sách đều cho rằng chiến công này của Lý Thường-Kiệt và Tôn Đản. Ngoài ra còn nhắc đến một vài tên nữa như hoàng tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn, đô-đốc Lý Kế-Nguyên, lang tướng Nguyễn Căn. Trong khi truyền-sử lại nói có 18 tướng và 18 phunhân đã chiến đấu oanh liệt, rồi tuẫn quốc. Thế 18 tướng ấy hành trạng ra sao? Huân nghiệp thế nào? Gia phả của họ Lý ở Hùng-xuyên, Đại-hàn cũng có đôi câu đối nói về việc này: Thập bát anh hùng, giai Phù-đổng, Tam thiên nữ kiệt, tỷ Mê-linh. Nghĩa là: Mười tám anh hùng đều là con cháu Phù-Đổng thiên vương, ba nghìn nữ kiệt đều sánh với gái Mê-linh (để chỉ nữ binh thời Trưng-vương). II. 1.3. - Nghi vấn thứ ba: Tôn Đản là ai ? Ba là, ngay hai tướng lịch sử ghi danh là Tôn Đản, Lý Thường-Kiệt, thì cũng không biết Tôn Đản là ai. Thế tiểu sử ngài ra sao? Sử cũ cho rằng ngài là một tướng nào đó. Lại có những người đưa ra lý luận ngớ ngẩn, nhân thấy âm Tôn Đản với Nùng Tông-Đán hơi giống nhau, thì cho ngay rằng Tôn Đản chính là tên Nùng phản phúc Nùng Tông-Đán đã theo Tống từ lâu. II. 1.4. - Nghi vấn thứ tư :Ý nghĩa bài thơ đánh Tống. Bốn là, chữ Thiên-thư trong bài thơ trên, người sau không tham khảo kỹ Tống-sử, cho rằng thiên-thư là danh từ chung, Lý Thường-Kiệt dùng như một hiện thể trừu tượng để chỉ ý trời. Nhưng thực ra đó là tên bộ sách làm chủ đạo cho Tống triều mang tên Thiên-thư nghị chế. Lý Thường-Kiệt dùng gậy ông đập lưng ông. Dưới đây tôi xin giải các nghi vấn đó. II - 2 - 1. Về nghi vấn thứ nhất, Người chỉ đạo cuộc chiến là Linh Nhân hoàng thái hậu. Người chỉ đạo, cũng là người nắm vững guồng máy cai trị, bảo đảm an ninh hậu phương, tiếp vận cho tiền tuyến là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Nhưng tại sao sử Việt lại không chép sự kiện này? II. 2. 1.1. Lý do sử Việt không chỉ rõ, Ta thấy nguyên nhân có ba: * Một là sự nhập cung của bà có hơi khác thường. Vua gặp gỡ giữa đường, đem về phong là Ỷ-Lan phu-nhân. Khác với tất cả cung-phi khác, phải qua nhiều cuộc tuyển chọn phức tạp. Bà nhập cung vượt ra khỏi luật lệ Lý triều, nên chi người sau cho rằng bà chỉ là một cô gái quê tầm thường, nhờ con làm vua, mà trở thành Linh-Nhân hoàng thái hậu, rồi nhiếp chính. * Hai là, sau Linh-Nhân hoàng thái hậu, triều Lý có đến ba bà thái-hậu nhiếp chính rồi lăng loàn, dâm đãng, đưa đến mất nghiệp. Đó là Lê thái hậu vợ vua Thần-tông; Đỗ thái hậu vợ vua Anh-tông và Trần thái hậu vợ vua Huệ-tông. Các Nho gia với quan niệm: Sử là tấm gương cho người sau soi chung, nên không muốn có sự tham dự của đàn bà vào chính sự, mà dân gian gọi là tình trạng gà mái gáy. Vì vậy khi chép sử, các sử gia đã bỏ bà ra ngoài huân nghiệp vĩ đại của Linh-Nhân hoàng thái hậu. * Trong thực tế, chúng ta thấy chính Linh-Nhân hoàng thái hậu là người lãnh đạo cuộc Bắc phạt. Tôn Đản, Lý Thường-Kiệt chỉ là tướng cầm quân mà thôi. Vì: * Bấy giờ vua Nhân-tông mới chín tuổi, Linh-Nhân hoàng thái hậu nhiếp chính. Nói khác đi là cầm quyền. Bảo rằng nhà vua chỉ đạo, thì không ai có thể chấp nhận. Vì với tuổi đó, dù thông minh chăng nữa, nhà vua cũng không đủ trí khôn, kiến thức để thấu đáo vấn đề; huống hồ đưa ra quyết định lớn lao, táo bạo. * Cuộc Bắc phạt thời Thái-Ninh (1075) với đạo quân hơn mười vạn người ngựa, ít ra cũng phải có 40 vạn dân phu chuyên chở, tiếp tế lương thảo; chi tiêu cực kỳ tốn kém. Tiếp theo là cuộc kháng Tống giữ nước. Những công việc khó khăn đó, đòi hỏi ba điều. Một là nền cai trị vững chắc để có an ninh ở hậu phương. Hai là tiếp vận lương thảo, cực kỳ tốn của, tốn sức người. Ba là bổ xung tổn thất; phi người tài trí, không đương nổi. Vì thế trong bộ Nam-quốc sơn hà tôi sẽ trình bầy rõ: Linh-Nhân hoàng thái hậu đã dùng tới bẩy phụ tá, như một siêu triều đình. Đó là công chúa Thiên-Ninh, Thiên-Thành, Động-Thiên, vương phi Trung-Thành vương là Nguyễn-thị Trinh-Dung, vương phi Tín-Nghĩa vương Lê Ngọc- Nam, phu nhân tướng Nguyễn-Căn là Vũ Thanh-Thảo, phu nhân tướng Bùi Hoàng-Quan là Trần Ngọc-Huệ. Điều này chưa một sử sách Việt nào nói tới. * Cũng có người bảo rằng chính Thái-sư Lý Đạo-Thành đã chủ trương, chỉ đạo cuộc Bắc phạt. Vô lý, bởi ông bị Linh-Nhân hoàng thái hậu đầy vào Thanh-Nghệ, chỉ được ân xá về triều để giúp việc nội trị khi cất quân Bắc phạt. Hơn nữa ông là người chủ hòa, lại ở vào tuổi tám mươi hơn, nên quyết định Bắc phạt không thể là ông; mà phải là Linh-Nhân hoàng thái hậu. * Bảo rằng, quyết định này của Lý Thường-Kiệt ư? Có thể. Bấy giờ Thường- Kiệt lĩnh chức Thái-úy (QTNC nói ông lĩnh chức Đại-tư-mã), nhưng quyết định tối hậu vẫn là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Bởi ngay thời vua Thánh-tông còn tại thế, trong khi bình Chiêm, đã giao quyền cho bà. Không những bà tổ chức cai trị, tiếp vận chu đáo; mà còn tỏ ra xuất sắc hơn nhà vua trong lúc không chiến tranh nữa. II. 2.1. 2. Di tích về Linh-Nhân hoàng thái hậu. Vì những huân nghiệp vĩ đại, nên sau khi băng hà, bà được thờ kính khắp nơi. Tôi tạm ghi ở đây những đền hiện nay (1995) vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói, vì ngài rất linh ứng: * Phú-thị từ (Đền Phú-thị) Ở xã Phú-thị, tiếng nôm là làng Sủi (tên thời Lý là làng Thổ-lỗi hay Thổ-lội, sau đổi ra Siêu-loại), thuộc tổng Kim-sơn, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh cũ, nay thuộc Hà-nội. Tài liệu ghi chép: Bắc-ninh tỉnh thần tích. * Lý thái hậu từ (Đền Lý Thái-hậu) Ở xã Dương-xá, tổng Dương-quang, huyện Siêu-loại tỉnh Bắc-ninh, sau thuộc tỉnh Hà-Bắc. Nay là xã Dương-xá huyện Gia-lâm, Hà-nội. Tài liệu ghi chép: Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. Cổng chính từ ngoài vào Hình chụp năm 1994, tại xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội: một trong 72 ngôi chùa, Linh-Nhân hoàng Thái-hậu (Minh-Đệ) xây để đáp lời hứa với Minh-Không thiền sư. Chùa này nằm trong cùng khuôn viên với đền thờ ngài * Lý triều đệ tam hoàng thái hậu từ. Ở xã Quang-lệ, huyện Phù-dung, sau là huyện Phù-cừ, tỉnh Hưng-yên, nay là huyện Phù-tiên, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép: Đại-Việt địa dư chí, Bắc-thành địa dư chí lục. * Lý hoàng thái hậu từ. (Đền thờ hoàng thái hậu triều lý). Ở xã Cẩm-cầu, huyện Gia-lộc, tỉnh Hải-dương. Tài liệu ghi chép: Bắc-thành địa dư chí lục. Đồng-Khánh địa dư. Đại-Nam nhất thống chí (Hải-dương). * Hội-châu từ (Đền Hội-châu). Ổ thôn Bản-kỷ, xã Hội-châu, huyên Thanh-quan, nay là huyện Thái-thụy tỉnh Tháibình. Đây là quê ngoại của ngài. Tài liệu ghi chép: Thái-bình địa dư-ký. * Yên-thái từ (đền An-thái). Ở làng Yên-thái, huyện Thọ-xương, nay là số 8, ngõ Tạm-thương, Hà-nội. Tài liệu ghi chép: Kim-cổ thôn bi ký. Hà-nội tỉnh thần tích. 3.7. Cẩm-đới đình. Ở làng Cẩm-đới, tổng Bao-trung, huyện Gia-lộc, nay là Tứ-lộc, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép: Hải-dương tỉnh thần tích. SƯA 3ĐẾNN ĐÂY 3.8. Đồng-thiên quán Một trong bốn quán lớn ở Thăng-long. Hồi sinh thời ngài dựng để thờ Tam-thanh (Ngọc-thanh, Thượng-thanh, Thái-thanh) ở thôn Kim-cổ huyện Thọ-xương. Nay ở số 73 Đường Thành, Hà-nội. Đã bị hủy hoàn toàn, chỉ còn bức tường. Tài liệu ghi chép: Bắc-thành địa dư chí lục. Hoàng-Việt địa dư chí. Thăng-long cổ-tích khảo. Long-biên bách nhị vịnh. Đại-việt địa dư chí. 3.9. Đồng-lâm tự (chùa Đồng-lâm) Chùa nằm ở giữa hai thôn Ngọc-trì và Vệ, xã Cổ-linh, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắcninh. Nay thuộc huyện Gia-lâm Hà-nội. Đây là một trong 72 ngôi chùa, mà hồi sinh thời bà cho dựng lên. Tài liệu ghi chép: Lâm-cổ ký. Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. 4. Những cuộc bình Nam, Bắc phạt thời Tiêu-sơn. Thời Lý (1010-1225) các văn gia xưa gọi là thời Tiêu-sơn, vì Tiêu-sơn là ngọn núi phát tích ra triều Lý. Thời nào Đại-Việt ta cũng có những vị anh hùng xả thân cứu nước. Công nghiệp của các ngài, thành cũng nhiều, mà bại cũng lắm. Dù thành, dù bại, sau khi các ngài lìa thế thì hoặc dân chúng, hoặc các triều đại kế tiếp đều lập đền thờ, để tưởng nhớ huâncông. Ngoài chính sử ra, tại đền thờ các ngài, thường có cuốn phổ (còn gọi là ngọc phổ hay ngọc phả) chép hành trạng. Năm 1407, Trương Phụ, Mộc Thạch đã phá hầu hết di-tích, đền-miếu thờ các ngài đã đành, mà còn thu tất cả các cuốn phổ mang về Kim-lăng. Năm 1428, vua Lê Thái-tổ tái lập nền tự-trị, một số di-tích, đền-miếu được trùng-tu, được táitạo. Những cuốn phổ cũng được chép lại theo trí nhớ, thành ra tam sao thất bản, không còn đúng với sự thực. Lại nữa người Việt có tục kiêng húy, nên những di-tích, đền-miếu tuy đã dựng lại, mà đôi khi người sau không còn nhớ được họ, tên các ngài. Thủa nhỏ, tiền nhân giảng dậy cho tôi rất kỹ về huân-nghiệp của các anh hùng năm nghìn năm tộc Việt. Trong đó có lướt qua cuộc đánh Tống, bình Chiêm thời Tiêu-sơn. 4.1. Các cuộc bình Chiêm. Về bình Chiêm có ba lần. 4.1.1. Lần thứ nhất. Vào thời vua Thái-tổ (1020), người cầm quân là Khai-Thiên vương (sau là vua Thái-tông) với Đào Thạc-Phụ. Mục đích cuộc hành quân chỉ để trừng phạt Chiêm vào cướp phá Nam biên Đại-Việt. 4.1.2. Lần thứ nhì, Do Khai-Quốc vương lãnh-đạo (1044), vua Thái-tông thân chinh, Tôn Đản tổng chỉ huy. Cuộc hành quân này có mục đích phá chủ lực quân Chiêm, vì bấy giờ Chiêm liên kết với Tống, dự trù đánh vào Nam thùy, khi Tống tiến quân vào Bắc-cương. Kết qủa, vua Chiêm là Sạ-Dẩu bị giết tại trận, ta còn bắt cả hoàng hậu Mỵ-Ê mang về. Hai chiến công này đã thuật sơ trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt. 4.1.3. Lần thứ ba (1069) Do vua Thánh-tông thân chinh, Lý Thường-Kiệt tổng chỉ-huy, Tôn Đản làm quân sư. Cuộc hành quân này có hai mục đích; một là phá thế liên minh Tống, Chiêm dự xâm lăng Đại-Việt; hai là chiếm vùng đất Chiêm có nhiều Việt kiều sinh sống. Kết quả, vua Chiêm là Chế-Củ bị bắt cùng với năm vạn quân. Chế-Củ dâng ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh để được ân xá. Cuộc hành quân này được thuật tỷ mỉ trong bộ Nam-quốc sơn-hà. 4.2. Các cuộc phạt Tống. Về việc đánh Tống có sáu lần, thì trong đó có năm lần đánh sang lãnh thổ Trungquốc và một lần kháng chiến chống xâm-lăng. 4.2.1. Lần thứ nhất, Do vua Lý Thái-tổ ban chỉ, Khai-Thiên vương tổng chỉ huy, đánh sang trại Nhưhồng của Tống, để trừng phạt quân Tống tại đây thường vượt biên sang Đại-Việt cướp bóc. Toàn thắng. Cuộc chiến tranh có tính cách trừng phạt một khê-động. 4.2.2. Lần thứ nhì , Do Khai-Quốc vương lãnh đạo, tổng chỉ huy là công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa và phò-mã Thân Thừa-Quý. Mục đích chiếm lại mấy châu động đã mất về Tống, do các biên thần Tống chủ trương. Toàn thắng. Cuộc chiến có tính cách tự vệ, dằn mặt các biên thần Quảng-Tây. Tống triều không chủ trương. 4.2.3. Lần thứ ba, Dưới thời vua Thái-tông, do Khai-Quốc vương lãnh đạo (1053), mục đích chiếm lại lãnh thổ thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng, bị người Hán chiếm mất, rồi đẩy dân Việt về sống ở vùng Bắc-cương thành 207 trang-động. Cuộc khởi binh thành công, đưa Nùng Trí-Cao lên làm vua, lấy lãnh thổ vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, Quý-châu lập thành nước Đại-Nam. Cuộc ra quân này, đã thuật chi tiết trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt. Lúc đầu thắng, sau bị bại. Cuộc chiến tranh có tính cách toàn diện. Đại-Việt không ra mặt khai chiến với Tống. Tống biết, nhưng không dám trả thù. 4.2.4. Lần thứ tư, Cũng do Khai-Quốc vương lãnh đạo, diễn ra dưới thời vua Thánh-tông. Người tổng chỉ huy là công-chúa Bình-Dương với phò mã Thân Thiệu-Thái (1059-1060). Mục đích cuộc Bắc phạt này là chiếm lại một số trang động do các bộ tộc thiểu số tự trị; bị Tống lấn chiếm, hoặc chiêu dụ phản Việt theo Tống. Sau khi chiếm lại các trang đã mất, trả đất cho các tộc bị mất, quân Việt tiến sâu vào vùng Tả-giang, Hữu-giang, chiếm hơn mười ải, giết nhiều tướng Tống. Tống cực kỳ phẫn uất, nhiều đại thần khuyên vua Tống Nhân-tông đem quân sang đánh Đại-Việt để trừng phạt; nhân đó chiếm nước đặt làm quận huyện. Ngặt vì bấy giờ phía Tây, Tống đang mắc họa với Hạ, phía Bắc thì Liêu chiếm đất, đòi cống vàng lụa; vả vua Tống cũng sợ binh hùng tướng mạnh của Đại-Việt, nên bàn hòa. Công-chúa Bình-Dương đòi nhiều điều kiện khắt khe mới chịu rút quân. Tống cũng phải nhượng. Thắng toàn diện. Chiến công oanh liệt trên thuật trong bộ Nam-quốc sơn-hà. Đến đây chiến cuộc leo thang. Đại-Việt ra mặt khai chiến với Tống, nhưng để cho công chúa Bình- Dương, phò-mã Thân Thiệu-Thái làm. 4.2.5. Lần thứ năm, Diễn ra dưới thời vua Nhân-tông vào năm 1075, bấy giờ vua mới chín tuổi, Linh- Nhân hoàng thái hậu phụ chính. Vua còn thơ, chư sự lớn nhỏ đều do Linh-Nhân hoàng thái hậu quyết định. Nguyên do: Vua Tống Thần-tông dùng những cải cách về kinh-tế, nôngnghiệp, binh-bị, tài-chánh của Vương An-Thạch từ năm 1066, đã được chín năm, khiến binh lực trở thành hùng hậu, quốc-sản sung túc. Nhà vua muốn nhân đó tiến quân lên Bắc đánh Liêu, chiếm lại đất cũ, để rửa nhục. Nhưng Vương An-Thạch lại khuyên nên đánh Đại-Việt trước. Sau khi bại Đại-Việt, thì Chiêm-thành, Chân-lạp, Ai-lao, Xiêm-la, Đại-lý phải quy hàng. Bấy giờ dùng nhân lực, tài lực sáu nước, đem lên Bắc, thì thắng Liêu dễ dàng. Vua nghe theo, bí mật cho các châu Nam biên luyện binh, tích trữ lương thảo. Cuộc chuẩn bị được ba năm, thì bị Đại-Việt biết được. Linh-Nhân hoàng thái hậu quyết định: Ngồi yên đợi giặc, sao bằng mình ra tay trước. Mục đích cuộc hành quân là phá hết các kho lương thảo, vũ khí, thành trì, cầu cống, diệt các đạo quân mới huấn luyện của Nam thùy Tống. Thế là cuộc Bắc phạt nổ ra vào cuối năm 1075. Quân Việt tiến đánh 18 ải dọc biên thùy Tống, rồi công phá các châu Khâm, Liêm, Ung, Dung, Nghi, Bạch, cùng diệt viện quân ở núi Đại-giáp. Nhiệm vụ chu toàn rồi, quân Việt rút về. Thắng toàn diện. Đến đây Đại-Việt ra mặt khai chiến với Tống. Cả hai bên cùng đem toàn lực ra đối phó với nhau. 4.3. Kết qủa cuộc Bắc phạt vĩ đại, Cuộc ra quân của Việt lần này quá lớn lao, phá nát kế hoạch cải cách của Tống ở Giang-Nam. Quá uất hận, Tống chịu nhục; nhường Hạ ở phía Tây, cắt đất dâng cho Liêu ở phương Bắc... để cho rảnh tay, rồi họ mang quân nghiêng nước sang định chiếm Đại-Việt đặt làm quận huyện (1076-1077). Nhưng Tống lại bị thất bại phải rút quân về, và chịu hòa. Người có hùng tâm, tráng-chí, lãnh đạo là một thiếu phụ ở tuổi ba mươi, đó là Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan). Còn người Tổng chỉ huy cuộc vượt biên Bắc phạt là Lý Thường- Kiệt, Tôn Đản, Lý Hoằng-Chân, Lý Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên. Nội dung bộ Nam-quốc sơn hà thuật cuộc Bắc phạt, cùng kháng Tống trên. 4.4. Rung chuyển Trung-nguyên, Sau cuộc Bắc phạt, và giữa lúc cuộc kháng Tống của Đại-Việt, chiến cuộc đang diễn ra cực kỳ khốc liệt (1076), Vương An-Thạch bị cách chức Tể-tướng, giáng xuống tri Giang-ninh phủ lĩnh Trấn-Nam quân tiết độ sứ, Đồng-bình chương-sự. Lúc Vương độ giang, bị một nhân sĩ bắt con sâu bỏ lên xe rồi làm bài thơ mỉa mai như sau: Thanh-miêu, trợ-dịch lưỡng phương nông, Thiên hạ ngao ngao oán tướng công. Độc hữu hoàng trùng thiên cảm đức, Hữu tùy xa giá, quá Giang-Đông. Dịch : Thanh-miêu trợ dịch hại canh nông, Thiên hạ nhao nhao oán tướng công. Chỉ có sâu vàng theo tiễn biệt, Cùng trên xa giá, quá Giang-Đông. Có người ví cái thất bại của Vương An-Thạch cũng đau đớn như cái thất bại của Hạng Võ xưa, khuyên Thạch nên tự tử: Khi Hạng-Vương mưu đuổi hươu ở Trung-nguyên, bị thất bại, lui về Nam; lúc qua sông này tự cảm thấy xấu hổ, đã tự tử, mà hậu thế kính phục. Tôi khuyên ông cũng nên tự tử để lưu danh muôn thủa. Nhưng Thạch không đủ can đảm. Tiếc thay, một cuộc cải cách về kinh-tế, binh-bị, tài-chánh, xã-hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ; bị tan vỡ, bị hủy bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại-Việt của Vương An-Thạch. Mà đau đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung-quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung-quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song, e rằng muôn đời mặt trời vẫn ở phương Đông, chứ không ngả về Tây như hồi thế kỷ thứ 18 cho đến nay và bao giờ..???...??? 5. Tìm những danh tướng thời Tiêu-sơn. 5.1. Đi tìm anh hùng nghìn năm trước. Chủ trương Bắc-phạt là của Linh-Nhân hoàng thái hậu. Tướng cầm quân là Thường-Kiệt, Tôn Đản. Thế nhưng không phải chỉ hai tướng ấy mà tạo ra chiến công lừng lẫy như vậy! Phải có thêm nhiều người. Sử nhắc đến Lý Hoằng-Chân, Lý Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên, Nguyễn-Căn. Nhưng vào cái thời đó, cứ một người ra trận, thì phải năm người tiếp vận; ấy là không kể bộ máy kinh-tế, tài-chánh, cai trị để cung cấp nhu cầu cho binh tướng. Vậy những nhân vật nào đã làm bằng ấy công tác? 5.1.1. Tìm trong nhà. Khi tiền nhân giảng về giai đoạn lịch sử này cho tôi, các người thường than thở rằng: Tương truyền bấy có sáu vị nữ quan, phụ trách sáu bộ, cạnh Linh-Nhân hoàng thái hậu như một siêu chính phủ. Thế mà nay sử sách không lưu truyền sáu bà ấy là những bà nào. Lại nữa, trong cuộc đánh Tống, Việt có mười tám tướng, cùng mười tám phu nhân cũng là mười tám nữ tướng; mà mười hai vị xuất thân cùng khổ; tất cả đều tuẫn quốc trong trận kháng Tống, nhưng tiếc thay tiểu sử lại rất mơ hồ. Nếu nói quá đi, gần như không còn. Lúc lớn lên, tôi có tìm đọc những sách do Quốc-sử quán triều Nguyễn soạn để tìm hiểu thêm. Về sử như Đại-Nam thực lục tiền biên, Đại-Nam thực lục chính biên. Về chí như Đại-Nam nhất thống chí, Đại-Nam quận huyện phong thổ vật lược chí, các bộ Địaphương chí, Phủ-huyện chí, Truyện ký, Thần-tích, Ngọc-phả. Nhưng cũng không tìm ra được chút ánh sáng nào. 5.1.2. Tìm ở nước người. Cho đến khi ra trường (1964) có chỗ đứng trong xã hội về tài chính, có phương tiện, tôi đã lần mua đọc các bộ sách của Trung-quốc. Từ những bộ lớn như: Tục tư trị thông giám trường biên, Tống Thần-tông thực lục, Tống-sử v.v. tới những bộ nhỏ như Ung-châu kỷ-sự, Hy-Ninh cảo lục. Nhưng cũng không tìm ra được gì hơn. Phải chờ đến giai đoạn 1977-1995, nhờ đi trong phái đoàn trao đổi y-học Pháp-Hoa (CMFC), Liên-hiệp các viện bào chế châu Aâu (CEP), viện Pháp-Á (IFA) tôi có dịp lần mò vào những thư viện, bảo tàng địa phương Trung-quốc. - Nào thư-viện, bảo-tàng cao nhất của cấp tỉnh, nào thư viện đại học Văn-sử, nào thư viện đại học Sư-phạm... cho tới thư-viện cấp huyện của các tỉnh Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-châu, Hồ-Nam. - Tôi đã đi Nam-ninh (Ung-châu) lên núi Đại-giáp, Hỏa-giáp, suối Ngọc-tuyền; tới Khâmchâu, Liêm-châu để quan sát địa hình chiến trường thời Tống-Lý. - Nhờ các cuốn địa-phương chí, nhân vật chí, địa dư chí từ đời Minh, đời Thanh còn lưu truyền; tôi tìm ra đền thờ các tướng Tống tử trận trong chiến tranh Tống-Lý, được lập đền thờ. Trong các chí đó, có nói đến nhiều danh tướng Việt. - Tôi cũng lần mò đọc các tấm bia ở ngoại ô Nam-ninh trên gò chôn tập thể dân quân Tống chết trong trận Ung-châu. Tại núi Đại-giáp, tôi được thăm lăng mộ, đền thờ, đọc bia ký của năm tướng Trương Thủ-Tiết, Hứa Dự, Ôn Nguyên-Dụ, Trương Biện, Vương Trấn. Các tướng này tử trận khi mang quân cứu viện thành Ung. Trong các bia, phổ, gia phả của năm tướng, thuật rất chi tiết về chiến cuộc Côn-lôn, Đại-giáp, và nhắc đến tên nhiều tướng Đại-Việt. Cảm động nhất là trong khi viếng đền, tôi được gặp hậu dụệ chư tướng ấy đang họp nhau, quyên góp tiền trùng tu đền. Họ đem sổ vàng ra, khiến tôi không biết phải hành-xử như thế nào? Bởi cúng, thì tôi còn mặt mũi nào để đến quỳ gối tại đền thờ Linh- Nhân hoàng thái hậu? Công chúa Thiên-Ninh, và 18 anh-hùng tuẫn quốc thời Thái-Ninh! Mà chối thì hóa ra người hẹp hòi, gây khó khăn khi mượn gia phải của chư tướng Tống để tìm tài liệu lịch sử! Cuối cùng tôi đành để người bạn gái người Hoa là danh ca Chu Cẩm- Hồ cúng một số tiền nhỏ (500 $ US, dĩ nhiên tiền đó của tôi), gọi là tưởng nhớ những người trung-nghĩa mà bỏ mình. - Tại một số thư viện khác, tôi đã tìm ra không biết biết bao tài liệu quý báu. Tài liệu quý nhất là bộ Tống triều công thần bi ký nội dung chép văn bia, mộ chí của hầu hết những nhân vật văn võ thời Tống liên quan đến Đại-Việt. Nhờ nội dung văn-bia, tôi biết thêm nhiều chi tiết lịch-sử, mà trong các bộ sử lớn, nhỏ không chép. 5.1.3. Tìm di tích bằng y-khoa. Xin mở cái ngoặc ở đây: Khi chúng tôi sang Trung-quốc công tác cho CMFC thường có hai phái đoàn, một phái « trao tức giảng dạy cho người, một phải đoàn « đổi tức học của người. Lúc đầu tôi đi trong các phái đoàn với tư cách thông dịch viên, sau kiêm thêm liên lạc tổ chức, rồi dần dần (sống lâu lên lão làng) tôi làm trưởng phái đoàn cho đến nay (1995). Vì dịch riết rồi những vấn đề dịch nhập tâm, lĩnh hội được, nên tôi thu thái rất nhiều khi « trao. Như trước 1978 tôi chỉ có một số kiến thức khiêm tốn về giải phẫu chỉnh hình (orthopédie), nhất là giải-phẫu thẩm mỹ như lột da, căng da, cắt mắt, nâng cao mũi, lấy mỡ bụng, làm môi trái đào, sửa ngực. Đến năm 1981 tôi nghiễm nhiên trở thành phụ giảng khi trao, và từ năm 1986, tôi là một trong những giảng viên về các món lỉnh kỉnh này. Tôi nghĩ: Xưa Lã Bất-Bi buôn vua, thì nay tôi cũng buôn y-học. Tôi dùng khả năng y-học thẩm mỹ để làm quen với quý bà. Ở cái xã hội nào cũng thế, các bà đều thích đẹp, và cồng bà bao giờ cũng mạnh hơn lệnh ông. Lệ không thành văn của phái đoàn trao đổi y-học là: Ngoài công tác chính tại các đại-học, bệnh viện, các giáo-sư có quyền điều trị cho dân chúng, nhưng không được nhận thù lao. Dùng cái võ công lột da mặt, cắt mắt, làm môi trái đào, lấy mỡ bụng, nâng cao mũi, tôi đã thành con mọt sách lớn, lọt vào được những tủ sách gia đình, địa phương của nhiều tộc mà tôi muốn. Tôi đã làm quen, đã tìm lại được giòng dõi các quan lại, các tướng liên hệ đến việc sang đánh Đại-Việt của Tống, rồi xin đọc gia phả Tổ tiên anh hùng của họ. Tôi đã được đọc gia phả chép về Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh, Tiêu Chú, Oân Cảo, Tiêu Cố, Lý Sư-Trung, Vương An-Thạch, Thẩm Khởi, Lưu Di, Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ, Diêu Tự, Lý Hạo, Trương Chi-Giám, Dương Vạn, Lôi Tự-Văn, Lữ Chân, Lý Hiếu- Tôn, Trương Thế-Cự, Địch Tường, Khúc Chẩn, Quản Vi, Vương Mẫn. 5.1.4. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ. May mắn nhất là năm 1985, nhờ làm đẹp cho mấy phu nhân của những sĩ quan cao cấp của Bộ Tư-lệnh hai Quân-khu tiếp giáp với Việt-Nam và của Bộ Chỉ-huy Quân-sự hai tỉnh Quảng-Tây, Quảng-Đông tôi đã được vào thư viện của bộ Tư-lệnh hai quân khu có chung biên giới vơí Việt-Nam. Mặc dầu bấy giờ cách thư viện tôi ngồi không bao xa, giữa quân đội Trung-Quốc, Việt-Nam đang nã đại pháo vào nhau; mặc dù các sĩ quan Trungquốc đều biết tôi là Tây gốc Việt. Nhưng họ cũng biết rằng tôi là tên thầy thuốc dốt chính trị nhất thế giới, khù-khờ lẩm cẩm nhất thế giới. Vì vậy họ cho tôi đọc thả dàn, đọc sướng con mắt; đọc đến phải mang bánh bao, vịt quay vào thư viện vừa ăn, vừa đọc! Nhưng họ không cho tôi mang máy vào, sợ tôi scaner Ngồi bên kho tài liệu, tôi cảm thấy kinh hoàng vô cùng, vì Trung-Quốc bảo tồn được tất cả những tài liệu liên quan đến ngoại-giao, quân-sự giữa hai nước để các sĩ quan tham khảo thiết kế hành quân. - Cổ nhất là cuộc đánh sang Việt thời Tống Thái-tông của Hầu Nhân-Bảo, Tôn Toàn-Hưng, Quách Quân-Biện, Triệu Phụng-Huân (981); - Ba cuộc tiến quân thời Lý Bắc-phạt (1053, 1059, 1075), - Cuộc Nam xâm thời Tống Thần-tông (1076-1077); - Ba lần (1257, 1285, 1288) Mông-cổ đánh Đại-Việt, - Cuộc xâm lăng của Trương Phụ (1407)... cuối cùng là cuộc hành quân chưa xong của Bắc-kinh dạy Việt-Nam bài học, mà chúng tôi thường đùa rằng đó là cuộc tiến quân môi cắn răng 1978; vẫn chưa dứt. Trong thư viện ấy, tôi tìm được hai bộ sách chưa xuất bản, in bản thạch, rồi photocopie. Đó là hai bộ nhật ký hành quân của Quách Quỳ tên Quách-thị Nam chinh (QTNC), của Triệu Tiết mang tên Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký (TTCTGCK); là hai tướng tổng chỉ huy cuộc đánh Đại-Việt thời Lý (1076-1077). Hai bộ sách do chính Quách Quỳ, Triệu Tiết chép, sau này con cháu họ có tu bổ. Vào niên hiệu Thiệu-Hưng thứ tư (1134); cháu bốn đời Quách Quỳ là Quách Gia; cháu năm đời Triệu Tiết là Triệu Dụng có dâng lên vua Tống Cao-Tông để xin minh oan, cùng phục hồi danh dự cho tổ tiên mình. Bấy giờ Lý Hồi mới được giữ chức Đoan-minh điện đại-học sĩ, quyền tri tam tỉnh, Khu-mật viện-sự tức Tể-tướng toàn quyền. Ông này sợ Quách Gia, Triệu Dụng được trọng dụng; nên bài bác các đoạn nói về sức mạnh, về tổ chức quân đội, cùng tiểu chuyện các tướng Đại-Việt thời Thái-Ninh, Anh-vũ chiêu-thắng (1072-1084), và cho rằng đó là những điều bịa đặt. Tuy vậy trong hai tập sách trên có ghi chép đầy đủ hình thể núi sông, phong tục, tiểu-sử công thần, tổ chức hành chánh, quân sự Đại-Việt, nên nhà vua vẫn sai trao chu Khu-mật viện cất để làm tài liệu. 5.2. Anh hùng nước tôi còn đó. Sau khi kiểm lại các bộ gia-phả, địa-phương chí, địa dư chí, nhân vật chí, bia đá, mộ chí cùng đọc kỹ hai bộ trên. Tôi đã giải được gần như trọn vẹn những nghi-vấn về lịch sử do tiền nhân tôi để lại. Tôi tin đến tuyệt đối, vì những điều trong sử Việt, Hoa bỏ qua không ghi như: 5.2.1. Bà chúa kho, Sử Hoa-Việt nói đến công-chúa Thiên-Thành hạ giá với phò-mã Thân Cảnh-Long; có nói đến công-chúa Động-Thiên, còn công chúa Thiên-Ninh thì không hề nói tới. Trong thực tế, đền thờ công-chúa Thiên-Ninh (Bà chúa kho) rất lớn, mà dân miền Bắc ai cũng biết; nhất là dân Hà-nội, cứ vào đầu Xuân, lũ lượt kéo nhau đến đền thờ bà xin... vay tiền. Trong hai bộ QTCN và TTCTGCK chép rất chi tiết tiểu sử của bà, chép rõ đền thờ tại đâu, xây cất năm nào nữa. Trên: Cổng ngoài, cổng trong. Dưới: Chính điện thờ Công-chúa Thiên Ninh (Bà chúa kho) ở Thị-cầu, Bắc Ninh. 5.2.2. Hoàng tử Hoằng Chân, Chiêu Văn, Sử Hoa-Việt chép vài giòng về hoàng-tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn tử trận Kháotúc, không chép hai ngài giữ chức gì, tiểu sử ra sao? Hai bộ QTCN và TTCTGCK chép rất chi tiết rằng hai vị là con của Khai-Quốc vương và quốc-mẫu Thanh-Mai. Tước phong của Hoằng-Chân là Trung-Thành vương và Chiêu-Văn là Tín-Nghĩa vương. 5.2.3. Sáu nữ tướng thời Anh-vũ Chiêu-thắng. Sử không chép về phu nhân của các tướng. Trong khi đó hai bộ trên chép rất chi tiết: Sáu nữ phụ tá của Linh-Nhân hoàng thái hậu, như một siêu chính phủ bấy giờ gồm: - Phụ-tá về Binh-bộ là công chúa Thiên-Thành; - Phụ-tá về Hộ-bộ là công chúa Thiên-Ninh; - Phụ tá về Hình-bộ là công-chúa Động-Thiên; - Phụ-tá về Lễ-bộ là bà Trần Ngọc-Huệ phu-nhân của tướng Bùi Hoàng-Quan; - Phụ-tá về Công-bộ là bà Vũ Thanh-Thảo, phu nhân của tướng Nguyễn Căn; - Phụ-tá về Lại-bộ là bà Lê Ngọc-Nam, vương-phi của Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn; - Phụ tá về Khu-mật viện là bà Nguyễn-thị Trinh-Dung, vương phi của Trung- Thành vương Lý Hoằng-Chân. 5.2.3. Quan sát y phục, biết danh tính, Khi hành hương đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu ở xã Dương-xá, huyện Gia-lâm Hànội, tôi thấy tượng Thái-hậu ngồi chính giữa, mỗi bên có ba tượng của ba bà, mà bà thủ từ chỉ biết tên có một bà tên Nguyễn-thị Trinh-Dung. Như vậy rõ ràng hai bộ QTNC và TTCTGCK đã chép chi tiết, chép đúng với chính sử. Từ trái sang phải: 1. Ninh-đức, Trang-duệ, Hiếu-khang công chúa nhũ danh Lê Ngọc-Nam. 2. Công-chúa Động-Thiên. 3. Hòa-huệ, Ninh-tĩnh, Ôn-văn công chúa Vũ Thanh-Thảo Từ trái sang phải: 4. Công-chúa Thiên-Thành, 5. Công chúa Động-Thiên, 6. Công chúa Nguyễn-thị Trinh-Dung. Ghi chú: Giữ đền này (1994) có tới bốn người, tôi không nhớ tên. Tôi chỉ nhớ được hai người. - Một người to lớn tự giới thiệu đã ớ trong ngành Công-an ba mươi năm, nay được cử về đây để bài trừ tín ngưỡng dị đoan. Theo lời ông thì: Vua Tống là Vương An-Thạch đem quân sang đánh VN !!! Tôi có nhắc: Không phải đâu, các vua Tống đều họ Triệu; hồi đem quân đánh Việt-Nam thời Linh-Nhân hoàng thái hậu là Tống Thần-tông. Vương An- Thạch chỉ là tể tướng, một tể tướng rất yếu. Nhưng ông này vẫn không chịu. Tôi biết ông là một thứ « ông bình vôi", nên cười, rồi cáo từ. - Một người nữa là một bà lớn tuổi phụ trách thắp hương, dâng lễ, tôi tạm gọi là bà thủ-từ. Tôi có cúng một số tiền nhỏ (200 USD) dùng tu bổ đền. 5.2.4. Chi tiết cuộc Bắc phạt, Sử Tống, Việt chép về việc Lý đánh các châu Khâm, Liêm, Ung, Nghi, Dung, Bạch của Tống rất sơ sài, vỏn vẹn có mấy trang. Trong khi hai bộ trên chép rất kỹ, rất chi tiết về trận đánh 18 ải biên giới; trận đánh Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu; trận đánh viện binh ở Côn-lôn, ở Đại-giáp. 5.3. Hành trạng các tướng, Về chư tướng, sử Việt, Hoa chỉ thấy nói đến Lý Thường-Kiệt, Tôn-Đản và vài giòng về Hoằng-Chân, Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên, Nguyễn Căn. Người sau muốn biết thêm thì không tìm ra đến một chút chi tiết nhỏ. Thế nhưng tương truyền bấy giờ Việt có 18 tướng trí dũng tuyệt vời, và các phu nhân cũng theo quân giữ nước. Khi 18 tướng tuẫn quốc, các phu nhân cũng tuẫn quốc một lúc. Sau chiến tranh, triều đình lao tưởng, cho lập đền thờ. Vậy thì 18 tướng ấy là ai? Đền thờ ở đâu? Không ai biết. Nhưng trong hai bộ QTNC và TTCTGCK lại chép rất chi tiết về xuất thân của 18 tướng, 18 phu nhân cùng huân công đánh Chiêm, đánh sang Ung, Khâm, Liêm của các ngài; rồi (Quách Quỳ, Triệu Tiết) khoe rằng họ giết được các ngài trong trường hợp nào, đền thờ tại đâu. 6. Thập bát anh hùng giai Phù-Đổng. Căn cứ vào QTNC, TTCTGCK chép, tôi đã tìm ra một điều thú vị vô cùng tận, rồi bật lên tiếng than: Hỡi ơi! Những đền thờ các ngài vẫn còn đó. Huân nghiệp các ngài có chép trong rất nhiều các sách sử Việt-Nam của Quốc-sử quán triều Nguyễn như Đại-Nam nhất thống chí, Bắc thành địa dư chí, hay những cuốn phổ. Nhưng vì tam sao, thất bản đến nỗi chỉ biết đền thờ rất sơ lược, mà không biết rõ tên tuổi sự nghiệp ra sao. Căn cứ vào hai bộ sách trên, tôi đối chiếu với sách Việt, tìm lại rất đầy đủ tên họ, quê quán, huân nghiệp và chỉ rõ đền thờ hiện còn hay mất, ở đâu. Dưới đây là những danh tướng, sử ghi tên, nhưng không đầy đủ, nhất là bỏ sót tên các nữ anh hùng. 6.1. Lý Hoằng-Chân, Chức tước như sau: - Kiểm-hiệu thái-sư, Thượng trụ quốc, Thượng-thư lệnh kiêm trung-thư lệnh, Thăng-long tiết độ-sứ, Tả kim-ngô đại tướng quân, quản Khu-mật viện, Trung-Thành vương. - Vương phi là Nguyễn-thị Trinh-Dung, tước phong Minh-đức, thạc-hòa, chí nhu công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Kháo-túc. Tượng thờ vương phi Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân, nhũ danh Nguyễn-thị Trinh- Dung. Tước phong của ngài là Minh-đức, Thạc-hòa, Chí-nhu công chúa.Hình chụp tại đền thờ Linh-nhân hoàng Thái-hậu ở xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội. 6.2. Lý Chiêu-Văn, Chức tước như sau: - Kiểm-hiệu thái-phó, khai-phủ nghị đồng tam tư, Võ-minh quân tiết độ-sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Phụ-quốc đại tướng quân, Khu-mật viện sứ, Tín-Nghĩa vương. - Vương-phi Lê Ngọc-Nam tước phong Ninh-đức, Trang-duệ, hiếu khang công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Kháo-túc. 6.3. Bùi Hoàng-Quan, Chức tước như sau: - Thái-tử thiếu-bảo, Phiêu-kị đại tướng quân, Khu-mật viện sứ, Binh-bộ tham-tri, Gia-viễn hầu. - Phu nhân là Trần Ngọc-Huệ tước phong Nhu-mẫn, đoan-duệ, anh-văn công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Vĩnh-an (Ngọc-sơn). Tượng thờ Nhu-mẫn, đoan-duệ, anh-văn công chúa Trần Ngọc-Huệ 6.4. Dư Phi, Chức tước như sau: - Thái-tử thiếu-sư, Vũ-dực đại-tướng quân, đồng-tri Khu-mật viện, Nam-sơn hầu. Tuẫn quốc trận Đâu-đỉnh (Bắc-sơn). 6.5. Nguyễn Căn, Chức tước như sau: - Quang-lộc đại phu, Trấn-Bắc thượng tướng quân, Tản-viên hầu. - Phu-nhân là Vũ Thanh-Thảo, tước phong Hoà huệ, ninh tĩnh, ôn văn công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc tại chiến lũy Như-nguyệt. Tượng thờ vương phi của Nhân-võ, Hùng-huân, Trấn-Bắc đại vương Nguyễn Căn, nhũ danh 6.6. Phò-mã Hoàng Kiện, Chức tước như sau: - Phụ-quốc thái-úy, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Binh-bộ thượng thư, Kinh-Bắc tiết độ sứ, Uy-viễn đại học sĩ, Khu-mật viện sứ, Sơn-Nam quốc-công. - Vương-phi là công chúa Động-Thiên, con vua Thánh-tông. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Phú-lương. 7. Anh linh thánh Gióng. Trên đã thuật về mười một vị có cấp bộ cao nhất tử trận. Kế tiếp là hai mươi bốn vị ở cấp trung, nhưng chết rất oai hùng. Đó là: Long-biên ngũ hùng và Tây-hồ thất kiệt, gồm mười hai vị, cộng mười hai phu nhân là hai mươi bốn vị. Long-biên ngũ hùng có tên Phạm Dật, Vũ-Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Tây-hồ thất kiệt có tên Trần Di, Dương Minh, Triệu Thu, Mai Cầm, Quách Y, Ngô Ức, Tạ Duy. Sáu tướng, năm phu nhân trên trong sử có nói đên, tôi không cần nhắc lại nữa. Ở đây tôi xin chép tiểu chuyện của 12 tướng có xuất thân rất đặc biệt: Ăn mày, ăn trộm, móc túi, thế rồi nhờ lòng yêu nước mà trở thành anh hùng. Mười hai tướng đó, được vua Lý Thánh-tông phong cho mỹ hiệu là Long-biên ngũ hùng và Tây-hồ thất kiệt. 7.1. Long-biên ngũ hùng. Long-biên ngũ hùng là năm đại tướng quân thời vua Lý Thánh-tông, Lý Nhân-tông. Năm vị có tên là Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Long-biên ngũ hùng đều xuất thân từ chùa Từ-quang ở làng Thổ-lội, huyện Gialâm, lộ Kinh-Bắc, ngày nay là xã Phú-thị, huyện Gia-lâm, Hà-nội. Năm vị đều là con mồ côi, được sư Viên-Chiếu đem về nuôi dạy. Cả năm đều chịu nhiều thăng trầm thời thơ ấu với Linh-Nhân hoàng thái hậu (Tức Ỷ-Lan thần phi nhũ danh Yến-Loan); được bà nhận làm em nuôi. Sau cả năm được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Năm vị học văn, luyện võ đều thành. Năm vị thu nhận một số thiếu niên đồng tuổi, rồi luyện võ, dạy bắn cung cho họ, lập thành đội Thần-tiễn Long-biên khoảng 500 người. Mỗi tráng sĩ trong đội Thần-tiễn đều có thể bắn trúng chim đang bay. Vua Thánh-tông ban cho năm vị mỹ hiệu là Longbiên ngũ hùng. Năm 1069, Long-biên ngũ hùng mang đội Thần-tiễn tùng chinh đánh Chiêm, được đặt dưới quyền chỉ-huy của Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương có hai thiếu nữ Việt-kiều tên Lê Kim-Loan, Võ Kim- Liên cảm tài đức, kết bạn với năm ngài, xin theo trong quân làm thông dịch và dẫn đạo. Kim-Loan kết bạn thanh mai trúc nhã với Phạm Dật; Kim-Liên với Vũ Quang. Sau chiến thắng Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Long-biên ngũ hùng được lệnh trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn ở mặt trận Nam-giới. Trong trận đánh Bố-chánh, năm ngài gặp thêm hai thiếu nữ Việt-kiều tên Trần Ngọc-Liên, Trần Ngọc- Hương kết bạn, xin theo trong quân làm thông dịch viên và dẫn đường. Ngọc-Liên kết bạn thanh mai trúc nhã với Lý Đoan; Ngọc-Hương với Trần Ninh. Riêng Đinh Hoàng-Nghi gặp một thiếu nữ Chàm là tù nhân, tên Câu-thi Lị-ha-thân Bài-ma-la Nang Chang-Lan (Sri Varman Nangchanglan). Suốt trận chiến, Long-biên ngũ hùng cùng bốn người bạn gái lập đại công trong trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Ma-linh, Địa-lý, Nam-giới, Nhậtlệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Chiến thắng trở về, Ỷ-Lan thần-phi làm lễ cưới cho Long-biên tứ hùng với bốn thiếu nữ. Riêng Đinh Hoàng-Nghi với thiếu nữ Chàm, vì kẻ Việt người Chàm, rồi có chuyện hiểu lầm sinh duyên tình trắc trở, Chang-Lan bỏ đi tu, khiến ngài ôm mối hận tình suốt đời. Ngài được Ỷ-Lan thần phi hỏi một thiếu nữ văn võ kiêm toàn, nhan sắc diễm lệ con gái đô-đốc Trầm Lâm tên Trần Phương-Quỳnh cho. Khi phong công thần bình Chiêm, Long-biên ngũ hùng đều được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, mỗi vị chỉ huy một hiệu Thiên-tử binh. Bốn vị phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu bên Tống, Long-biên ngũ hùng cùng các phu-nhân được đặt dưới quyền chỉ huy của Longthành ẩn-sĩ Tôn Đản, và phu nhân Ngô Cẩm-Thi. Năm vị lập huân công lớn, đánh chiếm 18 ải biên giới, rồi tiến lên vây Ung-châu. Khi Tống sai năm danh tướng từ Kinh Hồ giải vây Ung-châu. Năm ngài được lệnh mang quân đánh viện ở Hỏa-giáp, Đại-giáp, Ngọctuyền, phá tan năm đạo binh, giết năm tướng. Năm ngài đánh những trận rung động Trungquốc, khiến các tướng Tống đặt cho mỹ danh là Giao-chỉ ngũ kiêu (năm con cú của đất Giao-chỉ). Chiến thắng trở về cả năm được phong chức thượng tướng quân, tước hầu. Các phu nhân đều được phong quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân đánh Đại-Việt, Long-biên ngũ hùng cùng năm phu nhân tử chiến, và đều tuẫn quốc. Cả năm được phong tước đại vương, các vị phu-nhân được phong công chúa, lập đền thờ. Trải qua bao thỏ lặn, ác tà của nghìn năm, ngày nay tôi còn tìm được bốn đền thờ của các ngài Phạm Dật, Vũ Quang, Lý Đoan, Trần Ninh. Dân chúng vẫn hương khói thờ cúng vào dịp giỗ các ngài hay ngày sóc ngày vọng. Còn đền thờ ngài Đinh Hoàng-Nghi ở Ninh-bình thì không tìm được dấu vết. Có tài liệu nói rằng ngài là con cháu vua Đinh, nên đương thời Linh-Nhân hoàng thái hậu truyền tu bổ đền thờ vua Đinh, rồi ngài được phối thờ. Tôi đã hành hương đền thờ vua Đinh, nay ở thị-xã Ninh-bình; thì chỉ thấy tượng, bài vị thờ vua Đinh Tiên-hoàng, Việtvương Đinh-Liễn, thái-tử Hạng-Lang, Vệ-vương Đinh-Toàn. Còn bài vị thờ ngài thì không thấy, nên tôi không tin thuyết này. Dưới đây là tiểu chuyện các ngài. 7.1.1. Phạm-Dật (1049-1077) Tên thực là Lê Dương-Thịnh, quán làng Đông-cứu, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Vì mắt ngài hơi lé, nên bạn hữu gọi đùa ngài là Dật-lé. Phụ-thân là Lê Dương-Thái, mẫu thân là Đặng-thị Nhạn. Song thân ngài vốn là tá điền, chẳng may gặp năm mất mùa, không đủ lúa nộp tô cho chủ điền, ông phải làm lực điền cho chủ kiếm ăn. Bà thì đi ở, còn ngài thì được sư Viên-Chiếu nhận làm học trò, nuôi cho ăn học cùng với bốn người bạn là Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Vì tức giận chủ điền hành hạ cha mẹ, một đêm ngài lẻn đến nhà y, cầm dao giết cả hai vợ chồng ác nhân, rồi cải tên là Phạm Dật, trốn lên Thăng-long ăn mày. Sau ngài được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử; ngài học văn rất uyên bác, làu thông kinh-sử, giỏi võ-nghệ. Năm 1069, ngài theo vua Lý Thánh-Tông bình Chiêm. Ngài được đặt dưới quyền của Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương ngài gặp một Việt kiều tên Lê Kim-Loan, tình bạn thanh mai trúc nhã sinh ra. Hai vị hợp sức đánh giặc, lập đại công trong các trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Sau khi chiến thắng trở về ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Ngự-long; bà được Khai-Quốc vương nhận làm con nuôi, được phong nhất phẩm-phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm bên Tống, hai ngài được đặt thuộc quyền chỉ huy của Thái-tử thiếu bảo, Quảng-nguyên hầu, Phiêu-kị đại tướng quân Lưu-Kỷ, phụ trách đánh các ải Thái-bình, Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Quy-hóa. Các tướng Tống như Giám-áp trại Quách Vĩnh-Nghiêm, Quản-hạt Ngũ Cử, Trấn Nam tướng quân Thái Bằng; kẻ bị ngài đánh bại, kẻ bị bắt làm tù binh, người bị giết. Có lần đóng quân ở làng An-cư, sai quân giúp dân khẩn hoang, trừ ác thú. Sau đó ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản và phu-nhân Ngô Cẩm-Thi tiến lên đánh Ung-châu, rồi đem quân chặn viện binh Tống, giết năm tướng Tống. Chính ngài cùng phu nhân đã cùng với Đô-thống Trần Ninh và phu nhân đồng chế ra loại Lôi-tiễn, gây kinh hoàng cho quân Tống. Sau chiến thắng, triều đình nghị công tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong ngài là Long-nhương thượng quân, tước Thiện-Tâm hầu. Bà được phong Thiên-ân Nhu-mẫn quận-chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân sang đánh Đại-Việt. Hai ngài phụ trách giữ phòng tuyến cuối cùng bảo vệ Thăng-long. Chiến lũy Như-nguyệt bị phá, quân Tống tràn về Thăng-long như nước vỡ bờ. Hai ngài chỉ huy hiệu binh Ngư-long dưới quyền chỉ huy của công chúa Thiên Ninh, đánh bật quân Tống về Bắc Như-nguyệt. Cuối trận đánh cả hai ngài đều tuẫn quốc. Triều đình truy phong ngài là Long-biên, Vũliệt, Chiêu-thắng đại vương, bà được phong Thiên-ân, Nhu-mẫn, Hồng-đức công chúa; truyền lập đền thờ ở đình xã An-cư tục gọi là làng Gờ, tổng Đông-bối, huyện Linh-giang, nay là huyện Linh-thanh, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép. Việt-Nam, Hải-dương tỉnh thần tích. Trung-quốc: a/. Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, Tống-triều công thần bi ký, Ung-châu kỷ-sự, Quảng-Tây địa dư ký, Quảng-Tây chư thần ký, Hy-Ninh hận sự bi ký, Thần-tích Hoả-giáp ngũ đại vương từ, b/. Thái-bình phong vật chí, Hoành-sơn sơn xuyên phong vực, Ôn-nhuận sự tích, Quý-hóa địa dư chí. 7.1.2. Vũ Quang (1050-1077) Tên thực là Vũ Thành, bản tính ngài hiền hậu, nhưng rất can đảm. Hồi thơ ấu các bạn gọi đùa ngài là Quang con gái. Phụ thân ngài tên Vũ An, thân mẫu tên Trần-thị Nữ. Phụ thân ngài mất khi ngài mới bẩy tuổi. Mẫu thân không có tiền chôn cất phải vay tiền của một phú gia. Vì không trả được nợ, bà phải làm lẽ phú gia để trừ nợ. Nhưng ông nhà giầu chỉ thích mẹ, mà không ưa con, nên đánh đập ngài hoài. Sư Viên-Chiếu làng Thổ-lội (nay là Phú-thị, huyện Gia-lâm, Hà-nội) đem ngài về nuôi dạy cùng bốn người bạn là Phạm Dật, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Ngài lầu thông binh pháp, giỏi võ nghệ. Sau được Khai-Quốc vương nhận làm đệ tử. Năm 1069, Đại-Việt đem quân bình Chiêm, ngài được vua Thánh-tông cho tòng chinh. Ngài được đặt dưới quyền Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương, ngài gặp một Việt kiều tên Võ Kim-Liên, con gái danh-y Võ Thương. Tình bạn thanh mai trúc nhã sinh ra. Hai ngài cùng sát cánh trong các trận đánh Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang; lập đại công. Thắng Chiêm, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Quảngthánh. Bà được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch châu bên Tống. Hai ngài được đặt thuộc quyền Thái-tử thiếu bảo, Môn-châu hầu, Trấn Bắc thượng tướng quân Hoàng Kim-Mãn, phụ trách đánh ải Vĩnh-bình. Tướng trấn thủ Vĩnh-bình là Tô Tá bị ngài bắt sống. Sau khi chiếm Vĩnh-bình, hai ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, đem quân tiến về Ung-châu. Trong trận Ung-châu, hai ngài phụ trách đem hiệu Thiên-tử binh Quảng-thánh chặn viện quân đến từ Quế-châu. Hết giặc trở về, triều đình nghị công, tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong ngài là Hổuy thượng tướng quân, tước Thành-Tâm hầu, bà được Trang-hòa, Thiên-đức quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh sang Đại-Việt, vượt sông Như-nguyệt sắp tới Thăng-long. Hai ngài đem quân đánh cảm tử chặn giặc. Bị chém một đao gần đứt cổ, ngài ôm đầu chạy về đến xã A-hộ, huyện Lục-ngạn, trấn Kinh-Bắc; gặp một người đàn bà, ngài hỏi trong cơn mê loạn: Đầu bị chém có sống được không? Người đàn bà đáp: E không sống được. Ngài buông kiếm, buông đầu, ngã ngựa, tuẫn quốc. Phu-nhân chỉ huy hậu quân rút về đến nơi, thấy ngài chết rồi, cũng rút kiếm tự tử theo. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong ngài là Tri-tôn đầu thượng tướng quân, quả cảm Hùng-vĩ đại vương. Phu nhân được phong Trang-hòa, Thiên-đức, Trinh-tĩnh côngchúa, truyền lập đền thờ. Hiện đền thờ hai ngài vẫn còn, mang tên đền Bảo-linh, ở xã Ahộ, huyện Lục-ngạn, nay là xã Biện-sơn, huyện Lục-ngạn, tỉnh Hà-Bắc. Trên đây tôi thuật theo Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký và Tống-triều bi thần ký. Còn Lục-Nam địa dư chí chép rằng ngài được vua Lý gả công chúa cho. Khi công chúa nghe tin ngài tuẫn quốc, thì tự tử theo. Tài-liệu ghi chép. - Việt-Nam, Lục-Nam địa chí. Trung-quốc: a/. Xem Phạm-Dật . b/.Vĩnh-bình sơn xuyên phong vực chí, Vĩnh-bình chư thần chí. 7.1.3. Đinh Hoàng-Nghi (1051-1077) Ngài con của Tể-tướng Đinh Nho-Quan triều đình Đại-Nam (Nùng Trí-Cao), thân mẫu là Dương Hồng-Hạnh. Hồi còn niên thiếu, người ngài hơi thấp, nên bạn bè gọi đùa là Nghi-lùn. Trong trận đánh cuối cùng ở Côn-luân phố giữa quân Tống với quân Đại-Nam. Đại-Nam bị bại, bà Hồng-Hạnh tuẫn quốc. Đinh Nho-Quan lưng đeo con trai duy nhất phá vòng vây, chạy về làng Thổ-lội. Nho-Quan được sư Viên-Chiếu chữa trị. Sau khi vết thương lành, Nho-Quan trao đứa con nhờ Viên-Chiếu giữ dùm, để đi cứu bạn hữu. Viên- Chiếu đặt cho đứa trẻ đó cái tên Hoàng-Nghi, ngài nuôi dạy cùng bốn trẻ khác là Phạm Dật, Vũ Quang, Lý Đoan, Trần Ninh. Lớn lên Hoàng-Nghi được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Ngài học một biết mười, lầu thông kinh, sử, tử tập, võ nghệ cao cường, mưu thần chước thánh. Năm 1069, vua Lý Thánh-tông bình Chiêm, ngài được tùng chinh, đặt đưới quyền Trung-Thành vương. Sau khi thắng trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được lệnh trợ chiến Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn ở Nam-giới để đánh Bố-chánh. Trong trận này ngài gặp một cô gái Chàm mang tên Câu-thi Lị-ha-thân Bài-ma-la Nangchang-Lan (Sri Varman Nangchanglan) kết bạn thanh-mai trúc nhã. Vì ngài lập đại công trong các trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang, ; chiến thắng trở về ngài được phong tước Bá, lĩnh chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Quảng-vũ. Vì vấn đề kẻ Việt, người Chàm, rồi sinh hiểu lầm đưa đến Chang-Lan bỏ đi tu, làm ngài ôm hận suốt đời. Ngài được Ỷ-Lan thần phi hỏi cho một tiểu-thư sắc nước hương trời con gái đô-đốc Trần Lâm tên Phương-Quỳnh. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Liêm, Khâm châu bên Tống. Ngài được đặt thuộc quyền của Thái-tử thái phó, Trấn-võ thượng tướng quân, Tô-mậu hầu Vi Thủ- An. Ngài cùng phu nhân phụ trách đánh ải Cổ-vạn. Các tướng Tống như Tả-lãnh vệ đại tướng quân Chu-Am, Bát-tác sứ Toàn-Hưng, Chiêu-thảo sứ Nùng Hiệp-Thành, bị hai ngài giết chết. Hạ ải xong, ngài đem quân chặn đánh viện quân giặc từ Khâm-châu tiến về cứu Tây-bình, Cổ-vạn, rồi tiến về vây Ung-châu. Tiếp theo, Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản giao cho hai ngài đem quân trấn ở đỉnh Hỏa-giáp, đánh viện binh Tống tiếp cứu Ung-Liêm. Sau chiến thắng, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hâu phong ngài là Quán quân thượng tướng quân, tước Chính-Tâm hầu. Phu nhân được phong Tuyên-đức, Thạc-hòa quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân trấn tại Chi-lăng, khiến quân Tống không tiến được, phải đi vòng sang vùng Tam-đảo. Khi quân Tống tiến đến Như-nguyệt, quân của ngài mất đường về. Ngài cùng phu nhân rút vào rừng kháng chiến đánh tập hậu. Nhận lệnh phò mã Thân Cảnh-Long, ngài cùng phu nhân vượt biên đánh cảm tử, đốt lương quân Tống ở Liêm-châu. Cả hai ngài đều tuẫn quốc trận này. Quách thị Nam-chinh chép thêm rằng: Khi ngài và phu nhân tuẫn quốc, chính Nang-chang-Lan bí mật đem xác về Trường-yên (Ninh-bình) chôn trong một ngôi chùa, không rõ chùa nào? Hết giặc, triều đình phong ngài là Hiển-uy, Trung-nghĩa, Duệ mưu đại vương phu nhân được phong Nghi-hòa, Tuyên-đức, Trang-duệ công chúa truyền lập đến thờ ở vùng Nho-quan, Trường-yên, ngày nay là Ninh-bình. Chúng tôi không tìm ra di tích đền này. Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ ký chép thêm rằng ngài được Linh-Nhân hoàng thái hậu yêu thương như con. Khi ngài tuẫn quốc, thái-hậu khóc đến bỏ ăn bỏ ngủ. Một hôm ngài hiện về trong giấc mộng nói với Hậu rằng: Ngài không phải là người thường, tiền thân ngài là con của Lạc-long quân vâng lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế đầu thai làm Việtvương Đinh Liễn đánh 12 sứ quân. Nay lại đầu thai đánh Tống. Vì vậy Linh-Nhân hoàng thái hậu sai tu sửa đền thờ vua Đinh ở Trường-yên, trong đền thờ cả Việt-vương Đinh Liễn, tức là ngài. Đền nay vẫn còn ở thị-xã Ninh-bình. Tôi không mấy tin thuyết này. Tài-liệu ghi chép: Việt-Nam: không. Trung-quốc: a/. Xem Phạm-Dật ở trên . b/.Khâm-châu địa dư chí, Hổ-môn chư thần ký, Cổ-vạn sơn xuyê cương vực ký. 7.1.4. Lý Đoan (1051-1077) Ngài tên thực là Lê Phúc, thân phụ tên Lê Mậu, thân mẫu tên Trần-thị Nương. Nguyên ông Lê Mậu là thợ rèn, ứng nghĩa tòng quân, được xung vào đạo Thiên-tử binh Đằng-hải. Trong cuộc khởi binh của Nùng Trí-Cao, tướng Lý Nhân-Nghĩa được lệnh Khai- Quốc vương đem quân giúp Trí-Cao, vượt biên đánh trại Như-hồng, ông tử trận. Triều đình phủ tuất ruộng cho bà Nương nuôi con. Ngài được ban quốc tính Lý. Mấy năm sau bà Nương chết, làng giao ruộng cho sư Viên-Chiếu trông coi nuôi dạy ngài cùng với Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Trần Ninh. Ngài rất giỏi y lý, nhưng bạn hữu gọi đùa ngài là lang-băm. Sau ngài trở thành thầy thuốc danh tiếng. Ngài lại được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Năm 1069, ngài theo vua Lý Thánh-Tông bình Chiêm, đặt trực thuộc Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Sau khi đánh chiếm Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được lệnh trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Lý-Chiêu-Văn đánh Bố-chánh. Trong trận này ngài gặp một thiếu-nữ Việt kiều tên Trần Ngọc-Liên. Hai vị kết bạn thanh-mai trúc nhã, sát cánh đánh giặc lập đại công trong các trận Bố-chánh, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Khải hoàn, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổngnhật, phu nhân được phong Liên-hương, Nhu-mẫn quận chúa. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch của Tống; hai ngài được đặt thuộc quyền chỉ huy của Kiểm-hiệu tư-không, Thượng-thư hữu bộc-xạ, Khu-mật viện sứ, Phụ-quốc đại tướng quân, Nghĩa-dũng quốc công tức phò-mã Thân Cảnh-Long. Hai ngài được trao nhiệm vụ đánh ải Tây-bình. Tây-bình bị hạ, tướng trấn thủ là Chiêu-thảo-sứ Nùng Toàn-An bỏ chạy, Trấn-viễn đại tướng quân Lưu Khải bị bắt. Tiếp theo hai ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, đem hiệu Thiên-tử binh Bổng-nhật vây Ung-châu, chặn đánh viện binh Tống ở núi Hỏa-giáp. Sau trận này ngài có đề nghị với nguyên-soái Lý Thường-Kiệt nên đem quân vượt Ngũ-lĩnh chiếm Trường-sa, nhưng không được chấp thuận. Chiến-thắng trở về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong cho ngài chức Hoài-hóa thượng tướng quân, tước Trực-Tâm hầu. Phu nhân được phong Thiên-y, Đại-từ quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân sang đánh Đại-Việt, hai ngài được lệnh trấn vòng đai thứ ba, tại Yên-dũng, bảo vệ Thăng-long. Khi danh tướng Yên Đạt, Khúc Chẩn, phá vỡ chiến lũy Phú-lương, công chúa Động Thiên, phò mã Hoàng Kiện tuẫn quốc. Quân Tống như nước vỡ bờ tấn công Yên-dũng. Ngài cùng phu nhân dùng Ngư-binh đánh tan quân Tống, chiếm lại chiến lũy Phú-lương. Trong trận đánh, dù bị thương, hai ngài vẫn cương quyết chiến đấu. Đạt thắng lợi, hai ngài mới tuẫn quốc. Hết giặc, ngài được phong Thiên-y, Ưu-dũng, Chí-nhân đại-vương. Phu nhân được phong Nam-thiên, Liên-hoa, Đoan-nhu công-chúa. Truyền lập đền thờ. Đền thờ hai ngài ở làng Cẩm-chàng, xã Bồng-lai, huyện Quế-dương nay là huyện Quế-võ tỉnh Hà-Bắc. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Bắc-ninh tỉnh thần chí. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Tây-bình chư thần chí, Tây-bình sơn xuyên cương vực chí. 7.1.5. Trần Ninh (1052-1077) Thời niên thiếu, da ngài hơi đen, nên bạn hữu gọi đùa là Ninh-đen hay Ninh Mai Hắc-đế. Thân-phụ tên Trần Công-Bình, thân mẫu tên Lưu Tuệ-Trinh, quán làng An-mỹ, tổng Dương-quang, huyện Gia-lâm, lộ Kinh-Bắc. Ông Trần Công-Bình nguyên giữ chức thủ-bạ ở làng Thổ-lội. Trong một lần đi qua bờ sông Nguyệt-đức (sông Cầu), đêm bà mơ thấy một vị sứ giả của Ngọc-Hoàng thượng đế giáng xuống nói rằng : Vợ chồng nhà ngươi ăn ở phúc đức, nên Ngọc-Hoàng truyền cho con trai thứ chín của Lạc-Long quân giáng sinh làm con; sau sẽ làm đại tướng trấn thủ Nam-phương. Trở về bà mang thai, đẻ ra ngài. Khi ngài mới bẩy tuổi, thì song thân đều qua đời. Sư Viên-Chiếu đem về làng Thổ-lội nuôi dạy cùng với Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan. Lớn lên ngài được Khai- Quốc vương thu làm đệ tử. Ngài học văn, luyện võ đều thành. Ngài có biệt tài leo cây nhanh như vượn, lặn dưới nước như cá. Trong lần bình Chiêm (1069), vua Lý Thánh-tông cho ngài tùng chinh, đặt dưới quyền Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Sau khi lập công trong trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được gửi đến trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Chiêu-văn ở trận Nam-giới. Tại trận đánh Bố-chánh ngài gặp một thiếu nữ Việt-kiều tên Trần Ngọc-Hương. Hai ngài kết bạn thanh mai trúc nhã, cùng sát cánh đánh giặc. Hai ngài đã lập đại công trong trận Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Chiến thắng trở về, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải. Bà được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Tống, chiếm châu Khâm, Liêm, phá châu Ung, Dung, Nghi, Bạch; hai ngài với hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải được đặt thuộc quyền chỉ huy của Kiểm-hiệu tư không, Thượng-thư hữu bộc xạ, Khu-mật viện sứ, Phụ-quốc đại tướng quân, Nghiã-dũng quốc công tức phò mã Thân Cảnh-Long. Hai ngài có nhiệm vụ đánh ải Lộc-châu. Lộc-châu bị phá, tướng trấn thủ là Chiêu-thảo sứ Nùng Tông-Đán bỏ chạy. Tiếp theo, ngài nhận lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, mang quân tiến về đánh Ungchâu, rồi đem quân chặn đánh viện binh ở núi Đại-giáp. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài lĩnh ấn Vân-ma thượng tướng quân tước Nhu-Tâm hầu. Phu-nhân được phong Thiên-hương, Thuần-mẫn quận chúa. Khi Quách Qùy, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt. Hai ngài theo Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân, Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn đánh trận Kháo-túc. Cả hai ngài đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình phong ngài là Anh-duệ, Chiêuthắng, Trung-liệt, Nguyệt-đức Long-vương. Phu nhân được phong Trang-duệ, Thuần-mẫn, Thiên-hương công chúa; truyền lập đền thờ ở bờ sông Nguyệt-đức, thuộc hai xã Chân-hộ, Hộ-trung huyện Yên-phong tỉnh Bắc-ninh, nay là tỉnh Hà-Bắc. Trên đây tôi thuật theo Quách-thị Nam chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký và Tống triều công thần bi ký. Còn tài liệu Việt thì chép giản dị rằng: Đền bên sông Nguyệtđức xã Chân-hộ, Hộ-trung huyện Yên-phong tỉnh Bắc-ninh thờ Thủy-thần thủy tộc Longvương. Nguyên thần là con Lạc-Long quân. Đền còn thờ hai vị thần nữa là Hoàng-Hà đoan khiết phu nhân, và Tam-giang công chúa. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam: Đại-Việt địa dư chí, Bắc-ninh tỉnh địa dư, Bắc-thành địa dư chí lục, Đại-Nam nhất thống chí, Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Lộc-châu sự tích, Lộc-châu cương vực chí. 7.2. Tây-hồ thất kiệt Tây-hồ thất kiệt là bẩy đại-tướng quân thời vua Lý Thánh-tông, Lý Nhân-tông. Vì hoàn cảnh nhà nghèo khó, cả bẩy vị đều sống lang thang ở Thăng-long; khi thì quét nhà, rửa chén cho những tửu lầu ở đế đô; khi thì làm mướn cho ngư-dân quanh sông Hồng, hồ Tây. Có lúc nghèo túng quá, cả bẩy vị đều đi ăn mày, móc túi, ăn cắp vặt. Duyên may đến, bẩy vị được Minh-Không bồ-tát thu làm đệ tử, rồi đem gửi cho hoàng-tử Lý Chiêu- Văn nuôi. Hoàng-tử Chiêu-Văn là con trai Khai-Quốc vương. Một dịp may đến nữa bẩy vị lại được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Về văn, các ngài chỉ học đủ đọc sách, nhưng về võ, các ngài luyện tập được bản lĩnh tối cao. Trong thời gian ở hồ Tây, bẩy ngài luyện được phép lặn dưới nước như giao-long. Một cơ duyên khác, bẩy vị gặp một thiếu nữ tên Lê-thị Yến-Loan, được nhận làm em nuôi. Khi Yến-Loan được phong làm Ỷ-Lan phu nhân, bà đem tài bẩy ngài tâu lên vua. Vua ban cho mỹ hiệu là Tây-hồ thất kiệt. Bẩy ngài là những người đầu tiên chế ra bánh tôm. Sau này mang tên bánh tôm Tây-hồ, mà bất cứ người Việt nào cũng từng nếm qua. Nơi mà thời thơ ấu, năm ngài lưu ngụ ăn mày, nay nằm khoảng từ đền Trấn-vũ tới đê Yên-phụ. Thời gian này Tây-hồ thất kiệt thu dụng 500 thiếu niên cùng khổ, ăn mày, đem về nuôi dạy, khiến cho họ có bản lĩnh bơi lội dưới nước như rái cá, rất giỏi thủy chiến, được vua Thánh-Tông ban cho mỹ hiệu Giao-long Tây-hồ. Năm 1069, cả bẩy ngài với đội Giao-long Tây-hồ đều theo vua Lý Thánh-tông bình Chiêm; từng lập công lớn trong trận Nam-giới, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Khải-hoàn trở về cả bẩy ngài đều được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống. Mỗi ngài chỉ huy một hiệu Thiên-tử binh. Ỷ-Lan thần-phi cưới cho bẩy ngài bẩy tiểu thư văn-võ toàn tài, đệ tử của Lý Thường-Kiệt, để phu thê có thể cùng nhau phò tá xã-tắc. Năm 1075, trong cuộc vượt biên đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch bên Tống; bẩy ngài lập công lớn. Trở về, bẩy ngài đều được phong đại-tướng quân, tước hầu. Bẩy phu-nhân được phong quận-chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt mang quân sang đánh Đại-Việt. Bẩy ngài cùng bẩy quận-chúa đánh những trận kinh thiên động địa, nên trong Quách-thị Nam chinh, người Tống gọi bẩy ngài là Giao-long thất quái. Trong Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký gọi bẩy ngài là Giao-chỉ thất long. Bẩy ngài và bẩy phu nhân đều tuẫn quốc trong cuộc kháng Tống. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong bẩy ngài tước đại-vương, các phu-nhân được phong tước quận chúa, truyền lập đền thờ. Trải qua nghìn năm, ngày nay đền thờ các ngài vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói vào ngày giỗ, ngày sóc, ngày vọng. Dưới đây là tiểu chuyện các ngài: 7.2.1. Trần-Di (1051-1077) Thủa niên thiếu dáng người ngài gầy, mà cao, nên còn có tên là Di-sậy. Phụ thân tên là Nguyễn Giang-Hồng, mẫu thân tên Trần-thị Yến. Ông bà làm nghề đánh cá ở xã Mộ-đạo, huyện Vũ-tiên, phủ Kiến-xương. Nay là huyện Vũ-thư, tỉnh Thái-bình. Ông bà ngoại của ngài không có con trai, nên nuôi ngài như con. Vì vậy ngài mang họ Trần. Năm ngài lên tám tuổi, song thân đi đánh cá, gặp bão thuyền lật, cả hai đều qua đời. Ngài lưu lạc theo thuyền buôn lên Thăng-long. Tại Thăng-long ngài gặp sáu người đồng cảnh mồ côi, kết bạn với nhau, sau vua Lý Thánh-tông ban cho bẩy ngài mỹ hiệu là Tây-hồ thất kiệt. Tương truyền Tây-hồ thất kiệt có tài lặn dưới nước hàng giờ, hai tay không bắt được cá, và chạy nhanh hơn ngựa. Ngài lớn tuổi nhất trong Tây-hồ tất kiệt. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, Tây-hồ thất kiệt lập công lớn ở trận Nam-giới, Nhật-lệ, Pandurango. Trở về, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vũ-thắng. Ỷ-Lan thần phi cưới cho ngài một tiểu-thư sắc nước hương trời, văn võ kiêm toàn tên là Bùi Phương-Lý, cháu của quan Văn-minh điện đại-học sĩ Bùi Hựu. Trong cuộc Bắc phạt năm 1075, ngài cùng phu-nhân chỉ huy hiệu Vũ-thắng, phụ trách đánh ải Thiên-long. Đây là ải kiên cố nhất, quân phòng thủ cũng tinh nhuệ nhất. Hai ngài phải đánh hai ngày mới hạ được, tướng trấn thủ là Giám-áp Phong Hiển bị bắt. Sau khi hạ Thiên-long, hai ngài được lệnh đánh Nghi-châu. Nghi-châu bị hạ trong năm ngày. Tín-Nghĩa vương lại ra lệnh cho hai ngài đem quân tiến về đánh Ung-châu. Chiến thắng trở về, ngài được phong chức Quy-đức đại tướng quân, tước Hư-Tâm hầu. Vì phu-nhân có theo trong quân trợ chiến, nên được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Qùy, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân sang đánh Đại-Việt. Ngài được lệnh trấn ở phòng tuyến Vạn-xuân. Quách-Quỳ dùng cách đánh biển người. Ngài cùng phu nhân tuẫn quốc. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong ngài là Nhân-dũng, Tráng tiết, Thần oai, Thủy-tế Long-vương, phu nhân được phong Hoà-thạc, Chí nhu, uyển mị Đông-hải công chúa, truyền lập đễn thờ tại quê ngài. Trải qua nghìn năm mưa nắng, biết bao lớp sóng phế hưng, ngày nay đền thờ ngài vẫn còn tại xã Mộ-đạo, huyện Vũ-thư, tỉnh Thái-bình. Trên đây tôi thuật theo bộ Quách-thị Nam chinh và bộ Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, Quảng-Tây địa dư chí, và một số bia đá, mộ chí của các tướng Tống. Trong khi tập Ngọc-phả cổ lục của Việt-Nam chép rằng: Ngài có tên chàng Hai, cha mẹ làm nghề đánh cá. Một hôm bà bị giao-long nổi lên quấn quanh người. Đêm đó ông mơ thấy thần tự xưng là Đệ-nhị thủy thần dưới Long-cung đầu thai, sau giúp vua giữ nước. Quả nhiên bà mang thai, rồi sinh ra một bọc. Bỗng có tiếng sét nổ lớn rồi bọc vỡ ra. Trong bọc có bé trai lớn, khắp người phủ vảy cá, phụ thân đặt tên là chàng Hai. Năm tám tuổi, chàng Hai cao lớn dị thường. Vua Lý Nhân-tông nghe tiếng mời ra cầm quân đánh Chiêm. Sau khi bình Chiêm, chàng Hai trở về quê. Một ngày trời mưa, nước lụt, chàng Hai cùng đám giao long bơi về Long-cung mất. Dân làng vớt quần áo mang về thờ. Tôi giải đoán rằng: Sau khi ngài tuẫn quốc, triều đình cho lập đền thờ, chắc có chép phả đầy đủ. Nhưng năm 1407, Trương-Phụ thu mang về Kim-lăng. Cho đến khi vua Lê dành lại độc lập, dân làng mới chép lại phả theo lối huyền thoại như trên. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Ngọc-phả cổ-lục. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Thiên-long địa dư chí, Khâm-châu chư thần ký, Nghi-châu địa dư chí. 7.2.2. Dương-Minh (1051-1077). Trong mười hai đại tướng quân tuẫn quốc vào thời gian kháng Tống (1076-1077) thì Trung-vũ đại tướng quân Cao-sơn đại vương được thờ nhiều nhất, cũng bị huyền thoại hóa nhiều nhất. Vào thời Trần, có khoảng 21 đền, miếu thờ ngài. Ngài là vị thần còn nhiều di tích nhất. Với hoàn cảnh khó khăn sau bao nhiêu thăng trầm, cho đến nay (1995) chúng tôi ghi lại được chín di tích như sau: 7.2.2.1. Đình thờ chung của ba xã Ôn-cập (làng Gắp), Lạc-yên (làng Khốm), Hoàng-liên (làng Sen), tổng Hoàng-vân. Nay thuộc huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-Bắc. Khi tử trận Kháo túc, ngài uất ức than rằng: Sao đã vội chết, khi chưa đền xong nợ nước. Nên sau đó ngài lại đầu thai trở lại. Bắc-giang tỉnh thần tích chép kiếp này ngài được tiên ở cầu Thấp-tần cho áo tàng hình. Ngài thường tàng hình vào công khố lấy thóc lúa, tiền bạc giúp dân nghèo. Đời vua Lý Anh-tông, nhà Tống sai Đàm Hữu-Lượng đem quân sang đánh Đại-Việt. Ngài dùng áo tàng hình vào trại bắt tướng giặc. Ngài được vua gả công chúa, cho cai quản từ sông Lục-đầu tới Cao-bằng. Sau ngài mất ở Thạch-long. Vua Lý Anh-Tông thương tiếc, cho dân ba xã trên lập đền thờ. 7.2.2.2. Đền thờ thần Cao-sơn ở xã Lương-nhàn, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-hưng. Tương truyền thần thường hiện ra làm thầy lang chữa bệnh cho dân. Có lần thần trị được hàng trăm trẻ bị bệnh đậu mùa sắp chết. Khi dân húng tiễn thầy lang về, thì thầy chỉ lên ngọn núi Lương-nhàn mà bảo: Nhà ta ở đó, rồi biến mất. Dân chúng lần theo tay thầy lang chỉ, lên ngọn núi, thấy toà cổ miếu, trong có tượng, cổ tượng có vết đao chém, thì biết là ngài. 7.2.2.3. Đền thờ Cao-sơn đại vương ở phường Đông-tác, huyện Thọ-xương, nay thuộc quận Đống-đa, Hà-nội. Tương truyền thần là một trong năm mươi con của Lạc-Long quân theo mẹ lên núi, và là vị thần thứ nhì được thờ bên tả đền Tản-viên. Đến thời vua Lý Thái-tông, thần được lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế xuống đầu thai để giúp vua đánh Tống, bình Chiêm. Trong trận đánh sông Như-nguyệt, bị chém vào cổ, thần ôm đầu chạy về quê, rồi tuẫn quốc. Hồi vua Lê Tương-Dực (1505-1516) bị binh biến phải chạy về Thanh-hóa. Vua từng đến đều cầu xin trợ giúp. Sau khi hết giặc, vua về Thăng-long, sai Đông-các đại học sĩ, Lễ-bộ thượng thư, Quốc-tử giám tế tửu Lê Tung soạn văn bia để ghi ơn. 7.2.2.4. Đình thờ ở thôn Điền-niêm, xã Đông-tạ, huyện Vĩnh-bảo, nay thuộc Hải-phòng. Tương truyền thời vua Giản-Định đời hậu Trần, dân gian có nhiều người bị bệnh đậu mùa, cầu trời; thì có thần hiện xuống cứu, xưng là Cao-Sơn đại vương. Thần trị hết bệnh cho tất cả dân chúng. 7.2.2.5. Đền thờ Cao-sơn đại vương ở thôn Bất-lự, xã Đại-sơn, huyện Tiên-du, nay là huyện Tiên-sơn, tỉnh Hà-bắc. Đền thờ thần Tản-Viên. Nhưng lại nói, đến thời vua Lý Thái-tông, thần vâng lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế đầu thai, làm tướng đánh Tống, bình Chiêm. Sau tuẫn quốc ở trận Như-nguyệt. 7.2.2.6. Đình thờ làng Cung-bái, huyện Lục-ngạn, nay là huyện Yên-thế, tỉnh Hà-Bắc. Đền thờ Cao-Sơn đại vương và Quý--Minh đại vương. Tương truyền hai thần sinh vào thời vua Hùng Duệ-Vương. Bà mẹ mơ thấy rồng phun nước vào bụng, rồi sinh ra một bọc, nở ra hai con trai. Lớn lên hai ngài đều có tài văn võ, giúp vua Hùng đánh Thục, sau tuẫn quốc ở núi Tản. Đến đời Lý, thần Cao-Sơn đầu thai xuống làm tướng giúp vua Lý Thánh-tông bình hiêm, giúp vua Nhân-tông đánh Tống, rồi tử trận ở sông Như-nguyệt. 7.2.2.7. Đình thờ làng Đông-lỗ, tổng Đông-lỗ, huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-Bắc, thờ thần tên Cao-Sơn Quý-Minh, tên thực là Dương Tự-Minh quê ở làng Quan-triều, huyện Phú-lương, tỉnh Thái-nguyên. Thần nguyên là tướng thời vua Lý Nhân-tông, tử trận sông Như-nguyệt, tái đầu thai. Nhân được thần cho chiếc áo tàng hình, ngài thường vào cung lấy trộm vàng bạc đem giúp dân nghèo. Chẳng may một lần bị bắt, đem chém. Vua Lý Anh-tông thương tình tha cho. Bấy giờ quân Tống sang xâm lược, ngài dẹp giặc có công, được vua gả công chúa Thiều-Dung cho. Ngài lại có công dẹp nội loạn Anh-Vũ, được vua gả công chúa Diên-Bình. Sau ngài cáo quan về quê ở Phú-lương. Có kẻ tố cáo ngài mưu phản, vua sai bắt chém, nhưng khi giải đến bờ sông, ngài hóa. Vua thấu tình phong làm thần, truyền cho các làng từ Cao-bằng đến sông Lục-đầu lập đền thờ. 7.2.2.8. Đền thờ ở xã Quỳnh-giản, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-dương. Thần tích giống như đền thờ xã Lương-nhàn, mục số 7.2.2.7 trên. 7.2.2.9. Đình thờ xã Đồng- Áng, tổng Hoàng - Vân, huyện Hiệp - Hòa, tỉnh Hà - Bắc, thần tích giống như đền Đông - Lỗ, mục số 7.2.2.7. trên. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Đại-Nam nhất thống chí, Đồng-Khánh địa dư chí, Công-dư tiệp ký, Hoàng-Việt địa dư, Bắc thành địa dư chí lục, Hà-nội sơn-xuyên phong tục, Đại-Việt địa dư chí, Thăng-long cổ-tích khảo, Hải-dương tỉnh thần tích, Bắc-giang tỉnh thần tích, Chư dư tạp biên. - Trung-quốc, a/.Như Phạm-Dật trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Như-tích sơn xuyên phong vực chí, Để-trạo địa dư chí, Dung-châu sư tích. QTNC và TTCTGCK chép ngài tên thực là Dương Minh, thân phụ là Dương Đức, thân mẫu là Vũ-thị Ngân. Vì thời thơ ấu ngài hơi ngọng, nên các bạn gọi ngài là Minh ngọng. Song thân ngài làm nghề đánh cá ở sông Lục-đầu. Khi ngài lên bẩy tuổi, thì ông bà đi đánh cá bị gió cuốn, thuyền lật chết đuối. Ngài phải ăn mày khắp nơi kiếm sống. Năm mười một tuổi (1062) ngài lưu lạc về Thăng-long, gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết bạn với nhau. Bẩy ngài cắt gỗ, dựng lều tranh ở ven hồ Tây, rồi khi thì kéo lưới mướn, khi thì mò cua bắt ốc, có khi phải xúc phân trâu bán. Một vài lần đói quá phải ăn cắp gà, móc túi. Trong thời gian này, ngài được Khai-Quốc vương phi dạy về y. Tương truyền ngài đã tìm ra phương thuốc chữa bệnh đậu mùa, bênh đậu Lào, và thường đeo túi lang thang đi trị bệnh cho dân. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, được vua Thánh-tông cho tòng chinh, ngài lập công lớn trong trận Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandu- rango. Khi luận công phong thần, ngài được phong tước bá, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Long-dực. Ỷ-Lan thần phi hỏi cho ngài một tiểu thư tài sắc vẹn toàn tên Hoàng Phương-Lý, con quan Hình-bộ thượng thư Hoàng Khắc-Dụng. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Long-dực, phụ trách đánh ải Như-tích, Để-trạo. Gặp sức kháng cự của quân Tống cực kỳ mãnh liệt, ngài và phu nhân đều bị thương, nhưng vẫn cương quyết đi tiền phong xung sát. Sau hai ngày cầm cự, Như-tích, Để-trạo thất thủ. Tướng trấn thủ là Ngũ Hoàn bị giết tại trận. Sau đó ngài được lệnh Tín-Nghĩa vương tiến đánh Dung-châu. Chỉ sau ba ngày, hiệu Long-dực hạ được thành Dung, tướng trấn thủ là Đô-giám Vương Kính tử thương. Tiếp theo ngài tiến quân về đánh Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, ngài được phong chức Trung-vũ đại tướng quân tước Kính-Tâm hầu. Phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt (1076-1077), ngài cùng phu nhân nhận nhiệm vụ đánh cảm tử vào khu đóng quân của Tống. Công tác hoàn thành, nhưng hai ngài đều tử thương. Hết giặc, triều đình nghị công, truy phong ngài là Cao-Sơn, Thiên-y, Trung-vũ đại vương. Phu nhân được phong Trang-Hòa quận chúa, truyền lập đền thờ. 7.2.3. Triệu Thu (1052-1077) Ngài quán làng Cao-xá, trấn Nghệ-an. Phụ-thân tên Phạm Dung, mẫu-thân tên Trần Ngọc-Lan. Hai vị làm nghề đánh cá, chỉ sinh được mình ngài, đặt tên là Phạm Minh. Năm ngài lên bẩy tuổi, thì song thân qua đời. Ngài được một ngư dân ở phường Thọ-xương tên Triệu Nguyên nhận làm con nuôi, vì vậy ngài mang họ Triệu. Năm ngài mười tuổi, thì nghĩa phụ chết, để lại một căn nhà nhỏ, với chiếc thuyền câu. Ngài đem sáu người bạn cùng lứa, đang lang thang vô sở bất chí quanh hồ Tây về sống chung. Được năm tháng, lý trưởng trong làng muốn chiếm đất, nhà của ngài, y vu cáo cho bẩy ngài là phường du thủ, du thực. Vì vậy ngài phải cùng các bạn sống lang thang ven hồ Tây, khi thì ăn mày, khi thì kéo lưới mướn, có khi đói quá phải đi móc túi. Năm 1069, trong cuộc bình Chiêm, bẩy ngài cùng đội Giao-long Tây-hồ được vua Thành-tông cho tùng chinh. Ngài từng lập đại công trong trận đánh Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Ca khúc khải hoàn, ngài được phong tước bá, giữ chức đôthống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Thần-điện. Ỷ-Lan thần phi cưới tiểu thư con quan Thamtri Hộ-bộ Phàn Trọng-Tân, là Phàn Phương-Liễu cho. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Thần-điện đánh úp căn cứ thủy quân, cùng xưởng đóng chiến thuyền của Tống. Hai ngài thành công thực dễ dàng, rồi kéo quân về Khâm-châu. Tín-Nghĩa vương lệnh cho hai ngài đem quân công phá Bạch-châu. Gặp sức kháng cự mãnh liệt của quân Tống, ngài dùng hỏa công đốt thành. Sau mười ngày, dân trong thành hết lương đánh lại quân Tống, mở cửa xin hàng. Hạ Bạch-châu, ngài tiến quân về công hãm Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công tâu Lê, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Tuyên-vũ đại tướng quân, tước Tín-Tâm hầu. Phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt, hai ngài tử chiến ở trận Kháo-túc, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công, ngài được truy phong Anh-văn Tuyên-vũ đại vương. Phu-nhân được phong Trang-Ninh quận chúa, truyền lập đền thờ. Hiện đền thờ ngài ở xã Cung-nhượng, tổng Thọ-xương, phủ Lạng-giang, tỉnh Bắcgiang, nay là tỉnh Hà-Bắc. Bắc-giang tỉnh thần tích chép ngài theo vua đánh Chiêm, khi trở về được ba tháng, thì Chiêm cho người sang ám sát, xác ngài trôi theo sông Thiên-đức tới làng Cung-nhượng thì dạt lên bờ. Phu nhân nghe tin này nhảy xuống sông tự tử. Tài liệu ghi chép:. - Việt-Nam, Bắc-giang tỉnh thần tích. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Đông-hải Hy-Ninh bản mạt, Bạch-châu địa dư chí. 7.2.4. Mai-Cầm (1052-1077) Ngài quán tại trang Vạn-phân, huyện Đông-thành, tỉnh Nghệ-an. Vì ngài có cái thẹo trên cằm, nên các bạn gọi là Cầm-thẹo. Thân mẫu ngài tên Mai Xuân-Huệ, không chồng mà chửa, lúc lâm bồn sinh ra một con trai, đặt tên là Mai-Cầm. Bà bị làng bắt khoán, nên phải bỏ quê ra đi; đến làng Đạo-sử thì được một phú ông tên Lưu Khánh cưu mang, đổi tên ngài là Lưu Hùng. Năm ngài lên chín tuổi, thì nghĩa phụ và thân mẫu bị cọp vồ chết. Các con ông Lưu Khánh đuổi ngài ra khỏi nhà. Ngài lang thang ăn mày, lưu lạc tới Thăng-long, rồi gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết thành bạn. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, ngài được vua Thánh-tông cho tùng chinh. Nhờ lập đại công trong trận đánh Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Panduran- go. Sau khi chiến thắng khải hoàn, ngài được phong tước bá, giư chức đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư con quan Kinh-lược an-vũ sứ Trường-yên tên Tôn Sơn là Tôn Phương-Đơn cho. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài được nguyên-soái Thường-Kiệt trao cho nhiệm vụ tấn công vào cửa Đông, sau đó vượt ra cửa Tây, trấn ở Tiểu-dã để chặn phục binh. Việc đánh chiếm Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu xong, nguyên soái Thường- Kiệt truyền cho ngài đem quân về đánh Ung-châu. Hạ xong thành Ung, quân Việt rút về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong ngài chức Tuyên-uy đại tướng quân, tước Từ-Tâm hầu. Phu-nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân đánh đại Việt, ngài cùng phu nhân trấn ở phòng tuyến Như-nguyệt, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công truy phong ngài là Tuyên-uy phúc tướng đại vương. Phu nhân được phong Trang-Mẫn quận chúa, truyền lập đền thờ. Trải qua gần nghìn năm, đến nay đền thờ ngài vẫn còn tại làng Đạo-sử, tổng Phálãng, huyện Lang-tài, nay là xã Phá-lãng, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Một đền thờ thứ nhì tại làng Đông-hương, tổng Phá-lãng nay là xã Phá-lãng, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Trong Bắc-ninh tỉnh thần tích lại chép rằng: Thân mẫu ngài thấy con trâu vàng tắm ở ven biển. Khi bà tới hần thì trâu biến mất, chỉ còn lại hai cái lông, bà giắt hai cái lông vào gấu áo. Hai cái lông chảy thành nước, ngấm vào bụng bà. Từ đó bà mang thai, sinh một bọc hai trai. Bị dân làng chê cười, bà bỏ làng ra đi. đến làng Đạo-sử được một phú ông cưu mang. Bà đặt tên con là Hùng và Huy. Hùng có tài võ, huy có tài văn. Sau hai anh em theo vua bình Chiêm. Thắng trận hai ông trở về làng khao thưởng quân sĩ rồi vào triều nhận chức. Khi thuyền chở hai ông đến trang Đông-sá, phủ Thiên-trường thì bị đắm. Xác hai ông trôi về quê sắc diện còn tươi. Dân làng dâng biểu về triều, vua ban cho sắc phong để thờ phụng. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Bắc-ninh tỉnh thần tích. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Liêm-châu địa dư chí, Hổ-môn chư thần chí. 7.2.5. Quách Y (1052-1077) Tên thực ngài là Phạm Trọng-Y. Chính quán ngài tại đâu không rõ. Chỉ biết song thân ngài làm nghề trồng hoa. Thân phụ tên Phạm Trọng-Khâm, thân mẫu tên Quách-thị Phùng. Vì ngài hói đầu, nên bạn hữu gọi đùa là Y-hói. Khi ngài lên bẩy thì song thân cùng bị bạo bệnh qua đời. Ngài được người cậu đem về nuôi, cải tên là Quách-Y. Năm ngài mười tuổi lại đến lượt ông cậu qua đời. Ngài sống bơ vơ, ăn xin độ nhật ở Thăng-long. Sau cùng gặp sáu người đồng tuổi, đồng cảnh ngộ, kết thân với nhau làm nghề kéo lưới mướn, rửa bát. Có lúc nghèo quá phải đi ăn mày, móc túi, ăn cắp vặt để sống. Bẩy ngài sau được vua Thánh-tông ban cho mỹ hiệu Tây-hồ thất kiệt. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, ngài được vua Lý Thánh-tông cho tùng chinh, từng lập đại công trong các trận Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công phong cho ngài tước bá, giữ chức đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư Phạm Phương-Tiên con quan Kinh-lược an-vũ sứ Thanh-hóa là Phạm Nhật-Chiêu cho ngài. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh, tiến đánh thành Khâm. Thành Khâm bị hạ, ngài được lệnh tiến về công thành Ung. Sau khi chiến thắng trở về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Minh-uy đại tướng quân, tước Minh-Tâm hầu, phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân sang đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân tử chiến ở phòng tuyến Như-nguyệt, rồi tuẫn quốc. Sau khi hết giặc, triều đình nghị công phong ngài là Minh-uy Lôi-trấn đại vương, phu nhân được phong Trang- Thanh quận chúa. Hồi đem quân bình Chiêm trở về, ngài có dừng quân ở núi Lôi-sơn, xã Hữu-biệt, huyện Nam-đàn, trấn Nghệ-an. Bấy giờ trong núi có bầy sói cực kỳ hung bạo, thường hay tràn về thôn xóm bắt bắt gia súc ăn thịt. Ngài dùng đại nỏ bắn mã-não, hoàng thạch giết sạch bầy sói. Nên dân chúng lập đền thờ sống ngài. Sau khi ngài tuẫn quốc, triều đình ban ruộng cho dân làng để tiếp tục hương khói. Cho đến nay, gần nghìn năm trôi qua, đền thờ của ngài vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói quanh năm. Nhưng trong Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Hoàn vũ ký, Đại-Nam nhất thống chí thì chép giản dị rằng: Tương truyền đời Lý có tướng quân họ Phạm, không rõ tên, đem quân đi dẹp giặc, khi qua núi Hữu-biệt, huyện Nam-đàn, trấn Nghệ-an thình lình có tiếng sấm nổ, rồi ngài biến mất. Vua Lý cho lập đền thờ, gọi là đền Độc-lôi(!). Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Hoàn vũ ký, Đại-Nam nhất thống chí. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. 7.2.6. Ngô Ức (1053-1077) Ngài là hậu duệ của Ngô-vương Quyền, thuộc giòng dõi Nam-Tấn vương Ngô Xương-Văn, thế hệ thứ 5 (Quyền sinh Văn, Văn sinh Đức, Đức sinh Tuệ, Tuệ sinh Ức). Phụ thân tên Ngô Vĩnh-Tuệ, quê ở xã Đường-lâm, huyện Phúc-thọ, thuộc thị-xã Sơn-tây. Thời vua Lý Thái-tông, ông nộp đơn dự thi tuyển võ tướng. Khai-Quốc vương đọc bản cung khai lý lịch, biết ông là cháu Ngô-vương, đặc cách cho ông khỏi thi. Sau khi huấn luyện, ông được phong chức đô-thống coi hiệu binh trấn ở Tiên-yên. Tương truyền sau khi thắng quân Nam-Hán, Ngô-vương kéo quân về thăm cố-đô Cổ-loa, tu bổ cố-cung thời vua An-Dương, lại trồng một cây đa rồi tuyên chỉ rằng Khi nào cây đa này chết, thì linh khí Cổ- Loa mới hết. (Cây đa này, nay là năm 1995 vẫn còn). Vì vậy một lần về Thăng-long hội quân, ông Đinh Vĩnh-Tuệ hành hương Cổ-loa, rồi qua đêm tại đây. Đêm đó ông mơ thấy vua An-Dương hội triều thần, có tứ trụ đại thần là Tể-tướng Phương-chính hầu Trần Tự-Minh, Đại-tư-mã Vạn-tín hầu Lý Thân, Đại-tư đồ Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Đại-tư-không Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung đứng hầu. Ông hành lễ với đức vua. Đức vua chỉ một võ quan bảo: - Ta thấy hung khí phương Bắc thịnh, thì thời gian con vua Bắc-đế đem quân Nam xâm đến nơi rồi. Vậy người hãy mau đầu thai để bảo vệ Viêm-bang. Viên võ quan hỏi: - Tâu bệ hạ, thần sẽ đầu thai vào cửa nào? Vua An-Dương chỉ vào Vĩnh-Tuệ: - Ta thấy Vĩnh-Tuệ là kẻ có lòng, vậy nhà ngươi hãy đầu thai làm con y. Thấy viên võ quan còn ngần ngữ, ngài dạy: - Ta chỉ bắt người xuống thế có hai mươi lăm năm mà thôi. Đừng có ngại ngùng. Hôm sau Vĩnh-Tuệ rời Cổ-loa ra đến đầu làng thì gặp một thiếu nữ xinh đẹp hái hoa sen, chẳng may bị rắn cắn vào bụng. Không kể nguy hiểm, ông ghé miệng hút nọc độc cứu cô. Người con gái thoát nạn, chắp tay: - Đa tạ tướng quân cứu mạng. Tên thiếp là Cao Tường-Vân. Tướng quân ơi! Tiểu nữ là con gái đồng trinh, thân thể chưa nhiễm bụi trần. Nay vì bị nạn, mà phải tùng quyền để tướng quân chạm vào khắp người, thì cái thân này thuộc về tướng quân vậy. Vĩnh-Tuệ bèn cưới Tường-Vân làm vợ, năm sau sinh ra một trai, đặt tên là Ngô Vĩnh-Ức. Khi Vĩnh-Ức được một năm, thì Vĩnh-Tuệ đem quân đi bắt cướp, trúng tên chết. Tường-Vân đem con về ở Nghi-tàm, ngoại ô Thăng-long làm nghề trồng hoa sống qua ngày. Năm Vĩnh-Ức bẩy tuổi, thì mẹ qua đời. Không nơi nương tựa, ngài lang thang cùng sáu người bạn,(sau là Tây-hồ thất kiệt), sống vất vưởng ở Thăng-long. Khi thì kéo lưới mướn, khi thì rửa bát, có khi phải ăn cắp vặt, móc túi kiếm sống. Vì khi cười miệng ngài hơi méo, nên bạn hữu họi ngài là Ức-méo. Rồi duyên may đưa đến, bấy ngài gạp Minh-Không thiền sư, Khai-Quốc vương, đgợc thu làm đệ tử, lại được Ỷ-Lan phu nhân nhận làm em nuôi. Năm 1069, vua Thánh-tông đem quân bình Chiêm, Tây-hồ thất kiệt được tùng chinh, và được đặt dưới quyền Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn. Sau chiến thắng Nam-giới, Bố-chánh, ngài lại tham dự trận Nhật-lệ. Trong trận này ngài là người duy nhất bị thương. Tiếp theo ngài dự trận Thi-nại, Pandurango. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư Quách Phương-Dược, con quan Lễ-bộ thượng thư Quách Sĩ-An cho ngài. Trong những ngày cùng Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt luyện quân, chính ngài là người chế ra loại tên lửa mang theo ống nứa trộn nhựa cháy, mã não, hoàng thạch để đốt thành địch. Đây là sáng kiến đầu tiên, rồi sau này Phạm Dật, Trần Ninh mới chế loại Lôi-tiễn gây kinh hoàng cho quân Tống trong trận Côn-lôn, Đại-giáp, Ung-châu. Trong cuộc Bắc chinh năm 1075, ngài cùng phu nhân đem hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược tham dự trận đánh Khâm-châu, rồi tiến về đánh thành Ung. Ca khúc khải-hoàn, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Định-viễn đại tướng quân, tước Huệ-Tâm hầu. Phu nhân được phong Trang- Ninh quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt. Ngài cùng phu nhân tử chiến ở Vạn-xuân, Kháo-túc, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công, truy phong ngài là Định-viễn Lôi-thần đại vương, phu nhân được phong Trang-duệ, Ninh-tĩnh quận chúa; truyền phối thờ ở đền Kê-lạc cùng với tiên vương Ngô triều. Trải bao lớp sóng phế hưng, nắng mưa, nay (1995) đền Kê-lạc vẫn còn tại xứ Kêlạc, xã Nghĩa-chế, huyện Tiên-lữ, tỉnh Hưng-yên; nay là huyện Phù-tiên, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Hưng-yên tỉnh nhất thống chí, Bắc-kỳ giang-sơn cổ-tích danh thắng bị khảo, Các tỉnh địa dư chí, Đồng-khánh địa dư chí lược. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. 7.2.7. Tạ Duy (1053-1077) Nguyên quán ngài tại An-lãng, thuộc Cửu-chân, trấn Thanh-hóa. Phụ thân tên Tạ Trọng-Nguyên, mẫu thân tên Lưu Huyền-Mẫn. Ông là một thầy đồ dạy học thuộc lộ Kinh- Bắc thời vua Lý Thái-tông. Ông bà sinh được hai con trai, con lớn tên Tạ Duy hay Tạ ĐộĐàm, con nhỏ tên Tạ Giang-Ba. Vì ông bà ngoại không có con, nên Tạ Giang-Ba mang họ ông ngoại, cải tên là Lưu Ba. Năm Tạ Duy tám tuổi, thì cha mẹ bị đắm thuyền chết hết. Hai anh em phải ở với người thím họ. Gặp bà thím ác độc đánh đập, hành hạ khổ sở, hai anh em bỏ nhà ra đi, và lạc nhau. Tạ Duy lên Thăng-long, vô sở bất chí, gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết bạn với nhau, sau là Tây-hồ thất kiệt. Bẩy người lang thang ở Thăng-long, khi thì kéo lưới mướn, khi thì rửa bát. Có khi túng thiếu quá, phải ăn cắp vặt, móc túi kiếm sống. Vì dáng người ngài hơi thấp, nên các bạn gọi là Duy-lùn. Trong dịp bình Chiêm năm 1069, vua Thánh-tông cho Tây-hồ thất kiệt tòng chinh, đặt dưới quyền Tín-Nghĩa vương Lý Hoằng-Chân. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, ngài được phong tước bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vạn-tiệp. Ỷ- Lan thần phi hỏi tiểu thư Lý Phương-Quế, con gái đại đô đốc Lý Kế-Nguyên cho ngài. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vạn-tiệp đánh thành Khâm-châu, rồi tiến về công hãm Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong ngài chức Ninh-viền đại tướng quân, tước Dũng-Tâm hầu, phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân sang đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân tử thủ phòng tuyến sông Như-nguyệt, cả hai tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình truy phong ngài là Ninh-viễn Trung-chính đại vương, phu nhân được phong Trang-hòa Ninh-tĩnh quận chúa, truyền lập đền thờ. Hiện nay đền thờ hai ngài vẫn còn tại xã Lưu-xá huyện Hưng-nhân, thuộc huyện Hưng-hà, tỉnh Thái-bình. Hưng-yên tỉnh nhất thống chí ghi giản dị: Anh là Lưu Độ-Đàm, em là Lưu Ba có công đánh Tống, bình chiêm, được phong chức Tiết-độ sứ. Sau khi mất được dân chúng lập đền thờ, mộ cũng chôn tại đấy. Trong đền thờ có tấm hoành phi sơn son thiếp vàng khắc bài thơ của vua Lê Hiển-Tông đề, nhắc công lao hai vị. Nhiều người lầm Lưu Độ-Đàm tức Ngô Ức với Lưu Khánh-Đàm sau này. Về Lưu Khánh-Đàm, Đại-Việt sử ký toàn thư, Lý kỷ, Nhân-tông bản kỷ chép rằng niên hiệu Thiên-phù Khánh-thọ, tháng 12 (DL 1228) vua Lý Nhân-tông sắp băng, tuyên triệu Thái-úy Lưu Khánh-Đàm vào cung để thác việc lập thái tử Dương-Hoán nối ngôi, lại cũng ghi Khánh-Đàm mất năm Thiên-chương Bảo-tự thứ tư (DL.1136). Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Hưng-yên tỉnh nhất thống chí, Đại-Việt sử ký toàn thư ( Lý kỷ, Nhân-tông kỷ). - Trung-quốc a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. Trên đây, tôi đã dẫn quý độc giả lướt sơ qua trang sử anh hùng thời Tiêu-sơn. Tôi xin ngừng ở đây, và mời quý độc giả đi vào hào quang của tổ tiên ta để lại, trong bộ Nam quốc sơn hà này. Viết tại Pontault Combault, Pháp-quốc, mùa hè, tháng sáu, năm Ất-hợi (1995). Yên-tử cư-sĩ Trần-Đại-Sỹ. Chưa hoàn chỉnh2 likes -
Chào cô Haiphuong. Chúc cô và gia đình vạn sự an lành. Hôm nay tôi mới thấy lại topic này. Rất vui vì chồng cô có tiến triển tốt. Cô hãy yên tâm, theo quẻ của tôi - nhnh thì ngay tháng này. Chậm thì giữa tháng năm, âm lịch , chồng cô sẽ phục hồi. Cô nên làm hai việc sau đây: 1 - Tìm một thày giỏi về nhân điện (Hình như tôi có giới thiệu) để phụ giúp chồng cô. 2 - Thả chim phóng sinh, ngay tai căn nhà vợ chồng cô thuê. Phương pháp như sau: Ra chợ bán chim. Chọn lồng chim có nhiều chim nhất (Nếu không đủ tiền mua hết tất cả chim ở đó) - có quyền trả giá sát nhíp - nói họ chở về nhà, hoặc tự mình chở về và thả ở đó. Con nào yếu không bay được thì nuôi cho đến khi nó khỏe bay đi. Chết thì chôn. Sinh khí và sự giải thoát của chúng sẽ giúp cho chồng cô chóng khỏi. Cái này khó giải thích (Chứ không phải không giải thích được). Nhưng đây là điều có thật Tôi cũng thường xuyên thả chim.2 likes
-
Bí mật “huyệt trai tân” giải oan tội hiếp dâm Cập nhật lúc 14:59, Thứ Tư, 19/05/2010 (GMT+7) , “Ngày 22/04/2002, ba thanh niên ở xã Yên Nghĩa, Hà Đông (Hà Nội) là Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Kiên, Nguyễn Đình Tình, phải nhận án tổng cộng 41 năm tù vì tội hiếp dâm, cướp tài sản. Dù các bị cáo đều một mực không nhận tội trước toà. Thậm chí trong phiên phúc thẩm, khi biết bị bác kháng cáo kêu oan, cả ba bị cáo nhất loạt xin…lĩnh án tử hình. Và sau gần 10 năm lĩnh án, ba thanh niên này đã được minh oanbởi một phụ nữ kỳ lạ . Đó là lương y chuyên sâu Phạm Thị Hồng, công tác tại bệnh viện đa khoa Hà Đông (Hà Nội). Chị là người phụ nữ có thận phận đặc biệt, và sự quyết liệt hiếm có khi sẵn sàng tự thiêu để chứng minh nhận định của mình là đúng. Mọi chuyện chỉ bắt đầu khi chị phát hiện ba chàng trai này chưa bao giờ có quan hệ với phụ nữ, nhờ một huyệt đạo bí mật, nói theo dân dã thì họ vẫn còn là trai tân… Từ một huyệt đạo mang tên “Dương Minh” Chị Hồng tự giới thiệu mình là người say mê những pho sách cổ, đặc biệt là các sách về Đông y. Chị thường say sưa nghiên cứu những huyệt đạo, những quy luật âm – dương của cơ thể con người, những kiểu giáo trình này người ta không đưa vào chương trình giảng dạy các trường khoa Đông y. “Chỉ vì tò mò nên tôi đọc tất cả những cuốn sách cổ về y thuật nếu bắt gặp thú vị vô cùng” - chị Hồng nói. Chị kể: vào năm 2006, trại giam Thanh Xuân có đưa đến một phạm nhân nam, còn rất trẻ tuổi tên là Nguyễn Đình Lợi. Bệnh nhân này được nhập viện trong thể trạng suy yếu, gần như liệt nửa người. Sau khi bắt mạch, chị quyết định châm cứu để phục hồi chức năng cho Lợi. Khổ nỗi cậu ta là phạm nhân nên luôn bị xích ở cổ chân mà nơi ấy là một huyệt quan trọng để châm cứu. Thấy vậy chị đề nghị cán bộ của trại giam tháo xích để tiến hành châm cứu. Vị cán bộ trại giam sợ sai nguyên tắc nên từ chối, chị đã phải thuyết phục rằng, phạm nhân này không thể chạy trốn vì anh ta đang bị liệt nửa người…Thuyết phục mãi cán bộ trại giam mới tháo xích và giúp chị bê bệnh nhân lên giường để châm cứu. Huyệt đạo mang tên "Dương Minh" để kiểm tra trinh tiết đàn ông nằm ở vị trí dưới dái tai Cảm kích trước hành động của vị bác sĩ, phạm nhân Lợi bật khóc tức tưởi. Lợi mếu máo rằng, đã lâu lắm rồi chưa được ai quan tâm và chăm sóc tốt như thế…Chị Hồng cười rồi bảo: thanh niên gì mà khóc nhè thế, biết hối hận thì chăm chỉ cải tạo rồi ra thôi…Lần này Lợi lại càng khóc to hơn kêu rằng mình bị oan, nhất định muốn chết!. Thấy lạ, chị Hồng quay sang hỏi cán bộ trại giam thì biết được cậu ta mắc tội tày đình: hiếp dâm, cướp của, lĩnh 16 năm tù. Cái tội hiếp dâm ai cũng ghét, tôi cũng thế nên thấy ghê tởm” - chị Hồng nói. Thế nhưng khi nhìn vào khuôn mặt tái dại, đôi mắt trong sáng của phạm nhân này, bỗng nhiên chị cảm thấy điều gì đó bất thường. Chị bèn hỏi đùa: “cậu quan hệ với phụ nữ bao nhiêu lần rồi?”/. Phạm nhân Lợi giãy nảy rằng, chưa ! Chưa bao giờ quan hệ với phụ nữ. Chị Hồng bật cười rồi doạ: “này, chị là lương y, chị biết nhìn trinh tiết đàn ông đàn bà đấy, đừng nói bừa!”. Nghe vậy, phạm nhân Lợi vẫn kiên quyết khẳng định, mình là trai tân, chưa hề biết thế nào là phụ nữ! Nếu có chết cũng không dám nói bừa! Quá tò mò, chị quyết định bấm huyệt “Dương Minh”, cái huyệt này nằm ở vị trí dưới dái tai. Theo giải thích của chị, những người đàn ông chưa bao giờ quan hệ tình dục với phụ nữ thì cái huyệt ấy vẫn chưa đứt. Huyệt này chỉ đứt khi có khí âm hút vào. Ngược lại với phụ nữ huyệt này gọi là “Khuyết Ấm”, nằm ở vùng ức và nếu chưa có quan hệ với đàn ông thì nó cũng sẽ không đứt. Ngày xưa, khi tuyển cung phi cho vua chúa, những lương y thường xem huyệt này để kiểm tra trinh tiết… Chị mô tả rằng, huyệt này nó như sợi chỉ màu hồng rất đẹp, nếu đúng ngày nó nổi lên, khi ấy cơ thể con người có một luồng khí rất mạnh, tươi mới tinh khôi… đàn ông sẽ trở nên mạnh mẽ, phụ nữ sẽ trở nên đẹp lạ lùng ! Những lương y có nghề sẽ biết cách xem cái huyệt này. Và chị hoàn toàn bất ngờ khi thấy huyệt “Dương Minh” của phạm nhân Lợi còn nguyên vẹn. “Nói thật, lúc ấy tôi vừa mừng vừa lo, mừng vì cậu ta nói thật nhưng lo nhất là sẽ chẳng ai tin chuyện này…” - chị Hồng bùi ngùi nhớ lại. Chị bảo, cái huyệt đạo này người theo học y thuật phương Đông đều biết, nhưng nhiều người không để ý vì nó chẳng mấy tác dụng trong việc chữa bệnh, ngoài chức năng chứng minh sự trinh tiết. Hơn nữa nó lại thuộc y học phương Đông, nếu đem ra làm chứng cứ thì rất khó thuyết phục nguời khác. Nhưng cứ nhìn đôi mắt oan ức của Lợi, trong chị lại dâng lên một quyết tâm lạ lùng: phải minh oan bằng được! Sẽ tự thiêu để chứng minh sự thật Chị đã đi gặp GS. Nguyễn Tài Thu - một trong số ít người quan tâm đến cái huyệt đó. GS. Nguyễn Tài Thu sau khi nghe chị thuật lại sự việc cũng lắc đầu bảo, khó lắm con ạ (GS luôn gọi chị là con ) chuyện này không đùa được, liên quan đến luật pháp, mà cái huyệt này chỉ những người rành y thuật phương Đông mới hiểu, khó làm chứng cứ minh oan lắm…Nói vậy nhưng GS cũng rất thương cho phạm nhân Lợi, chính ông đã móc ví lấy tất cả số tiền trong đó là 800 ngàn đồng gửi chị mua thuốc để tiêm cho Lợi, rồi động viên chị hãy bình tĩnh, làm từng bước cho chắc chắn. Sau nhiều ngày suy nghĩ, chị quyết định tìm đến nhà phạm nhân tìm tài liệu về vụ án, lên Viện kiểm sát xin đọc hồ sơ…chị hết sức bất ngờ vì đó là một vụ án còn nhiều mâu thuẫn, có nhiều tình tiết cần được làm sáng tỏ, nó cũng củng cố thêm cho niềm tin của chị. “Tôi đã quyết định đứng tên viết đơn kêu oan, nhưng lẳng lặng làm, ai hỏi thì nói là tìm hiểu cho biết…” - Chị Hồng nói. Chị đã đi tất cả 36 cơ quan, những nơi liên quan đến vụ việc này, viết vài trăm lá đơn, trình bày tất cả những hiểu biết của mình về y học để chứng minh rằng Lợi vô tội. Tất cả những lá đơn gửi đi đều bặt vô âm tín, nếu có trả lời thì cũng khẳng định rằng bản án đã được tuyên đúng người đúng tội, có cả bản tự thú của phạm nhân, cơ quan pháp luật không sai. Mệt mỏi, chán chường, thỉnh thoảng lại bị ai đó gọi điện hăm doạ, rồi cứ xểnh ra là mất xe máy (chị đã mất tới 4 cái xe máy trong quá trình đi kêu oan giúp). Nhiều người thân bạn bè cũng khuyên can rằng , việc khó lắm lại là người dưng, chẳng quen biết gì, lao đầu vào như thế không may chuốc hoạ vào thân thì khổ “tôi không chịu, tôi vẫn quyết tâm vì tôi có lý do…” - chị Hồng vừa nói vừa lục ra 1 lá thư đã cũ, được ép nhựa cẩn thận. Đó là bức thư của ba chị - một chiến sỹ cách mạng hy sinh rất anh dũng, bạn hoạt động cùng thời với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, chính ba Sáu Dân đã giao lại bức thư cho chị hồi còn bé. Trong đó có đoạn “… Con không được phản bội lại chính lương tâm mình với bất kỳ lý do nào. Cuộc sống của con phải lấy nhân nghĩa làm lẽ sống…”. Chị Hồng rơm rớm nước mắt kể: Đời chị chưa bao giờ biết mặt ba. Lá thư này là ba viết cho chị trước lúc địch mang ông ấy ra trường bắn, không lâu sau má chị cũng bị chúng giết chết. Chị được gửi lại cho một gia đình nông dân ở huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ). Cha mẹ nuôi của chị cũng tốt vô cùng, họ không bao giờ tiết lộ chị là con nuôi, chỉ sau khi chị lớn, ba Sáu Dân và một số bạn hữu của ba má đẻ chị tìm tới, giao lại lá thư, chị mới biết mình là con nuôi, người gốc Bến Tre, ba má tập kết ra Bắc thì sinh chị, nhưng vì nhiệm vụ cách mạng, họ phải gửi chị lại để tiếp tục vào Nam chiến đấu… “Từ đó tôi lấy đuợc cái đức của ba má mà sống. Tôi không thể chịu đựng được khi thấy sự oan ức mà không hành động!” - chị Hồng khẳng định. Thế rồi đến năm 2008, một lần nữa Lợi đựơc đưa ra bệnh viện điều trị, lần này chị có cơ hội tiếp xúc lâu hơn với bệnh nhân. Chắp nối tất cả các dữ kiện, cùng những chứng cứ thu nhập được, chị quyết định, tìm gặp các vị lãnh đạo cao cấp để minh oan. Thế nhưng mọi chuyện vẫn như vậy, họ vẫn giữ quan điểm ban đầu rằng họ không sai. Quá bức xúc, chị tuyên bố rằng sẽ tự thiêu để chứng minh nhận định của mình. Chị tin rằng, sau cái chết của mình sẽ có người lật lại toàn bộ hồ sơ sự việc. Chị đã tính đến việc gửi lại hai đứa con của mình cho người thân nếu chị tự thiêu. Với sự lỳ lợm đến khó tin cuối cùng câu chuyện cũng đến được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ông đề nghị VKSND tối cao xem xét lại bản báo cáo. Cuối năm 2009, các cơ quan tố tụng có công văn gửi các cấp lãnh đạo thừa nhận: “ quá trình điều tra và xét xử đã có những thiếu xót…cơ quan điều tra đã thiếu khách quan, không đầy đủ và triệt để, những chứng cứ gỡ tội chưa được xác minh làm rõ…”. Và kết quả là họ trả tự do cho ba thanh niên đó. Chúng tôi - những người làm báo đến nghe chị kể chuyện đã hỏi: “Chị định tự thiêu là để làm thật hay doạ nếu họ không nghe?”. Chị Hồng khẳng định: “ tôi không doạ, tôi chưa bao giờ đùa trong chuyện này. Ngày mới gặp Lợi, tôi hứa sẽ đi đến cùng để minh oan, và tôi đã làm như thế. Tôi là lương y, cứu người là nhiệm vụ, và chết vì người khác cũng không phải là cái gì đó ghê gớm!”. Nhìn người phụ nữ 53 tuổi này mà chúng tôi thấy ấm lòng, cuộc sống sẽ đẹp hơn nếu có nhiều và rất nhiều người như chị ! Kiến thức, lòng quyết tâm của chị đã giúp ba chàng thanh niên đòi lại công lý, đòi lại nhân phẩm, và cũng cảnh báo với những người đang cầm cân nảy mực, có trách nhiệm phải thật cẩn trọng với pháp luật vì chỉ một sai xót nhỏ cũng có thể huỷ diệt cuộc đời một con người. Theo Đang yêu1 like
-
Thưa các bạn, Là thành viên mới của diễn đàn, tôi mạnh dạn mở topic này với hy vọng có thể giúp các thành viên khác có được những thông tin để tham khảo từ lá số tử vi của mình trước khi đưa ra những quyết định về công danh, sự nghiệp. Những thành viên tham gia topic này xin vui lòng đưa ra các thông tin ngắn gọn, đầy đủ, chính xác và các câu hỏi cũng nên gắn gọn, rõ ràng. Với những kiến thức và kinh nghiệm có được, tôi sẽ cố gắng giải đáp cho các thành viên. Xin cảm ơn sự hưởng ứng tham gia của các thành viên. Xin chúc cho diễn đàn ngày càng phát trỉển mạnh mẽ. Huyencodieuly1 like
-
ĐI TÌM CỘI NGUỒN KINH DỊCH VÀ THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH. Nguyễn Vũ Tuấn Anh Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Kể từ khi hai nền văn minh Đông Tây giao lưu trong lịch sử phát triển của nhân loạị thì cả thế giới đều nhận thấy rằng: Kinh Dịch và hệ thống phương pháp luận liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành là một thành tố quan trọng tạo nên một cái nhìn bí ẩn và huyền vĩ về văn hóa Đông phương. Nhưng vẫn hoàn toàn bế tắc khi đi tìm bản chất và thực tại khách quan mà nó phản ánh. Có nhiều ý kiến khác nhau về lịch sử, nội dung và bản chất của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành, Nhưng tất cả đều chưa đủ sức thuyết phục. Những bài viết dưới đây là sự tóm lược trong những sách đã xuất bản của Nguyễn Vũ Tuấn Anh từ những năm 1998 trở lại đây nhằm xác định một cái nhìn về lịch sử, nội dung và mục đích của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. I - LỊCH SỬ THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG CỔ THƯ CHỮ HÁN. I – 1: Những vấn đề của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Từ trước đến nay, có thể nói rằng tuyệt đại đa số những ai biết về Kinh Dịch đều mặc nhiên coi kinh Dịch và tất cả những phương pháp ứng dụng liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành là của nền văn minh Hoa Hạ cổ với hàng ngàn đầu sách bằng bản văn chữ Hán viết về nó trong hàng thiên niên kỷ. Người ta không thấy một văn bản nào ngoài chữ Hán trong các sách vở từ hàng ngàn năm này liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Từ Thiên văn, lịch số, Đông y, phong thủy, các phương pháp bói toán…… Đã rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến Kinh Dịch. Những bản văn chữ Hán cổ này xác định rõ tác giả, thời gian xuất hiện trong lịch sử văn minh Hoa Hạ. Và những hiệu quả ứng dụng vượt thời gian trong lịch sử phát triển của con người và xuyên qua mọi không gian văn với khả năng tiên tri, đã biện minh cho tác giả và xuất xứ của nó. Nhưng, khi có sự giao lưu giữa nền văn hóa Đông Tây thì người ta đã nhận thấy sự bí ẩn và tính mơ hồ của những gía trị liên quan đến nguyên lý lý thuyết có tính nền tảng của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Nền văn minh Đông phương trở thành huyền bí trong nhận thức của tri thức khoa học hiện đại. Đã có một thời gian dài, các học giả Tây phương cho rằng Lý học Đông phương mang màu sắc tôn giáo và mê tín dị đoan. Nhưng những thập kỷ gần đây, những tri thức khoa học Tây phương đang chiếm ưu thế và được tôn vinh trong tri thức nhân loại hiện đại bắt đầu quan tâm đến nền văn hóa cổ Đông phương và nhận ra tính minh triết và đặt vấn đề về tính khoa học của nó. Cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã 4 lần tổ chức đại hội thảo về Kinh Dịch ở Bắc Kinh để tìm hiểu về Kinh Dịch, nhưng vẫn không có một kết luận cuối cùng về nó. Những bí ẩn của Kinh Dịch hay nói rộng hơn của Lý học Đông phương mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành vẫn không được khai thông. Những học giả Trung Quốc hiện đại trong những năm gần đây, đã dấy lên một phòng trào phủ nhận những gía trị của Đông Y và Phong thủy, vì cho rằng nó mơ hồ, không có cơ ở khoa học, nên đã không thể phát triển từ hàng ngàn năm nay. Kinh Dịch và nói rộng hơn là thuyết Âm Dương Ngũ hành vẫn sừng sững thách đố tri thức của nhân loại bằng sự mơ hồ của những khái niệm và hiệu quả trên thực tế từ hàng thiên niên kỷ. Nhưng có thể nói rằng: Cũng từ hàng ngàn năm nay, hầu hết những đề tài nghiên cứu này đều mặc nhiên coi những nguyên lý, những tiên đề ghi nhận trong Kinh Dịch là không bàn cãi và lấy đó làm tiêu chí để tìm hiểu nội dung bí ẩn của nó. Mặc dù xuất xứ của các nguyên lý có tính tiên đề đó hết sức thần bí. Đó là Hà Đồ được xác định là do con Long Mã xuất hiện trên sông Hoàng Hà trên minh mang những dấu ấn là những vòng xoáy trên lưng. Căn cứ vào đấy vua Phục Hy, được coi là vị vua Thái cổ của nền văn minh sử Hán đã lập nên đồ hình Hà Đồ. Từ đồ hình này, nhà vua đã tạo nên đồ hình Tiên Thiên Bát quái. Mở đầu cho một nền văn hóa Dịch học của xứ sở Đông Phương huyền bí. Con Long Mã huyền thoại từ 6000 năm trước, nay trở thành một biểu tượng cho điềm lành dùng trong những gia đình tin vào tác dung mang lại may mắn của nó. Nguồn: mynga.vn Đồ hình Hà Đồ điểm, được các đạo gia công bố vào đời Tống – 5000 năm sau khi lịch sử văn hóa Hán xác nhận thời điểm ra đời của nó, vào đời vua Phục Hy từ trên lưng con Long Mã hiện lên ở sông Hoàng Hà. Đồ hình Tiên Thiên Bát quái tương truyền do vua Phục Hy sáng tạo căn cứ vào Hình Hà đồ trên lưng con Long Mã. Sự huyền bí chưa dừng lại ở đây. Cổ thư chữ Hán còn xác định rằng: Đến thời Vua Đại Vũ – 4000 năm cách ngày nay – khi đi trị thủy ở sông Lạc – thấy con Thần Quy hiên lên. Trên đầu, lưng mai và đuôi có những vết chấm. Nhà vua nhìn thấy và làm ra đồ hình Lạc Thư. Căn cứ vào Lạc Thư ngài đã phát minh ra Ngũ Hành trong trước tác nổi tiếng là “Hồng Phạm cửu trù”. Hình minh họa những điểm trên thân Thần Qui hiện trên sông Lạc và đồ hình Lạc Thư điểm. Cũng do các đạo gia đời Tống công bố sau khi lịch sử văn hóa Hán xác nhận lịch sử ra đời 3000 năm sau đó. Cấu trúc cửu trù theo Lạc Thư – Trù thứ nhất nói về Ngũ hành. Một ngàn năm sau nữa, cũng theo cổ thư chữ Hán viết rằng: Vua Văn Vương nhà Chu, lúc còn là một chư hầu của nhà Hạ dưới đời Trụ Vương, đã bị Trụ Vương bắt nhốt vào ngục Dữu Lý, đã nghiệm ra Hậu Thiên Bát Quái và lập nên hệ thống 64 quẻ Dịch gọi là Chu Dịch, viết nên Soán Từ - tức là giải thích ý nghĩa của từng quẻ trong hệ thống 64 quẻ Hậu Thiên Bát quái. Sau đó con của ngài là Chu Công Đán đã viết tiếp Hào từ - Tức là giải thích ý nghĩa của từng vạch trong một quẻ. *** Phải chăng: Người ta đã không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Bất cứ cái gì xuất hiện trên thế gian đều phải có hoàn cảnh ra đời của nó. Một học thuyết thì phải có lịch sử ra đời theo thuận tự hợp lý với nội dung của nó. Thuyết Âm Dương Ngũ hành không thể từ trên trời rơi xuống, nên nó cũng không thể ngoại lệ. Chưa hết, Một học thuyết được coi là hoàn chỉnh, dù chưa biết đúng hay sai thì cũng không thể tự mâu thuẫn ngay trong cấu trúc nội dung của nó. Và nếu là một học thuyết khoa học thì nó phải mô tả được thực tế khách quan và giải thích một cách hợp lý những thực tại liên quan đến nó với khả năng dự báo. Trên cơ sở này, xin mời bạn đọc cùng xem lại những vấn đề được nêu ra ở trên để minh xác cội nguồn Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. I - 2: Những mâu thuẫn bất hợp lý trong lịch sử Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành từ cổ thư chữ Hán. Tất cả những ai tìm hiểu về Kinh Dịch, nếu chịu khó suy ngẫm một chút đều nhận thấy ngay tính bất hợp lý và mâu thuẫn trong lịch sử Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành qua cổ thư chữ Hán. Điểm lại thời gian xuất hiện của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành qua các bản văn chữ Hán, chúng ta dễ dàng nhận thấy ngay sự vô lý trong thời gian lịch sử của nó. Những sự kiện này, cổ thư chữ Hán miêu tả như sau: - Cách đây 6000 năm, Vua Phục Hy thấy con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng hà, trên mình có những xoáy bèn nghĩ ra Hà Đồ. Căn cứ trên Hà Đồ làm ra Tiên Thiên bát quái. Nhưng, những điều này chỉ được lịch sử ghi nhận sự kiện và không có văn bản nào cho biết rõ ký hiệu Tiên Thiên bát quái và Hà Đồ có cấu trúc như thế nào. Những đồ hình này chỉ thực sự xuất hiện vào đời Tống sau đó 5000 năm. - Sau đó 1000 năm – Tức 5000 năm cách ngày nay – Hoàng Đế là một vị vua được coi là khai sáng nên dân tộc Hán cùng các đại thần của ngài làm nên cuốn: Hoàng Đế nội kinh tố vấn. - Sau 1000 năm nữa tiếp theo – Tức 4000 năm cách ngày nay – Vua Đại Vũ cũng vốn là một vị vua huyền thoại, đi trị thủy trên sông Lạc gặp một con rùa Thần có những chấm trên đầu, chân, mai bèn nghĩ ra Lạc Thư và viết Hồng Phạm cửu trù. Trong Hồng Phạm cửu trù khái niệm Ngũ hành xuất hiện.. Hồng phạm cửu trù được nhắc tới trong thiên Vũ Cống của kinh Thư. Nhưng đồ hình Lạc thư như thế nào cũng không rõ và cũng chỉ được công bố vào đời Tống, tức là hơn 3000 năm sau khi cổ thư nhắc tới sự kiện này. - Tiếp theo 1000 năm nữa – Tức 3000 năm cách ngày nay – Vua Văn Vương bị giam trong ngục Dữu Lý 7 năm, dựa vào Lạc Thư, sắp xếp lại Tiên Thiên Bát quái thành Hậu Thiên Văn Vương và cấu trúc nên 64 quẻ Hậu Thiên. Ngài cùng con trai là Chu Công Đán viết Soán Từ, Hào từ cho 64 quẻ Chu Dịch. Đồ hình Hậu Thiên Bát quái Văn Vương, cũng chỉ được công bố vào đời Tống sau đó 2000 năm. - Tiếp theo 500 năm sau – Tức 2500 năm cách ngày nay – Khổng Tử lúc về già, viết thập Dực, Hệ từ thương, Hạ truyện và thuyết quái truyện - hoàn thành bộ Chu Dịch truyền đến ngày nay. Trong trước tác của Khổng tử nói tới Âm Dương, Thái cực và lưỡng nghi. - 200 năm tiếp theo – Tức khoảng 2300 năm cách ngày nay - Xuất hiện phái Âm Dương gia được coi là phát triền thuyết Ngũ hành. Dấu ấn của Ngũ hành còn thấy trong sách Lã Thị Xuân thu, được coi là của Lã Bất Vi, tể tường đời Tần. Các nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng thuyết Âm Duơng và Ngũ hành hòa nhập vào đời Hán. - 1000 năm sau Công Nguyên xuất hiện các đồ hình - Hà Đồ, Lạc Thư, Hậu thiên, Tiên thiên bát quái - do các đạo gia như Thiệu Khang Tiết, Trần Đoàn Lão Tổ công bố và họ vẫn thừa nhận tác giả những đồ hình này thuộc về Phục Hy, Đại Vũ và Chu Văn Vương như đã trình bày ở trên. Trần Đoàn Lão tổ còn được coi là tác giả của môn Tử Vi , Thiệu Khang Tiết còn được coi là tác giả của Mai Hoa Dịch số. Trong suốt hơn 2000 năm, việc nghiên cứu, tìm hiểu Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành được các nhà nghiên cứu Hán nho - tiềm hiểu từ đó đến nay - bắt đầu từ: Mao Diên Thọ, Kinh Phòng, Mạnh Hỷ - Đời Hán...vv..mỗi đời đều để lại những triết gia nổi tiếng về thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Nhiều thành tựu nhất là đời Tống nổi tiếng với Chu Hy với thuyết Vô cực và được nhiều người tin cho đến ngày nay. Riêng cuốn Hoàng đế Nội Kinh tố vấn - được các nhà nghiên cứu cho là xuất hiện từ thế kỷ thứ II BC đến thế kỷ I AC – nhưng có nội dung bản văn miêu tả Hoàng Đế đối thoại với Kỳ Bá và Quỉ Du khu từ 5000 năm cách ngày nay và hoàn toàn dùng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành - được coi là phương pháp luận căn bản của Đông Y thì không thể đặt vào bất kỳ thời kỳ lịch sử nào trong văn minh Trung Hoa. Bởi vì với nội dung này, nó đã xác minh rằng: Phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành đã xuất hiện trước tất cả những tác gỉa được coi là phát minh ra học thuyết này là Đại Vũ, Khổng Tử và cả phái Âm Dương gia (Vốn được cho là tồn tại vào khoảng thế kỷ thứ III BC. Tức là sau thời gian xuất hiện của cuốn Hoàng Đế nội kinh hơn 5000 năm?), khi phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành đã được ứng dụng trong nội dung của cuốn sách này. Mặc nhiên cuốn “Hoàng đế nội kinh tố vấn” đã phủ nhận toàn bộ lịch sử phát triển của thuyết Âm Dương Ngũ hành miêu tả trong cổ thư chữ Hán. 1 – 3: Kết luận: Bất cứ một lý thuyết nào cũng phải được hình thành từ nhận thức trực quan sinh động đến tư duy trừu tương và tổng hợp thành một lý thuyết. Tất nhiên nó phải có một nền tảng tri thức xã hội hình thành nên lý thuyết đó với những khái niệm được phổ biến trong nền văn minh tạo ra nó. Nhưng hàng ngàn năm tiếp theo đã trôi qua, Chính nền văn minh Họa Hạ cũng không lý giải được những khái niệm của một lý thuyết mà được coi là của họ . Những mâu thuẫn trong thuận tự lịch sử thời gian hình thành thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch trong cổ thư chữ Hán đã xác định nền văn minh Hoa Hạ không phải cội nguồn của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Muốn lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch thuộc về văn minh Hoa Hạ thì phải viết lại toàn bộ xuất xứ theo thuận tự nói trên, mà chính bản văn chữ Hán ghi nhận. Nhưng như vậy thì tức là tự phủ nhận toàn bộ lịch sử hình thành Thuyết âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch từ cổ thư chữ Hán. II – NỘI DUNG THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH VÀ KINH DỊCH TRONG BẢN VĂN CHỮ HÁN. Một học thuyết phải có một nội dung hợp lý với chính nó, cho dù chỉ là một sự hợp lý hình thức với những giả qui luật. Như vậy chỉ với tính mâu thuẫn trong lịch sử hình thành Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán, cũng đủ chứng tỏ nền văn minh Họa Hạ không thể là chủ nhân của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Khi những thuận tự xuất hiện trong lịch sử thời gian của nó hoàn toàn bất hợp lý theo kiểu: "Sinh con rồi mới sinh cha. Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông". Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng ở đây. Một bằng chứng sinh động nữa không kém phần quan trong và xác minh một cách rõ nét nhất rằng: Nền văn minh Hoa Hạ không thể là chủ nhân của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch chính là nội dung của nó. Mâu thuẫn trong nội dung của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán thể hiện ở những vấn đề quan yếu sau đây: II – 1: Nền tảng tri thức phổ biến trong văn hóa Hán và thuyết Âm Dương Ngũ hành với Kinh Dịch. Trên thực tế, một học thuyết xuất hiện phải trên cơ sở nền tảng tri thức phổ biến của xã hội đó để có thể tiếp tục những khái niệm của nó. Nhưng trong thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch lưu truyền trong cổ thư chữ Hán lại không thỏa mãn điều kiện này. Ngay bây giờ, chính Thiệu Vĩ Hoa - được coi là truyền nhân đời thứ 20 của Thiệu Khang Tiết - một danh gia đời Tống công bố Mai Hoa Dịch số - cũng không biết căn cứ vào đâu để có bảng Lục Thập Hoa giáp. Ông ta đã thừa nhận điều này trong các tác phẩm của mình. Đồng thời ông ta cũng xác định rằng: Đã nhiều thế kỷ, những nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng không thể hiểu được vì sao có bảng Lục thập hoa giáp. Thật là vô lý hết sức, khi mà cả một nền văn minh tự coi là cội nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ hành mà lại không thể biết được tổ tiên của họ căn cứ vào đâu để có chính những sản phẩm ứng dụng truyền lại. Điều này tự thân nó xác định rằng: Xã hội Trung Hoa cổ không phải là nền tảng tri thức để hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Đấy cũng chỉ là một thí dụ. Còn rất nhiều những khái niệm mơ hồ và mâu thuẫn ngay trong nội dung của học thuyết này mà chính những nhà nghiên cứu Hoa Hạ hiện đại cũng không giải thích được. Phong trào phủ nhận Đông Y và phong thủy vốn được coi là có xuất xứ Hoa hạ của chính các học giả Trung Quốc hiện đại chứng đỏ điều này. II – 2: Mâu thuẫn từ nguyên lý căn để của học thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch từ cổ thư chữ Hán. 2 - 1: Hà Đồ và Tiên thiên Bát quái. Đồ hình dưới đây miêu tả cửu cung Hà Đồ phối với Tiên Thiên Bát quái, được cho là của vua Phục Hi phát hiện trên lưng con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng Hà và nghĩ ra Tiên Thiên Bát quái phối với Hà Đồ. Đồ hình liên hệ Hà đồ và Tiên Thiên bát quái theo cổ thư chữ Hán. Quán xét đồ hình này – Theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán. Cụ thể là cuốn Mai Hoa Dịch , do Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống – chúng ta nhận thấy: * Càn (Trời / Kim) nằm ở độ số 7 Dương Hỏa/ Chính Nam trên Hà đồ. Như vậy Hỏa vị khắc Kim quái. * Đoài (Kim) thì nằm ở độ số 2 là Âm Hỏa/ Đông Nam trên Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Hỏa vị khắc Kim quái. * Ly (Hỏa) nằm ở độ số 3 Dương Mộc/ Chính Đông của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Mộc vị sinh Hỏa quái. * Chấn (Mộc) nằm ở độ số 8 Âm Mộc/ Đông Bắc của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Mộc vị hòa Mộc quái. * Khôn (Thổ) nằm ở độ số 1 Dương Thủy/ Chính Bắc của Hà đồ. Như vậy, Thổ quái khắc Thủy vị. * Cấn (Thổ/ Núi) nằm ở độ số 6 Âm Thủy/ Tây Bắc của Hà đồ. Trường hợp này: Thổ quái khắc Thủy vị. * Khảm (Thủy) nằm ở độ số 9 Dương Kim/ Chính Tây của Hà đồ. Trường hợp này Kim vị sinh Thủy quái. * Tốn (Gió / Mộc) nằm ở độ số 4 Âm Kim/ Tây Nam của Hà đồ. Trường hợp này, Kim vị khắc Mộc quái. Quán xét hiện tượng trên, chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng: Không hề có sự tương thích nào giữa hành của quái theo cổ thư chữ Hán với hành của phương vị trên Hà đồ. Có người dẫn sách khác cho rằng vị trí sắp xếp trên Càn - nằm ở phương Nam là không chính xác mà Càn nằm ở vị trí chính Bắc, Khôn nằm ở vị trí chính Nam trên Hà đồ. Tương quan các vị trí của các quái trong Bát quái Tiên thiên không thay đổi. Chúng tôi đã sắp xếp theo vị trí được đặt ra ở trên và thể hiện dưới đồ hình sau đây. Đồ hình liên hệ Hà đồ và Tiên Thiên bát quái II Quán xét đồ hình này – Theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán. Cụ thể là cuốn Mai Hoa Dịch , do Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống. * Càn (Trời / Kim) nằm ở độ số 1 Dương Thủy / Chính Bắc, * Đoài (Kim) thì nằm ở độ số 6 là Âm Thủy/ Tây Bắc trên Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Kim quái sinh Thủy vị * Ly (Hỏa) nằm ở độ số 9 Dương Kim / Chính Tây của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Hỏa quái khắc Kim vị. * Chấn (Mộc) nằm ở độ số 4 Âm Kim / Tây Nam của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Kim vị khắc Mộc quái. * Khôn (Thổ) nằm ở độ số 7 Dương Hỏa / Chính Nam của Hà đồ. * Cấn (Thổ/ Núi) nằm ở độ số 2 Âm Hỏa / Đông Nam của Hà đồ. Trường hợp này: Hỏa vị sinh Thổ quái. * Khảm (Thủy) nằm ở độ số 3 Dương Mộc / Chính Đông của Hà đồ. Trường hợp này Thủy quái sinh Mộc vị. * Tốn (Gió / Mộc) nằm ở độ số 8 Âm Mộc/ Đông Bắc của Hà đồ. Trường hợp này, Mộc quái tương hòa Mộc vị. Quán xét hiện tượng trên, chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng: Không hề có sự tương thích nào giữa hành của quái theo cổ thư chữ Hán với hành của phương vị trên Hà đồ đã được thay đổi như trên. Trên thực tế, với tương quan của đồ hình Tiên thiên bát quái thì dù bạn đọc có xoay như thế nào cũng không thể nào tìm được sự tương thích giữa quái vị và phương vị trên cơ sở Ngũ hành của Hà đồ và Ngũ hành của bát quái. Để tiếp tục tìm sự bí ẩn qua câu hỏi này, chúng ta tiếp tục quán xét sự tương thích theo cổ thư chữ Hán là: “Hậu thiên bát quái bản Lạc thư dã” (Đồ hình Hậu thiên bát quái xuất phát từ với Lạc thư - Chu Hy). Xin quí vị quan tâm xem hình dưới đây: Đồ hình Cửu cung Lạc thư theo cổ thư chữ Hán Hậu thiên bát quái Văn Vương liên hệ Lạc thư theo cổ thư chữ Hán Như vậy, với ngay cả Hậu thiên bát quái vốn là một cơ sở của những phương pháp ứng dụng bao trùm trên mọi lĩnh vực cũng không hề có sự tương thích với Lạc thư. Đây chính là nguyên nhân để học giả uyên bác Nguyễn Hiến Lê cho rằng: ”Nhất là so sánh những hình đó với hình Bát quái thì dù giàu trí tưởng tượng tới mấy cũng không thể bảo rằng Bát quái phỏng theo hai đồ hình đó được”. (Kinh Dịch - Đạo của người quân tử) Chính vì tính bất hợp lý của sự liên hệ ngay từ nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành là “Tiên thiên Bát quái phối Hà đồ” và “Hậu thiên Bát quái với Lạc thư” – được lưu truyền trong cổ thư chữ Hán từ hàng ngàn năm nay – đồng thời với sự xuất hiện muộn màng đến mức phi lý của những đồ hình này trong lịch sử văn minh Hán so với chính bản văn chữ Hán về sự xuất hiện của nó, đã cho thấy những mâu thuẫn rất căn bản ngay trong nội dung cua 3thuyết Âm Dương Ngũ hành theo cổ thư chữ Hán. Đồng thời đó cũng chính la 2nguyên nhân để có những kết luận sai lầm cho rằng: 1) Âm Dương trong Kinh Dịch không liên quan gì đến Ngũ hành. 2) Âm Dương Ngũ hành là của người Việt và Bát quái là của người Hán. Hai học thuyết này hoà nhập vào thời Hán. Những sai lầm của luận điểm này vì những nhà nghiên cứu đã không xuất phát từ một tiêu chí và phương pháp luận khoa học. Họ chỉ nhìn thấy một cách trực quan từ những nội dung trong bản văn chữ Hán và không biết rằng cổ thư chữ Hán Không phải là những căn bản hoàn chỉnh về thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chính từ những sai lầm từ nguyên lý căn để ngay trong nội dung của nó, khiến cho dù có sự cố gắng trải hơn 2000 năm, người Hán và cả thế giới này vẫn không thể tìm ra những bí ẩn của nền văn minh Đông Phương. Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. III – NỘI DUNG THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG BẢN VĂN CHỮ HÁN KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG PHẢN ÁNH THỨC TẠI KHÁCH QUAN. Một học thuyết ra đời phải xuất phát từ một thực tại khách quan trong quá trình tiến hóa và phát triển của nhận thức - Từ trực quạn sinh động đến nhận thức thực tại và cuối cùng là hình thành tư duy trừu tượng khái quát thực tại và sự tổng hợp những nhận thức đó tiến đến hình thành một học thuyết giải thích các hiện tượng nhận thức được. Dù đó là học thuyết gì, nhân danh tôn giáo, tâm linh, sự sai lầm hay đúng đăn, đúng một phần hay toàn bộ thì nó vẫn phải có một hiện thực để phản ánh mà con người nhận thức được. Thí dụ như cách giải thích theo tôn giáo cho các học thuyết tôn giáo: Giải thích từ sự hình thành vũ trụ - do ý muốn của Thượng Đế, cho đến sự vận động của các thiên hà, đến mọi hiện tượng ...đều do ý muốn của Thượng đế. Thuyết tôn giáo này giải thích thực tại khách quan mà con người nhận thức được. Thuyết tôn giáo này có tính hệ thống, tính nhất quán và nó giải thích một cách hợp lý trên cơ sở phương pháp luận của nó. Nhưng nó không mang tính khoa học vì thiếu tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Chẳng ai đoán được Thương Đế muốn cái gì và ý muốn của Thượng Đế thì không tuân thủ theo quy luật nào. Nhưng, trong các bản văn chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành thì chúng ta không thể lý giải được chúng phản ánh một thực tại nào làm nên khả năng tiên tri của Dịch và các bộ môn tiên tri. Những khái niệm rất mù mờ: Quẻ Càn vừa là trời, vừa là cha, vừa là con ốc, vừa là con ba ba....vv....Hoặc oái oăm hơn - Trong Phong Thủy thì Khôn lại tượng cho người đàn ông chứ không phải đàn bà, mẹ...vv...như trong Dịch học. Vậy bản chất của chúng là gì? Hoặc Cấn là núi, Đoài là đầm ..không lẽ trước khi vũ trụ hình thành đã có núi, có đầm? Đây cũng là thắc mắc của các nhà nghiên cứu Dịch ở miền Nam trước 1975. Hay nói chính xác hơn, người ta không thể hiểu được vì sao lại có mối liên hệ với các thực tại trên với nội dung các quẻ được miêu tả trong các bản văn chữ Hán. Nhưng khả năng tiên tri trong các phương pháp dự báo với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì cực kỳ huyền vĩ. Có thể nói rằng: Không có một lý thuyết khoa học hiện đại nhất được vinh danh trong thời đại hiện nay, có thể tạo ra những phương pháp tiên tri như vậy. Tuy nhiên, có thể nói rằng: Mặc dù trong các bản văn chữ Hán, thiếu hẳn tính hợp lý cho việc giải thích các vấn đề liên quan, thiếu tính nhất quán, tính hoàn chỉnh, nhưng đầy đủ tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri, thể hiện trong các phương pháp ứng dụng. Hay nói cách khác: Đây chính là hệ quả và những yếu tố phù hợp với tiêu chí khoa học cho một học thuyết khoa học. Cả thế giới đã chú ý đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã bốn lần tổ chức những cuộc hội thảo với qui mô hoàng tráng tại Bắc kinh - Thủ đô của nền văn minh Hoa Hạ - nơi được cả thế giới cho rằng là cội nguồn của nền văn minh Đông phương, nhưng họ đã không thu được kết quả nào từ những cuộc hội thảo hoàng tráng ấy. Người ta không thể lần ra manh mối những thực tại nào được phản ánh trong các khái niệm liên quan từ các bản văn chữ Hán liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. IV – KẾT LUẬN Như vậy, xét trên ba tiêu chí cho một lý thuyết khoa học là: Tính lịch sử, tính nhất quán và hợp lý trong nội dung, tính phản ánh thực tại khách quan đều không thể thỏa mãn cho việc Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch có cội nguồn từ văn minh Hán. Cho đến ngày nay, toàn bộ những di sản của thuyết Âm Dương Ngũ hành có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán vẫn dậm chân tại chỗ và không hề phát triển. Ngay tại Trung Quốc, nơi được coi là cội nguồn Lý học Đông phương thì chính các học giả Trung Quốc cũng lên tiếng đòi dep bỏ Đông y, coi Phong thủy chỉ là sự bịp bợm. Sự bế tắc cả hàng ngàn năm trong bản văn chữ Hán liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành là một minh chứng xác đáng tính mơ hồ và không có đủ khả năng phản ánh một thực tại khách quan trong các bản văn chữ Hán. Nên nó đã bị phủ nhận bởi chính người Trung Quốc và ngay cả những học giả uyên bác, cũng cho rằng: Lý học Đông phương chỉ truyền lại bởi trực giác và kinh nghiệm. Cội nguồn thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch không thuộc về nền văn minh Hoa Hạ thì nó từ đâu tới? Trong lịch sử văn minh Đông phương, ngay bên cạnh nền văn minh Hoa Hạ từ hơn 2000 năm trước, đã tồn tại một nền văn minh huyền vĩ với danh xứng văn hiến. Đó là quốc gia Văn Lang dưới triều đại của các vua Hùng có biên giới Bắc giáp Động Đình hồ; Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba thục và Đông giáp Đông Hải. Việc mình chứng cội nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch thuộc về nền văn hiến Việt cũng chính là một minh chứng sắc sảo: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến và biên giới Văn Lang một thời huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương tử: Danh xưng văn hiến của dân tộc Việt chính bởi căn cứ vào một học thuyết xuyên suốt giải thích từ sự hình thành vũ trụ, cho đến mọi vấn đề liên quan đến con người, từ những thiên hà khổng lồ đến các hạt vật chất nhỏ nhất. Bạn đọc có thể coi như đây là một giả thuyết và sẽ được tiếp tục minh chứng ở các bài viết tiếp theo. ------------------------------------ Tài liệu tham khảo: - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại. Nxb VHTT 2002. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. - Tìm về cội nguồn Kinh Dịch. Nxb VHTT 2002. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt. Nxb VHTT 2002. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. - Định mệnh có thật hay không? - http://www.lyhocdongphuong.org.vn1 like
-
Thiên Văn học Phương đông có nguồn gốc từ rất lâu đời, những nhà thiên văn phương đông xưa ghi chép kĩ càng về chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng, 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ và các tinh tú trên bầu trời để đoán định về về những biến chuyển ở hạ giới tương ứng và cũng là để đoán định sự cát hung của chuyển động đấy. Thiên văn học phương đông xem Bắc cực là trung tâm của vũ trụ, là nơi ở của Thượng đế, khác hẳn với phương Tây khi xưa xem Trái Đất là trung tâm của vũ trụ, họ chia mặt đất làm 9 phận dã, mỗi phận dã chịu ảnh hưởng của một số tinh tú khác nhau. Quan sát những tinh tú này có thể đoán định cát hung cho từng phận dã đó. Những nhà thiên văn xưa dựa vào Mặt Trời, Mặt Trăng mà làm ra nông lịch dùng cho việc trồng trọt, và cuộc sống hàng ngày. Những vị thiên quan khi xưa còn dựa vào 5 màu sắc của mây, 12 loại gió để mà đoán định hạn hán, thiên tai, môn Thái Ất cũng dựa vào đấy để dùng cho việc binh. Hơn thế thiên văn phương đông còn phát hiện ra tuế sai, và Thái Ất chính là một môn thần diệu mô tả được mọi hiện tượng trong thiên nhiên trên từ trời đất dưới đến phong thủy con người. Đó là môn đứng đầu trong Tam Thức mà thiếu Thiên Văn thì nó như mất hẳn đi phần hồn vậy. Nói một cách khác, Thiên Văn chính là cội nguồn của mọi môn bói toán của Phương đông. Tham luận này chỉ xin đưa ra một cái nhìn rất sơ lược về thiên văn cổ và một số ứng dụng của nó.1 like
-
PHẢN BIỆN NHỮNG BÀI VIẾT CỦA ĐỖ KIÊN CƯỜNG . Phó thường dân Nam bộ - Chủ đìa nuôi ốc gạo xuất khẩu dienbatn . Sư Thiến - "Tổng thư ký Câu Lạc Bộ Rượu Thịt Chó làng Vũ Đại", kiêm "Trường ban nghiên cứu và phát triển đặc sản Chuối xanh chấm muối ớt", chức danh "Phó thường dân dự khuyết hạng II Nam Bộ". (Cái mặt nhăn nhở thấy ghét - dienbatn ) . LỜI DẪN : Cách đây vài năm , trên các Diễn đàn , dienbatn và Thiên Sứ đã có nhiều bài viết phản biện lại những bài viết của Đại tá , Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường , một người đã được báo chí trong nước ca ngợi đến tận mây xanh :" Là một nhà nghiên cứu khoa học, anh xứng đáng là một Người chiến binh cần mẫn của khoa học thực nghiệm chân chính. Bằng tấm khiên vàng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chiến binh Đỗ Kiên Cường đã lần lượt "càn quét" sạch những sự mù mờ, sự lừa mị do những kẻ mạo danh ngoại cảm gây ra. (Vietimes).Vì bận nhiều công việc nên cả Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương (CENTER FOR RESEARCH PRINCIPLES OF ANCIENT ORIENTAL ASTROLOGY - CRPAOA ), Thiên Sứ và dienbatn để mặc cho vị TS này múa gậy vườn hoang một mình . Tuy nhiên , cho đến lúc này , dienbatn đã tạm thời rảnh rỗi sau vụ nuôi ốc gạo xuất khẩu ở quê nên quay trở lại vấn đề này . Vấn đề nhận thức về Lý học Đông phương sẽ là chủ đề chính trong loạt bài này. Vì có rất nhiều bài viết của vị Đại tá - TS này cần phản biện , nên dienbatn xin chia ra thành từng bài nhỏ trong loạt bài phản biện của mình . Ngày xưa ông nội dienbatn có dạy " Làm bác sĩ , không cẩn thận sẽ giết chết một mạng người - Làm Địa lý không cẩn thận sẽ làm lụn bại cả một dòng họ " . Còn bây giờ , những nghiên cứu khoa học Đông phương sai lầm sẽ đưa cả một thế hệ vào ngõ cụt . Đây là những bài viết của Thiên Sứ ( Nguyễn Vũ Tuấn Anh ) - "Tổng thư ký Câu Lạc Bộ Rượu Thịt Chó làng Vũ Đại", kiêm "Trường ban nghiên cứu và phát triển đặc sản Chuối xanh chấm muối ớt", chức danh "Phó thường dân dự khuyết hạng II Nam Bộ" và dienbatn - " Phó thường dân Nam bộ - Chủ đìa nuôi ốc gạo xuất khẩu" phản bác lại những bài viết của Đại tá - Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường . Xin giới thiệu cùng các bạn .dienbatn. 1/ ĐỖ KIÊN CƯỜNG LÀ AI ? Theo tài liệu do dienbatn tìm được , tiểu sử của vị Đại tá - Tiến sĩ này như sau : - Đại tá, tiến sĩ Đỗ Kiên Cường sinh năm 1957 tại xã Nhân Chính, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. - Năm 1974-1978, ông theo học ngành vật lý lý thuyết tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khóa 19. - Tháng 12-1978, sau khi ra trường, ông gia nhập quân đội. - Từ 1979-1989, ông là giảng viên Bộ môn Vật lý Lý sinh, Học viện Quân y. - Từ 1990, ông nghiên cứu ứng dụng vật lý trong sinh học và y học tại Trung tâm Vật lý Y Sinh học, Viện Kỹ thuật Quân sự 2 (nay mang tên Phân viện Vật lý Y Sinh học thuộc Viện Khoa học Công nghệ Quân sự, Bộ Quốc phòng). - Ông xin nghỉ hưu sớm để tập trung viết sách và giảng dạy tại Bộ môn Vật lý, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh - Do đặc trưng chuyên môn và sở thích cá nhân, ông quan tâm tới mối quan hệ giữa khoa học và nghệ thuật (với quan niệm: khoa học tìm sự thống nhất trong sự đa dạng, nghệ thuật tìm sự đa dạng trong sự thống nhất), giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đặc biệt giữa khoa học vật lý và khoa học sự sống (life sciences). Và đó là lí do ông quan tâm tới các hiện tượng dị thường (the paranormal) trên quan điểm vật lý sinh học và vật lý y học. Quan điểm viết bài - Là một nhà nghiên cứu khoa học, anh xứng đáng là một Người chiến binh cần mẫn của khoa học thực nghiệm chân chính. Bằng tấm khiên vàng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chiến binh Đỗ Kiên Cường đã lần lượt "càn quét" sạch những sự mù mờ, sự lừa mị do những kẻ mạo danh ngoại cảm gây ra. (Vietimes) - Các hiện tượng dị thường đã và đang xảy ra trong hiện thực khác quan. Vấn đề là ở chỗ nhìn nhận, lý giải hiện tượng này dưới lăng kính khoa học hay gán ghép nó cho lực lượng huyền bí. Theo tôi, hiện nay có 4 quan điểm đánh giá các hiện tượng dị thường như sau: 1. Không thừa nhận hiện tượng vì thấy chúng dườngnhư trái ngược với nền tảng, thành tựu khoa học. Họ cho rằng đó là những điều đồn thổi vô lý, không xảy ra khách quan. 2. Thừa nhận có hiện tượng xảy ra này nhưng gắn chúng với niềm tin duy tâm như linh hồn bất tử, sự sống sau cái chết, luân hồi, ma quỷ hay thần thánh... Điều này khôi phục trào lưu mê tín quá quen thuộc với loài người từ thuở hồng hoang. 3. Xem khoa học hiện hành không có khả năng giải thích - việc chia tách vật chất với tinh thần, hồn với xác là sai lầm. Để giải thích được nên tìm kiếm các lý thuyết mới như trường sinh học, năng lượng hay thông tin sinh học, nhân điện, lý thuyết lượng tử của tương tác vật chất - tinh thần, lý thuyết các thế giới song song... Họ thoát ly khỏi các kiến thức khoa học hiện đại - những khám phá mới về bộ não và ý thức, các khoa học về tâm trí, có khuynh hướng tư biện và siêu hình. 4. Cố gắng giải thích chúng bằng các quan điểm hiện đại của khoa học, từ các khoa học tự nhiên, cho tới các khoa học xã hội và nhân văn. Chẳng hạn giải thích tương tác giữa cơ thể với môi trường hay giữa các cơ thể bằng điện từ trường sinh học; giải thích khả năng bắt các tín hiệu nhỏ yếu từ xa bằng ngưng tụ sinh học và hệ xử lý tiềm thức; giải thích các khía cạnh của xuất hồn, cận kề cái chết, luân hồi bằng bản chất và đặc tính của vô thức; giải thích niềm tin vào các loại tiên tri bằng ước vọng quy hoạch tương lai; giải thích sự bộc phát các trào lưu mê tín mới bằng niềm tin vào sự huyền bí - một nét nhân cách được di truyền từ thời thượng cổ... Tuy nhiên, nó cũng chỉ là mô hình giản lược, "đơn giản hóa" cái phức tạp nhất tự nhiên là thế giới bên trong của tâm hồn con người. Tôi cho rằng cần giải thích dựa trên quan điểm thứ 4 là có quan điểm vật lý hiện đại về bản chất của sự sống. Theo đó trong cơ thể có 2 kênh truyền tin có bản chất điện từ: kênh hữu tuyến qua xung thần kinh và các dòng điện sinh học; kênh vô tuyến nhờ sóng điện từ. Khả năng bức xạ photon của cơ thể, cường độ cỡ 10-1000 photon/ giây/ m2. Tại thời điểm chết tăng đến 1000 lần. Trường điện từ khi đó mang một số thông tin về sinh hệ và lan truyền trong không gian, thời gian. Bức xạ ấy về nguyên tắc có thể tồn tại vĩnh hằng do chuyển động ánh sáng, có thể lưu giữ được trong cấu trúc nước và gọi là bức xạ tàn dư mà về sau có thể có sinh vật, người có khả năng đặc biệt đọc được thông tin chứa bức xạ tàn dư ấy... Các sách và bài đã viết : Các sách đã xuất bản Lý giải các hiện tượng dị thường: khoa học tâm linh, NXB Trẻ, 2000 Dư luận rất quan tâm tới một số hiện tượng dị thường như gọi vong hay tìm mộ bằng ngoại cảm. Sự hào hứng đại chúng dường như trái ngược với những quan điểm triết học duy vật biện chứng và khoa học hiện đại. Cuốn sách đưa ra một cái nhìn khách quan đối với chủ đề thú vị và đầy tranh cãi này... Từ tâm linh của tác giác không theo nghĩa tôn giáo - triết học là sự tồn tại sau cái chết mà là bao gồm những hiện tượng dị thường liên quan tới kinh nghiệm: thần giao cách cảm, tiên tri, hậu tri, thấu thị hay thấu thính, ngoại cảm, viễn di sinh học, cận kề cái chết, xuất hồn hay thoát xác, luân hồi, giao tiếp với người chết... Lý giải các hiện tượng dị thường, NXB Trẻ, 2000 Thuật ngữ dị thường bao hàm một nội dung phong phú, từ những hiện tượng siêu nhiên trong các chủ đề tôn giáo cho đến những lý thuyết mang tính cách mạng trong khoa học mà lúc đầu ít người thấu hiểu nên cho đó là dị thường. Trong cuốn sách này tác giả chỉ giới hạn khái niệm trong một số hiện tượng lạ chưa có lời giải thích thoả đáng bằng khoa học như hiện tượng thần giao cách cảm, thấu thị, tiên tri, viễn di sinh học, nói chuyện với người chết, luân hồi, xuất hồn, ma nhập, cầu hồn, đĩa bay, giấc mơ... Tất cả những hiện tượng trên - dù dị thường - đều là những hiện tượng đã và đang xảy ra trong hiện thực khách quan. Vấn đề là ở chỗ nhìn nhận, lý giải hiện tượng dưới lăng kính khoa học hay gán ghép cho nó lực lượng huyền bí... Trong cuộc sống có nhiều hiện tượng xảy ra mà chúng ta không lý giải được, đôi khi cho rằng điều đó có thật. Tác giả muốn chia sẻ cùng bạn đọc những thắc mắc ấy. Hiện tượng tâm linh, NXB Trẻ, 2001 Hiện Tượng Tâm Linh sẽ thông tin đến bạn đọc những tri thức khoa học mới mẻ, chuẩn xác đáng tin cậy từ nhiều nguồn tư liệu phong phú về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về hai lĩnh vực quan trọng và hấp dẫn nhất hiện nay, đó là: vũ trụ học và bản chất của tâm trí. Đây là hai lĩnh vực cực kỳ phức tạp, tế nhị, còn nhiều khuất khúc và tranh cãi. Tập sách là những luận giải triết học một cách khoa học đồng thời là những luận giải khoa học có tính triết học. Ở một mức độ vừa có tính phổ cập vừa có tính nâng cao, tập sách rất có ích cho giới học sinh, sinh viên và cả những người trí thức nữa. Một mục tiêu quan trọng mà tập sách tập trung giải quyết là tác giả muốn lý giải bằng khoa học, một cách khoa học các "hiện tượng dị thường" trong cuộc sống đang gây thắc mắc và phân vân ở nhiều người, thậm chí gây ra những luồng dư luận mang hơi hướng của một thứ "mê tín dị đoan" mới. Đó không phải là một việc dễ dàng, nếu thấy rằng sự lưu truyền về cái gọi là "đời sống tâm linh", "thế giới tâm linh"... có những nguyên nhân văn hóa và xã hội rất sâu xa, tế nhị. Các lý giải của tác giả tuy chưa thuyết phục được tất cả, song nhất định được nhiều người tán đồng, ít nhất là trên phương hướng và nguyên lý... Tâm Linh Dưới Góc Nhìn Khoa Học, NXB Thanh Niên, 2002 Nếu như bạn gặp một người không quen biết trên đường và người đó đã cung cấp cho bạn những thông tin đã và sắp xảy ra trong cuộc sống của bạn. Khi đó bạn có tin vào những lời phán đó không? Bạn có cho rằng bói toán có độ chính xác cao hay không? Và theo bạn thì tại sao chúng ta lại mê bói toán đến như vậy, cho dù đang sống giữa thời kỳ phát triển rực rỡ chưa từng thấy của khoa học? Những câu hỏi tương tự như vậy sẽ được giải đáp trong cuốn sách. Huyền Thoại Và Sự Thật ( Lý giải các Hiện tượng Dị thường), NXB Trẻ, 2006 Cuốn sách đưa ra bức tranh tương đối đa chiều về các đối tượng khảo sát, qua đó giúp bạn đọc có thêm thông tin để lựa chọn, chứ không áp đặt quan niệm riêng.Nói cách khác, bộ Lý giải hiện tượng dị thường nói chung, quyển huyền thoại và sự thật nói riêng là lời mời gọi thảo luận hoàn toàn dân chủ. Phỏng vấn, viết về tác giả Đỗ Kiên Cường: Chiến binh “quét sạch” ngoại cảm giả danh! (Vietimes) Hiện tượng tâm lý, dị thường Hiện tượng siêu nhiên - Lạ mà không lạ! (Vietbao) Hiện tượng ma nhập trong mắt nhà khoa học (Vnexpress) Giải mã các hiện tượng dị thường: loạt bài viết đăng trên báo Thể thao Văn hóa Tổng kết loạt bài giải mã các hiện tượng dị thường: Cần một cái nhìn khoa học tỉnh táo và khách quan Tâm linh và Mê tín Lịch sử tự nhiên, nhận thức Một số vấn đề triết lý của vật lý hiện đại Bí ẩn bộ não và tâm trí Lịch sử vũ trụ và thuyết vụ nổ lớn Nguồn gốc và tiến hoá vũ trụ Hợp trội luận và Quy giản luận: đối lập và song hành Đọc "Địa đàng ở phương Đông" và "Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc": Oppenheimer và Chu thực sự nói gì? Các xu hướng thống nhất trong vật lý học Một số vấn đề triết lý hiện đại Giới hạn của nhận thức Di truyền học và cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người Cái nôi loài người nằm ở đâu? Vượn biến thành người như thế nào? Tiến hóa của tiến hóa Giải mã những bí ẩn của thời gian Văn hóa, văn minh Thêm một lần bàn về văn hóa và văn minh Khoa học như một động lực thúc đẩy văn minh Tri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không? Sau hoàng hôn là bình minh Ẩn ngữ nghệ thuật thời tiền sử Tại sao phương Đông đi trước về sau? Vị nhân sinh đúng hay sai? Tại sao đàn ông dễ ngoại tình? Tại sao Freud gây nhiều tranh cãi? Tôi chọn cả Thượng đế và khoa học Về một số bất cập trong giáo dục Nguồn : http://www.chungta.com/Desktop.aspx/Tac-gia/Tac-gia/Do_Kien_Cuong/ Thân ái - dienbatn PM: Vì đưa hình lên chậm quá , các bạn theo dõi chủ đề này tại : http://vn.360plus.yahoo.com/dienbatn/artic...=1&mid=3621 http://dienbatn0904392219.multiply.com/journal/item/170/1701 like
-
Rợn gáy 'yêu thuật' người Ma Coong Những ngày sống trong thung lũng của tộc người Ma Coong chúng tôi đã vô cùng kinh ngạc khi thấy những chuyện không thể tin vào mắt mình… Tìm “nhà” cho người chết Đáng ra, theo lộ trình, chúng tôi sẽ tới xã Tân Trạch, hay còn gọi là bản Arem – nơi định cư của người Arem – trước rồi mới ngược lên Thượng Trạch. Tuy nhiên, không may cho chúng tôi, hôm ấy, khi đến thì bản có những chóp nhà ngói mới này có hiếu sự. Một người đàn ông trong bản chết ở dưới khe, nơi người Arem làm rẫy, cách bản cả mấy giờ đi bộ. Tất thảy cán bộ xã đều xuống khe phụ giúp gia đình có người xấu số làm ma. Làm ma, ấy là việc trọng và nhiều thủ tục nhiêu khê nhất của cộng đồng người Arem (và của cả người Ma Coong nữa) ở thung lũng này. Sau đủ các nghi thức cúng ma, cúng Giàng thì nhiêu khê nhất vẫn là việc tìm chỗ để người chết ngàn năm yên nghỉ. Việc này, theo quan niệm của đồng bào dân tộc nơi đây thì phải dựa hoàn toàn vào ý nguyện của… người chết. Theo đó, sau ba ngày làm ma, người chết được đưa đi chôn. Người Arem, Ma Coong không khâm niệm người chết bằng quan tài như người Kinh mà chỉ bó thi thể bằng chăn, chiếu và một tấm phiên nứa dày phía ngoài. Khi đưa người chết tới bìa rừng, thầy mo sẽ làm việc quan trọng mà mình được giao phó. Miệng đọc thần chú, mắt lim dim, thầy ném quả trứng sống (quả trứng vẫn dùng để cúng người chết trong suốt mấy ngày làm ma) về phía trước. Quả trứng rơi vỡ ở chỗ nào nghĩa là “ma” đã đồng ý chôn ở chỗ đó. Khi đã có được sự ưng thuận đó thì chỗ quả trứng vỡ dù có là gốc cây hay tảng đá thì đám đào huyệt vẫn phải đào cho kỳ được. Tuy nhiên, có điều mà nhiều người ở nơi khác tới thung lũng này vẫn không thể tin vào mắt mình, ấy là nhiều khi quả trứng bị ném đến cả mấy chục lần vẫn không chịu… vỡ. Nhân chứng thuyết phục Biết những thủ tục ấy là không thể thiếu, vả lại cũng chẳng thể xuống khe mà kiếm tìm cán bộ văn phòng xã, chúng tôi ngược lên Thượng Trạch trước. Ở Thượng Trạch, sau bữa cơm chiều, chúng tôi quây quần trò chuyện với mấy cán bộ xã “cắm chốt” ngay tại ủy ban. Câu chuyện tung trứng được một đồng nghiệp của tôi khơi lại. Thế nhưng, kinh ngạc, tất cả các cán bộ xã ở đây đều khẳng định chuyện đó là hoàn toàn có thật. Theo những cán bộ xã này, nếu không được “con ma” đồng ý thì quả trứng sẽ không vỡ dù có ném vào đá gay bất cứ vật cứng gì. Thiếu tá Hoàng Văn Đức – cán bộ biên phòng tăng cường cho UBND xã Thượng Trạch cho biết ở thung lũng này, có nhiều chuyện mà đến giờ anh vẫn không dám tin đó là sự thật. Ném trứng cũng là một trong số những việc khó tin ấy. Hồi mới băng rừng về đây công tác, hễ trong xã có đám tang là anh và nhiều đồng chí nữa kéo nhau đi xem. Hồi hộp và ly kỳ nhất vẫn là nghi thức ném trứng. Thiếu tá Đức kể, có lần, anh đã theo một đám đi ném trứng… mỏi đến rã rời. Hôm ấy, chẳng hiểu vì lý do gì quả trứng đã ném khắp mọi chỗ quanh bãi tha ma mà chẳng chịu vỡ. Thậm chí, tận mắt Thiếu tá Đức thấy quả trứng chọi vào gốc cây, gốc cây bật vỏ mà trứng thì vẫn trơ trơ. Lạ kỳ thay, khi ra một chỗ thoáng đãng, quả trứng lại vỡ đánh ộp dù bị tung vào đám đất bùng nhùng. Theo ông Đinh Hợp – Chủ tịch UBND xã Thượng Trạch thì hiện tượng đó đến giờ vẫn chưa thể lý giải. Cũng như ông Hợp, nhiều cán bộ xã người miền xuôi đang công tác ở đây không tin vào những chuyện hoang đường, thế nhưng chuyện về bùa phép thì không tin… không được. Cuộc thách đố rợn tóc gáy Ở đất này, theo Chủ tịch xã Đinh Hợp, có rất nhiều người giỏi pháp thuật. Tuy chỉ là người “học mót” nhưng ông Hợp bảo, ông cũng có thể biểu diễn vài màn khiến người ngoài rợn tóc gáy. Ông Hợp có thể ngậm con dao được nung đỏ trong miệng như ngậm một nhánh củi khô. Với khả năng kì diệu của mình, ông Hợp từng khiến nhiều cán bộ tâm phục khẩu phục trong một cuộc cá cược có một không hai. Vị cán bộ biên phòng ấy tên Sơn, hiện đang công tác tại đồn biên phòng Cảng Gianh. Chừng 5 năm trước, cán bộ này được tăng cường lên Thượng Trạch. Khi lên đây, cán bộ Sơn không tin là người dân ở thung lũng này biết làm pháp thuật, có thể “trình diễn” các tiết mục kinh dị, nằm ngoài trí tưởng tượng của con người. Thế nhưng, trong một cuộc rượu, Chủ tịch xã Đinh Hợp đã thách cược là ông có thể ngậm một con dao phát nương được nung hồng rực trong bếp và đi vài vòng quanh nhà. Cuộc thách đố rợn tóc gáy ấy diễn ra ở nhà một cán bộ Hội Nông dân xã trước sự chứng kiến đông đảo mọi người. Con dao phát nương được đưa xuống bếp, mấy thanh niên hì hục thổi lửa, nung dao đỏ rừng rực. Đón con dao từ tay đám thanh niên, rất bình thản, Chủ tịch xã Đinh Hợp từ từ đưa khối thép bỏng rẫy ấy ngang mặt rồi bất ngờ cắn mạnh. Ông chắp tay sau lưng, từ từ đi vòng quanh nhà. Một vòng, hai vòng, hoặc ba vòng. Không hề biến dạng sắc mặt, Chủ tịch xã Đinh Hợp đưa ánh mắt về phía người đã thách đố mình. Khi ấy, vị cán bộ biên phòng đang há hốc mồm kinh hãi. Mãi đến khi người ngồi cạnh vỗ vai “đánh thức” vị cán bộ này mới giật mình choàng tỉnh và chắp tay bái phục… http://hcm.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/r...c46a299528.html1 like
-
Achau thân mến. Hôm nay tôi mới vào xem bài viết này. Ý tưởng hay. Nhưng cần bổ sung thêm hình ảnh cho rõ ý. Thí dụ: Một hình ảnh làm rõ bán đảo Thủ Thiêm ở đâu trên bản đồ. Khi nói đến Đường Trần Não,phà Thủ Thiêm & tuyến đường Lương Đình Của....cần thể hiện và ghi chú thêm trên bản đồ. Tôi tuy ở Sài Gòn nhưng ít đi lại, nên thực tế vừa xem bài viết, vừa phải tìm các địa danh đó, nên rất chất vật. Với người ngoài Sai Gòn thì càng khó hơn. Khi nói tới thế chậu hoa nông - ok - cần có một hình riêng minh họa cái chậu hoa này để người ngoại đạo hình dung ra được va 2nên dẫn những tiêu chí về Phong thủy để dẫn chứng . Thí dụ: Hình nào khí đó..... Tôi bận quá. Vài bữa nữa sẽ sửa bài trước của Achau. Đang mải suy nghĩ về hiện tượng Đỗ Kiên Cường.1 like
-
@USB: Bác thấy cái biểu tượng "Connection" là 2 cái máy tính nhấp nháy ở phía dưới bên phải màn hình, cạnh cái đồng hồ điện tử ý ạ! Nhấp chuột phải vào đấy, chọn Status, nhìn phía trên ô vừa hiện ra có General và Support thì ấn vào Support. Dòng thứ 2 từ trên xuống có ghi "IP address" - chính hắn đấy ạ! :P1 like
-
Mọi người có thể dùng cách này: (cực kỳ đơn giản, 0 phải cài đặt phần mềm j hết! :P) thêm mấy chữ sau vào địa chỉ truy cập, cụ thể như sau: www.vi-vn.connect.facebook.com/...... Nhược điểm duy nhất: 0 truy cập được ứng dụng của facebook (chơi game, làm quiz.....) và trình duyệt 0 tự động nhớ dòng "vi-vn.connect." cho mình nên mỗi lần bị "Connection problem" là phải gõ thêm. Trước đây Facebook có bản lite (bản rút gọn) nhưng có lẽ đã bị xóa đi hoặc cũng bị nhà mạng của VN chặn! Cách dùng DNS như chị Rin86 nói chỉ dùng được tùy vào địa điểm truy cập thôi. (nghĩa là ví dụ có 2 người cùng dùng mạng VNN, cùng đổi DNS giống nhau nhưng có người vào được có người 0). Tuy nhiên cái này thuộc vào mục đích chính trị nên e 0 bàn đến! Dùng proxy thì khá chậm đấy ạ! Thậm chí còn bị 0 thể đăng nhập (bị chặn lại) nếu 0 lưu mật khẩu trước vào trình duyệt!1 like
-
Proxy là truy cập vào trang web này thông qua trang web nọ. Tức là mình truy cập vào facebook trên danh nghĩa là qua google nên không ai biết là mình vào facebook. Cách này rất an toàn đấy ạ :P1 like
-
Tâm nghiên cứu... có thể dùng proxy của google: Vào setting, chọn network connection, click chuột phải vào biểu tượng kết nối internet rồi chọn properties, kéo thanh cuốn xuống tận cùng rồi chọn internet protocol. Chọn Use the following DNS server address, ở mục preferred DNS server gõ 8.8.8.8, ở mục Alternate DNS server gõ 8.8.4.4, click OK vậy là vào được facebook :P1 like
-
1 like
-
Việc xây Thiên Môn ở Bắc Kinh - Thiên An Môn nhìn về hướng nam vì một nguyên nhân khác: Thiên Tử tọa Bắc triều Nam - Còn trời đi về Hướng Nam nên gọi là Thiên Môn. Nhưng ngay trong việc định hướng của La Bàn thì Sơn Thìn thuộc Đông Nam. - Thìn Khôn Tỵ (Theo Lạc Việt) - Thìn Tốn Tỵ (Theo Tàu). Vì trái đất nghiêng, nên hướng chính đông - vuông góc với trục Bắc Nam nằm cao hơn phương mặt trời mọc. Vì vậy đúng là biểu kiến ở cung Thìn chính là mặt phẳng Hoàng Đạo. Tương tự, Mão được coi là sơn có mặt trời mọc - Nhưng Dậu - con gà - Mão nhật tính Quân lại ở cung đối xứng.1 like
-
Không biết lúc trước từ cấp 3 bạn có đạt được danh hiệu gì lớn không? Ví dụ như giải quốc gia môn gì đó chẳng hạn??1 like
-
gửi turn on, Em phân vân không biết bán nhà tại thời điểm này có tốt không? Tương lai sau khi bán nhà sẽ như nào? Gia đình có ảnh hưởng gì khi đi thuê nhà ở không? Hôm qua 24/5 giờ mùi em bốc được quẻ Khai tiểu cát. Mong anh ghé thăm và luận giúp em. -Quẻ này bán được, có thể là tới tháng 10, 11 mới bán được. -Sau khi bán nhà xong thì hết...hơi vì trả nợ. -Sẽ có thể ảnh hưởng nếu không hơp phong thủy. Nhưng theo quẻ thì sẽ ổn. Chúc an lạc. Thiên Đồng1 like
-
lá số nầy giống lá số của của anh Giaback ,về cung số và các chính diệu tọa thủ ;chờ chú Giaback ghé qua giải cho cháu qua những kiện có liên quan đến cuộc đời .1 like
-
Chồng dạng người cao vừa tầm ,dạm dở và hơi mập,mặt vuông vắn đầy đặn, ,da hồng hào,mặt đỏ,tướng mạo uy nghiêm ,nóng tính nhưng nhân hậu thẳng thắn ,đặc biệt tính hào sãng về tiền bạc .,năm NAY vào khoảng tháng 09 -10 âl có người mai mối đến dạm hỏi ,nếu cháu ưng thuận thì năm tới mới có lễ cưới ,nếu không ưng thời 34t mới lấy chồng .1 like
-
1 like
-
Cầu mong anh sẽ sớm bình phục,tai qua nạn khỏi...1 like
-
Kính gửi các bác và các anh chị trên diễn đàn, Hôm nay là ngày 25/5, là ngày có thể chồng cháu sẽ có tin tốt lành theo bác Hà Uyên dự đoán. Bây giờ là 10:25 phút sáng. Cháu hi vọng trong ngày hôm nay chồng cháu sẽ có biểu hiện tốt hơn. Cháu sẽ báo tin cho mọi người nếu chồng cháu có biểu hiện gì tốt lên. Tuần trước ngày 20/5, chú Thiên Sứ ra Hà nội công tác. Mặc dù rất bận nhưng chú đã về quê chồng cháu ở Hà Tây. Chú đã tìm ra nguyên nhân tại sao chồng cháu lại bị nặng như vậy. Vài dòng vắn tắt cháu xin được chia sẻ với các bác và các anh chị em trên diễn đàn. Vì cháu không am hiểu lắm về lĩnh vực này nên xin được kể lại theo những gì ghi chép được. 1. Kiểm tra phong thuỷ - Nhà hướng Đinh, toạ quý -->phúc đức trạch, hợp với tuổi bố chồng cháu là Đinh Dậu - Tuổi của mọi người trong gia đình hợp nhau - Phong thuỷ chung ngôi nhà: Minh đường tụ thuỷ ---> có lộc - Nhà cháu mới làm thêm hai phòng theo hướng tây --> bạch hổ nhô cao --> con trai tốt. Tuy nhiên cấu trúc cầu thang vô khí nên ai ở trên phòng đó thì ít khi ở nhà. Đúng là từ khi xây nhà xong công việc của chồng cháu rất tốt, được tăng chức, tăng lương nhưng cũng vì thế mà rất bận nên ít khi chúng cháu về nhà. Về cách bài trí trong nhà, nhà cháu cũng phạm những lỗi nhỏ nhưng theo chú cũng không thể gây ra tai nạn nặng như vậy được. Vì thế lý do không phải là do phong thuỷ. 2. Kiểm tra cảm xạ Chú kiểm tra thấy trong nhà âm khí vượng, bế khí. Sau đó bố mẹ cháu có xác nhận nền nhà trước kia là ao trồng rau, khi lấp đi để xây nhà cũng không cũng lễ gì cả. Tuy nhiên âm khí này cũng không phải là quá xấu, không thể gây tai hoạ được. Chú Thiên Sứ cũng đã chỉ cho gia đình cháu cách hoá giải. 3. Kiểm tra mộ phần Theo chú Thiên Sứ kiểm tra thì vấn đề là do mộ của cụ nội (tức cụ thân sinh ra ông nội cháu). Đặc điểm của ngôi mộ như sau: ngôi mộ tròn, nằm ở trong một cái ao. Vào khoảng thời gian trước khi chúng cháu cưới người ta có đắp một con đường chạy ngay gần mộ. Hướng của con đường đâm vào 1/3 mộ. Người ta cũng xây kè xung quanh ao, góc nhọn của bờ kè đâm vào 2/3 mộ. Cả bờ kè và con đường đều cao hơn hẳn ngôi mộ. Thực ra từ ngày chúng cháu cưới cả nhà em đều gặp tai nạn nhưng chỉ có vợ chồng cháu là nặng nhất. Đầu tiên là cậu em con nhà chú bị tai nạn xe máy khá nặng phải nằm viện.Sau đó là mẹ chồng cháu phải đi viện mổ khối u ở cổ, tiếp đó chị gái chồng và em trai chồng đều bị tai nạn xe máy nhưng cũng không nặng lắm, chỉ phải nghỉ làm ít ngày. Vào ngày vợ chồng cháu bị tai nạn, bố chồng cũng bị ngã từ trên bể nước xuống nhưng may mắn không làm sau. Sau khi vợ chồng cháu bị tai nạn thì bà nội bị ngã gãy tay, ông nội tái phát bệnh đau dạ dày giờ sức khoẻ rất yếu. Hai tuần trước chú (em trai bố chồng) bị ngã xe máy cũng bị trấy xước nhẹ. Chú Thiên Sứ đã chỉ cách hoá giải cho gia đình cháu. Ngày 15 âm lịch tháng này nhà em sẽ bắt đầu làm. Cả gia đình cháu đều cầu mong mọi việc sẽ bình an. Hôm nay là ngày thứ 106 kể từ khi chúng cháu bị tai nạn. Chồng cháu đã qua cơn nguy hiểm nhưng không biết có thể tỉnh lại không. Giờ bác sĩ cũng không thể điều trị gì thêm cho chồng cháu cả, tất cả đều mong chờ vào sự may mắn và phúc đức của gia đình. Sự giúp đỡ của chú Thiên Sứ và mọi người thực sự là hi vọng cuối cùng của gia đình cháu. Khi nào chồng cháu có tiến triển tốt hơn cháu sẽ chia sẻ với mọi người. Mong các bác, các anh chị có điều gì có thể giúp được chồng cháu xin cho cháu biết. Từ đáy lòng, cháu xin được cám ơn tấm lòng của chú Thiên Sứ với vợ chồng cháu! Cháu cũng xin cám ơn bác Hà Uyên, các bác và các anh chị trên diễn đàn! Cháu mong tiếp tục nhận được sự chỉ dạy của tất cả mọi người.1 like
-
Mấy hôm nay, bây giờ mới vào diễn đàn. Thấy chủ nhân của Topic đã "bỏ qua" lời nhắn về bài có số mục là số 9. Nghĩ rằng, như vậy chủ nhân đã tự xác nhận là đã viết một cách chính xác. Thôi thì, Tôi xin bắt đầu từ đây, để có một số ý kiến phản biện vậy. Câu này phi logic, mang tính Râu ông nọ, cắm cằm bà kia. Thật vậy. Để mà thấy được có vẻ như mặt trời quay quanh trái đất từ đông sang tây. Thời đó là do trái đất Tự Quay quanh trục của nó, chứ không phải là do trái đất quay quanh mặt trời mà ra cái hiện tượng mặt trời mọc ở đằng đông, lặn về phía tây. Vì thế, việc suy luận về cái gọi là chuyển động thực và biểu kiến là hoàn toàn sai lạc về bản chất.Do trái đất tự quay quanh trục của nó, theo chiều từ phải sang trái - nếu ta đứng trên mặt đất thuộc bán cầu Bắc, quay mặt về hướng nam - nhìn về xích đạo, và sẽ theo chiều từ trái sang phải nếu ta đứng trên mặt đất thuộc về bán cầu nam, quay mặt về hướng bắc - nhìn về xích đạo. Khi ấy, bởi vì chúng ta đứng trên mặt đất, mà trái đất tự quay, nghĩa là chúng ta đã đứng trên hệ quy chiếu của trái đất mà nhìn mặt trời, nên chúng ta thấy trái đất đứng yên, mà mặt trời dường như là chuyển động quanh ta - thực chất là quanh trái đất - theo chiều ngược lại. Nghĩa là thấy mặt trời mọc lên ở đằng đông và lặn về phía tây. Cái chuyển động dường như của mặt trời đó, ta gọi đó là chuyển động biểu kiến. Còn chuyển động tự quay của trái đất - trong chuyển động tương đối đối với mặt trời - là chuyển động thực. Ở đây, chúng ta thấy hiện tượng mặt trời mọc và mặt trời lặn ở bên đông và bên tây, dù được mô tả bởi chuyển động biểu kiến của mặt trời, hay chuyển động thực - quay quanh trục - của trái đất đều là như nhau. Không phải vì trái đất tự quay mà ta thấy mặt trời hiện lên ở đằng tây, mà lặn mất tiêu ở phía đông được. Bởi vậy, cho dù khi nhân loại phát hiện ra rằng trái đất tự quay quanh trục của nó, mà nhân loại cũng vẫn không thay đổi quan niệm mặt trời mọc đằng tây và lặn đằng đông. Ấy là vì dù là biểu kiến trong chuyển động của mặt trời, thực với chuyển động của trái đất, thì hiện tượng đó vẫn không thay đổi. Chứ mà nếu thay đổi, thì nhân loại đã thay đổi cách mô tả từ lâu rồi. Xin nhớ cho điều đó. Cho nên, cái việc: Là bậy bạ. Sách Tố Vấn nào mà nói tới điều này, thì tôi cho rằng, đó là sách Giả, ngụy thư, hay tác giả là một kẻ dốt nát, không chỉ dốt về thiên văn đông phương, mà dốt cả về thiên văn hiện đại.Thực tế thì chúng ta thấy rằng, muôn đời tính theo giờ giấc, buổi sáng là mặt trời mọc, thời gian buổi sáng choán cả giờ thìn. Buổi chiều tối là mặt trời lặn, thời gian lặn choán vào giờ tuất. Nay nói lại, cái gọi là Thiên môn. Vốn thiên môn và địa hộ là hai tên gọi, gắn liền với khái niệm "tựa như" là Cửa Ra Vào. Với thiên môn, đó gọi là cửa trời. Với địa hộ, đó là cửa địa ngục. Nên nói, thiên môn, địa hộ, là người ta hiểu đó chính là nơi ra vô của trời và đất. Trên địa bàn tử vi, 12 cung số ứng với 12 giờ, cũng ứng với 12 tháng, là những chu kỳ của địa chi. Đồng thời trên đó, những phương vị thiên can cũng được xác định. Theo như bài trên tôi đã có nói về thiên la và địa võng. Người xưa xem xét đó như là thời khắc giao tranh giữa trời và đất. Xin nhớ rằng, đó không phải là nơi giao tranh (hay còn gọi là giao nhau) giữa trời và đất về Không Gian. Mà đó là Thời Gian giao nhau giữa thiên và địa. Nên Ta thấy ở đây có một nhận xét vô cùng quan trọng: Đó là Trục thìn - tuất. Trục này có ý nghĩa biểu thị sự giao nhau của thiên và địa về thời gian. Nói như đông phương thì: Đó là ranh giới, hay biên giới giao nhau của thiên và địa. Trong đó, nếu xem xét về không gian, thì đó là phương vị, như phương đông là mặt trời mọc, hay mặt trời hiện lên ở phương đông, mà đường chân trời phía đông là nơi giao nhau của thiên và địa. Mặt trời lặn ở phía tây, nên đường chân trời phía tây là nơi giao nhau của thiên và địa. Như thế, cả về không gian lẫn thời gian, thìn - tuất đều khả dĩ biểu thị cho sự giao nhau giữa thiên và địa một cách đầy đủ. Vì thế. Đông phương học xem thìn - tuất như là một sự miêu tả đầy đủ về sự mọc và lặn của mặt trời, mang ý nghĩa sự giao nhau của thiên và địa. Nôm na, như đã nói, đó là ranh giới, hay biên cương. Thì cái cửa - thiên môn, hay địa hộ, là cái cửa ra vào của trời và đất. Người xưa xem hướng nam là hướng về Thiên, hướng về bắc là hướng Địa. Nên có nói: Nam Thiên, Địa Bắc là vậy. Do đó, các Hoàng Đế khi xưng vương, đều ngoảnh về Nam mà xưng thiên tử. Chứ có ai quay đầu về Bắc xưng thiên tử đâu !!!. Vì vậy, trên địa bàn, nam thuộc thiên, địa thuộc bắc. Tị - Ngọ - Mùi là hướng nam, Hợi - Tý - Sửu là hướng Bắc. Theo chiều quay thuận của trời. đi từ thìn - tị qua thân - dậu mà đến tuất - hợi - tý. Ngọ là chính Nam, trung tâm của Thiên, chẳng ai đặt cửa ở trung tâm "nhà" cả !. Tý là chính Bắc, tâm Địa, chả ai đặt cửa ở đó cả. Nên thiên môn và địa hộ không thể ở nơi tý ngọ được. Thìn - Tuất là nơi biên giới, đường cương thổ thiên - địa. Có ai đặt cửa ra vào ở ngay hàng rào giữa hai nhà không nhỉ ?. Cửa ra vào thì phải đặt vào phần "đất" của mình chứ, ai lại đi đặt ở ngay trên hàng rao qua lại hai nhà không ?. Cũng không thể đặt ở Mão được, bởi vì như thế, thì chả còn phân ranh giơi được nữa. Chả hóa ra là có anh Bành Trướng à ?. Cũng không thể đặt thiên môn và địa hộ ở mùi và sửu được, vì đó là phía sau, nếu đặt vào đó, thì phải gọi đó là Hậu Môn. Chỉ còn có tị và hợi. Không đặt cửa ở đó, thì đặt ở đâu ?. Nên mới nói: thiên môn ở tị - tị là phần đất thuộc thiên, nên đó là cửa trời. Địa hộ ở hợi - hợi là thuộc địa, nên đó là của đất. Cho nên, chúng ta mới có câu: trục tị - hợi là trục thiên môn - địa hộ là vì vậy. Từ đây, người ta mới có thể hiểu được về bản chất của địa không và địa kiếp. Và có thể khẳng định, địa không và địa kiếp không thể an theo tháng sinh được. Chính là ở chỗ này. Đến đây mà không hiểu nổi, thì không thể hiểu được tử vi. Bởi vì, đó là phần dễ nhất trong việc hiểu bản chất thực của tử vi. Thân ái.1 like
-
Kính gửi bác Sapa, Chờ mãi mới tới ngày bác "tái xuất" để chào bác một câu. Tuy nhiên bác làm em thất vọng quá. Bác đọc sách đông tây kim cổ mà lại chưa đọc một chuyện của Lỗ Tấn trong văn học phổ thông. Bác mà đọc qua chỉ một lần thôi, tất bác sẽ hiểu ý chú TS muốn nói rất nhiều lần với bác trong cuộc tranh luận này, rằng là " .. thứ mày không xứng !" (em xin trích nguyên văn bản dịch mà em được học, không dám có ý gì với bất kỳ bên thứ ba nào). Bác mà hiểu được, thì không đến nỗi "bị ban nick". Lỗi là tại bác, đơn giản vậy thôi. Việc bác định viết gì gì đó cho các nhà khoa học cũng không ổn lắm. Trước khi có buổi tọa đàm với chú TS, họ tất thảy đều thuộc về "một cộng đồng pha học". Nhưng gần đây họ khác rồi, họ được giáo hóa rồi, và đã trở thành "các giáo sư, tiến sỹ khoa học" chân chính. Họ biến đổi nhanh vậy đấy, chỉ có bác Sapa là tụt hậu thôi. Lỗi cũng là tại bác nhé. Chúc bác khỏe và chịu khó update kiến thức xã hội.1 like
-
Những thứ thuộc về học thuật thì PhucTuan cũng không dám bàn tới, khi đọc bộ tiểu thuyết của bác sĩ Trần Đại Sỹ ta có thể cảm nhận rõ những thế rất Việt Nam. Phải nói rằng chỉ có thể là một người rất yêu nước, có tâm với đất nước và tổ tiên mới có thể viết được bộ tiểu thuyết dã sử này. Từ thời hai bà Trưng nước Việt chúng ta đã có một nền văn hóa chẳng kém gì người Hán, từ ẩm thực cho đến võ thuật. Đây là một bộ truyện cũng rất đáng nên đọc. Dưới đây là link của bộ truyện gồm 9 quyển: http://www.mediafire.com/?sharekey=594d077...13616043b05bc7e Uploader: HoaiViet <http://www.thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?t=33958>1 like
-
Hạt gấc làm đen tóc 21/04/2010 20:20:23 - Hạt gấc có tác dụng ngang mật gấu, đặc biệt trong điều trị tắc sữa ở phụ nữ đang cho con bú, làm đen tóc, chữa sưng, đau khớp. Chữa viêm tuyến vú, sưng tấy: Phụ nữ sau khi đẻ dễ bị sưng, viêm tuyến vú dẫn đến tắc sữa, đau nhức, thông thường phải đi chích, nhưng dùng hạt gấc hiệu quả rất nhanh. Lấy khoảng 100g hạt gấc, bỏ lớp vỏ đen cứng, lấy nhân mài vào vành tròn ở bát, đĩa, cho nửa thìa cà phê rượu vào sẽ được một thứ hồ màu trắng, quánh. Sau đó bôi dung dịch này vào vú bị sưng, làm như vậy 3 lần sẽ khỏi. Chữa sưng, đau khớp: Lấy khoảng 200 hạt gấc đã phơi khô, mài sạch lớp màng, chặt làm đôi, ba ngâm với 400ml rượu trắng. Nếu nướng được hạt gấc bằng cặp nướng chả, rồi cho vào cối giã nhỏ hạt, ngâm rượu thì sẽ tốt hơn mà dùng được ngay. Ngâm càng lâu càng có tác dụng. Khi nào bị đau, đặc biệt là người già nhức chân tay bôi lên, xoa bóp đều. Làm đen tóc: Lấy toàn bộ hạt gấc trong quả, cho 5 thìa đường, đun cách thủy rồi ăn hết các màng ở hạt. Cứ một tuần làm như vậy một lần, trong vòng 3 tháng tóc sẽ mượt, đen và da trắng hồng. Hạt gấc chữa tắc sữa cho phụ nữ. Chữa trĩ: Dùng 100g hạt gấc giã nát, thêm một ít giấm thanh, gói bằng vải, đắp vào hậu môn để suốt đêm. Mỗi đêm đắp thuốc một lần. Làm như vậy khoảng 1 tháng sẽ thấy búi trĩ thụt dần vào trong. Chữa chai chân: Lấy nhân hạt gấc, giữ cả màng hạt, giã nát, thêm một ít rượu trắng 35 - 400, bọc trong một cái túi nilon. Dán kín miệng túi, khoét một lỗ nhỏ rộng gần bằng chỗ chai chân, buộc vào nơi tổn thương, 2 ngày thay thuốc một lần. Băng liên tục cho đến khi chỗ chai chân rụng ra (khoảng 5 - 7 ngày sẽ có kết quả). Lương y Phó Hữu Đức1 like