• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 21/05/2010 in all areas

  1. Thư viết cho tuổi trẻ tộc Việt Để giải những nghi vấn lịch sử : Đi thăm chiến trường thời Tống Lý. (Tựa bộ Nam Quốc Sơn Hà) Những giòng dưới đây tôi viết dành cho tuổi trẻ Việt, chưa có chút vốn về thư tịch của chiến thắng Bắc phạt thời Lý, đánh chiếm các châu Ung, Liêm, Dung, Nghi, Bạch. Mong những bậc cao minh bỏ qua. Chẳng nên bận tâm. Trân trọng. Hồi còn để chỏm, tiền nhân giảng dạy sử Hoa-Việt cho tôi, mỗi khi đề cập đến những chiến công oanh liệt của năm lần phạt Tống, một lần kháng Tống thời Lý, các người thường giảng rất kỹ, rất chi tiết, cùng bình luận. Nhưng chỉ giảng kỹ bốn lần đầu thôi. Còn lần cuối, với lần kháng Tống, vĩ đại nhất, oanh liệt nhất thì lại lướt qua. Trong khi lướt qua, các người ít chịu nhắc đến huân nghiệp của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt; thảng hoặc bất đắc dĩ phải đề cập đến, thì nói bằng giọng lạnh nhạt : « Người cầm quân đánh sang Khâm, Ung, Liêm là ngài Tôn Đản, công-chúa Ngô Cẩm-Thi với viên hoạn quan Lý Thường-Kiệt» Rồi khi khuyên tôi Viết lịch-sử tiểu-thuyết, chỉ khuyên viết các bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam, thuật cuộc khởi nghĩa của vua Trưng cùng 162 tướng; Anh hùng Đông-a thuật cuộc bình Mông thời Trần; Anh hùng Lam-sơn, thuật cuộc khởi nghĩa của vua Lê; Anh-hùngTây-sơn, thuật chiến công đánh Mãn-thanh của vua Quang-Trung. Còn những chiến công thời Lý thì bỏ qua. Tâm lý chung của tuổi trẻ là tò mò. Vì các người không nhắc đến, thì tôi lại âm thầm tìm hiểu. Mỗi khi tìm thấy những điều mới lạ, mà người trên không biết, không cần biết tới, không muốn biết, tôi lại cảm thấy thú vị. Sau lớn lên, tôi mới biết rằng sở dĩ các người lãnh đạm với huân nghiệp của Lý Thái-úy, vì ngài là một hoạn quan. Mà trong lịch sử Hoa-Việt, các Nho-gia cực kỳ ghét bọn hoạn quan. Vì bọn này thường nhờ vào vị thế hầu hạ, tôi tớ các vị vua, các bà trong hậu cung, rồi lộng quyền, làm hại dân, hại nước. Chính vì thế, mà tiền nhân tôi không khuyến khích tôi viết về thời Lý, chứ không cấm. Những năm sau 1975, tôi làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaceutique, viết tắt là CEP) , Viện Pháp-á (Institut Franco- Asiatique, viết tắt là IFA), Ủy-ban y học Pháp-Hoa (Comité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), có nhiều phương tiện tìm hiểu lịch sử thời Lý, tôi thấy rằng: Vì thiếu sử liệu, nên các sử gia Việt chỉ biết tên có hai tướng cầm quân Bắc phạt là Lý Thường-Kệt với Tôn Đản; rồi cho rằng huân công Bắc phạt, kháng Tống là của hai vị này. Trên thực tế, hai vị này chỉ là hai trong mấy chục anh hùng thời đó. Vì vậy, không ngần ngại, tôi đã viết năm bộ về thời Tiêu-sơn, dù tiền nhân không khuyến khích (chứ không cấm). - Một là, Anh-hùng Tiêu-sơn, 3 quyển, 907 trang, thuật công nghiệp của các vị tăngni yêu nước đã lập lên triều Lý; cuộc Bắc-phạt lần thứ nhất. - Hai là, Thuận-Thiên di sử, 3 quyển, 909 trang, thuật việc dùng đức từ-bi, bác-ái của nhà Phật; nhân-nghĩa của nhà Nho để trị nước...Khiến sử gia Hoa, Việt không ngớt khen ngợi rằng đây là thời kỳ dân Việt sung sướng như thời Nghiêu, Thuấn bên Trung-hoa. Nhưng sự thực các sử gia Trung-quốc đã lầm. Vua Lý Thái-tổ đã dùng chủ đạo của tộc Việt (Idéology) cai trị dân mà thôi. - Ba là, Anh-hùng Bắc-cương, thuật công cuộc giữ nước của 207 bộ tộc của các sắc dân thiểu số ở biên giới Hoa-Việt; cùng cuộc Bắc phạt lần thứ nhì. Tôi cũng trình bầy rất chi tiết, rất rõ ràng những vùng như núi Ngũ-lĩnh, sông Tương với ba địa danh Tương-trung, Tương-âu, Tương-Nam là nơi phát sinh ra Quốc-mẫu Âu-Cơ. Nhất là trình bầy vùng đất linh của tộc Việt : Núi Thiên-đài, nơi vua Đế Minh lập đàn tế cáo trời đất phân chia lãnh thổ cho Trung-nguyên, Lĩnh-Nam. - Bốn là, Anh-linh thần võ tộc Việt, thuật cuộc Bắc-phạt lần thứ ba. Sang lần thứ tư giúp Nùng Trí Cao chiếm lại lãnh thổ thời vua Hùng, vua An-Dương , vua Trưng, lập nước Đại-Nam. - Năm là, Nam-quốc sơn hà, thuật cuộc Bắc phạt lần thứ năm, và cuộc kháng Tống. Trong năm bộ trên, với những sử liệu tìm được, tôi đã trình bầy không biết bao nhiêu bí ẩn lịch sử tiềm ẩn trong các sách Hoa-Việt, bao gồm: Quốc-sử, địa dư chí (quốc chí, địa phương chí, phủ huyện chí), truyện ký, thần-tích ngọc phả, mộ-chí, bia-đá, gia-phả. Trong ba bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại-sử, Cẩm-khê di-hận, cứ mỗi cuối hồi, cuối một quyển, tôi lại chú giải, ghi chép các sử liệu, để giới trẻ biết nguồn gốc sử liệu, mà tìm hiểu sâu sa hơn. Sang bốn bộ Anh-hùng Tiêu-sơn, Thuận-Thiên di sử, Anhhùng Bắc-cương, với ý nghĩ lẩm cẩm rằng: Chú giải, ghi chép thêm là thừa, nên giới trẻ có nhiều ngộ nhận : Chính những sự kiện lịch-sử, thì bị coi là tiểu thuyết, những yếu tố tiểu thuyết lại được coi là lịch sử. Cho nên sang bộ Nam-quốc sơn-hà, lúc đầu, tôi chú giải sau mỗi hồi. Nhưng tiếp xúc với ông Trương Đình-Nho, giám đốc nhà xuất bản Đại-Nam, tôi mới biết rằng: Khi đọc đến chỗ chú giải, độc giả lại phải mất công lật xuống cuối hồi để tìm tòi; sao bằng chú giải ngay dưới sự kiện. Đây là một kinh nghiệm mà tôi học được. Cho nên sang quyển hai, thì tôi không còn chú giải ở cuối hồi nữa. Bây giờ tái bản ở trong nước, tôi quyết định, tất cả chú giải ngay dưới sự kiện. Trong bộ Nam-quốc sơn hà này, tôi cố gắng trình bầy một số sự kiện lịch-sử. Trước tiên là: 1. Bốn nghi vấn lịch sử Trong năm bộ sách, thì bộ cuối cùng là bộ tôi đắc ý nhất. Nam-quốc sơn-hà là bốn chữ lấy trong bài thơ, tương truyền của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt, sáng tác trong trận đánh sông Như-nguyệt với quân Tống vào năm 1076: Nam-quốc sơn hà, Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư. Như-hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Nghĩa là, Nước Nam là nơi vua nước Nam cai trị, Điều này đã định tại bộ sách trời. Bọn giặc kia, sao dám xâm phạm ? Nhất định bọn bay sẽ phải đại bại. Bài thơ này đến nay (1996) trải 920 năm, mà dường như hầu hết người đọc đều hiểu lầm ý nghĩa chữ Thiên-thư. Các sách đều giải thích rằng Lý Thường Kiệt dùng chữ Thiên-thư như một vật thể trừu tượng là ý trời. Cũng có sách không giải thích. Hồi niên thiếu, khi được tiền nhân giảng Tống-sử, phần Chân-tông bản kỷ, tôi đã được giải thích tỷ mỉ. Thiên-thư là tên một bộ sách, được soạn vào thời vua Tống Chân-tông. Việc chép Thiên-thư này, được ghi rõ trong Tống-sử quyển 7, Chân-tông bản kỷ, trang 135. Sự thực bấy giờ phía Bắc Tống bị Liêu uy hiếp, bắt cắt đất, nộp vàng lụa. Phía Tây bị Tây-hạ tấn công. Phía Nam bị Đại-Việt ép. Bọn 5 gian thần bị Tống-sử gọi là Ngũquỷ gồm Vương Khâm Nhược, Trần Nghiêu Tá (Tẩu) , Đinh Vị, Trần Bành Niên, Lưu Thừa Hoa mới bầy ra trò bịp bợm. Niên hiệu Đại-trung Tường-phù đời vua Chân-Tông (1008) thay vì tổ chức binh bị giữ nước, thì Tể-tướng Vương Khâm Nhược đề nghị nên dùng hình thức Phong-thiện, tức tế cáo trời đất ở núi Thái-sơn để trấn phục bốn phương. Nhưng muốn tỏ ra việc cúng tế đó là linh ứng tự trời, cần phải tạo ra bộ sách, dối là Thiên thư, của Thiên-đình ban xuống. Bộ sách này được chính Tể-tướng Vương Khâm Nhược, điều động một số văn thần soạn, đến tháng ba niên hiệu Thiên-hy thứ ba ( Kỷ Mùi 1019, vẫn thời vua Chân-Tông) thì xong. Vua sai viên Tuần-kiểm Chu Năng cùng viên Thái-giám Chu Hoài Chính đem dấu vào hang núi Càn-hựu, phía Nam Trường-an, rồi sai bọn đồng cốt nói rằng : « Từ nghìn xưa, có sách từ trời rơi xuống hang núi Càn-hựu ». Song sĩ dân không ai tin. Bấy giờ danh sĩ Khấu Chuẩn, trước từng là Tể-tướng, bị biếm vì tội nói thẳng, rất được sĩ dân tin tưởng. Oâng đang trấn nhậm đạo Vĩnh-hưng quân gần núi Càn Hựu. Sĩ dân nói rằng : « Cái vụ Thiên-thư là bịa đặt. Nếu như có thì ắt Khấu Chuẩn đã dâng về triều ». Vua Chân-Tông mật sai Chu Hoài Chính ngỏ ý rằng Khấu Chuẩn nên giả vào núi, tìm thấy Thiên-tư rồi dâng lên vua, sẽ được vua tái trọng dụng. Lúc đầu Khấu Chuẩn từ chối, nhưng vì say quyền hành, muốn về triều, ông phải bán rẻ cái chính khí. Khi ông mang Thiên-thư về Biện-kinh, nhà vua thân ra cổng thành rước. Dĩ nhiên Khấu Chuẩn thanh vân đắc lộ. Thế là tháng sáu năm đó, Vương Khâm Nhược chết, Khấu Chuẩn được phong chức Tể-tướng kiêm Lại-bộ thượng-thư. Một danh sĩ đương thời là Ngụy Dã người Thiểm-châu đã đã làm một bài thơ châm biếm Khấu Chuẩn. Khấu Chuẩn đau lắm, ông làm thơ để biện luận cho mình như sau : Tặng Ngụy Dã xử sĩ. Nhân văn danh lợi tẩu trần ai, Duy tử cao nhàn hối thịnh tài. Hâm chẳm dạ phong huyên tiết lệ, Bế môn xuân vũ trưởng môi đài. Thi đề viễn tụ kinh niên đắc. Tăng luyến u hiên kế nhật lai, Khước khủng minh quân trưng ẩn dật, Khê vân nan đắc, cận bồi hồi. Dịch. Người đời danh lợi thích bon chen, Duy chỉ ngài đây quả thực nhàn. Ôm gối ngồi nghe thanh gió thổi, Mưa xuân, cửa khép cảnh rêu lan. Hang núi xa xăm thư gửi lại, Tăng nhân yêu thích hiên hoang tàn. Chỉ sợ vua trưng người ở ẩn, Còn đâu mây, suối cảnh xanh lam ! Thế rồi, triều đình tế cáo khắp nơi, nào núi Thái-sơn, nào Khổng-miếu, nào tế Đạo-tổ. Các châu quận cũng tế , dân cũng tế, náo loạn cả nước. Nội dung Thiên-thư nói rằng : Vua Trung-nguyên là thiên-tử được sai xuống cai trị Thiên-hạ. Sắc dân Bắc là Địch, Tây là Nhung, Đông là Di, Nam là Man phải quy phục. Trong sách cũng định rõ cương thổ của Trung-nguyên với bốn vùng Đông, Tây, Nam, Bắc. Sách lại được vua cho người núp trên các nóc đền thờ Tam-hoàng, Ngũ-đế đọc. Dân chúng nghe thấy tưởng đâu trời sai thiên tướng xuống đọc. Họ chép lại rồi lưu truyền. Sau vụ này tinh thần quân, dân Tống hưng khởi lên, giữ được cương giới phía Bắc hơn năm mươi năm. Ghi chú. Bộ sách này Trung-hoa thư cục Bắc-kinh có tái bản nhiều lần, bản mà tôi đọc là bản do Bắc-kinh đệ nhị Tân-hoa ấn chế xưởng in năm 1965. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết đem quân sang đánh Đại-Việt, quân Tống tiến tới sông Như-nguyệt, chỉ còn cách Thăng-long có 25 km. Lý Thường-Kiệt cho làm bài thơ, ngụ ý Thiên-thư đã định ranh giới Hoa-Việt, kẻ nào xâm lăng Đại-Việt là trái với sách trời, ắt phải bại. Sau đó ông sai người núp trong đền thờ chư thần, mà đọc. Binh tướng Tống nghe được, lại tưởng là trời sai thần xuống kể tội, rồi truyền nhau về sự tích Thiên-thư, về trận đánh Hỏa-giáp. Họ thì thầm: Như vậy việc Tống ra quân trái với Thiên-thư, thì trước sau rồi cũng đến chết hết. Đó là một nguyên do đưa đến quân Tống mất hết tinh thần chiến đấu, rồi bị bại. Suốt 920 năm qua, người Việt đọc bài thơ trên thấy câu ”Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư” thì cứ cho thiên thư là danh từ chung để chỉ sách trời do Thường-Kiệt bịa ra; không ai biết rằng đó là danh tự riêng để chỉ bộ sách ra đời vào thời vua Chân-Tông. Vì hệ thống tuyên truyền của Tống triều trải từ thời Chân-Tông qua thời Nhân- Tông, Anh-Tông, bấy giờ là thời Thần-tông, (1076) trên từ vua, đại thần, cho đến dân Trung-hoa đều tin vào Thiên-thư nên Thường-Kiệt mới nhân đó, dùng gậy ông đập lưng ông. Chỉ độc giả Nam-quốc sơn hà mới hiểu rõ ý nghĩa chữ Thiên-thư này mà thôi. Thái-úy Lý Thường-Kiệt là nhân vật tài trí bậc nhất thời Thần-vũ (Lý Thánh-tông) và Anhvũ Chiêu-thắng (Lý Nhân-tông). Ngài là một anh hùng đã lập được huân công vĩ đại cho tộc Việt. Hiện còn nhiều đền thờ ngài. Tôi đã được viếng thăm đền thờ tại xã Ngọ-xá, huyện Vĩnh-lộc, tỉnh Thanh-hóa hai lần. Hiện hầu hết các đền thờ anh hùng dân tộc trong nước đều được dân địa phương trùng tu rất khang trang. Nhưng dân Ngọ-xá quá nghèo, vì vậy đền tiêu điều như hình trên.(Hình chụp tháng 8-2001) Trên giữa cổng chính là ba chữ Lý Đại Vương (chữ Lý ở giữa. Bên phải là chừ Đại, bên trái là chữ Vương. Đôi câu đối cổng chính: Phạt Tống, bình Chiêm vạn cổ danh phương thùy vũ trụ, Hộ dân bảo quốc thiên thu công đức quán sơn hà. (Phạt Tống, bình Chiêm tiếng thơm vạn cổ tràn vũ trụ. Giúp dân, giữ nước, công đức nghìn thu khắp non sông). Hình dưới là cổng phụ bên trái, đôi câu đối là: Anh hùng chí khí sinh dũng tướng, Hào kiệt uy phong hóa phúc thần. (Chí khí anh hùng sinh tướng mạnh, Oai phong hào kiệt hóa phúc thần) Còn cổng bên phải có đôi câu đối: Hách hách uy phong trừ nội nghịch, Đường đường kính khí diệt ngoại xâm. (Uy phong hách hách trừ phản tặc, Khí cứng đường đường diệt ngoại xâm) Tưởng niệm vị đại anh hùng dân tộc, mà không có lối vào nên nét mặt như bị bỏ đói mấy ngày! Hình chụp năm 1994, cổng vào đền thờ của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt tại xã Ngọ-xá, huyện Vĩnh-lộc, tỉnh Thanh-hóa: Cánh cổng không còn. Thuật giả muốn vào thắp hương tưởng niệm vị đại anh hùng dân tộc, mà không có lối vào nên nét mặt như bị bỏ đói mấy ngày! Đền thờ chính Mái ngói lâu ngày đã mục hết. Các đồ thờ bên trong còn mục hơn nữa. Dân xã nghèo quá, ăn không đủ, lấy tiền đâu mà cúng, mà trùng tu Nội dung bộ Nam-quốc sơn hà thuật giai đoạn hùng tráng nhất lịch sử Việt-Nam. Phía Nam, bình Chiêm, sát nhập ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh vào lãnh thổ Đại- Việt. Phía Bắc ba lần đánh Tống. Đây là cuộc Bắc-phạt lừng danh nhất lịch-sử Việt-Nam. Bởi các chiến công khác đều là cuộc kháng chiến giữ nước, còn cuộc đánh Tống này, do Đại-Việt khởi sự, chiến cuộc diễn ra trên đất Trung-nguyên. Tiếp theo, Đại-Việt lại đánh bại cuộc xâm lăng của Tống, trả thù trận Ung, Liêm, Khâm. Chiến công có một không hai trong lịch-sử Đại-Việt này vĩ đại biết là chừng nào, thế nhưng những bộ sử như Đại-Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), Việt-sử lược (VSL), Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), chỉ dành chỗ cho khoảng một trang mà thôi. Trong khi Tống-sử (TS), Tục tư trị thông giám trường biên (TTTTGTB), Ung-châu kỷ sự (UCKS)ï, Tống Thần-tông thực lục (TTTTL), Quách thị Nam-chinh (QTNC), Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ ký (TTCTGCK), Tống triều công thần bi ký (TTCTBK) của Trung-quốc lại chép rất chi tiết tỷ mỉ. Vì sự khác thường ấy, người sau đặt ra những nghi vấn lớn như: 1.1.-Nghi vấn thứ nhất : Người lãnh đạo. Một là, chiến cuộc xẩy ra trong ba năm 1075, 1076, 1077, dưới thời vua Lý Nhân Tông. Bấy giờ vua mới chín tuổi, cho rằng vua thông minh, tài trí đi; thì với cái tuổi đó làm sao có thể quyết định một việc lớn như vậy? Làm sao có đủ khả năng chỉ huy tiếp vận cho một chiến cuộc vĩ đại như vậy? Thế ai là người lãnh đạo Đại-Việt bấy giờ? Ai là người tổ chức tiếp vận? 1.2.- Nghi vấn thứ nhì :Tiểu sử các tướng. Hai là, sử sách đều cho rằng chiến công này của Lý Thường-Kiệt và Tôn Đản. Ngoài ra còn nhắc đến một vài tên nữa như hoàng tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn, đô-đốc Lý Kế-Nguyên, lang tướng Nguyễn Căn. Trong khi truyền-sử lại nói có 18 tướng và 18 phunhân đã chiến đấu oanh liệt, rồi tuẫn quốc. Thế 18 tướng ấy hành trạng ra sao? Huân nghiệp thế nào? Gia phả của họ Lý ở Hùng-xuyên, Đại-hàn cũng có đôi câu đối nói về việc này: Thập bát anh hùng, giai Phù-đổng, Tam thiên nữ kiệt, tỷ Mê-linh. Nghĩa là: Mười tám anh hùng đều là con cháu Phù-Đổng thiên vương, ba nghìn nữ kiệt đều sánh với gái Mê-linh (để chỉ nữ binh thời Trưng-vương). 1.3.- Nghi vấn thứ ba : Tôn Đản là ai ? Ba là, ngay hai tướng lịch sử ghi danh là Tôn Đản, Lý Thường-Kiệt, thì cũng không biết Tôn Đản là ai. Thế tiểu sử ngài ra sao? Sử cũ cho rằng ngài là một tướng nào đó. Lại có những người đưa ra lý luận ngớ ngẩn, nhân thấy âm Tôn Đản với Nùng Tông-Đán hơi giống nhau, thì cho ngay rằng Tôn Đản chính là tên Nùng phản phúc Nùng Tông-Đán đã theo Tống từ lâu. 1.4.- Nghi vấn thứ tư :Ý nghĩa bài thơ đánh Tống. Bốn là, chữ Thiên-thư trong bài thơ trên, người sau không tham khảo kỹ Tống-sử, cho rằng thiên-thư là danh từ chung, Lý Thường-Kiệt dùng như một hiện thể trừu tượng để chỉ ý trời. Nhưng thực ra đó là tên bộ sách làm chủ đạo cho Tống triều mang tên Thiên-thư nghị chế. Lý Thường-Kiệt dùng gậy ông đập lưng ông. Dưới đây tôi xin giải các nghi vấn đó. 2. Về nghi vấn thứ nhất, Người chỉ đạo cuộc chiến là Linh Nhân hoàng thái hậu. Người chỉ đạo, cũng là người nắm vững guồng máy cai trị, bảo đảm an ninh hậu phương, tiếp vận cho tiền tuyến là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Nhưng tại sao sử Việt lại không chép sự kiện này? 2.1. Lý do sử Việt không chỉ rõ, Ta thấy nguyên nhân có ba: 2.1.1. Một là sự nhập cung của bà có hơi khác thường. Vua gặp gỡ giữa đường, đem về phong là Ỷ-Lan phu-nhân. Khác với tất cả cung-phi khác, phải qua nhiều cuộc tuyển chọn phức tạp. Bà nhập cung vượt ra khỏi luật lệ Lý triều, nên chi người sau cho rằng bà chỉ là một cô gái quê tầm thường, nhờ con làm vua, mà trở thành Linh-Nhân hoàng thái hậu, rồi nhiếp chính. 2.1.2. Hai là, sau Linh-Nhân hoàng thái hậu, triều Lý có đến ba bà thái-hậu nhiếp chính rồi lăng loàn, dâm đãng, đưa đến mất nghiệp. Đó là Lê thái hậu vợ vua Thần-tông; Đỗ thái hậu vợ vua Anh-tông và Trần thái hậu vợ vua Huệ-tông. Các Nho gia với quan niệm: Sử là tấm gương cho người sau soi chung, nên không muốn có sự tham dự của đàn bà vào chính sự, mà dân gian gọi là tình trạng gà mái gáy. Vì vậy khi chép sử, các sử gia đã bỏ bà ra ngoài huân nghiệp vĩ đại của Linh-Nhân hoàng thái hậu. 2.2. Trong thực tế, chúng ta thấy chính Linh-Nhân hoàng thái hậu là người lãnh đạo cuộc Bắc phạt. Tôn Đản, Lý Thường-Kiệt chỉ là tướng cầm quân mà thôi. Vì: 2.2.1. Bấy giờ vua Nhân-tông mới chín tuổi, Linh-Nhân hoàng thái hậu nhiếp chính. Nói khác đi là cầm quyền. Bảo rằng nhà vua chỉ đạo, thì không ai có thể chấp nhận. Vì với tuổi đó, dù thông minh chăng nữa, nhà vua cũng không đủ trí khôn, kiến thức để thấu đáo vấn đề; huống hồ đưa ra quyết định lớn lao, táo bạo. 2.2.2. Cuộc Bắc phạt thời Thái-Ninh (1075) với đạo quân hơn mười vạn người ngựa, ít ra cũng phải có 40 vạn dân phu chuyên chở, tiếp tế lương thảo; chi tiêu cực kỳ tốn kém. Tiếp theo là cuộc kháng Tống giữ nước. Những công việc khó khăn đó, đòi hỏi ba điều. Một là nền cai trị vững chắc để có an ninh ở hậu phương. Hai là tiếp vận lương thảo, cực kỳ tốn của, tốn sức người. Ba là bổ xung tổn thất; phi người tài trí, không đương nổi. Vì thế trong bộ Nam-quốc sơn hà tôi sẽ trình bầy rõ: Linh-Nhân hoàng thái hậu đã dùng tới bẩy phụ tá, như một siêu triều đình. Đó là công chúa Thiên-Ninh, Thiên-Thành, Động-Thiên, vương phi Trung-Thành vương là Nguyễn-thị Trinh-Dung, vương phi Tín-Nghĩa vương Lê Ngọc- Nam, phu nhân tướng Nguyễn-Căn là Vũ Thanh-Thảo, phu nhân tướng Bùi Hoàng-Quan là Trần Ngọc-Huệ. Điều này chưa một sử sách Việt nào nói tới. 2.2.3. Cũng có người bảo rằng chính Thái-sư Lý Đạo-Thành đã chủ trương, chỉ đạo cuộc Bắc phạt. Vô lý, bởi ông bị Linh-Nhân hoàng thái hậu đầy vào Thanh-Nghệ, chỉ được ân xá về triều để giúp việc nội trị khi cất quân Bắc phạt. Hơn nữa ông là người chủ hòa, lại ở vào tuổi tám mươi hơn, nên quyết định Bắc phạt không thể là ông; mà phải là Linh-Nhân hoàng thái hậu. 2.2.4. Bảo rằng, quyết định này của Lý Thường-Kiệt ư? Có thể. Bấy giờ Thường- Kiệt lĩnh chức Thái-úy (QTNC nói ông lĩnh chức Đại-tư-mã), nhưng quyết định tối hậu vẫn là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Bởi ngay thời vua Thánh-tông còn tại thế, trong khi bình Chiêm, đã giao quyền cho bà. Không những bà tổ chức cai trị, tiếp vận chu đáo; mà còn tỏ ra xuất sắc hơn nhà vua trong lúc không chiến tranh nữa. 3. Di tích về Linh-Nhân hoàng thái hậu. Vì những huân nghiệp vĩ đại, nên sau khi băng hà, bà được thờ kính khắp nơi. Tôi tạm ghi ở đây những đền hiện nay (1995) vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói, vì ngài rất linh ứng: 3.1. Phú-thị từ (Đền Phú-thị) Ở xã Phú-thị, tiếng nôm là làng Sủi (tên thời Lý là làng Thổ-lỗi hay Thổ-lội, sau đổi ra Siêu-loại), thuộc tổng Kim-sơn, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh cũ, nay thuộc Hà-nội. Tài liệu ghi chép. Bắc-ninh tỉnh thần tích. 3.2. Lý thái hậu từ (Đền Lý Thái-hậu) Ở xã Dương-xá, tổng Dương-quang, huyện Siêu-loại tỉnh Bắc-ninh, sau thuộc tỉnh Hà-Bắc. Nay là xã Dương-xá huyện Gia-lâm, Hà-nội. Tài liệu ghi chép Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. Cổng chính từ ngoài vào Hình chụp năm 1994, tại xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội: một trong 72 ngôi chùa, Linh-Nhân hoàng Thái-hậu (Minh-Đệ) xây để đáp lời hứa với Minh-Không thiền sư. Chùa này nằm trong cùng khuôn viên với đền thờ ngài 3.3. Lý triều đệ tam hoàng thái hậu từ. Ở xã Quang-lệ, huyện Phù-dung, sau là huyện Phù-cừ, tỉnh Hưng-yên, nay là huyện Phù-tiên, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép Đại-Việt địa dư chí, Bắc-thành địa dư chí lục. 3.4. Lý hoàng thái hậu từ. (Đền thờ hoàng thái hậu triều lý). Ở xã Cẩm-cầu, huyện Gia-lộc, tỉnh Hải-dương. Tài liệu ghi chép Bắc-thành địa dư chí lục. Đồng-Khánh địa dư. Đại-Nam nhất thống chí (Hải-dương). 3.5. Hội-châu từ (Đền Hội-châu). Ổ thôn Bản-kỷ, xã Hội-châu, huyên Thanh-quan, nay là huyện Thái-thụy tỉnh Tháibình. Đây là quê ngoại của ngài. Tài liệu ghi chép Thái-bình địa dư-ký. 3.6. Yên-thái từ (đền An-thái). Ở làng Yên-thái, huyện Thọ-xương, nay là số 8, ngõ Tạm-thương, Hà-nội. Tài liệu ghi chép Kim-cổ thôn bi ký. Hà-nội tỉnh thần tích. 3.7. Cẩm-đới đình. Ở làng Cẩm-đới, tổng Bao-trung, huyện Gia-lộc, nay là Tứ-lộc, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép Hải-dương tỉnh thần tích. 3.8. Đồng-thiên quán Một trong bốn quán lớn ở Thăng-long. Hồi sinh thời ngài dựng để thờ Tam-thanh (Ngọc-thanh, Thượng-thanh, Thái-thanh) ở thôn Kim-cổ huyện Thọ-xương. Nay ở số 73 Đường Thành, Hà-nội. Đã bị hủy hoàn toàn, chỉ còn bức tường. Tài liệu ghi chép Bắc-thành địa dư chí lục. Hoàng-Việt địa dư chí. Thăng-long cổ-tích khảo. Long-biên bách nhị vịnh. Đại-việt địa dư chí. 3.9. Đồng-lâm tự (chùa Đồng-lâm) Chùa nằm ở giữa hai thôn Ngọc-trì và Vệ, xã Cổ-linh, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắcninh. Nay thuộc huyện Gia-lâm Hà-nội. Đây là một trong 72 ngôi chùa, mà hồi sinh thời bà cho dựng lên. Tài liệu ghi chép: Lâm-cổ ký. Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. 4. Những cuộc bình Nam, Bắc phạt thời Tiêu-sơn. Thời Lý (1010-1225) các văn gia xưa gọi là thời Tiêu-sơn, vì Tiêu-sơn là ngọn núi phát tích ra triều Lý. Thời nào Đại-Việt ta cũng có những vị anh hùng xả thân cứu nước. Công nghiệp của các ngài, thành cũng nhiều, mà bại cũng lắm. Dù thành, dù bại, sau khi các ngài lìa thế thì hoặc dân chúng, hoặc các triều đại kế tiếp đều lập đền thờ, để tưởng nhớ huâncông. Ngoài chính sử ra, tại đền thờ các ngài, thường có cuốn phổ (còn gọi là ngọc phổ hay ngọc phả) chép hành trạng. Năm 1407, Trương Phụ, Mộc Thạch đã phá hầu hết di-tích, đền-miếu thờ các ngài đã đành, mà còn thu tất cả các cuốn phổ mang về Kim-lăng. Năm 1428, vua Lê Thái-tổ tái lập nền tự-trị, một số di-tích, đền-miếu được trùng-tu, được táitạo. Những cuốn phổ cũng được chép lại theo trí nhớ, thành ra tam sao thất bản, không còn đúng với sự thực. Lại nữa người Việt có tục kiêng húy, nên những di-tích, đền-miếu tuy đã dựng lại, mà đôi khi người sau không còn nhớ được họ, tên các ngài. Thủa nhỏ, tiền nhân giảng dậy cho tôi rất kỹ về huân-nghiệp của các anh hùng năm nghìn năm tộc Việt. Trong đó có lướt qua cuộc đánh Tống, bình Chiêm thời Tiêu-sơn. 4.1. Các cuộc bình Chiêm. Về bình Chiêm có ba lần. 4.1.1. Lần thứ nhất. Vào thời vua Thái-tổ (1020), người cầm quân là Khai-Thiên vương (sau là vua Thái-tông) với Đào Thạc-Phụ. Mục đích cuộc hành quân chỉ để trừng phạt Chiêm vào cướp phá Nam biên Đại-Việt. 4.1.2. Lần thứ nhì, Do Khai-Quốc vương lãnh-đạo (1044), vua Thái-tông thân chinh, Tôn Đản tổng chỉ huy. Cuộc hành quân này có mục đích phá chủ lực quân Chiêm, vì bấy giờ Chiêm liên kết với Tống, dự trù đánh vào Nam thùy, khi Tống tiến quân vào Bắc-cương. Kết qủa, vua Chiêm là Sạ-Dẩu bị giết tại trận, ta còn bắt cả hoàng hậu Mỵ-Ê mang về. Hai chiến công này đã thuật sơ trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt. 4.1.3. Lần thứ ba (1069) Do vua Thánh-tông thân chinh, Lý Thường-Kiệt tổng chỉ-huy, Tôn Đản làm quân sư. Cuộc hành quân này có hai mục đích; một là phá thế liên minh Tống, Chiêm dự xâm lăng Đại-Việt; hai là chiếm vùng đất Chiêm có nhiều Việt kiều sinh sống. Kết quả, vua Chiêm là Chế-Củ bị bắt cùng với năm vạn quân. Chế-Củ dâng ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh để được ân xá. Cuộc hành quân này được thuật tỷ mỉ trong bộ Nam-quốc sơn-hà. 4.2. Các cuộc phạt Tống. Về việc đánh Tống có sáu lần, thì trong đó có năm lần đánh sang lãnh thổ Trungquốc và một lần kháng chiến chống xâm-lăng. 4.2.1. Lần thứ nhất, Do vua Lý Thái-tổ ban chỉ, Khai-Thiên vương tổng chỉ huy, đánh sang trại Nhưhồng của Tống, để trừng phạt quân Tống tại đây thường vượt biên sang Đại-Việt cướp bóc. Toàn thắng. Cuộc chiến tranh có tính cách trừng phạt một khê-động. 4.2.2. Lần thứ nhì , Do Khai-Quốc vương lãnh đạo, tổng chỉ huy là công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa và phò-mã Thân Thừa-Quý. Mục đích chiếm lại mấy châu động đã mất về Tống, do các biên thần Tống chủ trương. Toàn thắng. Cuộc chiến có tính cách tự vệ, dằn mặt các biên thần Quảng-Tây. Tống triều không chủ trương. 4.2.3. Lần thứ ba, Dưới thời vua Thái-tông, do Khai-Quốc vương lãnh đạo (1053), mục đích chiếm lại lãnh thổ thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng, bị người Hán chiếm mất, rồi đẩy dân Việt về sống ở vùng Bắc-cương thành 207 trang-động. Cuộc khởi binh thành công, đưa Nùng Trí-Cao lên làm vua, lấy lãnh thổ vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, Quý-châu lập thành nước Đại-Nam. Cuộc ra quân này, đã thuật chi tiết trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt. Lúc đầu thắng, sau bị bại. Cuộc chiến tranh có tính cách toàn diện. Đại-Việt không ra mặt khai chiến với Tống. Tống biết, nhưng không dám trả thù. 4.2.4. Lần thứ tư, Cũng do Khai-Quốc vương lãnh đạo, diễn ra dưới thời vua Thánh-tông. Người tổng chỉ huy là công-chúa Bình-Dương với phò mã Thân Thiệu-Thái (1059-1060). Mục đích cuộc Bắc phạt này là chiếm lại một số trang động do các bộ tộc thiểu số tự trị; bị Tống lấn chiếm, hoặc chiêu dụ phản Việt theo Tống. Sau khi chiếm lại các trang đã mất, trả đất cho các tộc bị mất, quân Việt tiến sâu vào vùng Tả-giang, Hữu-giang, chiếm hơn mười ải, giết nhiều tướng Tống. Tống cực kỳ phẫn uất, nhiều đại thần khuyên vua Tống Nhân-tông đem quân sang đánh Đại-Việt để trừng phạt; nhân đó chiếm nước đặt làm quận huyện. Ngặt vì bấy giờ phía Tây, Tống đang mắc họa với Hạ, phía Bắc thì Liêu chiếm đất, đòi cống vàng lụa; vả vua Tống cũng sợ binh hùng tướng mạnh của Đại-Việt, nên bàn hòa. Công-chúa Bình-Dương đòi nhiều điều kiện khắt khe mới chịu rút quân. Tống cũng phải nhượng. Thắng toàn diện. Chiến công oanh liệt trên thuật trong bộ Nam-quốc sơn-hà. Đến đây chiến cuộc leo thang. Đại-Việt ra mặt khai chiến với Tống, nhưng để cho công chúa Bình- Dương, phò-mã Thân Thiệu-Thái làm. 4.2.5. Lần thứ năm, Diễn ra dưới thời vua Nhân-tông vào năm 1075, bấy giờ vua mới chín tuổi, Linh- Nhân hoàng thái hậu phụ chính. Vua còn thơ, chư sự lớn nhỏ đều do Linh-Nhân hoàng thái hậu quyết định. Nguyên do: Vua Tống Thần-tông dùng những cải cách về kinh-tế, nôngnghiệp, binh-bị, tài-chánh của Vương An-Thạch từ năm 1066, đã được chín năm, khiến binh lực trở thành hùng hậu, quốc-sản sung túc. Nhà vua muốn nhân đó tiến quân lên Bắc đánh Liêu, chiếm lại đất cũ, để rửa nhục. Nhưng Vương An-Thạch lại khuyên nên đánh Đại-Việt trước. Sau khi bại Đại-Việt, thì Chiêm-thành, Chân-lạp, Ai-lao, Xiêm-la, Đại-lý phải quy hàng. Bấy giờ dùng nhân lực, tài lực sáu nước, đem lên Bắc, thì thắng Liêu dễ dàng. Vua nghe theo, bí mật cho các châu Nam biên luyện binh, tích trữ lương thảo. Cuộc chuẩn bị được ba năm, thì bị Đại-Việt biết được. Linh-Nhân hoàng thái hậu quyết định: Ngồi yên đợi giặc, sao bằng mình ra tay trước. Mục đích cuộc hành quân là phá hết các kho lương thảo, vũ khí, thành trì, cầu cống, diệt các đạo quân mới huấn luyện của Nam thùy Tống. Thế là cuộc Bắc phạt nổ ra vào cuối năm 1075. Quân Việt tiến đánh 18 ải dọc biên thùy Tống, rồi công phá các châu Khâm, Liêm, Ung, Dung, Nghi, Bạch, cùng diệt viện quân ở núi Đại-giáp. Nhiệm vụ chu toàn rồi, quân Việt rút về. Thắng toàn diện. Đến đây Đại-Việt ra mặt khai chiến với Tống. Cả hai bên cùng đem toàn lực ra đối phó với nhau. 4.3. Kết qủa cuộc Bắc phạt vĩ đại, Cuộc ra quân của Việt lần này quá lớn lao, phá nát kế hoạch cải cách của Tống ở Giang-Nam. Quá uất hận, Tống chịu nhục; nhường Hạ ở phía Tây, cắt đất dâng cho Liêu ở phương Bắc... để cho rảnh tay, rồi họ mang quân nghiêng nước sang định chiếm Đại-Việt đặt làm quận huyện (1076-1077). Nhưng Tống lại bị thất bại phải rút quân về, và chịu hòa. Người có hùng tâm, tráng-chí, lãnh đạo là một thiếu phụ ở tuổi ba mươi, đó là Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan). Còn người Tổng chỉ huy cuộc vượt biên Bắc phạt là Lý Thường- Kiệt, Tôn Đản, Lý Hoằng-Chân, Lý Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên. Nội dung bộ Nam-quốc sơn hà thuật cuộc Bắc phạt, cùng kháng Tống trên. 4.4. Rung chuyển Trung-nguyên, Sau cuộc Bắc phạt, và giữa lúc cuộc kháng Tống của Đại-Việt, chiến cuộc đang diễn ra cực kỳ khốc liệt (1076), Vương An-Thạch bị cách chức Tể-tướng, giáng xuống tri Giang-ninh phủ lĩnh Trấn-Nam quân tiết độ sứ, Đồng-bình chương-sự. Lúc Vương độ giang, bị một nhân sĩ bắt con sâu bỏ lên xe rồi làm bài thơ mỉa mai như sau: Thanh-miêu, trợ-dịch lưỡng phương nông, Thiên hạ ngao ngao oán tướng công. Độc hữu hoàng trùng thiên cảm đức, Hữu tùy xa giá, quá Giang-Đông. Dịch : Thanh-miêu trợ dịch hại canh nông, Thiên hạ nhao nhao oán tướng công. Chỉ có sâu vàng theo tiễn biệt, Cùng trên xa giá, quá Giang-Đông. Có người ví cái thất bại của Vương An-Thạch cũng đau đớn như cái thất bại của Hạng Võ xưa, khuyên Thạch nên tự tử: Khi Hạng-Vương mưu đuổi hươu ở Trung-nguyên, bị thất bại, lui về Nam; lúc qua sông này tự cảm thấy xấu hổ, đã tự tử, mà hậu thế kính phục. Tôi khuyên ông cũng nên tự tử để lưu danh muôn thủa. Nhưng Thạch không đủ can đảm. Tiếc thay, một cuộc cải cách về kinh-tế, binh-bị, tài-chánh, xã-hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ; bị tan vỡ, bị hủy bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại-Việt của Vương An-Thạch. Mà đau đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung-quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung-quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song, e rằng muôn đời mặt trời vẫn ở phương Đông, chứ không ngả về Tây như hồi thế kỷ thứ 18 cho đến nay và bao giờ..???...??? 5. Tìm những danh tướng thời Tiêu-sơn. 5.1. Đi tìm anh hùng nghìn năm trước. Chủ trương Bắc-phạt là của Linh-Nhân hoàng thái hậu. Tướng cầm quân là Thường-Kiệt, Tôn Đản. Thế nhưng không phải chỉ hai tướng ấy mà tạo ra chiến công lừng lẫy như vậy! Phải có thêm nhiều người. Sử nhắc đến Lý Hoằng-Chân, Lý Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên, Nguyễn-Căn. Nhưng vào cái thời đó, cứ một người ra trận, thì phải năm người tiếp vận; ấy là không kể bộ máy kinh-tế, tài-chánh, cai trị để cung cấp nhu cầu cho binh tướng. Vậy những nhân vật nào đã làm bằng ấy công tác? 5.1.1. Tìm trong nhà. Khi tiền nhân giảng về giai đoạn lịch sử này cho tôi, các người thường than thở rằng: Tương truyền bấy có sáu vị nữ quan, phụ trách sáu bộ, cạnh Linh-Nhân hoàng thái hậu như một siêu chính phủ. Thế mà nay sử sách không lưu truyền sáu bà ấy là những bà nào. Lại nữa, trong cuộc đánh Tống, Việt có mười tám tướng, cùng mười tám phu nhân cũng là mười tám nữ tướng; mà mười hai vị xuất thân cùng khổ; tất cả đều tuẫn quốc trong trận kháng Tống, nhưng tiếc thay tiểu sử lại rất mơ hồ. Nếu nói quá đi, gần như không còn. Lúc lớn lên, tôi có tìm đọc những sách do Quốc-sử quán triều Nguyễn soạn để tìm hiểu thêm. Về sử như Đại-Nam thực lục tiền biên, Đại-Nam thực lục chính biên. Về chí như Đại-Nam nhất thống chí, Đại-Nam quận huyện phong thổ vật lược chí, các bộ Địaphương chí, Phủ-huyện chí, Truyện ký, Thần-tích, Ngọc-phả. Nhưng cũng không tìm ra được chút ánh sáng nào. 5.1.2. Tìm ở nước người. Cho đến khi ra trường (1964) có chỗ đứng trong xã hội về tài chính, có phương tiện, tôi đã lần mua đọc các bộ sách của Trung-quốc. Từ những bộ lớn như: Tục tư trị thông giám trường biên, Tống Thần-tông thực lục, Tống-sử v.v. tới những bộ nhỏ như Ung-châu kỷ-sự, Hy-Ninh cảo lục. Nhưng cũng không tìm ra được gì hơn. Phải chờ đến giai đoạn 1977-1995, nhờ đi trong phái đoàn trao đổi y-học Pháp-Hoa (CMFC), Liên-hiệp các viện bào chế châu Aâu (CEP), viện Pháp-Á (IFA) tôi có dịp lần mò vào những thư viện, bảo tàng địa phương Trung-quốc. - Nào thư-viện, bảo-tàng cao nhất của cấp tỉnh, nào thư viện đại học Văn-sử, nào thư viện đại học Sư-phạm... cho tới thư-viện cấp huyện của các tỉnh Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-châu, Hồ-Nam. - Tôi đã đi Nam-ninh (Ung-châu) lên núi Đại-giáp, Hỏa-giáp, suối Ngọc-tuyền; tới Khâmchâu, Liêm-châu để quan sát địa hình chiến trường thời Tống-Lý. - Nhờ các cuốn địa-phương chí, nhân vật chí, địa dư chí từ đời Minh, đời Thanh còn lưu truyền; tôi tìm ra đền thờ các tướng Tống tử trận trong chiến tranh Tống-Lý, được lập đền thờ. Trong các chí đó, có nói đến nhiều danh tướng Việt. - Tôi cũng lần mò đọc các tấm bia ở ngoại ô Nam-ninh trên gò chôn tập thể dân quân Tống chết trong trận Ung-châu. Tại núi Đại-giáp, tôi được thăm lăng mộ, đền thờ, đọc bia ký của năm tướng Trương Thủ-Tiết, Hứa Dự, Ôn Nguyên-Dụ, Trương Biện, Vương Trấn. Các tướng này tử trận khi mang quân cứu viện thành Ung. Trong các bia, phổ, gia phả của năm tướng, thuật rất chi tiết về chiến cuộc Côn-lôn, Đại-giáp, và nhắc đến tên nhiều tướng Đại-Việt. Cảm động nhất là trong khi viếng đền, tôi được gặp hậu dụệ chư tướng ấy đang họp nhau, quyên góp tiền trùng tu đền. Họ đem sổ vàng ra, khiến tôi không biết phải hành-xử như thế nào? Bởi cúng, thì tôi còn mặt mũi nào để đến quỳ gối tại đền thờ Linh- Nhân hoàng thái hậu? Công chúa Thiên-Ninh, và 18 anh-hùng tuẫn quốc thời Thái-Ninh! Mà chối thì hóa ra người hẹp hòi, gây khó khăn khi mượn gia phải của chư tướng Tống để tìm tài liệu lịch sử! Cuối cùng tôi đành để người bạn gái người Hoa là danh ca Chu Cẩm- Hồ cúng một số tiền nhỏ (500 $ US, dĩ nhiên tiền đó của tôi), gọi là tưởng nhớ những người trung-nghĩa mà bỏ mình. - Tại một số thư viện khác, tôi đã tìm ra không biết biết bao tài liệu quý báu. Tài liệu quý nhất là bộ Tống triều công thần bi ký nội dung chép văn bia, mộ chí của hầu hết những nhân vật văn võ thời Tống liên quan đến Đại-Việt. Nhờ nội dung văn-bia, tôi biết thêm nhiều chi tiết lịch-sử, mà trong các bộ sử lớn, nhỏ không chép. 5.1.3. Tìm di tích bằng y-khoa. Xin mở cái ngoặc ở đây: Khi chúng tôi sang Trung-quốc công tác cho CMFC thường có hai phái đoàn, một phái « trao tức giảng dạy cho người, một phải đoàn « đổi tức học của người. Lúc đầu tôi đi trong các phái đoàn với tư cách thông dịch viên, sau kiêm thêm liên lạc tổ chức, rồi dần dần (sống lâu lên lão làng) tôi làm trưởng phái đoàn cho đến nay (1995). Vì dịch riết rồi những vấn đề dịch nhập tâm, lĩnh hội được, nên tôi thu thái rất nhiều khi « trao. Như trước 1978 tôi chỉ có một số kiến thức khiêm tốn về giải phẫu chỉnh hình (orthopédie), nhất là giải-phẫu thẩm mỹ như lột da, căng da, cắt mắt, nâng cao mũi, lấy mỡ bụng, làm môi trái đào, sửa ngực. Đến năm 1981 tôi nghiễm nhiên trở thành phụ giảng khi trao, và từ năm 1986, tôi là một trong những giảng viên về các món lỉnh kỉnh này. Tôi nghĩ: Xưa Lã Bất-Bi buôn vua, thì nay tôi cũng buôn y-học. Tôi dùng khả năng y-học thẩm mỹ để làm quen với quý bà. Ở cái xã hội nào cũng thế, các bà đều thích đẹp, và cồng bà bao giờ cũng mạnh hơn lệnh ông. Lệ không thành văn của phái đoàn trao đổi y-học là: Ngoài công tác chính tại các đại-học, bệnh viện, các giáo-sư có quyền điều trị cho dân chúng, nhưng không được nhận thù lao. Dùng cái võ công lột da mặt, cắt mắt, làm môi trái đào, lấy mỡ bụng, nâng cao mũi, tôi đã thành con mọt sách lớn, lọt vào được những tủ sách gia đình, địa phương của nhiều tộc mà tôi muốn. Tôi đã làm quen, đã tìm lại được giòng dõi các quan lại, các tướng liên hệ đến việc sang đánh Đại-Việt của Tống, rồi xin đọc gia phả Tổ tiên anh hùng của họ. Tôi đã được đọc gia phả chép về Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh, Tiêu Chú, Oân Cảo, Tiêu Cố, Lý Sư-Trung, Vương An-Thạch, Thẩm Khởi, Lưu Di, Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ, Diêu Tự, Lý Hạo, Trương Chi-Giám, Dương Vạn, Lôi Tự-Văn, Lữ Chân, Lý Hiếu- Tôn, Trương Thế-Cự, Địch Tường, Khúc Chẩn, Quản Vi, Vương Mẫn. 5.1.4. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ. May mắn nhất là năm 1985, nhờ làm đẹp cho mấy phu nhân của những sĩ quan cao cấp của Bộ Tư-lệnh hai Quân-khu tiếp giáp với Việt-Nam và của Bộ Chỉ-huy Quân-sự hai tỉnh Quảng-Tây, Quảng-Đông tôi đã được vào thư viện của bộ Tư-lệnh hai quân khu có chung biên giới vơí Việt-Nam. Mặc dầu bấy giờ cách thư viện tôi ngồi không bao xa, giữa quân đội Trung-Quốc, Việt-Nam đang nã đại pháo vào nhau; mặc dù các sĩ quan Trungquốc đều biết tôi là Tây gốc Việt. Nhưng họ cũng biết rằng tôi là tên thầy thuốc dốt chính trị nhất thế giới, khù-khờ lẩm cẩm nhất thế giới. Vì vậy họ cho tôi đọc thả dàn, đọc sướng con mắt; đọc đến phải mang bánh bao, vịt quay vào thư viện vừa ăn, vừa đọc! Nhưng họ không cho tôi mang máy vào, sợ tôi scaner Ngồi bên kho tài liệu, tôi cảm thấy kinh hoàng vô cùng, vì Trung-Quốc bảo tồn được tất cả những tài liệu liên quan đến ngoại-giao, quân-sự giữa hai nước để các sĩ quan tham khảo thiết kế hành quân. - Cổ nhất là cuộc đánh sang Việt thời Tống Thái-tông của Hầu Nhân-Bảo, Tôn Toàn-Hưng, Quách Quân-Biện, Triệu Phụng-Huân (981); - Ba cuộc tiến quân thời Lý Bắc-phạt (1053, 1059, 1075), - Cuộc Nam xâm thời Tống Thần-tông (1076-1077); - Ba lần (1257, 1285, 1288) Mông-cổ đánh Đại-Việt, - Cuộc xâm lăng của Trương Phụ (1407)... cuối cùng là cuộc hành quân chưa xong của Bắc-kinh dạy Việt-Nam bài học, mà chúng tôi thường đùa rằng đó là cuộc tiến quân môi cắn răng 1978; vẫn chưa dứt. Trong thư viện ấy, tôi tìm được hai bộ sách chưa xuất bản, in bản thạch, rồi photocopie. Đó là hai bộ nhật ký hành quân của Quách Quỳ tên Quách-thị Nam chinh (QTNC), của Triệu Tiết mang tên Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký (TTCTGCK); là hai tướng tổng chỉ huy cuộc đánh Đại-Việt thời Lý (1076-1077). Hai bộ sách do chính Quách Quỳ, Triệu Tiết chép, sau này con cháu họ có tu bổ. Vào niên hiệu Thiệu-Hưng thứ tư (1134); cháu bốn đời Quách Quỳ là Quách Gia; cháu năm đời Triệu Tiết là Triệu Dụng có dâng lên vua Tống Cao-Tông để xin minh oan, cùng phục hồi danh dự cho tổ tiên mình. Bấy giờ Lý Hồi mới được giữ chức Đoan-minh điện đại-học sĩ, quyền tri tam tỉnh, Khu-mật viện-sự tức Tể-tướng toàn quyền. Ông này sợ Quách Gia, Triệu Dụng được trọng dụng; nên bài bác các đoạn nói về sức mạnh, về tổ chức quân đội, cùng tiểu chuyện các tướng Đại-Việt thời Thái-Ninh, Anh-vũ chiêu-thắng (1072-1084), và cho rằng đó là những điều bịa đặt. Tuy vậy trong hai tập sách trên có ghi chép đầy đủ hình thể núi sông, phong tục, tiểu-sử công thần, tổ chức hành chánh, quân sự Đại-Việt, nên nhà vua vẫn sai trao chu Khu-mật viện cất để làm tài liệu. 5.2. Anh hùng nước tôi còn đó. Sau khi kiểm lại các bộ gia-phả, địa-phương chí, địa dư chí, nhân vật chí, bia đá, mộ chí cùng đọc kỹ hai bộ trên. Tôi đã giải được gần như trọn vẹn những nghi-vấn về lịch sử do tiền nhân tôi để lại. Tôi tin đến tuyệt đối, vì những điều trong sử Việt, Hoa bỏ qua không ghi như: 5.2.1. Bà chúa kho, Sử Hoa-Việt nói đến công-chúa Thiên-Thành hạ giá với phò-mã Thân Cảnh-Long; có nói đến công-chúa Động-Thiên, còn công chúa Thiên-Ninh thì không hề nói tới. Trong thực tế, đền thờ công-chúa Thiên-Ninh (Bà chúa kho) rất lớn, mà dân miền Bắc ai cũng biết; nhất là dân Hà-nội, cứ vào đầu Xuân, lũ lượt kéo nhau đến đền thờ bà xin... vay tiền. Trong hai bộ QTCN và TTCTGCK chép rất chi tiết tiểu sử của bà, chép rõ đền thờ tại đâu, xây cất năm nào nữa. Trên: Cổng ngoài, cổng trong. Dưới: Chính điện thờ Công-chúa Thiên Ninh (Bà chúa kho) ở Thị-cầu, Bắc Ninh. 5.2.2. Hoàng tử Hoằng Chân, Chiêu Văn, Sử Hoa-Việt chép vài giòng về hoàng-tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn tử trận Kháotúc, không chép hai ngài giữ chức gì, tiểu sử ra sao? Hai bộ QTCN và TTCTGCK chép rất chi tiết rằng hai vị là con của Khai-Quốc vương và quốc-mẫu Thanh-Mai. Tước phong của Hoằng-Chân là Trung-Thành vương và Chiêu-Văn là Tín-Nghĩa vương. 5.2.3. Sáu nữ tướng thời Anh-vũ Chiêu-thắng. Sử không chép về phu nhân của các tướng. Trong khi đó hai bộ trên chép rất chi tiết: Sáu nữ phụ tá của Linh-Nhân hoàng thái hậu, như một siêu chính phủ bấy giờ gồm: - Phụ-tá về Binh-bộ là công chúa Thiên-Thành; - Phụ-tá về Hộ-bộ là công chúa Thiên-Ninh; - Phụ tá về Hình-bộ là công-chúa Động-Thiên; - Phụ-tá về Lễ-bộ là bà Trần Ngọc-Huệ phu-nhân của tướng Bùi Hoàng-Quan; - Phụ-tá về Công-bộ là bà Vũ Thanh-Thảo, phu nhân của tướng Nguyễn Căn; - Phụ-tá về Lại-bộ là bà Lê Ngọc-Nam, vương-phi của Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn; - Phụ tá về Khu-mật viện là bà Nguyễn-thị Trinh-Dung, vương phi của Trung- Thành vương Lý Hoằng-Chân. 5.2.3. Quan sát y phục, biết danh tính, Khi hành hương đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu ở xã Dương-xá, huyện Gia-lâm Hànội, tôi thấy tượng Thái-hậu ngồi chính giữa, mỗi bên có ba tượng của ba bà, mà bà thủ từ chỉ biết tên có một bà tên Nguyễn-thị Trinh-Dung. Như vậy rõ ràng hai bộ QTNC và TTCTGCK đã chép chi tiết, chép đúng với chính sử. Từ trái sang phải: 1. Ninh-đức, Trang-duệ, Hiếu-khang công chúa nhũ danh Lê Ngọc-Nam. 2. Công-chúa Động-Thiên. 3. Hòa-huệ, Ninh-tĩnh, Ôn-văn công chúa Vũ Thanh-Thảo Từ trái sang phải: 4. Công-chúa Thiên-Thành, 5. Công chúa Động-Thiên, 6. Công chúa Nguyễn-thị Trinh-Dung. Ghi chú. Giữ đền này (1994) có tới bốn người, tôi không nhớ tên. Tôi chỉ nhớ được hai người. - Một người to lớn tự giới thiệu đã ớ trong ngành Công-an ba mươi năm, nay được cử về đây để bài trừ tín ngưỡng dị đoan. Theo lời ông thì: Vua Tống là Vương An-Thạch đem quân sang đánh VN !!! Tôi có nhắc: Không phải đâu, các vua Tống đều họ Triệu; hồi đem quân đánh Việt-Nam thời Linh-Nhân hoàng thái hậu là Tống Thần-tông. Vương An- Thạch chỉ là tể tướng, một tể tướng rất yếu. Nhưng ông này vẫn không chịu. Tôi biết ông là một thứ « ông bình vôi, nên cười, rồi cáo từ. - Một người nữa là một bà lớn tuổi phụ trách thắp hương, dâng lễ, tôi tạm gọi là bà thủ-từ. Tôi có cúng một số tiền nhỏ (200 USD) dùng tu bổ đền. 5.2.4. Chi tiết cuộc Bắc phạt, Sử Tống, Việt chép về việc Lý đánh các châu Khâm, Liêm, Ung, Nghi, Dung, Bạch của Tống rất sơ sài, vỏn vẹn có mấy trang. Trong khi hai bộ trên chép rất kỹ, rất chi tiết về trận đánh 18 ải biên giới; trận đánh Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu; trận đánh viện binh ở Côn-lôn, ở Đại-giáp. 5.3. Hành trạng các tướng, Về chư tướng, sử Việt, Hoa chỉ thấy nói đến Lý Thường-Kiệt, Tôn-Đản và vài giòng về Hoằng-Chân, Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên, Nguyễn Căn. Người sau muốn biết thêm thì không tìm ra đến một chút chi tiết nhỏ. Thế nhưng tương truyền bấy giờ Việt có 18 tướng trí dũng tuyệt vời, và các phu nhân cũng theo quân giữ nước. Khi 18 tướng tuẫn quốc, các phu nhân cũng tuẫn quốc một lúc. Sau chiến tranh, triều đình lao tưởng, cho lập đền thờ. Vậy thì 18 tướng ấy là ai? Đền thờ ở đâu? Không ai biết. Nhưng trong hai bộ QTNC và TTCTGCK lại chép rất chi tiết về xuất thân của 18 tướng, 18 phu nhân cùng huân công đánh Chiêm, đánh sang Ung, Khâm, Liêm của các ngài; rồi (Quách Quỳ, Triệu Tiết) khoe rằng họ giết được các ngài trong trường hợp nào, đền thờ tại đâu. 6. Thập bát anh hùng giai Phù-Đổng. Căn cứ vào QTNC, TTCTGCK chép, tôi đã tìm ra một điều thú vị vô cùng tận, rồi bật lên tiếng than: Hỡi ơi! Những đền thờ các ngài vẫn còn đó. Huân nghiệp các ngài có chép trong rất nhiều các sách sử Việt-Nam của Quốc-sử quán triều Nguyễn như Đại-Nam nhất thống chí, Bắc thành địa dư chí, hay những cuốn phổ. Nhưng vì tam sao, thất bản đến nỗi chỉ biết đền thờ rất sơ lược, mà không biết rõ tên tuổi sự nghiệp ra sao. Căn cứ vào hai bộ sách trên, tôi đối chiếu với sách Việt, tìm lại rất đầy đủ tên họ, quê quán, huân nghiệp và chỉ rõ đền thờ hiện còn hay mất, ở đâu. Dưới đây là những danh tướng, sử ghi tên, nhưng không đầy đủ, nhất là bỏ sót tên các nữ anh hùng. 6.1. Lý Hoằng-Chân, Chức tước như sau: - Kiểm-hiệu thái-sư, Thượng trụ quốc, Thượng-thư lệnh kiêm trung-thư lệnh, Thăng-long tiết độ-sứ, Tả kim-ngô đại tướng quân, quản Khu-mật viện, Trung-Thành vương. - Vương phi là Nguyễn-thị Trinh-Dung, tước phong Minh-đức, thạc-hòa, chí nhu công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Kháo-túc. Tượng thờ vương phi Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân, nhũ danh Nguyễn-thị Trinh- Dung. Tước phong của ngài là Minh-đức, Thạc-hòa, Chí-nhu công chúa.Hình chụp tại đền thờ Linh-nhân hoàng Thái-hậu ở xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội. 6.2. Lý Chiêu-Văn, Chức tước như sau: - Kiểm-hiệu thái-phó, khai-phủ nghị đồng tam tư, Võ-minh quân tiết độ-sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Phụ-quốc đại tướng quân, Khu-mật viện sứ, Tín-Nghĩa vương. - Vương-phi Lê Ngọc-Nam tước phong Ninh-đức, Trang-duệ, hiếu khang công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Kháo-túc. 6.3. Bùi Hoàng-Quan, Chức tước như sau: - Thái-tử thiếu-bảo, Phiêu-kị đại tướng quân, Khu-mật viện sứ, Binh-bộ tham-tri, Gia-viễn hầu. - Phu nhân là Trần Ngọc-Huệ tước phong Nhu-mẫn, đoan-duệ, anh-văn công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Vĩnh-an (Ngọc-sơn). Tượng thờ Nhu-mẫn, đoan-duệ, anh-văn công chúa Trần Ngọc-Huệ 6.4. Dư Phi, Chức tước như sau: - Thái-tử thiếu-sư, Vũ-dực đại-tướng quân, đồng-tri Khu-mật viện, Nam-sơn hầu. Tuẫn quốc trận Đâu-đỉnh (Bắc-sơn). 6.5. Nguyễn Căn, Chức tước như sau: - Quang-lộc đại phu, Trấn-Bắc thượng tướng quân, Tản-viên hầu. - Phu-nhân là Vũ Thanh-Thảo, tước phong Hoà huệ, ninh tĩnh, ôn văn công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc tại chiến lũy Như-nguyệt. Tượng thờ vương phi của Nhân-võ, Hùng-huân, Trấn-Bắc đại vương Nguyễn Căn, nhũ danh 6.6. Phò-mã Hoàng Kiện, Chức tước như sau: - Phụ-quốc thái-úy, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Binh-bộ thượng thư, Kinh-Bắc tiết độ sứ, Uy-viễn đại học sĩ, Khu-mật viện sứ, Sơn-Nam quốc-công. - Vương-phi là công chúa Động-Thiên, con vua Thánh-tông. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Phú-lương. 7. Anh linh thánh Gióng. Trên đã thuật về mười một vị có cấp bộ cao nhất tử trận. Kế tiếp là hai mươi bốn vị ở cấp trung, nhưng chết rất oai hùng. Đó là: Long-biên ngũ hùng và Tây-hồ thất kiệt, gồm mười hai vị, cộng mười hai phu nhân là hai mươi bốn vị. Long-biên ngũ hùng có tên Phạm Dật, Vũ-Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Tây-hồ thất kiệt có tên Trần Di, Dương Minh, Triệu Thu, Mai Cầm, Quách Y, Ngô Ức, Tạ Duy. Sáu tướng, năm phu nhân trên trong sử có nói đên, tôi không cần nhắc lại nữa. Ở đây tôi xin chép tiểu chuyện của 12 tướng có xuất thân rất đặc biệt: Ăn mày, ăn trộm, móc túi, thế rồi nhờ lòng yêu nước mà trở thành anh hùng. Mười hai tướng đó, được vua Lý Thánh-tông phong cho mỹ hiệu là Long-biên ngũ hùng và Tây-hồ thất kiệt. 7.1. Long-biên ngũ hùng. Long-biên ngũ hùng là năm đại tướng quân thời vua Lý Thánh-tông, Lý Nhân-tông. Năm vị có tên là Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Long-biên ngũ hùng đều xuất thân từ chùa Từ-quang ở làng Thổ-lội, huyện Gialâm, lộ Kinh-Bắc, ngày nay là xã Phú-thị, huyện Gia-lâm, Hà-nội. Năm vị đều là con mồ côi, được sư Viên-Chiếu đem về nuôi dạy. Cả năm đều chịu nhiều thăng trầm thời thơ ấu với Linh-Nhân hoàng thái hậu (Tức Ỷ-Lan thần phi nhũ danh Yến-Loan); được bà nhận làm em nuôi. Sau cả năm được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Năm vị học văn, luyện võ đều thành. Năm vị thu nhận một số thiếu niên đồng tuổi, rồi luyện võ, dạy bắn cung cho họ, lập thành đội Thần-tiễn Long-biên khoảng 500 người. Mỗi tráng sĩ trong đội Thần-tiễn đều có thể bắn trúng chim đang bay. Vua Thánh-tông ban cho năm vị mỹ hiệu là Longbiên ngũ hùng. Năm 1069, Long-biên ngũ hùng mang đội Thần-tiễn tùng chinh đánh Chiêm, được đặt dưới quyền chỉ-huy của Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương có hai thiếu nữ Việt-kiều tên Lê Kim-Loan, Võ Kim- Liên cảm tài đức, kết bạn với năm ngài, xin theo trong quân làm thông dịch và dẫn đạo. Kim-Loan kết bạn thanh mai trúc nhã với Phạm Dật; Kim-Liên với Vũ Quang. Sau chiến thắng Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Long-biên ngũ hùng được lệnh trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn ở mặt trận Nam-giới. Trong trận đánh Bố-chánh, năm ngài gặp thêm hai thiếu nữ Việt-kiều tên Trần Ngọc-Liên, Trần Ngọc- Hương kết bạn, xin theo trong quân làm thông dịch viên và dẫn đường. Ngọc-Liên kết bạn thanh mai trúc nhã với Lý Đoan; Ngọc-Hương với Trần Ninh. Riêng Đinh Hoàng-Nghi gặp một thiếu nữ Chàm là tù nhân, tên Câu-thi Lị-ha-thân Bài-ma-la Nang Chang-Lan (Sri Varman Nangchanglan). Suốt trận chiến, Long-biên ngũ hùng cùng bốn người bạn gái lập đại công trong trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Ma-linh, Địa-lý, Nam-giới, Nhậtlệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Chiến thắng trở về, Ỷ-Lan thần-phi làm lễ cưới cho Long-biên tứ hùng với bốn thiếu nữ. Riêng Đinh Hoàng-Nghi với thiếu nữ Chàm, vì kẻ Việt người Chàm, rồi có chuyện hiểu lầm sinh duyên tình trắc trở, Chang-Lan bỏ đi tu, khiến ngài ôm mối hận tình suốt đời. Ngài được Ỷ-Lan thần phi hỏi một thiếu nữ văn võ kiêm toàn, nhan sắc diễm lệ con gái đô-đốc Trầm Lâm tên Trần Phương-Quỳnh cho. Khi phong công thần bình Chiêm, Long-biên ngũ hùng đều được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, mỗi vị chỉ huy một hiệu Thiên-tử binh. Bốn vị phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu bên Tống, Long-biên ngũ hùng cùng các phu-nhân được đặt dưới quyền chỉ huy của Longthành ẩn-sĩ Tôn Đản, và phu nhân Ngô Cẩm-Thi. Năm vị lập huân công lớn, đánh chiếm 18 ải biên giới, rồi tiến lên vây Ung-châu. Khi Tống sai năm danh tướng từ Kinh Hồ giải vây Ung-châu. Năm ngài được lệnh mang quân đánh viện ở Hỏa-giáp, Đại-giáp, Ngọctuyền, phá tan năm đạo binh, giết năm tướng. Năm ngài đánh những trận rung động Trungquốc, khiến các tướng Tống đặt cho mỹ danh là Giao-chỉ ngũ kiêu (năm con cú của đất Giao-chỉ). Chiến thắng trở về cả năm được phong chức thượng tướng quân, tước hầu. Các phu nhân đều được phong quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân đánh Đại-Việt, Long-biên ngũ hùng cùng năm phu nhân tử chiến, và đều tuẫn quốc. Cả năm được phong tước đại vương, các vị phu-nhân được phong công chúa, lập đền thờ. Trải qua bao thỏ lặn, ác tà của nghìn năm, ngày nay tôi còn tìm được bốn đền thờ của các ngài Phạm Dật, Vũ Quang, Lý Đoan, Trần Ninh. Dân chúng vẫn hương khói thờ cúng vào dịp giỗ các ngài hay ngày sóc ngày vọng. Còn đền thờ ngài Đinh Hoàng-Nghi ở Ninh-bình thì không tìm được dấu vết. Có tài liệu nói rằng ngài là con cháu vua Đinh, nên đương thời Linh-Nhân hoàng thái hậu truyền tu bổ đền thờ vua Đinh, rồi ngài được phối thờ. Tôi đã hành hương đền thờ vua Đinh, nay ở thị-xã Ninh-bình; thì chỉ thấy tượng, bài vị thờ vua Đinh Tiên-hoàng, Việtvương Đinh-Liễn, thái-tử Hạng-Lang, Vệ-vương Đinh-Toàn. Còn bài vị thờ ngài thì không thấy, nên tôi không tin thuyết này. Dưới đây là tiểu chuyện các ngài. 7.1.1. Phạm-Dật (1049-1077) Tên thực là Lê Dương-Thịnh, quán làng Đông-cứu, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Vì mắt ngài hơi lé, nên bạn hữu gọi đùa ngài là Dật-lé. Phụ-thân là Lê Dương-Thái, mẫu thân là Đặng-thị Nhạn. Song thân ngài vốn là tá điền, chẳng may gặp năm mất mùa, không đủ lúa nộp tô cho chủ điền, ông phải làm lực điền cho chủ kiếm ăn. Bà thì đi ở, còn ngài thì được sư Viên-Chiếu nhận làm học trò, nuôi cho ăn học cùng với bốn người bạn là Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Vì tức giận chủ điền hành hạ cha mẹ, một đêm ngài lẻn đến nhà y, cầm dao giết cả hai vợ chồng ác nhân, rồi cải tên là Phạm Dật, trốn lên Thăng-long ăn mày. Sau ngài được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử; ngài học văn rất uyên bác, làu thông kinh-sử, giỏi võ-nghệ. Năm 1069, ngài theo vua Lý Thánh-Tông bình Chiêm. Ngài được đặt dưới quyền của Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương ngài gặp một Việt kiều tên Lê Kim-Loan, tình bạn thanh mai trúc nhã sinh ra. Hai vị hợp sức đánh giặc, lập đại công trong các trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Sau khi chiến thắng trở về ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Ngự-long; bà được Khai-Quốc vương nhận làm con nuôi, được phong nhất phẩm-phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm bên Tống, hai ngài được đặt thuộc quyền chỉ huy của Thái-tử thiếu bảo, Quảng-nguyên hầu, Phiêu-kị đại tướng quân Lưu-Kỷ, phụ trách đánh các ải Thái-bình, Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Quy-hóa. Các tướng Tống như Giám-áp trại Quách Vĩnh-Nghiêm, Quản-hạt Ngũ Cử, Trấn Nam tướng quân Thái Bằng; kẻ bị ngài đánh bại, kẻ bị bắt làm tù binh, người bị giết. Có lần đóng quân ở làng An-cư, sai quân giúp dân khẩn hoang, trừ ác thú. Sau đó ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản và phu-nhân Ngô Cẩm-Thi tiến lên đánh Ung-châu, rồi đem quân chặn viện binh Tống, giết năm tướng Tống. Chính ngài cùng phu nhân đã cùng với Đô-thống Trần Ninh và phu nhân đồng chế ra loại Lôi-tiễn, gây kinh hoàng cho quân Tống. Sau chiến thắng, triều đình nghị công tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong ngài là Long-nhương thượng quân, tước Thiện-Tâm hầu. Bà được phong Thiên-ân Nhu-mẫn quận-chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân sang đánh Đại-Việt. Hai ngài phụ trách giữ phòng tuyến cuối cùng bảo vệ Thăng-long. Chiến lũy Như-nguyệt bị phá, quân Tống tràn về Thăng-long như nước vỡ bờ. Hai ngài chỉ huy hiệu binh Ngư-long dưới quyền chỉ huy của công chúa Thiên Ninh, đánh bật quân Tống về Bắc Như-nguyệt. Cuối trận đánh cả hai ngài đều tuẫn quốc. Triều đình truy phong ngài là Long-biên, Vũliệt, Chiêu-thắng đại vương, bà được phong Thiên-ân, Nhu-mẫn, Hồng-đức công chúa; truyền lập đền thờ ở đình xã An-cư tục gọi là làng Gờ, tổng Đông-bối, huyện Linh-giang, nay là huyện Linh-thanh, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép. Việt-Nam, Hải-dương tỉnh thần tích. Trung-quốc: a/. Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, Tống-triều công thần bi ký, Ung-châu kỷ-sự, Quảng-Tây địa dư ký, Quảng-Tây chư thần ký, Hy-Ninh hận sự bi ký, Thần-tích Hoả-giáp ngũ đại vương từ, b/. Thái-bình phong vật chí, Hoành-sơn sơn xuyên phong vực, Ôn-nhuận sự tích, Quý-hóa địa dư chí. 7.1.2. Vũ Quang (1050-1077) Tên thực là Vũ Thành, bản tính ngài hiền hậu, nhưng rất can đảm. Hồi thơ ấu các bạn gọi đùa ngài là Quang con gái. Phụ thân ngài tên Vũ An, thân mẫu tên Trần-thị Nữ. Phụ thân ngài mất khi ngài mới bẩy tuổi. Mẫu thân không có tiền chôn cất phải vay tiền của một phú gia. Vì không trả được nợ, bà phải làm lẽ phú gia để trừ nợ. Nhưng ông nhà giầu chỉ thích mẹ, mà không ưa con, nên đánh đập ngài hoài. Sư Viên-Chiếu làng Thổ-lội (nay là Phú-thị, huyện Gia-lâm, Hà-nội) đem ngài về nuôi dạy cùng bốn người bạn là Phạm Dật, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Ngài lầu thông binh pháp, giỏi võ nghệ. Sau được Khai-Quốc vương nhận làm đệ tử. Năm 1069, Đại-Việt đem quân bình Chiêm, ngài được vua Thánh-tông cho tòng chinh. Ngài được đặt dưới quyền Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương, ngài gặp một Việt kiều tên Võ Kim-Liên, con gái danh-y Võ Thương. Tình bạn thanh mai trúc nhã sinh ra. Hai ngài cùng sát cánh trong các trận đánh Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang; lập đại công. Thắng Chiêm, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Quảngthánh. Bà được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch châu bên Tống. Hai ngài được đặt thuộc quyền Thái-tử thiếu bảo, Môn-châu hầu, Trấn Bắc thượng tướng quân Hoàng Kim-Mãn, phụ trách đánh ải Vĩnh-bình. Tướng trấn thủ Vĩnh-bình là Tô Tá bị ngài bắt sống. Sau khi chiếm Vĩnh-bình, hai ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, đem quân tiến về Ung-châu. Trong trận Ung-châu, hai ngài phụ trách đem hiệu Thiên-tử binh Quảng-thánh chặn viện quân đến từ Quế-châu. Hết giặc trở về, triều đình nghị công, tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong ngài là Hổuy thượng tướng quân, tước Thành-Tâm hầu, bà được Trang-hòa, Thiên-đức quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh sang Đại-Việt, vượt sông Như-nguyệt sắp tới Thăng-long. Hai ngài đem quân đánh cảm tử chặn giặc. Bị chém một đao gần đứt cổ, ngài ôm đầu chạy về đến xã A-hộ, huyện Lục-ngạn, trấn Kinh-Bắc; gặp một người đàn bà, ngài hỏi trong cơn mê loạn: Đầu bị chém có sống được không? Người đàn bà đáp: E không sống được. Ngài buông kiếm, buông đầu, ngã ngựa, tuẫn quốc. Phu-nhân chỉ huy hậu quân rút về đến nơi, thấy ngài chết rồi, cũng rút kiếm tự tử theo. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong ngài là Tri-tôn đầu thượng tướng quân, quả cảm Hùng-vĩ đại vương. Phu nhân được phong Trang-hòa, Thiên-đức, Trinh-tĩnh côngchúa, truyền lập đền thờ. Hiện đền thờ hai ngài vẫn còn, mang tên đền Bảo-linh, ở xã Ahộ, huyện Lục-ngạn, nay là xã Biện-sơn, huyện Lục-ngạn, tỉnh Hà-Bắc. Trên đây tôi thuật theo Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký và Tống-triều bi thần ký. Còn Lục-Nam địa dư chí chép rằng ngài được vua Lý gả công chúa cho. Khi công chúa nghe tin ngài tuẫn quốc, thì tự tử theo. Tài-liệu ghi chép. Việt-Nam, Lục-Nam địa chí. Trung-quốc: a/. Xem Phạm-Dật . b/. Vĩnh-bình sơn xuyên phong vực chí, Vĩnh-bình chư thần chí. 7.1.3. Đinh Hoàng-Nghi (1051-1077) Ngài con của Tể-tướng Đinh Nho-Quan triều đình Đại-Nam (Nùng Trí-Cao), thân mẫu là Dương Hồng-Hạnh. Hồi còn niên thiếu, người ngài hơi thấp, nên bạn bè gọi đùa là Nghi-lùn. Trong trận đánh cuối cùng ở Côn-luân phố giữa quân Tống với quân Đại-Nam. Đại-Nam bị bại, bà Hồng-Hạnh tuẫn quốc. Đinh Nho-Quan lưng đeo con trai duy nhất phá vòng vây, chạy về làng Thổ-lội. Nho-Quan được sư Viên-Chiếu chữa trị. Sau khi vết thương lành, Nho-Quan trao đứa con nhờ Viên-Chiếu giữ dùm, để đi cứu bạn hữu. Viên- Chiếu đặt cho đứa trẻ đó cái tên Hoàng-Nghi, ngài nuôi dạy cùng bốn trẻ khác là Phạm Dật, Vũ Quang, Lý Đoan, Trần Ninh. Lớn lên Hoàng-Nghi được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Ngài học một biết mười, lầu thông kinh, sử, tử tập, võ nghệ cao cường, mưu thần chước thánh. Năm 1069, vua Lý Thánh-tông bình Chiêm, ngài được tùng chinh, đặt đưới quyền Trung-Thành vương. Sau khi thắng trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được lệnh trợ chiến Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn ở Nam-giới để đánh Bố-chánh. Trong trận này ngài gặp một cô gái Chàm mang tên Câu-thi Lị-ha-thân Bài-ma-la Nangchang-Lan (Sri Varman Nangchanglan) kết bạn thanh-mai trúc nhã. Vì ngài lập đại công trong các trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang, ; chiến thắng trở về ngài được phong tước Bá, lĩnh chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Quảng-vũ. Vì vấn đề kẻ Việt, người Chàm, rồi sinh hiểu lầm đưa đến Chang-Lan bỏ đi tu, làm ngài ôm hận suốt đời. Ngài được Ỷ-Lan thần phi hỏi cho một tiểu-thư sắc nước hương trời con gái đô-đốc Trần Lâm tên Phương-Quỳnh. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Liêm, Khâm châu bên Tống. Ngài được đặt thuộc quyền của Thái-tử thái phó, Trấn-võ thượng tướng quân, Tô-mậu hầu Vi Thủ- An. Ngài cùng phu nhân phụ trách đánh ải Cổ-vạn. Các tướng Tống như Tả-lãnh vệ đại tướng quân Chu-Am, Bát-tác sứ Toàn-Hưng, Chiêu-thảo sứ Nùng Hiệp-Thành, bị hai ngài giết chết. Hạ ải xong, ngài đem quân chặn đánh viện quân giặc từ Khâm-châu tiến về cứu Tây-bình, Cổ-vạn, rồi tiến về vây Ung-châu. Tiếp theo, Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản giao cho hai ngài đem quân trấn ở đỉnh Hỏa-giáp, đánh viện binh Tống tiếp cứu Ung-Liêm. Sau chiến thắng, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hâu phong ngài là Quán quân thượng tướng quân, tước Chính-Tâm hầu. Phu nhân được phong Tuyên-đức, Thạc-hòa quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân trấn tại Chi-lăng, khiến quân Tống không tiến được, phải đi vòng sang vùng Tam-đảo. Khi quân Tống tiến đến Như-nguyệt, quân của ngài mất đường về. Ngài cùng phu nhân rút vào rừng kháng chiến đánh tập hậu. Nhận lệnh phò mã Thân Cảnh-Long, ngài cùng phu nhân vượt biên đánh cảm tử, đốt lương quân Tống ở Liêm-châu. Cả hai ngài đều tuẫn quốc trận này. Quách thị Nam-chinh chép thêm rằng: Khi ngài và phu nhân tuẫn quốc, chính Nang-chang-Lan bí mật đem xác về Trường-yên (Ninh-bình) chôn trong một ngôi chùa, không rõ chùa nào? Hết giặc, triều đình phong ngài là Hiển-uy, Trung-nghĩa, Duệ mưu đại vương phu nhân được phong Nghi-hòa, Tuyên-đức, Trang-duệ công chúa truyền lập đến thờ ở vùng Nho-quan, Trường-yên, ngày nay là Ninh-bình. Chúng tôi không tìm ra di tích đền này. Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ ký chép thêm rằng ngài được Linh-Nhân hoàng thái hậu yêu thương như con. Khi ngài tuẫn quốc, thái-hậu khóc đến bỏ ăn bỏ ngủ. Một hôm ngài hiện về trong giấc mộng nói với Hậu rằng: Ngài không phải là người thường, tiền thân ngài là con của Lạc-long quân vâng lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế đầu thai làm Việtvương Đinh Liễn đánh 12 sứ quân. Nay lại đầu thai đánh Tống. Vì vậy Linh-Nhân hoàng thái hậu sai tu sửa đền thờ vua Đinh ở Trường-yên, trong đền thờ cả Việt-vương Đinh Liễn, tức là ngài. Đền nay vẫn còn ở thị-xã Ninh-bình. Tôi không mấy tin thuyết này. Tài-liệu Việt-Nam: không. Trung-quốc: a/. Xem Phạm-Dật ở trên . b/. Khâm-châu địa dư chí, Hổ-môn chư thần ký, Cổ-vạn sơn xuyê cương vực ký. 7.1.4. Lý Đoan (1051-1077) Ngài tên thực là Lê Phúc, thân phụ tên Lê Mậu, thân mẫu tên Trần-thị Nương. Nguyên ông Lê Mậu là thợ rèn, ứng nghĩa tòng quân, được xung vào đạo Thiên-tử binh Đằng-hải. Trong cuộc khởi binh của Nùng Trí-Cao, tướng Lý Nhân-Nghĩa được lệnh Khai- Quốc vương đem quân giúp Trí-Cao, vượt biên đánh trại Như-hồng, ông tử trận. Triều đình phủ tuất ruộng cho bà Nương nuôi con. Ngài được ban quốc tính Lý. Mấy năm sau bà Nương chết, làng giao ruộng cho sư Viên-Chiếu trông coi nuôi dạy ngài cùng với Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Trần Ninh. Ngài rất giỏi y lý, nhưng bạn hữu gọi đùa ngài là lang-băm. Sau ngài trở thành thầy thuốc danh tiếng. Ngài lại được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Năm 1069, ngài theo vua Lý Thánh-Tông bình Chiêm, đặt trực thuộc Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Sau khi đánh chiếm Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được lệnh trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Lý-Chiêu-Văn đánh Bố-chánh. Trong trận này ngài gặp một thiếu-nữ Việt kiều tên Trần Ngọc-Liên. Hai vị kết bạn thanh-mai trúc nhã, sát cánh đánh giặc lập đại công trong các trận Bố-chánh, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Khải hoàn, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổngnhật, phu nhân được phong Liên-hương, Nhu-mẫn quận chúa. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch của Tống; hai ngài được đặt thuộc quyền chỉ huy của Kiểm-hiệu tư-không, Thượng-thư hữu bộc-xạ, Khu-mật viện sứ, Phụ-quốc đại tướng quân, Nghĩa-dũng quốc công tức phò-mã Thân Cảnh-Long. Hai ngài được trao nhiệm vụ đánh ải Tây-bình. Tây-bình bị hạ, tướng trấn thủ là Chiêu-thảo-sứ Nùng Toàn-An bỏ chạy, Trấn-viễn đại tướng quân Lưu Khải bị bắt. Tiếp theo hai ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, đem hiệu Thiên-tử binh Bổng-nhật vây Ung-châu, chặn đánh viện binh Tống ở núi Hỏa-giáp. Sau trận này ngài có đề nghị với nguyên-soái Lý Thường-Kiệt nên đem quân vượt Ngũ-lĩnh chiếm Trường-sa, nhưng không được chấp thuận. Chiến-thắng trở về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong cho ngài chức Hoài-hóa thượng tướng quân, tước Trực-Tâm hầu. Phu nhân được phong Thiên-y, Đại-từ quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân sang đánh Đại-Việt, hai ngài được lệnh trấn vòng đai thứ ba, tại Yên-dũng, bảo vệ Thăng-long. Khi danh tướng Yên Đạt, Khúc Chẩn, phá vỡ chiến lũy Phú-lương, công chúa Động Thiên, phò mã Hoàng Kiện tuẫn quốc. Quân Tống như nước vỡ bờ tấn công Yên-dũng. Ngài cùng phu nhân dùng Ngư-binh đánh tan quân Tống, chiếm lại chiến lũy Phú-lương. Trong trận đánh, dù bị thương, hai ngài vẫn cương quyết chiến đấu. Đạt thắng lợi, hai ngài mới tuẫn quốc. Hết giặc, ngài được phong Thiên-y, Ưu-dũng, Chí-nhân đại-vương. Phu nhân được phong Nam-thiên, Liên-hoa, Đoan-nhu công-chúa. Truyền lập đền thờ. Đền thờ hai ngài ở làng Cẩm-chàng, xã Bồng-lai, huyện Quế-dương nay là huyện Quế-võ tỉnh Hà-Bắc. Tài liệu Việt-Nam, Bắc-ninh tỉnh thần chí. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Tây-bình chư thần chí, Tây-bình sơn xuyên cương vực chí. 7.1.5. Trần Ninh (1052-1077) Thời niên thiếu, da ngài hơi đen, nên bạn hữu gọi đùa là Ninh-đen hay Ninh Mai Hắc-đế. Thân-phụ tên Trần Công-Bình, thân mẫu tên Lưu Tuệ-Trinh, quán làng An-mỹ, tổng Dương-quang, huyện Gia-lâm, lộ Kinh-Bắc. Ông Trần Công-Bình nguyên giữ chức thủ-bạ ở làng Thổ-lội. Trong một lần đi qua bờ sông Nguyệt-đức (sông Cầu), đêm bà mơ thấy một vị sứ giả của Ngọc-Hoàng thượng đế giáng xuống nói rằng : Vợ chồng nhà ngươi ăn ở phúc đức, nên Ngọc-Hoàng truyền cho con trai thứ chín của Lạc-Long quân giáng sinh làm con; sau sẽ làm đại tướng trấn thủ Nam-phương. Trở về bà mang thai, đẻ ra ngài. Khi ngài mới bẩy tuổi, thì song thân đều qua đời. Sư Viên-Chiếu đem về làng Thổ-lội nuôi dạy cùng với Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan. Lớn lên ngài được Khai- Quốc vương thu làm đệ tử. Ngài học văn, luyện võ đều thành. Ngài có biệt tài leo cây nhanh như vượn, lặn dưới nước như cá. Trong lần bình Chiêm (1069), vua Lý Thánh-tông cho ngài tùng chinh, đặt dưới quyền Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Sau khi lập công trong trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được gửi đến trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Chiêu-văn ở trận Nam-giới. Tại trận đánh Bố-chánh ngài gặp một thiếu nữ Việt-kiều tên Trần Ngọc-Hương. Hai ngài kết bạn thanh mai trúc nhã, cùng sát cánh đánh giặc. Hai ngài đã lập đại công trong trận Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Chiến thắng trở về, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải. Bà được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Tống, chiếm châu Khâm, Liêm, phá châu Ung, Dung, Nghi, Bạch; hai ngài với hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải được đặt thuộc quyền chỉ huy của Kiểm-hiệu tư không, Thượng-thư hữu bộc xạ, Khu-mật viện sứ, Phụ-quốc đại tướng quân, Nghiã-dũng quốc công tức phò mã Thân Cảnh-Long. Hai ngài có nhiệm vụ đánh ải Lộc-châu. Lộc-châu bị phá, tướng trấn thủ là Chiêu-thảo sứ Nùng Tông-Đán bỏ chạy. Tiếp theo, ngài nhận lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, mang quân tiến về đánh Ungchâu, rồi đem quân chặn đánh viện binh ở núi Đại-giáp. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài lĩnh ấn Vân-ma thượng tướng quân tước Nhu-Tâm hầu. Phu-nhân được phong Thiên-hương, Thuần-mẫn quận chúa. Khi Quách Qùy, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt. Hai ngài theo Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân, Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn đánh trận Kháo-túc. Cả hai ngài đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình phong ngài là Anh-duệ, Chiêuthắng, Trung-liệt, Nguyệt-đức Long-vương. Phu nhân được phong Trang-duệ, Thuần-mẫn, Thiên-hương công chúa; truyền lập đền thờ ở bờ sông Nguyệt-đức, thuộc hai xã Chân-hộ, Hộ-trung huyện Yên-phong tỉnh Bắc-ninh, nay là tỉnh Hà-Bắc. Trên đây tôi thuật theo Quách-thị Nam chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký và Tống triều công thần bi ký. Còn tài liệu Việt thì chép giản dị rằng: Đền bên sông Nguyệtđức xã Chân-hộ, Hộ-trung huyện Yên-phong tỉnh Bắc-ninh thờ Thủy-thần thủy tộc Longvương. Nguyên thần là con Lạc-Long quân. Đền còn thờ hai vị thần nữa là Hoàng-Hà đoan khiết phu nhân, và Tam-giang công chúa. Tài liệu Việt-Nam, Đại-Việt địa dư chí, Bắc-ninh tỉnh địa dư, Bắc-thành địa dư chí lục, Đại-Nam nhất thống chí, Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Lộc-châu sự tích, Lộc-châu cương vực chí. 7.2. Tây-hồ thất kiệt Tây-hồ thất kiệt là bẩy đại-tướng quân thời vua Lý Thánh-tông, Lý Nhân-tông. Vì hoàn cảnh nhà nghèo khó, cả bẩy vị đều sống lang thang ở Thăng-long; khi thì quét nhà, rửa chén cho những tửu lầu ở đế đô; khi thì làm mướn cho ngư-dân quanh sông Hồng, hồ Tây. Có lúc nghèo túng quá, cả bẩy vị đều đi ăn mày, móc túi, ăn cắp vặt. Duyên may đến, bẩy vị được Minh-Không bồ-tát thu làm đệ tử, rồi đem gửi cho hoàng-tử Lý Chiêu- Văn nuôi. Hoàng-tử Chiêu-Văn là con trai Khai-Quốc vương. Một dịp may đến nữa bẩy vị lại được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Về văn, các ngài chỉ học đủ đọc sách, nhưng về võ, các ngài luyện tập được bản lĩnh tối cao. Trong thời gian ở hồ Tây, bẩy ngài luyện được phép lặn dưới nước như giao-long. Một cơ duyên khác, bẩy vị gặp một thiếu nữ tên Lê-thị Yến-Loan, được nhận làm em nuôi. Khi Yến-Loan được phong làm Ỷ-Lan phu nhân, bà đem tài bẩy ngài tâu lên vua. Vua ban cho mỹ hiệu là Tây-hồ thất kiệt. Bẩy ngài là những người đầu tiên chế ra bánh tôm. Sau này mang tên bánh tôm Tây-hồ, mà bất cứ người Việt nào cũng từng nếm qua. Nơi mà thời thơ ấu, năm ngài lưu ngụ ăn mày, nay nằm khoảng từ đền Trấn-vũ tới đê Yên-phụ. Thời gian này Tây-hồ thất kiệt thu dụng 500 thiếu niên cùng khổ, ăn mày, đem về nuôi dạy, khiến cho họ có bản lĩnh bơi lội dưới nước như rái cá, rất giỏi thủy chiến, được vua Thánh-Tông ban cho mỹ hiệu Giao-long Tây-hồ. Năm 1069, cả bẩy ngài với đội Giao-long Tây-hồ đều theo vua Lý Thánh-tông bình Chiêm; từng lập công lớn trong trận Nam-giới, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Khải-hoàn trở về cả bẩy ngài đều được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống. Mỗi ngài chỉ huy một hiệu Thiên-tử binh. Ỷ-Lan thần-phi cưới cho bẩy ngài bẩy tiểu thư văn-võ toàn tài, đệ tử của Lý Thường-Kiệt, để phu thê có thể cùng nhau phò tá xã-tắc. Năm 1075, trong cuộc vượt biên đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch bên Tống; bẩy ngài lập công lớn. Trở về, bẩy ngài đều được phong đại-tướng quân, tước hầu. Bẩy phu-nhân được phong quận-chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt mang quân sang đánh Đại-Việt. Bẩy ngài cùng bẩy quận-chúa đánh những trận kinh thiên động địa, nên trong Quách-thị Nam chinh, người Tống gọi bẩy ngài là Giao-long thất quái. Trong Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký gọi bẩy ngài là Giao-chỉ thất long. Bẩy ngài và bẩy phu nhân đều tuẫn quốc trong cuộc kháng Tống. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong bẩy ngài tước đại-vương, các phu-nhân được phong tước quận chúa, truyền lập đền thờ. Trải qua nghìn năm, ngày nay đền thờ các ngài vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói vào ngày giỗ, ngày sóc, ngày vọng. Dưới đây là tiểu chuyện các ngài: 7.2.1. Trần-Di (1051-1077) Thủa niên thiếu dáng người ngài gầy, mà cao, nên còn có tên là Di-sậy. Phụ thân tên là Nguyễn Giang-Hồng, mẫu thân tên Trần-thị Yến. Ông bà làm nghề đánh cá ở xã Mộ-đạo, huyện Vũ-tiên, phủ Kiến-xương. Nay là huyện Vũ-thư, tỉnh Thái-bình. Ông bà ngoại của ngài không có con trai, nên nuôi ngài như con. Vì vậy ngài mang họ Trần. Năm ngài lên tám tuổi, song thân đi đánh cá, gặp bão thuyền lật, cả hai đều qua đời. Ngài lưu lạc theo thuyền buôn lên Thăng-long. Tại Thăng-long ngài gặp sáu người đồng cảnh mồ côi, kết bạn với nhau, sau vua Lý Thánh-tông ban cho bẩy ngài mỹ hiệu là Tây-hồ thất kiệt. Tương truyền Tây-hồ thất kiệt có tài lặn dưới nước hàng giờ, hai tay không bắt được cá, và chạy nhanh hơn ngựa. Ngài lớn tuổi nhất trong Tây-hồ tất kiệt. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, Tây-hồ thất kiệt lập công lớn ở trận Nam-giới, Nhật-lệ, Pandurango. Trở về, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vũ-thắng. Ỷ-Lan thần phi cưới cho ngài một tiểu-thư sắc nước hương trời, văn võ kiêm toàn tên là Bùi Phương-Lý, cháu của quan Văn-minh điện đại-học sĩ Bùi Hựu. Trong cuộc Bắc phạt năm 1075, ngài cùng phu-nhân chỉ huy hiệu Vũ-thắng, phụ trách đánh ải Thiên-long. Đây là ải kiên cố nhất, quân phòng thủ cũng tinh nhuệ nhất. Hai ngài phải đánh hai ngày mới hạ được, tướng trấn thủ là Giám-áp Phong Hiển bị bắt. Sau khi hạ Thiên-long, hai ngài được lệnh đánh Nghi-châu. Nghi-châu bị hạ trong năm ngày. Tín-Nghĩa vương lại ra lệnh cho hai ngài đem quân tiến về đánh Ung-châu. Chiến thắng trở về, ngài được phong chức Quy-đức đại tướng quân, tước Hư-Tâm hầu. Vì phu-nhân có theo trong quân trợ chiến, nên được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Qùy, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân sang đánh Đại-Việt. Ngài được lệnh trấn ở phòng tuyến Vạn-xuân. Quách-Quỳ dùng cách đánh biển người. Ngài cùng phu nhân tuẫn quốc. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong ngài là Nhân-dũng, Tráng tiết, Thần oai, Thủy-tế Long-vương, phu nhân được phong Hoà-thạc, Chí nhu, uyển mị Đông-hải công chúa, truyền lập đễn thờ tại quê ngài. Trải qua nghìn năm mưa nắng, biết bao lớp sóng phế hưng, ngày nay đền thờ ngài vẫn còn tại xã Mộ-đạo, huyện Vũ-thư, tỉnh Thái-bình. Trên đây tôi thuật theo bộ Quách-thị Nam chinh và bộ Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, Quảng-Tây địa dư chí, và một số bia đá, mộ chí của các tướng Tống. Trong khi tập Ngọc-phả cổ lục của Việt-Nam chép rằng: Ngài có tên chàng Hai, cha mẹ làm nghề đánh cá. Một hôm bà bị giao-long nổi lên quấn quanh người. Đêm đó ông mơ thấy thần tự xưng là Đệ-nhị thủy thần dưới Long-cung đầu thai, sau giúp vua giữ nước. Quả nhiên bà mang thai, rồi sinh ra một bọc. Bỗng có tiếng sét nổ lớn rồi bọc vỡ ra. Trong bọc có bé trai lớn, khắp người phủ vảy cá, phụ thân đặt tên là chàng Hai. Năm tám tuổi, chàng Hai cao lớn dị thường. Vua Lý Nhân-tông nghe tiếng mời ra cầm quân đánh Chiêm. Sau khi bình Chiêm, chàng Hai trở về quê. Một ngày trời mưa, nước lụt, chàng Hai cùng đám giao long bơi về Long-cung mất. Dân làng vớt quần áo mang về thờ. Tôi giải đoán rằng: Sau khi ngài tuẫn quốc, triều đình cho lập đền thờ, chắc có chép phả đầy đủ. Nhưng năm 1407, Trương-Phụ thu mang về Kim-lăng. Cho đến khi vua Lê dành lại độc lập, dân làng mới chép lại phả theo lối huyền thoại như trên. Tài liệu: Việt-Nam, Ngọc-phả cổ-lục. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Thiên-long địa dư chí, Khâm-châu chư thần ký, Nghi-châu địa dư chí. 7.2.2. Dương-Minh (1051-1077). Trong mười hai đại tướng quân tuẫn quốc vào thời gian kháng Tống (1076-1077) thì Trung-vũ đại tướng quân Cao-sơn đại vương được thờ nhiều nhất, cũng bị huyền thoại hóa nhiều nhất. Vào thời Trần, có khoảng 21 đền, miếu thờ ngài. Ngài là vị thần còn nhiều di tích nhất. Với hoàn cảnh khó khăn sau bao nhiêu thăng trầm, cho đến nay (1995) chúng tôi ghi lại được chín di tích như sau: 7.2.2.1. Đình thờ chung của ba xã Ôn-cập (làng Gắp), Lạc-yên (làng Khốm), Hoàng-liên (làng Sen), tổng Hoàng-vân. Nay thuộc huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-Bắc. Khi tử trận Kháo túc, ngài uất ức than rằng: Sao đã vội chết, khi chưa đền xong nợ nước. Nên sau đó ngài lại đầu thai trở lại. Bắc-giang tỉnh thần tích chép kiếp này ngài được tiên ở cầu Thấp-tần cho áo tàng hình. Ngài thường tàng hình vào công khố lấy thóc lúa, tiền bạc giúp dân nghèo. Đời vua Lý Anh-tông, nhà Tống sai Đàm Hữu-Lượng đem quân sang đánh Đại-Việt. Ngài dùng áo tàng hình vào trại bắt tướng giặc. Ngài được vua gả công chúa, cho cai quản từ sông Lục-đầu tới Cao-bằng. Sau ngài mất ở Thạch-long. Vua Lý Anh-Tông thương tiếc, cho dân ba xã trên lập đền thờ. 7.2.2.2. Đền thờ thần Cao-sơn ở xã Lương-nhàn, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-hưng. Tương truyền thần thường hiện ra làm thầy lang chữa bệnh cho dân. Có lần thần trị được hàng trăm trẻ bị bệnh đậu mùa sắp chết. Khi dân húng tiễn thầy lang về, thì thầy chỉ lên ngọn núi Lương-nhàn mà bảo: Nhà ta ở đó, rồi biến mất. Dân chúng lần theo tay thầy lang chỉ, lên ngọn núi, thấy toà cổ miếu, trong có tượng, cổ tượng có vết đao chém, thì biết là ngài. 7.2.2.3. Đền thờ Cao-sơn đại vương ở phường Đông-tác, huyện Thọ-xương, nay thuộc quận Đống-đa, Hà-nội. Tương truyền thần là một trong năm mươi con của Lạc-Long quân theo mẹ lên núi, và là vị thần thứ nhì được thờ bên tả đền Tản-viên. Đến thời vua Lý Thái-tông, thần được lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế xuống đầu thai để giúp vua đánh Tống, bình Chiêm. Trong trận đánh sông Như-nguyệt, bị chém vào cổ, thần ôm đầu chạy về quê, rồi tuẫn quốc. Hồi vua Lê Tương-Dực (1505-1516) bị binh biến phải chạy về Thanh-hóa. Vua từng đến đều cầu xin trợ giúp. Sau khi hết giặc, vua về Thăng-long, sai Đông-các đại học sĩ, Lễ-bộ thượng thư, Quốc-tử giám tế tửu Lê Tung soạn văn bia để ghi ơn. 7.2.2.4. Đình thờ ở thôn Điền-niêm, xã Đông-tạ, huyện Vĩnh-bảo, nay thuộc Hải-phòng. Tương truyền thời vua Giản-Định đời hậu Trần, dân gian có nhiều người bị bệnh đậu mùa, cầu trời; thì có thần hiện xuống cứu, xưng là Cao-Sơn đại vương. Thần trị hết bệnh cho tất cả dân chúng. 7.2.2.5. Đền thờ Cao-sơn đại vương ở thôn Bất-lự, xã Đại-sơn, huyện Tiên-du, nay là huyện Tiên-sơn, tỉnh Hà-bắc. Đền thờ thần Tản-Viên. Nhưng lại nói, đến thời vua Lý Thái-tông, thần vâng lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế đầu thai, làm tướng đánh Tống, bình Chiêm. Sau tuẫn quốc ở trận Như-nguyệt. 7.2.2.6. Đình thờ làng Cung-bái, huyện Lục-ngạn, nay là huyện Yên-thế, tỉnh Hà-Bắc. Đền thờ Cao-Sơn đại vương và Quý--Minh đại vương. Tương truyền hai thần sinh vào thời vua Hùng Duệ-Vương. Bà mẹ mơ thấy rồng phun nước vào bụng, rồi sinh ra một bọc, nở ra hai con trai. Lớn lên hai ngài đều có tài văn võ, giúp vua Hùng đánh Thục, sau tuẫn quốc ở núi Tản. Đến đời Lý, thần Cao-Sơn đầu thai xuống làm tướng giúp vua Lý Thánh-tông bình hiêm, giúp vua Nhân-tông đánh Tống, rồi tử trận ở sông Như-nguyệt. 7.2.2.7. Đình thờ làng Đông-lỗ, tổng Đông-lỗ, huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-Bắc, thờ thần tên Cao-Sơn Quý-Minh, tên thực là Dương Tự-Minh quê ở làng Quan-triều, huyện Phú-lương, tỉnh Thái-nguyên. Thần nguyên là tướng thời vua Lý Nhân-tông, tử trận sông Như-nguyệt, tái đầu thai. Nhân được thần cho chiếc áo tàng hình, ngài thường vào cung lấy trộm vàng bạc đem giúp dân nghèo. Chẳng may một lần bị bắt, đem chém. Vua Lý Anh-tông thương tình tha cho. Bấy giờ quân Tống sang xâm lược, ngài dẹp giặc có công, được vua gả công chúa Thiều-Dung cho. Ngài lại có công dẹp nội loạn Anh-Vũ, được vua gả công chúa Diên-Bình. Sau ngài cáo quan về quê ở Phú-lương. Có kẻ tố cáo ngài mưu phản, vua sai bắt chém, nhưng khi giải đến bờ sông, ngài hóa. Vua thấu tình phong làm thần, truyền cho các làng từ Cao-bằng đến sông Lục-đầu lập đền thờ. 7.2.2.8. Đền thờ ở xã Quỳnh-giản, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-dương. Thần tích giống như đền thờ xã Lương-nhàn, mục số 7.2.2.7 trên. 7.2.2.9. Đình thờ xã Đồng-áng, tổng Hoàng-vân, huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-bắc, thần tích giống như đền Đông-lỗ, mục số 7.2.2.7. trên. Tài liệu ghi chép, Việt-Nam, Đại-Nam nhất thống chí, Đồng-Khánh địa dư chí, Công-dư tiệp ký, Hoàng-Việt địa dư, Bắc thành địa dư chí lục, Hà-nội sơn-xuyên phong tục, Đại-Việt địa dư chí, Thăng-long cổ-tích khảo, Hải-dương tỉnh thần tích, Bắc-giang tỉnh thần tích, Chư dư tạp biên. Trung-quốc, a/. Như Phạm-Dật trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Như-tích sơn xuyên phong vực chí, Để-trạo địa dư chí, Dung-châu sư tích. QTNC và TTCTGCK chép ngài tên thực là Dương Minh, thân phụ là Dương Đức, thân mẫu là Vũ-thị Ngân. Vì thời thơ ấu ngài hơi ngọng, nên các bạn gọi ngài là Minh ngọng. Song thân ngài làm nghề đánh cá ở sông Lục-đầu. Khi ngài lên bẩy tuổi, thì ông bà đi đánh cá bị gió cuốn, thuyền lật chết đuối. Ngài phải ăn mày khắp nơi kiếm sống. Năm mười một tuổi (1062) ngài lưu lạc về Thăng-long, gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết bạn với nhau. Bẩy ngài cắt gỗ, dựng lều tranh ở ven hồ Tây, rồi khi thì kéo lưới mướn, khi thì mò cua bắt ốc, có khi phải xúc phân trâu bán. Một vài lần đói quá phải ăn cắp gà, móc túi. Trong thời gian này, ngài được Khai-Quốc vương phi dạy về y. Tương truyền ngài đã tìm ra phương thuốc chữa bệnh đậu mùa, bênh đậu Lào, và thường đeo túi lang thang đi trị bệnh cho dân. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, được vua Thánh-tông cho tòng chinh, ngài lập công lớn trong trận Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandu- rango. Khi luận công phong thần, ngài được phong tước bá, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Long-dực. Ỷ-Lan thần phi hỏi cho ngài một tiểu thư tài sắc vẹn toàn tên Hoàng Phương-Lý, con quan Hình-bộ thượng thư Hoàng Khắc-Dụng. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Long-dực, phụ trách đánh ải Như-tích, Để-trạo. Gặp sức kháng cự của quân Tống cực kỳ mãnh liệt, ngài và phu nhân đều bị thương, nhưng vẫn cương quyết đi tiền phong xung sát. Sau hai ngày cầm cự, Như-tích, Để-trạo thất thủ. Tướng trấn thủ là Ngũ Hoàn bị giết tại trận. Sau đó ngài được lệnh Tín-Nghĩa vương tiến đánh Dung-châu. Chỉ sau ba ngày, hiệu Long-dực hạ được thành Dung, tướng trấn thủ là Đô-giám Vương Kính tử thương. Tiếp theo ngài tiến quân về đánh Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, ngài được phong chức Trung-vũ đại tướng quân tước Kính-Tâm hầu. Phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt (1076-1077), ngài cùng phu nhân nhận nhiệm vụ đánh cảm tử vào khu đóng quân của Tống. Công tác hoàn thành, nhưng hai ngài đều tử thương. Hết giặc, triều đình nghị công, truy phong ngài là Cao-Sơn, Thiên-y, Trung-vũ đại vương. Phu nhân được phong Trang-Hòa quận chúa, truyền lập đền thờ. 7.2.3. Triệu Thu (1052-1077) Ngài quán làng Cao-xá, trấn Nghệ-an. Phụ-thân tên Phạm Dung, mẫu-thân tên Trần Ngọc-Lan. Hai vị làm nghề đánh cá, chỉ sinh được mình ngài, đặt tên là Phạm Minh. Năm ngài lên bẩy tuổi, thì song thân qua đời. Ngài được một ngư dân ở phường Thọ-xương tên Triệu Nguyên nhận làm con nuôi, vì vậy ngài mang họ Triệu. Năm ngài mười tuổi, thì nghĩa phụ chết, để lại một căn nhà nhỏ, với chiếc thuyền câu. Ngài đem sáu người bạn cùng lứa, đang lang thang vô sở bất chí quanh hồ Tây về sống chung. Được năm tháng, lý trưởng trong làng muốn chiếm đất, nhà của ngài, y vu cáo cho bẩy ngài là phường du thủ, du thực. Vì vậy ngài phải cùng các bạn sống lang thang ven hồ Tây, khi thì ăn mày, khi thì kéo lưới mướn, có khi đói quá phải đi móc túi. Năm 1069, trong cuộc bình Chiêm, bẩy ngài cùng đội Giao-long Tây-hồ được vua Thành-tông cho tùng chinh. Ngài từng lập đại công trong trận đánh Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Ca khúc khải hoàn, ngài được phong tước bá, giữ chức đôthống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Thần-điện. Ỷ-Lan thần phi cưới tiểu thư con quan Thamtri Hộ-bộ Phàn Trọng-Tân, là Phàn Phương-Liễu cho. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Thần-điện đánh úp căn cứ thủy quân, cùng xưởng đóng chiến thuyền của Tống. Hai ngài thành công thực dễ dàng, rồi kéo quân về Khâm-châu. Tín-Nghĩa vương lệnh cho hai ngài đem quân công phá Bạch-châu. Gặp sức kháng cự mãnh liệt của quân Tống, ngài dùng hỏa công đốt thành. Sau mười ngày, dân trong thành hết lương đánh lại quân Tống, mở cửa xin hàng. Hạ Bạch-châu, ngài tiến quân về công hãm Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công tâu Lê, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Tuyên-vũ đại tướng quân, tước Tín-Tâm hầu. Phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt, hai ngài tử chiến ở trận Kháo-túc, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công, ngài được truy phong Anh-văn Tuyên-vũ đại vương. Phu-nhân được phong Trang-Ninh quận chúa, truyền lập đền thờ. Hiện đền thờ ngài ở xã Cung-nhượng, tổng Thọ-xương, phủ Lạng-giang, tỉnh Bắcgiang, nay là tỉnh Hà-Bắc. Bắc-giang tỉnh thần tích chép ngài theo vua đánh Chiêm, khi trở về được ba tháng, thì Chiêm cho người sang ám sát, xác ngài trôi theo sông Thiên-đức tới làng Cung-nhượng thì dạt lên bờ. Phu nhân nghe tin này nhảy xuống sông tự tử. Tài liệu ghi chép. Việt-Nam, Bắc-giang tỉnh thần tích. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Đông-hải Hy-Ninh bản mạt, Bạch-châu địa dư chí. 7.2.4. Mai-Cầm (1052-1077) Ngài quán tại trang Vạn-phân, huyện Đông-thành, tỉnh Nghệ-an. Vì ngài có cái thẹo trên cằm, nên các bạn gọi là Cầm-thẹo. Thân mẫu ngài tên Mai Xuân-Huệ, không chồng mà chửa, lúc lâm bồn sinh ra một con trai, đặt tên là Mai-Cầm. Bà bị làng bắt khoán, nên phải bỏ quê ra đi; đến làng Đạo-sử thì được một phú ông tên Lưu Khánh cưu mang, đổi tên ngài là Lưu Hùng. Năm ngài lên chín tuổi, thì nghĩa phụ và thân mẫu bị cọp vồ chết. Các con ông Lưu Khánh đuổi ngài ra khỏi nhà. Ngài lang thang ăn mày, lưu lạc tới Thăng-long, rồi gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết thành bạn. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, ngài được vua Thánh-tông cho tùng chinh. Nhờ lập đại công trong trận đánh Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Panduran- go. Sau khi chiến thắng khải hoàn, ngài được phong tước bá, giư chức đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư con quan Kinh-lược an-vũ sứ Trường-yên tên Tôn Sơn là Tôn Phương-Đơn cho. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài được nguyên-soái Thường-Kiệt trao cho nhiệm vụ tấn công vào cửa Đông, sau đó vượt ra cửa Tây, trấn ở Tiểu-dã để chặn phục binh. Việc đánh chiếm Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu xong, nguyên soái Thường- Kiệt truyền cho ngài đem quân về đánh Ung-châu. Hạ xong thành Ung, quân Việt rút về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong ngài chức Tuyên-uy đại tướng quân, tước Từ-Tâm hầu. Phu-nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân đánh đại Việt, ngài cùng phu nhân trấn ở phòng tuyến Như-nguyệt, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công truy phong ngài là Tuyên-uy phúc tướng đại vương. Phu nhân được phong Trang-Mẫn quận chúa, truyền lập đền thờ. Trải qua gần nghìn năm, đến nay đền thờ ngài vẫn còn tại làng Đạo-sử, tổng Phálãng, huyện Lang-tài, nay là xã Phá-lãng, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Một đền thờ thứ nhì tại làng Đông-hương, tổng Phá-lãng nay là xã Phá-lãng, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Trong Bắc-ninh tỉnh thần tích lại chép rằng: Thân mẫu ngài thấy con trâu vàng tắm ở ven biển. Khi bà tới hần thì trâu biến mất, chỉ còn lại hai cái lông, bà giắt hai cái lông vào gấu áo. Hai cái lông chảy thành nước, ngấm vào bụng bà. Từ đó bà mang thai, sinh một bọc hai trai. Bị dân làng chê cười, bà bỏ làng ra đi. đến làng Đạo-sử được một phú ông cưu mang. Bà đặt tên con là Hùng và Huy. Hùng có tài võ, huy có tài văn. Sau hai anh em theo vua bình Chiêm. Thắng trận hai ông trở về làng khao thưởng quân sĩ rồi vào triều nhận chức. Khi thuyền chở hai ông đến trang Đông-sá, phủ Thiên-trường thì bị đắm. Xác hai ông trôi về quê sắc diện còn tươi. Dân làng dâng biểu về triều, vua ban cho sắc phong để thờ phụng. Tài liệu ghi chép, Việt-Nam, Bắc-ninh tỉnh thần tích. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Liêm-châu địa dư chí, Hổ-môn chư thần chí. 7.2.5. Quách Y (1052-1077) Tên thực ngài là Phạm Trọng-Y. Chính quán ngài tại đâu không rõ. Chỉ biết song thân ngài làm nghề trồng hoa. Thân phụ tên Phạm Trọng-Khâm, thân mẫu tên Quách-thị Phùng. Vì ngài hói đầu, nên bạn hữu gọi đùa là Y-hói. Khi ngài lên bẩy thì song thân cùng bị bạo bệnh qua đời. Ngài được người cậu đem về nuôi, cải tên là Quách-Y. Năm ngài mười tuổi lại đến lượt ông cậu qua đời. Ngài sống bơ vơ, ăn xin độ nhật ở Thăng-long. Sau cùng gặp sáu người đồng tuổi, đồng cảnh ngộ, kết thân với nhau làm nghề kéo lưới mướn, rửa bát. Có lúc nghèo quá phải đi ăn mày, móc túi, ăn cắp vặt để sống. Bẩy ngài sau được vua Thánh-tông ban cho mỹ hiệu Tây-hồ thất kiệt. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, ngài được vua Lý Thánh-tông cho tùng chinh, từng lập đại công trong các trận Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công phong cho ngài tước bá, giữ chức đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư Phạm Phương-Tiên con quan Kinh-lược an-vũ sứ Thanh-hóa là Phạm Nhật-Chiêu cho ngài. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh, tiến đánh thành Khâm. Thành Khâm bị hạ, ngài được lệnh tiến về công thành Ung. Sau khi chiến thắng trở về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Minh-uy đại tướng quân, tước Minh-Tâm hầu, phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân sang đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân tử chiến ở phòng tuyến Như-nguyệt, rồi tuẫn quốc. Sau khi hết giặc, triều đình nghị công phong ngài là Minh-uy Lôi-trấn đại vương, phu nhân được phong Trang- Thanh quận chúa. Hồi đem quân bình Chiêm trở về, ngài có dừng quân ở núi Lôi-sơn, xã Hữu-biệt, huyện Nam-đàn, trấn Nghệ-an. Bấy giờ trong núi có bầy sói cực kỳ hung bạo, thường hay tràn về thôn xóm bắt bắt gia súc ăn thịt. Ngài dùng đại nỏ bắn mã-não, hoàng thạch giết sạch bầy sói. Nên dân chúng lập đền thờ sống ngài. Sau khi ngài tuẫn quốc, triều đình ban ruộng cho dân làng để tiếp tục hương khói. Cho đến nay, gần nghìn năm trôi qua, đền thờ của ngài vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói quanh năm. Nhưng trong Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Hoàn vũ ký, Đại-Nam nhất thống chí thì chép giản dị rằng: Tương truyền đời Lý có tướng quân họ Phạm, không rõ tên, đem quân đi dẹp giặc, khi qua núi Hữu-biệt, huyện Nam-đàn, trấn Nghệ-an thình lình có tiếng sấm nổ, rồi ngài biến mất. Vua Lý cho lập đền thờ, gọi là đền Độc-lôi(!). Tài liệu ghi chép, Việt-Nam, Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Hoàn vũ ký, Đại-Nam nhất thống chí. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. 7.2.6. Ngô Ức (1053-1077) Ngài là hậu duệ của Ngô-vương Quyền, thuộc giòng dõi Nam-Tấn vương Ngô Xương-Văn, thế hệ thứ 5 (Quyền sinh Văn, Văn sinh Đức, Đức sinh Tuệ, Tuệ sinh Ức). Phụ thân tên Ngô Vĩnh-Tuệ, quê ở xã Đường-lâm, huyện Phúc-thọ, thuộc thị-xã Sơn-tây. Thời vua Lý Thái-tông, ông nộp đơn dự thi tuyển võ tướng. Khai-Quốc vương đọc bản cung khai lý lịch, biết ông là cháu Ngô-vương, đặc cách cho ông khỏi thi. Sau khi huấn luyện, ông được phong chức đô-thống coi hiệu binh trấn ở Tiên-yên. Tương truyền sau khi thắng quân Nam-Hán, Ngô-vương kéo quân về thăm cố-đô Cổ-loa, tu bổ cố-cung thời vua An-Dương, lại trồng một cây đa rồi tuyên chỉ rằng Khi nào cây đa này chết, thì linh khí Cổ-loan mới hết. (Cây đa này, nay là năm 1995 vẫn còn). Vì vậy một lần về Thăng-long hội quân, ông Đinh Vĩnh-Tuệ hành hương Cổ-loa, rồi qua đêm tại đây. Đêm đó ông mơ thấy vua An-Dương hội triều thần, có tứ trụ đại thần là Tể-tướng Phương-chính hầu Trần Tự-Minh, Đại-tư-mã Vạn-tín hầu Lý Thân, Đại-tư đồ Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Đại-tư-không Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung đứng hầu. Ông hành lễ với đức vua. Đức vua chỉ một võ quan bảo: - Ta thấy hung khí phương Bắc thịnh, thì thời gian con vua Bắc-đế đem quân Nam xâm đến nơi rồi. Vậy người hãy mau đầu thai để bảo vệ Viêm-bang. Viên võ quan hỏi: - Tâu bệ hạ, thần sẽ đầu thai vào cửa nào? Vua An-Dương chỉ vào Vĩnh-Tuệ: - Ta thấy Vĩnh-Tuệ là kẻ có lòng, vậy nhà ngươi hãy đầu thai làm con y. Thấy viên võ quan còn ngần ngữ, ngài dạy: - Ta chỉ bắt người xuống thế có hai mươi lăm năm mà thôi. Đừng có ngại ngùng. Hôm sau Vĩnh-Tuệ rời Cổ-loa ra đến đầu làng thì gặp một thiếu nữ xinh đẹp hái hoa sen, chẳng may bị rắn cắn vào bụng. Không kể nguy hiểm, ông ghé miệng hút nọc độc cứu cô. Người con gái thoát nạn, chắp tay: - Đa tạ tướng quân cứu mạng. Tên thiếp là Cao Tường-Vân. Tướng quân ơi! Tiểu nữ là con gái đồng trinh, thân thể chưa nhiễm bụi trần. Nay vì bị nạn, mà phải tùng quyền để tướng quân chạm vào khắp người, thì cái thân này thuộc về tướng quân vậy. Vĩnh-Tuệ bèn cưới Tường-Vân làm vợ, năm sau sinh ra một trai, đặt tên là Ngô Vĩnh-Ức. Khi Vĩnh-Ức được một năm, thì Vĩnh-Tuệ đem quân đi bắt cướp, trúng tên chết. Tường-Vân đem con về ở Nghi-tàm, ngoại ô Thăng-long làm nghề trồng hoa sống qua ngày. Năm Vĩnh-Ức bẩy tuổi, thì mẹ qua đời. Không nơi nương tựa, ngài lang thang cùng sáu người bạn,(sau là Tây-hồ thất kiệt), sống vất vưởng ở Thăng-long. Khi thì kéo lưới mướn, khi thì rửa bát, có khi phải ăn cắp vặt, móc túi kiếm sống. Vì khi cười miệng ngài hơi méo, nên bạn hữu họi ngài là Ức-méo. Rồi duyên may đưa đến, bấy ngài gạp Minh-Không thiền sư, Khai-Quốc vương, đgợc thu làm đệ tử, lại được Ỷ-Lan phu nhân nhận làm em nuôi. Năm 1069, vua Thánh-tông đem quân bình Chiêm, Tây-hồ thất kiệt được tùng chinh, và được đặt dưới quyền Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn. Sau chiến thắng Nam-giới, Bố-chánh, ngài lại tham dự trận Nhật-lệ. Trong trận này ngài là người duy nhất bị thương. Tiếp theo ngài dự trận Thi-nại, Pandurango. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư Quách Phương-Dược, con quan Lễ-bộ thượng thư Quách Sĩ-An cho ngài. Trong những ngày cùng Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt luyện quân, chính ngài là người chế ra loại tên lửa mang theo ống nứa trộn nhựa cháy, mã não, hoàng thạch để đốt thành địch. Đây là sáng kiến đầu tiên, rồi sau này Phạm Dật, Trần Ninh mới chế loại Lôi-tiễn gây kinh hoàng cho quân Tống trong trận Côn-lôn, Đại-giáp, Ung-châu. Trong cuộc Bắc chinh năm 1075, ngài cùng phu nhân đem hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược tham dự trận đánh Khâm-châu, rồi tiến về đánh thành Ung. Ca khúc khải-hoàn, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Định-viễn đại tướng quân, tước Huệ-Tâm hầu. Phu nhân được phong Trang- Ninh quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt. Ngài cùng phu nhân tử chiến ở Vạn-xuân, Kháo-túc, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công, truy phong ngài là Định-viễn Lôi-thần đại vương, phu nhân được phong Trang-duệ, Ninh-tĩnh quận chúa; truyền phối thờ ở đền Kê-lạc cùng với tiên vương Ngô triều. Trải bao lớp sóng phế hưng, nắng mưa, nay (1995) đền Kê-lạc vẫn còn tại xứ Kêlạc, xã Nghĩa-chế, huyện Tiên-lữ, tỉnh Hưng-yên; nay là huyện Phù-tiên, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép Việt-Nam, Hưng-yên tỉnh nhất thống chí, Bắc-kỳ giang-sơn cổ-tích danh thắng bị khảo, Các tỉnh địa dư chí, Đồng-khánh địa dư chí lược. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. 7.2.7. Tạ Duy (1053-1077) Nguyên quán ngài tại An-lãng, thuộc Cửu-chân, trấn Thanh-hóa. Phụ thân tên Tạ Trọng-Nguyên, mẫu thân tên Lưu Huyền-Mẫn. Ông là một thầy đồ dạy học thuộc lộ Kinh- Bắc thời vua Lý Thái-tông. Ông bà sinh được hai con trai, con lớn tên Tạ Duy hay Tạ ĐộĐàm, con nhỏ tên Tạ Giang-Ba. Vì ông bà ngoại không có con, nên Tạ Giang-Ba mang họ ông ngoại, cải tên là Lưu Ba. Năm Tạ Duy tám tuổi, thì cha mẹ bị đắm thuyền chết hết. Hai anh em phải ở với người thím họ. Gặp bà thím ác độc đánh đập, hành hạ khổ sở, hai anh em bỏ nhà ra đi, và lạc nhau. Tạ Duy lên Thăng-long, vô sở bất chí, gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết bạn với nhau, sau là Tây-hồ thất kiệt. Bẩy người lang thang ở Thăng-long, khi thì kéo lưới mướn, khi thì rửa bát. Có khi túng thiếu quá, phải ăn cắp vặt, móc túi kiếm sống. Vì dáng người ngài hơi thấp, nên các bạn gọi là Duy-lùn. Trong dịp bình Chiêm năm 1069, vua Thánh-tông cho Tây-hồ thất kiệt tòng chinh, đặt dưới quyền Tín-Nghĩa vương Lý Hoằng-Chân. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, ngài được phong tước bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vạn-tiệp. Ỷ- Lan thần phi hỏi tiểu thư Lý Phương-Quế, con gái đại đô đốc Lý Kế-Nguyên cho ngài. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vạn-tiệp đánh thành Khâm-châu, rồi tiến về công hãm Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong ngài chức Ninh-viền đại tướng quân, tước Dũng-Tâm hầu, phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân sang đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân tử thủ phòng tuyến sông Như-nguyệt, cả hai tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình truy phong ngài là Ninh-viễn Trung-chính đại vương, phu nhân được phong Trang-hòa Ninh-tĩnh quận chúa, truyền lập đền thờ. Hiện nay đền thờ hai ngài vẫn còn tại xã Lưu-xá huyện Hưng-nhân, thuộc huyện Hưng-hà, tỉnh Thái-bình. Hưng-yên tỉnh nhất thống chí ghi giản dị: Anh là Lưu Độ-Đàm, em là Lưu Ba có công đánh Tống, bình chiêm, được phong chức Tiết-độ sứ. Sau khi mất được dân chúng lập đền thờ, mộ cũng chôn tại đấy. Trong đền thờ có tấm hoành phi sơn son thiếp vàng khắc bài thơ của vua Lê Hiển-Tông đề, nhắc công lao hai vị. Nhiều người lầm Lưu Độ-Đàm tức Ngô Ức với Lưu Khánh-Đàm sau này. Về Lưu Khánh-Đàm, Đại-Việt sử ký toàn thư, Lý kỷ, Nhân-tông bản kỷ chép rằng niên hiệu Thiên-phù Khánh-thọ, tháng 12 (DL 1228) vua Lý Nhân-tông sắp băng, tuyên triệu Thái-úy Lưu Khánh-Đàm vào cung để thác việc lập thái tử Dương-Hoán nối ngôi, lại cũng ghi Khánh-Đàm mất năm Thiên-chương Bảo-tự thứ tư (DL.1136). Tài liệu ghi chép. Việt-Nam, Hưng-yên tỉnh nhất thống chí, Đại-Việt sử ký toàn thư ( Lý kỷ, Nhân-tông kỷ). Trung-quốc a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. Trên đây, tôi đã dẫn quý độc giả lướt sơ qua trang sử anh hùng thời Tiêu-sơn. Tôi xin ngừng ở đây, và mời quý độc giả đi vào hào quang của tổ tiên ta để lại, trong bộ Nam quốc sơn hà này. Viết tại Pontault Combault, Pháp-quốc, mùa hè, tháng sáu, năm Ất-hợi (1995). Yên-tử cư-sĩ Trần-Đại-Sỹ.
    3 likes
  2. Suy nghĩ về bài viết: Nhân chuyện cái “cung tên” siêu hình của phong thủy… Tiếp theo. Ông Đỗ Kiên Cường cho rằng: Phong thủy không phải là một khoa học, mà nó chỉ giống khoa học. Hay nói theo như ông Nguyễn Văn Tuấn là "giả khoa học" và tôi đã biện minh (Xin xem đường link ở bài trên). Nhưng tôi quan niệm rất rõ ràng: Khoa học và phi khoa học, không có vấn đề "hàng giả" cho một lý thuyết khoa học, hoặc một phương pháp ứng dụng sử dụng phương pháp luận của nó, khi mà phong thủy đã ra đời từ khi nhân loại chưa có khái niệm khoa học. Chúng ta quán xét lập luận của ông Đỗ Kiên Cường trong đoạn tiếp theo. Qua lập luận cứ trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng tác giả áp đặt một cách chủ quan và không cần chứng minh luận điểm của minh - và có thể của rất nhiều người khác trong quá khứ, cũng có ý tưởng tương tự. Chúng ta xem lại những luận cứ chủ yếu của tác giả qua những đoạn trích lại một lần nữa sau đây: Tôi tin rằng, bất cứ ai - có tư duy khoa học nghiêm túc - chỉ cần xem một cuốn gần như nhập môn phong thủy là cuốn Bát trạch Minh Cảnh với một thái độ khách quan, thì sẽ nhận thấy ngay tính qui ước và sự thể hiện một qui luật khách quan rất chặt chẽ trong phương pháp ứng dụng này- Ở đây tôi chưa bàn đến nó đúng hay sai, có cở sở thực tế nào để các qui ước đó phản ánh... - chính tính quy ước này đã chứng tỏ nó không thể là một "nhận thức thiên về trực quan, cảm tính do hiểu biết về tự nhiên và xã hội còn khá sơ khai". Chính tính qui ước chặt chẽ này, chứng tỏ nó phải phản ánh một qui luật tự nhiên mà nó nhận thức được. Thí dụ: Người nam sinh năm 72 phi cung Khảm, 71 phi cung Khôn....vv...Chưa bàn đến tại sao lại có qui ước vậy. Nếu xét toàn bộ nội dung chỉ Bát trạch Minh cảnh thì tính quy ước có hệ thống , qui luật và rất chặt chẽ. Do đó, nếu chỉ là một nhận thức trực quan, cảm tính thì không thể tự ý đặt ra một qui ước và có sự ứng dụng hiệu quả trải hàng Thiên niên kỷ như vậy. Tác giả cho rằng: "bản thân học thuyết âm dương ngũ hành cũng chỉ là một học thuyết duy vật thô sơ và biện chứng chất phác". Quan niệm này của tác giả không hề mới. Nó là nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu từ những năm 60 của thế kỷ trước về thuyết Âm Dương Ngũ hành và tôi đã được đọc nhiều lần, từ hồi còn niên thiếu. Nhưng có thể nói rằng: Đó chỉ là cách nhìn thô sơ và chất phác về học thuyết này. Bởi vì, nếu nó thật sự thô sơ và duy vật chất phác thì không thể những phương pháp ứng dụng với phương pháp luận của nó - bao trùm lên mọi lĩnh vực và xuyên qua mọi không gian văn hóa cho đến tận ngày hôm nay. Còn vấn đề mà tác giả nêu ra "Nó không có tính chất của một học thuyết khoa học theo tiêu chuẩn Popper (tự phủ định), nên sau hàng ngàn năm, về cơ bản nó vẫn không khác biệt so với gốc rễ (để so sánh, hãy xem sự khác biệt biện chứng giữa toán học thời Pytagore với toán học hiện đại)". - thì tôi cho rằng: Đây là một cách nhìn đúng với thực trạng của tất cả mọi lý thuyết khoa học hiện nay - khi tôi đang gõ những hàng chữ này và không đúng với thực trạng của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Các học thuyết khoa học hiện nay - trong lịch sử tiến hóa của văn minh nhân loại mà chúng ta nhận thức được - đang trên con đường khám phá chân lý cuối cùng và chưa đạt đến chân lý cuối cùng. Nên nó cần sự tự phủ định để phát triển. Nhưng với thuyết Âm Dương Ngũ hành lại là một học thuyết đã hoàn chỉnh với một kiến thức vượt trôi - mà sự ứng dụng với phương pháp luận của nó trải rộng khắp mọi lĩnh vực liên quan đến con người, thì cách đặt vấn đề tự phủ định là không thích hợp. Đây chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà tôi đã chứng minh. Không thể tự phủ định để này sinh một lý thuyết thống nhất thứ hai. Từ những sai lần này, tác giả cho rằng: Đó là một trong những lí do khiến các xã hội nông nghiệp phương Đông nằm trầm mặc và bất biến cả ngàn năm trong sự tự kiêu hãnh. Muốn biết âm dương ngũ hành và những học thuyết diễn dịch từ nó đã kìm hãm các xã hội phương Đông như thế nào, hãy nhớ tới trường hợp các nhà Nho thời Tự Đức. Nguy cơ mất nước đã nhãn tiền, mà họ vẫn cho rằng khoa học phương Tây chỉ là trò dâm xảo, vì tìm mãi không thấy âm dương ngũ hành đâu, nên quyết không chịu canh tân theo Nguyễn Trường Tộ! Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Vì cách nhìn nhận thô sơ và chất phác với bản chất của thuyết Âm Dương Ngũ hành, nên tác giả đã có kết luận trên. Chúng ta đều biết rằng: Trong lịch sử văn minh Đông phương , nền Lý học Đông phương - vốn được coi là của văn minh Hoa Hạ - nhưng chưa một triều đại nào ở Trung Hoa và ở các nước được coi là ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa coi thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết chính thống trong cấu trúc hình thái ý thức của xã hội Đông phương cổ đại. Và so với xã hội loài người cùng thời kỳ, nền văn minh Đông phương - vốn chỉ ảnh hưởng phần còn lại của học thuyết này - tỏ ra vượt trội so với văn minh Tấy Phương - ít nhất kéo dài đến thể ký XIV. Trài hơn 1500 năm đó, cơ cấu tổ chức, nền tảng đạo đức xã hội Đông phương cổ, tỏ ra chặt chẽ hơn hẳn tất cả các xã hội trên thế giới cùng giai đoan. Mà đến ngày nay, những nền tảng gốc rễ của cơ sỡ xã hội Đông phương cổ về các mối quan hệ con người, thể hiện trong lĩnh vực đạo đức vẫn còn phổ biến và mặc nhiên tồn tại trên thực tế. Còn những giá trị văn hóa Tây phương cổ thì đã bị biến dạng bởi sự phát triển hiện đại. Thực tế lịch sử đã cho thấy nhận xét trên của tác giả hoàn toàn không chính xác và mang tính phiến diện. Bởi vì, để một xã hội phát triển thì một giá trị văn hóa vượt trội chỉ là mộtt yếu tố cần, chứ không phải là yếu tố duy nhất. Do đó coi văn hóa nói chung là yếu tố duy nhất kìm hãm sự phát triển của xã hội nông nghiệp Đông phương tự nó đã sai lầm. Chưa nói đến tính thất truyền và không hoàn chỉnh của học thuyết này, nếu xem xét qua cổ thư chữ Hán. Còn lập luận sau đây của tác giả cho thấy tác giả không nghiên cứu sâu về Phong thủy, mà - có lẽ - tác giả đã tiếp xúc với phong thủy qua những truyền thuyết và huyền thoại, nên hiểu sai - bởi vậy, tôi không bàn kỹ - Nhưng có ý này của tác giả, tôi nghĩ cũng cần làm sáng tỏ: Tôi nghĩ rằng tác giả đã nhầm lẫn giữa tri thức phong thủy và kiến trúc xây dựng, khi viết rằng: Nhưng hãy lưu ý rằng, không cần phong thủy cũng có thể đạt được mục đích. Phương Tây đâu có phong thủy mà các công trình trường tồn? Phương Tây quả là có một tri thức kiến trúc và xây dựng vượt trội, nhưng điều đó không có nghĩa là vì nó không có kiến thức phong thủy nên nó tốt hơn. Tri thức phong thủy là một bộ môn khoa học - tôi xác định điều này và đã chứng minh trong "Hội Thảo Phong Thủy là khoa học" - nghiên cứu chuyên sâu về sự ảnh hưởng của môi trường, cấu trúc hình thể nhà cửa, thiên nhiên và vũ trụ liên quan đến con người thông qua ngôi nhà. Còn kiến trúc và xây dựng chỉ nghiên cứu về kết cấu và tính thẩm mỹ. Mặc dù cả hai đều phục vụ cho con người, nhưng đó là hai mảng kiến thức khác nhau. Nó có thể bổ sung một cách hài hòa cho nhau, chứ không hề phủ định nhau. Cho nên cấn phải hiểu rằng: Phương Tây không có kiến thức phong thủy, chứ không phải là nó không cần phong thủy. Người ta có thể bằng kinh nghiệm để xây nhà sao cho thuận tiện với cuộc sống của mình, như tác giả viết: Và chỉ với cách tư duy hợp lý thì một người không hề biết kiến trúc cũng biết rằng, cửa hướng Đông hay Nam thì tốt hơn hướng Tây hay Bắc, nhà nên tựa vào núi và nhìn ra thung lũng chứ không phải ngược lại, nên trồng chuối phía sau và cau phía trước… Ngoài ra hiện tượng thì giống nhau nhưng quan niệm có thể khác nhau. Chẳng hạn cùng cho rằng đường đâm thẳng vào nhà thì không tốt, nhưng khoa học hiện đại quan niệm yếu tố mất an toàn (xe mất phanh lao vào nhà) và yếu tố thần kinh (tiếng ồn và tress thường trực ảnh hưởng xấu tới sức khỏe). Nhưng tri thức phong thủy là một hệ thống ứng dụng phức tạp với những quy chuẩn có tính quy luật, tính hệ thống, khách quan, hoàn toàn không phải do những kinh nghiệm "thô sơ" và "chất phác " như cách giải thích của tác giả. Bây giờ, chúng ta bàn tới vấn đề của ngay tiêu đề nhỏ trong phần này của tác giả và có lẽ cũng là ý của ông Nguyễn Văn Tuấn: Tôi tin rằng: Cả ông Nguyễn Văn Tuấn và tác giả, khi chỉ ra cái "có vẻ giống" khoa học thì sẽ không thể chứng minh được nó "không phải khoa học". Tôi chờ đợi các nhà khoa học thế giới xác minh và tham gia điều này, trong đó có ông Nguyễn Văn Tuấn và tác giả. Cá nhân tôi, người tổ chức cuộc hội thảo "Phong thủy là khoa học" sẽ chịu trách nhiệm với quan điểm của mình và chấp nhận phản biện trên tinh thần cầu tìm chân lý. Còn tiếp
    2 likes
  3. Sấm truyền Maya - thảm họa hay khởi đầu kỷ nguyên mới? http://vtc.vn/394-248204/phong-su-kham-pha...-nguyen-moi.htm (VTC News) - Ngày nay, chủ đề ngày tận thế 2012 được đề cập rất phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng, nó được hàng triệu người biết và nhắc đến. Biết làm thế nào khác được nếu ngày tận thế đã được các tôn giáo của nhiều dân tộc, các nhà tư tưởng, nhà khoa học và những người nổi tiếng tiên đoán từ nhiều thế kỷ nay sẽ trở thành hiện thực? Trong số những người có cùng quan điểm có cả John Bogoslov, Nostradamus, Newton, James Hansen, và nhiều nhà chiêm tinh học hiện đại khác. Nhưng dù sao thì hiện tại chúng ta vẫn đang còn sống và trái đất vẫn chưa ngừng quay. Vậy có điều gì bí ẩn trong những lời tiên đoán này? Liệu chúng là sự thật hay chỉ là những điều bịa đặt? Hay đó chỉ là sự hoang tưởng bị kích động của những kẻ cuồng tín tôn giáo? Theo hình dung của người Maya thì ngày 23/12/2012 sẽ kết thúc chu trình lịch thứ 13 – tức Kỷ nguyên Thái Dương thứ Tư. Đúng vào ngày này Chúa Polonakte sẽ xuống trái đất. Ngày tận thế bắt đầu. Nhưng đồng thời, truyền thuyết của người Maya cũng nói rõ: kỷ nguyên thay đổi sẽ bắt đầu, đàn con của Báo sẽ được sinh ra với nhiều màu da khác nhau và sẽ sống trên toàn thế giới. Chúng sẽ đưa con người về với tình yêu, ánh sáng và cội nguồn. Nền văn minh Maya cổ đại được hình thành thế nào? Cho đến nay, không ai có thể đưa ra câu trả lời chính xác cho câu hỏi này. Đã ba thập kỷ nay, rất nhiều cuộc tranh luận và bút chiến nổ ra giữa các nhà khoa học, chiêm tinh học đại diện cho các trường phái tôn giáo khác nhau tranh luận về đề tài này. Kim tự tháp Maya. Có quan điểm cho rằng, người Maya xuất thân từ một dân tộc cổ đại có tên là Olmec. Nhưng các giáo sĩ của bộ tộc Maya – những người bảo vệ ban ngày – nói rằng, sau khi vùng đất huyền thoại Atlantic tách ra, những nhóm người lớn đã di tản ra khắp nơi trên thế giới như: Ai Cập, Ấn Độ, Trung Mỹ, Trung Quốc. Cho nên, ngày nay văn hóa của những nền văn minh này vẫn còn nhiều điểm chung: họ đều có các kim tự tháp, nét chữ viết giống nhau, cùng có ngành thiên văn học, tục thờ động vật… Chữ cổ của người Maya. Nền văn hóa của người Maya là độc nhất vô nhị. Nó phát triển độc lập ở vùng rừng mưa nhiệt đới. Người Maya từng sống trên vùng lãnh thổ của Mexico ngày nay và đã xây dựng các thành phố uy nghi ở đây. Các kim tự tháp của người Maya cao ngang với kim tự tháp của người Ai Cập. Họ còn xây dựng các đài thiên văn để theo dõi bầu trời. Những người bảo vệ thời gian – giáo sĩ Maya – đã từng tiên đoán về sự thay đổi khí hậu trên Trái đất. Vậy người Maya không có sắt và bánh xe đã bỏ ra biết bao công sức để xây dựng lên những công trình phức tạp và hoàn toàn chính xác ấy để làm gì? Phải chăng là để bảo vệ trước kẻ thù? Hay để chứng tỏ sức mạnh? Kiến trúc kiểu Maya. Kim tự tháp Polenke là một viên ngọc kiến trúc giữa rừng rậm. Theo tín ngưỡng của người Maya, tại đây tia nắng đầu tiên chiếu xuống trái đất và đây cũng chính là nơi kết thúc của hoàng hôn. Tại đây có đền thờ “Chữ khắc”, nơi mà tuyển tập chữ khắc và các bức bích họa của người Maya đã được tìm thấy. Người Maya có hệ thống chữ viết hiện đại. Trong một thời gian dài trước đây, người ta cho rằng không thể giải mã được chữ của người Maya. Nhưng nhà khoa học Nga Yuri Knorozov hiện đang sống tại Mexico đã trở thành vị anh hùng dân tộc khi tìm ra chìa khóa giải mã những ký hiệu đó. Nền văn minh Maya không hề thua kém bất kỳ nền văn minh cổ đại nào từng tồn tại trên Trái đất về mức độ vĩ đại, phát triển và thiên tài. Tất cả những gì họ có đều ở trình độ phát triển cao, như: toán học, thiên văn học, sự hiểu biết về tâm hồn, sự sáng tạo, y học và kiến trúc. Bộ lịch nổi tiếng của người Maya xuất hiện thế nào? Do ai tạo ra? Trước đây, người ta không thể trả lời được những câu hỏi này. Các nhà khảo cổ, các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về nền văn minh Maya và các nhà sử học đã đưa ra những kết luận khác nhau. Có một số quan điểm sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, bộ lịch này là do người Maya đúc rút được từ nền văn minh phát triển và cổ đại hơn của người Olmec. Quả thật, trên lãnh thổ mà người Olmec từng sinh sống, người ta khai quật được những bản khắc trên đá và các hiện vật có đề ngày tháng theo lịch. Nhưng chẳng có bằng chứng khoa học nào chứng minh rằng người Olmec sáng tạo ra lịch. Phụ nữ Maya. Quan điểm thứ hai cho rằng, theo truyền thuyết của người da đỏ, một nhà cầm quyền da trắng nào đó đã sáng tạo ra chữ viết, lịch và truyền những kiến thức này cho người da đỏ. Quan điểm thứ ba cho rằng, những người bảo vệ ban ngày khẳng định rằng, những kiến thức này đến từ nền văn hóa Atlantic. Nền văn minh ngoài trái đất từ chòm sao Thất tinh đã dạy cho người dân của nền văn hóa Atlantic những kiến thức này. Dường như còn tồn tại bốn Á thần – tức Báo, đó là những vị thần đến trái đất sau thần Lũ lụt để vực lại sự sống cho trái đất. Họ đã tiến hành các lễ nghi thích ứng để xua tan sương mù khỏi trái đất và tặng quà cho con người – gồm chiếc túi tiên đoán, vương miện, chiếc đầu lâu bằng pha lê, cũng như dòng thời gian của chu kỳ ánh sáng (lịch). Tượng đá Maya. Người Maya có cả thảy 20 bộ lịch. Nhưng chính xác nhất chỉ có hai bộ: Lịch Tzolkin Ritual với một năm 260 ngày và Lịch Thái Dương rất giống với lịch Gregory một năm có 365 ngày. Hai bộ lịch này đều thể hiện chu kỳ đồng bộ 52 năm. Điều này có nghĩa là cứ 18.980 ngày hay 52 năm thì ngày Thánh lịch và lịch năm sẽ trùng nhau. Con số 52 rất có ý nghĩa đối với người Maya, và sau này là đối với người Aztec. Cứ sau mỗi chu kỳ 52 năm thì tất cả lại kết thúc hoặc bắt đầu. Thậm chí tuổi thọ trung bình của người Maya cổ đại cũng là 52. Người Maya cổ đại tính lịch dựa vào thuật chiêm tinh. Thuật chiêm tinh được thế giới ngày nay chấp nhận dựa vào vị trí của hành tinh trong hoàng đạo. Người Maya cũng biết về các chòm sao và họ cho rằng có 13 chòm sao. Thậm chí, họ còn biết đến cả chòm sao Ophiuchus.
    2 likes
  4. 2 likes
  5. Để thuận tiện nhất cho các "thầy" Tử Vi có thể tư vấn, các bạn chú ý những điểm sau khi đặt câu hỏi . Nêu cụ thể giờ, ngày tháng năm sinh, ghi rõ là Dương Lịch hay Âm Lịch. Cụ thể giới tính Nam hay Nữ Bạn là người nhờ tư vấn, yêu cầu link sẵn lá số Tử Vi thông qua trình Tử Vi Lạc Việt của diễn đàn tại: Lấy lá số Tử Vi Bạn nêu cụ thể thông tin các sự kiện qua trọng trong đời để người xem kiểm chứng giờ sinh. Nêu vấn đề bạn quan tâm, muốn xin tư vấn. Bạn có thể tham khảo một ví dụ sau:
    1 like
  6. Thử tìm lại biên giới cổ của Việt-Nam: Bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống ADN Giáo-sư Trần Đại-Sỹ. Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ Chúng tôi xin giới thiệu với độc giả Việt-Nam bài diễn văn của Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á (Institut Franco-Asiatique viết tắt là IFA). Nguyên văn bằng tiếng Pháp, đây là bản dịch tiếng Việt của chính tác giả và cô Tăng Hồng Minh chú giải. Trong dịp khai giảng niên học này, IFA đã mời một số đông các học giả, trí thức và ký giả tham dự. Sau bài diễn văn, có cuộc trao đổi rất thú vị.Nội dung trích dẫnXin nhắc lại, trong khoảng thời gian 1977-1992, tác giả làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique, viết tắt là CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), nên đã được các đồng nghiệp giúp đỡ, dùng hệ thống ADN để tìm lại nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Chính với công trình nghiên cứu của tác giả trong thời gian 1977-1991, dùng hệ thống ADN phân biệt dân-tộc Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đã kết thúc cuộc tranh cãi 90 năm qua biên giới cổ của Việt-Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược lại với tất cả các thuyết từ trước đến giờ. Các thuyết này khẳng định người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người ở vùng Đông Nam Á đã đi lên phương Bắc thành người Hoa. Sau khi bài diễn văn này phổ biến (1991), có một số "học giả" vì không theo kịp đà tiến hóa của khoa học, đã lên tiếng chỉ trích chúng tôi. Biết rằng họ dốt nát quá, muốn giải thích cho họ, họ phải có một trình độ nào đó... vì vậy chúng tôi không trả lời. Phần nghiên cứu của chúng tôi quá dài, quá chuyên môn. Độc giả muốn tìm hiểu thêm có thể đọc công trình nghiên cứu dưới đây: J.Y.CHU, cùng 13 nhà bác học Trung-quốc cũng nghiên cứu Di-truyền học ADN (DNA), công bố năm 1998: The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 năm 1998. Tài liệu khẳng định rằng nguồn gốc người Trung-hoa, Đông Á, do người Đông-Nam-á đi lên, chứ không phải do người Trung-hoa di cư xuống. ALBERTO-PIAZZA (đại học Torino, Ý): Human Evolution: Towards a genetic history of China, Proc.of Natl. Acad. Sci, USA, Vol 395, No 6707-1998. LI YIN, Distribution of halotypes from a chrosmosomes 21 Region - distinguishes multiple prehistotic human migrations - Proc.of Natl. Acad. Sci - USA, Vol.96 , 1999. Về bài diễn văn này, từ năm 1991, có rất nhiều bản dịch sang nhiều thứ tiếng, đăng trên nhiều báo khác nhau. Mỗi dịch giả lại tự ý lược đi, đôi khi cắt mất nhiều đoạn. Nay chúng tôi xin dịch nguyên bản, đầy đủ. Vì vậy độc giả thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn, xin lướt qua. Trong khi diễn giả trình bầy, ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả thảo luận. Các bài trích đăng trước không ghi phần này. Để độc giả dễ theo dõi, cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép, chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ, thay vì ghi ở cuối bài. Khi xuất bản lần thứ nhất, bộ Anh-hùng Bắc-cương của giáo-sư Trần, chúng tôi có cho trích một phần bài này in vào cuối quyển 4. Nay chúng tôi công bố toàn bộ tài liệu, lấy làm tài liệu chính thức và phủ nhận tất cả những bản do nhiều nơi phổ biến trước đây? Paris ngày 10-10-2001 Sở tu thư, viện Pháp-Á Kính thưa ông Viện trưởng, Kính thưa quý đồng nghiệp, Kính thưa quý vị quan khách. Các bạn sinh viên rất thân mến, Tôi không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà khảo cổ, hay nhà chủng tộc học. Tôi chỉ là một thầy thuốc. Nhưng những may mắn đến tiếp diễn trong suốt cuộc đời, vô tình đã đưa tôi đến đây trình bày cùng quý vị về nguồn gốc, biên giới cổ của tộc Việt. Ở cuối giảng đường này tôi thấy có nhiều bạn trẻ bật cười. Tôi biết bạn bật cười vì đa số người ta đều than đời bất hạnh, toàn rủi ro. Còn tôi, tôi lại nói rằng suốt cuộc đời toàn may mắn. Tôi có thể nói thực với Quý-vị rằng, về phương diện nghiên cứu học hành, suốt đời tôi, tôi có cảm tưởng tổ tiên đã trải thảm cho tôi đi trên con đường vô tận đầy hoa. Nếu bạn chịu khó đọc bộ Sexologie médicale chinoise của tôi, phần bài tựa tôi có viết : « Trong lịch sử cổ kim nhân lọai, nếu có người may mắn về phương diện nghiên cứu học hành, tôi đứng đầu. Nhưng nếu có người bất hạnh nhất trong tình trường tôi cũng đứng đầu ». Hôm nay tôi trình bày với Quý-vị về công cuộc đi tìm biên giới cổ của nước Việt-Nam và nguồn gốc tộc Việt, Quý-vị sẽ thấy tôi may mắn biết chừng nào, và Quý-vị sẽ thấy tộc Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Nhưng gần đây, vì chiến tranh tiếp diễn trong hơn 30 năm, khiến cho đất nước chúng tôi điêu-tàn, và... hiện nước tôi là một trong bốn nước nghèo nhất trên thế giới. I. SƠ TÂM VỀ TỘC VIỆT Năm lên năm, tôi học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng chung cho hầu hết các nước vùng Á-châu Thái-bình dương (ACTBD). Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông tôi là một đại thần của triều đình Đại-Nam (tức Việt-Nam). Chế độ phong kiến của nước tôi đã chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị Hoàng-đế cuối cùng của Đại-Nam là Bảo Đại. Ngài vẫn còn sống ở quận 16 Paris. Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho. Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học chữ Nho, tôi có một kho tàng văn hóa vĩ đại để đọc, để thỏa mãn trí thức của tuổi thơ. Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nơi đây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đã thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thi. Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Đại-học. Chương trình giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh ; không bằng một phần trăm những gì tôi học ở nhà. Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như : Đại-Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), An-Nam chí lược (ANCL), Đại-Việt thông-sử (ĐVTS), Khâm-định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), Đại-Nam nhất thống chí(ĐNNTC). Đại cương mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam sau : « Vua Minh cháu bốn đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũlĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng : « Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hoà mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn ». Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây lịch, đến đây thì chia làm hai : 1. Thần-Nông Bắc. Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch) Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch) Vua Ly (2795-2751 trưước Tây-lịch) Vua Du-Võng (2752-2696 trước Tây-lịch). Đến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng-đế từ năm giáp Tý (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng-đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tư-mã Thiên khởi chép quyển một là Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại Thần-Nông. 2. Triều đại Thần-Nông Nam. Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh- Dương, lúc mười tuổi. Sau người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho đến nay (1991) là 4870 năm, vì vậy người Việt tự hào rằng đã có năm nghìn năm văn hiến. (1) Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lý của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. Còn như đi xa hơn về những thời tiền cổ, thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận đến ở đây. Xét về cương giới cổ sử chép « Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương(2), đặt tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tây. Vua Kinh-Dương lấy con gái vua Động-đình là Long-nữ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lãm. Thái-tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai(3). Khi vua Kinh-Dương băng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-Lang. Nước Văn-Lang Bắc tới hồ Động-đình, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, đông giáp biển Đông-hải.) Cổ sử đến đây, không có gì nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép : «Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nối. Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Động-đình.(Nay là Hồ-Nam, Quý-châu, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận.(Nay là Vân-Nam và một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng Chiêm-thành.(Nay thuộc Việt-Nam, từ Thanh-hóa đến Đồng-nai.) Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi lập ra vùng Lão-qua.(Nay là nước Lào và một phần Bắc Thái-lan.) Hoàng-tử thứ năm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng Nam-hải. (Nay là Quảng-đông, và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm.(Nay thuộc Quảng-tây, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam.(Nay thuộc Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-bình.) Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân.(Nay thuộc Việt-Nam từ Ninh-bình tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh) Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trăm lập ra vùng Giao-chỉ.(Nay là Bắc Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam thuộc Trung-quốc.) Ngài hẹn rằng : Mỗi năm các hoàng-tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết, để chầu hầu phụ mẫu ». Một huyền sử khác lại thuật : Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng : « Ta là Rồng, nàng là loài Tiên ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần » Các sử gia người Việt lấy năm vua Kinh-Dương lên làm vua là năm Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua Kinh-Dương với Công-chúa con vua Động-đình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cơ làm Quốcmẫu. Cho đến nay Quý-vị hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào : « Chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên. Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ». Chủ đạo của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin này. Ghi chú của Tăng Hồng Minh, Ký giả chuyên về Văn-minh Đông-á Jean Marc Decourtenet hỏi về đoạn này như sau: « Thưa Giáo-sư, hiện Việt-Nam là nước theo chế độ Cộng-sản, liệu người Việt trong nước họ có cùng một niềm tin như người Việt hồi 1945 về trước cũng như người Việt hải ngoại hay không ? » Trả lời : « Những nhà lãnh đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam suốt từ năm 1930 đến giờ, không một người nào muốn dùng triết lý Marxisme, Léninisme để xóa bỏ niềm tin con Rồng cháu Tiên. Trái lại họ còn dùng niềm tin này để quy phục nhân tâm. Vì niềm tin này đã ăn sâu vào tâm não người Việt. Những người lãnh đạo chính trị Việt cả hai miền Nam-Bắc trong thời gian nội chiến 1945-1975 cũng không ai dám, không ai muốn, không ai đủ khả năng xóa bỏ niềm tin này. Người Việt có niềm tin vào Chủ-đạo của mình. Họ xây đền thờ các vua Hùng ở Phú-thọ dường như đã hơn nghìn năm. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch là người người đều tụ tập về đây để tưởng nhớ công ơn các vua Hùng đã dựng nước. Trong thời gian chiến tranh (1945-1975) vì tình hình an ninh di chuyển khó khăn, vì tình hình kinh tế không cho phép, số người hành hương có giảm thiểu. Nhưng từ sau 1987, số người hành hương tăng vọt. Ngay ở ngoại quốc, người Việt lưu lạc khắp nơi, nhưng hằng năm đến ngày 10 tháng 3, lịch Á-châu, nơi nào họ cũng tổ chức giỗ tổ rất thành kính. Các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam như Chủ-tịch Hồ Chí Minh, Chủ-tịch Trường Chinh; Tổng bí thư Lê Duẩn, Đỗ Mười; Thủ-tướng Phạm Văn Đồng v.v. đều hành hương đền thờ vua Hùng, và đọc diễn văn ca ngợi công đức Quốc-tổ như một hành động thu phục nhân tâm. Kết lại dù ở trong nước hay ngoại quốc, hiện người Việt vẫn cùng một niềm tin như nhau." Ghi của Tăng Hồng Minh dành cho người Việt. Theo sự tìm hiểu của Tăng Hồng Minh tôi, các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam, đã viếng đền Hùng là : - Chủ-tịch Hồ Chí Minh, ngày 19-9-1954. 19-8-1962. - Tổng bí thư Lê Duẩn, 5-5-1977. - Chủ tịch nhà nước Trường Chinh 6-2-1959. 5-2-1978. - Thủ tướng Phạm Văn Đồng 6-2-1969. 27-8-1978. - Tổng bí thư Đỗ Mười 27-4-1993. Tôi xin trở lại với đầu đề, 3. Triều đình, dân tộc. Tôi đã trình bầy với Quý-vị về hai triều đại đầu tiên cai trị vùng Á-châu Thái-bình dương : Phía Bắc sông Trường-giang sau thành Trung-quốc. Phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan, sau thành Đại-Việt. Hai triều đại Thần-Nông Nam-Bắc cai trị dân chúng : - Không có nghĩa là dân chúng cùng một chủng tộc ; - Không có nghĩa là tộc Hoa, tộc Việt là một; - Cũng không có nghĩa tất cả dân chúng tộc Hoa, tộc Việt đều là huyết tộc của vua Thần-Nông. - Trung-quốc, Đại-Việt là anh em về phương diện chính trị. Giòng Thần-Nông cai trị vùng đất Trung-quốc, Đại-Việt là anh em, nhưng dân chúng không hoàn toàn là anh em. Dân chúng hai nước bao gồm nhiều tộc khác nhau như Mongoloid, Malanésien, Indonésien, Australoid, và cả Négro-Australoid...v.v. - Người Hoa, người Việt nhân triều đại Nam-Bắc Thần-Nông tổ chức cai trị, lập thành nước, mà tôn làm tổ mà thôi. Chứ hai vùng hồi đó hang nghìn, hàng vạn bộ tộc khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, văn hóa khác nhau. Sau này các văn nhân người Hoa ở vùng lưu vực Hoàng-hà, lưu vực sông Hán, nhân có chữ viết, lại không đi ra ngoài, rồi tưởng tượng mà viết thành sách, tự cho mình là con trời, tự trời mà xuống; sau đó đem văn minh, truyền bá ra khắp thế giới (Thiên-hạ), người sau lấy làm chủ đạo của họ. Tôi sẽ bàn đến ở dưới. Tôi xin cử một tỷ dụ, để Quý-vị nhìn rõ hơn. Ông Washington là vị Tổng-thống đầu tiên lập ra nước Hoa-kỳ, chứ ông không phải là tổ của các sắc dân đến từ châu Phi, châu Âu, cũng như dân bản xứ. Hai vị vua Nghi, vua Kinh Dương không phải là tổ huyết tộc của người Hoa, người Việt. Hai ngài chỉ là tổ về chính trị mà thôi. II. CHỦ ĐẠO TRUNG QUỐC, VIỆT-NAM. Như Quý-vị đã thấy, mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệu. Người Pháp cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật tượng trưng là con gà trống. Người Anh lấy biểu hiệu là con sư-tử. Người Hoa-kỳ lấy biểu hiệu là con chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con Rồng. Người Việt lấy biểu hiệu là con Rồng và con chim Âu. Gốc biểu hiệu này lấy từ huyền sử vua Lạc-Long là loài rồng, công-chúa Âu-Cơ là loài chim. Người Do-thái họ tự tin rằng họ là giống dân linh, được Chúa chọn. Vì vậy, sau hai nghìn năm mất nước, họ vẫn không bị đồng hóa. Khi tái lập quốc, với dân số bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với bao cuộc tấn công để tồn tại. Đó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân được Chúa chọn. Tôi xin nói rõ về chủ đạo của Trung-quốc và Việt-Nam. Như Quý-vị đều biết, hiện Trung-quốc, Việt-Nam đều là những nước theo chủ nghĩa Cộng-sản, đặt căn bản trên thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels. Chủ thuyết này đến Trung-quốc, Chủ-tịch Mao Trạch Đông biến thể đi thành Maoisme. Tại Việt-Nam, người mang chủ thuyết Marx, Engels vào là Chủtịch Hồ Chí Minh ; ông được đào tạo tại Liên-sô, vì vậy chủ thuyết của ông phảng phất Léninisme, pha thêm Việt-tính do ông tạo ra. Dường như hiện nay trên khắp thế giới, kể cả Liên-bang Sô-viết chỉ Việt-Nam là quốc gia duy nhất còn duy trì tượng Lénine tại một công viên lớn của Thủ-đô (Hà-nội). Theo như dự đoán của chúng tôi thì Trung-quốc, cũng như Việt-Nam cùng nhận thấy thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels không còn hợp thời, không còn ích lợi nữa. Cả hai đang từng bước, từng bước trở lại với chủ đạo của mình. Xin các vị cứ chờ, không lâu đâu cả hai sẽ hoàn toàn trở về với kho tàng quý báu của nước mình! Tôi thấy Trung-quốc trở lại quá mau, quá mạnh. Con rồng Trung-quốc mà Hoàng-đế Napoléon bảo rằng hãy để nguyên cho nó ngủ. Bằng như nó thức dậy, nó sẽ làm rung chuyển thế giới. Thưa Quý-vị, con rồng Trung-quốc đã thức dậy rồi, nhưng nó chưa làm rung động thế giới! Ghi chú của Tăng Hồng Minh (ngày 19-8-2000, nhân đọc lại bài này). IFA trao cho tôi dịch hầu hết những bài diễn văn của các nhà lãnh đạo Việt-Nam từ 1992 đến nay. Tôi thấy ông Tổng-bí-thư Đỗ Mười trong các diễn văn kỷ niệm 19-8 cũng như ngày Quốc-khánh, những từ ngữ ông dùng cũng như nội dung, ngày một xa Marx, Engels, Lénine. Nếu thời kỳ ông Lê Duẩn cầm quyền, khắp Việt-Nam đều thi nhau phá bỏ hết phong tục, truyền thống, nhất là phá các di tích tôn giáo bao nhiêu; thì bây giờ hầu hết các truyền thống dân tộc đều được phục hồi ở cấp xã. Niềm tin (chủ đạo) của hạ tầng hầu như trở lại thời kỳ trước 1945. 1.- Chủ đạo của Trung-quốc. Người Hoa thì tin rằng mình là con trời. Cho nên trong các sách cổ của họ,vị vua được gọi là Thiên-tử, còn các quan thì luôn là người nhà trời xuống thế phò tá cho vua. Chính niềm tin đó cùng với văn minh Hoa-hạ, văn minh Nho-giáo đã kết thành chủ-đạo của họ. Cho nên người Hoa dù ở đâu, họ cũng có một tổ chức xã hội riêng, sống với nhau trong niềm kiêu hãnh con trời. Cho dù họ lưu vong đến nghìn năm họ cũng không bị đồng hóa, không quên nguồn gốc. Cũng chính vì vậy, mà từ một tộc Hoa nhỏ bé ở lưu vực sông Hoàng-hà, họ đánh chiếm, đồng hóa hàng nghìn nước xung quanh, và nước của họ rộng lớn như ngày nay. Hầu hết những nước khác đến cai trị họ, đều bị họ đồng hóa. Mông-cổ, Mãn-thanh bị đồng hóa, bị mất hầu hết lãnh thổ. Nhưng chủ-đạo và sức mạnh của người Trung-quốc phải ngừng lại ở biên giới Hoa-Việt. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Giáo sư Nhân chủng học Van Gotensbert (Hòa-lan) hỏi : « Tôi thấy người Hoa, kiều ngụ ở các nước Á-châu, châu Phi cũng như tại Hoa-kỳ, Canada, Úc cùng một số các nước Âu-châu, dù trải qua mấy trăm năm, họ vẫn duy trì được dòng giống và không bị đồng hóa, đó là nhờ chủ đạo tự tin là con trời của họ. Thế nhưng tại sao, họ mới tới Pháp từ sau 1975, dưới danh nghĩa tỵ nạn Việt, họ bị đồng hóa rất mau. Không lẽ chủ đạo của Trung-quốc lại bị chủ đạo của Gaulois xóa bỏ mau chóng như vậy sao ? ». Đáp : « Thưa Giáo-sư, điều Giáo-sư hỏi, cũng là điều tôi chú tâm nghiên cứu từ 1975 đến giờ. Khi người Hoa tới bất cứ nước nào, họ cũng bị kỳ thị không ít thì nhiều, họ phải sống quần tụ với nhau, giúp đỡ nhau, bảo vệ nhau. Bên cạnh đó họ có niềm tin là con trời, tự hào về nền văn minh cổ của họ. Do đó họ tổ chức thành xã hội riêng : Giáo dục con em, thương mại, sinh hoạt văn hóa, tương trợ. Vì vậy họ giữ được bản sắc Trung-quốc của họ. Còn khi người Hoa tới Pháp, thì người Pháp với tinh thần cởi mở, với tính hiếu hòa, không kỳ thị, lại tận tình giúp đỡ kẻ tha hương hơn chính người Hoa giúp nhau, thành ra người Hoa không cần sống quần tụ. Họ sống lẫn với người Pháp. Con em người Hoa ngày ngày tới trường được bạn học, được thầy yêu thương, chúng thu nhập văn hóa Pháp rất mau. Trong khi cha mẹ chúng phải làm việc không có thời giờ dạy con cái về văn hóa Trung-quốc. Do vậy chỉ trong vòng mấy năm là trẻ Hoa thành trẻ Pháp: Tiếng nói, cách suy tư, nếp sống, trừ...ẩm thực. Tôi xin nói một câu thẳng thắn, mong các vị đừng buồn: trên khắp thế giới, khi người Việt tỵ nạn đến định cư bất cứ nơi nào, đều gặp nạn kỳ thị. Nước Pháp là nước duy nhất dân chúng không kỳ thị mà lại còn tận tình giúp đỡ. Do vậy nhiều người tỵ nạn đến các nước khác của châu Âu, rồi cũng tìm định cư ở Pháp, dù ở Pháp khó kiếm việc làm.Chính phủ và nhân dân Pháp biết thế, nên cánh cửa tự do không hề đóng lại. Tôi xin trở lại với đầu đề. Chủ đạo của Trung-quốc bắt nguồn từ thời nào ? Từ sách nào ? Do ai khởi xướng ? Đầu tiên là Kinh-thư, không rõ tác giả là ai, xuất hiện trước Khổng-tử, thiên Vũ-cống gọi thế giới chúng ta ở là Thiên-hạ (Dưới trời). Thời cổ, các văn nhân Trung-quốc không đi xa hơn vùng sông Hán, sông Hoàng-hà, họ tưởng đâu thế giới chỉ có Trung-quốc, nên gọi Trungquốc là Thiên-hạ. Thiên-hạ là Trung-quốc, tức là nước ở giữa. Bốn phía Trung-quốc là biển, nên gọi Trung-quốc là hải-nội, các nước khác là hải-ngoại. Kinh-thư thiên Vũ-cống chia Thiên-hạ thành 9 châu : Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Lại dùng khoảng cách, chia làm năm cõi, gọi là Ngũ-phục, mỗi cõi cách nhau năm trăm dặm (250 km). Ngũ-phục là Điện-phục, Hầu-phục, Tuy-phục, Yêu-phục, Hoang-phục. Trung-ương là kinh đô của nhà vua. - Điện-phục ở ngoài kinh đô năm trăm dặm. - Hầu-phục ở ngoài cõi Điện-phục năm trăm dăm : trong năm trăm dặm cõi Hầu thì khoảng cách một trăm dặm để phong thái ấp cho các quan khanh, đại phu. Hai trăm dặm nữa phong cho các tước Nam. Hai trăm dặm nữa phong cho các chư Hầu. - Kế tiếp Hầu-phục là Tuy-phục. Trong năm trăm dặm cõi Tuy thì ba trăm dặm là nơi truyền bá văn chương, giáo hóa quần chúng ; còn hai trăm dặm để hưng thịnh võ bị, bảo vệ quốc gia. - Sau cõi Tuy là cõi Yêu. Trong ba trăm dặm cõi Yêu là nơi cho rợ phương Đông ở. Hai trăm dặm còn lại là nơi để đầy tội nhân. - Cõi cuối cùng là cõi Hoang, năm trăm dặm. trong ba trăm dặm gần dành cho mọi phương Nam ở, hai trăm dặm cuối cùng để đầy người có tội nặng. - Ra khỏi cõi Hoang là... biển. Với lối phân chia lẫm cẩm, hài hước ấy, năm nghìn năm qua, dân Trung-quốc coi là Kinh, tức những gì không thể thay đổi, rồi trở thành chủ đạo của tộc Hoa. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Giáo-sư khoa Chính-trị học J.Fr Longanacre (USA) Hỏi : - Thế cái chủ đạo mà người Trung-quốc tự thị là con trời phát xuất từ đâu ? Vào thời nào ? Đáp : - Thưa Giáo-sư, cũng phát xuất từ Kinh-thư, thiên Thái-thệ : Trời sinh ra dân, Đặt ra vua, ra thầy, Đều để giúp Thượng-đế, Vỗ về dân bốn phương. Giáo-sư Mohamed Khalid (Nhân chủng học Iran) hỏi: - Tôi nghiên cứu hầu hết các thuyết nói về nguồn gốc tộc Hoa. Tôi thấy dường như người ta đều cho rằng tộc Hoa tự sinh ra, rồi di chuyển đi các nơi: Ra biển thành người Nhật, Namdương, Phi-luật-tân. Xuống Nam thành người Việt, Miên, Lào, Thái, Miến. Lên Bắc thành Đạihàn, Mông-cổ, sang phía Đông-Bắc thành người Trung Đông. Có đúng thế không? Đáp: - Thưa Giáo-sư họ suy nghĩ như vậy là sai hoàn toàn. Họ căn cứ vào truyền thuyết mà nói như vậy. Truyền thuyết căn cứ vào thư tịch cổ, nên sai, hoàn toàn sai. Vì thư tịch cổ do những văn nhân không đi ra ngoài, ngồi ở vùng lưu vực Hoàng-hà, tưởng tượng mà viết ra. Cả hội trường cùng im lặng. - Nếu nói rằng người Trung-hoa nhờ có tinh thần thực dụng, nhờ có chữ viết, nhờ văn hóa Nho-giáo, rồi trở thành hùng mạnh, rồi đem quân đánh chiếm các nước nhỏ xung quanh, tạo thành một nước vĩ đại như ngày nay là đúng. Còn như bảo rằng họ là con trời hoặc họ tự sinh ra, rồi di chuyển đinh sinh sống các nơi... thì sai. Tôi sẽ dẫn chứng ở dưới bằng ADN: tộc Hoa, do giống người từ Đông Nam-á đi lên. Mà những người Đông Nam-á có gốc từ Phi-châu. Họ đến Nam-á từ lâu. Rồi tộc đó lại kết hợp với những người cũng từ châu Phi đi lên châu Âu, vào Bắc Trung-quốc khoảng 15.000 năm trước. Chúng ta trở lại với đầu đề. Tiếp theo Kinh Thư, sách Tả-truyện, Tả Khâu Minh cũng viết : Trời làm chủ Thiên-hạ, Vua nối trời mà cai trị. Kẻ chịu mệnh trời mà cai trị là Thiên-tử. Đến Mạnh-tử, thiên Ly-lâu viết: Thiên hạ là quốc gia, Gốc của thiên hạ là quốc, Gốc ở quốc là gia. Vì ảnh hưởng của sách cổ nên người Hoa mới nảy sinh ra tư tưởng « Nội Hoa hạ, ngoại Di, Địch ». Nghĩa là trong Ngũ-phục thì là chốn văn minh, còn ngoài ra thì là mọi rợ. Kinh-lễ, thiên Vương-chế nói : Đông phương viết Di, Tây phương viết Nhung, Nam phương viết Man, Bắc phương viết Địch. Nghĩa là : Người ở Đông phương gọi là Di, Tây-phương là Nhung, Nam phương là Man, Bắc phương là Địch. Di, Nhung, Man, Địch là những từ để chỉ mọi rợ. Bốn chữ đó khi viết thì có bộ trùng, bộ thú, bộ khuyển ở cạnh. Có nghĩa các sắc dân đó là cầm thú, côn trùng, chó mèo ! Ngay đối với người Âu, Mỹ hồi thế kỷ thứ 20 về trước, người Hoa gọi là Bạch-quỷ ! (Thính giả cười ồ lên !) . Họ còn phân ra người Âu là Tây-dương Quỷ. Người Mỹ là Mỹ-lan-tây Quỷ. Người Anh là Hồng-mao Quỷ . Người Nga là La-sát Quỷ. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Sinh viên Marta Maria Fernandes Hỏi : « Thưa Giáo-sư, về Trung-quốc, tiếng Pháp gọi là La Chine, người Trung-quốc là Chinois. Còn sách của Chinois ở lục địa thì họ xưng là Trung-quốc ; của người ở Hương-cảng, Đài-loan thì họ xưng là Trung-hoa. Đôi khi họ xưng là Trung-nguyên, rồi Hoa-hạ. Tôi đọc một số sách bằng Việt ngữ thì người Việt gọi là chữ Hán chứ không gọi là chữ Hoa, hay chữ Trungquốc; và người Việt khi thì gọi Chinois là người Hoa, khi thì gọi là người Tầu. Như trên Giáo-sư đã giải thích từ Trung-quốc. Còn từ Hoa ở đâu mà có ? Tại sao lại có những từ phức tạp như vậy ? » Đáp : « Như tôi đã trình bầy : Với lối phân chia Cửu-châu, Ngũ-phục ; trong năm cõi trên thì cõi Điện là vùng bao quanh Thiên-hạ. Phía trong cõi Điện là Giao. Trong Giao một trăm dặm là Quốc. Trong Quốc có thành gọi là Đô. Đô là nơi vua ở. Vì vậy họ mới xưng là Trung-quốc, tức nước ở giữa Thiên-hạ. Chữ Trung-quốc ở đây có tính chất chính trị, và địa lý. Còn từ Trungnguyên có nghĩa là vùng đất ở giữa. Trung-nguyên chỉ có nghĩa địa lý mà thôi. Sau cuộc cách mạng Tân-Hợi (1911), Bác-sĩ Tôn Văn và Quốc-dân đảng lên nắm quyền, lấy quốc danh là Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc, gọi tắt là Trung-Hoa Dân-quốc từ ngày 1-1-1912. Hiện chính phủ Đài-loan vẫn duy trì quốc danh này. Hồng-quân tiến chiếm được Bắc-kinh, lập nền cai trị Trung-nguyên, họ xưng là Cộnghòa nhân dân Trung-quốc gọi tắt là Trung-quốc kể từ ngày 1-10-1949. Còn nguồn gốc từ Hoa thì lúc đầu Trung-quốc chỉ là mấy bộ tộc ở vùng Ung-châu, Lương-châu (Ghi chú xin đừng lầm Ung này với Ung-châu thời Tống, nay là Nam-ninh thuộc Quảng Tây). Phía Đông Nam là Hoa-âm, Đông Bắc là Hoa-dương, giới hạn bởi Hoa-sơn. Vì vậy họ mới xưng nước là Hoa. Sau vì có văn minh, họ chiếm, đồng hóa các vùng xung quanh, mà có 9 châu như trong Kinh-thư. Hoa là tên nước chứ không phải là tên chủng tộc. Còn từ Hoa Hạ thì do con sông Hạ-thủy khởi nguồn từ Ung-Lương, nên lấy từ Hạ-thủy làm tên tộc. Hạ là tên tộc, không phải là tên nước. Sau này người ta ghép chữ Hoa là nước với chữ Hạ là tộc thành từ Hoa-Hạ vừa để biểu tượng cho nước, vừa biểu tượng cho tộc. Cao-tổ nhà Hán là Lưu Bang, khởi nghiệp từ sông Hán-thủy, nên xưng là triều Hán (207 trước Tây-lịch). Năm 179 trước Tây-lịch, Triệu Đà chiếm Âu-lạc (tên cũ của Việt-Nam). Y là thần tử triều Hán, cấm dân Việt học chữ Khoa-đẩu của tộc Việt, bắt học chữ Hoa. Do vậy người Việt gọi chữ Hoa là chữ Hán. Người Việt gọi người Chinois là người Hoa, người Trung-quốc là lẽ thường. Còn danh tự người Tầu thì bắt nguồn từ những triều đại Trung-quốc bị sụp đổ, các di thần dùng tầu vượt biển sang Việt Nam xin kiều ngụ, nên người Việt gọi họ là người Tầu ». Chúng ta trở lại với đầu đề. Từ nguồn gốc kinh điển cổ, người Hoa tự cho mình là con trời (Thiên-tử), cho nên hầu hết các tiểu thuyết của họ thì vua luôn có tướng tinh là con rồng vàng, là Thanh-y đồng tử trên thượng giơí giáng sinh. Các quan võ thì luôn là Vũ-khúc tinh quân, các quan văn là Văn-khúc tinh quân. Quần thần thì là Nhị-thập bát tú giáng hạ. Với chủ đạo này, họ đã đánh chiếm mấy trăm nước tạo thành một Trung-quốc vĩ đại. 2.- Chủ đạo của Việt-Nam. Như trên đã trình bầy, với nguồn gốc lập quốc, người Việt có niềm tin mình là con của Rồng, cháu của Tiên, cho nên người Việt có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Truyền thống sang thế kỷ thứ 2 trước Tây-lịch lại thêm vào tinh thần của vua An-Dương. Sang đầu thế kỷ thứ nhất, nổ ra cuộc khởi nghĩa của một phụ nữ, và 162 anh hùng, trong đó có hơn trăm là nữ. Cuộc khởi nghĩa đuổi ngoại xâm Trung-hoa, lập lên triều đại Lĩnh-Nam. Phụ nữ đó là vua Trưng. Nối tiếp mỗi thời đại đều có tinh thần riêng, tạo thành niềm tin vững chắc. Tộc Việt đã chiến đấu không ngừng để chống lại cuộc Nam tiến liên miên trong hai nghìn năm của người Hoa. Bất cứ thời nào, người Việt dù bị phân hóa đến đâu, nhưng khi bị ngoại xâm, họ lập tức ngồi lại với nhau để bảo vệ quốc gia. Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt, hễ ai dựa theo chủ đạo tộc Việt, đều thành công trong việc giữ được quyền cai trị dân. Gần đây nhất, người Việt bị các thế lực Quốc-tế, gây ra cuộc chiến tranh tương tàn khủng khiếp (1945-1975). Nhưng nay, Việt-Nam đang trên đà phục hưng chủ đạo. Ý tôi muốn nói sự cố gắng phi thường của hơn hai triệu người Việt ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam, đã là bó đước sáng chuyển chủ đạo trở về nước mình. Trong thời gian 1954-1975, miền Bắc theo chế độ Cộng-sản, theo chủ thuyết Quốc-tế. Nhưng họ biết khai thác cái chủ đạo của Việt-Nam, họ huy động được tinh thần yêu nước của dân tộc, nên cuối cùng họ chiến thắng. Cũng tiếc thay, những người cầm quyền miền Nam từ 1963-1975, không biết khai thác lòng yêu nước của dân tộc, lại chấp nhận cho quân đội Hoa-kỳ và đồng minh nhảy vào vòng chiến, việc này có khác gì quỳ gối, trao ngọn cờ chính nghĩa cho miền Bắc! Tôi nghĩ những người lãnh đạo miền Nam như ông Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, cho đến giờ này (1992) chưa từng biết gì về kho tàng lòng yêu nước của người Việt, lại cũng chưa từng nghe, từng nói đến chữ chủ đạo tộc Việt bao giờ. Trước họ, cố Tổng-thống Ngô Đình Diệm (1954-1963), vì biết rõ chủ đạo tộc Việt. Ngài từ chối không cho Hoa-kỳ đổ quân vào Việt Nam, mà đang là một đồng minh của Hoakỳ, Ngài đã trở thành kẻ thù của Hoa-kỳ, bị Hoa-kỳ giết hết sức thảm khốc. III. ĐI TÌM LẠI NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT. Năm trước đồng nghiệp của tôi đã giảng cho các bạn sinh viên hiện diện các giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, bao gồm : 1.- Thuyết của giáo sư Léonard Aurousseau về cuộc di cư của người Ư-Việt hay Ngô-Việt sang Âu-Lạc. 2.- Thuyết của Claude Madroll về cuộc di cư của người Mân-Việt sang Âu-Lạc. 3.- Thuyết của học giả Đào Duy-Anh, Hồ Hữu-Tường về cuộc di cư do thời tiết của người Việt từ Bắc xuống Nam. Tất cả các thuyết này đều căn cứ vào những thư tịch cổ Trung-quốc, Việt-Nam. Mà những thư tịch này không có một biện chứng khoa học nào cả. Cuối cùng các giáo sư đồng nghiệp đã nhận định rằng : Nhờ vào khoa khảo cổ, nhờ¨ vào hệ thống khoa học DNA, từ nay không còn những giả thuyết về nguồn gốc tộc Việt nữa, mà chỉ còn lại công cuộc nghiên cứu của tôi, rồi kết luận : « Thoạt kỳ thủy, trên vùng đất thuộc lãnh thổ Trung-quốc, Việt-Nam hiện tại: Giống người đã từ châu Phi đến bằng hai đường. Một là đường Nam-á, đến Đông Nam-á, ngược lên vùng Hoa Nam. Hai là từ châu Phi, tới châu Âu, rồi sang Bắc Trung-quốc. Cuối cùng cả hai giống người hòa lẫn với nhau trên lãnh thổ Trungquốc. Còn trong vòng 5000 năm trước Tây lịch cho đến nay, thì tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía nam sông Trường-giang, Đông tới biển, Tây tới Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-lan. Người Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam. Người Mân-Việt đi xuống Giao-chỉ. Người Việt di cư từ nam sông Trườnggiang tránh lạnh xuống Bắc-Việt đều đúng. Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lãnh thổ của họ, như cuộc di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 ; chứ không phải họ là người Trung-quốc di cư xuống Nam, lập ra nước Việt. » Chính vì lý do dùng hệ thống ADN biện biệt tộc Hoa, tộc Việt, nên tôi được mời đến đây đọc bài diễn văn khai mạc niên khóa này. Sau đây tôi trình bầy sơ lược về công trình nghiên cứu đó. Tôi xin nhắc lại, tôi chỉ là một bác sĩ y-khoa, cho nên những nghiên cứu của tôi đặt trên lý luận thực nghiệm, cùng lý luận y-khoa, nó hơi khác với những gì mà các bạn đã học. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Sinh viên Vũ-thị Thu-Dung Hỏi: - Thưa Thầy, con có đọc một bộ sách của nhà văn Bình Nguyên Lộc nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trong bộ sách đó, ông khẳng định rằng người Việt gốc từ Mã-lai. Xin Thầy cho biết ý kiến? Trả lời: - Tôi chưa đọc bộ sách đó, vả có đọc tôi cũng không thể đem ra bàn luận ở đây. Giáo-sư Viện-trưởng: - Tôi xin bổ túc lời diễn giả. Ban tu thư của IFA sưu tầm tất cả những thư tịch nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trước sau có 34 người đã trình bầy. Nhưng chỉ những tác giả sau đây được ghi vào album nghiên cứu: - Edouard Chavannes trong bản dịch bộ Sử-ký của Tư Mã Thiên. - Leonard Aurousseau trong bài nghiên cứu "La première conquête chinoise des pays anamites" đăng trong tạp chí của trường Viễn-đông bác cổ của chúng tôi tại Hà-nội (ý chỉ nước Pháp), ký hiệu BEFEO XXIII. 138-244. - Claude Madrolle, trong bài Le Tonkin Ancien đăng trong BEFEO XXXVII 264-332. - Lê Chí Thiệp, trong Văn-hóa nguyệt san (VNCH) số tháng 3-4 năm 1959. - Đào Duy Anh, trong Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, được ông Hồ Hữu Tường cổ võ trong bộ Tương lai văn hóa Việt-Nam. - Gần đây, giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ trong bộ Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, xb năm 1985 ở Canada. - Một số các bài của giáo sư Lương Kim Định, Nguyễn Đăng-Thục và Tiến-sĩ Thái Văn Kiểm, hội viên Hàn-lâm-viện Hải-ngoại của Pháp-quốc.. Một số tác giả viết chỉ với mục đích khoa trương, lập dị, hoặc không có căn cứ, hoặc thiếu kiến thức, chúng tôi không ghi vào thư mục nghiên cứu, nên Giáo-sư Trần Đại-Sỹ không tham khảo, và dĩ nhiên không đem ra bàn ở đây: - Paul Francastel trong Origine du Việt-Nam, France Asie xb. - Nguyễn Phương trong Tiến trình hình thành dân tộc Việt-Nam, tạp chí Đại-học Huế tháng 4 năm 1963. - Bình Nguyên Lộc trong tác phẩm mà em đã đọc. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong việc đi tìm nguồn gốc tộc Việt, tôi đã dùng phương pháp y-khoa nhiều nhất, và phương pháp khoa học mới đây. Tôi đã được giáo sư Tarentino về khoa Anatomie của Ý và giáo sư sinh vật Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp đỡ. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng trong khoảng 5000 trước Tây-lịch, lãnh thổ tộc Việt nằm từ phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan. Phía Tây tới tỉnh Tứ-xuyên Trung-quốc , phía Đông tới biển Nam-hải. Nghĩa là bao gồm toàn bộ Hoa-Nam, và Đông-dương. 1. Dùng biện chứng y-khoa vào khảo cổ. Biện chứng căn bản của người nghiên cứu y-khoa là : « Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do » Biện chứng này đã giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng. Như tôi đã trình bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân đều theo đó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn phổ kể sự tích các ngài. Vì theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học giả đi tiên phong, nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ qua. Tôi lại suy nghĩ khác : « Không có nguyên do , sao có chứng trạng ? ». Vì vậy tôi đã tìm ra rất nhiều điều lý thú. Tỷ dụ : Bất cứ một nhà nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An-Dương cũng cho rằng chuyện thần Kim-quy do vua móng làm nỏ bắn một lúc hàng nghìn mũi tên khiến Triệu-Đà bị bại là hoang đường, là ma trâu đầu rắn. Nhưng tôi lại tin và cuối cùng tôi tìm ra sự thật. Hồi ấy Cao Cảnh hầu Cao Nỗ đã chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày nay. Tôi cũng tìm ra kích thước của ba mũi tên đồng của nỏ này.(4) Trước tôi đã có các nhà khảo cổ căn cứ vào xương sọ tìm được tại Trung và Bắc-phần (70 cái). Trong đó có 38 cái do người Pháp sưu tầm thuộc thời đại Đồ-đá, thì 29/38 cái được kết luận là thuộc chủng loại Malanésien, Indonésien, Australoide hay Nam-á. Với 29 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể. Gần đây các học giả Việt-Nam lại tìm ra 32 xương sọ, thuộc thời đại Đồ-sắt (1000 năm trước Tây-lịch đến 300 sau Tây-lịch), thì 22/27 thuộc chủng loại Mongoide. Với 32 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể tộc Việt thuộc chủng loại Mongoide. Những tác giả trên đã căn cứ vào chỉ số xương sọ mà kết luận. Nhưng y học đã tiến bộ, căn cứ vào chỉ số xương sọ để định nguồn gốc đã bị đánh đổ. Nguyên do : Khi con người di cư đến vùng khác, bị khí hậu, bị nước uống, bị thực phẩm làm thay đổi xương sọ. Chúng tôi dùng hệ thống ADN, hệ thống sinh học mới nhất thử nghiệm ngay những người đang sống của 35 dòng họ tại Hoa Nam với Việt-Nam, rồi với những dòng họ khác tại Hoa Bắc. Lại cũng thử nghiệm những bộ xương của ba vùng trên, không phân biệt thời gian. Cuối cùng chúng tôi tìm ra sự khác biệt của những tộc Hoa Nam, Việt Nam với những tộc Hoa Bắc, và đi đến kết luận : lãnh thổ Văn-lang, tới hồ Động-đêình. (5) Ghi chú của Tăng Hồng Minh Một quan khách, nữ giáo sư khoa Thiên-văn học tên Madeleine Chevalier hỏi: - ADN là gì? Tôi nghe nói, cũng như đọc trên báo hoài, mà không biết rõ chi tiết cái hệ thống này? Trần Đại-Sỹ: - Tôi xin nhường lời cho Giáo-sư Vareilla Pascale chuyên khoa về vấn đề này trả lời. Vareilla Pascale: - Cảm ơn Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đã cho tôi danh dự trả lời Giáo-sư Chevalier. ADN viết tắt của từ Acide désoxyribonucléique, tiếng Anh là Deoxyribosenucleic acide, viết tắt là DNA. ( Phần này khá dài, khoảng 20 trang A4, chúng tôi không dịch hết, vì quá chuyên môn, chỉ dành cho sinh viên y khoa.) 2. Những vấn đề. Ranh giới phía Nam của nước Văn-lang tới nước Hồ-tôn đã quá rõ ràng. Ranh giới phía Tây với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới phía Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc qủa tới hồ Động-đình, thì ranh giới phía Tây chắc phải giáp Ba-thục và phía Đông phải giáp Đông-hải. Có thực như thế không? Vì vậy tôi đi tìm ranh giới phía Bắc. Dưới đây là huyền thọai, huyền sử mà tôi đã bấu víu vào để đi nghiên cứu. Tôi cần tra cứu cho ra: Vấn đề thứ nhất, Cổ sử Việt đều nói rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Động-đình. Có thực như vậy không? Truyền thuyết nói Đế-Minh lập đàn tế cáo trời đất, rồi chia thiên hạ làm hai. Từ Ngũlĩnh về Bắc cho Đế-Nghi, sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam truyền cho vua Kinh- Dương sau thành Văn-lang. Núi Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình nay vẫn còn. Nhưng liệu có di tích gì chứng minh chăng? Tôi phải đi tìm Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình. Vấn đề thứ nhì, Truyền thuyết nói : Sau khi vua Kinh-Dương, vua Lạc-Long kết hôn, đều lên núi Tamsơn trên hồ Động-đình hưởng thanh phúc ba năm. Lúc ngài lên núi có chín vạn hoa tầm xuân nở. Tôi phải đi tìm núi Tam-sơn ở hồ Động-đình. Liệu trên núi này có di tích gì về cuộc tình năm nghìn năm trước chăng? Vấn đề thứ ba, Truyền sử nói : Sau khi Quốc-tổ Lạc-Long, Quốc-mẫu Âu-Cơ cho các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, dặn rằng : Mỗi năm về Tương-đài chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần. Cổ sử nói : Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, hẹn mỗi năm một lần gặp nhau ở cánh đồng Tương. Cánh đồng Tương ở đâu? Nếu có cánh đồng Tương thì cũng có thể kết luận rằng biên giới nước Văn-lang tới hồ Động-đình. Tôi phải đi tìm. Vấn đề thứ tư, chứng tích thứ nhất xác định: Bộ Sử-ký của Tư-mã, Nam-Việt liệt truyện có thuật việc: vua nước Nam-Việt là TriệuĐà thường đem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán là Nam-quận, Trường-sa (Mậu-Ngọ 183 trước Tây-lịch). Như vậy biên giới Nam-Việt (Tức Việt-Nam) với Hán ( Tức Trung-quốc) ở vùng này. Ngày nay Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam, nằm ngay Nam ngạn sông Trườnggiang. Vấn đề thứ năm, Huyền sử nói rằng : trong cuộc khởi nghĩa của vua Trưng: - Khi Trưng Nhị, Trần Năng, Phật Nguyệt, Lại Thế-Cường, Trần Thiếu-Lan đem quân đánh Trường-sa (39 sauTây-lịch), thì nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang (sự thật đó là Tương-giang thông với hồ Động-đình). - Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam và Hán (42 sau Tây-lịch). Tướng Lĩnh- Nam tổng trấn hồ Động-đình là Phật Nguyệt, tướng Hán là Mã Viện, Lưu Long (40 sau Tâylịch). Có thực thế không? Có hai trận Trường-sa, hồ Động-đình không? Nếu có thì ranh giới thời Lĩnh-Nam (40-43 sau Tây-lịch) quả tới hồ Động-đình. Vấn đề thứ sáu, Năm 42, sau Tây-lịch, ba tướng thống lĩnh Kỵ-binh thời vua Trưng là Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang, đánh nhau với quân Hán tại Bồ-lăng thuộc Tượng-quận, vì quân ít, thế cô, ba ông tự tử. Vậy Bồ-lăng ở đâu? Có trận này không? Nếu có trận này thì ranh giới Lĩnh-Nam phía Tây quả tới Ba-thục (Tứ-xuyên.) Thưa Quý-vị, Nhưng các sử gia gần đây (1900-1975) đều đặt nghi vấn rằng : Làm gì biên giới thời Văn-Lang rộng như vậy? Nếu có chỉ ở vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện nay trăm cây số là cùng. Lại cũng có những người dốt nát (1975-1991), không đủ sách đọc, không theo kịp sự tiến triển của y học, họ chỉ đọc những tài liệu sai lầm, rồi họ như con ngựa kéo xe, chỉ biết có vậy, chúng tôi thấy họ ngu dốt quá, nên không trả lời, cũng như giải thích. Tôi căn cứ vào những chứng trạng trên mà đi tìm nguồn gốc. V. ĐI TÌM BIÊN GIỚI NƯỚC VĂN-LANG 1. Núi Ngũ-lĩnh. Cuối năm Canh-Thân (1980) tôi lấy máy bay đi Bắc-kinh, rồi đổi máy bay ở Bắc-kinh đi Trường-sa. Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam. Tất cả di tích của tộc Việt như hồ Độngđình, núi Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương, Thiên-đài, Tương-đài, cánh đồng Tương đều nằm ở tỉnh này. Tôi đi nghiên cứu với một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học Pháp-Hoa (CMFC). Có một sự hiểu lầm lớn, vì trong thư giới thiệu các giới chức y-khoa chỉ xin được giúp đỡ cho tôi, nên khi tôi muốn tiếp xúc với sở du-lịch, ty văn hóa địa phương, họ đều tưởng tôi tới Trường-sa để nghiên cứu sự cấu tạo hình thể cùng bệnh tật dân chúng tại đây. Thành ra tôi bị mất khá nhiều thì giờ nghe thuyết trình của các đồng nghiệp về vấn đề này. Tôi cư ngụ trong khách sạn Trường-sa tân điếm nằm trên đại lộ Nhân-dân. Tôi mua cuốn địa phương chí mới nhất của tỉnh, rồi mò vào thư viện ty văn hóa, sở bảo vệ cổ-tích, đại-học văn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà ngay những sinh viên văn khoa cũng ít ai ghé mắt tới. Đầu tiên tôi đêi tìm núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay đó là năm dãy núi gần như ngăn đôi Nam, Bắc Trung-quốc : - Một là Đại-dữu lĩnh. - Hai là Quế-dương, Kỳ-điền lĩnh. - Ba là Cửu-chân, Đô-lung lĩnh. - Bốn là Lâm gia, Minh-chữ lĩnh. - Năm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh. Về vị trí : - Ngọn Thủy-an, Việt-thành chạy từ tỉnh Phúc-kiến, đến huyện Tuần-mai tỉnh Quảngđông. - Ngọn Đại-dữu chạy từ huyện Đại-dữu (Nam-an), tỉnh Giang-Tây đến huyện Namhùng tỉnh Quảng-đông. - Ngọn Cửu-chân, Đô-lung chạy từ Đạo-huyện tỉnh Hồ-nam tới Gia- huyện tỉnh Quảngtây. - Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam đến Liên-huyện tỉnh Quảng-Đông. - Ngọn Quế-dương từ Toàn-huyện tỉnh Hồ-nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-tây . Lập tức tôi thuê xe đi một vòng thăm các núi này. Tôi đi mất mười ngày, trải gần 15.000 cây số. Như vậy là Ngũ-lĩnh có thật, nay có núi đã đổi tên, có núi vẫn giữ tên cũ. Một câu hỏi đặt ra : Tại sao khi vua Minh phân chia từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Lộc-Tục mà lĩnh địa Việt tới hồ Động-đình, mà hồ ở phía Bắc núi đến mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này : - Một là vua Minh tế trời ở trên núi Ngũ-lĩnh là nơi người gặp tiên rồi chia địa giới. Nhưng bấy giờ dân chưa đông, mà sông Trường-giang rộng mênh mông, sóng lớn quanh năm nên vua Nghi chỉ giữ từ Bắc ngạn mà thôi. Còn vua Kinh-Dương thì sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Động-đình (một tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc gia. - Hai là dân chúng Nam-ngạn Trường-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một khí hậu, phong tục, nên họ theo về Nam không theo về Bắc, thành thử hồ Động-đình mới thuộc lãnh địa Việt. Kết luận : « Quả có núi Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể núi này đúng là nơi phân chia lãnh thổ Văn-Lang và Trung-Quốc khi xưa ». Ánh sáng đã soi vào nghi vấn huyền thọai. 2. Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh. Tương truyền vua Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế-dương, phân chia lãnh thổ Lĩnh-Bắc tức Trung-Quốc, Lĩnh-Nam tức Đại-Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên-đài. Nhưng dãy núi Quế-dương có mấy chục ngọn núi nhỏ không biết ngọn Thiên-đài là ngọn nào ? Trên bản đồ không ghi. Sau tôi hỏi thăm dân chúng thì họ chỉ cho tôi thấy núi Thiên-đài nằm gần bên bờ Tương-giang. Điều này dễ hiểu, tỷ như ngày nay, du khách nhìn bản đồ sẽ không thấy địa điểm Sài-gòn. Nhưng trong dân chúng, họ vẫn nhớ tên cũ. Tôi đi thăm Thiên-đài. Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn nhưng không có người trụ trì. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói. Lâu ngày chùa không được tu bổ, nhiều chỗ ngói bị lở, bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị mòn nhiều chỗ gần như lún sâu. Duy nền với cổng bằøng đêá là còn nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong ra. Bên trong cột kèo bằng gỗ đã nứt nẻ khá nhiều. Những câu đối , chữ còn, chữ mất. Tại thư viện Hồ-nam tôi tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi : Thiên-đài di sự lục Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn sọan. Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-Tông, từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh- Mùi (647) nhưng không biết Chu đỗ tiến-sĩ năm nào ? Tuy sách do Chu Minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh-Văn sọan, phần chép tiếp theo Chu Minh-Văn, của một sư ni tên Đàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang- Hy (1662-1772). Chu Minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loaị văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố cùng thành ngữ lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh cùng kinh Phật. Nhân viên quản thủ thư viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông ấy biết rằng, tôi chỉ được học lọai văn đó vào hồi sáu, bảy tuổi thì ông sẽ hết phục. Tài liệu Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc-Tục.Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, vì vậy đài cũng mang tên Thiên-đài núi cũng mang tên Thiên-đài sơn, Minh-Văn còn kể thêm : « Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Đương. Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-dương ông cùng nghìn quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm đươc núi. Về đời Đường để xóa vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây chùa tại đây ». Tôi biết vua Bà là vua Trưng, còn tướng Đào Hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-bình vương Đào Kỳ. Ngài Đào Kỳ lĩnh chức Đại Tư-mã thời vua Trưng. Còn tướng Đào Hiển-Hiệu tước phong quốc công, giữ chức Hổ-nha đại tướng quân. Nữ tướng Hoàng Thiều-Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi Trường-sa, hồ Động-đình, đã sai Hiển-Hiệu đi cản hậu, đóng nút chặn ở Thiên-đài, đợi quân Lĩnh-Nam rút hết, sẽ rút sau. Nhưng Hiển-Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thời Quốc-tổ, Quốc-mẫu, đã không chịu lui quân, tử chiến, khiến quân Hán chết không biết bao nhiêu mà kể tại đây. Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối : Thoát thân Nam thành xưng sư tổ, Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật- kinh. Hai câu này ngụ ý ca tụng Thái-tử Tất-Đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi tìm lẽ giải thoát sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh. Tam bảo linh ứng, phong điều vũ thuận, Phật công hiển hách quốc thái an dân. Hai câu này là ngụ ý nói : Tam bảo linh thiêng, khiến cho mưa thuận, gió hòa đó là công lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an . Nơi có dấu vết Thiên- đài, còn đôi câu đối khắc vào đá : Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc. Lĩnh địa niên niên dữ Việt-thường. Nghĩa là: Từ sau vụ vua Minh tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao đời phân ra Nam, Bắc. Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với giòng giống Việt-thường. Chỗ miếu thờ của Đào Hiển-Hiệu có đôi câu đối : Nhất kiếm Nam-hồ kinh Vũ-đế, Thiên đao Bắc-lĩnh trấn Lưu Long. Nghĩa là : Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đình làm kinh tâm vua Quang-Vũ nhà Hán. Ý chỉ nữ tướng Phật-Nguyệt đánh bại Mã Viện ở phía Nam hồ Động-đình. Một nghìn tay đao do Hiển-Hiệu thủ ở Bắc núi Ngũ-lĩnh trấn Lưu Long. Kết luận : « Như vậy việc vua Minh tế cáo trời đất là có thật. Vì có Thiên-đài nên thời Lĩnh-Nam mới có trận hồ Động-đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ lãnh địa thời vua Trưng cũng như Văn-Lang xưa qủa tới Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình ». 3. Cánh đồng Tương, Nhắc lại: Có hai huyền sử nói về cánh đồng Tương : - Một là Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, mỗi năm tái hội nhau trên cánh đồng Tương một lần. - Hai là Quốc-tổ, Quốc-mẫu truyền các hoàng tử đi khắp bốn phương quy dân lập ấp, mỗi năm hội tại cánh đồng Tương một lần. Tôi đoán : Cả hai vị Quốc-tổ Kinh-Dương, Lạc-Long sau khi kết hôn đều đem Quốc-mẫu lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đình hưởng thanh phúc ba năm.Vậy thì cánh đồng Tương sẽ gần đâu đó trên hồ Động-đình. Phía Nam hồ Động-đình là sông Tương-giang, chảy theo hướng Nam-Bắc dài 811 km, lưu vực tới 92500km2, chẻ đôi tỉnh Hồ-nam với Quảng-tây. Vậy cánh đồng Tương sẽ nằm trong lưu vực Tương giang. Tôi thuê thuyền đi từ cảng Dương-lâm nơi xuất phát ra Tương-giang là hồ Động-đình, xuống Nam, qua Tương-âm, tôi dừng lại, nghiên cứu địa thế cùng thăm chùa Bạch-mã. Đây là địa phận quận Ích-dương.Vô tình tôi tìm ra một nhánh sông Âu-giang và một cái hồ rất lớn, vào mùa nước lớn rộng tới 4-5 mẫu, vào mùa nước cạn chỉ còn 2-3 mẫu mà thôi. Suốt lộ trình từ hồ Động-đình trở xuống, trên cửa sông Tương cũng như hai bên bờ chim Âu bay lượn khắp nơi. Đặc biệt trên Âu-giang, Âu-hồ, giống chim này càng nhiều vô kể. Từ Âu-giang, tôi trở lại sông Tương, xuôi tới Trường-sa thủ phủ của Hồ-nam rồi tới các quận lỵ Tương-đàm, Chu-châu, Hành-dương, Quế-dương. Không khó nhọc tôi tìm ra : « Cánh đồng Tương, tức là vùng trũng phía Tây-ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động-đình, Nguyên-giang. Phía Nam là Linh-lăng, Hành-giang. Phía Tây là vùng Chiêu-dương, Lãnh-thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác : Tương-giang, Nguyên-giang, Liên-thủy, Thạch-khê-thủy ». Sau khi tìm ra cánh đồng Tương, Thiên-đài, cùng những đàn chim âu , tôi giải đoán như thế này : « Quốc-tổ Lạc Long kết hôn với công chúa con Đế-Lai, hẳn công chúa cũng có tên. Nhưng vì lâu ngày người ta không nhớ được tên ngài, nên đã lấy con chim Âu, rất hiền hòa, xinh đẹp ở vùng hồ Động-đình, Tương-giang mà gọi là Âu-Cơ (Cơ là vợ vua). Vì người ta gọi Quốcmẫu là Âu-Cơ, thì họ nghĩ ngay đến Quốc-mẫu sinh đẻ. Khi chim Âu đẻ thì phải đẻ ra trứng. Còn con số một trăm, là con số triết học Việt-Hoa dùng để chỉ tất cả. Như trăm bệnh là tất cả các bệnh, trăm họ là toàn dân. Trăm con có nghĩa là tất cả dân ttrong nước đều là con Quốc-mẫu » Kết luận : « Đã có cánh đồng Tương, thì chuyện Quốc-tổ, Quốc-mẫu hẹn mỗi năm hội tại đây một lần là có. Khi sự kiện có núi Ngũ-lĩnh, có Thiên-đài. Nay chứng cớ được kiểm điểm, thì lãnh địa của tộc Việt xưa quả tới hồ Động-đình ». 4. Hồ Động-đình và Tam-sơn Hồ Động-đình nằm ở phía Nam sông Trường-giang. Hồ được coi như nơi phát tích ra tộc Việt. Địa khu Bắc sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-bắc, tức đất Kinh-châu thuở xưa. Địa khu phía Nam sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-nam. Hồ Động-đình nằm trong tỉnh Hồ-nam. Hồ thông với sông Trường-giang bằng hai con sông. Cho nên người ta coi hồ như nơi chứa nước sông Trường-giang, rồi đổ vào Tương-giang. Trên Bắc-ngạn hồ có núi Tam-sơn. Tôi đã lên đây ba lần. Tương truyền các các nữ tướng thời vua Trưng như Trưng-Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan đánh chiếm Trường-sa vào ngày đầu năm, vì vậy tôi cũng tới đây vào dịp này để thấy rõ phong cảnh, rồi tả trận đánh trong bộ Cẩm-khê-di-hận(6). Hồ rộng 3915 cây số vuông, độ sâu về mùa cạn là 38,5 mét, về mùa nước lớn là 39,20 mét. Tra trong chính sử thì quả hồ Động-đình thuộc lãnh địa Văn-Lang. Như trên đã nói, triều đại Thần-Nông Bắc đến đời vua Du-Võng thì mất vào năm 2696 trước Tây-lịch, chuyển sang thời đại Hoàng-Đế. Sử gia Trung-Quốc cho rằng Hoàng-Đế là tổ lập quốc. Nói theo triết học Tây phương thì vua Du-Võng gốc từ Thần-Nông thuộc nông nghiệp cư trú trong vùng đồng bằng ở phương Nam lấy hỏa làm biểu hiệu nên còn gọi là Viêm-đế. Còn vua Hoàng-đế gốc ở dân du mục, săn bắn, từ phương Bắc xuống. Dân du mục nghèo, nhưng giỏi chinh chiến. Dân nông nhiệp giàu nhưng không giỏi võ bị nên bị thua. Bộ Sử-ký của Tư-mã-Thiên, quyển 1, Ngũ-đế bản kỷ chép rằng : «...Thời vua Hoàng-đế, họ Thần-Nông (Bắc) đã suy, chư hầu chém giết lẫn nhau, khiến trăm họ khốn khổ vô cùng. Triều Thần-Nông không đủ khả năng chinh phục. Vua Hiên-Viên Hoàng-Đế thao luyện can qua, chinh phục những chư hầu hung ác. Vì vậy các nơi theo về rất đông. Trong các chư hầu thì Suy-Vưu mạnh nhất. Vua Du-Võng triều Thần-Nông định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu chỉ tuân lệnh Hoàng-Đế. Vua Hoàng-Đế tu sửa đức độ, luyện tập binh mã, vỗ về trăm họ, giúp đỡ bốn phương, luyện tập thú dữ rồi đại chiến với vua Du-Võng ở Bản-tuyền, thành công. Suy-Vưu làm lọan, không tuân đế hiệu. Hoàng-Đế triệu tập chư hầu cùng Suy-Vưu đại chiến ở Trác-lộc, bắt sống Suy Vưu. Chư hầu tôn ngài làm Thiên-tử thay họ Thần-Nông. Trong thiên hạ nơi nào không thuận vua Hoàng-Đế đem quân chinh phục. Lãnh thổ của Hoàng-Đế, Đông tới biển, vùng núi Hoàn-sơn, Đại-tông. Phía Tây tới núi Không-động, Kê-đầu. Nam tới Giang, Hùng, Tương... »(7) Sông Giang đây tức là sông Trường-giang, Hùng đây tức là Hùng-nhĩ-sơn, Tương là Tương-sơn. Bùi Nhân đời Tống lập giải Sử-ký nói rằng Tương-sơn thuộc Trường-sa. Kết luận : « Từ chính sử, huyền-sử đều cho biết lĩnh địa Văn-lang tới hồ Độngđình. Khi vua Hoàng-Đế dứt triều Thần-Nông Bắc, thì triều Thần-Nông Nam tức họ Hồng-bàng còn kéo dài đến 2439 năm nữa. Lãnh thổ Trung-quốc thời HoàngĐế cũng chỉ tới sông Trường-giang. Phía Nam bao gồm Trường-sa, hồ Động-đình vẫn thuộc Văn-lang. Khi chính sử ghi chép như vậy thì việc Quốc-tổ, Quốc-mẫõu với hồ Động-đình, núi Tamsơn không còn là huyền thoại nữa. Vậy chuyện các ngài lên núi hưởng thanh phúc nên ghi vào chính sử. 5. Biên giới lĩnh địa tộc Việt thế kỷ 2 trước Tây lịch. Sử Hán là bộ Sử-ký của Tư-mã Thiên. Sử Việt như bộ Đại-Việt sử ký toàn thư, Khâmđịnh Việt-sử thông giám cương mục, đều ghi rằng vào thế kỷ thứ nhì trước Tây-lịch, thời Triệu Đà cai trị lĩnh địa tộc Việt, biên giới vẫn còn ở vùng Trường-sa, hồ Động-đình. Sử Hán, sử Việt đều chép chi tiết giống nhau về vụ Triệu Đà lập quốc ở lãnh thổ Lĩnh- Nam. Tần Thủy- Hoàng sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu-lạc, chiếm được vùng đất phía Bắc, lập làm ba quận : - Nam-hải (Quảng-đông và một phần Phúc-kiến), - Quế-lâm (Quảng-tây, Hồ-nam và một phần Quí châu), - Tượng-quận (Vân-nam và một phần Quý-châu). Vua An-Dương sai Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung và Cao-cảnh hầu Cao Nỗ đem quân chống, giết được Đồ Thư và tiêu diệt nữa triệu quân Tần. Tuy vậy vua An-Dương cũng không chiếm lại vùng đất đã mất. Sau nhân thời thế loạn lạc, một viên quan Tần là Triệu Đà trấn vùng Nam-hải, đem quân chiếm vùng Tượng-quận, Quế-lâm, rồi dùng gián điệp trong vụ án Mỵ-Châu, Trọng- Thủy mà chiếm được Âu-lạc lập ra nước Nam-Việt. Lãnh thổ nước Nam-Việt bao gồm những vùng nào ? Không một sử gia nào chép rõ ràng. Nhưng cứ những sự kiện lẻ tẻ, ta cũng có thể biết rằng lãnh địa Nam-Việt là lãnh địa thời Văn-lang. Trong khi Triệu Đà lập nghiệp ở phương Nam, thì cuộc nội chiến ở phương Bắc chấm dứt. Hạng Vũ, Lưu Bang diệt Tần, rồi Lưu Bang thắng Hạng Vũ lập ra nhà Hán. Lưu Bang lên ngôi vua sai Lục Giả sang phong chức tước cho Triệu Đà. Đúng ra Triệu Đà cũng không chịu thần phục nhà Hán, nhưng họ hàng thân thuộc, mồ mả của Triệu Đà đều ở vùng Chân-định. Đà sợ nhà Hán tru diệt họ hàng, cùng đào mồ cuốc mả tổ tiên lên mà phải lùi bước. Năm 183 trước Tây-lịch, Cao-tổ nhà hán là Lưu Bang chết, Lã-hậu chuyên quuyền cấm bán hạt giống, thú vật cái, kim khí sang Nam-Việt. Triệu Đà không thần phục nhà Hán, rồi đem quân đánh Trường-sa, Nam-quận. Kết luận : « Trường-sa là quận biên cương của Hán. Vậy ít nhất lãnh thổ Nam- Việt, Bắc tới Trường-sa. Nam quận là quận ở phía Bắc sông Trường-giang. Mà Nam-quận là quận biên cương Hán, thì biên giới Nam-Việt ít nhất tới Nam-ngạn sông Trường-giang ». 6. Lĩnh địa thời vua Trưng 6.1. Vua Bà của Trung-quốc là vua Trưng, Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn Ủy-ban y học Pháp-Hoa (CMFC) đi trao đổi tại các tỉnh cực Nam Trung-Quốc như Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam, Quý-châu và Tứ-xuyên... tôi thấy khắp các tỉnh này, không ít thì nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp năm tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà. Bấy giờ tôi lại tìm thấy ở Hồ-nam, nhiều di tích về đạo thơ øvua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ, tôi tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật Nguyệt như sau : « Ngày xưa, Ngọc-hoàng Thượng-đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầu.Vì sơ ý hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-hoàng Thượng-đế nổi giận đầy hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày thì Tiên-lại giữ sổ tiên-giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa. Ngọc-hoàng Thượng-đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-y đồng tử đầu thai để theo dẹp loạn. Thanh-y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đi. Ngọc-hoàng Thượng-đế truyền Nhị thập bát tú đầu thai theo. Thanh-y đồng tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán. Nhị thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng đời Đông-Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, thông minh quán chúng, có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả cho Đặng Thi-Sách. Thi-Sách làm phản, bị Thái-thú Tô Định giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung-quốc ở phía Nam sông Trường-giang : Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải. Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà. Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mã Viện. Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Động-đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại.Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, mộït tay nhổ núi Tháisơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường-giang, hồ Động-đình, oán khí bốc lên tới trời. Ngọc-hoàng Thượng-đế sai thiên-binh, thiên-tướng trợ chiến cũng bị bại. Ngài phải sai thần Du Liệt sang Tây phương cầu cứu Phật Như Lai. Đức Phật sai mười tám vị Kim-cương, ba ngàn La-hán trợ chiến cũng bị bại. Cuối cùng ngài truyền Quán Thế Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quán Thế Âm thuyết pháp nữ vương Phật Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu. Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối : Tích trù Động-đình uy trấn Hán, Phương lưu thanh sử lực phù Trưng (Một trận Động-đình uy trấn Hán Tên còn trong sử sức phù Trưng). Bỏ ra ngoài những huyền hoặc về Nữ-vương Phật-Nguyệt, tài liệu chứng minh : Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của lòng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lãnh thổ cũ của người Việt còn sót lại. Vua Bà mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng. Kết luận : « Khi đã có nữ tướng Phật Nguyệt đánh trận Trường-sa, hồ Động-đình. Mà có trận hồ Động-đình thì lãnh thổ thời Lĩnh-Nam, phía Bắc quả tới phía Nam sông Trường-giang ». 6.2. Quả có trận Trường-sa, hồ Động-đình năm 39 sau Tây-lịch, Huyền sử (những cuốn phổ) nói rằng : Khi bà Trưng Nhị cùng các tướng Trần Năng, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch). Trong trận đánh này, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang(8). Thẩm-giang chính là đọan sông ngắn ở Bắc, tiếp nối với hồ Động-đình. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng : Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu-Lan. Năm 1980 tôi đến đây tìm hiểu. Không khó nhọc tôi tìm ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cấp, một đọan chép : « Miếu thờ liệt nữ Trần Thiếu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá ». Tôi tìm tới nơi, thì miếu chỉ còn lại cái nền bằng đá ong, mộ vẫn còn.(9). Kết luận : « Thời Lĩnh-Nam qủa có việc Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh trận Trường-sa. Trong trận, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tuẫn quốc. Khi có trận đánh này, thì lãnh địa thời Lĩnh-Nam quả gồm có hồ Trường-sa , hồ Động- đình ». 6.3. Quả có trận Bồ-lăng, năm 42 sau Tây-lịch, Huyền sử kể rằng: ba tướng họ Đào là Chiêu-Hiển, Đô Thống và Tam-Lang được vua Trưng trao cho trấn tại Tượng-quận (Vân-nam) . Nhưng vì quân ít, thế cô, ba ông không chống lại với quân Hán, do Vương Bá chỉ huy. Ba ông đã tự tận. Hiện tại đền thờ của ba ông có đôi câu đối: Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược, Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung. Nghĩa là: trận Tượng-quận dương oai, rõ tài tướng giỏi. Bến Bồ-lăng tuẫn tiết, tỏ ra thần trung. Hầu hết các sử gia đều cho rằng: Bồ-lăng tức là bến Bồ-đề, ngoại ô Thăng-long. Vả lãnh thổ Việt-Nam hồi đó đâu có rộng vậy? Tôi không tin lý luận này. Tôi quyết có trận Tượng-quận. Vì sao? Vì ba ngài chiến đấu tại Tượng-quận, khi Tượng-quận thất thủ, tuẫn tiết thì tuẫn tiết tại chỗ, có đâu rút từ Tượngquận về tới Long-biên (Hà-nội) trải mấy nghìn cây số, rồi mới tự tử? Vả cái tên bến Bồ-đề mới xuất hiện vào năm 1427-1428 khi vua Lê Thái-tổ vây Đông-đô (Thăng-long). Vì vậy, trong dịp hè năm 1982, tôi cầm đầu phái đoàn CMFC sang Vân-Nam, Trungquốc, để nghiên cứu về một giống trà có khả năng trị tuyệt chứng Cholestérol, Triglycéride... Lợi dụng dịp nhầy, tôi quyết tìm cho ra sự thực. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Phái đoàn gồm: Trưởng-đoàn: Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ, Thành viên: Bác-sĩ Pascale Vareilla (Biologie), Claude Tarentino (Anatomie), Antonio Fernandes (Cardiologie.) Các dược sĩ: Valérie Cordinante, Jean Marie Limager. Kỹ sư canh nông Antoine Reynault, và một diễn viên điện ảnh Hương-cảng. Trong chương trình phái đoàn chỉ công tác tại các vùng thuộc Vân-Nam như: Chiêudương, Đông-xuyên, Khâu-bắc, Nguyên-dương, Bảo-sơn, Điền-Bắc, Côn-minh; rồi dùng phi cơ từ Côn-minh trở về Paris. Nhưng khi tới Đông-xuyên, giáo sư Trần Đại-Sỹ tìm ra dấu vết cuộc chiến giữa quân vua Trưng và quân Hán, mà không rõ ràng cho lắm. Ông dẫn phái đoàn trở lại Côn-minh, sau khi thảo luận với giáo-sư sử học Đoàn Dương của đại học Văn-sử, được giáo sư Đoàn cho biết: "Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ-lăng. Nay Bồ-lăng nằm trên lãnh thổ Tứ-xuyên, chỗ ngã ba sông Trường-giang và Ô-giang." Thế là giáo sư Trần Đại-Sỹ đề nghị phái đoàn dùng đường thủy về Hồ-Nam, sau đó đáp phi cơ từ Hồ-Nam ra Hương-cảng, rồi đi Paris. Trên đường từ Độ-khẩu (Vân-Nam) đi Hồ-Nam, sẽ qua... Bồ-lăng. Được đi chơi, dĩ nhiên phái đoàn mừng không sao tả siết!!!. Dĩ nhiên túi tiền của CMFC vơi đi 53.074 dollars nữa để chi cho phái đoàn. Theo tôi, với số tiền ấy, mà kết quả tìm được Tây-biên của Lĩnh-Nam, cũng rẻ chán. Thế nhưng khi trở về Paris, vụ này đồn đại ra ngoài, một Bác-sĩ Việt-Nam tên Trần L.(từng là bộ trưởng Y-tế hồi VNCH), viết thư cho ông bộ trưởng Văn-hóa Pháp, tố cáo Giáo-sư Trần Đại-Sỹ lợi dụng chức vụ trưởng đoàn công tác y khoa, để tìm di tích cổ sử viết sách. Ông Bộ-trưởng trả lời đại ý: "Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ không dùng một xu (centimes) nào của chính phủ Pháp, nên bộ không có thẩm quyền." Cuối thư ông Bộ-trưởng hạ một câu: " Ví dù Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ có lợi dụng chức vụ, có dùng tiền của bộ Văn-hóa, mà tìm tư liệu làm giầu cho thư viện Pháp thì là điều đáng khuyến khích. Hơn nữa tài liệu đó làm lợi cho Việt-Nam, Ông (Trần L.) phải vui mừng mới phải chứ." Tăng Hồng Minh tôi là người Việt gốc Hoa, tôi xin tiết lộ một chi tiết này, để các vị độc giả Việt-Nam suy nghĩ!!! Thế là phái đoàn dùng tầu đi từ Độ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang) qua Namkhê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngã ba sông Ô-giang, Trường-giang thì gặp bến Bồ-lăng. Tại đây tôi được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba vị thần, tướng của vua Bà. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị tướng. Cả vùng này có đạo thờ vua Bà (lên đồng). Hồi trước 1949 rất thịnh. Sau cách mạng Văn-hóa (1965-1967) miếu được cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán. Tôi đến thăm miếu. Miếu khá lớn, chủ hộ ở trong miếu trước đây là cán bộ Văn-hóa Bồ-lăng. Trước miếu có nhiều câu đối, nay chỉ còn lại có ba. Ông chủ hộ khoe rằng để bảo tồn di tích văn hóa, hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất: Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi, Đoạn trường, trục Định, tiết can vân. Nghĩa là: Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu. Đuổi được Tô Định, nhưng đau lòng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây. Tôi xin vào trong miếu xem, thì bệ thờ nay là nơi vợ chồng ông nằm ngủ. Hai bên bệ cũng có đôi câu đối. Giang-thượng tam anh phù nữ chúa, Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung. Nghĩa là: Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa. Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành. Ông chủ hộ thì cho rằng bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Vì vậy chữ bách tộc đây để chỉ người Việt. Ông thích lắm. Ông chỉ vào khoảng trống của hai cái cột thuật rằng trước kia cũng có đôi câu đối, nhưng bị vạc mất. Ông đề nghị tôi làm một đôi khác thay thế. Tôi nhờ hướng dẫn viên du lịch mua giùm hai hộp sơn. Một hộp sơn đỏ loại láng và một hộp loại thiếp vàng. Ông với tôi sơn cột mầu đỏ. Chiều hôm đó sơn đỏ khô, tôi trở lại viết bằng sơn thiếp vàng đôi câu đối có sẵn tại đền thờ ba ngài ở thôn Ngọc-động, huyện Gia-lâm, Hà-nội: Tái Bắc tức chinh trần, công cao trục Định, Bồ-lăng dương nộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng. Nghĩa là: Ải Bắc yêu gió bụi can qua, công cao đuổi Tô Định. Bồ-lăng nổi bao đào, nghĩa nặng phù vua Trưng. Kết luận: «Như vậy thì quả có trận Tượng-quận. Mà có trận Tượng-quận thì biên giới Lĩnh-Nam hồi ấy giáp Ba-Thục, tức Tứ-xuyên ngày nay». 7. Nghiên cứu những khai quật Vào những năm 1964-1965, giáo sư luật khoa Vũ Văn Mẫu đang sọan thảo tài liệu về cổ luật Việt-Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ- Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ, nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu. Tôi đã giúp giáo sư Mẫu đọc, soạn các thư tịch liên quan đến cổ luật. Chính vì vậy tập tài liệu « Cổ-luật Việt Nam và tư pháp sử » có chương mở đầu «Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ luật Việt-Nam » (10). Bấy giờ tôi còn trẻ, không đủ tài liệu khai quật của Trung-Quốc, của Bắc Việt-Nam, và bấy giờ những lý thuyết về ADN chưa có hệ thống, nên có nhiều chi tiết sai lầm. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ Văn-Mẫu. Tôi xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các sinh-viên về những sai lầm đó. Triều đại Hồng-Bàng thành lập từ năm 2879 năm trước Tây-lịch, tương đương với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn-hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc-Việt, Đông Vân-Nam, Quảng-Đông, Hồ-Nam, người ta đều tìm được những chiếc rìu thiết diện hình trái soan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang chỉ tìm được lọai rìu thiết diện hình chữ nhậït, chứng tỏ vào thời đó có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau. Sang thời đại văn-hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (âge de bronze). Trong thời gian này đã tìm được trống đồng Đông-sơn trên bờ sông Mã (Thanh hóa). Sự thật trống đồng đã tìm thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-nam, Quý-châu,Vân-nam, Quảng-đông, Quảng-tây, Nam-dương, Lào (13) , Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-dương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc-Việt, rồi tới Vân-nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần gần như giống nhau. Đồng 53%, Thíếc 15-16%, Chì 17-19%, Sắt 4%. Một ít vàng bạc. Khảo về y-phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường giang cho đến Trung Bắc- Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Bây giờ dùng hệ thống ADN kiểm những bộ xương, kiểm máu người sống, chúng tôi đã biện biệt được sự khác biệt vào thời Việt, Hoa lập quốc. Kết luận:, « Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động-đình, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói ». 8. Tổng kết, Sáu vấn đề tôi nêu ra ở trên, rồi đi tìm, tất cả đều còn đầy đủ di tích. Như vậy: Biên giới cổ của nước Việt-Nam, với các triều đại Hồng-bàng, Âu-lạc, Lĩnh-Nam phía Bắc quả tới hồ Động-đình, phía Tây giáp Tứ-xuyên. V. KẾT LUẬN Thưa Quý-vị Quý-vị đã cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, cho tới tin học, y học để tìm về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, về biên giới cổ của tộc Việt. Trong chính sử Trung-quốc, Việt-Nam đều ghi rõ ràng nguồn gốc tộc Việt, nhưng cái nguồn gốc đó căn cứ vào cổ thư của người Trung-hoa, nên hoàn toàn sai lạc. Bởi cổ thư cho rằng người Trung-hoa tự sinh ra, rằng người Việt chẳng qua do những người Trung-hoa di chuyển xuống lưu ngụ. Sự thực nhờ hệ thống ADN, chúng ta biết rằng chính những người ở châu Phi đến Đông Nam-á trước, rồi di chuyển lên Hoa-Nam. Tại Hoa-Nam giống người này lại hợp với giống người từ châu Phi sang châu Âu, rồi từ châu Âu vào Trung-á, hợp với người ở Hoa-Nam mà thành tộc Hán. Nhưng ngược lại, do cổ thư Trung, Việt, hay do ADN, chúng ta cũng biết rất rõ biên cương nước Việt thời mới lập quốc. Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà Nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên Âu-Việt, Lạc-Việt, Đông-Việt, Nam-Việt, Việt-Thường đều thuộc Bách-Việt cả. Cái tên trăm họ hay trăm Việt (Bách-Việt) phát xuất từ huyền thọai vua Lạc- Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14). Các vị cổ học, học cổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trườnggiang lấy mốc là hồ Động-đình với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 13-14 tuổi, tôi chỉ được học vài trang ngắn ngủi về nguồn gốc tộc Việt, trong khi đó gia đình cho tôi đọc mấy bộ sử dài hàng mấy chục nghìn trang của Hoa, của Việt (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn số trang gấp năm sáu). Chính tôi cũng nhìn nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học. Nay tôi mới chứng minh được. Phải chờ cho đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ Văn-Mẫu thạc-sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến-sỹ Nguyễn Sỹ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học theo lối cổ, không biết những phương pháp quy nạp, tổng hợp nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôi. Ngay từ lần đầu gặp nhau, mà một già, một trẻ đã có hai cái nhìn khác biệt. Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi mà lại có một cái nhìn rất trẻ, tôi mới có 25 tuổi lại có cái nhìn rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa-Việt đưa ra. Vì vậy tôi đã sưu tầm tất cả những gì trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Mẫu đem viết thành tài liệu giảng dạy. Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, vì chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay tôi mới biết có quá nhiều sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi Quý-vị. Hồi bấy giờ tôi sống ở Sài-gòn, thuộc Việt-Nam cộng-hòa đang là nước chống Cộng, nên tôi không thể sang Trung-Quốc, cũng như về Bắc tìm kiếm thêm tài liệu. Phải chờ đến năm 1976 làm việc cho CMFC, hàng năm dẫn các đồng nghiệp sang Trung-Quốc nghiên cứu, trao đổi y học, tôi mới có dịp tìm kiếm lại di tích xưa trong thư viện, trong bảo tàng viện, trên bia đá cùng miếu mạo, đền chùa và nhất là đến tại chỗ nghiên cứu. Gần đây nhờ các đồng nghiệp dùng hệ thống ADN, tôi mới biện biệt được nguồn gốc tộc Việt, biên cương thời lập quốc của tộc Việt. Hôm nay tôi xin kết luận với các bạn rằng : - Người Trung-hoa không phải là con trời như những văn gia cổ của họ viết, dù ngày nay họ còn nghĩ như vậy. - Họ cũng không tự sinh ra, rồi tản đi tứ phương. - Không hề có việc người Trung-hoa trốn lạnh hay vì lý do chính trị di cư xuống vùng đất hoang, tạo thành nước Việt. Trong lịch sử quả có một số người Trunghoa di cư sang Việt-Nam sau những biến cố chính trị. Như ngày nay người Việt di cư đi sống khắp thế giới. - Lại càng không có việc người Việt gốc từ dòng giống Mã-lai như một vài người ngố ngếch đưa ra. - Theo sự nghiên cứu bắng hệ thống ADN, từ cổ, giống người Trung-hoa, do giống người từ Đông Nam-á di lên. Những người Đông Nam-á lại đến từ châu Phi qua ngả Nam-á vào thời gian hơn 20.000 năm trước. - Người châu Phi đến Bắc Trung-hoa do ngả Âu-châu rồi vào Trung-á, khoảng 15.000 năm. Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoa. - Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống mãi vịnh Thái-lan. - Biên giới nước Việt thủa lập quốc gồm từ Nam sông Trường giang đến vịnh Tháilan, Đông tới biển. Tây tới Tứ-xuyên của Trung-quốc ngày nay. Đến đây tôi xin phép các vị giáo sư, quý khách, các sinh viên cho tôi ngừng lời. Xin hẹn lại quý vị đến tháng 11-92 tôi sẽ trình bày trước qúy vị về nguồn gốc triết Việt. Trân trọng kính chào quý vị. Giáo-sư Trần Đại-Sỹ, Chú giải của Tăng Hồng Minh,(1) Tiêu biểu mới nhất là một nhóm thức giả do nhà văn Vương Kỳ Sơn đứng chủ biên, đã xuất bản cuốn Việt-Nam đệ ngũ thiên niên kỷ vào năm 1994 tại Hoa-kỳ. (2) Sau này được tôn thụy hiệu là Lục-Dương. (3). Như vậy vua Lạc-Long lấy con gái của anh con bác. (4) Độc giả có thể tìm đọc tài liệu nghiên cứu này bạt quyển 1. Anh- hùng Lĩnh-nam do Nam- Á Paris xuất bản 1987 mang tên « bản phụ chú nghiên cứu về nỏ thần ». (5). Phương pháp mà các giáo sư Tarentino, Vareilla Pascale dùng để biện biệt những bộ xương khai quật trong cổ mộ vùng Hồ-nam, Vân-nam, Quảng-châu, Quý-châu không khác các chuyên viên Hoa-kỳ trong ủy ban tìm kiếm tử sĩ Hoa-kỳ tại Việt-nam đã xử dụng. Có điều, các chuyên viên Hoa-kỳ gặp nhiều khó khăn hơn, vì phải đi vào chi tiết từng cá nhân, còn IFA chỉ phân chủng loại. (6). Xin xem Cẩm-khê-di-hận do Nam-Á Paris xuất bản 1992, để biết hai trận hồ Động-đình. Một trận do Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Phật-Nguyệt, Đinh Bạch- Nương, Đinh Tĩnh- Nương, Quách-Lãng đánh với Lưu-Long, Mã-Viện. Một trận do Hoàng Thiều-Hoa cùng với các tướng trên đánh với mười hai đại tướng quân Hán . (7) Tư-mã Thiên, Sử-ký, quyển 1, Ngũ-đế bản-kỷ, Trung-hoa thư cục xuất bản 1959 trang 3-6. (8) Độc giả muốn biết chi tiết trận đánh lịch sử này, xin đọc Động-đình hồ ngoại-sử, cùng tác giả, do Nam-Á Paris xuất bản (1990). (9) Xin đọc « Mùa xuân trên hồ Động-đình tưởng nhớ Trưng-Vương » trong phần bạt Anhhùng Lĩnh-nam, do Nam-Á xuất bản 1987. (10) Vũ Văn- Mẫu, Cổ luật Việt-nam và tư- pháp sử, quyển thứ nhất, tập thứ nhất, trang 9-51. (11) Chữ văn hóa Bắc-sơn ở đây chỉ có ý nghĩa rằng cuộc khai quật ở núi Bắc-sơn (Lạng-sơn), đã tìm thấy những cổ vật đồ đá.(thời kỳ đồ đá) (12) Chữ văn hóa Đông-sơn chỉ cuộc khai quật ở Đông-sơn, đã tìm thấy đồ đồng (thời đồ đồng). (13) Hè 1992 sau khi cùng phái đoàn IFA du khảo về loại cây trị cholestérol ở Vân-nam, thời gian còn lại, Giáo-sư Trab Đại-Sỹ đi khảo cứu xương người cùng các khai quật ở Vân-nam, Quảng Đông (Trung-quốc), các tỉnh Bắc-thái như Nùng-khai, Thanon, U-bon, U-don Tha-ni. Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đã tìm lại được hai trống đồng thời vua Trưng, ở Quảng-đông, để trong bảo tàng viện địa phương. Ông đã mất rất nhiều tiền, cùng trăm ngàn khó khăn mới mua và đưa lọt về Paris. (14) Chữ trăm trong ngôn ngữ Việt có nhiều nghĩa. - Có nghĩa là đời người như : Trăm năm trong cõi người.ta. Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau (Kiều) Trăm năm xe sợi chỉ hồng, Bắt người tài sắc buộc trong khung trời. Trăm năm, trăm tuổi ,trăm chồng, Hễ ai có bạc tôi bồng trên tay. (ca dao) - Có nghĩa là chết: Khi nào cụ tôi trăm năm đi rồi. Nhân sinh bách tuế vi kỳ ( Người ta sinh ra lấy trăm năm làm hẹn) Trăm năm như cõi trời chung, Có nghề cũng phải có công mới thành. (ca dao) - Có nghĩa là tất cả : Trăm họ, hay trăm bệnh, Trăm hoa đua nở mùa xuân, Cớ sao cúc lại muộn buồn thế kia ? (ca dao) Trăm dâu đổ đầu tằm. (Tục ngữ) Trăm con trong huyền sử Việt hay Bách-Việt có nghĩa này. Tài liệu nghiên cứu chính SÁCH CHỮ HÁN Tư Mã-Thiên, Sử ký, Trung-hoa thư cục Thượng-hải xuất bản 1959 Ban-Cố, Tiền Hán thư, Trung- hoa thư cục xuất bản1959. Phạm Việp, Hậu Hán thư, Trung hoa thư cục xuất bản 1959. Hoài Nam Tử, quyển 18, Trùng Hoa thư cục Đài Bắc xuất bản, 1959. Cố Dã-Vương, Địa- dư chí, Cẩm-chương thư cục xuất bản 1920. Trần Luân-Quýnh, Hải quốc kiến văn lục, cổ bản , thư viện Paris. Lê Quý-Đôn, Phu-biên tạp lục, cổ bản của thư viện Paris. Lê Quý-Đôn, Đại-Việt thông sử, cổ bản của thư viện Paris. Phan huy-Ích, Lịch triều biến chương lọai chí, cổ bản của thư viện Paris. Quốc - sử quán, Hoàng-Việt địa dư chí, bản của thư viện Paris. Quốc-sử quán, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản của thư viện Paris. Địa đồ xuất bản xã, Trung-hoa nhân dân cộng hòa quốc phâõn tỉnh địa đồ tập, Bắc-kinh 1974. Đại học văn khoa Hồ-nam, Hồ-nam lịch đại khảo chứng 1980. Cùng rất nhiều tài liệu không tác giả, lưu trữ tại thư viện, bảo tàng viện Hồ-nam, Quý-châu, Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-Nam. SÁCH CHỮ PHÁP Léonard Aurouseau, La première conquête chinoise des pays anamites, BEFEO XXIII. Claude Madrolle, Le Tonkin Ancien, BEFEO, XXXVII. SÁCH CHỮ VIỆT Đào Duy-Anh, Nguồn gốc dân tộc Việt-nam, Hà-nội 1946.
    1 like
  7. Bài tham khảo Phản biện quan điểm của ông Đỗ Kiên Cường 19-03-2007 Trên loạt bài về ngoại cảm tâm linh gần đây trên báo An Ninh có ý kiến của ông Đỗ Kiên Cường : Tuy nhiên những nhận định của ông Đỗ Kiên Cường này hoàn toàn chỉ là mang danh khoa học, mà thực sự thiếu sự nhận định chính xác.Và đây là ý kiến của một đọc giả của báo An Ninh chỉ ra sự lệch lạc trong lý luận của ông Đỗ Kiên Cường. 1. Sự tiến bộ không ngừng là tiêu chí của một khoa học tốt, nhưng môn ngoại tâm lý thì không đạt được một tiến bộ đáng kể nào sau cả trăm năm. Ngoại cảm là một hiện tượng tồn tại trên thực tế chứ không phải là một lý thuyết hoặc một giả thuyết khoa học, nên không thể đòi hỏi sự phát triển. Cũng như quả cà chua là một hiện tượng tồn tại trên thực tế thì nó vẫn cứ vậy hàng ngàn năm không thể phát triển, đến khi điều kiện môi trường thay đổi . 2. Ngoại cảm được định nghĩa một cách khác thường, không phải theo nghĩa nó là cái gì mà theo nghĩa nó không là cái gì! Vì là một hiện tượng tồn tại trên thực tế và không phải là một hiện tượng phổ biến, nên việc định nghĩa và giải thích nó tủy theo khả năng tri thức nhận xét về nó. 3. Các tuyên bố về chứng cứ khoa học của ngoại cảm thường bị cách ly khỏi quan điểm thông thường của môn thống kê học. Là một hiện tượng tồn tại trên thực tế thì chính thực tế là chứng cứ tự thân khách quan của nó. 4. Các nghiên cứu ngoại cảm thường mắc lỗi giản lược trong phương pháp luận. Đó là do tri thức của các nhà nghiên cứu khi nhận xét về hiện tượng ngoại cảm, chứ không phải là chứng cứ phủ nhận một thực tại ngoại cảm. 5. Ngoại cảm không liên quan với bất cứ một lý thuyết khoa học đã được xác lập nào. Ngoại cảm là đối tượng nghiên cứu trên cơ sở các lý thuyết khoa học có giải thích được nó hay không, chứ bản thân nó không phải là một lý thuyết khoa học . Nó chỉ là một hiện tượng tồn tại trên thực tế . Bởi vậy không thể đạt điều kiện nó phải liên hệ với một lý thuyết khoa học. Mà ngược lại lý thuyết khoa học có giải thích được nó hay không . Không thể buộc cac 1lý thuyết khoa học hiện tại phải giải thích được tất cả mọi hiện tượng . Mà là chính các hiên tượng chưa giải thích được khiến con người phải hoàn chỉnh các lý thuyết hiện hữu. 6. Tính lặp lại là điều cốt tử của các khoa học thực nghiệm. Ngoại cảm không thỏa mãn tiêu chí này. Ngoại cảm là một hiện tượng tồn tại trên thực tế chứ không phải là một thực nghiệm của một giả thiết hoặc lý thuyết khoa học, nên không thể đỏi hỏi điều kiện này . 7. Ngụy tạo, lừa gạt là bạn đồng hành với ngoại cảm trong suốt tiến trình lịch sử. Sự lừa đảo có thể xảy ra ngay trong nghiên cứu khoa học hoặc bất cứ ngành nghề nào. Tóm lại Ngoại cảm là một hiện tượng tồn tại trên thực tế , chứ không phải là một phương pháp hoặc một lý thuyết khoa học, nên không thể lấy tiêu chí cho một lý thuyết khoa học để biện giải, mà vấn đề đặt ra là: Tri thức khoa học hiện tại giải thích hiện tượng này như thế nào. Và với những ý kiến của mình thì ông Đỗ Kiên Cường càng tự chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về những vấn đề ý thức và sự tồn tại của ý thức. Ngoại cảm chỉ là một hiện tượng nên nó không thể phát triển như lý luận và những hiện tượng này sẽ ngày càng phát triển, để giải thích những hiện tượng như vậy thì cần phải có cả một hệ thống lý thuyết đi kèm. http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?t=8266
    1 like
  8. Hi. Cảm ơn Vusonganh và anh chị em.Quẻ nghiệm đấy chứ! Quẻ này thì chậm, nhưng bền vững và lâu dài.
    1 like
  9. Hãy sử dụng nút "cám ơn" để tiết kiệm công sức và trang bài nhé Chau!
    1 like
  10. Tầng tầng lớp lớp Âm nhạc Thiên đường (Nhạc Minh) Tôi bắt đầu tập Pháp Luân Đại Pháp vào năm 1995. Từ khi bài viết của Sư Phụ “Khai khải thế gian môn” được phát hành vào ngày Một Tháng Bảy, 2006, tôi bắt đầu nghe thấy một thứ âm nhạc tuyệt vời mỗi ngày. Lúc đầu, tôi không nhận thức được thiên nhĩ của mình đã khai mở, vì tôi luôn để mở cửa sổ nên tôi đã nghĩ rằng hàng xóm của mình chơi thứ nhạc tuyệt mỹ đó. Sau này, khi tôi hỏi gia đình về điều đó, tất cả mọi người đều nói họ chẳng nghe thấy một thứ âm nhạc nào cả. Khi đó, tôi mới nhận ra đây là âm nhạc đến từ các tầng thiên thượng. Thậm chí khi tôi đang làm các việc lặt vặt, đi trên phố, ngồi trong xe hơi, hay nấu ăn, âm thanh ồn ào chẳng thể át được tiếng nhạc. Khi âm nhạc trở nên to hơn, tôi có thể nghe được rất rõ. Tôi có thể nghe thấy được bất kì lúc nào trừ khi tôi đi ngủ. Âm nhạc thiên đường được tấu lên qua những nhạc cụ truyền thống Trung Quốc. Giống như nhạc của “Phổ độ”, “Cứu thế”, các bản nhạc đều có những giai điệu rất đẹp đẽ và êm dịu. Có giai điệu chính, giai điệu phụ, hoặc rất nhiều các giai điệu đệm. Có một số bản nhạc rất phức tạp, sâu xa, thể hiện nội dung rất uyên thâm và phong phú. Tôi không thể nhớ rõ ràng giai điệu sau khi nghe nhạc. Tôi có thể nhớ được một số giai điệu đơn giản sau khi nghe đi nghe lại một thời gian dài. Tuy vậy, tôi không thể thực sự làm được khi cố gắng ngân nga giai điệu. Con người chỉ có thể cảm thận được âm nhạc của thiên đàng chứ không thể hiện được nó. Âm nhạc mà tôi nghe thấy rất hài hoà. Không có mở đầu hay kết thúc, và bản nhạc luôn chơi tuần hoàn. Có các âm điệu khác nhau và có những nội hàm khác nhau ở các tầng khác nhau. Một số bẳt nguồn từ thế giới vi quan của thiên thể khổng lồ và trải rộng qua vũ trụ rộng lớn. Một số tràn đầy sức mạnh và hùng vĩ, với sức mạnh đất long núi lở và hiệu ứng của những cơn sóng cồn. Một số âm nhạc lại êm dịu, tinh tế và mỏng manh. Một số tuyệt vời, thanh nhã, từ bi và mỹ diệu. Một số phấn chấn, uyển chuyển, mê say, ngợi ca. Một số sâu lắng, trầm, ngay thẳng và trang nghiêm. Một số lại mang tiếng hót chim thiên đường, tiếng chuông reo, âm thanh của trống, của đàn sáo, nhị, guhzheng, guqi (nhạc cụ dây truyền thống), v.v. Tôi chưa bao giờ học lí thuyết âm nhạc, và tôi cũng chẳng biết chơi nhạc hay đọc các nốt nhạc, do vậy tôi cũng không thể diễn tả được toàn bộ những điều này. Lắng nghe âm nhạc thiên đường làm tôi cảm nhận như trăm nghìn bông hoa đang nở trên Thiên thượng trong những sắc màu rực rỡ và sáng chói. Ở đó có những toà nhà, sân trời, tháp cao, trùng trùng lớp lớp núi xanh, và những dòng nước sạch lành, trong vắt. Có những tiên nữ múa lượn trong không gian, với những chiếc áo rực rỡ sác cầu vồng, và những chiếc váy đính lông với dải băng lụa vắt ngang vai. Âm nhạc đã đưa đến một cảnh giới tư duy vô cùng đẹp đẽ, và xoá đi trong tôi những tư tưởng nghiệp lực. lắng nghe thứ âm nhạc thiên đường này đã khiến tôi có thể ngày càng tinh tấn đi tiếp trên con đường thành thần của minh, làm tốt ba điều mà các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp cần làm, và cố gắng hết sức mình cứu độ chúng sinh nhiều hơn nữa. Lần đầu tiên khi nghe thấy được một trường đoạn chính của âm nhạc thiên đường, tôi nghe trong vòng một tháng. Nó rất phong phú, được thể hiện bởi rất nhiều nhạc cụ, các giai điệu đệm biến đổi liên tục. Tôi mất một tháng để có thể ghi nhớ giai điệu chính. Tôi có thể nghe nhạc trên tàu đến Trường Xuân thăm họ hàng, trên ôtô bus, và ở nhà những người bà con. Đặc biệt, đêm đầu tiên ở nhà họ hàng, âm thanh cộng hưởng vang xa và mạnh mẽ, như là được phát ra từ một máy phóng thanh lớn, và nhạc được tấu lên như vậy cả đêm. Tôi tin rằng đó chính là vì Trường Xuân là quê hương Sư Phụ, do đó đây là một nơi thiêng liêng. Tôi chưa bao giờ học múa. Từ khi nghe bản đầu tiên âm nhạc thiên đường tháng Bảy năm 2006, tôi luôn cảm thấy thôi thúc muốn nhảy múa. Ở nhà, tôi cố để cánh tay mình nhẹ nhàng theo tiếng nhạc, và tôi bắt đầu xoay vòng và múa theo những chuyển động uyển chuyển, nhẹ nhàng. Điều đó khiến tôi ngạc nhiên “Tôi có thể múa vũ điệu thiên đường!” Các động thái vũ đạo khác nhau cứ diễn ra một cách tự nhiên theo các giai điệu âm nhạc khác nhau. Hai bàn tay tôi trong tư thế lòng bàn tay hoa sen. Chồng tôi nhìn vợ và cảm thán, “Pháp Luân Đại Pháp thật màu nhiệm. Em là người phụ nữ tuổi bốn mươi chưa bao giờ học múa, mà bây giờ em có thể múa quá đẹp!” Vũ điệu cũng là một loại ngôn ngữ và là một biểu hiện tuyệt vời sự trang trọng và thiêng liêng của Đại Pháp. Trong năm qua, nhiều khi có một vài bản nhạc chơi đều đặn trong một tháng. Dường như đó là một trường đoạn chính, phù hợp cho một số tầng nhất định, Tôi có thể nghe thấy một số đoạn được chơi trong khoảng nửa tháng. Năm nay thậm chí đã nhanh hơn, với một số đoạn, hay một số tầng, kéo dài trong một tuần, có một số diễn ra trong vòng khoảng ba ngày, hai ngày, hoặc một ngày. Đôi khi có nhiều giai điệu khác nhau vào buổi sáng và buổi chiều, và tương hợp, tôi đột phá tầng một cách nhanh chóng. Thời gian cũng tiến với tốc độ khác nhau trong các bản nhạc khác nhau trong cùng một ngày. Khi thời gian trôi nhanh, nhịp độ nhạc cũng nhanh hơn, dường như là nhạc được chơi ở tốc độ nhanh. Khi thời gian trôi chậm chạp, âm nhạc dễ chịu, mê say. Tôi thực sự mong muốn chia sẻ vẻ đẹp các âm thanh thiên đường này đến mỗi người. Mỗi một đệ tử Pháp Luân Đại Pháp đều có kinh nghiệm cá nhân và có thể cảm nhân sự diệu kì của Đại Pháp. Những gì tôi vừa viết chỉ là chút ít một số điều đã vượt ra khỏi ngôn ngữ của con người và nó có ý nghĩa chứng thực Pháp, nhắc nhở bản thân tôi tinh tấn tiến lên phía trước, cứu độ chúng sinh nhiều hơn, và viên mãn hoàn thành thệ nguyện mà mình đã hứa.
    1 like
  11. Cự -Nhật cách [nhật lãng thiên môn ] chỉ có ở 2 vị trí ,Dần và Thân ;nếu ở Dần thì công danh sớm đạt vừa có quyền vừa có tiếng ;nếu nằm ở Thân thì công danh hơi muộn màng về già mới có nhưng chỉ tiếng nhưng không có thực quyền Phu cung có mã- khốc -khách chắc chắn sẽ lấy chồng phương xa ,chồng cũng là người tài giỏi [rất chính xác ] người chồng có 2 dòng máu ,hay người khách ngoại ,là do Khốc -Khách tọa thủ đồng cung . nếu khốc- khách đồng thủ các cung sau đây cũng có trường hợp tương tự : phụ mẫu ;có cha hay mẹ là người 2 dòng máu hay khách ngoại. huynh đệ ; tử- tức cũng giống như trên [các trường hợp nầy tỹ lệ đúng rất cao có thể 8/10 ]
    1 like
  12. Khanh Ngoc thân mến. "Ở lại công ty cũ, đương đầu với khó khăn, không né tránh ...?" Sinh Tiểu cát. Những chuyện "buồn buồn" như bạn nói là không tránh khỏi, nhưng công việc chắc cũng sẽ không có vấn đề gì. Mọi việc sẽ tốt lên từ từ. Chúc vui vẻ may mắn. Thân mến TinhTam
    1 like
  13. 10. Tuần Triệt Không vong xuất hiện ở hầu hết môn dự báo của Đông Phương. Tử Bình, Tử Vi, Bốc Dịch,... từ trước đến nay biết bao tranh luận về không vong nhưng vẫn chưa ngã ngũ được. Riêng Tử Vi còn có thêm sao Triệt để chỉ không vong, và cũng an dựa vào Thiên Can của năm sinh. Tuần Triệt nên hiểu như sau: -Tuần hay Triệt cũng là một sao ảnh hưởng của nó lan tỏa ra cung tam hợp và cung xung chiếu. Khi luận đoán cứ xem Tuần Triệt như là 1 tinh đẩu Tử Vi bình thường mà luận. Tuần, Triệt tính chất chung là sự che giấu, ẩn tàng. -Bản cung có nhiều cát tinh phù trợ nếu gặp Tuần hay Triệt thì chờ đến lúc xuất không sẽ cát, bản cung vốn đã nhiều sát tinh suy yếu thì đến lúc xuất không sẽ mang họa. -Có Tuần Triệt mà có Tứ Hóa ngay tại bản cung thì cũng xem như không còn Tuần Triệt, chờ đến cung vận tốt sẽ cát lành. -Tuần Triệt triệt tiêu sức mạnh của nhau, tháo gỡ nhau. -Mệnh, Tài, Quan,... có nhiều cát tinh hỗ trợ mà có Tuần, Triệt chờ đến đại vận tốt sẽ phát. ... còn tiếp ...
    1 like
  14. Chen nhau giành “lộc” Thánh Gióng (Dân trí) - Ngay sau nghi thức cắt băng khánh thành lễ rước tượng đài Thánh Gióng lên đỉnh núi đá Chồng (Sóc Sơn, Hà Nội), hàng trăm người dân, phật tử đã vây kín khu vực tượng đài, tranh giành nhau “lộc” Thánh là những tấm vải đỏ phủ tượng đài. >> Rước tượng Thánh Gióng trong ngày sinh nhật Bác: Một sự trùng hợp đẹp >> Tượng đài Thánh Gióng được hoàn thành sau giọt đồng cuối cùng Từ sáng sớm ngày 19/5, đoạn đường từ khu vực thi công đúc tượng lên đỉnh núi đá Chồng đã có chật kín người dân và bà con phật tử khắp nơi đổ về tham dự lễ rước tượng Thánh. Đoàn người hối hả kéo nhau vượt quãng đường gần 4km mới mở còn đỏ au màu đất để đến khu vực dựng tượng đài Thánh Gióng trên đỉnh núi cao gần 300m. Gần 10 giờ sáng, hơn 10 chiếc xe hoa rực rỡ nối đuôi nhau song hành cùng 2 chiếc xe chở các phần tượng đài Thánh Gióng cùng hàng ngàn người tiến lên đỉnh cao nhất của núi đá Chồng. Sau lễ cắt băng khánh thành lúc 10h30, hàng trăm người đã ùa đến gần vị trí tượng đài để xin “lộc” Thánh là những mảnh vài đỏ trùm tượng đài. Giữa cái nắng nóng gay gắt, oi ả, cảnh tranh giành, giằng co “lộc” Thánh khiến người chứng kiến cũng thấy... mướt mồ hôi. Ban tổ chức sau đó đã dùng kéo chia nhỏ những thớ vải đỏ để chia đều cho những người dân có mặt tại khu vực đặt tượng đài. Chen nhau xin "lộc" Thánh. (Ảnh: Quốc Đô) Anh Nguyễn Hữu Huấn (Hà Nội) cho biết: “Thánh Gióng là một trong bốn vị Tứ Bất Tử, Ngài rất thiêng. Tôi may mắn giành được một giải lộc đỏ phủ tượng đài với hy vọng may mắn và hạnh phúc sẽ đến với tôi và những người thân”. Thượng tọa Thích Thanh Quyết - Ủy viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Giám đốc Học viện Phật giáo Sóc Sơn - cho rằng: “Hình tượng Ngài Thánh Gióng đã khẳng định sức mạnh, vị thế và niềm tự hào cho cả dân tộc cũng như tinh thần yêu nước thương dân sâu sắc của Ngài. Việc bà con phật tử giành nhau chút “lộc” Thánh từ Ngài nhân dịp Ngài chuẩn bị ngự trên đỉnh núi đá Chồng được xem là điều may mắn. Tôi nghĩ rằng đây cũng là một nhân duyên mà không phải ai cũng có được”. Cảnh bà con phật tử chen lấn, xô đẩy, giành "lộc" Thánh Gióng trong buổi sáng qua 19/5: Lễ cắt băng khánh thành vừa dứt... ... hàng trăm người dân, phật tử đã ùa tới xin "lộc"... BTC rất vất vả để có thể chia đều lộc cho bà con. Vận chuyển tượng đài Thánh Gióng lên đỉnh núi đá Chồng bằng xe siêu trường, siêu trọng. (Ảnh: Quốc Đô)
    1 like
  15. Một khi con người ta tìm về tâm linh, lễ bái nhiều hơn trông chờ vào lộc thánh nhiều hơn là lúc thế nhân suy yếu niềm tin vào bản thân, khả năng "nhân định thắng thiên" hay vì thế sự quá nhiểu nhương không có nẽo đường ẩn náu? Tôi nhận thấy đây là tín hiệu buồn! bởi vì càng lúc con người sống bớt tử tế với nhau phạm tội trong ý thức và vô thức càng gia tăng nên bám víu mong manh vào đấng thiêng liêng của ngàn năm để nhận sự chở che cứu rỗi.
    1 like
  16. bạn ndk làm thơ hay nhỉ :lol: ,nói trúng tim đen của rin rồi :rolleyes:
    1 like
  17. Bài thơ viết dở tặng ai Loa kèn đã nở, kẻo hoài nỗi mong. Xem tranh của chị Rin là Nàng Thơ lại đến thăm em! hihi :lol:
    1 like
  18. Chào chị, Chị Rin giải thích dễ hiểu đấy chứ! Nếu chị quyết tâm chuyển cơ quan thì vẫn có thể được, nhưng nơi đó sẽ còn khó khăn hơn nơi cũ (cãi cọ, đấu đá....). Chi bằng chị cứ ở lại cơ quan, giải quyết mọi sự rắc rối rồi "ngày mai trời lại sáng", các đồng nghiệp sẽ có thiện cảm nhiều hơn với chị và mọi chuyện sẽ trôi qua bình thường. Vài lời lạm bàn! Chúc chị nhiều may mắn! (và đừng quên cảm ơn chị Rin trên kia nhé!) :lol:
    1 like
  19. Trình bày với bố mẹ 2 bên thế này nha : Giáp Tý + Đinh Mão Thiên Can : Giáp mộc sinh Đinh hỏa : dương sinh Âm thuận lý, thiên can chồng sinh vợ là tốt nhất theo LTLV Địa Chi : Tý và Mão : Tý thủy sinh Mão mộc, cũng rất tốt. Mạng Giáp Tý mạng Kim sinh Đinh Mão mạng Thủy : mạng chồng sinh vợ cũng là tốt hàng thứ 2 theo LTLV. Kết hợp lại 3 yếu tố trên là quá tốt rồi, vợ chồng hòa thuận, chồng rất chiều vợ, lấy nhau cũng khấm khá lên đó. À, theo Lạc Thư Hoa Giáp thì tuổi Bính Dần mạng Thủy, các cụ ở nhà bạn chắc xem ngoài giang hồ theo sách TQ nên Bính Dần mạng Hỏa, khắc Kim. Ngoài ra các cụ còn nói vụ Tý Ngọ Mão Dậu tứ hành xung, nhưng nên nhớ chỉ Tý xung Ngọ, Mão Xung Dậu. Hic, thế là đôi lứa bị cản trở!!! Nếu cưới sớm thì sinh con Giáp Ngọ và Đinh Dậu, hội đủ tứ Vượng, phát ầm ầm!
    1 like
  20. Chân lý của Bờm và điều khiến tôi giật mình... Tác giả: Nguyễn Hoàng Tuần Việt Nam. Một câu ca dao cổ với những hồn cốt của thằng Bờm sao lại có thể vận vào cuộc sống đương đại của chúng tôi đơn giản, dễ dàng như vậy sao? Quả thật tôi rất không muốn tin rằng có một sự thật cay đắng như thế! Các giả thiết tư duy thằng Bờm Tôi có một người bạn ngoại quốc tên quen gọi là Bill, chuyên nghiên cứu về văn hoa dân gian Việt Nam. Ông muốn tìm hiểu sâu về thằng Bờm, một hình tượng làm ông khá ngạc nhiên và thích thú. Ông thuôc lòng và thường nghêu ngao hát bằng cái giọng ngoại quốc lơ lớ vui nhộn bài thằng Bờm nổi tiếng mà người Việt mình có lẽ ai cũng biết: Thằng Bờm có cái quạt mo Phú ông xin đổi ba bò chín trâu Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu Phú ông xin đổi ao sâu cá mè Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè Phú ông xin đổi một bè gỗ lim Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười! Thằng Bờm được lưu truyền từ rất lâu, được coi là một trong số những nhân vật tiêu biểu nhất của ca dao Việt, của dòng văn học dân gian Việt thuộc một nền văn hóa cả nghìn năm rực rỡ mà dân Việt nam ta thường lấy đó làm nỗi tự hào. Ông ngoại quốc này quan tâm cũng là phải! Rồi một hôm ông bạn ngoại quốc này hỏi tôi một cách khá nghiêm túc : "Này ông Hòang, từ thực tiễn đòi sống Việt ông có thể lý giải như thế nào về phương pháp tư duy thằng Bờm?" Thằng Bờm có cái quạt mo... Ảnh Saga Bài ca thằng Bờm đọc lên ngồ ngộ, có vẻ ngây ngô nữa, đọc cho vui vậy thôi. Đã có khi nào tôi và các bạn băn khoăn suy nghĩ về phương pháp tư duy của nhân vật Bờm nổi tiếng này đâu! Câu hỏi làm nhân vật Bờm trở nên quan trọng và phức tạp quá nhỉ! Với người nước ngoài, lại là một học giả, mình đâu có thể trả lời qua loa cho được. Tôi còn mỗi một cách là đưa ông bạn này đến gặp giáo sư Trí Việt mong được nghe những kiến giải xác đáng từ nhà học giả thông thái khả kính của chúng ta. Tại nhà giáo sư Trí Việt, sau khi nghe chúng tôi trình bày,vị giáo sư khả kính gọi người phụ tá của mình ra dặn dò tìm cho chúng tôi một bản thảo lưu trước đấy của giáo sư rồi ân cần nói : "Rất cám ơn ông Bill đã nêu ra một điều rất thú vị, đáng phải suy nghĩ về thằng Bờm. Người Việt chúng tôi thường tiếp nhận các hiên tượng sự việc dễ dãi theo cảm tính, ít khi lật ngược lại vấn đề. Đáng buồn là phải để một người nước ngoài như ông đặt vấn đề giúp. Văn hóa dân gian theo tôi là những gì được chắt lọc từ đời này qua đời khác, luôn phản ánh cái hồn, cái tâm thức của một đất nước, của một dân tộc. Vậy có mối tương quan nào đó giữa nhân vật Bờm với nếp nghĩ nếp cảm của người Việt hay không? Về trường hợp cụ thể này, cách đây trên 20 năm tôi có một phác thảo nhỏ mới nêu được 4 giả thiết về cách tư duy thằng Bờm. Vừa lúc đó người phụ tá của giáo sư Trí Việt mang ra cho chúng tôi một bản đánh máy chữ theo kiểu mổ cò trên lọai giấy pơluya rất mỏng đã ố vàng mà giáo sư tự đánh máy những năm đầu thập niên 90 khi bắt đầu một thời kỳ "Đổi mới". Đưa bản phác thảo cho chúng tôi, vị giáo sư còn cẩn thận căn dặn thêm: "Tôi cũng phải nói lại một lần nữa rằng đây chỉ là các giả thiết chưa được minh chứng, cũng mới chỉ là các suy tư ở dạng phác thảo, không phải là kết luận khoa học. Không biết có giúp được gì cho khảo cứu của ông?" Tôi nhanh nhẩu xin phép giáo sư Trí Việt đươc copy lại một bản cho mình và cho cả các bạn nữa. Sau đây là phần trích từ bài viết của giáo sư Trí Việt :"Các giả thiết về phương pháp tư duy thằng Bờm" để bạn đọc gần xa có thể chia sẻ và cùng chiêm nghiệm: "... Giả thiết 1: Bờm bản năng gốc: Trong trường hợp này, Bờm tư duy bản năng như con nít, không hơn gì các loài là bao, không trưởng thành trong suy nghĩ , chưa phát triển được các kỹ năng so sánh. Vì vậy Bờm hành sử theo nhu cầu bản năng gốc của tự nhiên: Không phải nghĩ, phàm là cái gì thỏa mãn được cái bụng cậu, cái tính ham ăn của cậu là quan trọng nhất! Ngoài cái ăn được ngay ra, mọi thứ khác đối với Bờm đều vô nghĩa, đều không quan trọng chút nào. Ở đây dân gian vốn đã có câu "Dĩ thực vi tiên" ! Giả thiết 2 : Bờm "tồn tại hay không tồn tại " Bờm ở trong môt hoàn cảnh cùng quẫn, bị đói khát bệnh tật, triền miên giữa cái sống và cái chết Không biết có tồn tại được đến ngày mai hay không. Trong hòan cảnh sống bữa nay, chưa lo được bữa mai ấy, Bờm không thể nghĩ dến một cái gì cao xa, dài hơi hơn quá ngày hôm nay. Trong cuộc vật lộn vì sự tồn tại trước mắt, người ta đâu có thể tính chuyện mai này. Vì sự tồn tại trước mắt. Bờm đành chấp nhận nắm xôi và bỏ qua những trâu bò, bè gỗ lim, ao sâu cá mè bởi "Nước xa không cứu được lửa gần" vậy! Giả thiết 3 : Bờm phận nghèo tự ti Bờm rất nghèo, cả gia tài chỉ có cai quạt mo là đáng giá và cái quạt mo ấy chẳng thể che đậy được cai nghèo của Bờm trươc đôi mắt tinh tường của lão Phú ông biết làm ăn giàu có. Trong cái tương quan thất thế ấy, Bờm đâu dám tơ tưởng đến một cái gì cao xa vượt quá giá trị cái quạt mo của mình. (Với bản tính tự ti và thiếu óc tưởng tượng, Bờm đâu có biết rằng trước khi trở nên giàu có, nhiều lão phú ông kia cũng bắt đầu từ một thời nghèo khó, cũng chỉ có một chiếc quạt mo như Bờm vậy!). Thôi thì hãy bằng lòng vậy, đành lòng vậy, vì đã nghèo thì cũng phải hèn thôi! Mà cái quạt mo đổi được cả nắm xôi để giải quyết sự đói nghèo trước mắt Bờm thấy cũng đã là tốt lắm rồi! Có câu:"Cái khó nó bó cái khôn " làm điều an ủi cho phận nghèo của Bờm! Gỉả thiết 4: Bờm sống gấp, vô trách nhiệm với hiện tại và tương lai. Các quyết định của Bờm không cần tính đến hiệu quả, tính đến ngày mai cho bản thân và tương lai của con cháu. Có của nả gì trong nhà, ngoài vườn, Bờm đều chăm chăm đem đổi lấy miếng ăn nóng trước mắt cho riêng mình tiêu sài mặc sức. Bờm không suy nghĩ phải làm việc có hiệu quả và làm ra của cải thật sự cho xã hội, "trời sinh voi, trời sinh cỏ" cơ mà! Vả lại nhà Bờm "rừng vàng biển bạc", cơ nghiệp đất đai tổ tiên ông bà để lại mênh mang, thiếu gì! Trong đầu Bờm không có tư duy phát triển vì tương lai. Cứ như vậy Bờm bỏ qua các cơ hội mà thời cuộc đem lại, dửng dưng với các phương tiện sản xuất như trâu bò, ao sâu cá mè hoặc cả bè gỗ lim của Phú ông. Bờm ích kỷ, chỉ bận bịu với chính sự tồn tại của mình! Với thế hệ mai sau, Bờm nói : Các con ạ, các cụ ta có câu "Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào", nay ta tặng lại câu này cho các con đó. Hãy coi đây là tài sản thừa kế vô giá duy nhất mà Bờm ta để lại cho hậu thế các con !... Và còn có thể có nhiều giả thiết khác nữa cần được tiếp tục bổ xung vào đây. Hà nội , ngày 15 tháng 2 năm 1992 , GS Trí Việt. Phú ông xin đổi ba bò chín trâu... Ảnh vanhocdangian Chẳng nhẽ tôi và Bờm có những điểm giống nhau... Đọc kỹ vài lần, tôi càng thấy ngờ ngợ như đã gặp rất nhiều những anh chàng Bờm này hàng ngày trong cuộc sống ở đâu đó quanh tôi. Rồi tôi lại như thấy những anh chàng Bờm này đang ở ngay trong chính con người tôi, chính là một phần cuộc đời tôi. Một câu ca dao cổ với những hồn cốt của thằng Bờm sao lại có thể vận vào cuộc sống đương đại của chúng tôi đơn giản, dễ dàng như vậy sao? Quả thật tôi rất không muốn tin rằng có một sự thật cay đắng như thế! Mà chẳng nhẽ tôi và Bờm có những điểm giống nhau, như là anh em ruột thịt của nhau? Chẳng nhẽ tôi cũng kém cỏi, tồi tệ đến thế sao! Và rồi tôi cũng thấy buồn và rợn cả cho chính bản thân mình luôn: - Bởi tôi cũng ham mê các lọai làm ăn đánh quả kiểu chụp giật mì ăn liền, chỉ cần được lợi trước mắt cái đã, bất chấp hậu quả lâu dài dù có tồi tệ đến đâu cũng chẳng sao, rồi ta sẽ tính sau; - Bởi tôi cũng có tinh thần cam chịu thẳng tưng, chấp nhận cái phận mình nghèo thì hèn là nhiên dĩ nhiên, đành lòng vậy, cầm lòng vậy có sao! Được tồn tại như thế này là quá tốt rồi, làm nữa làm gì cho nó khổ vào thân, chết có mang đi được gì đâu! - Bởi cũng như Bờm từ khi còn trẻ, tôi đã học được phương pháp luận ngụy biện chứng hùng hồn: cái nghèo tinh thần và vật chất của ta có nguyên nhân sâu xa trong sự giàu có của những lão phú ông kia. Và để rồi từ đó không bao giờ ta phải tự vấn bản thân, lương tâm về cái nghèo, cái dốt của mình nữa, cứ vô tư mà sống trôi tuồn tuột theo bản ngã vô thức của mình đi! -Bởi tôi rất ngại suy nghĩ, can dự vào các vấn đề thời cuộc và tương lai. Tôi tâm đắc với cách người làng Vũ Đại xử lý vụ Chí Phèo chửi ầm ĩ cả làng, mọi người không ai bảo ai đều biết im lặng tự nhủ "Chắc nó trừ mình ra". Tôi luôn biết cách tự an ủi mình trước các vấn nạn của xã hội mà thường tôi cũng góp phần tạo dựng theo tinh thần văn hóa đổ lỗi của đám đông thời nay; "Do hoàn cảnh khách quan xúi bẩy, tôi đâu muốn thế!". Ngoài ra, tôi luôn đề cao tinh thần tự ti vô can vô trách nhiệm: "Em kém cỏi, em bất lực, em xin nhường hết cho các bác đứng ra đứng ra giải quyết" ngay cả khi tôi biết chắc rằng sẽ chẳng có bác nào đứng ra cả! Hoặc nhờ có năng lực kiên trì trông đợi, tôi sẽ nhắm mắt lại để cố tin vào một phép màu nhiệm là một ngày đẹp trời nào đó,khi mở mắt ra các vấn đề tự nó rồi sẽ được giải quyết tốt đẹp; - Bởi tôi bao lâu nay vốn chỉ quen ăn xổi ở thì, vô lo vô nghĩ và cũng vô trách nhiệm luôn trên cuộc đời này; - Bởi tôi vv... và vv... Và rồi tôi ngạc nhiên không biết từ khi nào mình trở nên vô cảm, hành xử ngây ngô và đầy chất bản năng đôi lúc mất cả tình người giữa cuộc đời này? Vậy đâu là phần con, còn lại bao nhiêu là phần người trong con người của tôi hôm nay? Để giải thóat cho mình khỏi những nỗi ám ảnh đáng sợ đó, có lẽ tôi phải chờ xem các kết quả khảo cứu và ý kiến của anh bạn Bill sẽ như thế nào. Hy vọng người nước ngòai nhìn vấn đề của người Việt mình khách quan, tích cực và bao dung hơn chăng. Và biết đâu ông bạn Bill lại có thể chỉ cho các loại chàng Bờm và tôi một giải pháp tích cực hơn các giả thiết mà giáo sư Trí Việt khả kính đã nêu ra trong phác thảo đầy thất vọng của ông! Và biết đâu vào cái thời hiện đại của số hóa và toàn cầu hóa, các giả thiết trên cùng các chiêm nghiệm đáng sợ của tôi có thể được một nhân vật kiệt xuất nào đó trên Internet chứng minh là đã không còn tồn tại trong thực tiễn khách quan tươi đẹp của chúng ta nữa thì lại càng may mắn chứ sao! Chả thế mà hôm nay lần đầu tiên tôi và các loại chàng Bờm mạnh dạn rủ nhau cùng xuất hiện giao lưu trên internet để giãi bày tâm sự của mình như các bạn đã thấy ở đây! ------------------------------------- Nhời bàn của Thiên Sứ: Theo tôi cả bốn giả thuyết trên đều không rốt ráo. Tôi đề nghị một giả thuyết thứ năm qua câu chuyện này: CÁI CƯỜI CỦA THẰNG BỜM Thiên SứTiểu "nuận" Thằng Bờm có cái quạt mo Phú ông xin đổi ba bò chín trâu Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu Phú ông xin đổi ao sâu cá mè Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè Phú ông xin đổi một bè gỗ lim Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim Phú ông xin đổi con chim đồi mồi Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi Phú ông xin đổi nắm xôi. Bờm cười. Cứ như thế, bài ca dao thằng Bờm ngộ ngĩnh, tửng tửng theo gió, luồn lách qua luỹ tre làng, qua mái tranh, gốc rạ, lưu truyền không biết tự bao đời, cho đến tận bi giờ. Chẳng phải vì triết lý sâu xa dạy đời; cũng chẳng phải là áng văn chương trác tuyệt làm rung động lòng người; cũng lại càng chẳng phải huyền thoại, sử thi khiến người đời phải trân trọng gìn giữ. Nhưng lạ thay! Chuyện thằng Bờm vẫn cứ tồn tại, còn lâu hơn cả nhũng bài thơ đắc ý của những thi nhân vào "hạng thường thường bậc trung". Hẳn như truyện Kiều, khi sáng tác cụ Nguyễn Du đã chép ra giấy trắng mực đen rõ ràng, chứ đâu phải truyền miệng như "Thằng Bờm". Vậy mà khi lưu truyền, còn có bậc "cao nhân" nào đó trong lúc nhậu nhẹt say sưa, nổi máu giang hồ, liều mạng sửa văn của cụ Nguyễn Du, bôi chữ "tác" thành ra chữ "tộ". Khiến cho hậu thế có luôn mấy bản Kiều khác nhau, bản dài, bản ngắn để lưu truyền. Tao nhân, mặc khách về sau thi nhau bàn bạc chữ "tộ" chữ "tác", cứ loạn cả lên. Ấy thế mà chuyện "Thằng Bờm" chưa thấy ai sửa được chữ nào. Cũng may, nếu bị sửa chỉ cần một chữ thì đâu còn là "Thằng Bờm" nữa. Sự tồn tại của chuyện "Thằng Bờm" kể ra thì cũng "lọa", chẳng thua gì một huyền thoại. Nhưng chẳng ai có thể biết được bài ca dao ấy có từ bao giờ, gốc tích ra sao? Từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, hay thời Trần, thời Lý? Hẳn từ thời Bắc thuộc hay có khi từ thời Hùng Vương cũng nên? Ai là tác giả chuyện "Thằng Bờm"? Hổng biết luôn! Đến như chuyện Thạch Sanh, thần thoại từ đầu đến đuôi, thế mà cũng có người tìm ra được "dị vật" bảo chứng cho nguồn gốc của câu chuyện mới ghê chứ(?). Người ta bảo rằng thì là ở tận tít Hà Tiên, có cái động gọi là "Thạch Động" (liên quan chặt chẽ đấy nhé: Thạch với Thạch giống nhau); trong động còn có cái hang ăn thông xuống biển (cứ y "choang" như trong chuyện). Hình như còn có cả mảnh vỡ của nồi niêu, xong chảo bằng đất nung nằm lung tung trong ấy nữa (Hẳn là đồ dùng của Thạch Sanh khi đi làm quan quăng lại!?). Đã vậy, hiện nay ở vùng đồng bằng Nam bộ có rất nhiều người mang họ Thạch (Chắc đấy là con cháu do Thạch Sanh lấy công chúa đẻ ra?). Như vậy thì chuyện Thạch Sanh phải có thật đứt đuôi đi rồi! Ối giời đất ơi! Chu choa, mèng đéc, mế bầu, bọ bủ ơi! Thế thì mau mau cố gắng đào bới chung quanh Thạch động xem, có khi còn cả cây đàn và niêu cơm thần vẫn chôn đâu đó. Cổ vật có giá trị thượng thặng đấy! Đào được thì "Nô - tế bồ" về giá cả. Cứ gọi là trúng quả đậm chứ chẳng phải chuyện chơi! Nhưng eo ơi! Nếu thế thì chuyện đại bàng, trăn tinh, thuỷ quái đều phải có thật cả đấy! Cửa giả phải đóng cẩn thận; buổi tối trẻ con phải đi ngủ sớm. Nếu không yêu tinh bắt ăn thịt đấy! Kinh quá! Còn chuyện thằng Bờm thì lại chẳng có cái may mắn đó! Di vật khảo cổ thì chẳng thấy mồ mả thằng Bờm chôn ở đâu. Xét gia phả cũng chẳng thấy ai là con cháu thằng Bờm.Văn bản chữ Hán, chữ Nôm cũng chưa thấy ai viết chuyện "Thằng Bờm". Có lẽ văn bản "cổ" nhất về "Thằng Bờm" được ghi bằng chữ Quốc ngữ? Chà! Như vậy thì có thể "Thằng Bờm" xuất hiện vào thời Tây mới sang xâm lược nước ta cũng nên? Ơ! Nhưng mà văn bản "Thằng Bờm" thì lại không có dấu ấn của thời Tây trong đó? Bởi vì nếu vào thời Tây thì chắc hẳn thay vì con chim đồi mồi sẽ là con búp bê chớp mắt mở mắt chẳng hạn; hoặc giả câu cuối có thể viết là "Phú ông đổi ￸ bánh ga - tôi (*). Bờm cười" thì mới đúng là dấu ấn thời Tây chứ! Đằng này nó lại cứ tưng tửng, chỉ trừ thời đại đồ đá. còn thời nào cũng được. Như vậy là chuyện "Thằng Bờm" không may mắn như chuyện Thạch Sanh rồi. Bàn chuyện xuất xứ của thằng Bờm khó quá. Cứ y như đi tìm sơ yếu lý lịch của Chí Phèo ở làng Vũ Đại, cũng đến hoà cả làng thôi. Thế thì đành phải quay ra bàn về nội dung của câu chuyện thằng Bờm vậy. Cũng nhiều người bàn rồi. Thằng Bờm lên phim lên kịch, thằng Bờm vào sách vở học sinh.... Người Việt Nam ta ai mà chẳng biết thằng Bờm, cứ y như ai cũng biết ông trời vậy. Thậm chí, người viết có lần vô tình đã nhìn thấy một quán cà phê karaoke lấy tên "Thằng Bờm" hẳn hoi. Đủ hiểu thằng Bờm nổi tiếng cỡ nào! Nói thế chứ chưa ai biết được thằng Bờm mặt mũi ra sao, ăn mặc thế nàoナ Có người bảo rằng thằng Bờm ngớ ngẩn không biết giá trị vật chất cao sang, nên đã từ chối những gì phú ông cho nó. Cũng có người lại bảo rằng: thằng Bờm là tiêu biểu cho giới trí thức bình dân, vốn thật thà chất phác. Cho nên Bờm không tham lam (giới bình dân thì không tham lam? Hơ!), nên chỉ đổi cái quạt mo lấy đúng giá trị của nó là gói xôi. Hình như những nhận xét của người đời không làm thằng Bờm thoả mãn, nên nó vẫn cười cho đến tận bi "vờ". Nếu bảo Bờm ngớ ngẩn - theo tiêu chuẩn phương pháp luận: không biết giá trị của cải cao sang là ngớ ngẩn - thì không lẽ phú ông cũng là thằng ngu hay sao mà đem cả một gia tài đồ sộ để đổi lấy cái quạt mo? Cứ theo phương pháp luận này thì phú ông không thể là thằng ngu. Bởi vì phú ông ngu thì làm sao mà lắm tiền thế? Như vậy thì Bờm cũng không thể ngu. Lập luận kiểu này là không lô gích. Nếu bảo Bờm không tham lam, cái quạt mo chỉ giá trị bằng gói xôi thì phú ông đổi làm gì? Để ngài quạt phạch phạch cho nó mát chăng?! Ở cái xứ sở mà người ta ăn trầu từ thời thượng cổ, mo cau thiếu gì! Giầu như phú ông chỉ cần bỏ ra một đồng kẽm cũng mua nổi ngót chục cái quạt mo chứ đừng nói một cái. Cứ gọi là đổi gói xôi cũng còn là mắc tiền. Lập luận này cũng không lô gích. Ấy thế mà xét theo nội dung văn bản qua ngôn từ của bài ca dao, thì rõ ràng thằng Bờm đã đổi cái quạt mo đâu? Nếu Bờm đã đổi thì sao bài ca dao câu cuối không viết là: "Phú ông xin đổi nắm xôi. Bờm: Ừa!". Cái oái ăm nó ở chỗ Bờm mới chỉ cười. Cười thì cũng còn nhiều kiểu. "Cười" khác, mà "ừ" khác. Đó là hai "phạm trù"￸ khác nhau hẳn. Bởi vậy bảo Bờm cười tức là đã đồng ý đổi chỉ là lập luận vội vã, chưa thấu đáo. khiên cưỡng, chủ quan, duy ý chí, không khoa học, thiếu logic, chưa thể hiện rõ tính bức xúc, trăn trở, trằn trọc suy tư cho vấn đề ...."cười". Tất nhiên đó là một sai lầm và cần phải xem xét lại. Chưa biết được đây là cái cười thoả mãn, bằng lòng; hay là cái cười của sự minh triết Lạc Việt trước những giá trị của nó mà người đời chưa hiểu hết, nên không thể đem so sánh nó với những giá trị vật chất của đời thường? Ba bò chín trâu là những phương tiện sản xuất dồi dào, của cái thời mà các nhà xã hội học gọi là phương thức sản xuất nông nghiệp lạc hậu; một bè gỗ lim có thể xây được nhà cao cửa rộng vào loại thứ "xịn"; ao sâu cá mè thể hiện sự phú túc an nhàn trong cuộc sống; con chim đồi mồi là một vật trang trí nội thất của những nơi quyền quí cao sang. Nếu tất cả đều hiện hữu ngay trong xã hội hiện đại, thì số tài sản đó bán đi có thể gây dựng được một doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ghê chưa! Thế mà chỉ để đổi cho thằng Bờm lấy một cái quạt mo? Vậy mà Bờm còn chưa chịu đổi, thế mới kinh chứ! Nhưng trong văn hoá dân gian Việt Nam không phải chỉ có một mình thằng Bờm độc quyền có quạt đâu nhé! Chú Tễu trong múa rối nước cũng có cái quạt và cũng cuời toe toét. Ông Địa khi ngồi ở góc nhà - để nhận sự kính trọng và phù hộ cho thế nhân được giàu có - cũng cầm một cái quạt và cũng cười như Bờm vậy. Khi ông Địa chơi với đám múa Lân, múa Rồng, người ta thấy ông cười vui hơn và vẫn không bỏ cái quạt. Đặc biệt cái quạt của ông lúc này sinh động hơn nhiều. Ông chỉ cần cầm quạt ve vẩy, thì cả Lân lẫn Rồng đều như bị thôi miên mà chạy theo ông. Lân và Rồng là những biểu tượng cho sức mạnh huyền bí và là điềm lành cho cuộc sống con người. Như thế thì thằng Bờm cũng giống như ông Địa ở chỗ cũng có cái quạt vậy. Ông Địa thì chẳng ai dám to gan mà gạ đổi cái quạt của ông ấy! Ông ấy mà trù cho thì chỉ có mà nghèo mạt rệp! Có mà lạy ông ấy cũng còn chưa chắc ăn; ở đấy mà xôi mới chè! Thằng Bờm thì được, vì đã là "thằng" thì thân phận chắc chả hơn được ai. Thích thì cứ gọi nó lại mà đổi, cứ y như đầy tớ nhà giầu gọi ăn mày đổi nắm cơm để lấy mẩu quai bị, chữa mẹo cho bệnh quai bị của con chủ nhà vậy. Trong trường hợp này ông ăn mày đổi ngay. Có ông nào láu cá lắm thì cũng chỉ kỳ kèo chủ nhà cho thêm chút tiền mua lại cái bị khác thay cho cái bị đứt quai, để tiếp tục nghề ăn mày. Ấy thế mà với một gia tài vĩ đại mà phú ông đem đổi - đủ khiến cho ngay cả những thằng giầu cũng hoa cả mắt, lùng bùng cả lỗ tai - thì thằng Bờm lại chưa thèm đổi. Kể ra thì câu chuyện đến đây cũng thấy là "lọa". Nhưng chẳng hay cái quạt mo của thằng Bờm có giá trị hơn cái quạt của ông Địa trong đám múa Lân, múa Rồng hay không mà phú ông đổi nhiều đồ đến thế! Phú ông thì không thể là thằng ngu. Bởi vì đã ngu thì sao mà thành "phú" mà còn được gọi bằng "ông". Hẳn cũng phải khôn lõi đời ra ấy chứ! Đã không ngu thì ngài phải biết giá trị những món đồ mà ngài đem ra đổi cái quạt mo. Chứng tỏ ngài phải biết giá trị cái quạt. Bằng chứng cho sự thông minh và nhận ra chân giá trị của cái quạt mo, chính là tài sản mà phú ông đem ra đổi. Thế thì Bờm làm sao mà ngu được, cho dù thế nhân có xin phép gọi là "thằng" đi nữa. Nếu ngu thì Bờm đã đổi ngay với một con bò đầu tiên, chứ đừng nói đến ba con. Vì chỉ cần một con bò cũng đủ to hơn cái quạt, với một thằng ngu nhất nếu không bị bệnh "Đao" cũng biết điều đó. Ở đây Bờm không đổi. Như vậy chứng tỏ Bờm cũng biết giá trị của cái quạt mo, nên cũng không đổi một cách dễ dàng. Vậy mà chỉ với một gói xôi thì Bờm cười. Cười chưa hẳn đã là bằng lòng. Như vậy thì vấn đề mấu chốt, giá trị cốt lõi, tính chất căn bản, nguyên nhân sâu xa, nội dung quan trọng của sự hấp dẫn và cũng là tình tiết bất ngờ tạo nên mâu thuẫn khó hiểu trong chuyện thằng Bờm, chính là ở gói xôi. Xôi chứ không phải là cơm nắm đâu nhé! Có văn bản ghi rõ ràng trên giấy trắng mực đen đàng hoàng hẳn hoi. Chỉ có điều là không nói rõ ra là xôi gì mà thôi. Nhưng có lẽ vì xét thấy không quan hệ, nên ông cha ta không nói chi tiết lắm! Xôi là được rồi, xôi gì thì tuỳ hỷ. Như vậy vấn đề không kém phần "nghiêm trọng", bức xúc cần phải bàn ngay chính là "gói xôi". Xôi thì làm bằng gạo nếp, cơm thì làm bằng gạo tẻ, đây là một chân lý phổ biến. Tất nhiên về mặt hiện tượng, trong "thời xa vắng" cũng có những bà hàng xôi giầu tính sáng tạo, đã trộn gạo dẻo vào xôi để kiếm lời. Cho dù đấy là một hiện tượng đã tồn tại trên thực tế. Nhưng về mặt lý thuyết thì mọi người vẫn tuân theo chân lý phổ biến mà công bố :"xôi làm bằng gạo nếp". Kể cả các bà hàng xôi nói trên. Như vậy theo phương pháp luận chính thống xuất phát từ chân lý phổ biến - được hầu hết những người ăn xôi ở trong nước, kể cả cộng đồng những người ăn xôi ở nước ngoài đều thừa nhận - thì "xôi làm bằng gạo nếp" sẽ được ứng dụng để tìm hiểu "gói xôi thằng Bờm". Xôi nếp thì ăn chắc dạ hơn cơm tẻ. Ăn chắc dạ nghĩa đen thì là no bụng. Nhưng trong ngôn ngữ Việt Nam, "ăn chắc" còn có nghĩa là một sự bảo đảm. Tức là phải có một sự bảo đảm, phải ăn chắc thì thằng Bờm mới có thể đổi cái quạt mo. Như vậy, chắc chắn giá trị cái quạt mo của thằng Bờm phải lớn hơn nhiều cái gia tài đồ sộ biểu trưng của phú ông; vì nó đòi hỏi một sự bảo đảm nơi người sử dụng. Như vậy, "gói xôi" là hình tượng của sự bảo đảm của phú ông khi được sở hữu cái quạt mo của Bờm. Ở đây, theo đúng nội dung văn bản thì cái sự chắc ăn và bảo đảm đó mới chỉ làm cho "Bờm cười". Thế thì vấn đề tiếp theo là Bờm có đổi hay không sau cái cười đó? Trong văn bản thì Bờm đã từ chối tất cả của cải vật chất cao sang. Không tin hả? Đây nè: "Bờm rằng: Bờm chẳng lấy....". Đấy! Thấy chưa? Sự khẳng định rõ ràng và được lặp đi lặp lại nhiều lần hẳn hoi. Cái Bờm cần ở đây là một sự bảo đảm nơi người sử dụng. Đã có sự bảo đảm - qua hình tượng "gói xôi" của phú ông - có khi Bờm cho luôn cũng chẳng biết chừng? ("Síc"! Ở cái thì buổi kinh tế thị trường này, nói cho luôn cũng khó tin hỉ). Vì đã là vật vô giá thì lấy gì để đổi nhỉ? Nhưng cái quạt mo của thằng Bờm là cái gì đã thì mới có thể biết được Bờm có đổi hay không chứ? Thế thì phải đặt một vấn đề từ cội nguồn của nó là tại sao lại là "quạt mo" chứ không phải "quạt nan", "quạt giấy" nhỉ? Nếu là "quạt nan" thì bài thơ chỉ cần đổi lại là: Thằng Bờm có cái quạt nan. Phú ông xin đổi cả đàn bò trâu? Bờm rằng: Bờm chẳng....... Còn nếu là "quạt giấy" thì cũng chỉ cần đổi là: Quạt giấy thằng Bờm có đây. Phú ông khoái, đổi một bầy bò trâu. Bờm rằng: Bờm chẳng... Nghe cũng được đấy chứ ! Tuy có hơi không có chất cụ thể. Thế nhưng chính văn nó lại là cái quạt mo, thế mới rắc rối? Phải chăng cái "quạt mo" chính là biểu tượng cho nền văn minh "Trầu - Cau " của con cháu vua Hùng? Cứ như phương pháp luận logic lủng củng nêu trên thì cái quạt mo của Bờm không thể chỉ có nghĩa đơn giản là cái quạt làm bằng mo cau, rẻ tiền và tiện lợi, đầy rẫy ở xứ sở quen ăn trầu từ thời Hùng Vương đến bi vờ. Nó phải là một biểu tượng cho một giá trị tinh thần đủ để đối xứng và vượt trội những giá trị vật chất mà phú ông có thể có đem ra đổi kèm theo một sự bảo đảm. Một điều hiển nhiên nữa và cũng là sự liên hệ tiếp nối là giá trị tinh thần đó thuộc về văn minh Lạc Việt. Bởi vì, cái quạt mo thuộc về nền văn hoá trầu cau mà xuất xứ của nó thuộc về nước Văn Lang dưới thời trị vì của các vua Hùng. Phải chăng cái quạt mo của thằng Bờm - ngoài ý nghĩa trên - chính là biểu tượng cho cái chìa khoá để mở kho tàng bí ẩn của nền Minh Triết Đông phương, còn tồn tại trong đời sống văn hoá dân gian của người Việt, nơi cội nguồn của nền văn hoá trầu cau này? Đó cũng là lý do để Bờm cần có sự bảo đảm chắc ăn. Chà! Nếu đúng như thế thì Bờm có đổi không hà? Thôi thì cứ cho rằng thì là chắc ăn thì Bờm sẽ đổi đi! Nhưng như thế nào gọi là chắc ăn chứ? Ăn xôi mà đã chắc à! Cho dù cũng nhiều thằng "chịu đấm ăn xôi" Hỏi Bờm xem có đúng không? Bờm cười! Khó hiểu thật! Sài Gòn 1999 ----------------------- (*) Chú thích: Cứ theo đúng cách "mần" thơ ra lối Lục Bát của người Lạc Việt thì chữ thứ sáu của câu tám phải bắt vần với chữ cuối câu sáu ở trên. Thế thì câu trước vốn là "Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi"; vần "ôi". Nên câu sau phải đổi bánh gatô gọi theo lối Tây ra "ga - tôi", cho đúng kiểu "mần" thơ Lục Bát.
    1 like
  21. Quan điểm của Chú Thiên Sứ có bản quyền! "Yêu nhau cứ lấy" không phân biết tuổi tác! Tứ hành xung hay tam hạp chỉ là một trong những yếu tố thuận ngôn dễ nhớ, thật ra còn nhiều điểm để đi đến cuộc hôn nhân bền chặt lâu dài, trong đó tuổi con cái là quyết định không kém phần quan trọng.
    1 like
  22. Rớt nước mắt cảnh bé lớp 3 khất thực nuôi cha mẹ bệnh tật (Dân trí) - Đang học lớp 3, nhưng em đã phải gánh vác tất cả các công việc nặng nhọc nhất trong gia đình. Hằng ngày ngoài việc đi học, em phải đi khất thực để nuôi cha mẹ bạo bệnh và viết tiếp ước mơ được đến trường... Gia đình anh Hiền chị Nhi giờ đây chỉ còn biết trông chờ vào hai đứa con 9 và 5 tuổi đi xin ăn. Anh em của anh Hiền cũng mang số kiếp nghèo nên chẳng giúp được gì, chính quyền cũng chỉ giúp đỡ trong giới hạn... (Ảnh: Hà Thanh) Đó là em Phan Đình Hậu (SN 2001), học sinh lớp 3D tr­ường Tiểu học Quỳnh Thạch (Quỳnh L­ưu, Nghệ An) có hoàn cảnh vô cùng khốn khó. Để được rõ hơn về câu chuyện một cậu bé chỉ mới lớp 3 đã là trụ cột của gia đình, đang phải gồng gánh hết sức mình nuôi cha mẹ mang bệnh hiểm, chúng tôi ngược về xóm 12, xã Quỳnh Thạch tìm gia đình em Phan Đình Hậu. Trước mắt là ngôi nhà ẩm thấp nằm khuất ở cuối thôn. Cố gắng cúi đầu chui qua cửa chính thấp lè tè, trong gian nhà tối, hình ảnh cha mẹ Hậu nằm bất động trên giường cũ nát, cơ thể người mẹ đang phồng lên vì căn bệnh hiểm, khiến người ngoài không khỏi kinh hãi và xót thương. Gia đình anh Hiền, chị Nhi cần lắm đến sự giúp đỡ của cộng đồng (Ảnh: Hà Thanh) Càng không thể cầm được nước mắt khi nhìn Hậu mang trên vai chiếc bị rách tướp, đứng thều thào nói với cha mẹ: “Bố mẹ ơi con đi ra chợ đây. Con đi xin chút gì về cho bố mẹ nha, giờ chắc bố mẹ đói lắm rồi. Bố mẹ cố gắng chờ con về nha...”. Nói đoạn Hậu chào chúng tôi rồi mang bị đi. Trong lúc chờ Hậu đi ra chợ kiếm ăn, chúng tôi khó khăn lắm mới nói chuyện được với vợ chồng anh Phan Đình Hiền (42 tuổi) và chị Lê Thị Nhi (41 tuổi). Muốn tâm sự với chúng tôi nhưng cả hai vợ chồng anh chị chỉ nói được mấy câu rồi như đắng trong cổ, không nói thêm được gì. Qua tìm hiểu được biết anh Hiền gia đình nông dân nghèo khó, bố mẹ mất sớm, sức khoẻ yếu nên mãi 30 tuổi mới lấy chị Nhi (lúc đó chị Nhi cũng đã mang bệnh phong). Họ có với nhau được hai mặt con là Phan Đình Hậu (9 tuổi - học lớp 3) và Phan Đình Thất (5 tuổi) đang học mầm non xã Quỳnh Thạch). Cuộc sống vợ chồng anh những năm đầu khá đầm ấm và hạnh phúc. Tuy nhiên, khoảng 2 năm trở lại đây, cả anh Hiền và chị Nhi đột nhiên sinh bệnh hiểm nghèo và nằm liệt gi­ường. Chị Nhi sau khi sinh cháu Phan Đình Thất lại bị thêm bệnh khớp biến chứng vào tim khiến ng­ười bị phù, bụng trư­ớng to, không thể đi lại đ­ược. Chưa dừng lại ở đó, cuối năm 2009 “may mắn” nhờ có sổ bảo hiểm của hộ nghèo, chị Nhi được đưa đi bệnh viện khám, các bác sỹ lại phát hiện chị bị ung thư­ buồng trứng. Tưởng chừng nỗi đau chỉ xảy ra với người vợ nhưng sau một lần đi khám ở bệnh viện, anh Hiền cũng được các bác sỹ cho biết anh đang mang một khối u ở ổ bụng và chẩn đoán là bị ung thư. Bước ngoặt gia đình, cuộc sống vất vả, thiếu thốn trăm đường... bắt đầu định đoạt số phận bé Hậu và bé Thất từ đó. Ở nhà là trụ cột gia đình, đến lớp là học sinh ngoan Cô Hồ Thị Hồng, giáo viên chủ nhiệm của em Hậu, cho biết, đến lớp cháu là một học sinh ngoan, chăm học, tiếp thu nhanh, chữ viết rất đẹp. Hoàn cảnh gia đình Hậu hiện nay quả là rất éo le, nhà trư­ờng đã nhiều lần tổ chức quyên góp tiền, sách vở, quần áo giúp em để em v­ượt qua hoàn cảnh khó khăn, giúp em không phải bỏ học dở chừng. Ở gia đình giờ em Hậu là lao động chính, là trụ cột... tất cả mọi công việc đều đổ dồn lên đôi vai bé bỏng. Hằng ngày hai anh em Hậu và Thất vẫn phải đi chợ xin ăn nuôi cha mẹ bị bệnh hiểm nghèo (Ảnh: Hà Thanh) Từ sáng sớm, hai anh em Hậu hành khất ra chợ xin ăn để nuôi cha mẹ. Trước đây hai em hay đi xin ở chợ Quỳnh Thạch cách nhà khoảng 200m nh­ưng xin mãi ở chợ xép chẳng đư­ợc là bao. Gần đây hai anh em phải ra tận chợ Quỳnh Văn cách nhà đến 3km để khất thực. Những buổi ở chợ gặp ngư­ời quen biết thương hoàn cảnh của hai anh em, họ thường cho nắm gạo, củ khoai, miếng thịt, con cá. Hết mỗi buổi chợ, hai anh em mang về nấu cháo cho cha mẹ. Đi xin ăn về đã gần 12 giờ trư­a. Cháu Hậu vội vàng nhóm củi nấu cháo cho kịp giờ học buổi chiều. Hậu cho biết bố mẹ chỉ ăn đư­ợc cháo thôi, “hôm nay cháu xin đư­ợc một ít thịt mỡ và da lợn, chắc bố mẹ sẽ ăn đ­ược nhiều cháo hơn...”. Nghe Hậu nói mà nước mắt tôi tuôn trào, xúc động trước lời con trẻ hồn nhiên đến đáng thương. Ông Nguyễn Văn Hạnh, xóm 12 Quỳnh Thạch, cho biết, gia đình anh Hiền chị Nhi thuộc diện nghèo khổ nhất huyện Quỳnh L­ưu. Hai người đều bị bệnh hiểm nghèo, lại chỉ trông chờ vào đứa con nhỏ 9 tuổi hằng ngày phải đi ăn xin ở chợ. Tết vừa rồi các tổ chức đoàn thể trong xã, xóm đã quyên góp đư­ợc ít tiền để anh chị và hai cháu ăn tết. Nh­ưng lâu dài thì rất cần đến sự giúp đỡ của cả cộng đồng. Về phía xã Quỳnh Thạch cũng chỉ giúp đỡ được gia đình anh chị Hiền trong khuôn khổ hộ nghèo như bao gia đình khác. Hà Thanh - Nguyễn Phê
    1 like
  23. Thấy tuyết sa ở trước sân nhà , sắp có chuyện tang .
    1 like
  24. Bạn đang có những ước mơ quanh công việc hoặc tình cảm nhưng bất thành và niềm hy vọng cũng sẽ tan như bọt tuyết.
    1 like
  25. Xin phép anh Thiên Sứ và anh nhatnguyen52, Minh Xuân không phải người làm chuyên môn sử địa, không biết phải đóng góp vào công việc khôi phục lại lịch sử Việt Nam với các anh như thế nào, nên xin mở chủ đề này để viết thơ giúp mọi người có thêm tinh thần. Xin được đặt chủ đề này ở đây cho liền mạch với những bài viết và trao đổi về Sử thuyết họ Hùng. Nghe kể chuyện xưa Tôi nghe kể chuyện mấy ngàn năm Dân Việt cần cù vượt khó khăn Đắp đập, ngăn đê khi lũ lụt Khơi sông, tát suối lúc khô cằn Ghe thuyền ra biển cá tôm bắt Cung nỏ lên rừng muông thú săn Đo nắng, ngắm trăng nên lịch pháp Muôn đời truyền mãi sách kinh văn. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...ost&p=38836
    1 like
  26. Trong số các nhà thơ nổi tiếng đời Đường cũng có một nhà thơ gốc ở Bắc Việt ngày nay. Đó là Liễu Tông Nguyên. Xin xem: http://www.cand.com.vn/vi-VN/vanhoa/2008/2/98488.cand Ai làm thơ Đường đều biết loại thơ này niêm luật bằng trắc rất chặt chẽ. Mà như vậy thì tiếng Hán hiện đại (Quan thoại) thiếu thanh điệu làm sao thành thơ Đường được? Trong khi đó tiếng Việt (gồm cả Hán Việt - chữ Hán nhưng phương âm Việt) lại rất hợp với thơ Đường. Vậy thơ Đường là di sản người Việt hay người Hán? Thế giới bây giờ cõ lẽ chỉ còn người Việt là làm thơ Đường. Người Trung Quốc muốn làm thơ này thì lại phải học ngôn ngữ Hán cổ. Thật là trái khoáy! Theo anh nhatnguyen thì âm Hán Việt ngày này chính là âm ngữ của Trung Hoa thời nhà Đường http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...post&p=4221 Sử thuyết họ Hùng đúng là có thể giải thích được nhiều vấn đề khúc mắc trong văn hoá Hoa, Việt. Thơ Đường Thơ Đường ai biết có từ đâu Là của Việt Nam hay của Tàu? Bằng trắc thanh âm reo tựa nhạc Ngôn vần câu chữ khéo thay nhau Hồn thơ Đỗ Phủ như còn mãi Vận nước Lý Uyên trải dãi dầu Vạn vật xoay vần trong quá khứ Chén trà nay bữa ngẫm nông sâu.
    1 like
  27. Phù Đổng Thiên Vương Tôi nghe kể chuyện Đức Thiên Vương Ba tuổi nằm không rời khỏi giường Bỗng chợt nghe loa tìm tướng giỏi Bật dậy đòi ra chốn chiến trường. Từ làng Phù Đổng đất Vũ Ninh Ngựa sắt vung roi buổi xuất chinh Theo vua Cơ Phát đi diệt Trụ Lửa hồng chiếu đỏ ánh bình minh. Trống đồng trước trận tiếng vang ngân Ngựa Gióng xông pha phá tướng Ân Roi gẫy, nhổ tre làm vũ khí Đầu thù quật xuống, giặc tan thân. Dựng nước có công diệt giặc thù Hộ quốc nên nghiệp một nhà Chu Danh chấn Trung Hoa, lừng bốn cõi Về trời tiếng để mãi ngàn thu. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...ost&p=40556
    1 like
  28. Chuyện trầu cau Tôi nghe kể chuyện miếng trầu cau Tình cảm gia đình mãi đậm màu Tân, Lang, Lưu thị đều trọn nghĩa Anh em, chồng vợ chết vì nhau. Dưới trời cao vút ngọn cây cau Quấn quít xanh xanh cánh lá trầu Đá vôi vị nồng từ lòng đất Trầu nhai cho nước hóa đỏ màu. Nước đỏ có phải nước Hồng Bang? Xích Quỷ - Quẻ Ly, đất của Lang Câu chuyện trầu cau lưu truyền mãi Ngàn năm têm đậm nghĩa xóm làng. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...post&p=1648
    1 like
  29. Hiếu với trời đất Tôi nghe kể chuyện nước Văn Lang Lang Liêu dâng cha chẳng bạc vàng Mà tấm lòng thành gói trời đất Vuông tròn đúc đủ tình thế gian. Âm dương một đạo để ngàn đời Rọi sáng đường đi cả tộc người Bánh chưng bánh dày vui ngày Tết Tưởng nhớ Lang xưa với sách trời. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...post&p=8162
    1 like
  30. Còn bao cuộc đời con người bị lụn bại, thay đổi số phận sau khi có sự can thiệp của giải phẩu thẩm mỹ đã có ai thống kê? Xét cho cùng, vận đời ta đang sống thành công hay thất bại phần lớn do ta chọn phần còn lại do ý của thiên định. Hãy thay đổi từ TÂM sẽ chuyển hóa được MỆNH. Vài thiển ý xin đóng góp.
    1 like