-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 19/05/2010 in all areas
-
Bí mật “huyệt trai tân” giải oan tội hiếp dâm Cập nhật lúc 14:59, Thứ Tư, 19/05/2010 (GMT+7) , “Ngày 22/04/2002, ba thanh niên ở xã Yên Nghĩa, Hà Đông (Hà Nội) là Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Kiên, Nguyễn Đình Tình, phải nhận án tổng cộng 41 năm tù vì tội hiếp dâm, cướp tài sản. Dù các bị cáo đều một mực không nhận tội trước toà. Thậm chí trong phiên phúc thẩm, khi biết bị bác kháng cáo kêu oan, cả ba bị cáo nhất loạt xin…lĩnh án tử hình. Và sau gần 10 năm lĩnh án, ba thanh niên này đã được minh oanbởi một phụ nữ kỳ lạ . Đó là lương y chuyên sâu Phạm Thị Hồng, công tác tại bệnh viện đa khoa Hà Đông (Hà Nội). Chị là người phụ nữ có thận phận đặc biệt, và sự quyết liệt hiếm có khi sẵn sàng tự thiêu để chứng minh nhận định của mình là đúng. Mọi chuyện chỉ bắt đầu khi chị phát hiện ba chàng trai này chưa bao giờ có quan hệ với phụ nữ, nhờ một huyệt đạo bí mật, nói theo dân dã thì họ vẫn còn là trai tân… Từ một huyệt đạo mang tên “Dương Minh” Chị Hồng tự giới thiệu mình là người say mê những pho sách cổ, đặc biệt là các sách về Đông y. Chị thường say sưa nghiên cứu những huyệt đạo, những quy luật âm – dương của cơ thể con người, những kiểu giáo trình này người ta không đưa vào chương trình giảng dạy các trường khoa Đông y. “Chỉ vì tò mò nên tôi đọc tất cả những cuốn sách cổ về y thuật nếu bắt gặp thú vị vô cùng” - chị Hồng nói. Chị kể: vào năm 2006, trại giam Thanh Xuân có đưa đến một phạm nhân nam, còn rất trẻ tuổi tên là Nguyễn Đình Lợi. Bệnh nhân này được nhập viện trong thể trạng suy yếu, gần như liệt nửa người. Sau khi bắt mạch, chị quyết định châm cứu để phục hồi chức năng cho Lợi. Khổ nỗi cậu ta là phạm nhân nên luôn bị xích ở cổ chân mà nơi ấy là một huyệt quan trọng để châm cứu. Thấy vậy chị đề nghị cán bộ của trại giam tháo xích để tiến hành châm cứu. Vị cán bộ trại giam sợ sai nguyên tắc nên từ chối, chị đã phải thuyết phục rằng, phạm nhân này không thể chạy trốn vì anh ta đang bị liệt nửa người…Thuyết phục mãi cán bộ trại giam mới tháo xích và giúp chị bê bệnh nhân lên giường để châm cứu. Huyệt đạo mang tên "Dương Minh" để kiểm tra trinh tiết đàn ông nằm ở vị trí dưới dái tai Cảm kích trước hành động của vị bác sĩ, phạm nhân Lợi bật khóc tức tưởi. Lợi mếu máo rằng, đã lâu lắm rồi chưa được ai quan tâm và chăm sóc tốt như thế…Chị Hồng cười rồi bảo: thanh niên gì mà khóc nhè thế, biết hối hận thì chăm chỉ cải tạo rồi ra thôi…Lần này Lợi lại càng khóc to hơn kêu rằng mình bị oan, nhất định muốn chết!. Thấy lạ, chị Hồng quay sang hỏi cán bộ trại giam thì biết được cậu ta mắc tội tày đình: hiếp dâm, cướp của, lĩnh 16 năm tù. Cái tội hiếp dâm ai cũng ghét, tôi cũng thế nên thấy ghê tởm” - chị Hồng nói. Thế nhưng khi nhìn vào khuôn mặt tái dại, đôi mắt trong sáng của phạm nhân này, bỗng nhiên chị cảm thấy điều gì đó bất thường. Chị bèn hỏi đùa: “cậu quan hệ với phụ nữ bao nhiêu lần rồi?”/. Phạm nhân Lợi giãy nảy rằng, chưa ! Chưa bao giờ quan hệ với phụ nữ. Chị Hồng bật cười rồi doạ: “này, chị là lương y, chị biết nhìn trinh tiết đàn ông đàn bà đấy, đừng nói bừa!”. Nghe vậy, phạm nhân Lợi vẫn kiên quyết khẳng định, mình là trai tân, chưa hề biết thế nào là phụ nữ! Nếu có chết cũng không dám nói bừa! Quá tò mò, chị quyết định bấm huyệt “Dương Minh”, cái huyệt này nằm ở vị trí dưới dái tai. Theo giải thích của chị, những người đàn ông chưa bao giờ quan hệ tình dục với phụ nữ thì cái huyệt ấy vẫn chưa đứt. Huyệt này chỉ đứt khi có khí âm hút vào. Ngược lại với phụ nữ huyệt này gọi là “Khuyết Ấm”, nằm ở vùng ức và nếu chưa có quan hệ với đàn ông thì nó cũng sẽ không đứt. Ngày xưa, khi tuyển cung phi cho vua chúa, những lương y thường xem huyệt này để kiểm tra trinh tiết… Chị mô tả rằng, huyệt này nó như sợi chỉ màu hồng rất đẹp, nếu đúng ngày nó nổi lên, khi ấy cơ thể con người có một luồng khí rất mạnh, tươi mới tinh khôi… đàn ông sẽ trở nên mạnh mẽ, phụ nữ sẽ trở nên đẹp lạ lùng ! Những lương y có nghề sẽ biết cách xem cái huyệt này. Và chị hoàn toàn bất ngờ khi thấy huyệt “Dương Minh” của phạm nhân Lợi còn nguyên vẹn. “Nói thật, lúc ấy tôi vừa mừng vừa lo, mừng vì cậu ta nói thật nhưng lo nhất là sẽ chẳng ai tin chuyện này…” - chị Hồng bùi ngùi nhớ lại. Chị bảo, cái huyệt đạo này người theo học y thuật phương Đông đều biết, nhưng nhiều người không để ý vì nó chẳng mấy tác dụng trong việc chữa bệnh, ngoài chức năng chứng minh sự trinh tiết. Hơn nữa nó lại thuộc y học phương Đông, nếu đem ra làm chứng cứ thì rất khó thuyết phục nguời khác. Nhưng cứ nhìn đôi mắt oan ức của Lợi, trong chị lại dâng lên một quyết tâm lạ lùng: phải minh oan bằng được! Sẽ tự thiêu để chứng minh sự thật Chị đã đi gặp GS. Nguyễn Tài Thu - một trong số ít người quan tâm đến cái huyệt đó. GS. Nguyễn Tài Thu sau khi nghe chị thuật lại sự việc cũng lắc đầu bảo, khó lắm con ạ (GS luôn gọi chị là con ) chuyện này không đùa được, liên quan đến luật pháp, mà cái huyệt này chỉ những người rành y thuật phương Đông mới hiểu, khó làm chứng cứ minh oan lắm…Nói vậy nhưng GS cũng rất thương cho phạm nhân Lợi, chính ông đã móc ví lấy tất cả số tiền trong đó là 800 ngàn đồng gửi chị mua thuốc để tiêm cho Lợi, rồi động viên chị hãy bình tĩnh, làm từng bước cho chắc chắn. Sau nhiều ngày suy nghĩ, chị quyết định tìm đến nhà phạm nhân tìm tài liệu về vụ án, lên Viện kiểm sát xin đọc hồ sơ…chị hết sức bất ngờ vì đó là một vụ án còn nhiều mâu thuẫn, có nhiều tình tiết cần được làm sáng tỏ, nó cũng củng cố thêm cho niềm tin của chị. “Tôi đã quyết định đứng tên viết đơn kêu oan, nhưng lẳng lặng làm, ai hỏi thì nói là tìm hiểu cho biết…” - Chị Hồng nói. Chị đã đi tất cả 36 cơ quan, những nơi liên quan đến vụ việc này, viết vài trăm lá đơn, trình bày tất cả những hiểu biết của mình về y học để chứng minh rằng Lợi vô tội. Tất cả những lá đơn gửi đi đều bặt vô âm tín, nếu có trả lời thì cũng khẳng định rằng bản án đã được tuyên đúng người đúng tội, có cả bản tự thú của phạm nhân, cơ quan pháp luật không sai. Mệt mỏi, chán chường, thỉnh thoảng lại bị ai đó gọi điện hăm doạ, rồi cứ xểnh ra là mất xe máy (chị đã mất tới 4 cái xe máy trong quá trình đi kêu oan giúp). Nhiều người thân bạn bè cũng khuyên can rằng , việc khó lắm lại là người dưng, chẳng quen biết gì, lao đầu vào như thế không may chuốc hoạ vào thân thì khổ “tôi không chịu, tôi vẫn quyết tâm vì tôi có lý do…” - chị Hồng vừa nói vừa lục ra 1 lá thư đã cũ, được ép nhựa cẩn thận. Đó là bức thư của ba chị - một chiến sỹ cách mạng hy sinh rất anh dũng, bạn hoạt động cùng thời với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, chính ba Sáu Dân đã giao lại bức thư cho chị hồi còn bé. Trong đó có đoạn “… Con không được phản bội lại chính lương tâm mình với bất kỳ lý do nào. Cuộc sống của con phải lấy nhân nghĩa làm lẽ sống…”. Chị Hồng rơm rớm nước mắt kể: Đời chị chưa bao giờ biết mặt ba. Lá thư này là ba viết cho chị trước lúc địch mang ông ấy ra trường bắn, không lâu sau má chị cũng bị chúng giết chết. Chị được gửi lại cho một gia đình nông dân ở huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ). Cha mẹ nuôi của chị cũng tốt vô cùng, họ không bao giờ tiết lộ chị là con nuôi, chỉ sau khi chị lớn, ba Sáu Dân và một số bạn hữu của ba má đẻ chị tìm tới, giao lại lá thư, chị mới biết mình là con nuôi, người gốc Bến Tre, ba má tập kết ra Bắc thì sinh chị, nhưng vì nhiệm vụ cách mạng, họ phải gửi chị lại để tiếp tục vào Nam chiến đấu… “Từ đó tôi lấy đuợc cái đức của ba má mà sống. Tôi không thể chịu đựng được khi thấy sự oan ức mà không hành động!” - chị Hồng khẳng định. Thế rồi đến năm 2008, một lần nữa Lợi đựơc đưa ra bệnh viện điều trị, lần này chị có cơ hội tiếp xúc lâu hơn với bệnh nhân. Chắp nối tất cả các dữ kiện, cùng những chứng cứ thu nhập được, chị quyết định, tìm gặp các vị lãnh đạo cao cấp để minh oan. Thế nhưng mọi chuyện vẫn như vậy, họ vẫn giữ quan điểm ban đầu rằng họ không sai. Quá bức xúc, chị tuyên bố rằng sẽ tự thiêu để chứng minh nhận định của mình. Chị tin rằng, sau cái chết của mình sẽ có người lật lại toàn bộ hồ sơ sự việc. Chị đã tính đến việc gửi lại hai đứa con của mình cho người thân nếu chị tự thiêu. Với sự lỳ lợm đến khó tin cuối cùng câu chuyện cũng đến được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ông đề nghị VKSND tối cao xem xét lại bản báo cáo. Cuối năm 2009, các cơ quan tố tụng có công văn gửi các cấp lãnh đạo thừa nhận: “ quá trình điều tra và xét xử đã có những thiếu xót…cơ quan điều tra đã thiếu khách quan, không đầy đủ và triệt để, những chứng cứ gỡ tội chưa được xác minh làm rõ…”. Và kết quả là họ trả tự do cho ba thanh niên đó. Chúng tôi - những người làm báo đến nghe chị kể chuyện đã hỏi: “Chị định tự thiêu là để làm thật hay doạ nếu họ không nghe?”. Chị Hồng khẳng định: “ tôi không doạ, tôi chưa bao giờ đùa trong chuyện này. Ngày mới gặp Lợi, tôi hứa sẽ đi đến cùng để minh oan, và tôi đã làm như thế. Tôi là lương y, cứu người là nhiệm vụ, và chết vì người khác cũng không phải là cái gì đó ghê gớm!”. Nhìn người phụ nữ 53 tuổi này mà chúng tôi thấy ấm lòng, cuộc sống sẽ đẹp hơn nếu có nhiều và rất nhiều người như chị ! Kiến thức, lòng quyết tâm của chị đã giúp ba chàng thanh niên đòi lại công lý, đòi lại nhân phẩm, và cũng cảnh báo với những người đang cầm cân nảy mực, có trách nhiệm phải thật cẩn trọng với pháp luật vì chỉ một sai xót nhỏ cũng có thể huỷ diệt cuộc đời một con người. Theo Đang yêu14 likes
-
Thử tìm lại biên giới cổ của Việt-Nam: Bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống ADN Giáo-sư Trần Đại-Sỹ. Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ Chúng tôi xin giới thiệu với độc giả Việt-Nam bài diễn văn của Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á (Institut Franco-Asiatique viết tắt là IFA). Nguyên văn bằng tiếng Pháp, đây là bản dịch tiếng Việt của chính tác giả và cô Tăng Hồng Minh chú giải. Trong dịp khai giảng niên học này, IFA đã mời một số đông các học giả, trí thức và ký giả tham dự. Sau bài diễn văn, có cuộc trao đổi rất thú vị.Nội dung trích dẫnXin nhắc lại, trong khoảng thời gian 1977-1992, tác giả làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique, viết tắt là CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), nên đã được các đồng nghiệp giúp đỡ, dùng hệ thống ADN để tìm lại nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Chính với công trình nghiên cứu của tác giả trong thời gian 1977-1991, dùng hệ thống ADN phân biệt dân-tộc Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đã kết thúc cuộc tranh cãi 90 năm qua biên giới cổ của Việt-Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược lại với tất cả các thuyết từ trước đến giờ. Các thuyết này khẳng định người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người ở vùng Đông Nam Á đã đi lên phương Bắc thành người Hoa. Sau khi bài diễn văn này phổ biến (1991), có một số "học giả" vì không theo kịp đà tiến hóa của khoa học, đã lên tiếng chỉ trích chúng tôi. Biết rằng họ dốt nát quá, muốn giải thích cho họ, họ phải có một trình độ nào đó... vì vậy chúng tôi không trả lời. Phần nghiên cứu của chúng tôi quá dài, quá chuyên môn. Độc giả muốn tìm hiểu thêm có thể đọc công trình nghiên cứu dưới đây: J.Y.CHU, cùng 13 nhà bác học Trung-quốc cũng nghiên cứu Di-truyền học ADN (DNA), công bố năm 1998: The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 năm 1998. Tài liệu khẳng định rằng nguồn gốc người Trung-hoa, Đông Á, do người Đông-Nam-á đi lên, chứ không phải do người Trung-hoa di cư xuống. ALBERTO-PIAZZA (đại học Torino, Ý): Human Evolution: Towards a genetic history of China, Proc.of Natl. Acad. Sci, USA, Vol 395, No 6707-1998. LI YIN, Distribution of halotypes from a chrosmosomes 21 Region - distinguishes multiple prehistotic human migrations - Proc.of Natl. Acad. Sci - USA, Vol.96 , 1999. Về bài diễn văn này, từ năm 1991, có rất nhiều bản dịch sang nhiều thứ tiếng, đăng trên nhiều báo khác nhau. Mỗi dịch giả lại tự ý lược đi, đôi khi cắt mất nhiều đoạn. Nay chúng tôi xin dịch nguyên bản, đầy đủ. Vì vậy độc giả thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn, xin lướt qua. Trong khi diễn giả trình bầy, ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả thảo luận. Các bài trích đăng trước không ghi phần này. Để độc giả dễ theo dõi, cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép, chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ, thay vì ghi ở cuối bài. Khi xuất bản lần thứ nhất, bộ Anh-hùng Bắc-cương của giáo-sư Trần, chúng tôi có cho trích một phần bài này in vào cuối quyển 4. Nay chúng tôi công bố toàn bộ tài liệu, lấy làm tài liệu chính thức và phủ nhận tất cả những bản do nhiều nơi phổ biến trước đây? Paris ngày 10-10-2001 Sở tu thư, viện Pháp-Á Kính thưa ông Viện trưởng, Kính thưa quý đồng nghiệp, Kính thưa quý vị quan khách. Các bạn sinh viên rất thân mến, Tôi không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà khảo cổ, hay nhà chủng tộc học. Tôi chỉ là một thầy thuốc. Nhưng những may mắn đến tiếp diễn trong suốt cuộc đời, vô tình đã đưa tôi đến đây trình bày cùng quý vị về nguồn gốc, biên giới cổ của tộc Việt. Ở cuối giảng đường này tôi thấy có nhiều bạn trẻ bật cười. Tôi biết bạn bật cười vì đa số người ta đều than đời bất hạnh, toàn rủi ro. Còn tôi, tôi lại nói rằng suốt cuộc đời toàn may mắn. Tôi có thể nói thực với Quý-vị rằng, về phương diện nghiên cứu học hành, suốt đời tôi, tôi có cảm tưởng tổ tiên đã trải thảm cho tôi đi trên con đường vô tận đầy hoa. Nếu bạn chịu khó đọc bộ Sexologie médicale chinoise của tôi, phần bài tựa tôi có viết : « Trong lịch sử cổ kim nhân lọai, nếu có người may mắn về phương diện nghiên cứu học hành, tôi đứng đầu. Nhưng nếu có người bất hạnh nhất trong tình trường tôi cũng đứng đầu ». Hôm nay tôi trình bày với Quý-vị về công cuộc đi tìm biên giới cổ của nước Việt-Nam và nguồn gốc tộc Việt, Quý-vị sẽ thấy tôi may mắn biết chừng nào, và Quý-vị sẽ thấy tộc Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Nhưng gần đây, vì chiến tranh tiếp diễn trong hơn 30 năm, khiến cho đất nước chúng tôi điêu-tàn, và... hiện nước tôi là một trong bốn nước nghèo nhất trên thế giới. I. SƠ TÂM VỀ TỘC VIỆT Năm lên năm, tôi học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng chung cho hầu hết các nước vùng Á-châu Thái-bình dương (ACTBD). Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông tôi là một đại thần của triều đình Đại-Nam (tức Việt-Nam). Chế độ phong kiến của nước tôi đã chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị Hoàng-đế cuối cùng của Đại-Nam là Bảo Đại. Ngài vẫn còn sống ở quận 16 Paris. Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho. Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học chữ Nho, tôi có một kho tàng văn hóa vĩ đại để đọc, để thỏa mãn trí thức của tuổi thơ. Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nơi đây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đã thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thi. Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Đại-học. Chương trình giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh ; không bằng một phần trăm những gì tôi học ở nhà. Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như : Đại-Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), An-Nam chí lược (ANCL), Đại-Việt thông-sử (ĐVTS), Khâm-định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), Đại-Nam nhất thống chí(ĐNNTC). Đại cương mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam sau : « Vua Minh cháu bốn đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũlĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng : « Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hoà mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn ». Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây lịch, đến đây thì chia làm hai : 1. Thần-Nông Bắc. Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch) Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch) Vua Ly (2795-2751 trưước Tây-lịch) Vua Du-Võng (2752-2696 trước Tây-lịch). Đến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng-đế từ năm giáp Tý (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng-đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tư-mã Thiên khởi chép quyển một là Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại Thần-Nông. 2. Triều đại Thần-Nông Nam. Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh- Dương, lúc mười tuổi. Sau người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho đến nay (1991) là 4870 năm, vì vậy người Việt tự hào rằng đã có năm nghìn năm văn hiến. (1) Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lý của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. Còn như đi xa hơn về những thời tiền cổ, thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận đến ở đây. Xét về cương giới cổ sử chép « Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương(2), đặt tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tây. Vua Kinh-Dương lấy con gái vua Động-đình là Long-nữ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lãm. Thái-tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai(3). Khi vua Kinh-Dương băng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-Lang. Nước Văn-Lang Bắc tới hồ Động-đình, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, đông giáp biển Đông-hải.) Cổ sử đến đây, không có gì nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép : «Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nối. Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Động-đình.(Nay là Hồ-Nam, Quý-châu, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận.(Nay là Vân-Nam và một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng Chiêm-thành.(Nay thuộc Việt-Nam, từ Thanh-hóa đến Đồng-nai.) Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi lập ra vùng Lão-qua.(Nay là nước Lào và một phần Bắc Thái-lan.) Hoàng-tử thứ năm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng Nam-hải. (Nay là Quảng-đông, và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm.(Nay thuộc Quảng-tây, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam.(Nay thuộc Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-bình.) Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân.(Nay thuộc Việt-Nam từ Ninh-bình tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh) Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trăm lập ra vùng Giao-chỉ.(Nay là Bắc Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam thuộc Trung-quốc.) Ngài hẹn rằng : Mỗi năm các hoàng-tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết, để chầu hầu phụ mẫu ». Một huyền sử khác lại thuật : Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng : « Ta là Rồng, nàng là loài Tiên ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần » Các sử gia người Việt lấy năm vua Kinh-Dương lên làm vua là năm Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua Kinh-Dương với Công-chúa con vua Động-đình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cơ làm Quốcmẫu. Cho đến nay Quý-vị hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào : « Chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên. Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ». Chủ đạo của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin này. Ghi chú của Tăng Hồng Minh, Ký giả chuyên về Văn-minh Đông-á Jean Marc Decourtenet hỏi về đoạn này như sau: « Thưa Giáo-sư, hiện Việt-Nam là nước theo chế độ Cộng-sản, liệu người Việt trong nước họ có cùng một niềm tin như người Việt hồi 1945 về trước cũng như người Việt hải ngoại hay không ? » Trả lời : « Những nhà lãnh đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam suốt từ năm 1930 đến giờ, không một người nào muốn dùng triết lý Marxisme, Léninisme để xóa bỏ niềm tin con Rồng cháu Tiên. Trái lại họ còn dùng niềm tin này để quy phục nhân tâm. Vì niềm tin này đã ăn sâu vào tâm não người Việt. Những người lãnh đạo chính trị Việt cả hai miền Nam-Bắc trong thời gian nội chiến 1945-1975 cũng không ai dám, không ai muốn, không ai đủ khả năng xóa bỏ niềm tin này. Người Việt có niềm tin vào Chủ-đạo của mình. Họ xây đền thờ các vua Hùng ở Phú-thọ dường như đã hơn nghìn năm. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch là người người đều tụ tập về đây để tưởng nhớ công ơn các vua Hùng đã dựng nước. Trong thời gian chiến tranh (1945-1975) vì tình hình an ninh di chuyển khó khăn, vì tình hình kinh tế không cho phép, số người hành hương có giảm thiểu. Nhưng từ sau 1987, số người hành hương tăng vọt. Ngay ở ngoại quốc, người Việt lưu lạc khắp nơi, nhưng hằng năm đến ngày 10 tháng 3, lịch Á-châu, nơi nào họ cũng tổ chức giỗ tổ rất thành kính. Các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam như Chủ-tịch Hồ Chí Minh, Chủ-tịch Trường Chinh; Tổng bí thư Lê Duẩn, Đỗ Mười; Thủ-tướng Phạm Văn Đồng v.v. đều hành hương đền thờ vua Hùng, và đọc diễn văn ca ngợi công đức Quốc-tổ như một hành động thu phục nhân tâm. Kết lại dù ở trong nước hay ngoại quốc, hiện người Việt vẫn cùng một niềm tin như nhau." Ghi của Tăng Hồng Minh dành cho người Việt. Theo sự tìm hiểu của Tăng Hồng Minh tôi, các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam, đã viếng đền Hùng là : - Chủ-tịch Hồ Chí Minh, ngày 19-9-1954. 19-8-1962. - Tổng bí thư Lê Duẩn, 5-5-1977. - Chủ tịch nhà nước Trường Chinh 6-2-1959. 5-2-1978. - Thủ tướng Phạm Văn Đồng 6-2-1969. 27-8-1978. - Tổng bí thư Đỗ Mười 27-4-1993. Tôi xin trở lại với đầu đề, 3. Triều đình, dân tộc. Tôi đã trình bầy với Quý-vị về hai triều đại đầu tiên cai trị vùng Á-châu Thái-bình dương : Phía Bắc sông Trường-giang sau thành Trung-quốc. Phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan, sau thành Đại-Việt. Hai triều đại Thần-Nông Nam-Bắc cai trị dân chúng : - Không có nghĩa là dân chúng cùng một chủng tộc ; - Không có nghĩa là tộc Hoa, tộc Việt là một; - Cũng không có nghĩa tất cả dân chúng tộc Hoa, tộc Việt đều là huyết tộc của vua Thần-Nông. - Trung-quốc, Đại-Việt là anh em về phương diện chính trị. Giòng Thần-Nông cai trị vùng đất Trung-quốc, Đại-Việt là anh em, nhưng dân chúng không hoàn toàn là anh em. Dân chúng hai nước bao gồm nhiều tộc khác nhau như Mongoloid, Malanésien, Indonésien, Australoid, và cả Négro-Australoid...v.v. - Người Hoa, người Việt nhân triều đại Nam-Bắc Thần-Nông tổ chức cai trị, lập thành nước, mà tôn làm tổ mà thôi. Chứ hai vùng hồi đó hang nghìn, hàng vạn bộ tộc khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, văn hóa khác nhau. Sau này các văn nhân người Hoa ở vùng lưu vực Hoàng-hà, lưu vực sông Hán, nhân có chữ viết, lại không đi ra ngoài, rồi tưởng tượng mà viết thành sách, tự cho mình là con trời, tự trời mà xuống; sau đó đem văn minh, truyền bá ra khắp thế giới (Thiên-hạ), người sau lấy làm chủ đạo của họ. Tôi sẽ bàn đến ở dưới. Tôi xin cử một tỷ dụ, để Quý-vị nhìn rõ hơn. Ông Washington là vị Tổng-thống đầu tiên lập ra nước Hoa-kỳ, chứ ông không phải là tổ của các sắc dân đến từ châu Phi, châu Âu, cũng như dân bản xứ. Hai vị vua Nghi, vua Kinh Dương không phải là tổ huyết tộc của người Hoa, người Việt. Hai ngài chỉ là tổ về chính trị mà thôi. II. CHỦ ĐẠO TRUNG QUỐC, VIỆT-NAM. Như Quý-vị đã thấy, mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệu. Người Pháp cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật tượng trưng là con gà trống. Người Anh lấy biểu hiệu là con sư-tử. Người Hoa-kỳ lấy biểu hiệu là con chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con Rồng. Người Việt lấy biểu hiệu là con Rồng và con chim Âu. Gốc biểu hiệu này lấy từ huyền sử vua Lạc-Long là loài rồng, công-chúa Âu-Cơ là loài chim. Người Do-thái họ tự tin rằng họ là giống dân linh, được Chúa chọn. Vì vậy, sau hai nghìn năm mất nước, họ vẫn không bị đồng hóa. Khi tái lập quốc, với dân số bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với bao cuộc tấn công để tồn tại. Đó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân được Chúa chọn. Tôi xin nói rõ về chủ đạo của Trung-quốc và Việt-Nam. Như Quý-vị đều biết, hiện Trung-quốc, Việt-Nam đều là những nước theo chủ nghĩa Cộng-sản, đặt căn bản trên thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels. Chủ thuyết này đến Trung-quốc, Chủ-tịch Mao Trạch Đông biến thể đi thành Maoisme. Tại Việt-Nam, người mang chủ thuyết Marx, Engels vào là Chủtịch Hồ Chí Minh ; ông được đào tạo tại Liên-sô, vì vậy chủ thuyết của ông phảng phất Léninisme, pha thêm Việt-tính do ông tạo ra. Dường như hiện nay trên khắp thế giới, kể cả Liên-bang Sô-viết chỉ Việt-Nam là quốc gia duy nhất còn duy trì tượng Lénine tại một công viên lớn của Thủ-đô (Hà-nội). Theo như dự đoán của chúng tôi thì Trung-quốc, cũng như Việt-Nam cùng nhận thấy thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels không còn hợp thời, không còn ích lợi nữa. Cả hai đang từng bước, từng bước trở lại với chủ đạo của mình. Xin các vị cứ chờ, không lâu đâu cả hai sẽ hoàn toàn trở về với kho tàng quý báu của nước mình! Tôi thấy Trung-quốc trở lại quá mau, quá mạnh. Con rồng Trung-quốc mà Hoàng-đế Napoléon bảo rằng hãy để nguyên cho nó ngủ. Bằng như nó thức dậy, nó sẽ làm rung chuyển thế giới. Thưa Quý-vị, con rồng Trung-quốc đã thức dậy rồi, nhưng nó chưa làm rung động thế giới! Ghi chú của Tăng Hồng Minh (ngày 19-8-2000, nhân đọc lại bài này). IFA trao cho tôi dịch hầu hết những bài diễn văn của các nhà lãnh đạo Việt-Nam từ 1992 đến nay. Tôi thấy ông Tổng-bí-thư Đỗ Mười trong các diễn văn kỷ niệm 19-8 cũng như ngày Quốc-khánh, những từ ngữ ông dùng cũng như nội dung, ngày một xa Marx, Engels, Lénine. Nếu thời kỳ ông Lê Duẩn cầm quyền, khắp Việt-Nam đều thi nhau phá bỏ hết phong tục, truyền thống, nhất là phá các di tích tôn giáo bao nhiêu; thì bây giờ hầu hết các truyền thống dân tộc đều được phục hồi ở cấp xã. Niềm tin (chủ đạo) của hạ tầng hầu như trở lại thời kỳ trước 1945. 1.- Chủ đạo của Trung-quốc. Người Hoa thì tin rằng mình là con trời. Cho nên trong các sách cổ của họ,vị vua được gọi là Thiên-tử, còn các quan thì luôn là người nhà trời xuống thế phò tá cho vua. Chính niềm tin đó cùng với văn minh Hoa-hạ, văn minh Nho-giáo đã kết thành chủ-đạo của họ. Cho nên người Hoa dù ở đâu, họ cũng có một tổ chức xã hội riêng, sống với nhau trong niềm kiêu hãnh con trời. Cho dù họ lưu vong đến nghìn năm họ cũng không bị đồng hóa, không quên nguồn gốc. Cũng chính vì vậy, mà từ một tộc Hoa nhỏ bé ở lưu vực sông Hoàng-hà, họ đánh chiếm, đồng hóa hàng nghìn nước xung quanh, và nước của họ rộng lớn như ngày nay. Hầu hết những nước khác đến cai trị họ, đều bị họ đồng hóa. Mông-cổ, Mãn-thanh bị đồng hóa, bị mất hầu hết lãnh thổ. Nhưng chủ-đạo và sức mạnh của người Trung-quốc phải ngừng lại ở biên giới Hoa-Việt. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Giáo sư Nhân chủng học Van Gotensbert (Hòa-lan) hỏi : « Tôi thấy người Hoa, kiều ngụ ở các nước Á-châu, châu Phi cũng như tại Hoa-kỳ, Canada, Úc cùng một số các nước Âu-châu, dù trải qua mấy trăm năm, họ vẫn duy trì được dòng giống và không bị đồng hóa, đó là nhờ chủ đạo tự tin là con trời của họ. Thế nhưng tại sao, họ mới tới Pháp từ sau 1975, dưới danh nghĩa tỵ nạn Việt, họ bị đồng hóa rất mau. Không lẽ chủ đạo của Trung-quốc lại bị chủ đạo của Gaulois xóa bỏ mau chóng như vậy sao ? ». Đáp : « Thưa Giáo-sư, điều Giáo-sư hỏi, cũng là điều tôi chú tâm nghiên cứu từ 1975 đến giờ. Khi người Hoa tới bất cứ nước nào, họ cũng bị kỳ thị không ít thì nhiều, họ phải sống quần tụ với nhau, giúp đỡ nhau, bảo vệ nhau. Bên cạnh đó họ có niềm tin là con trời, tự hào về nền văn minh cổ của họ. Do đó họ tổ chức thành xã hội riêng : Giáo dục con em, thương mại, sinh hoạt văn hóa, tương trợ. Vì vậy họ giữ được bản sắc Trung-quốc của họ. Còn khi người Hoa tới Pháp, thì người Pháp với tinh thần cởi mở, với tính hiếu hòa, không kỳ thị, lại tận tình giúp đỡ kẻ tha hương hơn chính người Hoa giúp nhau, thành ra người Hoa không cần sống quần tụ. Họ sống lẫn với người Pháp. Con em người Hoa ngày ngày tới trường được bạn học, được thầy yêu thương, chúng thu nhập văn hóa Pháp rất mau. Trong khi cha mẹ chúng phải làm việc không có thời giờ dạy con cái về văn hóa Trung-quốc. Do vậy chỉ trong vòng mấy năm là trẻ Hoa thành trẻ Pháp: Tiếng nói, cách suy tư, nếp sống, trừ...ẩm thực. Tôi xin nói một câu thẳng thắn, mong các vị đừng buồn: trên khắp thế giới, khi người Việt tỵ nạn đến định cư bất cứ nơi nào, đều gặp nạn kỳ thị. Nước Pháp là nước duy nhất dân chúng không kỳ thị mà lại còn tận tình giúp đỡ. Do vậy nhiều người tỵ nạn đến các nước khác của châu Âu, rồi cũng tìm định cư ở Pháp, dù ở Pháp khó kiếm việc làm.Chính phủ và nhân dân Pháp biết thế, nên cánh cửa tự do không hề đóng lại. Tôi xin trở lại với đầu đề. Chủ đạo của Trung-quốc bắt nguồn từ thời nào ? Từ sách nào ? Do ai khởi xướng ? Đầu tiên là Kinh-thư, không rõ tác giả là ai, xuất hiện trước Khổng-tử, thiên Vũ-cống gọi thế giới chúng ta ở là Thiên-hạ (Dưới trời). Thời cổ, các văn nhân Trung-quốc không đi xa hơn vùng sông Hán, sông Hoàng-hà, họ tưởng đâu thế giới chỉ có Trung-quốc, nên gọi Trungquốc là Thiên-hạ. Thiên-hạ là Trung-quốc, tức là nước ở giữa. Bốn phía Trung-quốc là biển, nên gọi Trung-quốc là hải-nội, các nước khác là hải-ngoại. Kinh-thư thiên Vũ-cống chia Thiên-hạ thành 9 châu : Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Lại dùng khoảng cách, chia làm năm cõi, gọi là Ngũ-phục, mỗi cõi cách nhau năm trăm dặm (250 km). Ngũ-phục là Điện-phục, Hầu-phục, Tuy-phục, Yêu-phục, Hoang-phục. Trung-ương là kinh đô của nhà vua. - Điện-phục ở ngoài kinh đô năm trăm dặm. - Hầu-phục ở ngoài cõi Điện-phục năm trăm dăm : trong năm trăm dặm cõi Hầu thì khoảng cách một trăm dặm để phong thái ấp cho các quan khanh, đại phu. Hai trăm dặm nữa phong cho các tước Nam. Hai trăm dặm nữa phong cho các chư Hầu. - Kế tiếp Hầu-phục là Tuy-phục. Trong năm trăm dặm cõi Tuy thì ba trăm dặm là nơi truyền bá văn chương, giáo hóa quần chúng ; còn hai trăm dặm để hưng thịnh võ bị, bảo vệ quốc gia. - Sau cõi Tuy là cõi Yêu. Trong ba trăm dặm cõi Yêu là nơi cho rợ phương Đông ở. Hai trăm dặm còn lại là nơi để đầy tội nhân. - Cõi cuối cùng là cõi Hoang, năm trăm dặm. trong ba trăm dặm gần dành cho mọi phương Nam ở, hai trăm dặm cuối cùng để đầy người có tội nặng. - Ra khỏi cõi Hoang là... biển. Với lối phân chia lẫm cẩm, hài hước ấy, năm nghìn năm qua, dân Trung-quốc coi là Kinh, tức những gì không thể thay đổi, rồi trở thành chủ đạo của tộc Hoa. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Giáo-sư khoa Chính-trị học J.Fr Longanacre (USA) Hỏi : - Thế cái chủ đạo mà người Trung-quốc tự thị là con trời phát xuất từ đâu ? Vào thời nào ? Đáp : - Thưa Giáo-sư, cũng phát xuất từ Kinh-thư, thiên Thái-thệ : Trời sinh ra dân, Đặt ra vua, ra thầy, Đều để giúp Thượng-đế, Vỗ về dân bốn phương. Giáo-sư Mohamed Khalid (Nhân chủng học Iran) hỏi: - Tôi nghiên cứu hầu hết các thuyết nói về nguồn gốc tộc Hoa. Tôi thấy dường như người ta đều cho rằng tộc Hoa tự sinh ra, rồi di chuyển đi các nơi: Ra biển thành người Nhật, Namdương, Phi-luật-tân. Xuống Nam thành người Việt, Miên, Lào, Thái, Miến. Lên Bắc thành Đạihàn, Mông-cổ, sang phía Đông-Bắc thành người Trung Đông. Có đúng thế không? Đáp: - Thưa Giáo-sư họ suy nghĩ như vậy là sai hoàn toàn. Họ căn cứ vào truyền thuyết mà nói như vậy. Truyền thuyết căn cứ vào thư tịch cổ, nên sai, hoàn toàn sai. Vì thư tịch cổ do những văn nhân không đi ra ngoài, ngồi ở vùng lưu vực Hoàng-hà, tưởng tượng mà viết ra. Cả hội trường cùng im lặng. - Nếu nói rằng người Trung-hoa nhờ có tinh thần thực dụng, nhờ có chữ viết, nhờ văn hóa Nho-giáo, rồi trở thành hùng mạnh, rồi đem quân đánh chiếm các nước nhỏ xung quanh, tạo thành một nước vĩ đại như ngày nay là đúng. Còn như bảo rằng họ là con trời hoặc họ tự sinh ra, rồi di chuyển đinh sinh sống các nơi... thì sai. Tôi sẽ dẫn chứng ở dưới bằng ADN: tộc Hoa, do giống người từ Đông Nam-á đi lên. Mà những người Đông Nam-á có gốc từ Phi-châu. Họ đến Nam-á từ lâu. Rồi tộc đó lại kết hợp với những người cũng từ châu Phi đi lên châu Âu, vào Bắc Trung-quốc khoảng 15.000 năm trước. Chúng ta trở lại với đầu đề. Tiếp theo Kinh Thư, sách Tả-truyện, Tả Khâu Minh cũng viết : Trời làm chủ Thiên-hạ, Vua nối trời mà cai trị. Kẻ chịu mệnh trời mà cai trị là Thiên-tử. Đến Mạnh-tử, thiên Ly-lâu viết: Thiên hạ là quốc gia, Gốc của thiên hạ là quốc, Gốc ở quốc là gia. Vì ảnh hưởng của sách cổ nên người Hoa mới nảy sinh ra tư tưởng « Nội Hoa hạ, ngoại Di, Địch ». Nghĩa là trong Ngũ-phục thì là chốn văn minh, còn ngoài ra thì là mọi rợ. Kinh-lễ, thiên Vương-chế nói : Đông phương viết Di, Tây phương viết Nhung, Nam phương viết Man, Bắc phương viết Địch. Nghĩa là : Người ở Đông phương gọi là Di, Tây-phương là Nhung, Nam phương là Man, Bắc phương là Địch. Di, Nhung, Man, Địch là những từ để chỉ mọi rợ. Bốn chữ đó khi viết thì có bộ trùng, bộ thú, bộ khuyển ở cạnh. Có nghĩa các sắc dân đó là cầm thú, côn trùng, chó mèo ! Ngay đối với người Âu, Mỹ hồi thế kỷ thứ 20 về trước, người Hoa gọi là Bạch-quỷ ! (Thính giả cười ồ lên !) . Họ còn phân ra người Âu là Tây-dương Quỷ. Người Mỹ là Mỹ-lan-tây Quỷ. Người Anh là Hồng-mao Quỷ . Người Nga là La-sát Quỷ. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Sinh viên Marta Maria Fernandes Hỏi : « Thưa Giáo-sư, về Trung-quốc, tiếng Pháp gọi là La Chine, người Trung-quốc là Chinois. Còn sách của Chinois ở lục địa thì họ xưng là Trung-quốc ; của người ở Hương-cảng, Đài-loan thì họ xưng là Trung-hoa. Đôi khi họ xưng là Trung-nguyên, rồi Hoa-hạ. Tôi đọc một số sách bằng Việt ngữ thì người Việt gọi là chữ Hán chứ không gọi là chữ Hoa, hay chữ Trungquốc; và người Việt khi thì gọi Chinois là người Hoa, khi thì gọi là người Tầu. Như trên Giáo-sư đã giải thích từ Trung-quốc. Còn từ Hoa ở đâu mà có ? Tại sao lại có những từ phức tạp như vậy ? » Đáp : « Như tôi đã trình bầy : Với lối phân chia Cửu-châu, Ngũ-phục ; trong năm cõi trên thì cõi Điện là vùng bao quanh Thiên-hạ. Phía trong cõi Điện là Giao. Trong Giao một trăm dặm là Quốc. Trong Quốc có thành gọi là Đô. Đô là nơi vua ở. Vì vậy họ mới xưng là Trung-quốc, tức nước ở giữa Thiên-hạ. Chữ Trung-quốc ở đây có tính chất chính trị, và địa lý. Còn từ Trungnguyên có nghĩa là vùng đất ở giữa. Trung-nguyên chỉ có nghĩa địa lý mà thôi. Sau cuộc cách mạng Tân-Hợi (1911), Bác-sĩ Tôn Văn và Quốc-dân đảng lên nắm quyền, lấy quốc danh là Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc, gọi tắt là Trung-Hoa Dân-quốc từ ngày 1-1-1912. Hiện chính phủ Đài-loan vẫn duy trì quốc danh này. Hồng-quân tiến chiếm được Bắc-kinh, lập nền cai trị Trung-nguyên, họ xưng là Cộnghòa nhân dân Trung-quốc gọi tắt là Trung-quốc kể từ ngày 1-10-1949. Còn nguồn gốc từ Hoa thì lúc đầu Trung-quốc chỉ là mấy bộ tộc ở vùng Ung-châu, Lương-châu (Ghi chú xin đừng lầm Ung này với Ung-châu thời Tống, nay là Nam-ninh thuộc Quảng Tây). Phía Đông Nam là Hoa-âm, Đông Bắc là Hoa-dương, giới hạn bởi Hoa-sơn. Vì vậy họ mới xưng nước là Hoa. Sau vì có văn minh, họ chiếm, đồng hóa các vùng xung quanh, mà có 9 châu như trong Kinh-thư. Hoa là tên nước chứ không phải là tên chủng tộc. Còn từ Hoa Hạ thì do con sông Hạ-thủy khởi nguồn từ Ung-Lương, nên lấy từ Hạ-thủy làm tên tộc. Hạ là tên tộc, không phải là tên nước. Sau này người ta ghép chữ Hoa là nước với chữ Hạ là tộc thành từ Hoa-Hạ vừa để biểu tượng cho nước, vừa biểu tượng cho tộc. Cao-tổ nhà Hán là Lưu Bang, khởi nghiệp từ sông Hán-thủy, nên xưng là triều Hán (207 trước Tây-lịch). Năm 179 trước Tây-lịch, Triệu Đà chiếm Âu-lạc (tên cũ của Việt-Nam). Y là thần tử triều Hán, cấm dân Việt học chữ Khoa-đẩu của tộc Việt, bắt học chữ Hoa. Do vậy người Việt gọi chữ Hoa là chữ Hán. Người Việt gọi người Chinois là người Hoa, người Trung-quốc là lẽ thường. Còn danh tự người Tầu thì bắt nguồn từ những triều đại Trung-quốc bị sụp đổ, các di thần dùng tầu vượt biển sang Việt Nam xin kiều ngụ, nên người Việt gọi họ là người Tầu ». Chúng ta trở lại với đầu đề. Từ nguồn gốc kinh điển cổ, người Hoa tự cho mình là con trời (Thiên-tử), cho nên hầu hết các tiểu thuyết của họ thì vua luôn có tướng tinh là con rồng vàng, là Thanh-y đồng tử trên thượng giơí giáng sinh. Các quan võ thì luôn là Vũ-khúc tinh quân, các quan văn là Văn-khúc tinh quân. Quần thần thì là Nhị-thập bát tú giáng hạ. Với chủ đạo này, họ đã đánh chiếm mấy trăm nước tạo thành một Trung-quốc vĩ đại. 2.- Chủ đạo của Việt-Nam. Như trên đã trình bầy, với nguồn gốc lập quốc, người Việt có niềm tin mình là con của Rồng, cháu của Tiên, cho nên người Việt có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Truyền thống sang thế kỷ thứ 2 trước Tây-lịch lại thêm vào tinh thần của vua An-Dương. Sang đầu thế kỷ thứ nhất, nổ ra cuộc khởi nghĩa của một phụ nữ, và 162 anh hùng, trong đó có hơn trăm là nữ. Cuộc khởi nghĩa đuổi ngoại xâm Trung-hoa, lập lên triều đại Lĩnh-Nam. Phụ nữ đó là vua Trưng. Nối tiếp mỗi thời đại đều có tinh thần riêng, tạo thành niềm tin vững chắc. Tộc Việt đã chiến đấu không ngừng để chống lại cuộc Nam tiến liên miên trong hai nghìn năm của người Hoa. Bất cứ thời nào, người Việt dù bị phân hóa đến đâu, nhưng khi bị ngoại xâm, họ lập tức ngồi lại với nhau để bảo vệ quốc gia. Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt, hễ ai dựa theo chủ đạo tộc Việt, đều thành công trong việc giữ được quyền cai trị dân. Gần đây nhất, người Việt bị các thế lực Quốc-tế, gây ra cuộc chiến tranh tương tàn khủng khiếp (1945-1975). Nhưng nay, Việt-Nam đang trên đà phục hưng chủ đạo. Ý tôi muốn nói sự cố gắng phi thường của hơn hai triệu người Việt ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam, đã là bó đước sáng chuyển chủ đạo trở về nước mình. Trong thời gian 1954-1975, miền Bắc theo chế độ Cộng-sản, theo chủ thuyết Quốc-tế. Nhưng họ biết khai thác cái chủ đạo của Việt-Nam, họ huy động được tinh thần yêu nước của dân tộc, nên cuối cùng họ chiến thắng. Cũng tiếc thay, những người cầm quyền miền Nam từ 1963-1975, không biết khai thác lòng yêu nước của dân tộc, lại chấp nhận cho quân đội Hoa-kỳ và đồng minh nhảy vào vòng chiến, việc này có khác gì quỳ gối, trao ngọn cờ chính nghĩa cho miền Bắc! Tôi nghĩ những người lãnh đạo miền Nam như ông Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, cho đến giờ này (1992) chưa từng biết gì về kho tàng lòng yêu nước của người Việt, lại cũng chưa từng nghe, từng nói đến chữ chủ đạo tộc Việt bao giờ. Trước họ, cố Tổng-thống Ngô Đình Diệm (1954-1963), vì biết rõ chủ đạo tộc Việt. Ngài từ chối không cho Hoa-kỳ đổ quân vào Việt Nam, mà đang là một đồng minh của Hoakỳ, Ngài đã trở thành kẻ thù của Hoa-kỳ, bị Hoa-kỳ giết hết sức thảm khốc. III. ĐI TÌM LẠI NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT. Năm trước đồng nghiệp của tôi đã giảng cho các bạn sinh viên hiện diện các giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, bao gồm : 1.- Thuyết của giáo sư Léonard Aurousseau về cuộc di cư của người Ư-Việt hay Ngô-Việt sang Âu-Lạc. 2.- Thuyết của Claude Madroll về cuộc di cư của người Mân-Việt sang Âu-Lạc. 3.- Thuyết của học giả Đào Duy-Anh, Hồ Hữu-Tường về cuộc di cư do thời tiết của người Việt từ Bắc xuống Nam. Tất cả các thuyết này đều căn cứ vào những thư tịch cổ Trung-quốc, Việt-Nam. Mà những thư tịch này không có một biện chứng khoa học nào cả. Cuối cùng các giáo sư đồng nghiệp đã nhận định rằng : Nhờ vào khoa khảo cổ, nhờ¨ vào hệ thống khoa học DNA, từ nay không còn những giả thuyết về nguồn gốc tộc Việt nữa, mà chỉ còn lại công cuộc nghiên cứu của tôi, rồi kết luận : « Thoạt kỳ thủy, trên vùng đất thuộc lãnh thổ Trung-quốc, Việt-Nam hiện tại: Giống người đã từ châu Phi đến bằng hai đường. Một là đường Nam-á, đến Đông Nam-á, ngược lên vùng Hoa Nam. Hai là từ châu Phi, tới châu Âu, rồi sang Bắc Trung-quốc. Cuối cùng cả hai giống người hòa lẫn với nhau trên lãnh thổ Trungquốc. Còn trong vòng 5000 năm trước Tây lịch cho đến nay, thì tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía nam sông Trường-giang, Đông tới biển, Tây tới Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-lan. Người Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam. Người Mân-Việt đi xuống Giao-chỉ. Người Việt di cư từ nam sông Trườnggiang tránh lạnh xuống Bắc-Việt đều đúng. Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lãnh thổ của họ, như cuộc di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 ; chứ không phải họ là người Trung-quốc di cư xuống Nam, lập ra nước Việt. » Chính vì lý do dùng hệ thống ADN biện biệt tộc Hoa, tộc Việt, nên tôi được mời đến đây đọc bài diễn văn khai mạc niên khóa này. Sau đây tôi trình bầy sơ lược về công trình nghiên cứu đó. Tôi xin nhắc lại, tôi chỉ là một bác sĩ y-khoa, cho nên những nghiên cứu của tôi đặt trên lý luận thực nghiệm, cùng lý luận y-khoa, nó hơi khác với những gì mà các bạn đã học. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Sinh viên Vũ-thị Thu-Dung Hỏi: - Thưa Thầy, con có đọc một bộ sách của nhà văn Bình Nguyên Lộc nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trong bộ sách đó, ông khẳng định rằng người Việt gốc từ Mã-lai. Xin Thầy cho biết ý kiến? Trả lời: - Tôi chưa đọc bộ sách đó, vả có đọc tôi cũng không thể đem ra bàn luận ở đây. Giáo-sư Viện-trưởng: - Tôi xin bổ túc lời diễn giả. Ban tu thư của IFA sưu tầm tất cả những thư tịch nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trước sau có 34 người đã trình bầy. Nhưng chỉ những tác giả sau đây được ghi vào album nghiên cứu: - Edouard Chavannes trong bản dịch bộ Sử-ký của Tư Mã Thiên. - Leonard Aurousseau trong bài nghiên cứu "La première conquête chinoise des pays anamites" đăng trong tạp chí của trường Viễn-đông bác cổ của chúng tôi tại Hà-nội (ý chỉ nước Pháp), ký hiệu BEFEO XXIII. 138-244. - Claude Madrolle, trong bài Le Tonkin Ancien đăng trong BEFEO XXXVII 264-332. - Lê Chí Thiệp, trong Văn-hóa nguyệt san (VNCH) số tháng 3-4 năm 1959. - Đào Duy Anh, trong Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, được ông Hồ Hữu Tường cổ võ trong bộ Tương lai văn hóa Việt-Nam. - Gần đây, giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ trong bộ Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, xb năm 1985 ở Canada. - Một số các bài của giáo sư Lương Kim Định, Nguyễn Đăng-Thục và Tiến-sĩ Thái Văn Kiểm, hội viên Hàn-lâm-viện Hải-ngoại của Pháp-quốc.. Một số tác giả viết chỉ với mục đích khoa trương, lập dị, hoặc không có căn cứ, hoặc thiếu kiến thức, chúng tôi không ghi vào thư mục nghiên cứu, nên Giáo-sư Trần Đại-Sỹ không tham khảo, và dĩ nhiên không đem ra bàn ở đây: - Paul Francastel trong Origine du Việt-Nam, France Asie xb. - Nguyễn Phương trong Tiến trình hình thành dân tộc Việt-Nam, tạp chí Đại-học Huế tháng 4 năm 1963. - Bình Nguyên Lộc trong tác phẩm mà em đã đọc. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong việc đi tìm nguồn gốc tộc Việt, tôi đã dùng phương pháp y-khoa nhiều nhất, và phương pháp khoa học mới đây. Tôi đã được giáo sư Tarentino về khoa Anatomie của Ý và giáo sư sinh vật Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp đỡ. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng trong khoảng 5000 trước Tây-lịch, lãnh thổ tộc Việt nằm từ phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan. Phía Tây tới tỉnh Tứ-xuyên Trung-quốc , phía Đông tới biển Nam-hải. Nghĩa là bao gồm toàn bộ Hoa-Nam, và Đông-dương. 1. Dùng biện chứng y-khoa vào khảo cổ. Biện chứng căn bản của người nghiên cứu y-khoa là : « Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do » Biện chứng này đã giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng. Như tôi đã trình bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân đều theo đó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn phổ kể sự tích các ngài. Vì theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học giả đi tiên phong, nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ qua. Tôi lại suy nghĩ khác : « Không có nguyên do , sao có chứng trạng ? ». Vì vậy tôi đã tìm ra rất nhiều điều lý thú. Tỷ dụ : Bất cứ một nhà nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An-Dương cũng cho rằng chuyện thần Kim-quy do vua móng làm nỏ bắn một lúc hàng nghìn mũi tên khiến Triệu-Đà bị bại là hoang đường, là ma trâu đầu rắn. Nhưng tôi lại tin và cuối cùng tôi tìm ra sự thật. Hồi ấy Cao Cảnh hầu Cao Nỗ đã chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày nay. Tôi cũng tìm ra kích thước của ba mũi tên đồng của nỏ này.(4) Trước tôi đã có các nhà khảo cổ căn cứ vào xương sọ tìm được tại Trung và Bắc-phần (70 cái). Trong đó có 38 cái do người Pháp sưu tầm thuộc thời đại Đồ-đá, thì 29/38 cái được kết luận là thuộc chủng loại Malanésien, Indonésien, Australoide hay Nam-á. Với 29 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể. Gần đây các học giả Việt-Nam lại tìm ra 32 xương sọ, thuộc thời đại Đồ-sắt (1000 năm trước Tây-lịch đến 300 sau Tây-lịch), thì 22/27 thuộc chủng loại Mongoide. Với 32 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể tộc Việt thuộc chủng loại Mongoide. Những tác giả trên đã căn cứ vào chỉ số xương sọ mà kết luận. Nhưng y học đã tiến bộ, căn cứ vào chỉ số xương sọ để định nguồn gốc đã bị đánh đổ. Nguyên do : Khi con người di cư đến vùng khác, bị khí hậu, bị nước uống, bị thực phẩm làm thay đổi xương sọ. Chúng tôi dùng hệ thống ADN, hệ thống sinh học mới nhất thử nghiệm ngay những người đang sống của 35 dòng họ tại Hoa Nam với Việt-Nam, rồi với những dòng họ khác tại Hoa Bắc. Lại cũng thử nghiệm những bộ xương của ba vùng trên, không phân biệt thời gian. Cuối cùng chúng tôi tìm ra sự khác biệt của những tộc Hoa Nam, Việt Nam với những tộc Hoa Bắc, và đi đến kết luận : lãnh thổ Văn-lang, tới hồ Động-đêình. (5) Ghi chú của Tăng Hồng Minh Một quan khách, nữ giáo sư khoa Thiên-văn học tên Madeleine Chevalier hỏi: - ADN là gì? Tôi nghe nói, cũng như đọc trên báo hoài, mà không biết rõ chi tiết cái hệ thống này? Trần Đại-Sỹ: - Tôi xin nhường lời cho Giáo-sư Vareilla Pascale chuyên khoa về vấn đề này trả lời. Vareilla Pascale: - Cảm ơn Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đã cho tôi danh dự trả lời Giáo-sư Chevalier. ADN viết tắt của từ Acide désoxyribonucléique, tiếng Anh là Deoxyribosenucleic acide, viết tắt là DNA. ( Phần này khá dài, khoảng 20 trang A4, chúng tôi không dịch hết, vì quá chuyên môn, chỉ dành cho sinh viên y khoa.) 2. Những vấn đề. Ranh giới phía Nam của nước Văn-lang tới nước Hồ-tôn đã quá rõ ràng. Ranh giới phía Tây với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới phía Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc qủa tới hồ Động-đình, thì ranh giới phía Tây chắc phải giáp Ba-thục và phía Đông phải giáp Đông-hải. Có thực như thế không? Vì vậy tôi đi tìm ranh giới phía Bắc. Dưới đây là huyền thọai, huyền sử mà tôi đã bấu víu vào để đi nghiên cứu. Tôi cần tra cứu cho ra: Vấn đề thứ nhất, Cổ sử Việt đều nói rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Động-đình. Có thực như vậy không? Truyền thuyết nói Đế-Minh lập đàn tế cáo trời đất, rồi chia thiên hạ làm hai. Từ Ngũlĩnh về Bắc cho Đế-Nghi, sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam truyền cho vua Kinh- Dương sau thành Văn-lang. Núi Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình nay vẫn còn. Nhưng liệu có di tích gì chứng minh chăng? Tôi phải đi tìm Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình. Vấn đề thứ nhì, Truyền thuyết nói : Sau khi vua Kinh-Dương, vua Lạc-Long kết hôn, đều lên núi Tamsơn trên hồ Động-đình hưởng thanh phúc ba năm. Lúc ngài lên núi có chín vạn hoa tầm xuân nở. Tôi phải đi tìm núi Tam-sơn ở hồ Động-đình. Liệu trên núi này có di tích gì về cuộc tình năm nghìn năm trước chăng? Vấn đề thứ ba, Truyền sử nói : Sau khi Quốc-tổ Lạc-Long, Quốc-mẫu Âu-Cơ cho các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, dặn rằng : Mỗi năm về Tương-đài chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần. Cổ sử nói : Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, hẹn mỗi năm một lần gặp nhau ở cánh đồng Tương. Cánh đồng Tương ở đâu? Nếu có cánh đồng Tương thì cũng có thể kết luận rằng biên giới nước Văn-lang tới hồ Động-đình. Tôi phải đi tìm. Vấn đề thứ tư, chứng tích thứ nhất xác định: Bộ Sử-ký của Tư-mã, Nam-Việt liệt truyện có thuật việc: vua nước Nam-Việt là TriệuĐà thường đem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán là Nam-quận, Trường-sa (Mậu-Ngọ 183 trước Tây-lịch). Như vậy biên giới Nam-Việt (Tức Việt-Nam) với Hán ( Tức Trung-quốc) ở vùng này. Ngày nay Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam, nằm ngay Nam ngạn sông Trườnggiang. Vấn đề thứ năm, Huyền sử nói rằng : trong cuộc khởi nghĩa của vua Trưng: - Khi Trưng Nhị, Trần Năng, Phật Nguyệt, Lại Thế-Cường, Trần Thiếu-Lan đem quân đánh Trường-sa (39 sauTây-lịch), thì nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang (sự thật đó là Tương-giang thông với hồ Động-đình). - Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam và Hán (42 sau Tây-lịch). Tướng Lĩnh- Nam tổng trấn hồ Động-đình là Phật Nguyệt, tướng Hán là Mã Viện, Lưu Long (40 sau Tâylịch). Có thực thế không? Có hai trận Trường-sa, hồ Động-đình không? Nếu có thì ranh giới thời Lĩnh-Nam (40-43 sau Tây-lịch) quả tới hồ Động-đình. Vấn đề thứ sáu, Năm 42, sau Tây-lịch, ba tướng thống lĩnh Kỵ-binh thời vua Trưng là Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang, đánh nhau với quân Hán tại Bồ-lăng thuộc Tượng-quận, vì quân ít, thế cô, ba ông tự tử. Vậy Bồ-lăng ở đâu? Có trận này không? Nếu có trận này thì ranh giới Lĩnh-Nam phía Tây quả tới Ba-thục (Tứ-xuyên.) Thưa Quý-vị, Nhưng các sử gia gần đây (1900-1975) đều đặt nghi vấn rằng : Làm gì biên giới thời Văn-Lang rộng như vậy? Nếu có chỉ ở vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện nay trăm cây số là cùng. Lại cũng có những người dốt nát (1975-1991), không đủ sách đọc, không theo kịp sự tiến triển của y học, họ chỉ đọc những tài liệu sai lầm, rồi họ như con ngựa kéo xe, chỉ biết có vậy, chúng tôi thấy họ ngu dốt quá, nên không trả lời, cũng như giải thích. Tôi căn cứ vào những chứng trạng trên mà đi tìm nguồn gốc. V. ĐI TÌM BIÊN GIỚI NƯỚC VĂN-LANG 1. Núi Ngũ-lĩnh. Cuối năm Canh-Thân (1980) tôi lấy máy bay đi Bắc-kinh, rồi đổi máy bay ở Bắc-kinh đi Trường-sa. Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam. Tất cả di tích của tộc Việt như hồ Độngđình, núi Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương, Thiên-đài, Tương-đài, cánh đồng Tương đều nằm ở tỉnh này. Tôi đi nghiên cứu với một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học Pháp-Hoa (CMFC). Có một sự hiểu lầm lớn, vì trong thư giới thiệu các giới chức y-khoa chỉ xin được giúp đỡ cho tôi, nên khi tôi muốn tiếp xúc với sở du-lịch, ty văn hóa địa phương, họ đều tưởng tôi tới Trường-sa để nghiên cứu sự cấu tạo hình thể cùng bệnh tật dân chúng tại đây. Thành ra tôi bị mất khá nhiều thì giờ nghe thuyết trình của các đồng nghiệp về vấn đề này. Tôi cư ngụ trong khách sạn Trường-sa tân điếm nằm trên đại lộ Nhân-dân. Tôi mua cuốn địa phương chí mới nhất của tỉnh, rồi mò vào thư viện ty văn hóa, sở bảo vệ cổ-tích, đại-học văn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà ngay những sinh viên văn khoa cũng ít ai ghé mắt tới. Đầu tiên tôi đêi tìm núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay đó là năm dãy núi gần như ngăn đôi Nam, Bắc Trung-quốc : - Một là Đại-dữu lĩnh. - Hai là Quế-dương, Kỳ-điền lĩnh. - Ba là Cửu-chân, Đô-lung lĩnh. - Bốn là Lâm gia, Minh-chữ lĩnh. - Năm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh. Về vị trí : - Ngọn Thủy-an, Việt-thành chạy từ tỉnh Phúc-kiến, đến huyện Tuần-mai tỉnh Quảngđông. - Ngọn Đại-dữu chạy từ huyện Đại-dữu (Nam-an), tỉnh Giang-Tây đến huyện Namhùng tỉnh Quảng-đông. - Ngọn Cửu-chân, Đô-lung chạy từ Đạo-huyện tỉnh Hồ-nam tới Gia- huyện tỉnh Quảngtây. - Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam đến Liên-huyện tỉnh Quảng-Đông. - Ngọn Quế-dương từ Toàn-huyện tỉnh Hồ-nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-tây . Lập tức tôi thuê xe đi một vòng thăm các núi này. Tôi đi mất mười ngày, trải gần 15.000 cây số. Như vậy là Ngũ-lĩnh có thật, nay có núi đã đổi tên, có núi vẫn giữ tên cũ. Một câu hỏi đặt ra : Tại sao khi vua Minh phân chia từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Lộc-Tục mà lĩnh địa Việt tới hồ Động-đình, mà hồ ở phía Bắc núi đến mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này : - Một là vua Minh tế trời ở trên núi Ngũ-lĩnh là nơi người gặp tiên rồi chia địa giới. Nhưng bấy giờ dân chưa đông, mà sông Trường-giang rộng mênh mông, sóng lớn quanh năm nên vua Nghi chỉ giữ từ Bắc ngạn mà thôi. Còn vua Kinh-Dương thì sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Động-đình (một tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc gia. - Hai là dân chúng Nam-ngạn Trường-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một khí hậu, phong tục, nên họ theo về Nam không theo về Bắc, thành thử hồ Động-đình mới thuộc lãnh địa Việt. Kết luận : « Quả có núi Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể núi này đúng là nơi phân chia lãnh thổ Văn-Lang và Trung-Quốc khi xưa ». Ánh sáng đã soi vào nghi vấn huyền thọai. 2. Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh. Tương truyền vua Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế-dương, phân chia lãnh thổ Lĩnh-Bắc tức Trung-Quốc, Lĩnh-Nam tức Đại-Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên-đài. Nhưng dãy núi Quế-dương có mấy chục ngọn núi nhỏ không biết ngọn Thiên-đài là ngọn nào ? Trên bản đồ không ghi. Sau tôi hỏi thăm dân chúng thì họ chỉ cho tôi thấy núi Thiên-đài nằm gần bên bờ Tương-giang. Điều này dễ hiểu, tỷ như ngày nay, du khách nhìn bản đồ sẽ không thấy địa điểm Sài-gòn. Nhưng trong dân chúng, họ vẫn nhớ tên cũ. Tôi đi thăm Thiên-đài. Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn nhưng không có người trụ trì. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói. Lâu ngày chùa không được tu bổ, nhiều chỗ ngói bị lở, bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị mòn nhiều chỗ gần như lún sâu. Duy nền với cổng bằøng đêá là còn nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong ra. Bên trong cột kèo bằng gỗ đã nứt nẻ khá nhiều. Những câu đối , chữ còn, chữ mất. Tại thư viện Hồ-nam tôi tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi : Thiên-đài di sự lục Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn sọan. Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-Tông, từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh- Mùi (647) nhưng không biết Chu đỗ tiến-sĩ năm nào ? Tuy sách do Chu Minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh-Văn sọan, phần chép tiếp theo Chu Minh-Văn, của một sư ni tên Đàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang- Hy (1662-1772). Chu Minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loaị văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố cùng thành ngữ lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh cùng kinh Phật. Nhân viên quản thủ thư viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông ấy biết rằng, tôi chỉ được học lọai văn đó vào hồi sáu, bảy tuổi thì ông sẽ hết phục. Tài liệu Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc-Tục.Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, vì vậy đài cũng mang tên Thiên-đài núi cũng mang tên Thiên-đài sơn, Minh-Văn còn kể thêm : « Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Đương. Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-dương ông cùng nghìn quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm đươc núi. Về đời Đường để xóa vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây chùa tại đây ». Tôi biết vua Bà là vua Trưng, còn tướng Đào Hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-bình vương Đào Kỳ. Ngài Đào Kỳ lĩnh chức Đại Tư-mã thời vua Trưng. Còn tướng Đào Hiển-Hiệu tước phong quốc công, giữ chức Hổ-nha đại tướng quân. Nữ tướng Hoàng Thiều-Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi Trường-sa, hồ Động-đình, đã sai Hiển-Hiệu đi cản hậu, đóng nút chặn ở Thiên-đài, đợi quân Lĩnh-Nam rút hết, sẽ rút sau. Nhưng Hiển-Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thời Quốc-tổ, Quốc-mẫu, đã không chịu lui quân, tử chiến, khiến quân Hán chết không biết bao nhiêu mà kể tại đây. Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối : Thoát thân Nam thành xưng sư tổ, Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật- kinh. Hai câu này ngụ ý ca tụng Thái-tử Tất-Đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi tìm lẽ giải thoát sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh. Tam bảo linh ứng, phong điều vũ thuận, Phật công hiển hách quốc thái an dân. Hai câu này là ngụ ý nói : Tam bảo linh thiêng, khiến cho mưa thuận, gió hòa đó là công lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an . Nơi có dấu vết Thiên- đài, còn đôi câu đối khắc vào đá : Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc. Lĩnh địa niên niên dữ Việt-thường. Nghĩa là: Từ sau vụ vua Minh tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao đời phân ra Nam, Bắc. Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với giòng giống Việt-thường. Chỗ miếu thờ của Đào Hiển-Hiệu có đôi câu đối : Nhất kiếm Nam-hồ kinh Vũ-đế, Thiên đao Bắc-lĩnh trấn Lưu Long. Nghĩa là : Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đình làm kinh tâm vua Quang-Vũ nhà Hán. Ý chỉ nữ tướng Phật-Nguyệt đánh bại Mã Viện ở phía Nam hồ Động-đình. Một nghìn tay đao do Hiển-Hiệu thủ ở Bắc núi Ngũ-lĩnh trấn Lưu Long. Kết luận : « Như vậy việc vua Minh tế cáo trời đất là có thật. Vì có Thiên-đài nên thời Lĩnh-Nam mới có trận hồ Động-đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ lãnh địa thời vua Trưng cũng như Văn-Lang xưa qủa tới Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình ». 3. Cánh đồng Tương, Nhắc lại: Có hai huyền sử nói về cánh đồng Tương : - Một là Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, mỗi năm tái hội nhau trên cánh đồng Tương một lần. - Hai là Quốc-tổ, Quốc-mẫu truyền các hoàng tử đi khắp bốn phương quy dân lập ấp, mỗi năm hội tại cánh đồng Tương một lần. Tôi đoán : Cả hai vị Quốc-tổ Kinh-Dương, Lạc-Long sau khi kết hôn đều đem Quốc-mẫu lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đình hưởng thanh phúc ba năm.Vậy thì cánh đồng Tương sẽ gần đâu đó trên hồ Động-đình. Phía Nam hồ Động-đình là sông Tương-giang, chảy theo hướng Nam-Bắc dài 811 km, lưu vực tới 92500km2, chẻ đôi tỉnh Hồ-nam với Quảng-tây. Vậy cánh đồng Tương sẽ nằm trong lưu vực Tương giang. Tôi thuê thuyền đi từ cảng Dương-lâm nơi xuất phát ra Tương-giang là hồ Động-đình, xuống Nam, qua Tương-âm, tôi dừng lại, nghiên cứu địa thế cùng thăm chùa Bạch-mã. Đây là địa phận quận Ích-dương.Vô tình tôi tìm ra một nhánh sông Âu-giang và một cái hồ rất lớn, vào mùa nước lớn rộng tới 4-5 mẫu, vào mùa nước cạn chỉ còn 2-3 mẫu mà thôi. Suốt lộ trình từ hồ Động-đình trở xuống, trên cửa sông Tương cũng như hai bên bờ chim Âu bay lượn khắp nơi. Đặc biệt trên Âu-giang, Âu-hồ, giống chim này càng nhiều vô kể. Từ Âu-giang, tôi trở lại sông Tương, xuôi tới Trường-sa thủ phủ của Hồ-nam rồi tới các quận lỵ Tương-đàm, Chu-châu, Hành-dương, Quế-dương. Không khó nhọc tôi tìm ra : « Cánh đồng Tương, tức là vùng trũng phía Tây-ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động-đình, Nguyên-giang. Phía Nam là Linh-lăng, Hành-giang. Phía Tây là vùng Chiêu-dương, Lãnh-thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác : Tương-giang, Nguyên-giang, Liên-thủy, Thạch-khê-thủy ». Sau khi tìm ra cánh đồng Tương, Thiên-đài, cùng những đàn chim âu , tôi giải đoán như thế này : « Quốc-tổ Lạc Long kết hôn với công chúa con Đế-Lai, hẳn công chúa cũng có tên. Nhưng vì lâu ngày người ta không nhớ được tên ngài, nên đã lấy con chim Âu, rất hiền hòa, xinh đẹp ở vùng hồ Động-đình, Tương-giang mà gọi là Âu-Cơ (Cơ là vợ vua). Vì người ta gọi Quốcmẫu là Âu-Cơ, thì họ nghĩ ngay đến Quốc-mẫu sinh đẻ. Khi chim Âu đẻ thì phải đẻ ra trứng. Còn con số một trăm, là con số triết học Việt-Hoa dùng để chỉ tất cả. Như trăm bệnh là tất cả các bệnh, trăm họ là toàn dân. Trăm con có nghĩa là tất cả dân ttrong nước đều là con Quốc-mẫu » Kết luận : « Đã có cánh đồng Tương, thì chuyện Quốc-tổ, Quốc-mẫu hẹn mỗi năm hội tại đây một lần là có. Khi sự kiện có núi Ngũ-lĩnh, có Thiên-đài. Nay chứng cớ được kiểm điểm, thì lãnh địa của tộc Việt xưa quả tới hồ Động-đình ». 4. Hồ Động-đình và Tam-sơn Hồ Động-đình nằm ở phía Nam sông Trường-giang. Hồ được coi như nơi phát tích ra tộc Việt. Địa khu Bắc sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-bắc, tức đất Kinh-châu thuở xưa. Địa khu phía Nam sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-nam. Hồ Động-đình nằm trong tỉnh Hồ-nam. Hồ thông với sông Trường-giang bằng hai con sông. Cho nên người ta coi hồ như nơi chứa nước sông Trường-giang, rồi đổ vào Tương-giang. Trên Bắc-ngạn hồ có núi Tam-sơn. Tôi đã lên đây ba lần. Tương truyền các các nữ tướng thời vua Trưng như Trưng-Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan đánh chiếm Trường-sa vào ngày đầu năm, vì vậy tôi cũng tới đây vào dịp này để thấy rõ phong cảnh, rồi tả trận đánh trong bộ Cẩm-khê-di-hận(6). Hồ rộng 3915 cây số vuông, độ sâu về mùa cạn là 38,5 mét, về mùa nước lớn là 39,20 mét. Tra trong chính sử thì quả hồ Động-đình thuộc lãnh địa Văn-Lang. Như trên đã nói, triều đại Thần-Nông Bắc đến đời vua Du-Võng thì mất vào năm 2696 trước Tây-lịch, chuyển sang thời đại Hoàng-Đế. Sử gia Trung-Quốc cho rằng Hoàng-Đế là tổ lập quốc. Nói theo triết học Tây phương thì vua Du-Võng gốc từ Thần-Nông thuộc nông nghiệp cư trú trong vùng đồng bằng ở phương Nam lấy hỏa làm biểu hiệu nên còn gọi là Viêm-đế. Còn vua Hoàng-đế gốc ở dân du mục, săn bắn, từ phương Bắc xuống. Dân du mục nghèo, nhưng giỏi chinh chiến. Dân nông nhiệp giàu nhưng không giỏi võ bị nên bị thua. Bộ Sử-ký của Tư-mã-Thiên, quyển 1, Ngũ-đế bản kỷ chép rằng : «...Thời vua Hoàng-đế, họ Thần-Nông (Bắc) đã suy, chư hầu chém giết lẫn nhau, khiến trăm họ khốn khổ vô cùng. Triều Thần-Nông không đủ khả năng chinh phục. Vua Hiên-Viên Hoàng-Đế thao luyện can qua, chinh phục những chư hầu hung ác. Vì vậy các nơi theo về rất đông. Trong các chư hầu thì Suy-Vưu mạnh nhất. Vua Du-Võng triều Thần-Nông định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu chỉ tuân lệnh Hoàng-Đế. Vua Hoàng-Đế tu sửa đức độ, luyện tập binh mã, vỗ về trăm họ, giúp đỡ bốn phương, luyện tập thú dữ rồi đại chiến với vua Du-Võng ở Bản-tuyền, thành công. Suy-Vưu làm lọan, không tuân đế hiệu. Hoàng-Đế triệu tập chư hầu cùng Suy-Vưu đại chiến ở Trác-lộc, bắt sống Suy Vưu. Chư hầu tôn ngài làm Thiên-tử thay họ Thần-Nông. Trong thiên hạ nơi nào không thuận vua Hoàng-Đế đem quân chinh phục. Lãnh thổ của Hoàng-Đế, Đông tới biển, vùng núi Hoàn-sơn, Đại-tông. Phía Tây tới núi Không-động, Kê-đầu. Nam tới Giang, Hùng, Tương... »(7) Sông Giang đây tức là sông Trường-giang, Hùng đây tức là Hùng-nhĩ-sơn, Tương là Tương-sơn. Bùi Nhân đời Tống lập giải Sử-ký nói rằng Tương-sơn thuộc Trường-sa. Kết luận : « Từ chính sử, huyền-sử đều cho biết lĩnh địa Văn-lang tới hồ Độngđình. Khi vua Hoàng-Đế dứt triều Thần-Nông Bắc, thì triều Thần-Nông Nam tức họ Hồng-bàng còn kéo dài đến 2439 năm nữa. Lãnh thổ Trung-quốc thời HoàngĐế cũng chỉ tới sông Trường-giang. Phía Nam bao gồm Trường-sa, hồ Động-đình vẫn thuộc Văn-lang. Khi chính sử ghi chép như vậy thì việc Quốc-tổ, Quốc-mẫõu với hồ Động-đình, núi Tamsơn không còn là huyền thoại nữa. Vậy chuyện các ngài lên núi hưởng thanh phúc nên ghi vào chính sử. 5. Biên giới lĩnh địa tộc Việt thế kỷ 2 trước Tây lịch. Sử Hán là bộ Sử-ký của Tư-mã Thiên. Sử Việt như bộ Đại-Việt sử ký toàn thư, Khâmđịnh Việt-sử thông giám cương mục, đều ghi rằng vào thế kỷ thứ nhì trước Tây-lịch, thời Triệu Đà cai trị lĩnh địa tộc Việt, biên giới vẫn còn ở vùng Trường-sa, hồ Động-đình. Sử Hán, sử Việt đều chép chi tiết giống nhau về vụ Triệu Đà lập quốc ở lãnh thổ Lĩnh- Nam. Tần Thủy- Hoàng sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu-lạc, chiếm được vùng đất phía Bắc, lập làm ba quận : - Nam-hải (Quảng-đông và một phần Phúc-kiến), - Quế-lâm (Quảng-tây, Hồ-nam và một phần Quí châu), - Tượng-quận (Vân-nam và một phần Quý-châu). Vua An-Dương sai Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung và Cao-cảnh hầu Cao Nỗ đem quân chống, giết được Đồ Thư và tiêu diệt nữa triệu quân Tần. Tuy vậy vua An-Dương cũng không chiếm lại vùng đất đã mất. Sau nhân thời thế loạn lạc, một viên quan Tần là Triệu Đà trấn vùng Nam-hải, đem quân chiếm vùng Tượng-quận, Quế-lâm, rồi dùng gián điệp trong vụ án Mỵ-Châu, Trọng- Thủy mà chiếm được Âu-lạc lập ra nước Nam-Việt. Lãnh thổ nước Nam-Việt bao gồm những vùng nào ? Không một sử gia nào chép rõ ràng. Nhưng cứ những sự kiện lẻ tẻ, ta cũng có thể biết rằng lãnh địa Nam-Việt là lãnh địa thời Văn-lang. Trong khi Triệu Đà lập nghiệp ở phương Nam, thì cuộc nội chiến ở phương Bắc chấm dứt. Hạng Vũ, Lưu Bang diệt Tần, rồi Lưu Bang thắng Hạng Vũ lập ra nhà Hán. Lưu Bang lên ngôi vua sai Lục Giả sang phong chức tước cho Triệu Đà. Đúng ra Triệu Đà cũng không chịu thần phục nhà Hán, nhưng họ hàng thân thuộc, mồ mả của Triệu Đà đều ở vùng Chân-định. Đà sợ nhà Hán tru diệt họ hàng, cùng đào mồ cuốc mả tổ tiên lên mà phải lùi bước. Năm 183 trước Tây-lịch, Cao-tổ nhà hán là Lưu Bang chết, Lã-hậu chuyên quuyền cấm bán hạt giống, thú vật cái, kim khí sang Nam-Việt. Triệu Đà không thần phục nhà Hán, rồi đem quân đánh Trường-sa, Nam-quận. Kết luận : « Trường-sa là quận biên cương của Hán. Vậy ít nhất lãnh thổ Nam- Việt, Bắc tới Trường-sa. Nam quận là quận ở phía Bắc sông Trường-giang. Mà Nam-quận là quận biên cương Hán, thì biên giới Nam-Việt ít nhất tới Nam-ngạn sông Trường-giang ». 6. Lĩnh địa thời vua Trưng 6.1. Vua Bà của Trung-quốc là vua Trưng, Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn Ủy-ban y học Pháp-Hoa (CMFC) đi trao đổi tại các tỉnh cực Nam Trung-Quốc như Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam, Quý-châu và Tứ-xuyên... tôi thấy khắp các tỉnh này, không ít thì nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp năm tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà. Bấy giờ tôi lại tìm thấy ở Hồ-nam, nhiều di tích về đạo thơ øvua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ, tôi tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật Nguyệt như sau : « Ngày xưa, Ngọc-hoàng Thượng-đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầu.Vì sơ ý hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-hoàng Thượng-đế nổi giận đầy hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày thì Tiên-lại giữ sổ tiên-giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa. Ngọc-hoàng Thượng-đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-y đồng tử đầu thai để theo dẹp loạn. Thanh-y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đi. Ngọc-hoàng Thượng-đế truyền Nhị thập bát tú đầu thai theo. Thanh-y đồng tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán. Nhị thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng đời Đông-Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, thông minh quán chúng, có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả cho Đặng Thi-Sách. Thi-Sách làm phản, bị Thái-thú Tô Định giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung-quốc ở phía Nam sông Trường-giang : Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải. Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà. Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mã Viện. Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Động-đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại.Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, mộït tay nhổ núi Tháisơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường-giang, hồ Động-đình, oán khí bốc lên tới trời. Ngọc-hoàng Thượng-đế sai thiên-binh, thiên-tướng trợ chiến cũng bị bại. Ngài phải sai thần Du Liệt sang Tây phương cầu cứu Phật Như Lai. Đức Phật sai mười tám vị Kim-cương, ba ngàn La-hán trợ chiến cũng bị bại. Cuối cùng ngài truyền Quán Thế Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quán Thế Âm thuyết pháp nữ vương Phật Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu. Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối : Tích trù Động-đình uy trấn Hán, Phương lưu thanh sử lực phù Trưng (Một trận Động-đình uy trấn Hán Tên còn trong sử sức phù Trưng). Bỏ ra ngoài những huyền hoặc về Nữ-vương Phật-Nguyệt, tài liệu chứng minh : Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của lòng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lãnh thổ cũ của người Việt còn sót lại. Vua Bà mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng. Kết luận : « Khi đã có nữ tướng Phật Nguyệt đánh trận Trường-sa, hồ Động-đình. Mà có trận hồ Động-đình thì lãnh thổ thời Lĩnh-Nam, phía Bắc quả tới phía Nam sông Trường-giang ». 6.2. Quả có trận Trường-sa, hồ Động-đình năm 39 sau Tây-lịch, Huyền sử (những cuốn phổ) nói rằng : Khi bà Trưng Nhị cùng các tướng Trần Năng, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch). Trong trận đánh này, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang(8). Thẩm-giang chính là đọan sông ngắn ở Bắc, tiếp nối với hồ Động-đình. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng : Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu-Lan. Năm 1980 tôi đến đây tìm hiểu. Không khó nhọc tôi tìm ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cấp, một đọan chép : « Miếu thờ liệt nữ Trần Thiếu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá ». Tôi tìm tới nơi, thì miếu chỉ còn lại cái nền bằng đá ong, mộ vẫn còn.(9). Kết luận : « Thời Lĩnh-Nam qủa có việc Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh trận Trường-sa. Trong trận, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tuẫn quốc. Khi có trận đánh này, thì lãnh địa thời Lĩnh-Nam quả gồm có hồ Trường-sa , hồ Động- đình ». 6.3. Quả có trận Bồ-lăng, năm 42 sau Tây-lịch, Huyền sử kể rằng: ba tướng họ Đào là Chiêu-Hiển, Đô Thống và Tam-Lang được vua Trưng trao cho trấn tại Tượng-quận (Vân-nam) . Nhưng vì quân ít, thế cô, ba ông không chống lại với quân Hán, do Vương Bá chỉ huy. Ba ông đã tự tận. Hiện tại đền thờ của ba ông có đôi câu đối: Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược, Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung. Nghĩa là: trận Tượng-quận dương oai, rõ tài tướng giỏi. Bến Bồ-lăng tuẫn tiết, tỏ ra thần trung. Hầu hết các sử gia đều cho rằng: Bồ-lăng tức là bến Bồ-đề, ngoại ô Thăng-long. Vả lãnh thổ Việt-Nam hồi đó đâu có rộng vậy? Tôi không tin lý luận này. Tôi quyết có trận Tượng-quận. Vì sao? Vì ba ngài chiến đấu tại Tượng-quận, khi Tượng-quận thất thủ, tuẫn tiết thì tuẫn tiết tại chỗ, có đâu rút từ Tượngquận về tới Long-biên (Hà-nội) trải mấy nghìn cây số, rồi mới tự tử? Vả cái tên bến Bồ-đề mới xuất hiện vào năm 1427-1428 khi vua Lê Thái-tổ vây Đông-đô (Thăng-long). Vì vậy, trong dịp hè năm 1982, tôi cầm đầu phái đoàn CMFC sang Vân-Nam, Trungquốc, để nghiên cứu về một giống trà có khả năng trị tuyệt chứng Cholestérol, Triglycéride... Lợi dụng dịp nhầy, tôi quyết tìm cho ra sự thực. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Phái đoàn gồm: Trưởng-đoàn: Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ, Thành viên: Bác-sĩ Pascale Vareilla (Biologie), Claude Tarentino (Anatomie), Antonio Fernandes (Cardiologie.) Các dược sĩ: Valérie Cordinante, Jean Marie Limager. Kỹ sư canh nông Antoine Reynault, và một diễn viên điện ảnh Hương-cảng. Trong chương trình phái đoàn chỉ công tác tại các vùng thuộc Vân-Nam như: Chiêudương, Đông-xuyên, Khâu-bắc, Nguyên-dương, Bảo-sơn, Điền-Bắc, Côn-minh; rồi dùng phi cơ từ Côn-minh trở về Paris. Nhưng khi tới Đông-xuyên, giáo sư Trần Đại-Sỹ tìm ra dấu vết cuộc chiến giữa quân vua Trưng và quân Hán, mà không rõ ràng cho lắm. Ông dẫn phái đoàn trở lại Côn-minh, sau khi thảo luận với giáo-sư sử học Đoàn Dương của đại học Văn-sử, được giáo sư Đoàn cho biết: "Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ-lăng. Nay Bồ-lăng nằm trên lãnh thổ Tứ-xuyên, chỗ ngã ba sông Trường-giang và Ô-giang." Thế là giáo sư Trần Đại-Sỹ đề nghị phái đoàn dùng đường thủy về Hồ-Nam, sau đó đáp phi cơ từ Hồ-Nam ra Hương-cảng, rồi đi Paris. Trên đường từ Độ-khẩu (Vân-Nam) đi Hồ-Nam, sẽ qua... Bồ-lăng. Được đi chơi, dĩ nhiên phái đoàn mừng không sao tả siết!!!. Dĩ nhiên túi tiền của CMFC vơi đi 53.074 dollars nữa để chi cho phái đoàn. Theo tôi, với số tiền ấy, mà kết quả tìm được Tây-biên của Lĩnh-Nam, cũng rẻ chán. Thế nhưng khi trở về Paris, vụ này đồn đại ra ngoài, một Bác-sĩ Việt-Nam tên Trần L.(từng là bộ trưởng Y-tế hồi VNCH), viết thư cho ông bộ trưởng Văn-hóa Pháp, tố cáo Giáo-sư Trần Đại-Sỹ lợi dụng chức vụ trưởng đoàn công tác y khoa, để tìm di tích cổ sử viết sách. Ông Bộ-trưởng trả lời đại ý: "Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ không dùng một xu (centimes) nào của chính phủ Pháp, nên bộ không có thẩm quyền." Cuối thư ông Bộ-trưởng hạ một câu: " Ví dù Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ có lợi dụng chức vụ, có dùng tiền của bộ Văn-hóa, mà tìm tư liệu làm giầu cho thư viện Pháp thì là điều đáng khuyến khích. Hơn nữa tài liệu đó làm lợi cho Việt-Nam, Ông (Trần L.) phải vui mừng mới phải chứ." Tăng Hồng Minh tôi là người Việt gốc Hoa, tôi xin tiết lộ một chi tiết này, để các vị độc giả Việt-Nam suy nghĩ!!! Thế là phái đoàn dùng tầu đi từ Độ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang) qua Namkhê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngã ba sông Ô-giang, Trường-giang thì gặp bến Bồ-lăng. Tại đây tôi được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba vị thần, tướng của vua Bà. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị tướng. Cả vùng này có đạo thờ vua Bà (lên đồng). Hồi trước 1949 rất thịnh. Sau cách mạng Văn-hóa (1965-1967) miếu được cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán. Tôi đến thăm miếu. Miếu khá lớn, chủ hộ ở trong miếu trước đây là cán bộ Văn-hóa Bồ-lăng. Trước miếu có nhiều câu đối, nay chỉ còn lại có ba. Ông chủ hộ khoe rằng để bảo tồn di tích văn hóa, hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất: Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi, Đoạn trường, trục Định, tiết can vân. Nghĩa là: Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu. Đuổi được Tô Định, nhưng đau lòng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây. Tôi xin vào trong miếu xem, thì bệ thờ nay là nơi vợ chồng ông nằm ngủ. Hai bên bệ cũng có đôi câu đối. Giang-thượng tam anh phù nữ chúa, Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung. Nghĩa là: Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa. Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành. Ông chủ hộ thì cho rằng bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Vì vậy chữ bách tộc đây để chỉ người Việt. Ông thích lắm. Ông chỉ vào khoảng trống của hai cái cột thuật rằng trước kia cũng có đôi câu đối, nhưng bị vạc mất. Ông đề nghị tôi làm một đôi khác thay thế. Tôi nhờ hướng dẫn viên du lịch mua giùm hai hộp sơn. Một hộp sơn đỏ loại láng và một hộp loại thiếp vàng. Ông với tôi sơn cột mầu đỏ. Chiều hôm đó sơn đỏ khô, tôi trở lại viết bằng sơn thiếp vàng đôi câu đối có sẵn tại đền thờ ba ngài ở thôn Ngọc-động, huyện Gia-lâm, Hà-nội: Tái Bắc tức chinh trần, công cao trục Định, Bồ-lăng dương nộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng. Nghĩa là: Ải Bắc yêu gió bụi can qua, công cao đuổi Tô Định. Bồ-lăng nổi bao đào, nghĩa nặng phù vua Trưng. Kết luận: «Như vậy thì quả có trận Tượng-quận. Mà có trận Tượng-quận thì biên giới Lĩnh-Nam hồi ấy giáp Ba-Thục, tức Tứ-xuyên ngày nay». 7. Nghiên cứu những khai quật Vào những năm 1964-1965, giáo sư luật khoa Vũ Văn Mẫu đang sọan thảo tài liệu về cổ luật Việt-Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ- Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ, nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu. Tôi đã giúp giáo sư Mẫu đọc, soạn các thư tịch liên quan đến cổ luật. Chính vì vậy tập tài liệu « Cổ-luật Việt Nam và tư pháp sử » có chương mở đầu «Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ luật Việt-Nam » (10). Bấy giờ tôi còn trẻ, không đủ tài liệu khai quật của Trung-Quốc, của Bắc Việt-Nam, và bấy giờ những lý thuyết về ADN chưa có hệ thống, nên có nhiều chi tiết sai lầm. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ Văn-Mẫu. Tôi xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các sinh-viên về những sai lầm đó. Triều đại Hồng-Bàng thành lập từ năm 2879 năm trước Tây-lịch, tương đương với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn-hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc-Việt, Đông Vân-Nam, Quảng-Đông, Hồ-Nam, người ta đều tìm được những chiếc rìu thiết diện hình trái soan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang chỉ tìm được lọai rìu thiết diện hình chữ nhậït, chứng tỏ vào thời đó có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau. Sang thời đại văn-hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (âge de bronze). Trong thời gian này đã tìm được trống đồng Đông-sơn trên bờ sông Mã (Thanh hóa). Sự thật trống đồng đã tìm thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-nam, Quý-châu,Vân-nam, Quảng-đông, Quảng-tây, Nam-dương, Lào (13) , Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-dương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc-Việt, rồi tới Vân-nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần gần như giống nhau. Đồng 53%, Thíếc 15-16%, Chì 17-19%, Sắt 4%. Một ít vàng bạc. Khảo về y-phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường giang cho đến Trung Bắc- Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Bây giờ dùng hệ thống ADN kiểm những bộ xương, kiểm máu người sống, chúng tôi đã biện biệt được sự khác biệt vào thời Việt, Hoa lập quốc. Kết luận:, « Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động-đình, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói ». 8. Tổng kết, Sáu vấn đề tôi nêu ra ở trên, rồi đi tìm, tất cả đều còn đầy đủ di tích. Như vậy: Biên giới cổ của nước Việt-Nam, với các triều đại Hồng-bàng, Âu-lạc, Lĩnh-Nam phía Bắc quả tới hồ Động-đình, phía Tây giáp Tứ-xuyên. V. KẾT LUẬN Thưa Quý-vị Quý-vị đã cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, cho tới tin học, y học để tìm về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, về biên giới cổ của tộc Việt. Trong chính sử Trung-quốc, Việt-Nam đều ghi rõ ràng nguồn gốc tộc Việt, nhưng cái nguồn gốc đó căn cứ vào cổ thư của người Trung-hoa, nên hoàn toàn sai lạc. Bởi cổ thư cho rằng người Trung-hoa tự sinh ra, rằng người Việt chẳng qua do những người Trung-hoa di chuyển xuống lưu ngụ. Sự thực nhờ hệ thống ADN, chúng ta biết rằng chính những người ở châu Phi đến Đông Nam-á trước, rồi di chuyển lên Hoa-Nam. Tại Hoa-Nam giống người này lại hợp với giống người từ châu Phi sang châu Âu, rồi từ châu Âu vào Trung-á, hợp với người ở Hoa-Nam mà thành tộc Hán. Nhưng ngược lại, do cổ thư Trung, Việt, hay do ADN, chúng ta cũng biết rất rõ biên cương nước Việt thời mới lập quốc. Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà Nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên Âu-Việt, Lạc-Việt, Đông-Việt, Nam-Việt, Việt-Thường đều thuộc Bách-Việt cả. Cái tên trăm họ hay trăm Việt (Bách-Việt) phát xuất từ huyền thọai vua Lạc- Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14). Các vị cổ học, học cổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trườnggiang lấy mốc là hồ Động-đình với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 13-14 tuổi, tôi chỉ được học vài trang ngắn ngủi về nguồn gốc tộc Việt, trong khi đó gia đình cho tôi đọc mấy bộ sử dài hàng mấy chục nghìn trang của Hoa, của Việt (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn số trang gấp năm sáu). Chính tôi cũng nhìn nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học. Nay tôi mới chứng minh được. Phải chờ cho đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ Văn-Mẫu thạc-sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến-sỹ Nguyễn Sỹ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học theo lối cổ, không biết những phương pháp quy nạp, tổng hợp nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôi. Ngay từ lần đầu gặp nhau, mà một già, một trẻ đã có hai cái nhìn khác biệt. Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi mà lại có một cái nhìn rất trẻ, tôi mới có 25 tuổi lại có cái nhìn rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa-Việt đưa ra. Vì vậy tôi đã sưu tầm tất cả những gì trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Mẫu đem viết thành tài liệu giảng dạy. Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, vì chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay tôi mới biết có quá nhiều sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi Quý-vị. Hồi bấy giờ tôi sống ở Sài-gòn, thuộc Việt-Nam cộng-hòa đang là nước chống Cộng, nên tôi không thể sang Trung-Quốc, cũng như về Bắc tìm kiếm thêm tài liệu. Phải chờ đến năm 1976 làm việc cho CMFC, hàng năm dẫn các đồng nghiệp sang Trung-Quốc nghiên cứu, trao đổi y học, tôi mới có dịp tìm kiếm lại di tích xưa trong thư viện, trong bảo tàng viện, trên bia đá cùng miếu mạo, đền chùa và nhất là đến tại chỗ nghiên cứu. Gần đây nhờ các đồng nghiệp dùng hệ thống ADN, tôi mới biện biệt được nguồn gốc tộc Việt, biên cương thời lập quốc của tộc Việt. Hôm nay tôi xin kết luận với các bạn rằng : - Người Trung-hoa không phải là con trời như những văn gia cổ của họ viết, dù ngày nay họ còn nghĩ như vậy. - Họ cũng không tự sinh ra, rồi tản đi tứ phương. - Không hề có việc người Trung-hoa trốn lạnh hay vì lý do chính trị di cư xuống vùng đất hoang, tạo thành nước Việt. Trong lịch sử quả có một số người Trunghoa di cư sang Việt-Nam sau những biến cố chính trị. Như ngày nay người Việt di cư đi sống khắp thế giới. - Lại càng không có việc người Việt gốc từ dòng giống Mã-lai như một vài người ngố ngếch đưa ra. - Theo sự nghiên cứu bắng hệ thống ADN, từ cổ, giống người Trung-hoa, do giống người từ Đông Nam-á di lên. Những người Đông Nam-á lại đến từ châu Phi qua ngả Nam-á vào thời gian hơn 20.000 năm trước. - Người châu Phi đến Bắc Trung-hoa do ngả Âu-châu rồi vào Trung-á, khoảng 15.000 năm. Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoa. - Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống mãi vịnh Thái-lan. - Biên giới nước Việt thủa lập quốc gồm từ Nam sông Trường giang đến vịnh Tháilan, Đông tới biển. Tây tới Tứ-xuyên của Trung-quốc ngày nay. Đến đây tôi xin phép các vị giáo sư, quý khách, các sinh viên cho tôi ngừng lời. Xin hẹn lại quý vị đến tháng 11-92 tôi sẽ trình bày trước qúy vị về nguồn gốc triết Việt. Trân trọng kính chào quý vị. Giáo-sư Trần Đại-Sỹ, Chú giải của Tăng Hồng Minh,(1) Tiêu biểu mới nhất là một nhóm thức giả do nhà văn Vương Kỳ Sơn đứng chủ biên, đã xuất bản cuốn Việt-Nam đệ ngũ thiên niên kỷ vào năm 1994 tại Hoa-kỳ. (2) Sau này được tôn thụy hiệu là Lục-Dương. (3). Như vậy vua Lạc-Long lấy con gái của anh con bác. (4) Độc giả có thể tìm đọc tài liệu nghiên cứu này bạt quyển 1. Anh- hùng Lĩnh-nam do Nam- Á Paris xuất bản 1987 mang tên « bản phụ chú nghiên cứu về nỏ thần ». (5). Phương pháp mà các giáo sư Tarentino, Vareilla Pascale dùng để biện biệt những bộ xương khai quật trong cổ mộ vùng Hồ-nam, Vân-nam, Quảng-châu, Quý-châu không khác các chuyên viên Hoa-kỳ trong ủy ban tìm kiếm tử sĩ Hoa-kỳ tại Việt-nam đã xử dụng. Có điều, các chuyên viên Hoa-kỳ gặp nhiều khó khăn hơn, vì phải đi vào chi tiết từng cá nhân, còn IFA chỉ phân chủng loại. (6). Xin xem Cẩm-khê-di-hận do Nam-Á Paris xuất bản 1992, để biết hai trận hồ Động-đình. Một trận do Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Phật-Nguyệt, Đinh Bạch- Nương, Đinh Tĩnh- Nương, Quách-Lãng đánh với Lưu-Long, Mã-Viện. Một trận do Hoàng Thiều-Hoa cùng với các tướng trên đánh với mười hai đại tướng quân Hán . (7) Tư-mã Thiên, Sử-ký, quyển 1, Ngũ-đế bản-kỷ, Trung-hoa thư cục xuất bản 1959 trang 3-6. (8) Độc giả muốn biết chi tiết trận đánh lịch sử này, xin đọc Động-đình hồ ngoại-sử, cùng tác giả, do Nam-Á Paris xuất bản (1990). (9) Xin đọc « Mùa xuân trên hồ Động-đình tưởng nhớ Trưng-Vương » trong phần bạt Anhhùng Lĩnh-nam, do Nam-Á xuất bản 1987. (10) Vũ Văn- Mẫu, Cổ luật Việt-nam và tư- pháp sử, quyển thứ nhất, tập thứ nhất, trang 9-51. (11) Chữ văn hóa Bắc-sơn ở đây chỉ có ý nghĩa rằng cuộc khai quật ở núi Bắc-sơn (Lạng-sơn), đã tìm thấy những cổ vật đồ đá.(thời kỳ đồ đá) (12) Chữ văn hóa Đông-sơn chỉ cuộc khai quật ở Đông-sơn, đã tìm thấy đồ đồng (thời đồ đồng). (13) Hè 1992 sau khi cùng phái đoàn IFA du khảo về loại cây trị cholestérol ở Vân-nam, thời gian còn lại, Giáo-sư Trab Đại-Sỹ đi khảo cứu xương người cùng các khai quật ở Vân-nam, Quảng Đông (Trung-quốc), các tỉnh Bắc-thái như Nùng-khai, Thanon, U-bon, U-don Tha-ni. Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đã tìm lại được hai trống đồng thời vua Trưng, ở Quảng-đông, để trong bảo tàng viện địa phương. Ông đã mất rất nhiều tiền, cùng trăm ngàn khó khăn mới mua và đưa lọt về Paris. (14) Chữ trăm trong ngôn ngữ Việt có nhiều nghĩa. - Có nghĩa là đời người như : Trăm năm trong cõi người.ta. Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau (Kiều) Trăm năm xe sợi chỉ hồng, Bắt người tài sắc buộc trong khung trời. Trăm năm, trăm tuổi ,trăm chồng, Hễ ai có bạc tôi bồng trên tay. (ca dao) - Có nghĩa là chết: Khi nào cụ tôi trăm năm đi rồi. Nhân sinh bách tuế vi kỳ ( Người ta sinh ra lấy trăm năm làm hẹn) Trăm năm như cõi trời chung, Có nghề cũng phải có công mới thành. (ca dao) - Có nghĩa là tất cả : Trăm họ, hay trăm bệnh, Trăm hoa đua nở mùa xuân, Cớ sao cúc lại muộn buồn thế kia ? (ca dao) Trăm dâu đổ đầu tằm. (Tục ngữ) Trăm con trong huyền sử Việt hay Bách-Việt có nghĩa này. Tài liệu nghiên cứu chính SÁCH CHỮ HÁN Tư Mã-Thiên, Sử ký, Trung-hoa thư cục Thượng-hải xuất bản 1959 Ban-Cố, Tiền Hán thư, Trung- hoa thư cục xuất bản1959. Phạm Việp, Hậu Hán thư, Trung hoa thư cục xuất bản 1959. Hoài Nam Tử, quyển 18, Trùng Hoa thư cục Đài Bắc xuất bản, 1959. Cố Dã-Vương, Địa- dư chí, Cẩm-chương thư cục xuất bản 1920. Trần Luân-Quýnh, Hải quốc kiến văn lục, cổ bản , thư viện Paris. Lê Quý-Đôn, Phu-biên tạp lục, cổ bản của thư viện Paris. Lê Quý-Đôn, Đại-Việt thông sử, cổ bản của thư viện Paris. Phan huy-Ích, Lịch triều biến chương lọai chí, cổ bản của thư viện Paris. Quốc - sử quán, Hoàng-Việt địa dư chí, bản của thư viện Paris. Quốc-sử quán, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản của thư viện Paris. Địa đồ xuất bản xã, Trung-hoa nhân dân cộng hòa quốc phâõn tỉnh địa đồ tập, Bắc-kinh 1974. Đại học văn khoa Hồ-nam, Hồ-nam lịch đại khảo chứng 1980. Cùng rất nhiều tài liệu không tác giả, lưu trữ tại thư viện, bảo tàng viện Hồ-nam, Quý-châu, Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-Nam. SÁCH CHỮ PHÁP Léonard Aurouseau, La première conquête chinoise des pays anamites, BEFEO XXIII. Claude Madrolle, Le Tonkin Ancien, BEFEO, XXXVII. SÁCH CHỮ VIỆT Đào Duy-Anh, Nguồn gốc dân tộc Việt-nam, Hà-nội 1946.8 likes
-
ĐÀo Hoa TrẬn
honey and 5 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
* Tuổi Thân Tý Thìn: Đào Hoa nằm ở cung Dậu. Ứng với sơn Dậu trên La Kinh. * Tuổi Hợi Mão Mùi: Đào Hoa nằm ở cung Tý. Ứng với sơn Tý trên La Kinh. * Tuổi Dần Ngọ Tuất: Đào Hoa nằm ở cung Mão. Ứng với sơn Mão trên La Kinh. * Tuổi Tỵ Dậu Sửu: Đào Hoa nằm ở cung Ngọ. Ứng với sơn Ngọ trên La Kinh. Tư liệu này được coi là đúng nhất. Còn các câu khác là do viết sai. Cảm ơn sự phát hiện của Nguyên Hoàng. Tôi đã sửa lại.6 likes -
Chiết Tự Số - Chữ Quốc Ngữ
hiki and one other liked a post in a topic by Hà Uyên
Chào Anh Chị Em trên diễn đàn. Khi tìm hiểu những phương pháp để lập quẻ Dịch, trong MAI HOA DỊCH SỐ của ngài Thiệu Ung, có phương pháp CHIẾT TỰ SỐ. Theo sách "Bí bản trắc tự toàn thư", ngài Tự Thạch đã nổi danh thiên hạ về khoa Chiết tự. Chữ Quốc ngữ VN có thể xây dựng nên phương pháp Chiết tự này. Tham khảo từ Nguồn: Dichminh.co.cc, được xây dựng Chiết tự số như sau: A : 3 nét ; Ă : 4 nét ; Â : 5 nét B : 3 nét C : 1 nét D : 2 nét ; Đ : 3 nét E : 4 nét ; Ê : 6 nét G : 2 nét ; H : 3 nét I : 1 nét K : 3 nét L : 2 nét M : 4 nét N : 2 nét O : 2 nét Ô : 4 nét Ơ : 3 nét P : 2 nét Q : 3 nét R : 3 nét S : 1 nét T : 2 nét U : 1 nét Ư : 2 nét V : 2 nét X : 2 nét Y : 3 nét Sắc(/) : 1 nét Huyền (\) : 1 nét Hỏi (?) : 2 nét Ngã (~) : 1 nét Nặng (.) : 1 nét Một ví dụ về khoa Chiết tự số tương ứng với chữ Quốc ngữ: Câu thành văn như sau: Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá, Mọi người ở dưới thấp, nên tự chán. Cụ thể: - "Trèo lên ngọn cây": tổ hợp Chiết tự số làm Ngoại quái - "thấy mình cao quá": tổ hợp Chiết tự số làm Nội quái Thực hiện: - Chữ "Trèo": T = 2, r = 3, e = 4, 0 = 2, dấu "huyền" = 1 => 2 + 3 + 4 + 2 + 1 = 12 - Chữ "lên": l = 2, ê = 6, n = 2 => 2 + 6 + 2 = 10 - Chữ "ngọn": n = 2, g = 2, 0 = 2, n = 2, dấu "nặng" = 1 => 2 + 2 + 2 + 2 + 1 = 9 - Chữ "cây": c = 1, â = 5, y = 3 => 1 + 5 + 3 = 9 Tổ hợp câu "Trèo lên ngọn cây" = 12 + 10 + 9 + 9 = 40 40 / 8 = 5 => được quái Khôn. - Chữ "thấy": t = 2, h = 3, â = 5, y = 3, dấu "sắc" = 1 => 2 + 3 + 5 + 3 + 1 = 17. - Chữ "mình": m = 4, i = 1, n = 2, h = 3, dấu "huyền" = 1 => 4 + 1 + 2 + 3 + 1 = 11 - Chữ "cao": c = 1, a = 3, 0 = 2 => 1 + 3 + 2 = 6 - Chữ "quá": q = 3, u = 1, a = 3, dấu "sắc" = 1 => 3 + 1 + 3 + 1 = 8 Tổ hợp câu: "thấy mình cao quá" = 17 + 11 + 6 + 8 = 42 42 / 8 = 5 dư 2 => được quái Đoài Câu: "Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá" được quẻ ĐỊA TRẠCH LÂM. Tiếp tục với vế đối là câu: "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán", lại phân câu này thành 02 quái: - Chữ "mọi": m = 4, 0 = 2, i = 1, dấu "nặng" = 1 => 4 + 2 + 1 + 1 = 8 - Chữ "người": n = 2, g = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "huyền' = 1 => 2 + 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 11 - Chữ "ở": ơ = 3, dấu "hỏi" = 2 => 3 + 2 = 5 - Chữ "dưới": d = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "sắc" = 1 => 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 9 - Chữ "thấp": t = 2, h = 3, â = 5, p = 2, dấu "sắc" = 1 => 2 + 3 + 5 + 2 + 1 = 16 Tổ hợp câu: "mọi người ở dưới thấp" = 8 + 11 + 5 + 9 + 16 = 59 59 / 8 = 7 dư 3 => được quái Ly - Chữ "nên": n = 2, ê = 6, n = 2 => 2 + 6 + 2 = 10 - Chữ "tự": t = 2, ư = 2, dấu "nặng" = 1 => 2 + 2 + 1 = 5 - Chữ "chán": c = 1, h = 3, a = 3, n = 2, dấu "sắc" = 1 => 1 + 3 + 3 + 2 + 1 = 10 Tổ hợp câu: "nên tự chán" = 10 + 5 + 10 = 25 25 / 8 = 3 dư 1 => được quái Càn Câu "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán" được quẻ HOẢ THIÊN ĐẠI HỮU. - Tượng hai quẻ Lâm thừa Đại hữu: theo Bốc Dịch, động hào 3, 4, 6 - Theo Dịch Lâm được quẻ Lâm chi Đại hữu. Chúng ta tham khảo thêm một phương thức lập quẻ Dịch. Hà Uyên.2 likes -
2 likes
-
Chiết Tự Số - Chữ Quốc Ngữ
Guest and one other liked a post in a topic by Hà Uyên
Chào Thiên đồng Cảm ơn Bạn rất nhiều từ những ý kiến mà Bạn đặt vấn đề. Tôi đang trải nghiệm, cùng luận giải thêm với Thiên Đồng sau. Gần đây, về cá nhân, tôi đang thử nghiệm, nhưng không nói ra, về: Họ và Tên của sự Hợp khí, với điều kiện là: Âm dương đã hợp hóa => đã "sinh". Ví dụ như tên của Dương: Trần văn A, tên của Âm là Nguyễn thị B => tôi phân: Trần Văn làm Ngoại quái, còn tên là chữ A, thì đặt làm Nội quái. Đối ứng với Âm, thì Nguyễn Thị tổ hợp làm Ngoại quái, còn tên chữ là B, thì tổ hợp làm Nội quái. Tôi thử nghiệm xét thấy, có nhiều điều rất lạ khi thông tin được bộc lộ ra, từ hai quẻ Đối ứng. Chia sẻ cùng Thiên Đồng và Anh Chị Em. Hà Uyên.2 likes -
Quy Hoạch Hà Nội Năm 2030
hiki and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Kính thưa quí vị và anh chị em quan tâm. Nhân có thêm tư liệu, tôi minh họa rõ hơn thế đất ở sát chân núi Ba Vì và so sánh với: Thành Cổ Loa, Hoa Lư, Thành nhà Hồ và Huế: Vị trí dự kiến xây dựng TTHCQG tại sát chân núi Ba Vì. Qua sự so sánh trên thực tế này và lịch sử đã thể hiện. Chúng ta nhận thấy tính chất tiểu khí của các khu vực trên. Bởi vậy, tôi có ý kiến cho rằng: Khu sát chân núi Ba Vì chỉ nên dùng làm việc nhỏ như: Lăng mộ, tru sở khu vực hành chính cấp quận, khu Du lịch với nhiều khách sạn....và không xứng đáng với tầm cỡ quốc gia.2 likes -
Quy Hoạch Hà Nội Năm 2030
hiki and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
BÀN RÕ HƠN VỀ VIỆC KHÔNG NÊN ĐẶT TTHCQG Ở SÁT CHÂN NÚI BA VÌ Trong Phong thủy nói chung đều thừa nhận "Âm thì nhô cao, Dương trũng thấp". Ấy là chính cổ thư chữ Hán ghi nhận như vậy. Sự phục hồi nhân danh khoa học của Phong Thủy Lạc Việt đã chứng minh rất rõ điều này. Trong một bài viết ngắn - do kết luận giống nhau - chúng tôi không thể lặp lại sự minh chứng quá phức tạp này. Nhưng trên cơ sở "Âm nhô cao, Dương trũng thấp", chúng tôi xét về mối tương quan giữa vị trí Hoàng thành Thăng Long từ hàng ngàn năm trước với dãy núi Ba Vì và sông Hồng. Ở vị trí Hoàng Thành Thăng Long sát sông Hồng từ hàng ngàn năm trước, các phong thủy gia tiền nhân Việt vẫn xác định Ba Vì chính là điểm "Sơn" tựa của Hoàng Thành và sông Hồng chính là minh đường tụ thủy. Hay nói rõ hơn: Không phải vì khoảng cách xa hàng trăm cây số của Hoàng thành Thăng Long hơn 1000 năm trước mà dãy Ba Vì không được coi là sơn tọa của hoàng thành. Điều này các thế hệ phong thủy gia cho đến nay đều thừa nhận. Vậy thì tại sao các bậc tiền nhân lại không đưa hoàng thành vào sát chân núi Ba Vì như ngày nay để có thể tựa sơn thêm phần chắc chắn, mà lại để cách xa như vậy? Điều này, bài viết của anh Tom_XP trong topic này đã phân tích và lý giải. Thế đất tọa núi, nhìn sông không đổi. Sát núi quá "Âm thịnh, Dương suy". Xa núi quá "Dương thịnh, Âm suy". "Âm thắng Dương tắc loạn"; "Dương thắng Âm tắc bế". Hình thể đã có, nhưng khi Dương khí mới tụ, việc đặt Hoàng Thành Thăng Long ở sát sông Hồng hoàn toàn hợp lý. Vậy thì sau hàng ngàn năm trôi qua, Dương khí ngày càng thịnh, Âm khí lui dần về phía dãy Ba Vì. Vậy việc lựa chọn một TTHCQG phải là nơi cân bằng Âm Dương trên thế đất này. Đó chính là trung tâm của cuộc đất có thế núi chầu sông tụ này, mà anh Tom_XP đã đề xuất với sự thống nhất của chúng tôi: Chính là vùng Quốc Oai của Sơn Tây.2 likes -
ĐÀo Hoa TrẬn
VN339 liked a post in a topic by wildlavender
ĐÀO HOA TRẬN Một trong những mối quan tâm trong quan hệ xã hội chính là quan hệ nam nữ, quan hệ xã giao. Nhưng vấn đề này có liên quan đến một hiện tượng tương tác gọi là Đào Hoa trong Tử Vi. Hay nói cách khác là cung Đào Hoa trong vận số của con người. Một người lớn tuổi mà vẫn chưa có cho mình một ai ưng ý để làm bạn đời, trong trường hợp này cấn ứng dụng "Đào Hoa trận"; hoặc những ông chồng bà vợ có những mối quan hệ với người khác giới, trên mức tình cảm thông thường khiến cho gia đình có nguy cơ đổ vỡ, rất cần có "Đào Hoa Sát" để giữ lại hạnh phúc gia đình. Phương pháp ứng dụng này trong Phong thủy liên quan đến một phương pháp còn bí truyền gọi là "Tử Vi Phong Thủy" (Ứng dụng Tử Vi Lạc Việt) và "Lạc Dịch phong thủy". Những nguyên lý của phương pháp này sẽ được học sâu hơn vào cuối khóa - khi anh chị em đã nắm vững những kiến thức về phong Thủy Lạc Việt. Nhưng trong bài giảng chuyên đề này, tôi sẽ trình bày với anh chị em về một trong những ứng dụng cụ thể của phương pháp "Tử Vi Phong Thủy" trong Phong Thủy Lạc Việt. Đó là một trong những phương pháp có hiệu quả trong điều kiện của nó trong môn "Tử Vi Phong Thủy". Trong khoa Tử Vi - mà tôi đã minh chứng rằng: Đó chính là những quy luật vận động tương tác của những thiên thể gần trái đất lên Trái Đất, cuộc sống và con người. Và con người của nền văn minh xa xưa đó đã có những qui ước mang tính biểu kiến những tương tác trên thực tế của vũ trụ trên qua lá Tử Vi Đông phương. Những phương vị trên 12 cung Tử Vi Đông phương cũng là phương vị trên phong thủy với 12 Sơn Địa chi. Bởi vậy căn cứ trên 12 sơn Phong thủy phù hợp với 12 cung số Tử Vi, người ta dùng để khống chế các sao xấu và tăng độ số của sao tốt, nhằm nâng độ số của số phận. Một trong những nguyên lý đó chính là phương pháp Đào hoa trận, mà tôi trình bày trong bài này. Trong phương pháp Đào Hoa trận có hai loại là: Vượng Đào Hoa và Trảm Đào Hoa. I - VƯỢNG ĐÀO HOA. Trong Tử Vi, Đào hoa tinh tùy theo tuổi mà nằm ở các cung sau đây: * Tuổi Thân Tý Thìn: Đào Hoa nằm ở cung Dậu. Ứng với sơn Dậu trên La Kinh. * Tuổi Hợi Mão Mùi: Đào Hoa nằm ở cung Tý. Ứng với sơn Tý trên La Kinh. * Tuổi Dần Ngọ Tuất: Đào Hoa nằm ở cung Mão. Ứng với sơn Mão trên La Kinh. * Tuổi Tỵ Dậu Sửu: Đào Hoa nằm ở cung Ngọ. Ứng với sơn Ngọ trên La Kinh. Cung tướng ứng này trên La Kinh gọi là Đào Hoa Sơn. Trên cơ sở này chúng ta cần những bước sau đây: * Xác định Đào Hoa sơn chứa Đào Hoa Tinh của người cần Vượng Đào Hoa, theo cách tính trên. Thí dụ: Người tuổi Dần, Đào Hoa tại sơn Mão. * Tùy theo mạng tính theo tuổi của người cần Vượng Đào Hoa mà chúng ta cần một bình hoa có màu thích hợp. Thí dụ: Người Bính Dần (Bất luận nam nữ), có tính duyên trắc trở. Chúng ta xác định được sơn có sao Đào Hoa là sơn Mão theo bảng trên. Tại tường hoặc phương vị của sơn này trong nhà, đặt một bình hoa có màu thích hợp với mạng của người tuổi Bính Dần là Thủy - Theo Lạc Thư Hoa giáp (Sách Tàu là Hỏa) - tức là chúng ta dùng bình màu xanh dương nhạt, hay đậm (Không dùng màu đen. Vì ở Hậu Thiên, màu đen còn là Tượng của Thổ - sao Nhị Hắc). Bình hoa này sẽ được đặt tại phương vị có sơn Mão. Đặt sát tường hay chỉ ở phương vị sơn này là tùy theo tính hợp lý với cảnh quan. * Chọn số hoa và màu hoa tương sinh với bình hoa thích hợp vớí độ số cung phi. Thí dụ: Người nữ Bính Dần có cung phi là Khảm thuộc Thủy. Thủy trên Hà Đồ có độ số 1 - 6. Số lượng hoa sẽ là 1 bông hoa to và 5 bông hoa nhỏ. Tương sinh ra thủy là hành Kim. Vậy chúng ta dùng hoa màu trắng. Lưu ý: Đào Hoa sợ nhất sao Thiên hình. Sao Thiên Hình thuộc hành Kim, có cung bản nguyên là Dậu và cung đối xung là Mão. Bởi vậy, trong bình hoa nên có nước đầy để hóa giải sao Thiên hình. và tốt nhất dùng bình thủy tinh trong. Nay mùa Xuân đang đến. Nên tranh thủ mùa Hoa Đào - Biểu tượng gần gũi nhất của Đào Hoa tinh, đặt ngay một nhánh Đào vào vị trí Đào hoa Sơn với bình hoa có màu thích hợp. Trong trường hợp đặc biệt này, do dùng chính Hoa Đào là biểu tượng của Đào Hoa tinh thì không cần tương sinh với bản mệnh - Hoa càng nhiều, càng rực rỡ càng tốt. II - TRẢM ĐÀO HOA. Có nhiều phương pháp "Trảm Đào Hoa". Sau khi tính được Đào Hoa sơn của "Đức ông chồng", hoặc "Bà xã yếu quí", đang có nguy cơ theo dấu chân ai. Ứng dụng những biện pháp sau: 1 - Dùng bình hoa có màu thích hợp với bản mệnh và số hoa thích hợp với cung phi của người đó. Màu hoa cũng tương sinh cho màu bản mệnh. Nhưng dùng một con dao nhỏ, cắt ngang những cành hoa trước khi cắm vào bình. Nhưng lưu ý là không cắt lìa. Đặt bình hoa này vào vị trí Đào Hoa Sơn và gác con dao phía trên các cành hoa. (Dao nhựa, dao gỗ đều được). Không có nước trong bình hoa. 2 - Mua một tranh gà trống của dòng tranh Đông Hồ (Loại chỉ vẽ một con duy nhất và không có chữ Đại Cát), treo ở Đào Hoa sơn. Tranh dân gian Việt Nam có tác dụng trấn yểm phong thủy rất mạnh. Hiện hình thành một phương pháp trần yểm bằng tranh dân gian Việt Nam. Sẽ học sau. 3 - Mua một tượng con gà trống bằng đồng , hoặc bằng bất cứ vật liệu gì, đặt ở Đào Hoa sơn của người cần "Trảm Đào Hoa". Gà Trống là biểu tượng của cung Dậu - Cung của sao Thiên Hình, bởi vậy có tác dụng khắc chế Đào Hoa tinh. Lưu ý: Trong trường hợp dùng phương pháp "Trảm Đào Hoa" - nếu có hiệu quả thì phải hủy, không nên tiếp tục để lâu dài. Anh chị em thân mến. Anh chị em cần lưu ý rằng: Tất cả những chiêu thức, trấn yểm trong Phong Thủy - kể cà Đào Hoa Trận - chỉ có tác dụng khi ngôi gia vượng khí mới có tác dụng. Còn nếu không vượng khí - dù hướng tốt hay xấu, thì mọi sự trấn yểm và chiêu thức đều không có giá trị. Vương khí này bao gồm cả Dương khí do sự chuyển động của con người và phương tiện và Âm khí do vị thế hình thể của cuộc đất với môi trường. Chúng ta đang tiếp tục tham khảo về Khí và các vấn đề liên quan. Bài viết của Thầy Thiên Sứ1 like -
“Bóng ma” lang thang trong công viên (Dân trí) - Khi đang dắt chó đi dạo trong công viên, Paul Reed đã chụp được hình ảnh lạ mà anh khẳng định là bóng ma của một phụ nữ sống ở thời Nữ hoàng Victoria (1837-1901). Hình ảnh do Paul Reed chụp được. Ông bố hai con đang đi bộ tại công viên Kelsey ở Beckenham, Kent hồi tuần trước thì nhìn thấy bóng ma bất thình lình xuất hiện đằng sau một chiếc ghế dài. Reed, 46 tuổi, cho hay bóng ma là một phụ nữ mặc chiếc váy thời Nữ hoàng Victoria. Theo lời chủ nhân, con chó Harry đã đột ngột dừng lại không nhúc nhích trong giây lát khi bóng ma xuất hiện. “Thật sự sợ hãi”, Reed nói. “Harry không phải là chính nó như thường ngày. Nó co rúm người lại về phía tôi. Tôi phải nhừa nhận rằng tôi đã bị sốc khi nhìn thấy bóng ma xuất hiện trước mắt”. “Một người đi bộ khác nói bóng ma thuộc về một phụ nữ bị chôn trong công viên vào cuối thế kỷ 19”. Samuel Allan, một người dân địa phương, cho biết: “Có một phụ nữ được chôn cất trong công viên vào cuối những năm 1890 vì bà ấy rất thích đi dạo”. “Có vẻ như bà ấy vẫn đến thăm công viên, xuất hiện rồi lại biến mất trước sự ngạc nhiên của những người đi dạo”. Ninh Nhi Theo Telegraph http://dantri.com.vn/c132/s132-396361/bong-ma-lang-thang-trong-cong-vien.htm1 like
-
Tối hôm nay 4/5/2010 vào lúc 22g10 chương trình Chuyên gia và cuộc sống của TT THVN tại Đà Nẵng đã phát sóng CT Chuyên gia và cuộc sống với sự tham gia của Sư Phụ Thiên Sứ. Vài hình ảnh giới thiệu cùng các thành viên diễn đàn. --- --- --- --- --- --- --- --- --- --- Chương trình được phát lại vào sáng mai 7g30 ngày 5/5/2010.1 like
-
1 like
-
Chào bạn! Tên đăng nhập của bạn đã được đổi theo yêu cầu. Chúc vui, BabyWolf.1 like
-
Kính gửi Bác Hà Uyên, Theo Thiên Đồng thì Chữ O là 1 nét Chữ R là 3 nét Chữ Y, có thể 3, có thể 2 nét tùy theo (nếu viết y). Từ cơ sở bút pháp mà Thiên Đồng góp ý này. Về cách lập quẻ thì theo sách "Chu Dịch dự đoán học" của tác giã Thiệu Vỹ Hoa có viết: " Căn cứ chữ số để gieo quẻ: phàm gặp trường hợp viết chữ lấy tổng số chữ chia đôi là quẻ thượng, một nữa làm quẻ hạ. Nếu số chữ là lẻ thì lấy nửa ít là quẻ thượng, nửa nhiều làm quẻ hạ, (ví dụ 7 chữ: số 3 làm quẻ thượng, số 4 làm quẻ hạ. Quẻ thương là Ly, quẻ hạ là Chấn, tức quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp). Nếu chỉ 1 chữ thì lấy số nét nửa trái làm quẻ thượng, số nét nửa phải làm quẻ hạ..." Như vậy, phương pháp trên cũng chủ trương lập quẻ thượng trước. Trùng với cách của Bác đề xuất. Tuy rằng không có sự giải thích cho việc tại sao lấy quẻ thượng trước. Thiên Đồng đề nghị thêm. Nếu viết một câu dài thì ta chỉ cần đếm số chữ. Nếu viết câu rất ngắn, một cụm từ, một nhóm từ, một chữ thì ta xét nét. Nếu là hai câu đối thì ta xét nét, vì lượng chữ bằng nhau. Nếu là câu thơ hay bài thơ thì ta xét nét và có thể bỏ đi các chữ lập lại giống nhau. Thiên Đồng1 like
-
Bạn đã spam rất nhiều nơi, hỏi đi hỏi lại. trong khi chỗ đã trả lời thì không để ý. Hy vọng lần sau không tái diễn nhé http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...ost&p=80796 Thân mến1 like
-
1 like
-
năm tới sanh , tỉ lệ cao là con trai hơn là con gái , có 1 đứa sau này lớn lên ăn chơi phá của cah mẹ ,nếu không thì cũng phải có ám tật /vợ chồng có thể làm chung ,muốn tách ra làm mở mang thêm cũng tốt .1 like
-
1 like
-
Hy vọng sang năm sẽ có thai và 2012 sẽ có con. Công danh của quý chị thì nên cẩn trọng, những sai phạm có thể dẫn đến hậu vận rất xấu. Của quý anh thì nên biết điểm dừng bởi số không giầu nên chớ lao lực quá mà tiêu cực. Tổng luận 2 vợ chồng là nên tiết kiệm để phòng thân, chớ ham kiếm tiền mà thành công cốc 2 vợ chồng nên tin tưởng, yêu thương nhau, mọi chuyện phải giữ hòa khí làm trọng kẻo có ngày phân ly.1 like
-
Thêm một ý kiến của KTS Phác Nguyên được đăng ngày 18/5/2010 tại Tuanvietnamnet.vn Hậu thế hiểu sai Chiếu dời đô nên định đô sai? Tiếp tục bàn chuyện chọn đất định đô của ông cha xưa, KTS Phác Nguyên cho rằng, có tình trạng hiểu nhầm lý do chọn địa điểm trong "Chiếu dời đô" của Đức Lý Thái Tổ, để rồi trên cơ sở đó suy diễn sẽ rất nguy hại. Hiện nay, đang có tình trạng hiểu nhầm lý do chọn địa điểm trong "Chiếu dời đô" của Đức Lý Thái Tổ, để rồi trên cơ sở đó suy diễn sẽ rất nguy hại. Vì vậy, chúng tôi thấy cần trao đổi, nói lại đôi điều. Xin dẫn lại: "Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi". "Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương[8], ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước". (Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992) - Trích nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (đã đối chiếu với lần tái bản 2004); Hiện có bản lại dịch là: "Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương ở vào nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi". (Bản dịch của Đức Vân; in trong Tóm tắt lịch sử Triều Lý - Ban quản lý Di tích lịch sử văn hóa Đền Đô - Đình Bảng - Từ Sơn - Bắc Ninh; Giấy phép xuất bản số 35/VHTT ngày 22/10/2001 của Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Ninh) Đức Lý Thái Tổ. Ảnh: Petroconexgroup. Đây là một bản dịch sai, vì người dịch đã lấy nhịp văn làm trọng, bỏ qua nghĩa học thuật (xin bỏ qua việc bàn "Cuộn" và "Ngồi" không phải từ chỉ thế đất, thế đất hay dùng chữ "Chầu" và "Phục" ); Sai nhất là đoạn "tiện giang sơn hướng bối chi nghi" bị dịch thành "lại tiện hướng nhìn sông dựa núi". Thuật phong thủy thể hiện kỹ năng tìm các "cuộc đất" tốt cho việc xây cất nhà cửa, cung điện, công trình phục vụ người sống gọi là Dương Trạch; Các "cuộc đất" tốt cho việc chôn cất, thờ phụng người đã chết hoặc thế giới tâm linh, thánh thần gọi là Âm Trạch; Âm Trạch tốt mà dùng làm nơi xây cất nhà cửa, cung điện thì tai họa và ngược lại Dương Trạch tốt mà dùng xây lăng mộ, đền đài cũng sẽ không yên (xấu); Thường, Âm Trạch ở những khu vực cao (đồi núi); Dương Trạch ở vùng thấp (đồng bằng, thung lũng); Dương Trạch tốt thường là nơi có gò cao ở vùng đất thấp; Âm Trạch tốt là nơi có địa hình bằng phẳng (hõm) ở vùng núi, đồi; Câu: "tiện nghi núi sông sau trước" (sau, trước mô tả núi sông ở xa - tức vùng đất đồng bằng rộng mênh mông) gắn với câu "Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa" (tức chỉ địa thế vùng Núi Nùng - gò cao) "sáng sủa" tức Dương Trạch - Đất bằng rộng mênh mông mới có thể xây dựng đô thị hàng đầu đất nước (có thể xoay nhà nhiều hướng) - Một "cuộc đất" hiếm có để định đô; Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Khi dịch thành "lại tiện hướng nhìn sông dựa núi (ỷ dốc - tức núi gần áp sát) là nói về một khu đất hẹp sát núi (chân hoặc sườn núi) tức Âm Trạch - thường dùng để xây cất lăng mộ, đền, miếu, chùa chiền - có thể là một công trình hoặc một nhóm công trình - ngược hoàn toàn với nội dung gốc của "Chiếu dời đô"; Nếu hiểu theo nghĩa này để chọn đất để làm nơi ở đã sai chưa nói đến chọn nơi định đô; Mặt khác, gượng ép, chọn thế áp núi, các ngôi nhà chỉ phù hợp với một hướng (tuổi) của chủ nhân (một thời); Không có cho thời sau, nói chi đến bàn dân trăm họ; Một nơi thế đất chỉ cho phép các ngôi nhà quay về một hướng "nhìn sông dựa núi" không thể là đô thị quần cư; làm cung điện, ngay cả làm thành quách (với an ninh, quốc phòng) cũng ở "thế cùng rồi" hay "thế của quả nhân"; Thủ đô không phải cho một nhà (dù là Nhà - viết hoa), Thủ đô thuộc mọi nhà và mọi nhà không thể dựa vào một núi (dù núi to đến mấy); Thủ đô không phải là một ngôi đền dù ngôi đền đó có linh thiêng; Tìm cuộc đất cho cho Thủ đô (tức nơi đặt Triều đình - xưa kia và Chính phủ - ngày nay) chắc rằng phải cẩn trọng nghĩ đến nhiều điều hơn thế nữa để tránh sai lầm gây hậu họa cho đất nước; càng không thể hồ đồ tin theo một bản dịch sai; Đơn giản, đã ở "ở giữa khu vực trời đất " và "chính giữa nam bắc đông tây" thì không thể chỉ "nhìn sông"; mà "tụ hội quan yếu của bốn phương" lại càng không thể " dựa núi"; Chúng tôi không hiểu nhiều về Thuật phong thủy, không dám lạm bàn. Chỉ trộm nghĩ, trong hai nhà (Nhà Hồ và Nhà Mạc) có bị hiểu sai thế này không (hay bị loạn thần xúi bẩy) mà chọn nơi đóng đô vào Âm Trạch (Tìm nơi ỷ dốc, dựa lưng - tức tìm nơi cát cứ - thế thủ cho riêng mình) để đến nỗi vận số ngắn ngủi, bị người đời sau chê cười; Và, Nhà Nguyễn có phải nghĩ về dòng họ quá nhiều không mà chọn "cuộc đất" lẫn lộn Âm Dương (Kinh thành Huế - cùng thế đất với hệ thống Lăng mộ dày đặc), câu nệ thế núi sông (Kinh thành theo hướng Tây Bắc - Đông Nam) khiến cho lại thêm một lần dân tộc thành vong quốc nô, đất nước thành nhược tiểu quốc; "lại tiện hướng nhìn sông dựa núi"; Hình như, đã có ai đó, giờ đây đang dùng cách hiểu này để tư vấn cho Chính phủ chọn nơi đặt chỗ cho Trung tâm Hành chính quốc gia - Nghĩ đến đây, chợt rùng mình, một cơn gió thẳng hướng tây, phía sau, ào ào tới, mang theo khí lạnh ngàn năm - chắc Thần Tản Viên nhắc nhở. Thành Cổ Loa- cuộc đất với thế thủ đơn độc -Thành nhà Hồ- điển hình cho cuộc đất "nhìn sông dựa núi" Kinh đô Hoa Lư với vị thế cuộc đất "nhìn sông dựa núi", giãn cách thâm nhập (thời chiến) đương nhiên cũng sẽ ngăn cản sự quy tụ, phát triển (thời bình), Kinh thành Huế- "cuộc đất" lẫn lộn Âm Dương- cùng thế đất với hệ thống Lăng mộ dày đặc.1 like
-
Kính chào anh Linh Trang! Nhờ anh tư vấn giúp em việc sau: - Ông nội em mới mất ngày 30/01/2010 (AL) và giỗ đầu của bố bạn gái em ngày 23/02/2010 (AL) - Em sinh ngày 24/07/1984 (DL) và bạn gái em sinh ngày 04/12/1984 (DL) Vậy trong năm nay chúng em có tổ chức đám cưới được không? Nếu được thì nên tổ chức vào thời gian nào? - Bố mẹ em đều sinh năm 1960 (Canh Tý), nếu chúng em ở cùng bố mẹ em thì có ảnh hưởng xấu gì lớn không? Mong sớm nhận được lời tư vấn của anh. Kính chúc anh và gia đình sức khỏe!1 like
-
Phát hiện thêm những hạt thóc tại Thành Dền 18/05/2010 0:20 Chiều qua 17.5, PGS-TS Lâm Thị Mỹ Dung - Chủ nhiệm bộ môn Khảo cổ học (khoa Lịch sử, trường ĐH KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội) - cho biết đã tiếp tục phát hiện thêm những hạt thóc ở các hố khai quật tại điểm khai quật Thành Dền (Mê Linh, Hà Nội). Hố rác bếp - nơi tìm thấy hạt thóc sau đó đã nảy mầm. Ảnh do PGS - TS Lâm Thị Mỹ Dung cung cấp Theo bà Dung, những hạt thóc này đang được bảo quản trong môi trường nước xâm xấp và hy vọng sẽ có thêm những hạt nảy mầm. Trước đó, bà Dung cho biết sẽ tiến hành phân tích đồng vị phóng xạ carbon để có thêm cứ liệu khẳng định chắc chắn những hạt thóc nảy mầm lấy lên từ các hố rác bếp tại điểm khai quật có niên đại cách đây 3.000 năm. Toàn bộ số hạt thóc thu được nhưng không nảy mầm cũng đang được bảo quản cẩn thận: đặt vào hộp nhựa có đục các lỗ nhỏ, sau đó cho vào tủ lạnh để ở chế độ mát cho khô dần. Trao đổi với Thanh Niên, một cán bộ của Viện Di truyền nông nghiệp - người trực tiếp chăm sóc, theo dõi những hạt thóc nảy mầm - cho biết hiện những hạt mầm đang được sinh trưởng trong điều kiện tự nhiên, để trong nhà lưới đảm bảo không bị chim, chuột cắn phá. “Chúng tôi sẽ nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng hình thái của những hạt mầm này, sau đó giải mã gen để xác định đây có phải là lúa cổ hay không. Các ứng xử tiếp theo với những hạt thóc nảy mầm phụ thuộc vào kết quả của nghiên cứu này”, vị cán bộ này nói. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Văn Hoan - Viện trưởng Viện Lúa (Đại học Nông nghiệp Hà Nội) - phải nuôi lúa phát triển, tách lá, giải mã gen rồi đối chiếu với bộ gen của cây lúa, nếu thấy khác hoàn toàn với 44.500 gen hiện có thì mới có thể đưa ra kết luận cuối cùng. Theo ông Hoan, đây là công việc rất phức tạp, rất khó để thực hiện tại nước ta. Liên quan đến sự kiện này, các chuyên gia ngành nông nghiệp cho rằng, trong phòng thí nghiệm, nếu bảo quản trong điều kiện tối ưu, thì hạt thóc có thể nảy mầm sau tối đa là 100 năm. Quang Duẫn nguồn thanhnienonline1 like
-
Tỏa dương, vị thuốc chữa liệt dương Cập nhật lúc 17:55, Thứ Ba, 18/05/2010 (GMT+7) Trên báo Khoa học và Đời sống, bác sĩ Phó Đức Thuần giới thiệu vị thuốc chữa lịêt dương, có tên là "Tỏa dương"; còn có tên "cu chó" vì có hình thù như dương vật của chó, hay có tác dụng như "cẩu pín". Trông nó như cây nấm màu đỏ, nâu sẫm. Hoa tím mùi hôi. Có ở Hà Tây, Hoà Bình, Yên Bái, Lao Cai. Đông y dùng toả dương để bổ thận tráng dương, ích tinh huyết, mạnh tình dục, bổ tỳ vị, nhuận tràng, thông tiểu. Chủ trị yếu sinh lý, liệt dương, lãnh cảm, đau lưng, mỏi gối, biếng ăn. Để dùng vị tỏa dương có hiệu quả cao Theo Biển thước tâm thư: Già lão thì khí suy nên chân tay không ấm, nguyên khí ở đan điền bị hư tổn, hoạt động ngày càng chậm chạp, khó khăn; dương khí toàn thân không có đầy đủ thì nơi xa nhất như đầu ngón chân tay mỏi, bị lạnh, tê nhức với cảm giác kiến bò trong xương (không phải phong thấp). Để bổ sung dương khí lúc này nên dùng toả dương. Người bị dương khí hư do hoạt động tình dục quá mức đến nỗi dương vật không còn sức cương được nữa, phải dùng đến thuốc thì dùng toả dương. Trong đó nguyên khí hư kết hợp nhân sâm, trung khí hư kết hợp bạch truật, vệ khí hư kết hợp hoàng kỳ... Tỏa dương, vị thuốc chữa liệt dương. Muốn ôn bổ thận dương nên tư bổ thận âm, nhằm quân bình âm dương. Ở trường hợp này toả dương và nhục thung dung có tác dụng giống nhau thì toả dương mạnh hơn nhưng lại gây ôn táo. Còn nhục thung dung tráng dương yếu hơn nhưng lại có tác dụng ích âm và sinh huyết. Có ý kiến có thể thay toả dương và nhục thung dung cho nhau nấu cháo ăn rất tốt. Khi tư âm mà lo địa hoàng gây nê trệ có thể dùng toả dương là vị tư âm trợ dương. Về phương diện bổ thận tráng dương, thì toả dương chữa liệt dương, xuất tinh sớm (tảo tiết), chưa kịp giao hợp tinh đã xuất. Ngoài ra tỏa dương được dùng để bổ máu làm ăn ngon miệng, hồi phục sức khỏe, ốm dậy, sau sinh đẻ, chữa tê mỏi chân, tay, lưng, gối. Một số cách dùng đơn giản dễ thực hiện Bổ thận dương, chữa liệt dương: Canh hợp đồng cu của con chó với củ cây cu chó (cẩu pín với toả dương). Dùng hai thứ này xào hoặc nấu canh để ăn. Thêm gia vị gừng, hành để phối hợp tác dụng và khử tanh. Có thể thay dương vật chó bằng dương vật dê, bò, tinh hoàn gà... Cháo tráng dương: Toả dương nấu với chim sẻ, chim cút, gà, thịt chó, thịt dê, thịt bò, trai, sò, tôm (những thức ăn có tác dụng tráng dương). Bổ thận dương, ích tinh huyết: Hai quả thận (còn nguyên phần đỏ phía trên) bổ dọc, bỏ phần lõi ở giữa. Rửa sạch với nước gừng, rắc bột toả dương vào giữa, úp hai phần lại với nhau, cuốn dọc hành hẹ, nướng vỉ hoặc hấp chín để ăn. Khi ăn có thể thái mỏng. Chấm nước mắm gừng, tỏi... Rượu toả dương: Khai vị, cường tráng: củ toả dương thái mỏng với tỷ lệ 1 toả dương 5 rượu (40o). Ngâm 1 tháng. Rượu có màu đỏ sẫm, vị đắng chát thêm đường hoặc mật ong cho dễ uống. Hoặc toả dương 30g (thái lát), rượu trắng 500g ngâm 1 tuần. Thận, tâm, tỳ đều hư gây tảo tiết: Gà trống choai 1 con, toả dương 20g, đảng sâm 50g, hoài sơn 50g, ngũ vị tử 20g. Gà làm sạch mổ moi lấy lòng ra cho thuốc vào hầm cách thuỷ cho chín chia 2 lần ăn trong ngày. Tuần 1 lần, dùng 3 tuần. Không có gà thay bằng dạ dày lợn làm sạch, nhồi thuốc để hầm. Toả dương nấu với chim sẻ, chim cút, gà, thịt chó... có tác dụng tráng dương. Ảnh minh họa nguồn internet. Chữa liệt dương, ngũ canh tiết tả (buồn đại tiện lỏng sáng sớm của người già do dương hư): Nấu toả dương với đậu đen. Phải ăn đều mỗi chiều tối trong nhiều ngày. Tư thận khí hư, tảo tiết, liệt dương, ra nhiều khí hư: Toả dương 5g, đảng sâm 3g, hoài sơn 3g, phúc bồn tử 2g, hồng trà 3g. Cho vào phích nước sôi hãm 10-15phút. Thận hư, di tinh, di niệu, liệt dương, khí hư ra nhiều: Toả dương 5g, long cốt 3g, nhục thung dung 3g, tang phiêu tiêu 3g, phục linh 3g, hồng trà 3g. Hãm trong phích nước sôi 10-15phút. Tráng dương bổ thận: Lộc nhung 10g (thái lát); câu kỷ 30g, toả dương 10g, ba kích 20g, ngưu tất, nhục quế 10g cho vào bình đổ 2 lít rượu ngon 40o trở lên (vì có nhung hươu). Ngâm 1 tháng thì uống được. Ôn dương nhuận tràng: Chữa dương hư táo bón người già. Bài 1: Toả dương 15g, vừng đen 12g, vừng vàng 12g, chỉ xác 10g, ngưu tất 10g. Sắc lấy nước uống lúc đói. Ngày 1 lần. Bài 2: Toả dương 500g, nhục thung dung 500g. Sắc 2 nước dồn lại cô tiếp rồi cho 250g mật ong quấy đều để nguội cất vào lọ dùng dần vào trước bữa cơm uống với nước sôi môi lần 2-3 thìa (thìa canh). Theo SK&ĐS1 like
-
1 like
-
bạn thử đổi sang phông chữ cho trình soạn thảo của bạn là Unicode tổng hợp nhé Chúc thành công Thân mến1 like
-
Đúng chính xác là tôi thoát nạn năm 24t , về nhà trước tết 1, 1 -2 tuần lễ [trong sách có nói ; nếu đã đang bị bệnh tật ,đau ốm haytai nạn ,khi hạn có Thiên không nhập hạn thì tai qua nạn khỏi bệnh cũng chóng qua ] tức là từ cái có thành cái không .về sao Thiên Tài ,có nhiều người lầm cho rằng là tài đây là [ tiền bạc hay tài cán ] nhưng ý nghĩa của nó là tài Giãmnhưng sao nầy khi đi với sao tốt làm giảm đi sự tốt đẹp của các sao tốt ,nếu đi với các sao xấu sẽ làm giảm đi hiệu lực của các sao xấu1 like
-
1 like
-
- Nhân kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2010), ngày Quốc tế Bảo tàng (18/5), sáng nay, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã tổ chức trưng bày chuyên đề “Báu vật phương Đông – Cổ vật châu Á”. Với trên 50 cổ vật đặc sắc của 9 quốc gia châu Á (Việt Nam, Ấn Độ, Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Nhật Bản, Triều Tiên và Trung Quốc) được tuyển chọn sẽ giúp cho khách tham quan hiểu biết về các nền văn hóa cổ châu Á. Đây cũng là bước mở đầu cho chương trình hợp tác đối ngoại của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, những cổ vật này sẽ được trưng bày tại thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc vào tháng 10 tới chào đón Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN + 1. Trong sưu tập di sản văn hóa châu Á đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, ngoài những di vật phản ánh sự phát triển của khoa học kỹ thuật phục vụ nhu cầu tồn tại của con người mang tính mỹ thuật cao, thì phần lớn sưu tập hiện vật này thể hiện đời sống tâm linh hết sức đa dạng. Trong một quốc gia, có thể đồng thời cùng tồn tại nhiều tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau, ví dụ vương quốc Campuchia ngoài Phật giáo và Hindu giáo, còn tồn tại một tín ngưỡng dân gian sản sinh trong quá trình sinh tồn của nó như tục thờ cúng tổ tiên và thuyết vật linh, thờ thần cây, thần sông, thần núi… PGS.TS Nguyễn Lân Cường – phó Tổng thư ký Hội Khảo cổ học Việt Nam chia sẻ: “Chúng ta xem để so sánh với các nền văn hóa có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Chẳng hạn, tại chùa Đậu, tôi nhận thấy có những viên gạch chạm hình chim thần Garuda - vật cưỡi của thần Visnu trong Ấn Độ giáo. Nhưng điểm khác biệt là những viên gạch ở chùa Đậu có 3 mũi mác cùng trên một viên gạch. Điều đó có nghĩa, văn hóa Ấn Độ đã ảnh hưởng đến Việt Nam và được cải tiến thêm một chút. Cuộc trưng bày lần này để công chúng biết những hiện vật kia có nét gì là của Việt Nam, nét gì là của các nước khác”. Chiếc trống đồng Sao Vàng, thuộc loại Heeger I, có kích thước lớn nhất trong sưu tập trống Đông Sơn hiện biết ở Việt Nam. Trống cao 86 cm, đường kính mặt 116 cm, niên đại 2000 – 2500 năm. Mặt trống có 12 tia, 11 vành hoa văn: vạch thẳng song song, vòng tròn tiếp tuyến, người hóa trang lông chim, nhà sàn mái cong, ô trám lồng, hồi văn chữ S gấp khúc…Chóe có nắp và đỉnh có nắp, thế kỷ 17, 18 ở Trung QuốcPhù điêu nữ thần sông Hằng, thế kỷ 11, Ấn ĐộPhù điêu Quan thế âm Bồ tát, thế kỷ 11, Ấn ĐộTượng phật bằng đồng thế kỷ 17 của Thái LanTượng Lạc Đà, thế kỷ 6 - 7 ở Trung Quốc Đức Chính1 like
-
Bóng ma” lang thang trong công viên (Dân trí) - Khi đang dắt chó đi dạo trong công viên, Paul Reed đã chụp được hình ảnh lạ mà anh khẳng định là bóng ma của một phụ nữ sống ở thời Nữ hoàng Victoria (1837-1901). Hình ảnh do Paul Reed chụp được. Ông bố hai con đang đi bộ tại công viên Kelsey ở Beckenham, Kent hồi tuần trước thì nhìn thấy bóng ma bất thình lình xuất hiện đằng sau một chiếc ghế dài.Reed, 46 tuổi, cho hay bóng ma là một phụ nữ mặc chiếc váy thời Nữ hoàng Victoria. Theo lời chủ nhân, con chó Harry đã đột ngột dừng lại không nhúc nhích trong giây lát khi bóng ma xuất hiện. “Thật sự sợ hãi”, Reed nói. “Harry không phải là chính nó như thường ngày. Nó co rúm người lại về phía tôi. Tôi phải nhừa nhận rằng tôi đã bị sốc khi nhìn thấy bóng ma xuất hiện trước mắt”. “Một người đi bộ khác nói bóng ma thuộc về một phụ nữ bị chôn trong công viên vào cuối thế kỷ 19”. Samuel Allan, một người dân địa phương, cho biết: “Có một phụ nữ được chôn cất trong công viên vào cuối những năm 1890 vì bà ấy rất thích đi dạo”. “Có vẻ như bà ấy vẫn đến thăm công viên, xuất hiện rồi lại biến mất trước sự ngạc nhiên của những người đi dạo”. Ninh Nhi Theo Telegraph1 like
-
Cách kiến giải của Wild: Bờm là biểu tưởng của con người thật thà bản chất của người không ham muốn (bất cứ) gì nếu vật phẩm đó không phải của mình! Đó bản Thiện của nhân chi sơ! Đó là cũng là thoát được chữ "THAM" (Thuyết của nhà Phật) Không lung lay so đo giá trị vật chất của Phú Ông đưa ra đánh đổi thoát được chữ "SI" Kết của nắm xôi "Bờm cười' Dù không tính toán giá trị vật chất nhưng đến giá trị thấp nhất là nắm xôi "Bờm cười" thoát được chữ SÂN" khi giá trị đánh đổi được hạ dần ở mức chỉ no bụng được 1 bữa ăn. Như vậy sự chân chất thật thà đạt được cảnh giới cao nhất của sự ham muốn bất chính.1 like
-
Chuyện này có gì là lạ đâu. Có những vi khuẩn nằm trong băng hàng triệu năm vẫn sống lại. Những con cá cũng vài trăm năm trong băng thả vào nước ngoe nguẩy bơi....trên mạng đầy những chuyện như vậy. Huống chi cơ cấu thực vật đơn giản hơn nhiều so với động vật, nó sống lại cũng không có gì là lạ. Cần phải coi đây như là một thực tại và nghiên cứu theo chiều hướng tìm cơ chế tương tác để những hạt thóc này mầm sau 3000 năm. Còn giải thích rằng: Những hạt thóc mới bị vô tình trộn lẫn sẽ mãi mãi là một tồn nghi khoa học.1 like
-
Nhìn tranh của chị Rin (em thấy avatar đoán là chị :rolleyes: ) có một số bức làm em liên tưởng đến tranh của .... ai ý nhỉ (tự nhiên quên tên mất rồi! :P) - chai rượu và quả. Tuy nhiên cứ thấy buồn buồn sao á. Màu sắc ngả về tông màu tối và trầm, không được tươi (cũng có thể do chụp thiếu sáng chăng?), hơn nữa lại gợi lại sự cô đơn (một chai, 1 ly). Em bạo gan xin hỏi chị Rin vẫn còn 1 mình phải không ạ? hì hì1 like
-
Luyện phương pháp luận quẻ LVDT
Guest liked a post in a topic by NDK
Cháu cảm ơn chú Thiên Đồng nhiều lắm! :rolleyes: Vậy là cháu yên tâm phần nào rồi! :P Kính chúc chú sức khỏe!1 like -
Sinh thêm con vào năm 2011-Tân Mão sẽ không tốt bằng giữ nguyên như hiện tại. Linh Trang1 like
-
Đồ án quy hoạch Hà Nội vội vàng và cảm tính * TS Nguyễn Xuân Diện, Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) chia sẻ quan điểm về đồ án quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Trong lịch sử, xứ Đoài chính là nơi nhà Lý nhốt giữ tù binh; là nơi ẩn cư của các kẻ sĩ bất đắc chí, quay lưng với thời cuộc. Nếu đưa Trung tâm Hành chính Quốc gia về chân núi Ba Vì, tức là đặt Chính phủ và các cơ quan của chính phủ vào trạng thái nghỉ ngơi, không còn năng động, rất nguy hiểm. Đồ án quy hoạch chung thủ đô Hà Nội được Thường vụ Quốc hội xem xét vào sáng nay. Ngay sau khi đồ án được đưa ra lấy ý kiến đông đảo quần chúng nhân dân, đã có những ý kiến băn khoăn, thắc mắc, những ý kiến phản biện của nhiều chuyên gia, nhà khoa học… Về trình tự thực hiện, quy hoạch chung mới chỉ là định hướng. Nếu quy hoạch chung được duyệt mới bước sang giai đoạn quy hoạch chi tiết. Sau quy hoạch chi tiết mới triển khai đến thiết kế đô thị và lập các dự án đầu tư xây dựng công trình cụ thể, từ đó mới khái toán được giá thành. Phải căn cứ vào suất đầu tư xây dựng của từng loại công trình mới ra được giá thành và sơ bộ kế hoạch thi công xây dựng. Cuối cùng mới tính toán giá thành và mới lập kế hoạch thi công. Vậy mà quy hoạch chung đang lập hiện gần như chấp nhận lại các đồ án quy hoạch chi tiết đã được thẩm định sơ sài, phê duyệt vội vã trong những năm 2006–2008, chủ yếu bám theo sông Nhuệ, trên các địa bàn Đan Phượng, Hoài Đức, Hà Đông, Từ Liêm..., rồi đưa ra biện hộ rằng đây là nơi “hình thành các nêm xanh”. Thực ra không có một ý tưởng nào ngoài việc hợp thức hóa những sản phẩm vội vàng ấy. Trong thời gian qua, không chỉ có các nhà khoa học, giới truyền thông mà đông đảo nhân dân cả nước hết sức quan tâm tới triển lãm giới thiệu Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội trong đó có những ý kiến trái chiều về “trục tâm linh”. Đó là mối quan tâm rất chính đáng và cần phải suy nghĩ một cách thực sự nghiêm túc. Thế nào là trục tâm linh? Và căn cứ vào đâu để cho đó là trục tâm linh? Các nhà tư vấn đã ai xem đến những cuốn sách về địa lý phong thủy của Cao Biền và Tả Ao đang tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, nơi chúng tôi công tác? Nếu ai chưa nắm chắc về huyệt và huyệt đạo thì không thể nói được gì về trục tâm linh cả. Thế nhưng rất lạ là trên bản đồ vệ tinh đã vẽ “trục tâm linh” đi từ dốc chợ Bưởi, xuyên qua Làng văn hóa các dân tộc, vượt qua hồ Đồng Mô. Và người ta cũng bắt đầu nói rất nhiều đến khái niệm “trục tâm linh”. Và sự thật là nó đã tạo ra một cơn sốt bất động sản ghê gớm dọc theo chiều dài 30 km này. Phải chăng người ta dụng ý dùng ba chữ “trục tâm linh” để gây xáo trộn thị trường bất động sản? Hà Nội sẽ làm trục đường nối trung tâm với Ba Vì Gần đây cách gọi để thuyết minh về trục này đã “uyển chuyển” hơn bằng cách gọi là trục giao thông, hay trục văn hóa. Theo tôi, việc này đã có con đường Láng – Hòa Lạc và quốc lộ 32, đang được hoàn thiện và mở rộng. Còn nói đây là trục văn hóa, được hiểu như là để kết nối các vùng, các điểm văn hóa thì tôi cho rằng là rất không thuyết phục. Đã có những điểm nào được kết nối xung quanh trục này ở hai bên đường, tiêu chí nào để xác định các điểm đó? Chưa kể nó sẽ đi xuyên qua các làng mạc, các di tích cổ, điều này đã phá vỡ cảnh quan văn hóa làng Xứ Đoài! Người dân thủ đô rất quan tâm tới quy hoạch chung thủ đô Hà Nội. Ảnh: Hoàng Hà. Bộ Xây dựng đã công bố kết quả thăm dò ý kiến nhân dân về đồ án quy hoạch chung thủ đô Hà Nội trong đó hai vấn đề có tỷ lệ đồng thuận thấp nhất trong rất nhiều vấn đề của đồ án, là vị trí Trung tâm hành chính quốc gia (69,4 %) và trục Thăng Long (76,5 %). Có thể thấy rõ ba nguyên nhân. Thứ nhất, về góc độ kinh tế. Trước hết, phải làm rõ Trung tâm hành chính quốc gia sẽ gồm những gì, trong khi Nhà Quốc hội ở Ba Đình, Trung tâm Hội nghị Quốc gia đang ở Mỹ Đình? Rất nhiều cơ quan cấp bộ như Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng…đã được cấp đất và đã hoặc đang chuẩn bị xây dựng, chuẩn bị hoàn thành. Những công trình trụ sở lớn, giá trị hàng trăm tỷ đồng ở nội thành mà chỉ để dùng trong vòng 20 năm ư? Chẳng lẽ một đơn vị nào đó sau khi giải quyết toàn bộ những thủ tục ở khu vực nội thành hiện nay sau đó lại phải đi hàng chục cây số lên Ba Vì để xin một con dấu? Có phải là vô cùng lãng phí không? Thứ hai là vấn đề quy hoạch. Quy hoạch phải giải quyết các vấn đề lớn của đô thị, trước khi đi vào chi tiết. Ai sẽ giải quyết các vấn đề, trong đó có việc đền bù của các dự án cũ đã được đưa ra và phê duyệt vội vã khoảng năm 2007- 2008 vừa rồi mà tôi vừa nói? Thứ ba, chúng ta thấy rằng đặt Trung tâm Hành chính quốc gia ở Ba Vì là không còn “tựa núi, nhìn sông” nữa mà là “chui vào núi rời xa sông”, về phong thủy rất kém. Chân núi Ba Vì không phải là địa điểm tụ khí. Sau 1000 năm định đô, con cháu cần khẳng định lại giá trị của vị trí trung tâm mà tiền nhân đã định vị và tiếp tục bồi đắp, tiếp nối giá trị ấy bằng một việc trong tầm tay là mở rộng thêm vị trí trung tâm ấy sang khu vực Tây Hồ Tây, giống như tôn lên cái Nhân - Lõi - Linh hồn 1000 năm để lại, thì mới là phải đạo, chưa nói đến các thực tế khác về quy hoạch, kinh tế. Theo đồ án quy hoạch vừa đưa ra trưng cầu dân ý thì Trung tâm Hành chính quốc gia sẽ đặt tại chân núi Ba Vì (Tản Viên Sơn). Chúng ta đều biết, xứ Đoài là vùng đất phía Bắc của tỉnh Hà Tây cũ, là nơi có địa thế kẹp giữa hai dãy núi Tam Đảo và Tản Viên. Bị bao vây bởi sông Hồng và hai dãy núi nên đây là vùng đất tương đối biệt lập và khép kín, ít có giao lưu. Do tính chất địa lý, lịch sử đó nên nơi đây đã hình thành nên những làng mạc khép kín, do đó lưu giữ được tương đối toàn vẹn những nét văn hóa Việt cổ (Việt - Mường) và bảo tồn cảnh quan văn hóa xứ Đoài như đền chùa đình miếu và các nhà ở dân gian. Trong lịch sử, xứ Đoài chính là nơi nhà Lý nhốt giữ tù binh; là nơi ẩn cư của các kẻ sĩ lánh đời, chán đời, bất đắc chí, bất lực và quay lưng với thời cuộc. Xứ Đoài chưa bao giờ là vùng kinh tế năng động. Nơi này chỉ thích hợp để bảo tồn văn hóa, làm du lịch văn hóa và du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Nếu đưa Trung tâm Hành chính Quốc gia về chân núi Ba Vì, tức là đặt Chính phủ và các cơ quan của chính phủ vào trạng thái nghỉ ngơi, không còn năng động, không còn linh hoạt… thì rất nguy hiểm(!). TS. Nguyễn Xuân Diện1 like
-
Quán vắng!
tuấn dương liked a post in a topic by Thiên Sứ
Einstein và bức thư 5.000 năm Tintuc Online 12/05/2010 11:14 (GMT +7) Trong “Phi thuyền thời gian” được chôn tại công viên Flushing Meadows Corona của New York , (Mỹ) năm 1938, bức thư gửi cho hậu thế 5.000 năm sau của Albert Einstein chỉ chiếm một góc cực kỳ khiêm tốn. “Phi thuyền thời gian” 1938 Phần không gian còn lại chứa những vật khác nhau như vải, kim loại, hạt giống và vật dụng sinh hoạt hàng ngày, gồm điện thoại, dao cạo râu chạy điện, búp bê, thậm chí còn có cả một bao thuốc lá Marlboro. Đây là một món quà đặc biệt mà Công ty Westinghouse Electric của Mỹ chuẩn bị cho Hội chợ triển lãm quốc tế New York lần thứ 2. Để phù hợp với chủ đề “Thế giới tương lai” của Hội chợ, họ quyết định chôn xuống bên dưới nhà triển lãm một “phi thuyền”, còn bên trên làm một tấm bia ghi: 5.000 năm sau mới được mở. Trong quá trình làm chiếc “phi thuyền” này, Chủ tịch Westinghouse Electric Andrew Robertson từng động viên những người công nhân trực tiếp lắp đặt: “5.000 năm sau, khi nó được mở ra, những thứ bên trong sẽ trở thành những món quà tốt nhất mà chúng ta để lại cho hậu thế”. Chiếc “phi thuyền” vượt thời gian này có hình giống như viên đạn khổng lồ được làm bằng crôm với lớp vỏ hợp kim đồng dài 2m. Ngoài những phát minh đã khiến một thế hệ đương đại tự hào và nhiều vật phẩm sinh hoạt hàng ngày, còn có một đoạn phim tài liệu, những bức thư gửi cho hậu thế của 3 nhân vật “đã có cống hiến lớn lao cho thời đại”, trong đó có Einstein. Trong thư ông viết: “Thời đại của chúng ta đầy những phát minh mang tính sáng tạo, và nó đã giúp ích rất nhiều cho cuộc sống của chúng ta. Điện năng mà chúng ta sử dụng đã giải phóng con người khỏi lao động chân tay. Chúng ta có thể vượt qua biển lớn, chúng ta có thể bay lên bầu trời, thậm chí thông qua sóng điện từ, chúng ta có thể truyền thông tin đến mọi góc của thế giới một cách nhanh chóng nhất. Tuy nhiên, việc sản xuất và phân phối hàng hóa vẫn hoàn toàn vô tổ chức, con người không thể không lo lắng cho đời sống của mình. Những con người sống ở những quốc gia khác nhau luôn tìm cách sát hại lẫn nhau. Điều này khiến những người biết nghĩ đến tương lai luôn cảm thấy bất an và lo ngại. Điều đó là vì, trái ngược hẳn với những người thực sự cống hiến cho xã hội, trình độ và phẩm chất đạo đức của đại bộ phận công chúng đều thấp hơn rất nhiều. Tôi tin rằng hậu thế của chúng ta sẽ đọc những dòng chữ trên đây với lý trí vượt trội hơn”. Mâu thuẫn giữa công nghệ và nhân văn Thời của Einstein, rất nhiều phát minh của các nhà khoa học bị dùng vào mục đích quân sự, phục vụ việc cho ra đời những thiết bị vũ khí với sức công phá lớn, thúc đẩy con người sát hại lẫn nhau. Đó chính là nguyên nhân vì sao Einstein cảm thấy bất mãn với “trình độ và phẩm chất đạo đức” của phần đông dân chúng. Trong suy nghĩ của ông, vào thời đại đó, công nghệ phát triển như vũ bão, song môi trường nhân văn lại giảm sút đi. Sau này, sự mâu thuẫn giữa công nghệ và nhân văn chưa bao giờ kết thúc. Một năm sau ngày viết bức thư trên, Einstein viết một bức thư khác gửi Tổng thống đương nhiệm Franklin Roosevelt, đề nghị triển khai sản xuất bom nguyên tử trước Đức Quốc xã. Vài năm sau, hai quả bom nguyên tử kết tinh của công nghệ mới nhất đã dội xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản, cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người vô tội. So với 72 năm trước, hiện giờ con người đã có “lý trí vượt trội” hơn, song sự lo lắng của Einstein đối với hiện thực xã hội vẫn còn nguyên. Con người vẫn tiếp tục giết chóc lẫn nhau để tranh đoạt lợi ích, và những nguy cơ trong tương lai vẫn đang tiếp diễn. Rất nhiều người đã được đọc bức thư của Einstein trước và cả sau khi nó được chôn xuống, song họ rất giống nhau ở một điểm là luôn chú ý đến sự phát triển công nghệ mà quên đi khía cạnh nhân văn, cũng giống như trong “phi thuyền thời gian”, bức thư ấy bị nằm quên trong góc nhỏ. Theo Bảo Trâm ----------------------------------------- Qua bức thư này của Einstein - một nhà khoa học đứng đầu trong hàng ngũ tri thức khoa học hiện đại - mới thấy một quá trình phát triển đến một hệ thống trí thức hoàn hảo của Lý Học Đông phương, khi cổ nhân đặt chữ "Nhân" lên đứng đầu của Ngũ đức. Nếu không có một trải nghiệm qua những lịch sử thăng trầm của con người và là sự tổng hợp của những giá trị tri thức vượt trội thì không thể có sự đề cao những giá trị nhân bản như vậy.1 like -
Trục Thăng Long: Rồng bay hay Rồng nằm thẳng? Tác giả: Trần Huy Ánh Bài đã được xuất bản: 11/05/2010 Trong triển lãm quy hoạch chung Hà Nội, trục Thăng Long luôn đông người xem. Trên báo chí cũng nhiều ý kiến. Đã có kiến trúc sư cho biết một trong những ý tưởng hình thành lấy hình mẫu đại lộ Champs Elysées, trục đường làm nổi danh Paris. Tuy vậy, có không ít nghi ngại từ nhiều phía. Từ lối đi dạo trên cánh đồng thành đại lộ trứ danh Năm 1616, trên cánh đồng ngoài tường thành Paris, hoàng hậu Marie de Médicis mở một con đường trồng cây hai bên để đi dạo. Năm 1724, đại lộ kéo dài tới vị trí Quảng trường Étoile. Năm 1763, Quảng trường Concorde ở đầu đại lộ được khánh thành. Năm 1806, Napoléon Bonaparte dựng Khải Hoàn Môn ở Étoile. Ảnh trái: Trục Champs - Elysées xuất phát từ Louvre đến Étoile dài 2 km, nối tiếp 4 km tới La Défense Ảnh phải: Ảnh chụp từ đỉnh tháp La Conncorde xuyên qua biểu tượng của Paris lịch sử (Khải Hoàn Môn) để vươn tới tương lai với biểu tượng Grand Arche - Quảng trường trung tâm La Défense Năm 1858, Haussmann tiến hành cải tạo lớn Paris, các thảm cỏ và hai hàng cây hai bên được trồng mới. Cuối đại lộ, Quảng trường Étoile cũng được quy hoạch lại, chiều dài gần 2 km. Đầu thế kỷ 20, nơi đây trưng bầy các sản phẩm công nghiệp mới: Đường tầu điện ngầm, xe hơi, rạp chiếu phim... Ảnh trái: Paris đầu thế kỷ 17: Nhà thờ Đức Bà vươn cao trên đảo, sông Sein chảy hai bên Ảnh phải: Công việc mở đường trong những năm 1852-1855: Haussmann cải tạo lớn Paris Năm 1932-1939, quy hoạch vùng Paris định ra giới hạn để kéo dài gấp đôi ra ngoại ô La Défense, nhưng chỉ thực sự phát triển mạnh vào thập kỷ 60, thời tỉnh trưởng Paul Delouvrier. Năm 1980, sơ đồ vùng Paris được xem xét lại, xuất hiện các công trình đô thị hiện đại quy mô lớn ở đoạn cuối trục đường, xuyên qua đại lộ Charlle de Gaule và Grande Armée tới La Défense. Thời mà tổng thống Miterrand dạt dào cảm xúc, muốn là "một KTS hay là ông hoàng dạo bước trên đường phố". Cuối thế kỷ 20, trục đường được đầu tư hàng trăm triệu Franc để ngầm hoá bãi đỗ xe, lát đá granit xám. Cho tới nay, nó không ngừng được chăm chút tô điểm mỗi ngày. Từ một lối di dạo trên cánh đồng trở thành đại lộ trứ danh của Kinh đô Ánh sáng - Thủ đô quốc gia giàu có, xây dựng bởi các chuyên gia quy hoạch đô thị lừng danh - Con đường đã đi qua lịch sử 4 thế kỷ như vậy. Hà Nội : Xưa và nay Đồng thời với hoạt động hiện đại hoá đô thị Paris, tại Hà Nội, các KTS quy hoạch tài hoa đến từ nước Pháp cũng tiến hành các dự án mở rộng thành phố. Các trục đường lớn được vạch ra, giao cắt với nhau tạo thành những cánh sao- quảng trường - Étoile (tiếng Pháp nghĩa là ngôi sao). Nghiên cứu đầu tiên năm 1923, sau 20 năm bản kế hoạch công phu hoàn thành (1943). Ảnh trái: Quy hoạch Hà Nội năm 1943 với các quảng trường cánh sao, góc phải chú thích vùng dự trữ đặc biệt Ảnh phải: Quảng trường Đấu xảo năm 1923, đã bị ném bom 1944, nay là vị trí Cung Hữu nghị Tuy vậy, các thủ tục chuẩn bị đất đai mới thực sự quan trọng. Chính vì vậy Bản đồ Quỹ dự trữ đất đặc biệt được công bố "Délegation Speciale". Thành phố uỷ thác cho Công ty Địa ốc tiến hành các thủ tục trưng mua đất nằm trong ranh giới Quỹ đặc biệt, lúc ấy thuộc tỉnh Hà Đông, kinh phí vay Ngân hàng Địa ốc. Diện tích rộng gấp đôi nội thành cũ (28 km2/12 km2). Có đất, đường phố xây dựng theo tiêu chuẩn chặt chẽ về thẩm mỹ, kỹ thuật, vệ sinh ngang với Châu Âu đương thời. Nhà đất được bán thu hồi vốn trả lại cho Ngân hàng Địa ốc dưới nhiều hình thức: Bán lô đất có hạ tầng, bán nhà xây sẵn, trực tiếp, trả dần, cho thuê dài hạn, ngắn hạn...Tất cả vận hành trơn chu tại một đầu mối duy nhất, trực tiếp từ toà thị chính. Các sở kiến trúc quy hoạch, địa chính, vệ sinh, thuế...bộ máy gọn nhẹ hoạt động hiệu quả. Tham nhũng, hối lộ rất ít vì công chức sợ mất việc, mất luôn tiền bảo lãnh trách nhiệm và sợ...mang tiếng, xấu hổ. Nửa đầu thế kỷ 20 đi qua phố cổ, phố cũ nhà cửa ngăn nắp, cống rãnh tươm tất, cây cối thẳng hàng cứ thế hình thành- nhà ra nhà, phố ra phố. Giờ đây khu vực là hồn cốt của Hà Nội, nó đang được khoanh vùng để được gọi là di sản, có điều mỗi ngày nó tàn tạ đi một ít mặc cho sáng kiến bảo tồn mỗi ngày một nhiều. Con đường nào làm rạng danh Thành phố Theo niềm tin tâm linh, Rồng nằm thẳng duỗi ra là Rồng ốm, có lẽ vậy nên dư luận xã hội có nhiều người lo ngại. Ở triển lãm quy hoạch mới đây, thì trục Rồng đang quẫy mạnh. Nhiều người mắt dán vào bản vẽ, mồm gọi điện thoại cho người nhà xuống, lo tiền mua đất nơi Rồng vẽ chạy qua. Có vị bực lắm vì Rồng cắt vào dự án bất động sản dở dang. Tại đây có hai chỗ rất hay. Một là vùng đất dự trữ Trung tâm hành chính Quốc gia (TTHCQG), diện tích đến cả ngàn hec -ta ở sườn Đông Ba Vì. Hai là phối cảnh trục từ sông Nhuệ đến vành đai 4 rất giống Champs Elisee: Cây xanh dày đặc, diện tích đất công cộng mấy trăm hec- ta. Hà Nội nên chăng khẩn trương trưng mua hơn 1.000 hec- ta này làm Quỹ đất dự trữ đặc biệt, ra quy chế bảo vệ tài sản công cộng - giống như "Délegation Speciale " của Hà Nội xưa. Triển lãm quy hoạch chung Hà Nội tại Vân Hồ, từ 21/4 đến 1/5/2010. Đông đảo cư dân Hà Nội đến xem, đặc biệt quan tâm đến Trục Thăng Long (Ảnh: KTS Lê Việt Sơn, chụp 24/4/2010) Các đô thị văn minh trên toàn thế giới đều làm vậy, đơn giản là chỉ có thể xây theo quy hoạch khi chủ động quỹ đất. Thủ tục này pháp điển hoá là " Kế hoạch chiếm giữ đất đai - Plan d'Occupation dis Sols- POS". Chỉ riêng hai vùng POS này là đủ lý do để ủng hộ Trục Thăng Long. Có điều Trục Thăng Long nên kết thúc tại nút giao cắt với vành đai 4. Đoạn từ vành đai 4 vượt qua hồ Đồng Mô để sang khu dự kiến TTHC, tốt nhất là cứ chấm gạch để đó cho đến 2050 hãy bàn. Khu vực hướng tuyến đi qua vành đai xanh hay hành lang xanh thì 2 nơi này, cần cấm xây dựng. Đất đai ở đây thuộc vùng "Can thiệp đất đai - Zones d'Intervention Foncière - ZIF", ưu tiên quyền trưng mua của thành phố, để tích tụ ruộng đất phục vụ mầu xanh đô thị. Đường vượt qua vành đai Xanh hay hành lang Xanh thì đặt trên cao, ở dưới vùng Xanh cần được bảo tồn- ngăn chặn cái bệnh "bám đường". Nó còn là không gian thoát nước nhanh cho lưu vực sông Nhuệ và sông Đáy- khác hẳn đường Láng Hoà Lạc đắp cao thành con đê ngăn nước, kéo dài úng ngập Hà Nội cuối năm 2008. Đường lên cao xuống thấp, uốn lượn như Rồng bay, tạo nên cái Trục Champs de Thăng Long. Ảnh trên: Trục Thăng Long, đoạn 1, khuyến nghị làm đường trên cao qua vành đai Xanh hai bờ sông Nhuệ Ảnh dưới: Hình phối cảnh mở rộng đoạn trục 350m có rất nhiều cây xanh và không gian công cộng Thành phố cần thông báo rõ phân kỳ đầu tư, cách tiếp cận đất đai theo quy hoạch sẽ giảm thiểu những đầu cơ lãng phí và giúp xã hội phát triển có trật tự...Có con đường chạy dài mang theo rắc rối mệt mỏi, có con đường dừng lại ở chỗ hợp lý, đem lại niềm vui, nâng cao đời sống cho cả cộng đồng. Đường vẽ ra bởi người người tài hoa, làm ra bởi người công tâm, vì lợi ích chung - làm cho thành phố xanh sạch, thuận hoà, ngay ngắn, thịnh vượng thì đường ấy sẽ làm rạng danh thành phố. Đoạn cuối với khu đất dự trữ TTHCQG. Khuyến nghị đoạn qua hành lang Xanh đến năm 2050 mới thi công (lúc đó TTHCQG mới nghiên cứu) và làm đường trên cao (đánh dấu vòng màu xanh) *Bài viết sử dụng tư liệu: L'urbanisme - Pierre Merlin, GS ĐHTH Paris và Trường Cầu đường Quốc gia- Chủ tịch Viện QHĐT Pháp -NXB Thế giới1993. Ảnh nguồn Hanoidata1 like
-
Trung tâm hành chính quốc gia dưới góc nhìn phong thủy Tinkinhte.com Cập nhật: 01/05/2010 12:42 Anh chị em và quí vị quan tâm thân mến. Hôm nay lang thang trên mạng gặp bài viết này trên Tinkinhte.com của Kiến trúc sư Trần Thanh Vân. Bà cũng có quan điểm gần với quan điểm của nhóm Nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt, v/v chọn Phủ Quốc Oai là Trung Tâm Hành Chính Quốc gia. Bởi vậy, tôi đưa lên đây để anh chị em và quý vị tham khảo. Kiến trúc sư Trần Thanh Vân - Ảnh: T. Nguyên. Đỉnh Ba Vì là nơi "tỏa khí" thì chân Ba Vì không thể là nơi "tụ khí". Đặt trung tâm hành chính quốc gia ở chân Ba Vì là chúng ta xây một "Ẩn Long", không còn là Thăng Long nữa. Đó là quan điểm của Kiến trúc sư Trần Thanh Vân, nguyên chuyên viên Viện Kiến trúc đô thị - nông thôn (Bộ Xây dựng), người từng có 40 năm trong nghề kiến trúc cảnh quan, chuyên nghiên cứu khoa học phong thủy. Trò chuyện với VnEconomy, bà Trần Thanh Vân nhìn nhận, phong thủy không phải là vấn đề mê tín, tâm linh, mà một khoa học thực sự, liên quan đến mối quan hệ tương tác giữa con người với thiên nhiên. Trong quy hoạch xây dựng một đô thị, một vùng dân cư, các nhà quy hoạch nên xác định các địa điểm công năng hợp với thiên nhiên, khí hậu, địa hình địa chất và thủy văn, đảm bảo cho đô thị phát triển bền vững và trường tồn. Cơ sở khoa học đó đã được vua Lý Thái Tổ chỉ ra trong chiếu dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, với mong muốn kinh đô phải ở thế tựa núi, nhìn sông, để "rồng cuộn, hổ chầu". Với Thủ đô Hà Nội xưa và nay, yếu tố phong thủy nhìn chung được thể hiện như thế nào, theo bà? Sau 1.000 năm, Thủ đô Hà Nội đã có rất nhiều thay đổi, ảnh hưởng không nhỏ tới cấu trúc phong thủy, trong đó thay đổi lớn nhất là dân số đã phát triển lên gấp rất nhiều lần thời điểm năm 1010. Đất chật người đông là một vấn nạn lớn, khiến chúng ta phải chật vật xoay xở theo kiểu khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Thay đổi tiếp theo là hệ thống đê điều dài 1.600 km đã ngăn sông Hồng đưa phù sa bồi đắp làm màu mỡ đồng bằng Bắc Bộ sau mỗi mùa nước lên, khiến đáy con sông mỗi năm một nâng cao, nên mùa mưa thì nước lũ như sắp tràn mặt đê, còn mùa khô thì dòng sông cạn kiệt, đe dọa mùa màng, đời sống dân cư hàng ngày. Thủ đô hôm nay đã mở rộng tới 3.344 km2, đó là một thuận lợi rất lớn và cũng đặt ra nhiều thử thách mà các nhà quy hoạch cần vận dụng sự hiểu biết tổng hợp để hoạch định bức tranh đô thị trong tương lai. Trong suốt 700 năm của ba triều đại Lý, Trần, Lê, dân số nhìn chung ít và kinh thành Thăng Long không có nhiều thay đổi. Hoàng thành nhỏ hẹp ở phía Nam Hồ Tây, quân lính bảo vệ kinh thành đồn trú ở phường Nhật Chiêu phía Bắc Hồ Tây, án ngữ toàn bộ sông Hồng và ngã sông Đuống. Nằm giữa hai bộ phận trên là "não thủy" hồ Tây. Nơi đó cách đỉnh Ba Vì 26 km theo đường chim bay. Nếu đỉnh Ba Vì là nơi "tỏa khí", thì vùng này là nợi "tụ khí". Hồ Tây là nơi tạo nên niềm kiêu hãnh của văn hóa Thăng Long, nơi có huyệt đạo quốc gia, nơi lui tới của anh hùng hào kiệt, nơi tập trung các phường hội thủ công buôn bán. Đặc biệt góc Tây Nam là bến Hồng Tân - khu vực chợ Bưởi ngày nay - là ngã ba "tam hợp", nơi sông Tô Lịch gặp sông Thiên Phù nối với Hồ Tây qua phường Hồ Khẩu, có thuyền buôn trong nước ngoài nước ra vào tấp nập. Từ đầu thế kỷ 19, kinh đô chuyển vào Huế, thành phố Hà Nội - đô thị hành chính phục vụ chính quyền bảo hộ - xuất hiện. Sông Tô Lịch bị thu hẹp, ngã ba "tam hợp" bị xóa, trung tâm thương mại chuyển sang phía Đông Nam thành phố. Hồ Lục Thủy, nơi thủy binh tập trận thời Lê - Trịnh trở thành hồ Hoàn Kiếm, còn hồ Tây và các phường hội quanh hồ trở thành làng xã của huyện ngoại thành Từ Liêm. Quy hoạch cũ của người Pháp có lúc vẽ hồ Tây là một "đại công viên", nhưng có lẽ vì thiếu ngân sách, ý tưởng đó mới chỉ dừng lại trên bản vẽ. Đề xuất về địa điểm xây dựng trung tâm hành chính quốc gia gần chân núi Ba Vì đang nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Bà nghĩ sao về đề xuất này? Đến nay, qua 4 lần báo cáo, dễ nhận thấy trong đồ án quy hoạch Hà Nội có một đô thị lõi và 5 đô thị vệ tinh. Tuy nhiên, điều mà nhiều nhà khoa học quan tâm là trong đồ án quy hoạch này, khu vực tạm gọi là "hoàng thành" nằm ở đâu? Ai cũng biết rằng, ngày xưa, hoàng thành là nơi vua ở, là bộ mặt của đất nước. Ngày nay không có vua, nhưng vẫn có những người cầm đầu đất nước. Ta gọi đó là trung tâm chính trị hay trung tâm hành chính quốc gia đều được. Chính vì vậy, nó phải là nơi thể hiện bộ mặt của Thủ đô, nơi linh thiêng, ổn định, trường tồn. Để đảm bảo vị thế của dân tộc với bên ngoài, lòng tin của nhân dân và biểu tượng trường tồn của đất nước, thủ đô của quốc gia nào cũng cần phải có "hoàng thành" xứng đáng. Tôi xin nhắc lại, theo phong thủy, đỉnh Ba Vì là nơi tỏa khí thì chân Ba Vì không thể là nơi tụ khí. Đó là "góc chết" của vòng tròn vận khí, đặt trung tâm hành chính quốc gia ở chân Ba Vì là ta xây một "Ẩn Long", không còn là một Thăng Long nữa. Vậy theo bà, nếu nhìn bằng "con mắt" phong thủy thì trung tâm hành chính quốc gia nên đặt ở đâu? Theo một số chuyên gia về phong thủy - kiến trúc, việc chọn đất xây dựng "hoàng thành" nên xem xét một trong hai khả năng sau. Khả năng thứ nhất là chọn nơi tụ khí linh thiêng và nơi địa tầng ổn định. Nơi tụ khí linh thiêng nhất là Tây Hồ Tây. Đó là nơi duy nhất còn lại của "não thủy". Đáng tiếc là khu vực Tây Hồ Tây, thuộc phường Xuân La, đã được Hà Nội duyệt xây khu đô thị, trung tâm thương mại, tài chính, khách sạn, biệt thự do Hàn Quốc đầu tư trên diện tích 210 ha. Khả năng thứ hai là chọn nơi ổn định, địa tầng không bị sụt lún, đảm bảo sự trường tồn. Đó có thể là vùng huyện Quốc Oai, bên bờ sông Đáy. (Theo Vneconomy)1 like
-
“Sự bất hiếu ngọt ngào” Có một sự thật là: tình thương yêu và hy sinh vô bờ của người mẹ cho những đứa con từ khi có loài người đến nay chẳng hề thay đổi, nhưng lòng hiếu thảo của những đứa con đối với mẹ mình càng ngày càng trở thành một nguy cơ trầm trọng. Hai bộ phim hành động Mỹ nổi tiếng mà tôi xem đi xem lại nhiều lần là Godfather và American Gangster. Và trong cả hai bộ phim đầy cảnh bắn giết này có một câu chuyện luôn luôn làm tôi thực sự xúc động. Đó là tình yêu của hai ông trùm Mafia Mỹ đối với người mẹ của mình. Lòng hiếu thảo là một chiếc thước đo đạo đức có giá trị nhất. Đó cũng là phần nhân tính cuối cùng của con người mà nếu đánh mất thì con người không còn gì để nói nữa. Có lẽ vì ý nghĩa ấy mà những nhà làm phim Hollywood đã cố níu giữ lại cho xã hội một niềm tin cuối cùng về nhân tính con người. Bởi phần nhân tính này với nhiều yếu tố là phần nhân tính khó bị suy đồi nhất. Lòng hiếu thảo là một chiếc thước đo đạo đức có giá trị nhất. Ảnh: vns.hnue.edu Những năm gần đây, chúng ta phải đau đớn chứng kiến những chuyện bất hiếu. Và có những chuyện bất hiếu đã trở thành những tội ác man rợ. Đó là những câu chuyện bất hiếu đã được các phương tiện truyền thông đại chúng đưa tin và lên tiếng cảnh báo. Nhưng còn có một phía khác của sự bất hiếu mà chúng ta chưa lên tiếng hoặc chưa ý thức rõ về nó mà có người gọi nó bằng một cái tên "Sự bất hiếu ngọt ngào". "Sự bất hiếu ngọt ngào" là chỉ những đứa con có đủ điều kiện vật chất để nuôi những người mẹ. Nhưng những đứa con đó không cho mẹ mình được tham gia vào những sinh hoạt tinh thần của gia đình. Sự thật là có những bà mẹ chỉ sống giữa những đứa con như một thực thể sống tự nhiên chứ không phải là một trung tâm của tình cảm. Với lý do công việc và với muôn vàn lý do khác, những đứa con đã để mẹ mình sống cô độc ở một làng quê gần, xa nào đó hoặc ngay trong chính thành phố mà họ đang sinh sống. Thay cho sự hiện diện của họ trước mẹ mình trong những ngày nghỉ là sự hiện diện của một gói quà và những đồng tiền. Thay cho những lời tâm sự của những đứa con với mẹ mình trong những buổi tối khó ngủ của người già là những người giúp việc được trả lương cao. Với đức hạnh của sự hy sinh vô bờ của mình, những người mẹ lại một lần nữa đã gánh chịu một cuộc sống cô đơn như vậy cho đến khi chết. Một thời gian chúng ta có nói đến việc những đứa con gửi cha mẹ vào nhà dưỡng lão trong các nước phương Tây hoặc châu Âu. Và có không ít người quan niệm đó là sự trốn tránh trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ khi cha mẹ về già. Nhưng sau một thời gian quan sát và có nghiên cứu thực tế ở các nước đó, tôi thấy đó là cách những đứa con tìm cho cha mẹ họ một không gian thích hợp và có ý nghĩa nhất với cha mẹ khi ở tuổi già và đó cũng là một trong những văn hoá sống của các nước đó. Nhất là khi cha mẹ họ có những vấn đề của tuổi tác, sức khoẻ và tâm lý. Nhưng hầu như hàng ngày, họ gọi điện trò chuyện với cha mẹ và hàng tuần, họ vẫn đến thăm cha mẹ trong nhà dưỡng lão. Họ ở lại với cha mẹ có khi cả ngày để trò chuyện và vui chơi cùng cha mẹ. Có không ít người mẹ đã bỏ về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ của mình. Ảnh: namlo.conggiao.net Có những người mẹ trong những năm cuối đời chỉ mơ một giấc mơ giản dị nhưng thật đau đớn và thương cảm là có một cái Tết được ăn Tết với con cháu mình. "Con bận lắm. Nhiều khách khứa đến làm việc lắm. Mà nhà cửa bỏ đấy trộm nó vào nó khuân hết. Tết con không về được. Bà cần gì thì cứ bảo. Con sắm sửa đầy đủ cho bà". Đấy là những ngôn từ càng ngày càng trở lên quen thuộc của những đứa con nói với mẹ mình trong một ngày cuối năm về thăm mẹ vội vã. Những lý do trên chỉ là sự bao biện cho thói ích kỷ và sự hoang hoá tình thương yêu của những đứa con đối với mẹ mình. Còn vị khách nào quan trọng hơn mẹ mình nữa? Còn của cải nào quí hơn mẹ mình nữa? Và đối với những bà mẹ, tài sản duy nhất có ý nghĩa là những đứa con. Nhưng những đứa con đó không bao giờ hiểu được người mẹ của chúng không cần bất cứ quyền chức hay tiền bạc chúng đang có mà chỉ cần chúng ngồi xuống bên bà như thuở nhỏ đầy yếu đuối, sợ hãi và tin cậy trong sự che chở của bà hoặc thấy chúng lớn lên làm một người tốt. Nhưng chúng đã xa rời bà mà bà không có cách nào kéo chúng gần lại. Không phải chúng xa rời xa bà bởi không gian và thời gian do điều kiện sống và công việc mà chúng đang xa rời xa sự thiêng liêng của tình mẫu tử. Bà đã và đang mất chúng. Tôi đã chứng kiến một bà mẹ gần 90 tuổi mắt đã mờ lần mò làm một con gà cúng đêm giao thừa trong khi những đứa con của bà đang quây quần vui vẻ đón giao thừa với gia đình riêng của họ ở thành phố chỉ cách nơi bà ở không quá 30 km. Không có bất cứ lý do gì có thể biện minh cho những đứa con khi bỏ quên mẹ mình trong những ngày đặc biệt và quan trọng như thế. "Sự bất hiếu ngọt ngào" còn để chỉ những đứa con bỏ quên những người mẹ trong chính ngôi nhà của họ. Nhưng những người mẹ đó không bị bỏ đói mà ngược lại được "nuôi giấu" trong một đời sống vật chất đầy đủ. Trong không ít những ngôi nhà to, đẹp và đầy đủ tiện nghi, những đứa con đã "giấu" mẹ mình mà nhiều lúc chúng ta không làm sao có thể phát hiện ra là trong ngôi nhà đó có một bà mẹ. Có những người thi thoảng lại đến thăm bạn mình trong suốt mấy năm trời nhưng không bao giờ được gặp bà mẹ của anh ta. Anh ta đã "giấu" mẹ trong một căn phòng trên tầng 3, tầng 4 gì đó của ngôi nhà. Anh ta dậy sớm đi làm vội vã nhiều lúc không còn kịp leo lên tầng chào mẹ. Trưa thì đương nhiên anh ta không về nhà. Tối anh ta về muộn. Vợ anh ta hoặc người giúp việc đã cho bà mẹ ăn cơm trước với lý do để cụ đi nghỉ sớm kẻo mệt. Anh ta trở về nhà ăn tối cùng vợ con và chuyện trò rồi điện thoại và cuối cùng lăn ra ngủ. Có không ít ngày anh ta hoàn toàn quên mẹ mình đang sống trong cùng ngôi nhà và âm thầm mong nhìn thấy con mình và trò chuyện mấy câu với con. Càng ngày chúng ta càng được chứng kiến những đứa con khi có khách đến chơi thì khoe hết đồ này vật nọ đắt tiền, thậm trí khoe một con chim cảnh quí hàng ngàn đô la với một giọng nói thật "say đắm" mà chẳng thấy họ khoe một người mẹ vừa ở quê ra chơi hay đang ở đâu đó trong ngôi nhà to, rộng của họ. Có những người không bao giờ để mẹ ngồi ăn cơm cùng khi vợ chồng anh ta có khách. Có lẽ sự xuất hiện của người mẹ đã già nua không còn phù hợp với những thù tạc, những vui buồn của anh ta nữa chăng. Nhưng anh ta đâu biết rằng, có những đêm khuya bà mẹ không thể ngủ và đầy lo lắng khi nghe tiếng ho của anh ta hay khi vợ chồng anh ta to tiếng. Bà mẹ sống giữa con cháu mà như sống trong một thế giới xa lạ. Vì thế, có không ít người mẹ đã bỏ về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ của mình. Bởi cho dù ở đó bà không được sống với những đứa con của mình thì bà cũng được sống với những gì vốn rất thân thương với bà như con chó, con mèo, cái cây, cái cối. Và thay vào sự chia sẻ, an ủi của những đứa con là sự chia sẻ và an ủi của những thứ kia kể cả những thứ vô tri vô giác. Và thực sự điều này làm cho chúng ta vô cùng xấu hổ và đau đớn. Đức Phật dạy: Tội lớn nhất của đời người là bất hiếu. Có những kẻ đánh đập, nhiếc mọc mẹ mình, có những kẻ bỏ đói, bỏ rét mẹ mình, có những kẻ xưng "bà" xưng "tôi" với mẹ mình như với một người qua đường, qua chợ... Tất cả những kẻ đó đều là kẻ có tội. Và những kẻ vẫn cho mẹ mình ăn ngon, mặc đẹp nhưng bỏ quên mẹ mình trong thế giới tình cảm của họ thì họ cũng mang tôi như những kẻ nói trên. Tác giả: Nguyễn Quang Thiều Bài đã được xuất bản.: 08/03/2010 06:10 GMT+7 nguồn tuanvietnamnet1 like
-
ĐẶT TÊN CHO CON GÁI SINH NĂM SỬU
Guest liked a post in a topic by trung_hieu77
Chào Bác Phúc Anh và chào mọi người trong diễn đàn! Xin chân thành cảm ơn ban quản trị mạng, Xin chào Bác Phuc Anh nhé. Vợ chồng em đang băn khoăn chưa biết đặt tên cho em bé như thế nào cho tốt cả. Vợ chồng em mong bác Phúc Anh tư vấn cho chúng em đặt tên cho bé gái đầu lòng. Dự kiến sinh vào ngày 26/01/2010 (Dương Lịch) Tức ngày 12/12/2009 (Âm lịch) Họ và tên Bố: Trần Trung Hiếu (1976 âm lich) Họ và tên Mẹ: Huỳnh Thị Tú Duyên (1984 âm lịch) Vợ chồng em dự định đặt tên cho bé là: 1. Trần thiên Trang 2. Trần xuân Trang 3. Trần phương Trang. 4. Trần Vân Trang. 5. Trần Tú Trang. 6. Trần thiên Tú. 7. Trần tú Phương. 8. Trần thảo Chi. Rất mong bác Phúc Anh giúp đỡ cho vợ chồng em nhé. Cảm ơn bác rất nhiều. Chúc bác luôn mạnh khỏe và vui vẻ. Trung Hiếu trung_hieu77@yahoo.com.1 like