-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 02/05/2010 in all areas
-
PHONG THỦY SÔNG HỒNG VỚI THĂNG LONG - HÀ NỘI . LO QUÁ . Trích từ http://vn.360plus.yahoo.com/dienbatn “Chính phủ vẫn quyết tâm làm trục Thăng Long…” (Dân trí) - Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Đình Toàn đã cho biết như vậy tại buổi họp báo chiều 29/4 công bố kết quả về các phiếu thăm dò về "Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050” Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, sau 8 ngày tổ chức triển lãm lấy ý kiến nhân dân về Quy hoạch chung tại Trung tâm triển lãm Vân Hồ (Hà Nội) (từ 21 - 28/4), Ban tổ chức đã đón hơn 16.000 lượt khách đến tham quan, thu về khoảng 3.000 trên tổng số 6.700 phiếu góp ý được phát ra. Trong đó, bình quân tỷ lệ các ý kiến đồng ý với đồ án là 84,5%. Phiếu thăm dò ý kiến tập trung vào 15 vấn đề lớn: định hướng phát triển không gian; các đô thị về tinh, thị trấn, thị tứ; quy hoạch hạ tầng xã hội; giao thông; hạ tầng kỹ thuật; bảo vệ môi trường; bảo tồn di sản; nông thôn mới; trung tâm hành chính quốc gia; trục Thăng Long kết nối khu vực Hồ Tây với núi Ba Vì; liên kết vùng; đô thị sông Hồng; quản lý, phát triển đô thị; hành lang xanh; vành đai xanh. Vấn đề quy hoạch hạ tầng xã hội thu được sự đồng thuận cao nhất, tiếp đến là hành lang xanh và vành đai xanh. Hai vấn đề có tỷ lệ đồng thuận thấp nhất là vị trí Trung tâm hành chính Quốc gia (69,4%) và trục Thăng Long kết nối với khu vực Hồ Tây với núi Ba Vì (76,5%). Vị trí Trung tâm hành chính Quốc gia và trục Thăng Long cũng là hai vấn đề đã được dư luận đặc biệt quan tâm trong thời gian qua. Trong đó, có không ít ý kiến từ phía chuyên gia chưa thực sự nhất trí với đồ án đưa ra. Về vấn đề này, tại buổi họp báo, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Đình Toàn khẳng định: Có những ý kiến không tiếp thu được nếu không mang lại lợi ích cho nhân dân thủ đô. Chính phủ vẫn quyết tâm làm trục Thăng Long. Để không gây khó khăn về mặt khoảng cách giữa những nơi, thì phải phát triển giao thông. Hiện có hai phương án về trục đường này: trục cong hoặc trục thẳng. Nếu làm trục thẳng, đoạn đường sẽ ngắn hơn nhưng sẽ đi qua nhiều làng xóm có người dân sinh sống hơn. Hiện tư vấn đang nghiêng về phương án này. Còn về vị trí trung tâm hành chính quốc gia, ông Toàn cho rằng, hiện trên thế giới có nơi phân bổ tập trung song cũng có nơi lại không. “Nếu chúng ta dự kiến xây dựng trung tâm hành chính quốc gia ở đấy thì chính quyền thành phố sẽ cấp đất. Vấn đề ở đây là thời gian, dự kiến tới năm 2050, nghĩa là tới 40 năm nữa” - thứ trưởng nói. Ông Toàn cũng cho biết, đây mới là quy hoạch chung chứ chưa phải quy hoạch chi tiết nên không thể cụ thể chi tiết đến từng địa bàn. Nếu đồ án được thông qua, quy hoạch chi tiết sẽ tiếp tục được triển khai để cụ thể hoá quy hoạch chung và sẽ công bố rộng rãi. Theo kế hoạch, trong tháng 5, Bộ Xây dựng sẽ báo cáo trước Quốc hội và Thủ tướng sẽ xem xét phê duyệt trong tháng 8. Lan Hương Nguồn : http://dantri.com.vn/c20/s20-393344/chinh-phu-van-quyet-tam-lam-truc-thang-long.htm LỜI BÀN CỦA DIENBATN : Trên tất cả các nguồn thông tin và với một trình độ nhận thức về kiến thức Phong thủy tối thiểu , ai cũng phải nhận ra đây là một việc làm hết sức nguy hiểm , một cách trấn yểm tàn độc đối với Linh Khí của Thăng Long - Hà Nội . Thật là đáng lo ngại quá . Hy vọng những dòng viết này có cơ duyên được những nhà làm quy hoạch Thăng Long - Hà Nội để mắt tới . Một lần nữa , dienbatn lại xin nhắc lại bức thư ngỏ đã gửi và bài này sẽ giữ nguyên trong vòng 1 tuần trên trang nhất . Mong mỏi lời kêu cứu nhỏ bé này sẽ lọt đến tai những người hữu quan . THƯ NGỎ GỬI NHỮNG NHÀ QUY HOẠCH THĂNG LONG - HÀ NỘI . 1/ Đỉnh núi Ba Vì , và cụ thể tại đỉnh cao 1226m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh chính là một cột antena thu Thiên Khí giáng xuống , kết hợp với Địa Khí của Long mạch trầm hùng ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), Long mạch này sẽ kết Huyệt tại vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia . Đây chính là Đế Vương Huyệt của Việt Nam và tạo nên Thăng Long - Hà Nội . Như vậy Thăng Long chính là Đại Minh đường của Tản Viên . Nếu như trong quy hoạch định nối một con đường từ Hồ Tây lên Ao Vua , tức là bổ dọc đường dẫn Khí về Thăng Long , một mặt sẽ làm thoát Khí của Tản Viên , biến Khí Âm thành Khí Dương gọi là lột Khí , mặt khác sẽ tạo thành thế " Xạ Tiễn " trong thuật Phong thủy là thế tối độc . Việc làm đó là một việc tối độc , sẽ tiêu diệt Linh Khí của Thăng Long . Tối nguy , tối nguy . dienbatn mong rằng Linh Khí của Tản Viên Sơn Thánh sẽ không để cho bất cứ kẻ nào được phép làm điều đó . Còn một ý định nữa là người ta định làm một cái hồ tụ nước trước ao Vua, cũng sai, định sửa lại nguyên khí tự nhiên? Làm tụ khí tại chỗ, mất khí về Thăng Long! Đây cũng là một dự án làm suy giảm Linh Khí của Thăng Long . 2/ Qua loạt bài của dienbatn đã viết về HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH ( http://vn.360plus.yahoo.com/dienbatn/article?mid=184&fid=-1 ) dienbatn xin có một đề nghị là sau khi Trận đồ đã bị phá vỡ , chúng ta nên đào nối thông sông Tô Lịch với Hồ Tây để dòng Nguyên Khí lưu chuyển thuận tiện như xưa , như vậy sẽ giúp cho Kinh mạch của Thăng Long được sung mãn . 3/Nên đặt trung tâm Hành Chính Quốc Gia ở khu vực Hồ Tây để thụ hưởng Linh Khí của Đại Huyệt Đế Vương , giúp cho những người nắm quyết sách của Đất nước được luôn sáng suốt , xứng với tầm cỡ đất thiêng Thăng Long và hồn thiêng sông núi của dân tộc Việt Nam . Thủ đô của một đất nước cần phải đặt ở vị trí Huyệt Đan Điền chứ không bao giờ được đặt ở Huyệt Bách Hội cả . " Một dân tộc đã được Thiên nhiên ưu đãi về Địa linh về Sinh khí phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh Tâm sinh lý đó. Chúng ta cần phải có các chương trình đào tạo các bậc anh hùng , hào kiệt , những bậc hiền tài cho Đất nước , những Vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các bậc Thánh Đế ,Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với Non sông,Đất nước. - NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG " Xin cảm ơn sự quan tâm của các vị . Thân ái - dienbatn "Khi con người lên tiếng không khoan nhượng về sự tăm tối và độc ác là lúc họ đang chiến đấu để bảo vệ sự trong sạch và nhân văn. Và khi con người lên tiếng một cách trung thực và không khoan nhượng về những dốt nát, những tăm tối, những vô cảm, những đạo đức giả, những vô trách nhiệm, những tham lam... và không nghĩ đến những thiệt hại cho bản thân mình thì hành động đó không có gì khác là nhân cách làm người." - http://www.tuanvietnam.net/2010-04-29-chin...-mong-duoc-khoc4 likes
-
2 likes
-
Lạy ông, Con Không ở Bụi Này
Rin86 and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Lạy ông, con không ở bụi này Thứ sáu, 08/01/2010, 13:27(GMT+7) Em bé bị suy thận cấp do dùng sữa Trung Quốc VIT - Chuyện "hoa quả Trung Quốc có chất phá hủy nội tạng” chưa rõ thì, ngày 7-1, hàng loạt báo điện tử Việt Nam đưa tin: người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga khẳng định đây là thông tin bịa đặt. Bà Nga nói: “Đại sứ quán Việt Nam và các cơ quan đại diện Việt Nam tại Trung Quốc không đưa ra bất kỳ khuyến cáo nào có nội dung như vậy”. Đây là lần đầu tiên trên thế giới một tin đồn nhảm theo mạng Internet được Người Phát ngôn Bộ Ngoại Giao một nước công khai cải chính. Tin đồn trên được nhiều người truyền cho nhau qua điện thoại di động, chat (yahoo messenger) hoặc một số diễn đàn trên mạng Internet. Người dân Việt Nam vốn cũng không sẵn lòng tin vào những tin bịa đặt - nhất là các tin có liên quan đến Trung Quốc, vậy việc cải chính này chỉ là một động thái thể hiện tình hữu nghị lâu đời giữa hai dân tộc. Điểm mấu chốt trong việc xác định liệu hoa quả có xuất xứ từ Trung Quốc có hay không có chất phá hoại nội tạng là phải do cơ quan quản lý "Quy chế kiểm tra nhà nước về chất lượng vệ sinh an toàn đối với thực phẩm nhập khẩu của Việt Nam" khẳng định. Bà Nga chỉ tuyên bố “Đại sứ quán Việt Nam và các cơ quan đại diện Việt Nam tại Trung Quốc không đưa ra bất kỳ khuyến cáo nào có nội dung như vậy”, tức là việc hoa quả và trái cây có nguồn gốc xuất sứ từ Trung Quốc có hay không có chất phá hủy nội tạng là một vấn đề chưa ngã ngũ. Thường dân ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới vẫn có những trao đổi với nhau về những điều liên quan trực tiếp đến họ. Có lẽ người dân nên bình tĩnh và không nên lấy vật nuôi ra làm thí nghiệm vì chó và mèo Việt vốn không quen ăn trái cây, kể cả loại nhập khẩu. Trước đó, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, ông Tôn Quốc Tường, cũng khẳng định là không có chuyện Chính phủ Trung Quốc lên truyền hình khuyến cáo người dân không nên ăn hoa quả Trung Quốc như tin đồn. Lẽ tất nhiên, ông Đại sứ chỉ khẳng định là không có tin đồn liên quan đến việc Chính Phủ Trung Quốc lên truyền hình khuyến cáo, nhưng ông không khẳng định việc người dân Việt Nam ăn hoa quả có xuất xứ từ Trung Quốc là an toàn. Cháy nhà chưa chắc đã ra mặt chuột, việc xác định xem có hay không có chất phá hủy nội tạng trong hoa quả hay trong các thực phẩm có xuất xứ từ Trung Quốc là rất khó. Phần lớn những mặt hàng này được nhập lậu qua biên giới. Rất có thể đây chỉ là tin đồn, mà cũng có thể là đúng, và cũng có thể có những lô hàng gây độc hại cho sức khỏe người dân Việt Nam được một nhóm người ác ý cố tình tạo ra để gây nghi kị làm mất đoàn kết giữa hai quốc gia. Dù thế nào thì chính quyền hai nước cũng nên cùng nhau tìm ra giải pháp, nhất là tìm cách ổn định trật tự việc buôn bán hàng hóa qua biên giới hai nước, tránh kiểu "mèo đen, mèo trắng, miễn bắt được chuột". Trong khi các ban ngành hai quốc gia chưa tìm được giải pháp hữu hiệu để kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu thì người dân Việt Nam cũng nên thận trọng và tự quyết định lấy xem có nên ăn các loại hoa quả và thực phẩm có xuất xứ từ Trung Quốc hay không? Tin biên tập2 likes -
Mời Xem Chim Làm Tổ
Lê Bá Trung and one other liked a post in a topic by wildlavender
Mời xem chim làm tổ : Thật tuyệt vời.2 likes -
Cứ theo cách hiểu của ông Lê Văn Lan thì người dân Việt chỉ biết đến ngày giỗ tổ từ năm 1917 hay sao? Vậy trước đó đến thờ các vua Hùng ai hương khói? Khi những chứng tích đền Hùng được thừa nhận đã tồn tại từ trước thế kỷ X.Kiếm được văn bản, bia ký ghi thế nào thì nói thế đó, tôi nghĩ để làm được điều này không cần bằng giáo sư. Một bài viết ngớ ngẩn, không hề có cơ sở lý luận hợp lý, không căn cứ vào một tư liệu tối thiểu, hoặc dẫn chứng trong bài viết, tự nhiên phang một câu: Tác giả bài viết này đã từng phán trước bàn dân thiên hạ:Hai Bà Trưng là Vương chứ không phải là Vua. Thế gian này loạn cả, vì xét tất cả lịch sử nhân loại, chẳng có quốc gia nào có danh xưng chính thống là Vua cả. Toàn gọi hoàng đế, Vương, tổng thống....Vậy mà cũng có người vỗ tay đấy. Bởi vậy, việc học Sử ở Việt Nam nói riêng và vấn đề giáo dục ở Việt Nam nói chung, không trở thành vấn nạn sao được với những trí tuệ đẳng cấp giáo sư kiểu này?2 likes
-
Ý NghĨa ChỮ VẠn
HP74 liked a post in a topic by Thiên Sứ
Ý NGHĨA CHỮ VẠN hosttech.eu HỎI: Tại sao ở một số chùa, chúng tôi thấy hình chữ Vạn ngoặt sang bên phải nhưng có khi theo chiều ngược lại. Chữ vạn của Phật giáo khác với chữ “Vạn” của phát-xít đức như thế nào? ĐÁP: Căn cứ vào kinh Sơ Đại Bổn Duyên (Trường A Hàm), thì chữ Vạn là một trong 32 tướng tốt của Phật, là tướng tốt thứ 116 nằm trước ngực của Phật.Theo Đại Tất Già Ni càn Tử Sở Thuyết kinh, quyển 6 nói, đó là tương tốt thứ 80 của Thế Tôn Thích Ca, nằm trước ngực. Trong Thập Địa kinh luận, quyển 12 có nói, khi Bồ tát Thích ca chưa thành Phật, giữa ngực có tương chữ Vạn kim cương, biểu thị công đức trang nghiêm. Đó chính là tướng công đức trước ngực mà người ta thường nói. Nhưng kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, quyển 3 có nói, đều tóc của Phật cũng có 5 tướng chữ Vạn. Trong Hữu bộ Tỳ nại da tạp sự, quyển 29 nói, ở lưng của Phật cũng có tướng chữ Vạn. Chữ vạn chỉ là phù hiệu mà không phải là chữ viết. Nó biểu thị điềm lành tuyệt diệu không gì so sánh được, goi là điềm lành hải vân. Vì vậy, kinh Đại Bát Nhã, quyển 381 nói rằng: Chân tay và trước ngực của Phật đều có “Cát tường hỷ toàn” để biểu thị công đức của Phật. Đại trí độ luận, quyển thứ 89, phẩm tứ nhiếp thứ 78 có nói: Tay, chân, hông và ngực của Đức Thế Tôn có đầy đủ các tướng các tường. Nhìn chung, trong kinh văn Nguyên thủy, chữ Vạn ít được đề cập và được xem là một trong 32 tướng tốt. Tuy nhiên, trong rất nhiều kinh luận Đại thừa như vừa nêu thì chữ Vạn được đề cập rất nhiều, biểu thị cho tính chất an lành, cao quý. Phù hiệu chữ Vạn có chữ ngoặt sang bên phải, có chữ ngoặt sang bên trái. Theo Tuệ Lâm nhất Thiết kinh âm nghĩa, quyển 21 (ĐCTTĐTk, tập 54), Tuệ Uyển âm nghĩa và kinh Hoa Nghiêm thì tất cả có 17 chỗ nói với hình chữ Vạn ngoặt sang bên phải. Thời kỳ xa xưa, các giáo chủ Ấn Độ cổ, phàm là những Thánh vương chuyển luân cai trị thế giới đều có 32 tướng tốt. Phật là đấng Pháp vương cho nên cũng có 32 tướng tốt. Điều này đã được ghi trong Kim Cương Bát Nhã. Gần đây, thỉnh thoảng có sự tranh luận về chữ Vạn ngoặt sang phải hay ngoặt sang trái; đại đa số đều cho rằng ngoặt sang phải là đúng, ngoặ sang trái là sai. Nhất là trong những năm 40 của thế kỷ XX, Hít - le cũng dùng hình chữ “Van” ngoặt bên trái, Phật giáo dùng chữ Vạn ngoặt sang bên phải. Thức ra, thì ở thời Vũ Tắc Thiên đời Đường đã có chữ Vạn rồi, đọc là chữ “Nhật” tượng trưng cho mặ trời, chữ ấy ngoặt sang bên trái. Hít – lê dùng chữ “Vạn” hình góc nghiên, đó là “dấu thập ngoặc (croix brisée), viết tắt của hai chữ S (State: Quốc gia) và S (Social: Xã hội); còn Phật giáo dùng chữ hìn vuông. Ấn Độ giáo thì lấy chữ ngoặt sang bên phải biểu thị thần nam giới, ngoặt sang bên trái biểu thị thị thần nữ giới. Căn cứ vào công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Quang Đảo Đốc ở Trương Đại học Quốc Sĩ Quán (Nhật Bản) thì chữ Vạn vốn không phải là chữ viết, từ thế kỷ VIII trước tây lịch đã xuất hiện trong kinh điển Bà La Môn, với ký hiệu là Vátsa, cho tới thể kỷ thứ III trước Tây dịch lại đổi tên là Svastiko, vốn là tướng hình trôn ốc túm lông ngực của thần chủ Tỳ Thấp Noa, sau đó trở thành một trong 16 tướng tốt, rồi lại thành một trong 32 tướng tốt. Tóm lại, trong Phật giáo, chữ Vạn là phù hiệu, không phải là chữ viết. Viết xoay bên trái hay bên phải đều được (Thích Minh Châu – Minh Chi, Từ điển Phật học Việt Nam, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1991, tr.756). Do vậy, dù là ngoặt sang bên phải hay ngoặt sang bên trái, chữ Vạn đều dùng để tượng trưng cho trí tuệ và lòng từ bị vô hạn của Phật. Chữ Vạn ngoặt ra hai bên biểu thị sự vận động vô hạn của Phật lực, kéo dài vô hạn tới bốn phương, mở rộng vô cùng tận, luôn luôn không ngừng tế độ chúng sinh vô lượng ở mười phương. Cho nên, cũng chẳng nên chấp hình chữ Vạn ngoặt sang phải hay ngoặt trái. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi thì khuynh hướng chữ Vạn ngoặt sang bên phải là một quan điểm đang được phân đông quần chúng Phật tử chấp nhân. Nên chăng, các cơ quan hữu quan nhu ngành văn hóa của Giáo hội chẳng hạn, cần phải xem xét vấn đến này và nhanh chóng đi đến một sự thống nhất chung, để tạo tính thuần nhất về những biểu tượng đặc thù của Phật giáo. ------------------------------ Nhời bàn của Thiên Sứ: Chữ Vạn được tìm thấy qua những di vật khảo cổ từ gần chục ngàn năm cách ngày nay. Đó chính là biểu tượng cô đọng nhất của sự vận động trong vũ trụ.1 like -
Lời dịch giả: Tháng 10-1993, đài BBC tại Luân Đôn và PBS tại Hoa Kỳ đã cho phát hình một tài liệu đặc biệt ghi nhận nếp sống của một bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ. Cuốn phim nầy đã gây chấn động dư luận thế giới và hiện là một đề tài được bàn cãi rất nhiều trong giới khảo cổ, môi sinh và nhân chủng học. Lần đầu tiên được trình chiếu trong kỳ đại hội Tôn Giáo hoàn cầu tổ chức tại Chicago, nó đã gây một xúc động lớn cho toàn thể cử tọa. Chúng tôi ghi nhận lại đây bài thuyết trình “Elder Brother's Warning” của ký giả Alan Ereira để bạn đọc cùng suy gẫm. ____________ Từ ngàn xưa, nhân loại đã có những nền văn minh lớn. Những nền văn minh đã tạo ra các kiến trúc vĩ đại như Kim Tự Tháp, Vườn treo Babylon, Vạn Lý Trường Thành v.v... Tuy nhiên dù phát triển đến đâu chăng nữa, nền văn minh nào cũng chịu sự chi phối của luật vô thường, nay còn mai mất, cái gì cực thịnh thì cũng có lúc suy tàn. Lịch sử đã chứng minh điều đó một cách hiển nhiên vì ngày nay không mấy ai nhắc nhở gì đến những nền văn minh cổ xưa đó nữa ngoại trừ những giai thoại rời rạc, pha trộn nhiều hư cấu, khó tin. Nói đến Kim Tự Tháp, người ta thường nghĩ đến những Kim Tự Tháp Ai Cập, chứ ít ai nhắc đến những Kim Tự Tháp Nam Mỹ, mặc dù tại đây số Kim Tự Tháp còn nhiều hơn, đặc biệt hơn và bao trùm nhiều bí mật kỳ dị hơn. Có lẽ vì phần lớn Kim Tự Tháp tại Nam Mỹ bị bao phủ bởi rừng rậm, không thuận tiện cho việc nghiên cứu, khảo sát. Columbia là một quốc gia nằm ở phía Nam Mỹ Châu. Phần lớn lãnh thổ xứ nầy được bao phủ bởi những khu rừng rậm rạp chưa được khai phá, đặc biệt là các khu rừng quanh rặng Sierra thì gần như còn nguyên vẹn từ mấy ngàn năm nay, không mấy ai đặt chân đến. Đối với dân xứ này thì rặng Sierra vẫn được coi là một nơi chốn linh thiêng chứa đựng nhiều bí mật. Huyền thoại xứ này nói rằng đó là chỗ ở của những bậc Thần linh, có nhiệm vụ che chở cho nhân loại. Vì đỉnh núi lúc nào cũng bị che phủ bởi những đám mây mù, thêm vào đó khí hậu ẩm ướt quanh năm nên cây cối mọc chằng chịt, khó ai có thể vượt rừng đến đó được. Năm 1974, một phi công bay lạc vào phía Đông Bắc của rặng Sierra và phát hiện một Kim Tự Tháp rất lớn tọa lạc giữa rừng. Việc khám phá ra Kim Tự Tháp này đã thúc đẩy nhiều phái đoàn khảo cổ của nhiều quốc gia khác nhau kéo đến đây nghiên cứu. Họ kết luận rằng chiếc Kim Tự Tháp xây bằng đá rất công phu này có những đường nét kiến trúc khác hẳn những Kim Tự Tháp khác tại Nam Mỹ, do đó nó thuộc một nền văn minh riêng biệt nào khác chứ không phải nền văn minh Incas hay Maya. Quanh Kim Tự Tháp là một thành phố bỏ hoang với những hệ thống đường xá được lót bằng đá hết sức công phu. Đặc biệt hơn nữa, quanh thành phố còn có một hệ thống ống cống thoát nước rất hữu hiệu, chứng tỏ người xưa đã hiểu biết rành rọt về vấn đề vệ sinh. Theo các nhà khảo cổ thì thành phố này đã được xây cất trên bảy ngàn năm trước khi nền văn minh Incas và Maya phát triển, và có lẽ là một trong những nền văn minh cổ nhất ở Nam Mỹ. Nếu thế, lịch sử nền văn minh này như thế nào? Chủng tộc nào đã sống tại đây? Tại sao họ lại biến mất, không để lại một dấu tích gì trừ chiếc Kim Tự Tháp và hệ thống đường xá tinh vi kia? Các nhà nghiên cứu nhận xét rằng dù đã trải qua bảy tám ngàn năm mà hệ thống đường xá vẫn còn rất tốt, không bị hư hại, trong khi hệ thống xa lộ tối tân nhất tại Hoa Kỳ ngày nay nếu không được tu sửa, bảo trì thì chỉ vài chục năm đã hư hại chứ đừng nói đến trăm hay ngàn năm. Dọc theo những con đường lót bằng đá là những thửa ruộng trồng lúa và khoai, chứng tỏ nền văn minh này chú trọng nhiều về nông nghiệp. Một điểm đặc biệt là mỗi ngã tư đường lại có những tảng đá lớn, khắc ghi những ký hiệu lạ lùng trông như một tấm bản đồ. Bản đồ đường xá hay bản đồ chỉ dẫn điều gì vẫn còn là một câu hỏi lớn. Thông thường các nền văn minh cổ thường để lại nhiều dấu tích hay tài liệu ghi khắc về lịch sử, phong tục, tập quán, nhưng không hiểu sao tại đây họ không hề tìm thấy một dấu tích đặc biệt gì về nền văn minh này ngoài các tấm bản đồ kỳ lạ kia. Cách đó không xa ở gần đỉnh núi có một bộ lạc người thiểu số gọi là Kogi sống biệt lập, không giao thiệp với ai. Các nhà khảo cổ đoán rằng có lẽ giống dân Kogi là con cháu của những người đã xây dựng lên Kim Tự Tháp và thành phố với đường xá xây bằng đá này, nhưng họ vẫn không biết vì sao một nền văn minh như vậy lại suy tàn và biến mất, không để lại dấu tích nào? Vì người Kogi sống biệt lập trên đỉnh Sierra, không tiếp xúc và giao thiệp với ai nên rất ít người biết đến họ. Trong khi những bộ lạc quanh vùng thường giao dịch, trao đổi hàng hóa với những người tỉnh thành, thì người Kogi rất thận trọng và kín đáo, rút lên những vùng núi cao, không tiếp xúc với ai hoặc chỉ giới hạn việc giao thiệp với một vài bộ lạc lân cận mà thôi. Đầu năm 1993, ký giả Alan Ereira, phóng viên của đài BBC tại Columbia, nhận được tin bộ lạc Kogi từ lâu không tiếp xúc với ai, đã chấp thuận cho anh được phỏng vấn với điều kiện là anh phải đến tham dự buổi đại hội Tôn Giáo thế giới tổ chức tại Chicago vào tháng 9 năm 1993 và công bố một thông điệp của họ. Ký giả Ereira đã viết: “Đây là một biến cố đặc biệt. Tại sao bao năm nay không giao thiệp tiếp xúc với ai mà tự nhiên họ lại cho phép tôi được đến phỏng vấn, quay phim? Họ muốn gì đây? Tại sao một bộ lạc sống biệt lập trong vùng rừng sâu núi thẳm, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, lại biết có một đại hội Tôn Giáo nhóm họp tại Hoa Kỳ để gửi một thông điệp? Một điều may mắn là tuy người Kogi không liên lạc với ai, rất ít người biết đến ngôn ngữ của họ, nhưng vì họ tiếp xúc giới hạn với vài bộ lạc gần đó, nên chúng tôi đã tìm được một người dân bộ lạc này có thể nói được tiếng Kogi để làm công việc thông dịch”. Phái đoàn của ký giả Ereira gồm 6 người, 2 ký giả, 1 nhân viên y tế và 3 nhân viên thu hình đã lên đường vào đầu năm 1993. Trải qua nhiều ngày tháng trèo đèo, lội suối, họ đã đến vùng đất của người Kogi nằm sâu trên đỉnh Sierra. Đường vào đây phải vượt qua một vực thẳm rất sâu, chỉ có độc một cây cầu treo bện bằng dây thừng bắt ngang qua bờ vực. Được thông báo trước, một phái đoàn Kogi đã ra đón tiếp trước bờ vực. Khác với những bộ lạc thiểu số sống trong vùng thường ít mặc quần áo, tất cả những người Kogi đều mặc quần áo dệt bằng sợi màu trắng với tay áo thụng như cánh bướm. Một người lớn tuổi đã bắt đầu bằng một bài diễn văn ngắn: - Chúng tôi là những trưởng lão của dân Kogi, chúng tôi chấp thuận cho phép các ông được đặt chân vào đây trong ba ngày. Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đây là lần đầu tiên và có lẽ cũng là lần cuối các ông được phép đến đây. Hiển nhiên việc này đã được Hội Đồng Trưởng Lão thảo luận rất kỹ và đồng ý. Chúng tôi là con cháu của một giống dân cổ, một giống dân đã có mặt trên trái đất này từ lâu lắm rồi, trước khi tổ tiên của các ông ra đời. Vì chúng tôi có mặt từ trước, chúng tôi tự coi mình là những người anh lớn trong đại gia đình nhân loại, do đó chúng tôi là anh và các ông là em. Theo lệ thường trong gia đình, người anh thay mặt Mẹ Cha để giáo dục, dạy dỗ các em; nhưng chúng tôi biết rằng các em còn trẻ quá, còn hung hăng quá, còn cứng đầu, cứng cổ, ngang bướng quá, chưa thể học hỏi được gì, nên trải qua mấy ngàn năm nay, chúng tôi, những người anh, đã quyết định giữ thái độ im lặng. Chúng tôi hy vọng theo thời gian, các em sẽ hiểu biết hơn, trưởng thành hơn và học hỏi được qua những lỗi lầm đã tạo. Tiếc thay thời gian qua nhanh, trải qua bao thế hệ mà các em không những chẳng học hỏi được gì lại còn tiếp tục phá hoại gia tài Mẹ Cha để lại, do đó những người anh lớn bắt buộc phải lên tiếng. Trước khi đi vào chi tiết, chúng tôi cho phép các ông được quan sát nếp sống của chúng tôi, một nếp sống truyền thống đã tiếp diễn mấy ngàn năm không thay đổi. Các ông được tự do nghiên cứu, ghi nhận, quay phim, chụp hình và làm tất cả những gì cần thiết, và sau đó chúng tôi có một thông điệp muốn gởi cho thế giới bên ngoài. Ký giả Ereira ghi nhận: “Thật không thể tưởng tượng được cảm giác lạ lùng của chúng tôi khi vượt qua chiếc cầu treo lơ lửng trên miệng vực thẳm đó để bước chân vào vùng đất của người Kogi. Chúng tôi có cảm tưởng rằng thời gian đã dừng lại hoặc chúng tôi đã đi ngược thời gian để trở về một thời điểm nào đó của lịch sử. Mặc dù thời gian chỉ vỏn vẹn có ba ngày nhưng phái đoàn của chúng tôi đã làm việc không ngừng. Mọi người tùy theo khả năng chuyên môn đã tận dụng thời gian để khảo cứu, ghi nhận. Chuyên viên thu hình đã làm việc không nghỉ, ghi nhận được hơn hai mươi giờ phim ảnh tài liệu. Chuyên viên y tế đã khám hơn một trăm người và hoàn tất hồ sơ đầy đủ chi tiết về tình trạng sức khỏe của những người dân tại đây. Điều đặc biệt là tuy sống trong một tình trạng có thể tạm gọi là “thiếu tiêu chuẩn vệ sinh” theo quan niệm của những người “văn minh” như chúng ta nhưng chuyên viên y tế không hề tìm thấy một dấu hiệu nào về bệnh tật cả. Hàm răng của họ rất tốt, ngay cả triệu chứng sâu răng thường thấy tại các bộ lạc khác cũng không hề có tại đây. Tôi xin xác nhận rằng tất cả những gì chúng tôi ghi nhận đều được kiểm chứng cẩn thận để bảo đảm tính cách trung thực của nó. Vì thời gian quá ít, chúng tôi chỉ làm được những gì có thể làm và chắc chắn có nhiều thiếu sót. Tôi được biết có đến hơn hai mươi làng mạc rải rác trên đỉnh Sierra, nhưng chúng tôi chỉ được đến thăm một làng duy nhất mà thôi. Chắc hẳn người Kogi đã có một lý do riêng nào đó nên không muốn chúng tôi đi thăm những nơi khác, nhưng chúng tôi cũng không muốn tò mò tìm hiểu thêm làm gì. Các Trưởng Lão xác nhận rằng họ không giấu giếm chúng tôi điều gì nhưng cũng không muốn sự có mặt của chúng tôi gây xáo trộn cho đời sống yên lành của những người dân trong vùng. Điều đặc biệt đầu tiên mà chúng tôi thấy là những người dân Kogi thường sinh hoạt chung. Mỗi khi cần làm việc gì thì mọi người kéo nhau ra làm việc đó một cách rất tự nhiên. Chúng tôi đã chứng kiến việc toàn thể dân chúng trong làng kéo nhau đắp lại con đường bằng đá dẫn vào làng. Họ tự động phân chia ra nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm làm một phần mà không cần phải có người hướng dẫn hay chỉ huy. Vì con đường này nối liền hai làng nên dân cả hai làng kéo nhau ra làm việc một cách hết sức trật tự. Chúng tôi được biết mỗi làng có một Hội Đồng Trưởng Lão. Những người này thường cầm một chiếc ống nhỏ bằng gỗ, bên trong đựng vôi. Họ cầm một chiếc que xoay qua xoay lại để tán những mảnh đá vôi ra thành bột, thỉnh thoảng lại đưa lên miệng chấm một chút vôi vào đầu lưỡi. Một Trưởng Lão cho biết: chiếc ống vôi tượng trưng cho đời sống. Họ luôn tay xoay chiếc ống vôi đó vì đời sống luôn luôn thay đổi, tiếp diễn không ngừng. Đá vôi tượng trưng cho chất liệu của đời sống. Sở dĩ họ nghiền nát những miếng vôi rồi đưa lên miệng vì hành động đó làm cho đời sống trở nên ý nghĩa hơn. Tôi không hiểu rõ nghĩa của câu đó nên yêu cầu ông giải thích thêm. Vị Trưởng Lão đã nói: ”Đời sống là một sự mầu nhiệm. Nếu con người biết mài dũa thân và tâm để ý thức đời sống một cách trọn vẹn thì người ta sẽ ý thức được những việc khác phi thường hơn”. Ký giả Ereira kết luận: “Tôi đã quan sát việc này rất lâu mà không thể giải thích gì hơn. Theo tôi thì có lẽ đây là một phương pháp tĩnh tâm, ý thức hành động của mình, một phương pháp giống như cách thực hành thiền định của người Á Châu. Việc mài dũa tâm và thân qua hành động xoay xoay chiếc ống vôi nhỏ trên tay là một điều lạ lùng rất khó giải thích”. Chính giữa làng có một căn nhà rất lớn cất bằng lá cây. Đây là nơi hội họp của dân làng mỗi khi có việc quan trọng. Khác hẳn với những bộ lạc khác, chúng tôi không hề nhìn thấy các biểu tượng tôn giáo, tín ngưỡng gì cả. Căn nhà hoàn toàn trống trơn và rất sạch sẽ. Một vị Trưởng Lão cho biết đây là trung tâm sinh hoạt của làng, mọi việc quan trọng như cưới hỏi, chôn cất, trồng trọt, cày cấy, tiên đoán thời tiết đều được mang ra thảo luận tại đây để lấy quyết định chung. Tất cả mọi người đều có quyền phát biểu ý kiến, không có Tù Trưởng hay một ai nắm quyền hành cả. Ký giả Ereira ghi nhận: “Thật là một điều lạ lùng chưa từng thấy. Một bộ lạc không có Tù Trưởng, không có người lãnh đạo, mọi quyết định đều là quyết định chung. Phải chăng đây là một hình thức dân chủ thô sơ nhất và chân chính nhất đã có từ ngàn xưa? Theo chỗ chúng tôi dò hỏi thì không có một điều gì được làm nếu không có sự đồng ý chung, nhưng quyết định chung ở đây không có nghĩa là đa số trên thiểu số mà là quyết định của toàn thể mọi người (Concensus). Thật khó có thể tưởng tượng một bộ lạc sống biệt lập lại có một truyền thống dân chủ đặc biệt như vậy! Phải chăng nền văn minh cổ xưa ngày trước là một nền văn minh dựa trên căn bản dân chủ?” Đơn vị nhỏ nhất của xã hội Kogi là đơn vị gia đình. Trung bình một gia đình gồm Cha Mẹ và các con nhỏ. Khi trẻ em còn nhỏ chúng được nuôi dưỡng bởi Cha Mẹ, phần lớn là người Mẹ trực tiếp nuôi nấng con cái. Nếu có bệnh tật thì các em được đưa đến cho các Trưởng Lão chữa bệnh. Đôi khi các Trưởng Lão cũng bó tay và em nhỏ không thể sống nhưng Cha Mẹ chúng chấp nhận, cho rằng đó là luật thiên nhiên. Nếu sống được đến lúc trưởng thành thì người Kogi có tuổi thọ rất cao, tuổi trung bình của họ là khoảng một trăm hay hơn thế nữa. Một Trưởng Lão cho biết: “Theo quan niệm của chúng tôi thì sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Bệnh tật chỉ là hậu quả của những gì trái với thiên nhiên. Ngoài ra sự tương giao giữa con người với thiên nhiên hết sức mật thiết và khi thiên nhiên bị phá hoại, chắc chắn con người sẽ bị ảnh hưởng theo, do đó con người phải biết tìm môi trường thích hợp để sống. Chính vì sống trái với các định luật thiên nhiên mà có đủ thứ bệnh kỳ lạ xảy ra, đây là bằng chứng hiển nhiên rằng con người chịu ảnh hưởng nhiều về môi trường và cách thức mà họ sinh sống”. Khi đứa nhỏ được khoảng bảy tuổi thì chúng bắt đầu rời Cha Mẹ để sống với Ông Bà Nội, Ông Bà Ngoại ở cách đó không xa để được giáo dục thêm về cách sống tự lập. Khi được hai mươi mốt thì đứa nhỏ đi theo các bậc Trưởng Lão học hỏi và khi gần ba mươi mới bắt đầu khởi sự lập gia đình riêng. Người Kogi sống bằng cách canh tác và hái trái cây trong rừng, một lối sống hết sức thô sơ thường được gán cho các dân tộc còn man dã. Phương pháp trồng trọt của họ cũng rất giản dị. Họ dùng một cây nhọn để xắn đất, thảy vào đó vài hạt đậu rồi lấp lại. Việc trồng trọt hay gieo hạt được dành cho phái nữ vì người nữ “mát tay” hơn người nam. Một Trưởng Lão cho biết: “Chúng tôi vẫn biết có những phương pháp trồng trọt, canh tác khác có thể làm hoa mầu nảy sinh rất nhiều, nhưng có nhiều để làm gì? Gia đình nào thì cũng chỉ ăn ngày ba bữa. Có nhiều sẽ tạo nên tình trạng tham lam, tạo ra phiền toái vô ích. Thiên nhiên đã lo liệu chu toàn thì cứ theo đó mà sống. Các ông hãy nhìn kia, chim chóc không gieo hạt mà thiên nhiên có để cho chúng chết đói đâu? Các thú rừng khác cũng thế, chả loài nào thiếu ăn cả, vậy tại sao con người phải lo tàng trữ, gia tăng thu hoạch thực phẩm? Có dư làm rối loạn trật tự thiên nhiên, có nhiều hơn cái mình cần là lấy đi mất phần của người khác hay sinh vật khác, và như thế là vi phạm một định luật căn bản của thiên nhiên và truyền thống sẵn có của dân Kogi. Các ông nên biết người Kogi chỉ sống vừa đủ, hoàn toàn không có gì dư thừa và do đó tại đây không hề có trộm cướp hay các tệ nạn như các bộ lạc khác”. Một điểm rất đặc biệt là người Kogi không hề ăn thịt cá. Khác hẳn với những bộ lạc khác, họ không hề săn bắn hay có võ khí. Truyền thống của họ không hề có vấn đề giết hại bất cứ một sinh vật nào, dù lớn hay nhỏ. Đây là một chi tiết đang làm nhức đầu nhiều nhà nhân chủng học và xã hội học. Từ trước đến nay, các lý thuyết đều cho rằng những bộ lạc dã man đều sinh sống bằng săn bắn và ăn cây trái trong rừng. Việc một bộ lạc không hề có tập tục ăn thịt cá là một sự kiện độc đáo, lạ lùng hiếm có và khó giải thích. Người Kogi cho rằng giết hại sinh vật là trái với luật thiên nhiên. Có lẽ vì lý do đó trong thời gian quay phim, phái đoàn đài BBC đã thấy rất nhiều hươu, nai, thỏ rừng, chồn cáo đi qua đi lại trong làng như những gia súc mà không hề sợ hãi. Vì chỉ sống bằng rau cỏ thiên nhiên nên việc học hỏi, nghiên cứu các lá cây có dược tính là một môn học được giảng dạy rất kỹ lưỡng tại đây. Người Kogi cho biết họ có thể sống từ ngày này qua ngày khác bằng cách ngậm một vài lá cây mà thôi, có lẽ vì chỉ ăn rau trái mà họ sống lâu như vậy! Phái đoàn đã ghi nhận việc một Trưởng Lão dạy dỗ một thanh niên cách ăn uống như sau: “Khi ăn phải nhai thật từ từ, thong thả, phải ý thức từng chút một và tuyệt đối chú tâm vào việc ăn chứ không được nghĩa gì khác”. Cách ăn uống, làm chủ vị giác là bài học vỡ lòng đầu tiên trong phương pháp giáo dục của họ. Truyền thống tại đây không có trường học mà chỉ có cách dạy dỗ khẩu truyền từ Cha Mẹ, Ông Bà cho con cháu, và từ các bậc Trưởng Lão cho những thanh niên. Cách giáo dục thanh niên tại đây cũng hết sức lạ lùng, có một không hai. Khi được khoảng hai mươi tuổi, thanh niên được gửi đến học hỏi với các bậc Trưởng Lão trong những túp lều đơn sơ hay một hang đá. Tại đây họ sẽ tập ngồi yên quay mặt vào vách tường trong bảy đến chín năm liền. Họ chỉ nhai một ít lá cây, uống một chút nước và chú tâm suy gẫm về những điều được giảng dạy. Mỗi ngày vào giờ giấc nhất định, các bậc Trưởng Lão có nhiệm vụ hướng dẫn sẽ bước vào trao cho họ một đề tài chi đó để suy gẫm. Ký giả Ereira đã ghi nhận buổi giảng dạy trong một hang đá như sau: Thanh niên ngồi quay mặt vào vách, vị Trưởng Lão bước vào ngồi ở phía sau quan sát thanh niên kia một lúc rồi mới đưa chiếc ống đựng vôi cho thanh niên sử dụng. Ông nói: “Ngươi hãy xoay chiếc ống thật từ từ, thong thả, ý thức từng hành động và biết rằng mọi vật trong thiên nhiên lúc nào cũng thay đổi như chiếc ống đang xoay trong tay ngươi vậy. Ngươi phải biết rằng đời sống vốn quý báu như vôi đựng trong ống, phải biết quý trọng đời sống của mình cũng như của mọi sinh vật. Tất cả hiện diện nơi đây vì một ý nghĩa nhất định chứ không phải tình cờ”. Trong một hang đá khác, một Trưởng Lão giảng dạy về cách canh tác: “Ngươi phải biết tôn trọng từng gốc cây, từng ngọn cỏ vì cây cỏ cũng có đời sống riêng của nó. Đừng bao giờ nghĩ đến việc chặt một cây mà không nghĩ đến hậu quả mà ngươi sẽ gây ra. Cây cối cho ngươi trái ăn, cho ngươi bóng mát và che chở ngươi khi cần thiết, vậy ngươi phải biết tôn trọng cây cối. Ngươi phải biết vạn vật liên quan với nhau chặt chẽ và ngươi phải ý thức rõ rệt về sự tương quan mật thiết này. Phá hoại trật tự này là phá hoại đời sống và phá hoại đời sống chính là tự hủy đó”. Ký giả Alan Ereira kết luận: “Trong suốt chín năm ngồi quán xét sự liên hệ giữa các sinh vật với nhau, về mối liên quan giữa con người và con người, người và thú vật, người và rừng cây, người và con suối, mà họ biết tôn trọng thiên nhiên, không giết hại, không ăn thịt cá. Họ biết ý thức sự sống tràn đầy trong thiên nhiên, từ đỉnh núi cao xa to lớn cho đến những côn trùng bé nhỏ, từ những trận mưa đầu mùa đổ nước xuống các giòng suối tươi mát cho đến những hoa thơm cỏ lạ mọc trong các thung lũng. Tâm thức họ tràn đầy các hình ảnh tuyệt vời của thiên nhiên qua các điệu nhạc mà chim chóc hòa tấu, thưởng thức hương thơm của cỏ hoa, rung động với các thay đổi của thời tiết... Chắc chắn điều này phải có một kết quả lạ lùng nào đó vì khi trưởng thành, bước ra khỏi hang đá, con người đó phải là một con người ý thức rất sâu xa về mình và sự tương quan giữa mình và mọi vật. Khi đó họ trở nên một con người mà theo tập tục của xã hội Kogi là người đã trưởng thành, có thể lập gia đình, có bổn phận với xã hội hoặc tiếp tục đi theo các bậc Trưởng Lão để học hỏi thêm và trở nên một trong những người này. Danh từ “Trưởng Lão” của người Kogi không hề có nghĩa là người chỉ huy mà chỉ có nghĩa là một người khôn ngoan (wise man) mà thôi”. Muốn đi theo con đường của các bậc Trưởng Lão, một thanh niên còn phải học hỏi trong nhiều năm. Một trong những phương pháp quan trọng là việc tĩnh tâm để “giao cảm với tâm thức vũ trụ”, nhờ đó họ có thể biết được nhiều việc xảy ra trên thế giới mặc dù không rời khỏi phạm vi của đỉnh Sierra. Đa số các Trưởng Lão thường bỏ ra nhiều giờ mỗi ngày để ngồi yên lặng, giao cảm với thiên nhiên, vì đối với họ việc tĩnh tâm là mục đích chính của đời sống. Các nhu cầu như ăn uống chỉ là phụ thuộc. Người ta chỉ bỏ ra vài giờ vào rừng hái trái cây, uống nước suối là đủ rồi, nhưng người ta không thể sống mà thiếu ý thức về mình được. Một vị Trưởng Lão cho biết: “Vũ trụ là một tấm gương lớn, phản ảnh tất cả mọi việc xảy ra trong đó. Biết rung động với vũ trụ là biết quán xét tấm gương kia, do đó người ta đâu cần phải đi đâu xa mà cũng biết được những điều cần thiết. Việc ngồi chín năm trong động đá đâu phải chỉ ngồi đó nhai vài lá cây, suy nghĩ vài câu nói, mà đòi hỏi người ta phải nổ lực tìm hiểu về mình, vì biết mình chính là biết được vũ trụ và biết được vũ trụ thì tất hiểu được các định luật thiên nhiên. Đã hiểu được các định luật này một cách sâu xa thì làm sao có thể làm trái với nó được? Sở dĩ con người làm việc sai quấy vì họ không biết mình, chỉ sống hời hợt, quay cuồng và dựa trên những giá trị có tính cách giả tạo, những giá trị do tập đoàn tạo ra chứ không phải phát xuất từ những công phu suy gẫm sâu xa. Sống như thế không thể gọi là sống. Đó là sống mà như chết, thân thể tuy sống mà đầu óc đã chết từ lâu rồi!” Đối với người Kogi, việc chết cũng rất giản dị. Khi cảm thấy đã đến lúc phải ra đi, một người già thường tìm vào một hang đá sâu và ngồi yên trong đó chờ chết. Họ không làm đám tang, gia đình than khóc như những bộ lạc khác, mà họ cho rằng đó là một việc bình thường, không có gì đáng quan tâm. Một điểm hết sức đặc biệt nữa của người Kogi là họ không hề có một tín ngưỡng thờ thần linh hay vật tổ như các bộ lạc khác. Truyền thống nơi đây chú trọng trên căn bản tĩnh tâm suy gẫm nên họ đã có những quan niệm hết sức đặc biệt, khác hẳn với những nền văn minh khác tại Nam Mỹ. Theo quan niệm của người Kogi truyền từ đời này qua đời khác thì thuở ban sơ, vũ trụ hoàn toàn trống rỗng, không có mặt trời, mặt trăng, tinh tú hay bất cứ một cái gì và chính cái trống rỗng uyên nguyên đó được gọi là “Mẹ Vũ Trụ” hay Kaluna. Danh từ “Mẹ Vũ Trụ” không phải một đấng Hóa Công (Creator) mà chỉ là một tâm thức (Mind), một trạng thái tuyệt đối hoàn hảo của tâm thức. Một Trưởng Lão đã nói: “Các quan niệm như tinh tú, mặt trời, mặt trăng, đất nước gió lửa từ đâu đến? Phải chăng từ tâm thức này sinh ra? Chính tâm thức đó phát sinh ra tư tưởng và khi tư tưởng vận hành, giống như cuộn chỉ xoay từ sợi, mà tất cả mọi vật đều phát sinh. Tóm lại, tất cả đều do Tâm tạo. Có tất cả chín thế giới phát sinh từ tâm thức vũ trụ cũng như một người Mẹ sinh ra chín đứa con. Một đứa con có một đặc tính hay sắc thái tiêu biểu bằng các màu sắc khác nhau. Thế giới thứ chín chính là cái thế giới mà hiện nay chúng ta đang sống. Tất cả mọi thế giới đều tuân theo những quy luật nhất định liên quan đến việc sinh ra, lớn lên, phát triển rồi chết đi. Đó là định luật thiên nhiên không thể thay đổi. Ý thức rõ rệt các định luật này rất quan trọng vì nó là cây cầu tâm thức nối liền chúng ta và các cảnh giới khác và sau cùng với Mẹ Vũ Trụ (Kaluna). Chính vì ý thức mà người ta biết rằng trái đất này không phải tạo ra riêng cho loài người mà cho tất cả mọi sinh vật khác nữa”. Ký giả Ereira đã đặt câu hỏi về Kim Tự Tháp và thành phố bỏ hoang với Trưởng Lão người Kogi nhưng họ lắc đầu từ chối không tiết lộ gì về lịch sử của thành phố đó. Mặc dù họ tự nhận là con cháu của những người đã xây cất ra thành phố đó nhưng họ cho biết: “Tại sao các ông cứ quan tâm đến những ký hiệu lạ lùng, những tấm bản đồ bằng đá kia làm chi? Các ông sẽ không thể hiểu nổi những ẩn nghĩa đó khi tâm các ông còn xáo trộn. Các tâm hồn non dại, chưa trưởng thành, chưa biết làm chủ mình thường chỉ thích tò mò chạy theo những gì kỳ lạ, những hão huyền bên ngoài chứ không biết quay vào bên trong để hiểu chính mình. Chỉ khi biết mình thì mới biết được những điều mà Kim Tự Tháp kia được xây cất vào việc gì và những tảng đá ghi khắc các ký hiệu kia để chỉ dẫn những gì. Khi xưa tổ tiên của chúng tôi đã biết rõ những điều này nhưng khi con người trở nên tham lam, ích kỷ, giết hại, ăn thịt cá, phá hoại trật tự của thiên nhiên thì tổ tiên chúng tôi biết không thể thay đổi gì được. Họ rút vào rừng sâu núi thẳm, chờ đợi những người em sẽ rút tỉa những bài học mà họ phải học, những lỗi lầm mà họ đã gây ra, nhưng tiếc thay đã bao lâu nay hình như chẳng mấy ai học hỏi được điều gì hết!” Sau ba ngày ghi nhận, tiếp xúc và quay phim, buổi tối hôm ấy, mọi người quây quần trong căn nhà chính để nghe một Trưởng Lão tuyên bố về thông điệp mà họ muốn gửi cho thế giới. Đó là một ông lão lớn tuổi nhưng còn khỏe. Nhìn hàm răng còn nguyên vẹn, mọi người nghĩ ông lão chỉ vào khoảng sáu mươi là nhiều nhưng về sau ký giả Ereira được biết vị Trưởng Lão này đã sống trên một trăm năm rồi. Hầu như vị Trưởng Lão nào cũng đều trên một trăm tuổi trở lên cả. Chúng tôi không nhìn thấy những dấu vết già yếu, bệnh tật trên thân thể họ như vẫn thường thấy ở các bộ lạc khác. Vị Trưởng Lão lên tiếng: “Chúng tôi đã thảo luận rất kỹ về điều chúng tôi muốn nói. Chúng tôi muốn gửi một thông điệp cho các em trong gia đình nhân loại. Chúng tôi nói bằng trái tim, những lời nói chân thành nhất rằng hiện nay nhân loại sắp bước vào một thảm họa rất lớn mà từ trước đến nay chưa hề xảy ra. Thứ nhất, nhân loại cần biết rằng tất cả chúng ta đều là anh em một nhà, đều là con cùng một Mẹ. Dù chúng ta có màu da khác nhau, mặc quần áo khác nhau, có những truyền thống khác nhau, tuân theo những quan niệm khác nhau, sống trong những điều kiện khác nhau nhưng tất cả chỉ là bề ngoài mà thôi. Bên trong chúng ta đâu hề khác biệt. Khi đói chúng ta đều đói như nhau, lúc khát chúng ta đều khát như nhau, chúng ta đều có cảm giác vui buồn như nhau. Hiển nhiên phải như vậy rồi vì chúng ta đều là con cùng một Mẹ, nhưng tiếc là các em đã không chú ý đến điều này vì các em đã quên mất nguồn gốc thiêng liêng của các em rồi! Sống xa Mẹ đã lâu, các em đã quên hẳn người Mẹ sinh ra các em, săn sóc, che chở, nuôi dưỡng các em. Vì thiếu ý thức, các em đã phá nát gia tài Mẹ Cha để lại, phá hoại một cách không thương tiếc, không một mảy may thương tiếc! Các anh đây sinh trước, gần Cha Mẹ hơn nên hiểu được lòng Mẹ Cha đang tan nát, đau khổ. Mẹ đã buồn vì các con sinh sau nở muộn đã không biết thương yêu nhau mà trái lại cứ chém giết, hận thù nhau, làm hại lẫn nhau khiến Mẹ Cha khổ sở vô cùng. Không những thế, các em còn dày xéo lên thân thể Mẹ Cha mà không biết rằng các em đang giết hại chính đấng đã sinh ra các em. Các anh biết rõ việc này nên chỉ muốn khuyên các em hãy dừng lại, quan sát và ý thức việc làm hiện nay của các em vì giết hại đấng sinh thành ra mình chính là giết hại chính mình đó. Mẹ của các em là ai? Chính là trái đất này. Lòng Mẹ chính là biển cả và trái tim của Mẹ chính là những dãy núi cao có mặt khắp nơi. Này các em! đốt rừng, phá núi, đổ đồ ô uế xuống biển chính là chà đạp lên thân thể của Mẹ đó. Mẹ là nguồn sống chung và con người không thể sống mà không có Mẹ. Nếu trái đất bị hủy hoại thì chúng ta sẽ sống ở đâu? Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và cần xét đoán một cách nghiêm chỉnh. Các anh không biết trong vòng vài năm nữa thế giới sẽ biến đổi như thế nào? Chắc không lấy gì tốt đẹp lắm đâu nếu các em cứ tiếp tục phá hoại mà không biết bảo trì môi trường sinh sống. Tại sao được thừa hưởng một gia tài tốt đẹp như thế mà chúng ta lại phá hoại nó đi vậy? Tại sao các em không nghĩ rằng trải qua mấy ngàn năm nay, thế hệ trước đã giữ gìn cẩn thận, đã trân trọng từng tấc đất, từng ngọn suối, từng khóm cây, ngọn cỏ mà ngày nay các em lại phá nát không hề thương tiếc? Làm sao các em có thể tự hào rằng mình “văn minh” khi nhân loại và mọi sinh vật mỗi ngày một khổ đau nhiều hơn xưa? Làm sao có thể nói rằng nhân loại đã “tiến bộ” khi con người ngày càng gia tăng thù hận, chỉ thích gây chiến tranh khắp nơi? Các anh biết vậy nhưng phải làm sao đây? Làm sao có thể nói cho các em biết rằng vũ trụ có những định luật vô cùng lớn lao, không thể vi phạm được? Lòng các anh vô cùng đau đớn vì các anh thấy rằng trái đất đã khô kiệt rồi, mọi sự sống đang lâm nguy và thảm họa diệt vong chỉ còn trong giây lát. Do đó các anh muốn kêu gọi khẩn thiết rằng hãy thức tỉnh, ngưng ngay những việc có tính cách phá hoại đó lại, nếu không thì trễ quá mất rồi!” Ký giả Ereira ghi nhận: “Thật khó có thể tin rằng những người Kogi lại biết rõ tình trạng phá hoại môi sinh và chiến tranh đang xảy ra trên thế giới hiện nay khi họ không rời khỏi phạm vi của đỉnh Sierra. Tuy nhiên điều này có lẽ cũng không sai vì có nhiều bằng chứng rằng môi trường sinh sống của nhân loại đang bước vào một giai đoạn nguy kịch rõ rệt. Một bằng chứng hiển nhiên là lớp tuyết trên đỉnh Sierra trước kia vẫn đóng rất dày mà nay chỉ còn trơ lại một vài mảng mà thôi. Gần đỉnh núi có một hồ nước rất lớn, vốn là nơi lưu trữ nước khi tuyết tan vào mùa hè. Hồ nước này sẽ đổ xuống các sông ngòi, chảy qua những đồng bằng trước khi chảy ra biển. Hiện nay hồ nước này cũng đã gần cạn khô, mực nước tại sông ngòi quanh vùng đều xuống rất thấp và dân chúng ở vùng đồng bằng đã than là suốt mấy năm nay, nạn hạn hán đã hoành hành dữ dội, số lượng thóc lúa thu hoạch được càng ngày càng xuống rất thấp. Khắp nơi trên thế giới, người ta nói về tình trạng nhiệt độ gia tăng (Global Warming) gây ra bởi nạn đốt rừng, phá núi, xẻ đường và hậu quả của những ô nhiễm kỹ nghệ. Thêm vào đó biển cả cũng gặp nhiều khó khăn bởi việc các chất cặn bã gia tăng, giết hại các vi sinh vật, căn bản của đời sống các loài thủy tộc. Thêm vào đó, việc phát triển các kỹ thuật đánh cá tối tân bằng các tấm lưới khổng lồ như lưới vét (Drift Net) của các quốc gia tân tiến đã làm nhiều dân tộc sống ở ven biển gặp nhiều khó khăn về thực phẩm vì chẳng còn có cá để ăn”. Người ta đã tiên đoán rằng chỉ vài năm nữa thế giới sẽ lâm vào tình trạng suy kiệt dinh dưỡng. Nạn đói kém sẽ xảy ra khắp nơi, và những quốc gia làm chủ được thực phẩm sẽ là những quốc gia có quyền lực mạnh nhất. Biết rõ nguy nan này, các quốc gia tân tiến đang phát động những căn bản kinh tế, kỹ nghệ mới đặt trên vấn đề môi sinh mà nạn nhân đầu tiên sẽ là các quốc gia kém mở mang, chậm tiến. Chính những quốc gia này sẽ trở thành miếng mồi ngon để các quốc gia tân tiến kéo đến mở mang kỹ nghệ, phóng uế bừa bãi các chất cặn bã, và phá hoại môi sinh. Nhân danh khoa học kỹ thuật, các quốc gia tân tiến đang cho thuyên chuyển những nhà máy, kỹ nghệ từ xứ họ qua những quốc gia khác dưới những danh nghĩa rất tốt đẹp như hợp tác, phát triển kỹ thuật. Hiển nhiên họ đã ý thức tình trạng phá hoại môi sinh và hậu quả của nó trong quốc gia của họ và quyết định nếu kỹ nghệ là cần thiết thì hậu quả của nó phải xảy ra một nơi nào khác chứ không phải trên lãnh thổ của họ. Nói một cách khác, chính sách “thực dân mới” sẽ không xây dựng trên tình trạng chiếm đất, nhưng sẽ đặt trên căn bản phá hoại môi sinh tại những nơi khác, vì đây là một sự phá hoại có tính cách vĩnh viễn, không thể phục hồi. Những quốc gia mà môi sinh bị phá hoại sẽ không bao giờ ngóc đầu lên được khi tình trạng thực phẩm thiếu sót vì đất mầu bị phá hoại, rừng rậm bị phá hủy, biển cả và đất đai chứa đựng toàn những chất ô nhiễm. Dĩ nhiên dân chúng sẽ bị những bệnh tật kỳ dị không thể chữa, những thứ bệnh có thể gây tổn thương đến yếu tố di truyền và hoàn toàn suy kiệt nhân lực (Oligarchy) bởi các hóa chất kỹ nghệ. Thế giới ngày nay đang bước vào một khúc quanh lịch sử mà trong đó tình trạng môi sinh sẽ đóng một vai trò thiết yếu, quan trọng. Khi phái đoàn ký giả đài BBC rời rặng Sierra vào tháng hai năm 1993, những người Kogi đã ân cần nhắn nhủ: “Xin các ông hãy mang thông điệp này ra gửi cho thế giới bên ngoài để nhân loại biết rằng tình trạng đã thực sự nguy kịch lắm rồi! Nếu họ không chịu thức tỉnh thì đợi đến bao giờ nữa đây?”1 like
-
Lời cuối cùng Chắc các bạn cũng biết, mọi tội lỗi trên đời đều phải đem ra tòa xét xử. Và dù phạm bất cứ tội gì, bị tuyên án nặng tới đâu thì tòa bao giờ cũng dành cho bị cáo một đặc ân là được nói lời cuối cùng trước khi tuyên án. Minh họa DAD Ly dị không phải là một cái tội (không dám ly dị nhiều khi mới thế) nhưng khi ra tòa mà cũng được dành cho “phát súng ân huệ” là nói lời sau chót thì có lẽ ở mỗi quốc gia khác nhau, với những nền văn hóa khác nhau, vợ chồng cũng nói lời cuối cùng khác nhau. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu một số lời nói sau cùng để các bạn tham khảo.Pháp: Dân Pháp lãng mạn và nhã nhặn. Nhờ đó mà họ phát minh ra nước hoa. Vì vậy các cặp vợ chồng Pháp khi gay cấn nhất lại thường dùng những lời âu yếm nhất để ban tặng. Lời cuối cùng của một ông chồng Pháp ly dị trước tòa thường là: “Tôi rất vinh dự nếu như được cưới cô ấy lần thứ hai”. Còn lời cuối của bà vợ: “Anh ấy vẫn tuyệt vời, ngay cả khi anh ấy phản bội”. Anh: Nước Anh rất bảo thủ và cứng nhắc. Mọi lời nói dù đầu tiên, giữa chừng hay cuối đều được suy tính cẩn thận. Nhưng bản chất dân Anh là lịch lãm, chia tay kẻ thù còn ngã mũ chào, nói gì tới chia tay người thân. Vào giây phút thiêng liêng ấy, đàn ông Anh tuyên bố: “Tôi phải ra đi vì nàng quá tuyệt vời”, còn đàn bà Anh nói: “Em công nhận”. Đức: Đức là quốc gia của công nghệ. Họ nổi tiếng vì cái tiêu chuẩn nghiêm ngặt và luôn tuân thủ nó bất kể hoàn cảnh. Nếu tòa tuyên bố ly dị, họ ly dị còn nếu tòa tuyên bố phải sống tiếp tục cho hạnh phúc, họ sẽ hạnh phúc. Chả ai dám nghi ngờ điều này. Phút chia tay, đàn ông Đức nói: “Anh yêu em mãi mãi, chỉ có cái chết và tòa án mới chia lìa chúng ta”, còn đàn bà Đức nói: “Anh thân yêu, cái em làm đâu phải là cái em muốn”. Ý: Dân Ý linh hoạt và vui vẻ. Nếu như ngày cưới đối với họ là ngày hội thì ngày ly dị cũng vậy. Các chàng trai và cô gái Ý luôn tìm ra tính tích cực của sự tan vỡ chứ không kêu khóc như nơi khác. Do đó, lời cuối của một chàng trai Ý thường là: “Từ đáy lòng, tôi xin chúc mừng cho sự tự do của vợ tôi”. Còn phụ nữ nói: “Anh ơi, em giải thoát anh khỏi tội ngoại tình”. Tây Ban Nha: Dân Tây Ban Nha nóng bỏng và năng nổ. Họ cho cuộc đời là một lễ hội và phút ly dị chỉ đơn giản là phút giải lao. Ở xứ sở này, sự chia tay trở thành tầm thường đến nỗi người ta có thể báo với bạn bè: “Mình sẽ cưới vợ vào thứ tư, buổi tối, vì buổi chiều cô ấy bận ly dị anh chồng cũ”. Cũng vì suốt ngày xem đấu bò nên mọi sinh hoạt nơi đây đều lấy đấu bò làm tiêu chuẩn. Trước quan tòa ở phút tận cùng, chàng trai nói: “Trận đấu này tôi đã thua, dù tôi không phải con bò”. Còn cô gái tuyên bố: “Bò chả khi nào biết mình là bò, trước khi bị đưa lên đĩa”. Mỹ: Mỹ là quốc gia của thực dụng. Đa số ở tòa họ quan tâm đến việc chia tài sản chứ không để ý tới những lời lẽ ngậm ngùi. Do đấy, khi được mời phát biểu, đàn ông Mỹ hớn hở: “Xong rồi à? Tôi chuồn được thật sao?”. Còn đàn bà Mỹ cũng vui vẻ: “Ôi, nếu biết ly dị dễ thế này, tôi đã làm sớm hơn”. Trung Quốc: Đây là quốc gia của ẩm thực. Mọi thứ đều có thể quy về ăn. Trai gái Trung Quốc coi tình yêu như món ăn tinh thần, do đó khi ly dị, đàn ông nói: “Em ơi, anh vô cùng buồn khi từ mai anh lại ăn bánh bao”. Còn cô gái nói: “Thì xưa nay anh vẫn ăn bánh bao, chỉ có điều từ mai lên sẽ khác”. Thổ Nhĩ Kỳ: Thổ Nhĩ Kỳ rất ít khi ly dị. Các cặp vợ chồng thường nghiến răng sống cho tới hết đời. Cho nên, khi đưa nhau ra tòa rồi họ rất khó lấy vợ và chồng mới. Từ đặc điểm đó, câu cuối cùng của người chồng thường là: “Em ơi, giờ phút này anh sung sướng và đau khổ ngang nhau”. Và người vợ trả lời: “Chắc chắn thế!”. Ở Việt Nam: Có nhiều cách phát biểu lời cuối cùng. Chả có cách nào cố định cả. Có ông chồng bảo: “Tôi đâu có nói lời đầu tiên, do vậy tôi cũng không nói lời cuối cùng”. Và bà cụ đáp: “Đến lắng nghe anh ta còn chả biết nữa là”. Nếu ly dị do ông chồng hay về trễ, ông ta sẽ hét lên: “Sung sướng quá, từ đêm nay tôi không phải lo sợ khi về”. Còn bà vợ trả lời: “Anh nhầm rồi, bao đêm nay em vui mừng khi thấy anh ra đi”. Nhưng đa số đàn ông lúc ấy đều sung sướng bảo vợ: “Em thấy chưa? Tòa còn cho phép nói, mà em lại không”. Theo Lê Hoàng1 like
-
...trước hết bạn nên make sure về giờ sinh, hoặc ít nhất cũng cho biết lá số nào có giờ sinh chính xác...1 like
-
Tàu ngư chính Trung Quốc và máy bay chiến đấu Malaysia “đụng nhau” tại vùng biển Quần đảo Trường Sa của Việt Nam Thứ bảy, 01/05/2010, 21:24(GMT+7) VIT - Theo báo điện tử Ifeng, lúc 10 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4 vừa qua, tại tọa độ 7o34’ Vĩ Bắc, 113o43’ Kinh Đông, một tàu ngư chính của Trung Quốc đang tác nghiệp tại Trường Sa đã bị một máy bay quân sự của Malaysia “gây rối” trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Tàu ngư chính Trung Quốc Được biết, khi ba tàu ngư chính của Trung Quốc là 311, 301 và 302 trong quá trình tác nghiệp tại tọa độ nêu trên thì một máy bay và một chiêc tàu chiến mang số hiệu 3503 tự xung là thuộc lực lượng hải quân của Malaysia đã tiếp giáp tới gần 300m. Lực lượng hải quân này dùng điện đài yêu cầu các tàu ngư chính của Trung Quốc nhanh chóng rời khỏi khu vực biển trên. Vị trí đụng độ giữa tầu chiến Trung Quốc và máy bay chiến đâu Malaysia Trong khi đó để đáp lại yêu cầu trên, bộ chỉ huy biên đội tàu ngư chính Trung Quốc thông báo qua điện đài cho biết, họ đang tác nghiệp tại vùng đặc khu kinh tế “của” Trung Quốc đồng thời đây cũng là hoạt đồng tuần tra giám sát thường xuyên của họ tại khu vực này. Do đó yêu cầu không quân và hải quân Malaysia không được “quấy nhiễu” trong khi các tàu của Trung Quốc tác nghiệp tại đây.Sau hơn 15 phút liên tục “dồn ép” các tàu ngư chính của Trung Quốc thì các máy bay và tàu chiến Malaysia mới rời đi. Đến 12 giờ trưa cùng ngày, tàu chiến 3503 của Malaysia tiếp tục “tháp tùng” bên cạnh các tàu ngư chính của Trung Quốc trong khi tác nghiệp tại tọa độ trên. Đến tối, tàu chiến, máy bay chiến đấu và tàu ngư chính hai bên tiếp tục trao đổi qua lại qua điện đài yêu cầu mỗi bên ra khỏi phạm vi chủ quyền lãnh hải của nhau. Sau nhiều giờ, đến 3 giờ sáng hôm qua, máy bay quân sự và tàu chiến của Malaysia đã rời khỏi khu vực biển trên. Cao Phong (theo Ifeng) Tin dịch1 like
-
II - GIẢI MÃ NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG MÙNG 10 THÁNG 3 Nguyễn Vũ Tuấn Anh II - 1: Ý nghĩa ngày giỗ Tổ 10 - 3. Sử sách và truyền thuyết không hề ghi lại ngày mất của vị vua Hùng đầu tiên hoặc cuối cùng. Vậy ngày giỗ Tổ vua Hùng mùng 10 tháng 3 xuất phát từ đâu? Hàng năm vào ngày giỗ Tổ Vua Hùng, là dịp để những người Việt Nam tưởng nhớ đến cội nguồn từ thời huyền sử. Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba. Thời Hùng Vương đã trở thành huyền sử, còn sót lại chăng chỉ còn là những tục ngữ ca dao và truyền thuyết lưu truyền trong dân gian. Nhưng ngày giỗ Tổ Hùng Vương vẫn ăn sâu vào tâm linh người Lạc Việt. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, dưới ách đô hộ phong kiến Bắc phương, tiếp theo là 1000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của lịch sử, tâm linh của người Lạc Việt vẫn luôn nhớ về cội nguồn. Ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba là một trong những ngày lễ hội thiêng liêng nhất của người Lạc Việt. Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên của người Lạc Việt, lần đầu tiên được chép lại trong cuốn sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp với tựa đề là “Hồng Bàng Thị”. Người viết lời tựa trong cuốn sách này là Vũ Quỳnh, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An Hải Dương, sinh năm 1453 mất năm 1516, ông viết bài tựa vào năm 1492. Người viết lời tựa sau cho cuốn sách này vào năm 1493 là Kiều Phú người làng Lạp Hạ, huyện An Sơn, tỉnh Sơn Tây, sinh năm 1450. Hai ông đã thừa nhận những truyện chép trong Lĩnh Nam Chích Quái đã được lưu truyền trong dân gian từ lâu. Trong bài tựa của mình , ông Vũ Quỳnh đã viết: “Những truyện chép ở đây là sử ở trong truyện chăng ?”. Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên được các nhà sử học Việt Nam ghi lại trong các bộ chính sử và nằm ở phần ngoại kỷ vì sự huyền ảo của câu chuyện. Đã có rất nhiều học giả phân tích tìm hiểu nội dung kỳ bí của truyền thuyết về thuở ban đầu lập quốc của người Lạc Việt. Những số liệu trong truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên có một sự liên hệ và trùng khớp một cách kỳ lạ với hai đồ hình nổi tiếng thiêng liêng trong truyền thuyết của nền văn minh Hoa Hạ và liên quan đến ngày giỗ Tổ Hùng Vương, đó là Lạc Thư và Hà Đồ. Độ số của Lạc Thư – Hà Đồ là 100 vòng tròn, trong đó có 50 vòng tròn đen, 50 vòng tròn trắng. Từ hai đồ hình trên, tạo ra hai hình vuông gọi là Cửu Cung Lạc Thư và Cửu Cung Hà Đồ. HÀ ĐỒ CỬU CUNG LẠC THƯ CỬU CUNG Qua đồ hình trên thì bạn đọc nhận thấy rằng: # 100 quả trứng tương ứng với 100 vòng tròn . # 50 người con theo cha tương ứng với 50 vòng tròn trắng, thuộc Dương, tượng là theo Cha (Dương). # 50 người con theo mẹ tương ứng với 50 vòng tròn đen, thuộc Âm, tượng là theo Mẹ (Âm). # 15 bộ mà truyền thuyết nói tới trùng khớp với số của Ma Phương Lạc Thư có tổng ngang dọc chéo đều bằng 15 . # 18 đời vua trùng khớp với tổng số Cửu Cung Lạc Thư và Cửu Cung Hà Đồ (9 x 2 = 18). Ngày mùng 10 tháng 3 - ngày giỗ Tổ Hùng Vương? Đây lại là một con số trùng với trung cung Hà Đồ đó là 5 – 10 thuộc về ngôi Hoàng Cực. Trong đó: Tháng 3 là tháng Thìn (tượng là Rồng) – trùng khớp với biểu tượng của Lạc Long Quân (giống Rồng) chính là tháng thứ 5 nếu kể từ tháng Tí (Tức tháng Một năm trước. Trong cách tính tháng của người Việt như sau: * Tháng Một: Tý; * Tháng Chạp - tháng thứ 2: Sửu; * Tháng Giêng - tháng thứ 3: Dần; * Tháng Hai - tháng thứ 4: Mão; * Tháng Ba - tháng thứ 5: Thìn/ Rồng)(*). 18 thời Hùng Vương với nhiều vị vua, không thể giỗ chung một ngày. Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng 3 chính là một biểu tượng của nền văn hiến vĩ đại của người Lạc Việt. Như vậy, truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên và ngày giỗ Tổ Hùng Vương hoàn toàn trùng khớp một cách kỳ lạ với nội dung của Lạc Thư – Hà Đồ. Vấn đề cũng chưa phải dừng ở đây. Trong truyền thuyết về thời Lập quốc của dân tộc Việt còn một chi tiết nữa là: 50 người con theo Mẹ Ấu Cơ suy tôn người con trưởng lên làm vua. 49 người con còn lại đi cai trị khắp nơi. Đây chính là số Đại Diễn trong Kinh Dịch dùng trong Bói cỏ thi - một phương pháp bói tối cổ của Đông phương. Nếu bạn hỏi tại sao lại phải bớt đi một mà không dùng số 50? Tôi xin được trả lời rằng: Chính truyền thuyết Con Rồng - Cháu Tiên đã trả lời rất rõ ràng và người ta không thể tìm được câu trả lời trong các bản văn chữ Hán. Sự trùng khớp hợp lý đến kỳ lạ của các sản phẩm trí tuệ thuộc về văn minh Lạc Việt với một giá trị kỳ vĩ của văn hoá Đông Phương là thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái , đã cho thấy cội nguồn đích thức của những di sản văn hoá đó thuộc về văn minh Lạc Việt Như vậy, cùng với những di sản văn hoá phi vật thể khác, tổ tiên ta muốn nhắc nhở cho con cháu về một nền văn minh kỳ vĩ của một đất nước gần 5000 năm văn hiến và Lạc Thư – Hà Đồ và Kinh Dịch có nguồn gốc từ nền văn minh Lạc Việt. Như vậy, ngày giỗ Tổ Hùng Vương, không phải là ngày giỗ theo cách hiểu là ngày kỷ niệm ngày mất của một vị Vua Hùng trong 18 thời Hùng Vương(**), mà chính là ngày tưởng niệm giá trị huyền vĩ của nền văn hiến Việt, mà tổ tiên đã tôn vinh, trong thời dựng nước ở miền nam sông Dương tử. II - 2: Những vấn đề tồn nghi. Qua những tư liệu ở trên cho chúng ta thấy trong quá trình lịch sử, người Việt đã tồn tại nhiều ngày giỗ Tổ. Tại sao lại có nhiều ngày giỗ như vậy, trong khi phong tục Việt chỉ có một ngày giỗ chính? Tất nhiên, đây là điều cần giải thích. Trước khi giải thích điều này, chúng ta cần thừa nhận một thực tế khách quan, tồn tại hiển nhiên rằng: Ngày giỗ Tổ Hùng Vương từ lâu đã in sâu vào Tâm linh Việt tộc, từ ngàn xưa và ngay cả trong đêm tối của ngàn năm Bắc Thuộc. Sau này, vào thời Hưng Quốc Đinh, Lê Lý Trần....các triều đại chính thức coi là ngày Quốc Lễ. Tất nhiên, trong hơn 1000 năm Bắc thuộc đó, người Việt chỉ còn giữ lại trong tâm khảm mình sự tưởng niệm về ngày Giỗ Tổ, như là một sự tưởng niệm và tôn vinh Tổ Tiên. Và ngày đó được ghi nhân vào đầu trung tuần tháng Ba Âm lịch, từ 10, 11 và 12 như các tài liệu nói tới. Vậy cội nguồn đích thực của ngày giỗ tổ đích thực từ đâu trong ba ngày này. Điều này tôi đã chứng minh: Đó chính là ngày 10 - tháng Ba là độ số của Trung Cung Hà Đồ. Xin xem lại đồ hình Hà Đồ dưới đây: Vậy tại sao lại có ngày 11 và ngày 12? Điều này rõ ràng trái với truyền thống văn hiến Việt - chỉ có một ngày giỗ. Vậy trong ba ngày trên : Mùng 10, 11 và 12 sẽ chỉ có một ngày duy nhất đúng và hai ngày kia là sự biến tướng của ngày chính thức. Xét trong phong tục cổ Việt và còn lưu truyền ở các vùng Nam Dương tử về ngày giỗ, có một hiện tượng rất đáng chú ý sau đây: Trong việc chọn ngày giỗ, có một vtậpp quán chọn ngày sau ngày chết một ngày. Thí dụ, ngày mất là ngày mùng 8, thì giỗ vào ngày mùng 9. Ngày mất gọi là ngày Sinh (Tức ngày Dương) với ý nghĩa là trong ngày này, người thân vẫn còn sống dù chỉ một giờ. Về ý nghĩa sinh học thì người mất phải chờ sau 24 giờ, mới xác định được đã chết hẳn. Còn ngày hôm sau gọi là ngày Tử, và chọn làm ngày giỗ cho con cháu. Bởi vậy, sự xác định ngày giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng 3 là ngày chính thức, hoàn toàn chính xác. Còn các ngày sau đó là do sự thất truyền qua hàng ngàn năm Hán hóa về giá trị đích thực của ngày tôn vinh giá trị văn hiến Việt, qua sự giải thích trên, nên đã lùi lại một, hai ngày. Tất nhiên, cũng không loại trừ ông cha ta lấy các ngày 11, 12 để gìn giữ sự bí ẩn của nền văn hiến Việt: Coi Hà Đồ là nguồn gốc của những giá trị Lý Học Đông phương. Các trí giả uyên bác đời Nguyễn đã phục hồi lại những giá trị này: Lấy ngày 10 tháng 3 - độ số của Trung cung Hà Đồ - biểu tượng của nền văn hiến Việt - làm ngày tôn vinh tổ tiên. Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị. ------------------------ Chú thích * : Tháng Tí - tức tháng 11 âm lịch – trong dân gian còn gọi là tháng Một và phân biệt giữa số đếm 1 là số đầu tiên, nên gọi tháng đầu trong năm sau Tết là tháng Giêng. Tháng Một không phải là tiếng gọi tắt của tháng 11 mà là tháng đầu tiên theo thứ tự 12 con giáp. Cũng như tháng Sửu là tháng thứ 2 gọi là tháng Chạp để phân biệt với tháng 2 theo số đếm.Chúng tôi đã có bài viết liên quan đến cách gọi này của người Việt với nội dung có liên hệ với các chòm sao Thiên Cực Bắc với chu kỳ 6000 năm. Xin tham khảo đường kink sau: **: Nguyên văn cổ thư là "Thập bát thế", có thể hiểu là 18 thời đại các vua Hùng. Chứ không thể hiểu là 18 đời vua Hùng. Trong phát âm của người Việt thường gọi nôm và phổ biến là "Đời". Điều này, khiến những người có quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt, thường căn cứ vào đấy để suy luận chủ quan cho rằng: 18 đời Hùng Vương chỉ gồm 18 vị vua trị vì.Hiện tượng lẫn lộn "Đời" và "Thời" trong ngôn ngữ Việt còn thể hiện ngay trong văn viết có tính bác học và nghiên cứu cho đến gần đây. Chúng ta xem cuốn "Kinh Dịch - Vũ Trụ quan Đông phương" của giáo sư Nguyễn Hữu Lượng - Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn trước 1975 - thì cũng thấy rằng, ông nhiều lần dùng chữ "Đời" để thể hiện một triều đại. Thí dụ: "Thời nhà Minh" thì ông vẫn viết là "Đời nhà Minh".1 like
-
Vì sao thế giới coi "Made in China" là nhãn hiệu của sự khinh bỉ? - Chỉ đến khi công chúng đồn nhau về sự ghê tởm của "Made in China" - như là nhãn hiệu của sự yếu kém, hỏng hóc thì người ta mới bắt đầu hiểu ra rằng ở đâu đó đang có một vấn đề nghiêm trọng - một vũng bùn nghê tởm đã khiến họ ngã vào - vũng bùn "Made in China". Người đời vẫn nói "một lần ngã là một lần bớt dại", vậy thì nhận diện cái vũng bùn ấy thế nào? Tại sao các nhà sản xuất Trung Quốc lại có hành động quá xấu xa như vậy? Có phải là các nhà nhập khẩu Phương Tây không hay biết gì về hiện trạng "Made in China" không? Chúng ta nên bắt đầu tìm hiểu sự việc từ mối quan hệ giữa các nhà cung cấp Trung Quốc và các nhà nhập khẩu Phương Tây. Các nhà sản xuất của Trung Quốc là cứ "tiền trao cháo mới múc" - họ nhận tiền trước để sản xuất những mặt hàng mà các công ty nước ngoài yêu cầu. Đây chính là điểm mấu chốt để các nhà sản xuất của Trung Quốc có cơ hội “cắt xén”. Chỉ sau khi các lô hàng "Made in China" được đưa đến nơi thì các công ty Phương Tây mới vỡ lẽ là hàng hóa có chất lượng kém. Việc kiện các nhà máy của Trung Quốc ra tòa là không đơn giản, vì các đối tác Phương Tây sẽ vấp phải một hệ thống pháp luật Trung Hoa phức tạp một cách có tính toán. Sự thực, các nhà sản xuất Trung Quốc sẽ làm bất cứ điều gì mà họ cho là cần để bắt mối kinh doanh; nhưng ngay sau khi nhận được tiền, mối quan hệ này liên tục xuống dốc, từng tí, từng tí một. Đi cùng với sự coi thường bạn hàng là chất lượng sản phẩm sẽ giảm dần, giảm dần và mất hẳn theo thời gian một cách lặng lẽ. Các nhà sản xuất Trung Quốc thừa biết rằng từng chi tiết cũng như tổng thể cả sản phẩm của "Made in China" chỉ có thể sản xuất tại Trung Quốc, và như vậy - một khi các đối tác Phương Tây đã đặt hàng - thì sẽ không thể có sự lựa chọn nào khác là phải tiếp tục đặt hàng. Các nhà sản xuất Trung Quốc cứ việc thoải mái mà gặm nhấm chất lượng sản phẩm hàng hóa. Hậu quả là sản phẩm bị lỗi, bị hỏng hóc, không đạt chất lượng. Và cuối cùng "đã chót thì chét" các công ty Phương Tây tại Trung Quốc đành phải chịu đòn. Bản chất đầu tiên của sự việc "Made in China" là bắt nguồn từ văn hóa của dân tộc Trung Hoa ngàn đời nay. Người Trung Hoa tin rằng họ sẽ không bị trừng phạt nếu họ lừa người khác. Họ tự ý thay đổi thông số kỹ thuật sản phẩm mà không cần hỏi ý kiến đối tác - bởi họ cho rằng "thà xin lỗi còn hơn xin phép". Người Trung Hoa xem việc giảm chất lượng sản phẩm như là một yếu tố quyết định để thu lợi nhuận lớn hơn, chính vì vậy họ thường "lèm nhèm tối đa" khi thảo luận về vấn đề chất luợng. Bản chất tiếp theo của vấn đề "Made in China" là ở thể chế chính trị. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã tạo ra một vương quốc cho các loại mèo - "mèo trắng, mèo đen, miễn bắt được chuột". Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ “thưởng” cho nhà sản xuất nếu họ mang ngoại tệ về cho đất nước. Có đôla mang về sẽ chỉ có vị gọt của củ "Cà Rốt" mà không bao giờ có vị đòn roi - cho dù các công ty Trung Quốc có tiến hành công việc kinh doanh của họ một cách phi đạo đức đến mức nào. Người đời tâm niệm "gieo gió có ngày gặp bão", quả báo đã xảy ra ngay tại xứ mèo - hàng trăm ngàn trẻ em Trung Quốc bị bệnh vì sữa melamine "Made in China". Đúng là "chó dữ cắn chủ", và cho dù chính phủ Trung Quốc có ra tay trừng trị hàng chục doanh nghiệp melamine, nhưng điều này xem ra chưa đủ hiệu lực với đàn chó dữ của họ. Phải chăng xã hội Trung Quốc đã đến thời điểm mà các biện pháp cực đoan "Thiên An Môn" vẫn không thể ngăn cản được các doanh nghiệp của họ phạn tội ác? Phải chăng đã đến lúc các doanh nghiệp trên thế giới "không nên ngã để học khôn, mà nên học khôn trên cái ngu của kẻ khác?" Paul Midler là tác giả của cuốn "Poorly Made in China", một trong số 10 quyển sách về kinh tế bán chạy nhất trong năm 2010; By Paul Midler (Trần Nguyễn Hữu Tuấn dịch)1 like