• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 07/04/2010 in all areas

  1. Kỳ 1: 10 ngày nghẹt thở trên vùng biển Hoàng Sa Những ngư dân đang ngày đêm bám biển Hoàng sa để mưu sinh như những chiến binh canh giữ đất trời ngoài trùng dương của tổ quốc. Họ như những cột mốc “sống” khẳng định chủ quyền trường tồn trên vùng biển đảo Hoàng Sa suốt mấy trăm năm nay. Phóng viên VietNamNet đã có 10 ngày lênh đênh trên vùng biển Hoàng Sa cùng ngư dân với lời dặn trước khi xuất phát: Nếu bị tàu Trung Quốc rượt đuổi có thể phải huỷ máy ảnh, máy tính mang theo xuống biển và bị bắt giữ thì tự chịu trách nhiệm. Khi phóng viên vừa về đất liền thì nhận được tin chiếc tàu cùng đoàn bị tàu Trung Quốc bắt. Để giúp độc giả hiểu cuộc sống và sự quật cường của ngư dân nơi vùng biển Hoàng Sa, chúng tôi xin đăng tải loạt phóng sự “Tường trình từ vùng biển Hoàng Sa” với những hình ảnh, câu chuyện nóng hổi phóng viên vừa mang về. Trước khi đăng tải loạt bài, chúng tôi - Những người làm báo VietNamNet xin được chân thành cảm ơn bà con ngư dân hai tỉnh Quảng Nam - Quảng Ngãi. Đặc biệt là hai thuyền trưởng, kiêm chủ tàu Nguyễn Thanh Tuấn và Tiêu Viết Hồng (Bình Châu, Bình Sơn, Quảng Ngãi) đã từng đùm bọc, chở che, giúp đở, chia sẽ từng giọt nước, miếng cơm trong những ngày chúng tôi lênh đênh trên vùng biển Hoàng Sa. Kỳ I: Vượt biển ra Hoàng Sa - Qua nhiều lần hẹn, cuối cùng tôi được một chủ tàu chấp nhận cho làm ngư dân “không số” lên tàu đánh bắt xa bờ ra Hoàng Sa với điều kiện là chuẩn bị tinh thần chịu đựng gian khổ và hiểm nguy. Nếu bị tàu Trung Quốc rượt đuổi có thể phải huỷ máy ảnh, máy tính mang theo xuống biển và bị bắt giữ thì tự chịu trách nhiệm.[/b] Tôi chấp nhận tất cả và âm thầm chuẩn bị cho chuyến đi đầy hiểm nguy này! Bất chợt tôi nhớ câu thơ mà một lão ngư dân đọc cho tôi nghe khi hỏi chuyện về Hoàng Sa nơi Âm Linh Tự trong một sáng đầu xuân ở huyện đảo Lý Sơn: “Hoàng sa, trời nước mênh mông; Người đi thì có, người về thì không…” mà lòng tôi quặn thắt cho số phận những ngư dân ngày đêm mưu sinh trên vùng biển Hoàng Sa. Rất nhiều những chàng trai ra đi mãi mãi không về, thân xác họ vùi dưới lòng biển sâu bởi bão tố cuồng phong nhấn chìm… Hơn 50 giờ ra Hoàng Sa Để chuẩn bị cho chuyến đi “lành ít, dữ nhiều” này, tôi không còn thời gian để suy nghĩ cho riêng mình. Chỉ biết rằng, chuyến đi sinh tử ra Hoàng Sa ấy là niềm khao khát cháy bỏng nhiều năm tôi mơ một lần được nhìn thấy vùng biển đảo thiêng liêng của tổ quốc sau hơn 36 năm nằm trong tay của ngoại bang bây giờ sẽ như thế nào. Số phận mong manh của những ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ thu tàu trắng tay lên bờ mà tôi đã từng gặp, họ đã sống và mưu sinh nơi vùng biển này ra sao? Tàu đánh bắt của ngư dân ra đảo Hoàng Sa. Bỏ lại phía sau phố phường tấp nập, với bao trăn trở suy tư của cuộc sống đời thường, tôi khoát bộ đồ lao động trở thành ngư dân “không số” lên chiếc tàu đánh bắt xa bờ 120 CV mang số hiệu Qng-95…TS của một ngư dân Quảng Ngãi rời cảng Sa Kỳ trong một sáng giữa tháng 3 ra vùng biển Hoàng Sa trong sự can ngăn, lo lắng của bạn bè và người thân. Trên con tàu công suất 120 CV nhỏ bé, tổng cộng 12 thuyền viên. Tôi là “thuyền viên không số” thứ 13 không tính thuyền trưởng, kiêm chủ tàu. Hình như con số 13 không may mắn với người phương tây. Nhưng với bà con ngư dân thì họ chẳn hề suy nghĩ. Chuẩn bị lương thực, nước uống, dầu trước khi ra Hoàng Sa. Vị thuyền trưởng, kiêm chủ tàu đồng ý cho tôi đi theo bảo rằng: “Có thể tàu chật, nhưng tấm lòng anh em tụi tui không chật. Chỉ mong anh cố mà chịu đựng gian khổ, chia sẽ cùng anh em. Có phước cùng hưởng, có hoạ cùng chia…” Tôi hiểu lời trấn an ấy. Bởi ra khơi, thì mặt biển mênh mông ấy là không bến bờ. Không có bất cứ thước kẻ nào vạch được cái đường biên hình học duy lý lên bề mặt của đại dương biển cả. Chỉ có tình thương yêu bọc đùm, tạo thành một khối mới có thể vượt qua những bất trắc hiểm nguy nơi mặt đại dương hoang dại Chuyến ra Hoàng Sa âm thầm ấy, tôi đã mang nặng bao tấm lòng ân nghĩa của bà con ngư dân nơi vùng biển khó nghèo này giành cho tôi. Nhiều ngư dân tôi gặp nơi cảng Sa Kỳ, tất cả đều ái ngại khi biết tôi ra Hoàng Sa không phải để đi chơi hay đánh bắt mà là chuyến đi sinh tử đánh cược số phận cho rủi may để thực hiện thiên chức của người làm báo tôn trọng sự thật. Ngư dân thắp hương nguyện cầu trước khi xuống tàu ra Hoàng Sa. Nhiều ngư dân khi biết tôi quyết định ra Hoàng Sa đầy hiểm nguy thì ái ngại. Họ bảo rằng, nếu ra Hoàng Sa thì tôi là người “ngoại đạo” đầu tiên đến vùng biển đảo đầy hiểm nguy này. Tất nhiên, ai gặp tôi cũng đều tay bắt với lời cầu chúc an lành. Nhiều người trong số họ còn làm phép cầu phúc lành cho tôi một chuyến đi dữ ít lành nhiều. Thú thực, lòng tôi rưng rưng khi những tấm lòng bao dung của bà con ngư dân nơi vùng biển này giành cho tôi-Một đứa con không phải của biển! Hành trình hơn 50 giờ đồng hồ với khoản thời gian tính của bà con ngư dân là hơn 2 ngày 2 đêm ra Hoàng Sa. Trong chuyến hải hành gian nan và hiểm nguy ấy, khi tận mắt chứng kiến cảnh lão ngư dân, kiêm thuyền trưởng trên tàu đưa tôi ra Hoàng Sa đã hai lần dừng tàu trước khi ra cửa biển để lễ vật khấn vái ơn trên phù hộ độ trì cho chuyến ra khơi. Tôi mới thấy hết những hiểm nguy rập rình, mà chổ dựa của những ngư dân nghèo này không nơi bấu víu. Họ chỉ tin vào thế giới tâm linh như sức mạnh nhiệm màu giúp họ vượt qua tai ương của biển cả luôn rập rình ngoài vùng biển Hoàng Sa! Nguyện cầu trước biển của chủ tàu trước khi ra biển Hoàng Sa. Lời cầu khẩn trước biển của lão ngư dân thuyền trưởng Nguyễn T.T trong buổi sáng ra khơi đã phải 2 lần quay đầu tàu hướng về đất mẹ để cầu khẩn nghe sao mà thắt lòng. Thú thật, lòng tôi đau nhói khi những lời cầu khấn của bao số phận ngư dân gửi gắm đức tin vào một đấng linh thiêng vô hình nào đó của biển, của đất trời. Họ cầu cho những đứa con từng cưỡi sóng đạp gió ra khơi được an lành, mà lòng tôi tự hỏi có ngư dân nào trước khi ra biển không lễ lạt thành khẩn gửi lòng tin vào tâm linh?! Bài học đầu tiên khi ra Hoàng sa Vượt qua vùng biển Lý Sơn chừng 70 hải lý, biển mênh mông không một bóng tàu qua lại. Con tàu nhỏ bé như một chiếc lá trôi bập bềnh giữa biển bao la. Thế giới nhỏ bây giờ của tôi với 12 thuyền viên trên tàu là 6 m2 làm nơi ăn, ngủ, nghỉ. Diện tích khiêm tốn còn lại giành cho chứa dầu và lương thực, nước uống. Tài công N. V. A., người đã có hơn 17 năm bám vùng biển Hoàng Sa thấy tôi sốt ruột bảo rằng: Phía trước là Hoàng Sa, người ra biển không được nóng vội. Cho dù có gặp bất trắc cũng phải bình tỉnh để đối mặt. Đó là bài học đầu tiên trong đời làm báo tôi học được trong chuyến ra Hoàng Sa lần này. Mênh mông biển Hoàng Sa. Những ngày lênh đênh trên biển, tôi đã nhận ra tấm lòng bao dung rộng như biển cả của bao ngư dân tôi gặp. Họ sẵn sàng chấp nhận những hiểm nguy về phía mình để cho anh em đồng đội được bình yên. Lão thuyền trưởng Nguyễn T.T. đã từng bảo với tôi rằng: “Sống giữa biển cả nguy hiểm này, nếu không thương yêu đùm bọc nhau thì khó lòng mà vượt qua những tai ương rập rình phía trước. Tình đoàn kết, lòng yêu thương nhau là điều thiêng liêng nhất mà mỗi thuyền viên trên tàu tâm niệm…” Đêm ngày thứ 2, khi con tàu đi ngang qua đảo Phú Lâm, Tri Tôn, là những hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm giữ của Việt Nam hơn 36 năm qua. Đứng nhìn từ xa trong màn đêm đen dày đặc giữa biển, mắt tôi chỉ thấy quầng sáng và ánh đèn nhấp nháy của đèn tín hiệu mà ngực tôi như nghẹn lại và lòng đau quặn thắt. Bởi vùng đất thiêng ấy đã thấm đẫm bao máu, mồ hôi, nước mắt của cha ông mấy trăm năm trước bỏ công khai phá bây giờ đang nằm trong tay ngoại bang. Căng thẳng khi đi qua vùng biển "tử thần". Đi ngang qua những hòn đảo, một phần đất máu thịt của tổ quốc, nhưng tôi không được đặt chân đến. Con tàu cứ thế chầm chậm trôi đi trong bóng đêm dày đặc. Tất cả đèn trên tàu đều được tắt, âm thanh duy nhất chỉ là tiếng máy nổ của chiếc tàu bị sóng biển ầm ào nuốt chửng. Ngồi trong ca bin tàu cùng với tài công N.V.A, mắt tôi đăm đắm nhìn về hướng đảo Tri Tôn chỉ nhận ra ánh đèn đỏ chớp nháy liên hồi. Tài công N.V.A thở dài bảo với tôi rằng: “Mỗi lần tàu đánh cá của bà con mình ra vùng biển Hoàng Sa, khi đi qua các đảo đều phải chọn ban đêm, không dám đi ban ngày vì sợ tàu tuần tra Trung Quốc phát hiện rượt bắt. Mỗi lần đi ngang qua đây, tụi tui đau lắm. Không biết đến bao giờ mới hết cảnh khổ đi qua vùng đất của tổ quốc mà không dám ngước nhìn. Hỏi răng không đau được…” Có ra Hoàng Sa, được nghe bà con ngư dân kể lại nổi gian khó nhọc nhằng những ngày bám biển, mới thấm hết được cái giá mà ông cha ta đã trả để bảo vệ. Giờ đây, cho dù phần đất thiêng liêng ấy vẫn còn trong tay của ngoại bang. Nhưng tất cả những ngư dân ngày đêm bám nơi vùng biển này vẫn luôn tự hào về quá khứ hào hùng của cha ông mấy trăm năm trước. Tất cả họ đều mơ đến một ngày không xa, Hoàng Sa, mãnh đất thiêng ấy không còn trong tay ngoại bang. Kỳ 2: Nghẹt thở đi qua vùng biển “tử thần” Suốt chuyến hải hành khi tàu chúng tôi đi qua vùng biển quần đảo Hoàng Sa, bắt đầu đi ngang qua đảo Phú Lâm, xuống Hai Trụ, Tri Tôn về đảo Bom Bay được ngư dân mệnh danh là vùng biển “tử thần” hay vùng biển “chết”. Bởi nơi vùng biển này chỉ tính trong hơn 10 năm qua đã có hàng trăm tàu của ngư dân Việt Nam chủ yếu ở 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi đánh bắt tại đây bị tàu Trung Quốc bắt giữ, đánh đập, cướp tàu và đòi tiền chuộc. Thậm chí nhiều người bỏ mạng, bị thương vì bị lính Trung Quốc nổ súng bắn....
    2 likes
  2. Thưa các bạn, Là thành viên mới của diễn đàn, tôi mạnh dạn mở topic này với hy vọng có thể giúp các thành viên khác có được những thông tin để tham khảo từ lá số tử vi của mình trước khi đưa ra những quyết định về công danh, sự nghiệp. Những thành viên tham gia topic này xin vui lòng đưa ra các thông tin ngắn gọn, đầy đủ, chính xác và các câu hỏi cũng nên gắn gọn, rõ ràng. Với những kiến thức và kinh nghiệm có được, tôi sẽ cố gắng giải đáp cho các thành viên. Xin cảm ơn sự hưởng ứng tham gia của các thành viên. Xin chúc cho diễn đàn ngày càng phát trỉển mạnh mẽ. Huyencodieuly
    1 like
  3. Thuyết Hỗ Quái Sau khi Thuyết Đồng Nhất Của Dịch được đưa ra, một vấn đề khó khác lại được nêu lên. Đó là làm thế nào để biết được khi nào thì quẻ có ý nghĩa này và khi nào thì quẻ có ý nghĩa kia? Tuy rằng trong một quẻ có vô số nghĩa, nhưng chúng vẫn cố định trong phạm vi của mình. Để cố định được những ý nghĩa khác biệt nhau, thuyết Hỗ Quái được phát hiện. Một vấn đề khác lại được đặt ra. Đó là tại sao không dùng luôn Chính Quái mà phải dùng Hỗ Quái để biết nghĩa? Trong Chính Dịch Tâm Pháp chỉ nói một cách mơ hồ rằng: “Thể của Càn Khôn đều ở ngoài, sáu con đều bao trong đó. Đây là cái mà tượng tự nhiên có không thể lấy mà dụng tâm được”. Cách dùng Hỗ Quái để luận nghĩa như thế nào? Trong di thư, cổ nhân có nhắn lại rằng: “Tiên Thiên Đồ là Thể của Dịch, Hậu Thiên Đồ là Dụng của Dịch”. Vấn đề nằm ở đó. Trước tiên, ta nên tìm hiểu qua về Nhị Đồ này: -Trong Tiên Thiên đồ, Kiền là trời, Đoài là đầm (mây), Ly là lửa (mặt trời), Chấn là Sấm,Tốn là gió, Khảm là mưa (mặt trăng), Cấn là núi (sao), Khôn là đất, -Trong Hậu Thiên đồ, đề xuất ở Chấn, gọn gàng ở Tốn, gặp gỡ ở Ly, làm việc ở Khôn, vui mừng ở Đoài, đánh nhau ở Kiền, khó nhọc ở Khảm, hoàn thành ở Cấn. Làm sao để vận dụng được ý cổ nhân? Để hiểu được, ta cần biết được tên gọi đầu tiên của Mai Hoa Dịch Số. Tên đầy đủ là “Hội Đồ Tiên Thiên Hậu Tiên Mai Hoa Quan Chiết Tự Số Toàn Tập” (theo Mai Hoa Dịch Số của Ông Văn Tùng dịch). Tại sao lại gọi là “Hội Đồ Tiên Thiên Hậu Tiên”? Có phải là gộp 2 đồ hình lại mà dùng không? Gộp thế nào? Cũng như trong sách có dạy, Hỗ Quái chỉ dùng Đơn Quái chứ không dùng Trùng Quái. Trong một Trùng Quái có chia làm Thượng Quái và Hạ Quái. Khi một Trùng Quái đã được vạch thì từ trong đó, Hỗ Quái cùng lúc hiện ra. Xét từ dưới lên trên, một Trùng Quái có 6 hào, hào 2-3-4 sẽ làm Hỗ Quái cho Hạ Quái, hào 3-4-5 sẽ làm Hỗ Quái cho Thượng Quái. Sau khi vạch xong Chính Quái và Hỗ Quái, ta sẽ có từng cặp Thượng Quái-Hỗ Thượng Quái, Hạ Quái và Hỗ Hạ Quái. Như thế, ta đã có hai cặp Thể-Dụng. Và khi xét lại ý cổ nhân, ta sẽ lấy Chính Quái làm Thể còn Hỗ Quái làm Dụng. ……….. “Manh mối đã được đưa ra và người có Tâm sẽ thấy được”
    1 like
  4. Cảm ơn Thiên Đồng nhắc nhở. Nhưng tôi nghĩ rằng:Đăng ký bản quyền mà làm gì. Đó chỉ là mấy thứ lặt vặt. Bản quyền lớn nhất không thành thì mấy cái đó chỉ là vớ vẩn.
    1 like
  5. Xây dựng Hà Nội theo cấu trúc phong thủy? Bên cạnh nhiều ý kiến tranh luận về việc xây dựng thành phố ven sông Hồng, KTS Trần Thanh Vân có quan điểm riêng về vấn đề này, từ góc độ xem xét cấu trúc phong thủy. Tay lái vững ở đâu? Cách đây gần nửa thế kỷ, trong khi đất nước còn bị chia cắt, sống giữa Thủ đô đầy bom đạn, thi sĩ Xuân Diệu đã làm hai câu thơ bất hủ: Tổ quốc ta như một con tàu, Mũi thuyền ta đó Mũi Cà Mau Xuất thân trong một gia đình Nho học, thi sĩ đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của cha là một “Cụ Hàn xứ Nghệ ”, không chỉ tinh thông thơ phú mà còn hiểu biết sâu sắc về địa lý Phong Thủy. Trong một phút thăng hoa, nhà thơ đã vẽ lên bố cục âm dương địa mạch hình chữ S của đất nước Việt Nam. Thật kỳ diệu, nước ta đúng là một con tàu mà Nam bộ nói chung, trong đó Sài Gòn là trung tâm, đã xứng đáng là một đầu tàu. Còn Mũi Cà Mau quả là một mũi thuyền rẽ sóng. Cấu trúc hài hòa âm dương Thành phố Hồ Chí Minh đã có 300 năm lịch sử. Nơi đây, khi xưa rộn ràng thuyền buôn từ nhiều nơi trên thế giới lui tới. Ngày nay, các thương nhân đến Việt Nam thì đa số, đầu tiên phải đến TP Hồ Chí Minh. Sau 32 năm đất nước thống nhất, thành phố Sài Gòn năng động vẫn xứng đáng là một đại thương trường, là đầu tàu, dẫn đầu cả nước đi khai phá nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Tuy vậy, đầu tàu năng động phải khai thác sức gió và vượt sóng, đôi khi bị bập bềnh, chao đảo trước gió to, có thể mất đi sự thăng bằng, vững chãi vốn có trong truyền thống của dân tộc ta. Những lúc đó, ta rất cần tay chèo thật khỏe và tay lái thật vững, để khống chế hành trình chính xác của cả con tàu. Trong những năm tháng tới, khi nền kinh tế đã hội nhập để cả thế giới tràn vào, thì gió càng to, sóng càng lớn, chắc chắn còn nhiều chao đảo nữa. Vậy đằng sau đầu tàu năng động, rất cần một tay lái vững. Tay lái vững ở đâu? Huế – “Vạn đại dung thân”? Gần 500 năm trước, khi biết dã tâm của người anh rể là Trịnh Kiểm sẽ sát hại cả gia đình mình, Chúa Nguyễn Hoàng đã đi cầu cứu Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng Trình nhìn đàn kiến leo trên hòn non bộ rồi phán: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Hiểu ý Trạng, Chúa Nguyễn Hoàng đã xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa rồi xây dựng bản doanh luôn trong đó, nhờ đó mà bảo toàn được tính mạng, mở đầu cuộc Trịnh - Nguyễn phân tranh gần 300 năm. Nhưng “Vạn đại dung thân” khác xa với “Vạn đại bá vương”. Phú Xuân Huế có sông sâu, có núi hiểm, có Chùa Thiên Mụ và núi Ngự Bình che chắn, phù hợp cho một cuộc trốn chạy, thúc thủ. Nhưng Huế chưa chắc đã phải là nơi lý tưởng để các anh hùng vĩ nhân kinh bang trị vì thiên hạ. Nhất kinh kỳ, nhì phố hiến” Manh nha từ thời Tiền Thăng Long, năm 256 tr.CN, Thục Phán An Dương Vương lập nên nước Âu Lạc, đã nhận ra thế cục Phong thủy rất vượng khí của vùng đất này nên đã chọn Cổ Loa để lập Kinh đô. Một ngàn năm Bắc thuộc, tiếp theo là một ngàn năm tổ tiên chúng ta giành giật với phong kiến Phương Bắc vùng đất vô cùng quý hiển có núi Chầu, sông Tụ đi từ Cổ Loa tới La Thành. Các thầy phong thủy phương Bắc, điển hình là quan đô hộ sứ Cao Biền, đã mất nhiều công tìm kiếm và đã phát hiện ra nhiều huyệt đạo bí hiểm nơi đây. Tổng cộng họ tìm ra 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1517 huyệt bàng, huyệt phát quan … Cho đến năm 1010, dưới sự dìu dắt của Thiền Sư Vạn Hạnh, Vua Lý Công Uẩn lên ngôi và đã xác định tâm huyệt Long quyển thủy chính là vùng nước thoáng rộng nhất của sông Hồng nối với Hồ Tây và hệ thống sông hồ lớn nhỏ xung quanh. Đó chính là Hệ Long mạch, tạo nên một dòng lưu thủy cực mạnh, có thể xua tan mọi ám khí, có thể tụ hội Hồn thiêng sông núi. Khẳng định được phát hiện đó, Vua Lý Công Uẩn đã ban Chiếu dời Đô và đặt tên là Kinh đô Thăng Long (Thăng Long – Rồng quẫy sóng bay lên, là cách nói gọn của hiện tượng Long quyển thủy). Từ đó, Kinh đô Thăng Long ổn định trường tồn. Ba triều đại huy hoàng Lý, Trần, Lê, ngự trị dài nhất và đã ghi được nhiều công đức vẻ vang, làm rạng rỡ non sông chính tại đất Thăng Long. Hình ảnh Thăng Long trên bến dưới thuyền, và câu ca dân gian “nhất kinh kỳ, nhì phố hiến” đã nói lên cảnh thanh bình thịnh vượng và giao lưu kinh tế rộng rãi của Thăng Long với trong nước và ngoài nước. Xây dựng Hà Nội theo cấu trúc phong thủy? Sáu mươi hai năm qua, trên mảnh đất đầy đau thương và đầy hào khí này, Đảng và Chính phủ ta đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng giặc Pháp, rồi giặc Mỹ và đang xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh. Làm được những việc vĩ đại đó, ta không thể không nhận thấy một điều kỳ diệu rằng, chính tổ tiên chúng ta đã rất sáng suốt từ những bước đi ban đầu và vẫn đang chỉ lối cho ta đi tiếp hôm nay. Hôm nay chúng ta đã có một Thủ đô rộng lớn mà Trung tâm của thành phố trùng khớp với Tâm điểm của cấu trúc Phong thủy Thăng Long, vòng tròn tâm điểm này rộng tới 40 Km2, ôm gọn dấu tích huy hoàng của dân tộc suốt hơn 2000 năm. Luật đê điều đã cho phép chúng ta nghiên cứu khai thác hai bên bờ sông Hồng, Thành Cổ Loa đang được trùng tu tôn tạo, Hoàng thành Thăng Long đã phát lộ và đang có kế hoạch bảo tồn. Thủ đô hôm nay muốn thực sự là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, nói khác đi, muốn trở thành tay lái vững để điều khiển con tàu đất nước, thì cấu trúc của Trung tâm Thủ đô phải tuân thủ nghiêm ngặt luật Phong thủy nơi đây: Bờ Nam sông Hồng là Trung tâm Chính trị và Thương mại, bờ Bắc kéo đến Cổ Loa dài 7Km phải là Trung tâm Văn hóa, Lịch sử và Du lịch. Chính giữa sông, nơi đã có hàng ngàn ha đất bồi, nơi sinh khí vượng nhất, không thể để hoang hóa nhưng cũng không được biến thành đảo bê tông , nơi đây nên xây một Đô thị nổi với nhiều cung điện, đền đài, để nghỉ ngơi di dưỡng tinh thần và khai thác kinh doanh du lịch. Không gian trong vùng trung tâm này cần thoáng rộng, nước phải lưu thông để duy trì Long quyển thủy, không xây các tòa nhà tháp như các cần ăng ten làm mất Dương khí, không xây khu nhà quá cao quá to và dày đặc như bức tường chặt giữa Hồ Tây và Sông Hồng, cần tái tại hình ảnh của một “Thăng Long trên bến dưới thuyền” và không mô phỏng, sao chép của bất cứ một nơi nào trên thế giới. Tất cả các công trình xây dựng ở đây, tất cả các nẻo đường nơi đây phải gắn bó với trục đường đi đến thành Cổ Loa, nơi đó có Am Mỵ Châu, một người con gái rất nhân hậu nhưng đã đắc tội với non sông chỉ vì quá nhân hậu. Không phải vô cớ mà hơn 2000 năm nay dân ta vẫn thành kính dâng hương thờ một bức tượng mất đầu. Hôm nay, bức tượng đó đang ở ngay sát cạnh Trung tâm Thủ đô hiện đại. Điều đó nhắc nhở chúng ta phải mở rộng cửa, phải bắt tay với tất cả bạn bè trên thế giới nhưng vẫn phải thường xuyên cảnh giác đừng phạm sai lầm như nàng Mỵ Châu. Ngoài việc khống chế quy họach xây dựng, Thành phố cần có định hướng để phấn đấu lưu thông Dòng lưu thủy tức là lọai bỏ một Tử mạch để tìm lại một Sinh mạch, tích tụ được hồn thiêng sông núi, thì con thuyền đất nước đủ vững vàng để rẽ sóng ra khơi. Sưu tầm từ nguồn Vietnamnet
    1 like
  6. gửi quynh nhu, Có chứ, chọn ngày tốt giờ tốt và màu tốt. Thì tẩu thì...chẩu luôn chứ gì lo mà sợ. Hehe Thiên Đồng
    1 like
  7. gửi Vogaunho, Con rất hợp tuổi mẹ, không sao đâu. Chịu khó vài năm đầu con còn nhỏ. Con lớn sẽ ổn, sẽ khá hơn. Dân gian có câu: "Nợ mòn con lớn" Không lo. Muốn phát đạt hơn thì sinh đứa Nhâm Thìn 2012 hoặc Bính thân 2016. Sau này mướn nhà hay mua nhà thì chọn hướng Đông, Nam, Bắc và Tâ Nam sẽ tốt. Không có gì phải hoan mang. Thiên Đồng
    1 like
  8. Tận lực tri thiên mạng. (cố hết hết sức thì sẽ biết mệnh trời thôi mà!) Chúc bạn như ý. Thiên Đồng
    1 like
  9. Trong bài có trích câu này, Sư Phụ. Afeng.vn - Sưu tầm từ nguồn Vietlyso.com Mà Vietlyso thì cũng có đệ tử của Sư Phụ bên đó. Có điều là nêu ra định nghĩa về Khí mà không nêu quan điểm về Khí đó là của ai, nguồn nào. Lập lờ đánh lận con đen Cho nên theo đệ tử nghĩ, Sư Phụ nên đăng ký ngay bản quyền sở hữu trí tuệ thôi. Thời đại siêu thông tin toàn cầu này cái gì cũng nhanh siêu tốc hết Sư Phụ ơi. Thiên Đồng
    1 like
  10. 1 like
  11. Canh Dần là tốt nhất. thứ đến là Tân Mão. Thân mến
    1 like
  12. Mang thai, sanh nở là việc trọng, là hạnh phúc, là hỷ sự lớn nhất của mọi người, mọi nhà. Theo quan niệm trong dân gian thì có vị Thần Thai, vị thần này có chức năng trông coi toàn bộ quá trình mang thai, sanh nở của sản phụ và thai nhi. Làm nhà cũng là một việc trọng đại, khá cực nhọc, vất vả về tâm, trí, lực. Trong khi người mẹ mang thai cần phải an dưỡng thân, tâm nên không thích hợp cho hai việc diễn ra cùng thời điểm. Nếu tiến hành làm nhà thì sẽ tạo nên áp lực rất lớn lên người phụ nữ đang thực thi thiên chức làm mẹ, sẽ ảnh hưởng và tạo nên hiệu ứng không tốt cho toàn bộ quá trình. Và quan trọng hơn là động chạm, là phạm vào vị Thần Thai. Thần sẽ quở phạt. (tất nhiên đấy là theo quan niệm dân gian!). Chính vì thế mà không nên làm nhà hay sửa nhà trong thời kỳ mang thai. Nếu trong tình thế phải làm, xin thai phụ không tham gia, tức là làm như người vô tâm vậy. Không kiêng sự việc nhà có thai phụ dọn chuyển nhà từ nơi này đến nơi khác. Nếu cần vẫn có thể chuyển dọn, tuy nhiên thai phụ không tham gia vào. Trước khi dọn, nên dùng chổi quét lên các vật dụng (đây là tục lệ được ghi nhận ở nhiều vùng miền, tuy nhiên hơi đậm tính mê tín dị đoan). Thai phụ cần tự chăm sóc mình một cách cẩn thận để bảo vệ mình và đặc biệt là bảo vệ thai nhi. Ở 03 tháng đầu và 03 tháng cuối thai kỳ, mọi động thái, sinh hoạt nên cẩn thận; còn giai đoạn giữa thì thoải mái (thậm chí có thể đá bóng, nếu muốn! hì hì! Đùa thôi, đừng đá thật đấy nha!). Như vậy Bạn đã biết mình cần làm gì, đi đâu, đi như thế nào rồi nhé. Chúc Bạn và gia đình sức khỏe, hạnh phúc! Chúc Mẹ tròn, con vuông! Thiện Tâm.
    1 like
  13. Đại loại vậy. Cũng từ Thiên Sứ mà ra cả. Có điều là nói thì giống, nhưng hiểu thì ko biêt thế nào.
    1 like
  14. (ý thức cũng là một dạng vật chất, ý thức nảy sinh từ nền tảng vật chất nên cũng chịu sự tương tác của vật chất – Vật chất hay ý thức – dungkq). Bài này hình như đọc ở đâu đó bên Vietlyso...có cả tên của dungkq
    1 like
  15. Tôi xin tham gia vào chủ đề này như sau: Không có cái gì gọi là luồng hỏa xà cả. Do cách thức tu tập sai nên mới có hiện tượng 1 luồng khí rất nóng chạy dọc từ xương cụt chúng ta đi lên đỉnh đầu gây hại cho nội tang cũng như trí não mà thôi. Trong thân thể chúng ta có 3 đường kinh mạch chính, 2 mạch Nhâm và Đốc ở trước và sau nối nhau ở 2 huyệt dưới là Trương cường, trên là Bách hội. Trong nội tạng còn 1 đường kinh mạch vô hình thứ 3 nối Trương cường và Bách hội và chính đường kinh mạch vô hình này mới chứa 7 Trung tâm sinh lực hay còn gọi là Luân xa vì chúng là nơi 2 dòng điện sinh học giao nhau và xoay vòng tròn, càng xoay nhanh thì nội tạng liên hệ càng hoạt động tốt. Trung tâm 6 và 7 thì liên hệ với Phủ Kỳ Hằng là não nên khi tập luyện sai tạo ra luồng khí nóng chạy lên thì sức khỏe cũng như đầu óc sẽ có vấn đề ngay. Tại sao như thế ? Vì 2 đường Nhâm và Đốc được nối với 7 Trung tâm trên qua 7 đường mạch ngang từ trước ra sau và dược điều hòa từ 7 trung tâm này. Khi ta tập Duc giới thiền bằng cách tập trung tư tưởng vào một điểm nào đó thì 2 dòng điện sinh học trong người sẽ giao nhau tại đấy ( mà thường thì người ta thường tập trung tại Ấn đường hoặc Bách hội) buộc 2 dòng điện âm dương trong người hoạt động mạnh, và phát nhiệt làm cho đường mạch Đốc nóng lên từ dưới lên trên dần dần ( mà người không hiểu lại gọi là Hỏa xà) vì nó là đường chứa nhiệt gốc của toàn thân phân phát nhiệt ra tất cả các kinh mạch khác. Càng nóng thì cơ thể và đầu óc càng hư hại là thế..... Thế nên muốn tu tập đúng cách thì phải có một vị nắm vững Dục giới thiền hướng dẫn thì mới được. Cách giải quyết của thầy CQ hiệu quả không cao.... TN
    1 like
  16. Lễ hội Đền Hùng ra sao qua ngàn năm lịch sử? Thứ Ba, 06/04/2010 14:12 http://www.thethaovanhoa.vn/133N2010040610...-su.htm#comment TT&VH - Từ 14-23/4 tới đây, Lễ hội Đền Hùng năm 2010 được tổ chức với một qui mô lớn nhất từ trước đến nay. Cùng với Phú Thọ, các tỉnh, thành trong cả nước tổ chức lễ dâng hương, và các hoạt động văn hoá tuỳ theo từng tỉnh. Theo khẳng định của NSND Lê Hùng - Tổng đạo diễn Lễ hội thì Lễ khai mạc lễ hội Đền Hùng năm nay sẽ khác, không chỉ có các màn múa ra ra vào vào như mọi năm. Chúng tôi sử dụng nhiều loại hình nghệ thuật phong phú. Sẽ có cả kịch nói, kịch hình thể, múa, hợp xướng, đơn ca và hát Xoan. Có hình tượng bọc trăm trứng bùng nhùng, cựa quậy để nở ra một trăm người con...”. Thành công của Lễ hội Đền Hùng là điều mong ước của mọi con dân đất Việt trong thời điểm này. Thành công đó phụ thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức lễ hội, trong đó có kịch bản và đạo diễn Lễ hội. Những kinh nghiệm từ quá khứ luôn là những bài học quý. Nhân dịp này, TT&VH xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Vũ Kim Biên về lễ hội Đền Hùng trong lịch sử. Trước thời Nguyễn: Giao thẳng cho dân sở tại! Bản ngọc phả Đền Hùng viết sớm nhất vào năm Thiên phúc nguyên niên (980) đời vua Lê Đại Hành, cho thấy cách nay hơn nghìn năm, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã quan tâm tới nơi cội nguồn dân tộc. Lễ hội Đền Hùng năm 1960. Ảnh Tư liệu Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng: “...Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi...” Như vậy có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm giỗ Tổ ngày 11 tháng 3 âm lịch. Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng, miễn đóng sưu miễn đi phu đi lính. Làng Hy Cương làm giỗ Tổ theo cách cầu tiệc như phong tục chung. Ngày 11 tháng 3 họ rước long báu trên Đền Thượng xuống đình làng để tế. Tế xong lại rước trả. Còn dân chúng xa gần nhớ ngày giỗ Tổ thì về Đền lễ bái, tụ hội đông đúc, tự đem đến các trò chơi, hàng hoá mua bán chủ yếu là đồ ăn uống, cũng có thể gọi là lễ hội, tương truyền khá đông vui. Sắc chỉ của vua Quang Trung năm 1789 vẫn nói duy trì lệ cũ. Lễ hội với Hát Xoan và tục ngủ lại Đến nhà Nguyễn, việc quản lý Đền Hùng có sự thay đổi lớn. Triều đình trực tiếp đứng ra tôn tạo các đền đài lăng tẩm chùa chiền. Nhà vua giao Tuần phủ Phú Thọ tổ chức tế ngày giỗ Tổ với sự chỉ đạo của Bộ Lễ, làm trước dân 1 ngày, tức là tế vào ngày mồng 10 tháng 3, để hôm sau dân sở tại tế lễ theo ngày giỗ cũ. Chủ tế là Tuần phủ Phú Thọ. Bồi tế, thông đạo tán, chấp sự là quan lại tỉnh Phú Thọ và huyện Lâm Thao. Định lệ 5 năm làm một hội lớn hay hội chính, lấy năm chẵn 5 như 1920, 1925... Năm hội chính, ngay từ tháng giêng trên núi Nỏn đã treo lá cờ thần báo cho đồng bào xa gần biết. Theo thông sức của quan Tuần phủ, có khoảng 40 làng rước kiệu từ đình làng mình tới chầu, tất cả đặt ở chân núi để chấm giải. Giải là một bức trướng vua ban chứ không có gì khác. Riêng kiệu làng Cổ Tích là dân Trưởng tạo lệ được rước lên núi, nhưng cũng chỉ đến bãi bằng Đền Hạ là dừng lại. Rước kiệu là một hoạt động tín ngưỡng rất tôn nghiêm và náo nhiệt. Một đám rước như vậy gồm 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Kiệu được sơn son thếp vàng đục chạm rất tinh vi. Thân kiệu là 2 con rồng dài gần 4m do 16 người khiêng. Cỗ đi đầu bầy hương hoa đèn nến, giầu cau, bình nước và nậm rượu. Cỗ thứ hai bầy nhang án bài vị thánh có lọng che. Cỗ thứ ba bầy bánh dầy bánh chưng hoặc xôi cùng thủ lợn luộc hoặc cả con. Ông chủ tế mặc áo hoàng bào đi sau kiệu thánh, các quan viên chức sắc đi theo hộ giá. Riêng kiệu nhang án có phường bát âm tấu nhạc hầu thánh đi hai bên. Trừ phường bát âm mặc lễ phục cổ điển (quần trắng áo the khăn xếp) còn các quan viên rước kiệu đều ăn mặc phỏng theo lối quan văn võ và binh sĩ trong triều. Những làng ở xa phải rước hai ba ngày mới tới Đền, bởi vậy phải có ê kíp thứ ba là đội quân hậu cần. Hàng ngày họ phải đem cơm nắm thức ăn nước uống từ nhà đến cho đám rước, đi đi về về rậm rịch. Cũng nằm trong lễ thức tại Đền Hùng còn có tiết mục Hát Xoan. Hát Xoan xưa gọi là Hát Xuân, chỉ biểu diễn trong mùa xuân. Vì kiêng tên bà Lê Thị Lan Xuân vợ vua Lý Thần Tông, người làng Hương Nộn có công lớn giúp đỡ phường Xuân hoạt động nên gọi chệch đi là Hát Xoan. Đêm Hát Xoan kéo dài từ chập tối đến sáng tại Đền Thượng. Tối đến ít người về nhà dù ở gần, tục lệ là ngủ lại. Bởi vậy họ đi xem đi chơi cho mệt rã rời rồi tiện đâu ngủ đấy. Giữa bầu không khí cởi mở ấy là hàng loạt trò chơi văn nghệ biểu diễn ngày cũng như đêm tự do thưởng thức không mất tiền. Ban khánh tiết chỉ cần treo lên ít giải làm vui, là các làng xã tự đem đến trò gà chọi, kéo co, bịt mắt bắt dê, bắn nỏ thi, đấu vật, cờ người...Ban đêm bao giờ cũng có hát chèo tuồng ở các bãi rộng. Phường chèo tuồng đón ở các rạp về hay tự họ xin đến. Cũng có cả các đoàn nghiệp dư ở các làng đến Hội trổ tài. Tất cả các đoàn đó được Ban khánh tiết cho ăn cơm cá thịt và ít tiền lộ phí, biểu diễn cho dân xem không bán vé. Nói chung đi tới Hội là gặp không khí cởi mở thân thương tha thiết nghĩa tình. Nhiều cải tiến so với xưa - Giỗ Tổ năm 1946, cụ Huỳnh Thúc Kháng - Phó chủ tịch nước lên làm lễ, dâng tấm bản đồ Việt Nam và thanh kiếm, cáo với Tổ hoạ xâm lăng và quyết tâm kháng chiến của dân tộc. - Từ năm 1947 đến 1954 không làm được giỗ, nhưng nhân dân địa phương vẫn cúng bái đơn lẻ, - Năm 1956 làm lễ hội lớn, do Bộ Văn hoá tổ chức, có rước kiệu. Sau đó thôi không rước nữa. - Từ năm 1957 về sau, nhất là những năm đánh Mỹ, Lễ hội vẫn đông, nhưng rất đơn giản. Nghi thức là đoàn đại biểu quân, dân, chính của tỉnh và huyện xã sở tại dâng một bó hoa lên Đền Thượng, đi đầu là đoàn thiếu nhi xã Hy Cương đánh trống cà rình. - Từ năm 1990 đến nay, lễ hội có cải tiến nhiều so với trước. Về lễ có các vị ở Trung ương về dâng hương hoa hoặc làm đồng chủ lễ với Chủ tịch tỉnh Vĩnh Phú (sau là Phú Thọ)... Bài bản tế được cải tiến rất nhiều so với tế đình làng, chỉ giữ nguyên trang phục truyền thống. Chủ tế đứng yên tại chỗ nhận các lễ phẩm do chấp sự đưa đến để làm lễ, rồi trả lại chấp sự để dâng tiến, chứ không đi lại rồng rắn như cũ. Dàn nhạc cũng ngồi tại chỗ, cử lên hay ngừng im theo hiệu của Đông, Tây xướng. Chỉ dâng hương, hoa, rượu và chúc văn, còn các lễ phẩm khác đều bầy sẵn trong thượng cung. Hai hàng chấp sự khi đặt lễ phẩm lên ban thờ rồi, thì đi giật lùi bước một về chỗ cũ, chứ không quay lưng vào thánh. Vũ Kim Biên
    1 like
  17. Hoa Mạnđàla trong lễ Cung Tiễn Phật Ngọc Lúc 8 giờ đêm ngày 16 tháng 2 năm 2010 Tại Tu Viện Pháp Vương, Escondido, California, Hoa Kỳ Trong Kinh Phật có những đoạn Kinh nói về chư Thiên rải hoa cúng Phật: hoa mạnđàla, hoa mahamạnthùsa... Với đôi mắt thường chúng ta sẽ không nhìn thấy được, nhưng những bức ảnh sau đây sẽ nói lên những điều mà người thường không thể tin nổi. Đó là sự nhiệm mầu của Phật pháp vô biên. Đây là bức hình rất đặc biệt, khi phóng to hình này lên, đốm trắng nhỏ sáng nhất trong hình sẽ như thế này: Đức Phật dường như an ngự trong hoa Mạnđàla này Hoa Mạnđàla trong lễ Cung Tiễn Phật Ngọc « vào lúc: Tháng Ba 16, 2010, 02:16:49 pm » Trích dẫn Trích từ website: http://www.hoavouu.com/index.php?option=co...5&Itemid=71 Hoa Mạnđàla trong lễ Cung Tiễn Phật Ngọc Lúc 8 giờ đêm ngày 16 tháng 2 năm 2010 Tại Tu Viện Pháp Vương, Escondido, California, Hoa Kỳ Trong Kinh Phật có những đoạn Kinh nói về chư Thiên rải hoa cúng Phật: hoa mạnđàla, hoa mahamạnthùsa... Với đôi mắt thường chúng ta sẽ không nhìn thấy được, nhưng những bức ảnh sau đây sẽ nói lên những điều mà người thường không thể tin nổi. Đó là sự nhiệm mầu của Phật pháp vô biên. Click this bar to view the full image. Đây là bức hình rất đặc biệt, khi phóng to hình này lên, đốm trắng nhỏ sáng nhất trong hình sẽ như thế này: Click this bar to view the full image. Đức Phật dường như an ngự trong hoa Mạnđàla này Click this bar to view the full image. Hoa Mạn Đà La rơi trong không khí tĩnh lặng của màn đêm TT Thích Nguyên Siêu - Tổng Thư Ký HĐĐH GHPGVNTN Hoa Kỳ, Viện Chủ Tu Viện Pháp Vươn ĐĐ Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, San Diego, Hoa Kỳ; administer của website này. Hoa Mạn Đà La rơi đầy như hoa tuyết đổ giữa mùa đông giá lạnh, nhưng mắt thường của chúng ta không sao nhìn thấy được.
    1 like
  18. Phong thủy và quy hoạch phát triển đô thị Khái niệm Phong thuỷ từ trước đến nay luôn được hiểu một cách mơ hồ và đôi khi mang màu sắc thần bí. Nhưng hiểu theo nghĩa đen của ngôn từ thì Phong là gió, Thuỷ là nước, phong thuỷ tức là tìm hiểu về hình thế của địa hình để tìm ra thế đất tốt. Cách hiểu này cũng không hẳn là sai nhưng chưa hoàn chỉnh và đầy đủ. Ngoài ra còn nhiều cách hiểu khác như cho rằng Phong thuỷ là một hiện tượng văn hoá, một loại thuật số chọn lành tránh dữ; hoặc Phong thuỷ còn gọi là Kham Dư, chỉ địa thế, phương hướng nhà ở, mồ mả để chọn lành tránh dữ; phong thuỷ là khoa học, đất, nước và gió….nhưng về cơ bản đều chưa thực sự phản ánh đầy đủ tính chất của môn phong thuỷ. Thậm chí đôi khi người ta còn lẫn lộn giữa phong thuỷ với các hình thức tín ngưỡng như cúng bái, bùa chú. Và trong Phong thuỷ chia ra làm nhiều trường phái, phương pháp nghiên cứu như là : Dương trạch, Bát trạch, Huyền không, Hình lý khí… Từ cách giải thích thuật ngữ Phong thuỷ của Quách Phác đời Tấn ( Trung Quốc ) trong Táng Kinh “ Táng (chôn) là đón sinh khí. Khí gặp Phong (gió) tất tán, gặp nước ngăn lại tất dưỡng. Vì vậy gọi là Phong thuỷ”. Ta có thể suy luận rằng trước đây thuật Phong thuỷ chủ yếu chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu sự vận động của các dòng chảy và không khí (gió) phục vụ cho mục đích đặt mồ mả, âm phần. Mà trong thuật địa lý âm phần thì để tìm ra vị trí đất tốt trước tiên người ta phải dựa nhiều vào hình thể, sự vận động của các dòng nuớc. Và từ đó khái niệm Phong thuỷ được hiểu đơn giản là Gió và Nước. Tuy nhiên càng về sau này con người nhận biết được nhiều quy luật của sự tương tác giữa tự nhiên, hoàn cảnh môi trường sống với người sống nên tiếp tục phát triển thuật phong thuỷ để xây dựng nhà cửa, công sở . Đến nay Phong thuỷ vẫn thường được coi là một môn lý học mang màu sắc thân bí, nhưng nếu một lý thuyết được coi là khoa học khi “giải thích hợp lý được hầu hết những vấn đề có liên quan một cách thống nhất và có quy luật tiên tri” thì từ những tổng hợp tri thức cổ đại và hiện đại chúng ta có thể đưa ra một khái niệm về Phong thuỷ hiện đại như sau: Phong thuỷ là một môn khoa học nghiên cứu về những quy luật vận động, tương tác của tự nhiên và con người để điều chỉnh hoặc tận dụng những sự tương tác đó phục vụ cho mục đích của con người trong cuộc sống.Và trong Phong thuỷ vấn đề cơ bản là tìm hiểu sự ảnh hưởng của các dòng “khí” do sự vận động của tự nhiên và con người tạo ra. “Khí” ở đây có thể hiểu là một dạng vật chất được tạo thành từ những sự tương tác và được chia làm 2 dạng. Khí được tạo thành từ sự tương tác nội tại của vật chất ví dụ như địa khí hình thành từ sự vận động nội tại của Trái đất dẫn đến sự hình thành của địa hình, sông núi, ao hồ; khí hình thành từ sự tương tác bên ngoài, ví dụ như sự tương tác của Trái đất với những hành tinh khác trong vũ trụ, hoặc từ sự tương tác trên trên bề mặt Trái đất tạo ra sự sinh trưởng của vạn vật, hình dáng của kiến trúc; từ sự tương tác của các vật thể trong một ngôi nhà, từ sự tương tác của môi trường xung quanh với cấu trúc nhà ở, từ sự vận động của con người trong môi trường tác động đến cuộc sống, quyết định của con người…. “Khí” ở đây có thể hiểu là một dạng vật chất được tạo thành từ những sự tương tác và được chia làm 2 dạng là âm khí (khí hình thành do sự vận động nội tại) và dương khí (khí hình thành do sự tương tác bên ngoài). Khí được tạo thành từ sự tương tác nội tại của vật chất ví dụ như địa khí hình thành từ sự vận động nội tại của Trái đất dẫn đến sự hình thành của địa hình, sông núi, ao hồ; khí hình thành từ sự tương tác bên ngoài, ví dụ như sự tương tác của Trái đất với những hành tinh khác trong vũ trụ, hoặc từ sự tương tác trên trên bề mặt Trái đất tạo ra sự sinh trưởng của vạn vật, hình dáng của kiến trúc; từ sự tương tác của các vật thể trong một ngôi nhà, từ sự tương tác của môi trường xung quanh với cấu trúc nhà ở, từ sự vận động của con người trong môi trường tác động đến cuộc sống, quyết định của con người…. Khi hiểu được bản chất của những sự tương tác và vận động của “Khí” thì sẽ hiểu được bản chất của Phong thuỷ, đồng thời có thể xét đoán được tính hợp lý của những lý thuyết phong thuỷ khác nhau. Khí tạo ra hình, hình quy định sự vận động của khí. Ví dụ khí Kim thì vật hình dạng tròn, khí Mộc thì vật dài, khí Thổ thì vật vuông, khí Hoả thì sắc nhọn, khí Thuỷ thì hình dáng uốn lượn mềm mại. Khí thanh thì hình thuần khiết mà đẹp, khí tạp thì hình thô lậu, vụn vặt, thiếu cân đối. Khí thanh mà hài hoà thì con người sáng suốt; khí trực thì tính cách nóng vội, cực đoan dễ sai lầm dẫn đến hao người, tốn của. Sự vận động của Khí không chỉ ảnh hưởng hưởng đến sự hình thành của vật chất mà khí còn tương tác ảnh hưởng trực tiếp tới ý thức của con người như tinh thần, thái độ, phong cách sống, tính cách, sự sáng tạo, kỷ cương pháp luật…(ý thức cũng là một dạng vật chất, ý thức nảy sinh từ nền tảng vật chất nên cũng chịu sự tương tác của vật chất – Vật chất hay ý thức – dungkq). Sống trong một ngôi nhà hoặc môi trường có kiến trúc vụn vặt, tạp loạn, nhiều góc cạnh xung đột, nhiều rác thải, nhiều đường ngang ngõ tắt sẽ khiến cho tư duy của con người ta khó tập trung, cố chấp, dễ xung đột, xô bồ, thiếu tính sáng tạo, thiếu sự tôn trọng pháp luật, dễ phạm tội. Những con đường tốc độ cao nhưng nhiều nhánh ngang vòng vèo, tự phát thì khí bị tạp loạn và khiến người điều khiển giao thông mất tập trung, nóng nảy, xử lý thiếu chính xác từ đó dễ xảy ra tai nạn. Những toà nhà văn phòng, khu chung cư lệch lạc, hình dáng và cấu trúc không thanh thoát, nặng nề thì dễ nảy sinh mâu thuẫn nội bộ, bệnh tật, kiện tụng, tư duy hạn hẹp, làm việc thiếu chuyên nghiệp. Hoặc những khu dân cư, đô thị thiết kế không gọn gàng tạo ra những ngóc ngách tù túng, chắp vá mất vệ sinh cũng dần dần làm cho tinh thần, ý thức của bộ phận dân cư sống trong môi trường đó phát triển theo chiều hướng nhỏ nhặt, luẩn quẩn, lười biếng, tiêu cực và từ đó nảy sinh tệ nạn, phạm tội. Những ví dụ trên có thể thấy được rất rõ ràng trên thực tế. Những căn nhà hoặc khu đô thị bị thoái khí thì ế ẩm, đời sống sinh hoạt của cư dân thấp và nếu không có sự điều chỉnh hợp lý mà địa hình ngày càng thay đổi bất lợi thì có thể dẫn đến hoang phế. Phong thuỷ không đồng nghĩa với những hình thức cúng bái, bùa chú, trấn yểm thần thánh hoặc bị pha tạp màu sắc của sự huyền bí không giải thích được. Bản chất của phong thuỷ là điều chỉnh những sự tương tác giữa môi trường và con người. Phong thuỷ hay kiến trúc đều nhằm mục đích tạo ra những không gian sống an toàn, khoẻ mạnh và thuận tiện cho sự phát triển của con người. Người kiến trúc sư có thể không hiểu về những nguyên tắc tính toán trong phong thuỷ nhưng bằng con mắt nghề nghiệp, sự nhạy cảm thì khi thiết kế một ngôi nhà hoặc 1 khu đô thị cũng sẽ có sự trùng khớp với những giải pháp thiết kế của nguyên tắc phong thuỷ. Và ngược lại một kỹ sư phong thủy khi tính toán đúng cũng sẽ đưa ra những giải pháp phong thuỷ tương đồng về mặt thẩm mỹ, công năng sử dụng giống như người kiến trúc sư. Chính vì vậy nên có nhiều công trình mặc dù không có sự tham gia của Phong thuỷ nhưng vẫn tồn tại bền vững và tạo ra sự phát triển, ví dụ điển hình như toà nhà Trắng của Mỹ, bất cứ thầy phong thuỷ giỏi nhất thế giới nào cũng chỉ mong đạt đến trình độ của người kiến trúc sư trưởng đã lựa chọn vị trí và thiết kế toà nhà đó. Tuy nhiên vì do hệ thống các nguyên tắc ứng dụng khác nhau nêngiữa người thiết kế phong thuỷ và kiến trúc sư hay bị mâu thuẫn khi đưa ra giải pháp nhằm đáp ứng trọn vẹn yêu cầu của công trình cả về mặt kiến trúc và phong thuỷ, đạt được vẻ đẹp về kiến trúc thì lại mâu thuẫn với nguyên tắc phong thuỷ và ngược lại, đúng nguyên tắc Phong thuỷ thì lại mất yếu tố thẩm mỹ. Nhưng đó chỉ là những thiết kế rời rạc vì tuy khác nhau về nguyên tắc, hệ thống công cụ tính toán nhưng một kiến trúc sư giỏi hay một kỹ sư phong thuỷ tài năng cũng sẽ đều đưa ra giải pháp hợp lý cho một bài toán thiết kế để đạt được mục đích đề ra. Ví dụ, khi xây một ngôi nhà lớn để tiết kiệm tài chính, nguyên liệu và giảm tải cho hệ thống kết cấu thay vì làm rầm treo kiến trúc sư bắt buộc phải thiết kế rầm ngược nhưng hệ thống rầm ngược đó lại mâu thuẫn với những giá trị về mặt phong thuỷ vì sẽ khiến cho không gian bên dưới bị chia cắt thiếu sự thông thoáng thẩm mỹ và tạo ra những áp lực làm dòng khí vận động trong ngôi nhà bị xáo trộn dần dần sẽ khiến cho tư duy của những người sống trong môi trường đó thiếu sự thông thoáng dẫn đến những mâu thuẫn nội bộ. Nếu một người kiến trúc sư thiết kế thêm 1 hệ thống trần giả làm cho không gian bên trên bằng phẳng với những hoa văn hợp lý thì không những đẹp về mặt thẩm mỹ mà còn giải quyết được bài toán về mặt phong thuỷ, và nếu một kỹ sư phong thuỷ thực sự khi sửa phong thuỷ thì cũng sẽ đưa ra giải pháp như vậy để đạt hiệu quả tối ưu nhưng vẫn tiết kiệm thay là treo trên trần những vật dụng mà đôi khi đạt về phong thuỷ nhưng lại thiếu thẩm mỹ. Thậm chí một người không có kiến thức chuyên môn về phong thuỷ hay kiến trúc nhưng đang trong thời kỳ thể trạng sung mãn, tư duy khoáng đạt cũng sẽ đưa ra được những ý tưởng thiết kế ngôi nhà của mình phù hợp với những nguyên tắc của phong thuỷ chỉ mục đích đơn giản là “nhìn cho vừa mắt” hoặc hợp với “gu thẩm mỹ” mà không biết rằng vô hình dung đang tự thiết kế phong thuỷ cho mình. Chỉ khác nhau là người làm phong thủy tự phát sẽ không kiểm soát được hành động của mình, nếu có tốt thì cũng không biết được tốt vì sao và nếu xấu thì vì sao xấu. Tuy nhiên, về cơ bản kiến trúc chỉ chú trọng đến thẩm mỹ, công năng sử dụng, còn phong thuỷ mới tập chung vào việc nghiên cứu và điều chỉnh các sự tương tác đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của con người. Giả như nét đẹp thẩm mỹ của kiến trúc và sự điều chỉnh của phong thủy mâu thuẫn với nhau không thể khắc phục thì nên đề cao sự điều chỉnh của phong thuỷ. Khi đã coi kiến trúc là một môn học ứng dụng trong việc thiết kế thì cũng có thể coi Phong thuỷ là một môn học ứng dụng trong kiến trúc xây dựng đô thị. Hiểu được bản chất của Phong thuỷ và những quy luật vận động của tự nhiên thì cũng có thể kết hợp cả kiến trúc và Phong thuỷ để đưa ra giải pháp tối ưu thoả mãn những giá trị thẩm mỹ, công năng sử dụng, an toàn, phát triển cho một công trình xây dựng hoặc một bản quy hoạch đô thị làm thay đổi cuộc sống của một con người, một gia đình hay một đất nước. Hành vi của con người bị quyết định bởi ý thức, ý thức chịu sự tương tác của môi trường nên hành vi, cách ứng xử của mỗi người ảnh hưởng nhiều từ môi trường sống. Muốn người dân có tinh thần tôn trọng pháp luật, tư duy làm việc chuyên nghiệp, hạn chế tệ nạn trong những vùng đô thị thì nhà nước phải có những chiến lược quy hoạch hợp lý từ tổng thể đến chi tiết tuân thủ những nguyên tắc về sự: thống nhất, gọn gàng, thoáng đãng, vệ sinh, thuận tiện. Afeng.vn - Sưu tầm từ nguồn Vietlyso.com Hội thảo Phong thuỷ trong kiến trúc và quy hoạch xây dựng Phong thuỷ lâu nay vẫn được coi là một lĩnh vực “nhạy cảm”, rộng lớn, liên quan đến nhiều vấn đề trong đời sống con người. Hội thảo “Phong thuỷ trong kiến trúc và quy hoạch xây dựng” do Viện Kiến trúc (Hội Kiến trúc sư Việt Nam) và Viện Kiến trúc Nhiệt đới (Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội) tổ chức tại Đại Lải – Vĩnh Phúc, ngày 18 – 19/8/2007 với đầu bài: Hội thảo tập trung đề cập đến phần “dương trạch” quan hệ đến kiến trúc (KT) và quy hoạch xây dựng (QHXD)… Khái niệm đa chiều Có rất nhiều ý kiến định dạng phong thuỷ (PT) được đề cập tại hội thảo. Theo Ths.KTS Phan Đăng Trình, PT là một hiện tượng văn hoá có từ thời cổ đại, là thuật số đón lành, tránh dữ, phong tục dân gian lưu truyền sâu rộng, là quan niệm về mối quan hệ giữa con người với môi trường. PGS Lê Kiều thì “định nghĩa”: PT là địa thế, địa hình, là đất và nước quanh ta. PT là môi trường sống mà con người tồn tại trong đó. PT còn có nghĩa rộng là những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, sao trời, vũ trụ, trái đất, khí tượng, địa thế làm nhà, đặt mồ mả nên PT vừa gần gũi vừa xa lạ với con người… Còn KTS Lý Thái Sơn thì đưa ra nhận định: PT là nơi đan xen nhiều chiều (không chỉ về không gian địa lý, lịch sử, chủng tộc, dân tộc), phức tạp giữa các yếu tố khoa học tự nhiên và kỹ thuật (kiến trúc, xây dựng, quy hoạch đô thị – nông thôn, môi trường sinh thái, nghệ thuật tạo hình và tổ chức không gian) và khoa học xã hội và nhân văn (tâm lý cư trú cá nhân, cộng đồng, tín ngưỡng dân tộc, cách tư duy, kiểu sống) giữa vật thể và phi vật thể… Câu hỏi đặt ra là, vì sao lâu nay PT vẫn được coi là lĩnh vực nhạy cảm, không được nhìn nhận công khai? PGS.TS Doãn Minh Khôi cho biết: PT phân biệt thành hai loại dương trạch và âm trạch. Dương trạch nghiên cứu về thế giới “dương”, nơi con người sống và làm việc, đó là nhà ở, công sở, đô thị. Trong khi đó, âm trạch nghiên cứu về thế giới “âm”, nơi con người an nghỉ vĩnh viễn, đó là các công trình lăng mộ… Một lý do khác khiến PT càng trở nên “nhạy cảm” là vì “việc lãnh hội thi hành PT khó, nên lâu nay hình như ta chỉ nhìn nhận PT qua khía cạnh “pháp thuật” (ý kiến của ông Nguyễn Cảnh Mùi). Hay “Lý luận cơ bản của PT (kinh dịch, âm dương ngũ hành) thì rất trừu tượng, thuật ngữ sử dụng khác xa so với ngôn từ dùng hàng ngày… tạo ra một vẻ bí hiểm. Đọc và nghe về PT thấy một không khí sống, chết đan xen, trời đất hòa hợp, rõ không ra rõ, mờ không ra mờ làm cho quần chúng có thể tin, có thể không tin nhưng cũng sợ (PGS Lê Kiều). Đơn giản hơn do “thiếu nghiên cứu, thiếu tư liệu, PT đã được xem như là một lĩnh vực huyền bí, siêu thực (GS.TS Nguyễn Bá Đang). Sức hấp dẫn của phong thuỷ Chính vì không được nhìn nhận một cách công khai nên trong các công trình xây dựng công cộng hay tư nhân, nếu có tham khảo PT thì cũng chỉ là tự phát, tùy tiện, dựa cách ngẫu nhiên vào lòng tin của chủ công trình với một thầy phong thủy nào đó mà không qua bất cứ hội đồng kiểm nghiệm, đánh giá nào. Ông Nguyễn Văn Vịnh nêu một thực tế là giờ đây vào bất cứ nhà sách nào cũng có thể tìm thấy hàng loạt các cuốn sách viết về xây dựng, kiến trúc, sắp xếp nội thất, ngoại thất theo phong thủy… Nhiều sách đến mức những người ít kinh nghiệm chẳng biết mua sách nào cho phù hợp mục đích sử dụng. Theo ông Vịnh, tình trạng này chứng tỏ hai vấn đề. Thứ nhất, PT được thừa nhận là cần thiết và có giá trị ứng dụng. Thứ hai, xã hội thật sự có nhu cầu hiểu biết, ứng dụng thuật PT. Hội thảo thu hút hàng trăm kiến trúc sư trong cả nước tham dự. 24 người đã gửi bài tham luận, trong đó có những bài tham luận dày cộm, thể hiện quá trình nghiên cứu công phu. Các diễn giả diễn thuyết say sưa, tranh luận đến cùng… Tất cả các yếu tố này cho thấy giới làm nghề kiến trúc đặc biệt hứng thú, quan tâm đến PT. Thái độ nào dành cho phong thuỷ? Cho dù cách tiếp cận về PT còn khác nhau, cách hiểu cũng chưa hẳn đồng nhất nhưng các ý kiến tại hội thảo có điểm chung là nghiên cứu, nhìn nhận PT theo hướng khoa học. TS. KTS Lê Đình Tri cho rằng: “Nếu nhìn trên khía cạnh khoa học, PT chính là quan hệ tự nhiên vốn có giữa từ trường trái đất, địa tầng và sức khỏe, sinh lý con người”. PGS.TS Nguyễn Minh Sơn thẳng thắn bày tỏ quan điểm: PT không thể là một bộ môn bí hiểm, thần kỳ, càng không phải là loại tri thức cao siêu thần bí từ các thầy địa lý nói ra. PT chỉ đơn giản là phương cách để chúng ta lựa chọn sắp đặt ngôi nhà của mình cho an toàn và tốt đẹp hơn. Ths.KTS Phan Đăng Trình đồng tình: “Lý luận PT về dương trạch có nhiều yếu tố hợp lý đáng để chúng ta tham khảo khi xây dựng, sửa chữa nhà ở”. Đến đây, vấn đề mà các đại biểu quan tâm là có thể ứng dụng, tham khảo PT trong kiến trúc, quy hoạch xây dựng như thế nào? Ông Nguyễn Cảnh Mùi cho rằng: PT theo cách của kiến trúc hiện đại là phải đáp ứng những nguyên tắc như có cảnh quan tự nhiên đẹp, địa thế hài hoà, cao ráo, kết cấu vững chắc, ánh sáng đầy đủ, không khí trong lành, nguồn nước sạch sẽ, không có tiếng động, ồn ào, giao thông thuận lợi. Cảnh quan, nhân văn thuận theo đạo lý tự nhiên… TS Doãn Quốc Khoa thì bày tỏ quan điểm cá nhân: Ngoài những giá trị về lịch sử, văn hóa nói chung, những giá trị của PT có thể học tập, kế thừa trong QH xây dựng chủ yếu ở khía cạnh nhận thức và phương pháp. Cụ thể, đó là phương pháp tư duy tổng hợp; tính biện chứng trong nhận thức về cấu trúc của không gian xây dựng; giá trị nhận thức về mối quan hệ tác động con người – môi trường xây dựng, giá trị về vận dụng triết lý Phương Đông trong tổ chức không gian; giá trị về tính linh hoạt, không giáo điều trong vận dụng các nguyên tắc tổ chức không gian. Giá trị về tính hài hòa, cân bằng. Giá trị về kiến trúc – quy hoạch xây dựng nhiệt đới Việt Nam. Phát biểu hội thảo, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam Nguyễn Tấn Vạn kết luận: PT là một loại hình văn hóa được xã hội, người dân Châu á nghiên cứu, xem xét, truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay, PT cũng đã bắt đầu tràn sang các nước Châu Âu, bằng chứng là nhiều KTS Châu Âu đã đặt vấn đề nghiên cứu PT trong các dự án đô thị, nhà ở. Các bài tham luận tại hội thảo đều cho rằng PT là khoa học, có giá trị ứng dụng trong thực tế cuộc sống, giúp con người có môi trường sống tốt hơn. Do vậy, nên chăng PT cần tiếp tục được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn để nhận dạng bản chất khoa học và nếu thực sự PT là khoa học thì cũng nên chăng cần được nghiên cứu ứng dụng trong kiến trúc, quy hoạch xây dựng và đưa vào giáo trình đào tạo kiến trúc sư./ Ứng dụng của phong thuỷ trong dân gian Ths.KTS Phan Thanh Hải: Ngay từ thời Chúa Nguyễn, PT đối với đô thị Huế là một nhân tố vô cùng quan trọng, góp phần quyết định trong việc định hình bộ khung đô thị. ý tưởng QH về đô thị dựa trên nguyên tắc của PT thời kỳ này đã được triều Nguyễn sau đó kế thừa trọn vẹn và nâng lên một tầm cao mới. Tại Huế, các thành tố KT cấu thành nên kinh đô triều Nguyễn bao gồm cả KT dương cơ và âm phần đều được đặt trong một không gian thống nhất trong tính đa dạng, giới hạn từ núi về biển, lấy sông Hương làm trục liên kết tự nhiên rất hoàn hảo. Mã Đình Hoàn: Người Tày, Nùng xây dựng các công trình chủ yếu dựa vào địa thế, lệ thuộc vào không gian. Nơi làm nhà, xây dựng các công trình tâm linh là điểm giao hoà của trời đất, khí lành. Họ chọn những khu đất để xây dựng nhà ở, công trình phục vụ tín ngưỡng, tôn giáo theo nguyên tắc: Tiền án (mặt trước) sông nước, ruộng phải thấp, hậu chẩm (phía sau) phải có thế dựa vào núi, đồi. Thế núi sông phải thuận. Núi theo hướng chung Tây Bắc, Đông Nam. Núi quần tụ theo dải. Dựng nhà, dựng đình, miếu thế đẹp nhất là Tiền tam sơn, hậu ngũ nhạc (phía trước có ba ngọn núi, phía sau vừa có rặng núi với 5 khe suối), long mạch phải chạy dài chiều thuận từ phía sau ra phía trước, nghĩa là thấp dần ra khoảng rộng. Trục thần đạo (là đường thẳng định vị hướng của công trình, từ tiền án đến hậu chẩm) phải đi vào giữa công trình xây dựng. Núi, đồi hai bên phải có thế tay ngai vững trãi… GS.TS.KTS Nguyễn Bá Đang: Thuật PT vẫn tồn tại, lưu truyền không công khai trong xây dựng dân gian như xem tướng đất, hướng nhà, cổng ngõ tốt – xấu, hay những tục lệ trong việc xây cất nhà cửa như xem ngày động thổ, đào móng, cất nóc… Trong các trường đào tạo kiến trúc, thuật PT được đề cập một cách khái quát trong nhân tố văn hoá có ảnh hưởng đến sự hình thành bản sắc của kiến trúc truyền thống Việt Nam (môn Lịch sử KT Việt Nam). TS Nguyễn Tiến Đông: Đình làng chỉ quay về hướng có con sông. Theo đúng thuyết PT thì trước mặt của kiến trúc là trường lưu thuỷ và chắc chắn các cụ sẽ chọn thế đất để cất đình là bên tả có Thanh Long, bên hữu có Bạch Hổ, phía sau là Hắc Quy, trước có án (Châu Tước). Như vậy, khi xây cất đình làng, vấn đề không phải là hướng mà là thế đất có hợp PT không, có hội tụ các yếu tố đã nêu không. Theo GS Hà Văn Tấn thì: Nhiều người cho rằng đình là trung tâm của làng. Sự thật không phải bao giờ cũng như vậy. Vị trí của đình tuỳ thế đất dựng đình. Mà đất dựng đình thì được chọn theo quan niệm PT trong tín ngưỡng truyền thống./ Afeng.vn - Sưu tầm từ nguồn Báo Xây Dựng
    1 like
  19. Âm Trạch Liên Sinh – Mộ Phần Và Cuộc Sống Âm trạch là nơi mộ phần an táng người đã mất, từ xưa tới nay nó luôn được chúng ta coi trọng. Vào thời kỳ phong kiến, các tầng lớp thống trị trước kia càng đặc biệt coi trọng. Minh Thập Tam Lăng, Đền Vua Đinh Vua Lê, Hệ Thống Lăng Mộ Các Vua Nhà Nguyễn…..là các ví dụ điển hình. Các danh nhân trong lịch sử cũng luôn ngắn liền với các câu chuyện về Âm Trạch của gia tộc. Tất cả chúng ta nếu đã là người có chút nhận thức về cuộc sống, xã hội thì đều có thể nhận thấy tầm quan trọng của Phong Thủy Âm Trạch, nó quyết định cho con cháu đời sau vinh hoa phú quý, quan hệ tới vận mệnh của lớn bé trong toàn bộ gia đình. Vì thế một gia đình nếu đã có dự định chôn cất thì tất nên mời một Phong Thủy Sư chân chính tìm chọn đất Huyệt tốt. Làm Thế Nào Để Biết Phong Thủy Mộ Tổ Đang Hưng Vượng Hay Phá Bại ? Mộ tổ hưng bại thường thường hay thể hiện ngay trên mặt, tướng. Nếu người có ngũ nhạc cao, đó là mộ tổ đắc được Long Mạch Địa Thế tốt; Tứ thủy thanh tú, là do đắc được thủy pháp lợi. Nếu khí tốt đầy mặt, đó là mộ Tổ đắc khí. Mặt mà khô héo, tất là mộ tổ phong thủy bị tiết thoát khí. Người mà xương thô là do mộ tổ phong thủy lộ rõ. Xương nhỏ là mộ Tổ ẩn tàng. Nếu xương thô lộ, mắt cũng to lộ, là mộ tổ lộ rõ hoặc chôn nơi núi đá lởm chởm, sau vườn không táng. Phàm sau khi táng mà sinh ra dị nam. Là do nhật nguyệt đều nhau. Long Hổ chầu về, núi phía sau cao vút, khí đẹp trước mặt, đó là Thần Quang, đó là Đất Linh đắc khí, người của đều vượng. Sau khi chôn sinh con trai, mà khí trọc thần thô, thịt thô xương rắn , ngũ nhạc không ngay ngắn, tất là tứ thủy Thần lan tràn, như vậy không thế đạt Phong Thủy vậy. Nếu xương đầu cao đầy, gương mặt tròn đầy mà khí sắc khô héo, ánh mắt vô Thần, tất là phong thủy bị tiết thoát khí, chẳng bao lâu sẽ thua bại. Giả như khuôn mặt đầy đặn trong sáng, nếp mặt, mụn ruồi phá cung, tai mắt tiếng nói đứt đoạn , nhất định là thủy cảng, cầu đường xung phạm mộ phần lai Long. Chân tay eo lưng tàn khuyết và ngu ngốc điên cuồng, lại có râu mọc hồn loạn như cỏ như lông tất là mộ tổ bị cây lớn xâm phạm. Thần sắc tiêu điều, thất thần vô khí, điên đảo thác loạn, đó là do mộ tổ phong thủy bị thương tổn, long mạch ứ khí . Cải Tạo Mộ Như Thế Nào Táng Kinh nói : Phàm mộ có 5 điều không tốt thì nên cải tạo nhanh. Đó là: 1. Trũng thấp vô cớ tự hãm, trũng mà cỏ cây hô hé , mộ vô cớ nứt nẻ, bát hương vô cớ vỡ hoặc nứt. Tất nên nhanh sửa mộ (Rất Không Tốt ) . 2. Trong nhà có nam nữ hay gây điều tiếng dâm loạn (Tức phạm Đào Hoa) .Tất nên nhanh sửa mộ (Rất Không Tốt ) . 3. Trai gái ngỗ nghịch hoặc con cháu phản loạn, ăn phải đồ độc , điên cuồng ( Phạm bệnh tinh thần ) , kiếp hại , hình trường . Tất nên nhanh sửa mộ ( Rất dữ ) . 4. Nhân khẩu bất an , sự nghiệp thất bại , gia sản hao hụt , quan tư không ngừng , Tất nên nhanh sửa mộ ( Rất dữ ) . 5. Mộ táng tại bát diệu sát , thủy khẩu chảy từ hoàng tuyền thủy ( Tạo thành ma quỷ ) Tất nên nhanh sửa mộ ( Rất dữ ) . Như có 5 dấu hiệu đó tất nên nhanh sửa mộ . Phàm Sửa Mộ Có 3 Điều Tốt Không Nên Sửa : 1.Mở mộ thấy rùa sống , rắn ở đó là nơi có sinh khí ( Đại cát lợi ) . 2.Trong đất có suối nước ấm áp , màu như sữa hoặc như sương mù ( Đại Cát Lợi ) . 3.Dây tơ hồng bám xung quanh quan tài là có sinh khí đại quý . Có 3 điều đó là tốt . Nếu sửa tất phải tai họa từ tốt chuyển sang xấu . Trên đây là một số vấn đề chúng tôi tuyển chọn trong các tác phẩm cổ điển và hiện đại cung cấp tới bạn đọc như một tài liệu tham khảo. Để biết rõ hơn vấn đề Âm trạch ảnh hưởng tới cuộc sống con người xin các bạn tìm đọc tác phẩm “Tích Hợp Đa Văn Hóa Đông Tây Cho Một Nền Giáo Dục Tương Lai” của Giáo Sư Viện Sĩ Nguyễn Hoàng Phương ! từ phongthuy123.co.cc
    1 like
  20. Thường các cụ nói là cần dưỡng thai, nghĩa là người mẹ không nên di chuyển nhiều để dưỡng thai. Vậy thì thuê nhà cứ thuê nhưng ở nhà mẹ sinh con xong thì về cũng được mà. Nếu công việc bắt buộc phải đi thì nên đi nhẹ, nói khẽ, cười duyên nhé. Thân mến
    1 like
  21. Giải lại ?. Có thấy chưa, và thấy như thế nào ?. Ừ !, thì sao ?. Là sao ?. Phải chăng chỉ là vấn nạn anh em sinh đôi, sinh ba, sinh bốn ?.Còn gì nữa không ?. Nay xin có lời thế này. Muốn giải lại cung phúc đức, thời phải biết giải đoán phúc đức, và biết giải đoán tử vi trong mối liên hệ với phúc đức cung. Phải biết được tại sao tiền nhân lại nói phạm vi chi phối của phúc đức cung đến toàn bộ các cung còn lại trên lá số !!!. Không biết những điều sơ đẳng đó, coi như chưa biết luận tử vi. Đừng đề cập đến vấn đề khổng lồ đó làm gì !. Tử vi đúng là đã và đang, cũng là sẽ khẳng định, không phải chỉ có phúc hoa, thọ yểu của cá nhân một phần do công đức tổ tiên, mà còn bao gồm toàn bộ những gì thuộc về đời người hiện tại đều có liên hệ tới phúc đức của tổ tiên, mà được thể hiện tương đối rõ nét qua phúc đức cung. Tử vi cũng khẳng định âm trạch của dòng họ lên hệ đến thành bại của đời người - nếu biết xem. Và vấn nạn anh chị em sinh đôi, hay nhiều hơn nữa, được giải quyết bằng một lời giải tổng quát :Mệnh chủ, trong đó bài toán anh chị em sinh đôi, ba, tư, năm chỉ là một bài toán rất nhỏ mà thôi. Tôi không thấy sự cần thiết phải giải lại cung phúc đức !. Mà anh có thấy, thì xin hỏi, thế nào là giải lại ????. Thân ái.
    1 like
  22. Đây là hiểu biêt chủ quan của riêng chú , bể học mênh mông không tránh khỏi hạn chế , cẩn thận , cháu nên tham khảo thêm các bậc cao thủ khác nữa nhé
    1 like
  23. Tương quan tuổi vợ chồng trên trung bình, yêu nhau cứ lấy !Sinh hai con năm Tân mão - 2011, ẤT Mùi - 2015. Linh Trang
    1 like
  24. TH phân tích mệnh - lực tương tác trung bình trong 3 lực tương tác khi luận tuổi- sơ qua nhé vì TH hơi bận nên không phân tích hết ra đây. Bạn có thể thấy: 1978 Mậu Ngọ Thiên Hà Thủy 1980 Canh Thân Thạch Lựu Mộc 2006 Bính Tuất Ốc Thượng Thổ Trong mối tương quan mệnh: Bính tuất - mệnh Thổ và 1+ mệnh cha Thủy. Không tốt 2+ mệnh mẹ - mộc. Không tốt Cái cần chính là mệnh HỎa. Sắp tới chỉ có Quý Tỵ là OK. Quý Tỵ tạo mối tương sinh tốt cho cả nhà. Dĩ nhiên TH đã cân nhắc 2 lực tương tác kia. Mến chào!
    1 like