-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 27/03/2010 in all areas
-
Tử vi: Khoa học hay mê tín Hoàng Tùng (Tổng hợp từ các báo Trung Quốc) chungta.com Tạp chí Chân trời UNESCO 08:33' AM - Thứ sáu, 11/11/2005 Tử vi là một dạng thức khoa học hay chỉ là một hình thức bói toán mang yếu tố mê tín và lừa đảo? Câu trả lời đó còn đang gây tranh cãi. Tuy nhiên, có thể nói, với tính chất khoa học thần bí của mình, Tử vi là một đối tượng nghiên cứu khá thú vị. Tử vi - khoa học mà huyền bí Trong những kiểu bói toán, Tử vi thường được coi là một trong những kiểu bói toán có tính chính xác cao và được nhiều người tín nhiệm. Trước khi khoa Tử vi ra đời, Trung Quốc đã có nhiều hình thức bói toán khác như "64 quẻ bói" do Chu Vãn Vương dựa trên Hà Đồ tạo thành. Sau đó, nền triết học Trung Hoa đã đi qua nhiều luận thuyết, như thuyết âm Dương Ngũ Hành dựa trên sự tương sinh tương khắc của 5 yếu tổ cơ bản nhằm giải thích đời sống và tuỳ từng cặp yếu tố kết hợp với nhau, nó sẽ ra những kết quả khác nhau với độ biến thiên rất phức tạp. Đây là học thuyết có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Tử vi sau đó . Về phạm trù số mệnh được đề cập đến ở vị trí trung tâm của Tử vi, thực ra trước đó đã có nhiều nhà triết học có những cái nhìn khác nhau về nó. Khổng Phu Tử nói: "Tận nhân lực, tri thiên mệnh" nghĩa là hay cố gắng làm hết sức mình rồi thành bại thế nào mới biết được mệnh trời. Triết gia Trang Tử thì cho rằng, con người thành bại, nghèo hèn hay giàu sang đều do định mệnh, ngay cả vận nước cũng do thiên mệnh chi phối không thể thay đổi. Còn học giả Tuân Tử thì phủ nhận sự tồn tại của số mệnh và cho rằng, tất cả hoạ phúc của con người đều do chính hành động của họ tạo thành. Đến thời Tống, nền văn minh Trung Hoa đã có bước phát triển mạnh mẽ trong việc nghiên cứu về nhân học. Nhiều triết gia đã chuyên tâm nghiên cứu về con người nhằm tìm ra những nguyên tắc về cuộc sống. Tử vi tuy ra đời chậm nhưng nó đã tổng hoà được những tinh hoa của bói dịch, nhân tướng học, thiên văn học của Trung Quốc cổ đại. Tử vi đã quy nạp lại cho mình một hệ thống thuật ngữ học thuật riêng. Một số quan điểm trong Tử vi tuy không được chứng minh nhưng vẫn áp dụng trong đời sống hàng ngày như áp dụng thuyết âm Dương Ngũ Hành vào y học. Với những nét đặc trưng độc đáo của mình, nhiều nhà khoa học ngày nay xem Tử vi như là một bước hển về nhân học Trưng Hoa thời Trưng đại. Đối tượng nghiên cứu của Tử vi chính là con người và số mệnh con người. Con người trong Tử vi là con người gắn liền với gia đình và những mối quan hệ xã hội. Có thể coi Tử vi là một dạng thức khoa học kết hợp triết học một cách khá sơ khai và chất phác. Loại hình nghiên cứu của nó dựa trên tính trực quan và mang nhiều yếu tố triết học sơ kỳ. Tử vi dừng nhiều phương pháp nghiên cứu kết hợp đó là phân tích, tổng hợp và động. Trong đó chia thành đại phân tích và vi phân tích. Những triết lý bói toán cũng được hệ thống hoá dựa trên nền tảng của triết lý âm Dương Ngũ Hành. Tử vi vận động theo các vì sao ở 10 Can, 12 Chi dịch chuyển và biển đổi theo thuyết Bát Quái, tương tác với nhau theo thuyết âm Dương Ngũ Hành. Vậy Tử vi là gì và ai là người đã có công hình thành và phát triển nên dạng thức khoa học thô sơ này? Di Hi -Trần Đoàn lão Tổ Ông tổ của Tử vi là một đạo sĩ tu trên núi Hoa Sơn có tên hiệu là Di Hi và tên thật là Trần Đoàn, sống vào thời nhà Tống. Dựa vào Kinh dịch cùng những khai triển về thuyết âm Dương Ngũ Hành của Đổng Trọng Thư, một triết gia thời Hán, ông đã lập ra Tử vi với mục đích tìm hiểu con người và số phận con người, dựa trên hệ thống quy luật biến hóa của thuyết về Vũ trụ thời đó. Bằng cách tích hợp những biến số của đời sống dựa trên ngày sinh tháng đẻ Trần Đoàn đã tìm ra nguyên tắc viết nên "lá số Tử vi" rất gọn gàng với 12 Cung và hơn 100 vì sao nhằm tiên đoán số phận của con người. Lá số Tử vi gồm 10 Chính tinh và nhiều Phụ tinh an định trên 12 Cung nằm trên một Thiên Bàn. Những vì sao và cung mệnh có mối quan hệ tương tác rất phức tạp, có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến bản mệnh. Trong những ngôi sao bản mệnh, sao Tử vi là ngôi sao quan trọng nhất (Tử vi là màu tím huyền diệu) . Tử vi là tên ngôi sao Chủ tinh của con trưởng Vua Văn Vương đời Chu: Trung cung Tử vi đại đế cai quản hai cung Nam Tào, Bắc Đẩu, nắm giữ chuyện sinh tử của thiên hạ trong tay. Các vua chúa ngày xưa cũng coi Tử vi chính là sao tướng tinh của mình và cho rằng, cung sao Tử vi trên bầu trời tương ứng vào chính Hoàng cung. Tương truyền Trần Đoàn là một đạo sĩ kỳ dị. Ông ngủ suốt ngày và giấc ngủ đầu đời của ông dài tới 4ọ năm. Theo truyền thuyết thì sau này, Trần Đoàn lão tổ có gặp và dâng cho Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn cuốn Tử vi chính nghĩa kinh để nhà vua dựa vào đó mà biết cách lựa chọn người tái giúp quốc thái dân an. Sau này, nhà Tống dựa trên cuốn đó mà soạn thành Triệu thị minh thuyết Tử vi (Sách của họ Triệu giảng giải minh bạch về thuyết Tử vi) Ngoài ra, cũng có những học giả nổi tiếng khác viết về Tử vi như Tử vi âm dương chính nghĩa của Lã Ngọc Thiềm và Tử vi đẩu số toàn thư do học giả La Hồng Tiên biên soạn. Đến đời Minh, có thêm tử vi thiển thuyết của Lưu Bá Ôn và Lịch số Tử vi Toàn thư của Hứa Quang Hy. Dưới triều nhà Thanh, tất cả những nghiên cứu nhỏ lẻ về Tử vi đã được .tập hợp vào thành Tử vi đại toàn. Trong một lá số Tử vi, nhiều nhất có 118 sao. Mỗi ngôi sao có một ý nghĩa. Sao này khi tương tác với sao khác lại có ý nghĩa khác Cho dù sự chính xác của Tử vi còn phải bàn cãi, nhưng việc "mã hoá" và "sơ đồ hoá" số mệnh của con người vào một lá số Tử vi đã cho thấy tham vọng lớn lao của Tử vi. Ngày nay, dưới con mắt của các nhà khoa học, Tử vi được coi là một loại hình khoa học huyền bí kết hợp với nhân học và sự phân tích độc đáo trong việc tiên đoán số mệnh con người. Thực tế, để xem chuẩn một lá số Tử vi là một điều không thể vì nó là một hàm số có quá nhiều biến số tương tác lẫn nhau. Nếu coi các nguyên tắc tương tác giữa các sao là một hàm số, thì lá số Tử vi của một người là một hàm số có tới hơn 100 biển số. Đây là một hàm số quá phức tạp và không có lời giải thấu triệt. Cũng nhiều người cho rằng, thực ra, Di Hi Lão tổ Trần Đoàn không phải là người sáng tạo ra Tử vi mà ông chỉ là người hệ thống hoá lại Tử vi mà thôi. Tử vi cũng không nên được coi là một khoa học độc lập mà nên coi nó là sự kết hợp của nhiều nguyên lý khoa học khác trong triết học Trung Hoa. Khoa học hay mê tín Tử vi vừa mang tính khoa học thống kê, vừa mang tính bói toán và có phần dị đoan. Nếu xét theo những điều kiện cần thì Tử vi có thể được coi là một khoa học theo một mặt nào đó. Tử vi có hệ thống lý luận riêng với những thuật toán riêng và cách tiếp cận nghiên cứu nhân học độc đáo. Ngoài ra, Tử vi kgông có tính lập luận và lôgích học rõ ràng, từ đó đưa ra được những trải nghiệm và chứng minh từ thực tế đời sống các cung trên lá số Tử vi là những hàm số căn bản. Trong các cung có Chính tinh và Phụ tinh. Những ngôi sao này tương tác với nhau theo quy luật âm Dương Ngũ Hành khiến một lá số Tử vi trở thành một " đa hàm số” với nhiều biến đổi rất phức tạp. Điều đó cũng phần nào thể hiện Bản mệnh của con người cũng thật phức tạp. Tử vi là một phương pháp, một công thức, một đồ biểu nhưng nó không đo lường được về lượng cũng như về chất một cách chính xác. Nó là một hệ thống tương quan giữa các yếu tố phức tạp, và khi đưa ra không thể lý giải một cách máy móc hay bằng một ước đoán cụ thể nào. Tử vi khiến người ta nghĩ về sự liên hệ giữa các yếu tố trong cuộc đời và kết luận về một lá số Tử vi đòi hỏi phải dựa trên sự tổng hợp các nhận định cục bộ. Con người và bản mệnh trong Tử vi là một con người toàn diện, bao hàm cả thể chất lẫn tinh thần cả di truyền lẫn bản tính cá nhân, cả môi trường gia đình và xã hội, cả công danh lẫn tài lộc. Con người đó chính là "sự tổng hoà của những mối quan hệ xã hội". Tử vi không tách rời các phương diện và xem xét con người ở một thể giới quan tổng hợp có tương tác với môi trường xã hội chứ không phải biệt lập ở một phương diện cụ thể. Tuy nhiên, ông có những thiếu hụt trong Tử vi khiến nhiều người cho rằng, Tử vi không phải là một khoa học, nhưng vẫn cần phải nhìn nhận giá trị của nó. Tử vi chỉ là một quá trình xét đoán dựa trên những hàm số và biến số được thể hiện bằng nhũng ngôi sao trên lá số Tử vi. Chính vì vậy, tính chính xác của Tử vi không được bảo đảm. Cách tính giờ của tử vi cũng có nhiều thay đổi khiến người ta càng nghi ngờ vào tính xác thực của Tử vi. Từ xưa, người ta tính giờ dựa vào Mặt trời. Nhưng từ khi chịu ảnh hưởng của phương Tây, thời gian trong ngày được chia làm 24 múi. Quy ước này khác với quy ước của Tử vi chia một ngày làm 12 múi. Tử vi cũng có hạn chế là coi người tu hành không nằm trong vòng cung mệnh nên không xem được. Nó cũng không giải thích được sự khác nhau giữa số mệnh của những người sinh cùng thời điểm. Tai hại hơn nữa, từ việc sùng bái Tử vi dẫn đến việc một số gia đình cho mổ lấy thai nhi vào giờ tốt để có lá số Tử vi tốt, đây là một việc làm mù quáng, đầy mê tín và thiếu khoa học. Lời kết Chính vì tính phức tạp trong Tử vi nên cón lúc cách nhìn trái ngược nhau về hiện tượng lý thú này. Nhiều người quan niệm Tử vi là một khoa học có sức mạnh siêu nhiên, giải thích được tất cả về số mệnh và bí ẩn của đời người. Tử vi có thể tiên liệu được mọi biến cố, kết luận chính xác về cốt cách, nhân phẩm, tâm tính, gia đình, bè bạn, quan trường, tài sản... của con người. Chỉ cần nhìn vào lá số Tử vi là có thể biết mọi việc trong quá khứ và tương lai. Thiết nghĩ đây là một quan niệm sai lầm, đề cao quá đáng vai trò của Tử vi, cho nó một giá trị lớn quá tầm vóc vốn có của nó. Cũng có nhiều người cho rằng, Tử vi là một loại hình mê tín dị đoan, chỉ dựa vào vài điều xằng bậy để lừa đảo bằng những tà thuật với động cơ trục lợi. Những suy đoán dựa trên lập luận và lôgíc của Tử vi đều là vô giá trị. Thiết nghĩ đây cũng là một nhận định vội vàng. Thực chất, đối tượng nghiên cứu của Tử vi chính là con người. Tử vi cũng có nhiều ưu điểm nhưng cũng đầy khiếm khuyết. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sự suy đoán kết hợp với những kinh nghiệm quan sát từ thực tế đời sống khiến Tử vi có một sức hấp dẫn thú vị. Thiết nghĩ, Tử vi là một ngành nghiên cứu nhân học khá lý thú. Nó dựa trên các sao trong Tử vi để mệnh danh một yếu tố trong con người và sự trong tác qua lại giữa chúng, nhằm đưa ra những nhận định dựa trên những suy đoán đã được thống kê về số phận và tính cách con người. Nếu ta biết gạn đục khơi trong, nhìn nhận những giá trị khoa học và triết học cơ bản cũng như loại trừ những yếu tố mê tín dị đoan của Tử vi thì đây chính là một trong nhưng vấn đề khoa học rất đáng được quan tâm nghiên cứu một cách nghiêm túc. Nguồn: Tạp chí Chân trời UNESCO ---------------------------- Ý kiến nhận xét dưới bài viết: Tại sao tử vi sai? (30/06/2009 04:01:24 AM) Anh bạn tôi là một nhà khoa học " mắt xanh mũi lõ" và là người Công giáo, thế nhưng anh ấy mê tít Tử vi. Anh ấy có thể lập bảng và an sao trong đầu như một thày bói lão luyện. Chúng tôi có nhiều trao đổi ý kiến về Tử vi. Chúng tôi thấy rằng Tử vi là khoa học thực thụ. Tử vi là cách giải bài toán đa biến của cuộc đời bằng ma trận thông tin. Các sao trong tử vi có ý nghĩa giống các ký hiệu toán học vậy. Tử vi có độ chính xác khoảng 70%, Thầy giỏi có thể 90%. Quả là ấn tượng khi so với kết quả đoán luôn là 0% dù là nhà toán học lỗi lạc nhất. Thế nhưng tại sao trong cuộc sống ta lại hay gặp Tử vi sai ? Loại bỏ những nguyên nhân như nhớ không đúng ngày tháng năm sinh, gặp phải "Thầy dỏm", bản thân bài toán hàm số của tử vi vẫn còn thô sơ so với cuộc đời..Ta còn có nguyên nhân Triết học. Ta biết rằng Vật chất và ý thức xuất hiện đồng thời trong vũ trụ này, trong bất kỳ tồn tại khách quan lẫn chủ quan. Vai trò của Vật chất và ý thức là ngang nhau. Một tiến trình vận động, một quy luật dù là khắt khe nhất của vũ trụ đều có thể thay đổi được bằng cách tác động tinh thần vào nó. Và đời là duyên khởi, do đó nhiều lúc chỉ cần tác động tinh thần vào một điểm một khâu nào đó là làm thay đổi toàn bộ tiến trình vận động hoặc phá vỡ quy luật. Chúng ta không hiểu sâu sắc chuyện đó ( biết vai trò lớn lao của vật chất mà có phần coi nhẹ vai trò của ý thức.) nên chúng ta làm kết quả của Tử vi sai. Khi ta nhận kết quả tử vi của Thầy giỏi, ta biết một số diễn tiến xấu và ta có ý thức tránh làm không xảy ra diễn biến đó nữa, rồi cũng từ đó, tiến trình cuộc đời lại chuyển sang hướng khác. Tử vi đã sai. Khi ta nhận được kết quả quá tốt đẹp, ta ỷ i sinh lười, đời thế là tiêu! Tử vi cũng sai nốt. Tôi được Cha tôi lấy một lá Tử vi khi tôi mới ra đời. Vì lá số tốt cho nên ông cụ cất biến. Ngày tôi xa quê hương thì Mẹ tôi mới lục lại lá số đó đưa cho tôi dặn 60 tuổi mới mở. Kết quả: đúng gần hết( 90%). Đáng ngạc nhiên: 10 tuổi xe đụng phải nằm nhà thương nhưng không sao ( Đúng), 15 Tuổi ở Sài gòn mà bị rắn cắn nhưng không sao ( Đúng), Sẽ là Bác sĩ ( đúng), sẽ lấy vợ năm đó ( đúng) sẽ có 2con trai vào những năm..( đúng nốt), Sẽ tha hương xứ người ( quá đúng). Lúc tôi mở ra là lúc tôi biết khi già sẽ bị bệnh cao huyết áp gây chết bất đắc kỳ tử. Vội vàng đi kiểm tra ( từ trước khoẻ như voi, lại là Bs nên tôi không bao giờ đi khám kiểm tra cả) mới phát hiện ra cao huyết áp thể tiềm ẩn. Bây giờ tôi dùng thuốc đều đặn và đi làm từ thiện đều đều, mong rằng tiến trình sống sẽ khác. Khi thấy lá số tốt, hãy bỏ nó đi và sống tự nhiên. Khi thấy lá số xấu, hãy cải số với suy nghĩ và hành động " Đức Năng Thắng Số". Khi các bạn trẻ bị " Thầy" Phán: số kỵ tuổi, nên vợ nên chồng sẽ có người phải chết. Tôi khuyên bạn hãy tâm niệm như ông Nguyễn Trần Bạt đã khuyên " dù có mưa xin cứ đi ra đường" - mang theo áo mưa sợ cái gì!. Thật ngớ ngẩn khi chỉ vì lời thầy bói mà hy sinh cuộc tình đẹp. Cứ tự tin CƯỚI và luôn tâm niệm muốn không chết phải sống luôn tôn trọng thương yêu nhau, Chung thuỷ, cùng nhau làm việc thiện cho đời là chắc chắn sẽ TUYỆT VỜI đấy nhé!1 like
-
Đức Pháp Vương: Hãy chuyển hóa oán hận thành yêu thương! "Tôi khuyên người VN quay trở lại với đời sống tâm linh, thực hành chuyển hóa những giận hờn, oán hận thành yêu thương, thiện hạnh" - Đức Pháp Vương Gyalwang Druk.Việt Nam - nơi con người biết hướng về tâm linh Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Hôm nay là một ngày của hòa bình, ân phúc, của điều gì đó thật kì diệu, khi Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII có mặt tại đây, cùng chia sẻ với độc giả VietNamNet về những điều yêu thương và tốt đẹp. Trong nhiều thư của độc giả gửi về tòa soạn, có rất nhiều người ca ngợi, tỏ lòng tôn kính đối với Ngài. Ngay cả những người không theo một tôn giáo nào, đã tỏ lòng tôn kính và bày tỏ tới Ngài những nồi niềm dày vò trong họ. Có thể, đây là lần đầu tiên họ bày tỏ - trước Ngài, mà có lẽ trước đó họ có thể cũng chưa từng bày tỏ với chính người thân của mình. Và họ mong rằng, những lời chỉ dẫn của Ngài sẽ như một nguồn sáng, lời chia sẻ của người bạn, người thầy dành cho họ. Thay mặt bạn đọc, tôi xin bày tỏ lòng tôn kính đối với Ngài và cảm ơn sự thăm viếng của Ngài. Đức Pháp Vương cùng tăng đoàn và các nhà báo VietNamNet làm lễ trước giờ phỏng vấn Câu hỏi đầu tiên, xin được hỏi Đức Pháp Vương: Đây là lần thứ 3 Ngài đến VN - mảnh đất vốn có quá nhiều đau khổ và chiến tranh, nhưng cũng là mảnh đất của những con người luôn luôn mang khát vọng hòa bình lớn lao, và họ hi sinh tất cả cho hòa bình của dân tộc họ và của con người nói chung trên thế gian. Vậy nhân duyên nào làm cho bước chân của Ngài tới nơi đây? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Xin chân thành cảm ơn VietNamNet đã mời chúng tôi đến đây, để chia sẻ những tình cảm, tri kiến đến với mọi người. Đất nước Việt Nam đã trải qua nhiều khổ đau, thiệt thòi, nhưng nơi đây, tâm người VN vô cùng khát khao hòa bình, chân hạnh phúc. Trong tâm tư của tôi, có những hình ảnh rất đẹp về người VN. Nơi đây, con người rất để tâm đến vấn đề tâm linh. Và những người lãnh đạo cũng quan tâm đến sự phát triển cả về xã hội và tâm linh. Dù đất nước này đã trải qua nhiều thăng trầm, nhưng chiến tranh đã lùi xa, VN đang trong giai đoạn phát triển. Với quan kiến của tôi, VN sẽ phát triển cả hai chiều về xã hội và tâm linh. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Nhiều bạn đọc của VietNamNet đang nghĩ về đất nước mình, và tin vào những điều mà Đức Pháp Vương đã nhìn thấy qua tuệ nhãn của mình. Vậy trong khoảng thời gian đầy đổi thay giữa lần thứ nhất, thứ hai, và thứ ba đến VN, Ngài có thể nói cho những người đang ở trên mảnh đất này, rằng những điều kì diệu gì đang hiện ra? Và với một đòi hỏi có vẻ thô thiển của tôi, xin Ngài có thể mô tả sự kỳ diệu nào đó mà Ngài tận chứng trên mảnh đất này? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Từ lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba đến đây, tôi nhận thấy người VN đã có phương cách tâm linh hướng cuộc đời mình đi cho có ý nghĩa hơn. Tôi đã nhìn thấy niềm hạnh phúc của họ qua những nụ cười hoan hỉ khi được lắng nghe giáo pháp, những ánh mắt khát khao phát triển tâm linh. Về cuộc sống bên ngoài, tôi cũng thấy sự phát triển xã hội, cuộc sống tốt hơn, no đủ hơn. Phật giáo đã được truyền vào VN hơn 2000 năm. Như vậy, nguồn gốc của người VN là Phật giáo. Người VN nên quay trở lại tìm cội nguồn của chính mình. Niềm vui của tôi là được thấy mọi người cười trong hạnh phúc, tri ân, phát triển tâm linh của mình. "Không có ai mang khổ đau cho mình ngoài chính mình" Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có một độc giả đặc biệt gửi thư đến cho Đức Pháp Vương, là bà Đỗ Thị Huệ. Bà đã từng theo con đường tu hành, nhưng cuối cùng giã từ cửa Phật, vì bà chứng kiến người một người bạn thân của mình sống trong chân thành, lao động cần cù, nhưng không thay đổi được đời sống gia đình. Họ vẫn sống trong đói nghèo, bệnh tật và có những lúc không được đối xử công bằng. Trong khi đó, có những người trong đời sống này sống một cuộc sống toan tính, lừa lọc thậm chí chà đạp lên lợi ích của người khác, nhưng lại sung túc và giàu có. Bà Huệ không thể cứu giúp được người bạn của mình, bà Huệ thấy bất lực và đã rời bỏ cửa chùa. Nếu bây giờ người đàn bà bất hạnh đó đến trước Ngài để hỏi "đức tin của tôi sẽ hướng vào đâu, tôi tìm hạnh phúc ở đâu trong hiện thực xã hội này". Ngài có thể nói với bà điều gì, và bằng cách nào Ngài mang lại cho người đàn bà ấy đức tin? "Đối với quy luật nhân quả, không bao giờ quá muộn" Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Đạo Phật, thật ra không phải là một tôn giáo, mà là cách thức, phương tiện giúp con người sống có hạnh phúc ngay trong cuộc sống thực tại. Như vậy, điều quan trọng là các phật tử và mọi người khác, nên làm thế nào để hướng cuộc đời mình theo cách sống có ý nghĩa, tốt đẹp, an vui, hài hòa với mọi người. Trong trường hợp câu hỏi của bà Huệ, đạo Phật có một danh từ gọi là quy luật về "Nghiệp". Đơn giản hơn, là quy luật nhân - quả. Nếu ta gieo trái ngọt, sẽ có trái ngọt. Gieo hạt cay đắng, sẽ nhận quả đắng. Đôi khi, vì chưa biết giáo lý nhân quả nên người ta thường thắc mắc là đời này tôi sống tốt, mà có nhiều khổ đau. Tại sao có người sống quá bất thiện, mà lại có hạnh phúc. Bởi ta chưa biết rằng đời trước, năm trước ta đã gieo nhân bất thiện, nay ta phải nhận quả đắng. Còn những người khác, có thể đời trước họ đã nhân lành, nên bây giờ họ vẫn đang được hưởng quả lành. Tuy thế, tất cả chúng ta đều không biết rằng khi nào quả của mình sẽ chín. Như chúng ta trồng một cái cây, không thể ngồi mong đợi quả chín. Đến mùa, đủ nhân duyên, điều kiện thì trái sẽ chín, ngoài sự kiểm soát. Nhân quả giống như một vòng quay. Nhân tạo quả, quả lại tạo nhân. Như ta gieo một hạt, cho quả, quả lại tạo ra vô số hạt mới. Chúng tôi gọi là vòng luân hồi sinh tử. Trong đó, con người bị dẫn dắt, trôi lăn trong vòng sinh tử. Nhưng chúng ta không quá muộn trong bất kì điều gì. Nếu đời trước chúng ta đã phạm sai lầm, nhưng nay biết tỉnh ngộ, biết tìm một hướng sống mới, ngay bây giờ vẫn có thể loại trừ được Nghiệp. Giống như bệnh ung thư, nếu phát hiện sớm thì vẫn có cách điều trị. Đối với quy luật nhân quả, không bao giờ quá muộn, chúng ta vẫn có thể làm điều gì đó, và nên nỗ lực làm gì đó, để loại trừ bớt khổ đau trong kiếp sống hiện tại bằng cách sống tốt hơn, hòa bình hơn, chia sẻ với mọi người hơn. Đừng vì một bất công, bằng cặp mắt cái nhìn hiện tại, mà từ bỏ tôn giáo, từ bỏ con đường đẹp đẽ mà mình đang theo. Tôi khuyên mọi người hãy tin vào quy luật giữa nhân quả, chấp nhận quả của mình đã chín, dù là quả khổ đang phải chịu đựng. Vẫn còn cách thay đổi cách sống, thay đổi hành động của mình, đừng hủy hoại niềm tin của mình. Sống không có đức tin thì cuộc sống ấy đi vào tăm tối. Tôi khuyên bà Huệ hãy tìm hiểu kĩ về quy luật nhân quả, phát khởi niềm tin, giúp mọi người có hành động tích cực, bằng hài hòa, thương yêu, thiện hạnh, cân bằng với những hạt giống bất hạnh mình đã gieo từ nhiều đời. Hãy tìm cho mình đức tin để chuyển hóa cuộc sống hiện tại. Hãy trở lại với cuộc sống tâm linh, làm những gì mình có thể để loại trừ bớt các bất thiện nghiệp. Đau khổ này không phải do ai đem lại, mà do chính mình đã gây ra có thể từ tháng trước, năm trước, hay vô số đời trước. Có một số người luôn đổ lỗi cho Phật, Trời, Chúa, đã mang lại bất hạnh cho chúng ta. Nhưng sự thực, cách nhìn của triết lý Phật giáo là không bao giờ đổ lỗi cho bất kì ai. Người đáng đổ lỗi nhất chính là bản thân mình, là sự lười biếng, buông trôi của mình. Như khi ta biết mình có bệnh, đến tìm bác sĩ, bác sĩ hướng dẫn một vài phương cách mà vẫn không nghe theo. Khi bệnh nặng thì ta không thể đổ lỗi cho bác sĩ. Không có ai mang khổ đau cho mình ngoài chính mình. Hãy nỗ lực cố gắng, cải thiện cuộc sống hiện tại, vẫn kịp thời chuyển bớt những kết quả xấu mình đã tạo. Tìm về cội nguồn khổ đau, bất an là chính chúng ta. Trở về để cải thiện chính mình. Hạnh phúc sẽ luôn bên chúng ta. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có nhiều bạn đọc bày tỏ rằng, họ tin vào Đức Phật, đức Chúa Trời, các vị Thánh khác có một quyền năng tối thượng. Họ tin các vị có thể biến thế gian từ đời sống ngày thành đời sống khác. Nhưng họ cũng băn khoăn - một băn khoăn hết sức trong sáng - tại sao các Ngài lại cứ để chúng sinh buồn bã mãi, đau khổ mãi, đấu tranh mãi như vậy. Tại sao không có một ngày các Ngài đưa bàn tay của mình trải dài một hạnh phúc bất tận trên thế gian này. Để đến một ngày mới, cả người già, người trẻ, người tin hay không tin, người tốt kẻ xấu đều được hưởng những gì đẹp đẽ nhất. Không chiến tranh, thù hận, đói khát, nguyền rủa. Phải chăng, có một thông điệp, hay bí mật gì đó của đức Phật, Chúa Trời gửi cho con người ở thế gian này, rằng không thể dùng phép thiêng để thay đổi ngay mọi thứ trong khoảnh khắc?Rằng phép thiêng là chính ở các ngươi ? "Không có ai mang khổ đau cho mình ngoài chính mình. Hãy nỗ lực cố gắng, cải thiện cuộc sống hiện tại" Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Đây vẫn là vấn đề nhiều người chưa hiểu tại sao con người đau khổ, tại sao Chúa, Trời, chư Phật cứ để con người đau khổ, trầm chìm mãi, mà không làm cho chúng sinh mở mắt ra đã thấy mọi sự thay đổi lớn, an vui hạnh phúc sẵn đầy đủ. Vì chúng ta chưa hiểu rõ quy luật nhân quả. Không ai tạo khổ đau cho ta ngoài bản thân ta. Có người nói, tôi không làm gì tạo nên nhân khổ đau. Nhưng hãy thiết thực nhìn cách mà ta đang sống, bằng cách ăn thịt chúng sinh, giết hại chúng sinh, phá hoại môi trường, đẩy vào môi trường cả những ô nhiễm vật chất và ô nhiễm tinh thần, những từ trường của sân giận, ganh ghét, để rồi dẫn đến những bệnh dịch không thể chữa được. Chính chúng ta đang tạo nên nhân khổ đau, nhưng ta lại lờ đi, không quan tâm. Nếu có ai đó kêu gọi ta bảo vệ môi trường, ta vờ như không biết hoặc không muốn biết là chính mình đang mang đến tai họa cho thế hệ mình và thế hệ tương lai. Trong lúc chịu đựng các hậu quả, ta vẫn chưa có tinh thần bảo vệ môi trường cho các thế hệ sau. Khổ đau là do ta tạo ra, và ta gánh chịu. Không thể đổ lỗi. Hãy quay lại cải thiện lối sống nơi chính mình. Sống cởi mở, yêu thương, chan hòa vào cộng đồng, tập thể mà ta đang sống. Giáo lý Đức phật đã dạy ra sống bớt hận thù, bớt sân giận. Học giáo lý, ta sẽ cải thiện đời sống của mình. Có người nói đến sự-gia-trì của đức Phật, nhưng thực ra, đức Phật chỉ là người dẫn đạo, còn mọi thứ đều do chính chúng ta làm. Nương vào sự dẫn đạo đó, nếu ta áp dụng, thực hành phát triển lòng từ bi, ta biết yêu thương cởi mở, giúp đỡ, trân trọng người khác, thì ta có hạnh phúc. Ngay cả những người thân quen nhất, đối khi vì quá quen thuộc, mà ta quên mất trang trải biểu lộ tình thương với họ. Hãy học để yêu thương những người mà ta tưởng như ta đã quá nhàm chán. Trải rộng ra là với những người mà mình hạnh ngộ. Trong lúc mà tâm mình thay đổi, hạnh phúc sẽ có mặt, như là một trò ảo thuật như mọi người mơ ước, mà chính chúng ta phô diễn được. "Tự tin nương tựa vào chính mình" Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có một hiện thực làm cho chính bản thân tôi, một hiện hữu trước Ngài, cũng cảm thấy lúng túng khi phải đối diện. Hiện thực đó là mấy nghìn năm lịch sử, đền thờ, chùa chiền mỗi ngày được xây nhiều hơn, sách thánh, giáo lý được in nhiều hơn, nhưng tội ác cũng nhiều hơn, sự ghen tị, lòng vô cảm giá lạnh, nỗi hận thù tăm tối... cũng nhiều hơn. Vậy thưa Pháp Vương, Ngài lý giải gì về điều mâu thuẫn và bất ổn này? Chúng sinh phải đợi chờ đến bao giờ cho sự đổi thay của thế gian khi mà họ đã chứng kiến những điều đau khổ kia kéo dài mãi trong suốt chiều dài lịch sử của con người trên thế gian? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Nhiều tôn giáo hiện nay đang có một vài khó khăn. Một số tôn giáo đang không thực sự thực hành pháp, không đưa con người vào thiện hạnh, cải thiện cuộc sống, mà lại hướng theo bè đảng. Đây là một sai lầm, không đúng theo tôn chỉ của các bậc khai sáng ra tôn giáo ấy. Những điều mà ta cần nương tựa là cải thiện chính mình, trở thành người tốt, thay đổi chính đời sống của mình. Còn nếu ai đó cho rằng có sẵn một nơi nương tựa, che chở, như một số người Hồi giáo cho rằng đã có Chúa Trời che chở, mà dùng súng đạn giết hại người khác, cho rằng tội ấy đã có Thánh chịu - đó là cái nhìn vô cùng lầm lạc. Lịch sử đã có những cuộc chiến tranh đẫm máu như thế, chỉ vì họ hướng tôn giáo lệch đường. Nhà thờ nhiều hơn, kinh sách nhiều hơn, nhưng con người lại không hướng về thực hành. Tôi khuyên cả những người ở tôn giáo khác, có cái nhìn tức thời trở lại. Tôn giáo xuất hiện không phải để gây thêm đau khổ, chiến tranh ở cuộc đời, không phải để giành giật sự phát triển của tôn giáo mình, mà để mang hạnh phúc cuộc đời mình. Ngay trong Phật giáo, Đức Phật chưa từng nói rằng hãy nương tựa vào ta, ta sẽ bảo vệ các con, đưa các con đến nơi giải thoát an toàn, hay hãy nương tựa, hãy cúng dường. Ngài chưa bao giờ nói thế. Ngài chỉ nói rằng: ta là người hướng đạo, các con phải đi trên đôi chân của mình. Mỗi người phải tự thực hành để cải thiện. Lời khuyên của tôi đến với mọi người, dù ở tôn giáo khác, không tôn giáo, vấn đề là tìm một lối sống. Điều căn bản nằm ở hành động, lời nói, suy nghĩ luôn là an lành, chứ không nên trông đợi ở bất kì ai, cho dù là Chúa, Trời, Phật. Tôi xin nhắc lại lời dạy của Đức Phật: Này các tỳ kheo, các con hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Ta chỉ là người mở đường, các con phải tự dấn bước. Bước đi bằng đôi chân và ý chí của mình. "Con đường mà tôi theo là tình yêu thương, chia sẻ với mọi người" Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có nhiều người quan tâm đến cuộc đời của Đức Pháp Vương. Con đường từ lúc Ngài sinh ra đến nay, là con đường của khổ hạnh, dâng hiến, đấu tranh, hay chia sẻ, hay là tìm cách tránh xa các tục tằn tội lỗi thế gian quanh Ngài? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Đây là một câu hỏi hay, ai cũng hỏi tôi theo con đường, phương pháp cách sống của tôi là gì. Thực ra cho đến nay, con đường mà tôi theo là tình yêu thương, chia sẻ với mọi người. Cảm thông với những nổi khổ, nhu cầu của mỗi chúng sinh. Dĩ nhiên, tôi chưa phải là người hoàn thiện, mà còn đang trên đường tự xây dựng, tự hoàn thiện mình. Tôi cũng là người bình thường như mọi người khác, đang cố gắng hướng cuộc đời mình, trang trải tình yêu thương cho mọi người. Tôi đang muốn hiểu rằng, mọi người cần gì, muốn gì. Nói về dòng Truyền thừa, cách đây khoảng 1000 năm bên Ấn Độ, có một đại học giả Narapa, được tính là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Bằng nhiều phương tiện thiện xảo, Ngài đã đạt được giác ngộ trong đời, bằng sự chứng ngộ của chính mình, sáng lập ra dòng Truyền thừa. Ân phước gia trì của dòng Truyền thừa được truyền đến ngày nay. Từ khi còn rất nhỏ, mới 2, 3 tuổi tôi đã được mọi người tìm thấy, phát hiện và có những cuộc thử nghiệm về kiến thức để công nhận là hóa thân của đại thành tựu giả Narapa, cách đây 1000 năm về trước. Dòng Truyền Thừa này là dòng luôn sống để hành động, lợi lạc cho mọi người. Ước nguyện của tôi là hiểu mọi loài chúng sinh, đến cả loài động vật - hiểu để cảm thông. Và tôi sẽ làm hết mình để viên mãn mọi ước nguyện của mọi người, mọi loài. Tôi nguyện sẽ trở lại cuộc đời này nhiều lần nữa, để thực hành tiếp công hạnh của mình là cảm thông, chia sẻ tri kiến, niềm vui, con đường tâm linh của mình. Cho đến khi chúng sinh không còn đau khổ, thì tôi mới thực sự được viên mãn. Tôi không nói với mọi người rằng hãy tin tôi, hãy tin dòng Truyền thừa, mà các bạn hãy cố gắng hiểu nhau, cảm thông, chia sẻ với nhau những thiện hạnh, tình thương của mình. "Tôi đi khắp nơi với ước nguyện mang những bài pháp, sự an bình cho mọi người" Chuyển hóa dục vọng thành tình thương Nhà báo Quang Thiều: Thưa Đức Pháp Vương, tôi đang ngồi trước Ngài đây, tôi là một hiện hữu trước Ngài. Trong con người tôi có những phần tăm tối và những phần ánh sáng của đời sống này. Tôi cảm thấy có một con quỷ dục vọng nằm trong thân xác mình. Nó luôn luôn đi theo tôi, rủ rê tôi, thúc giục tôi, tìm cách làm cho tôi tăm tối để thực hiện những khát muốn của nó. Có lúc tôi đã đuổi được nó ra khỏi mình. Nhưng này sau đó nó lại trở về là lại tìm cách lối kéo tôi. Và tôi nhận ra nếu một khi thân xác tôi còn hiện hữu trong đời sống này thì tôi luôn luôn phải đấu tranh chống lại con quỷ dục vọng đó. Tôi có một câu hỏi mà có thể mắc lỗi trước Ngài, rằng Ngài cũng có một thân xác như tôi và trong thân xác ấy cũng có một con quỷ dục vọng mặc dù trí tuệ, tâm hồn và lòng từ bi bên trong thân xác Ngài là mênh mông vô bờ bến. Vì thế, chắc chắn con quỷ dục vọng cũng làm những gì với Ngài như đã, đang và sẽ làm đối với tôi. Vậy nhưng tôi tin là Ngài có một thân xác giống thân xác của tôi. Vậy Ngài tìm cách nào để trừ tiệt hay cầm giữ nó? Câu trả lời của Ngài sẽ là nguồn sáng cho tôi, và cả những người khác nữa, những người đang ngày ngày phải kìm hãm và trốn chạy trốn con quỷ dục vọng đó nhiều lúc đến tuyệt vọng? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Tôi luôn tin rằng tôi giống như các bạn, chúng ta đều là anh chị em trong thế giới loài người. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng tôi ở cấp độ cao cấp hơn các bạn. Chỉ có điều, tôi biết phương pháp để thực hành, chiến đấu với những tình cảm sâu ẩn trong lòng. Con người thế gian đều bị "con quỷ dục vọng" chi phối, kêu gọi, và rất khổ sở với nó. Dường như những con quỷ ấy hiện trong tham lam, tật đố, ganh ghét, kiêu căng, chiến tranh, con quỷ ấy cuốn mình đi. Điểm khác biệt giữa tôi với các bạn chỉ là tôi đã có cách và tôi đang thực sự có phương tiện để chuyển hóa những tình cảm, dục vọng xấu thành thiện hơn, tốt hơn. Trong kiếp sống loài người, nếu không có dục vọng, tình cảm, thì con người không tồn tại được. Dục vọng và tình cảm không phải là xấu, mà vấn đề là làm thể nào để chuyển hóa, tự chủ được, chuyển hướng đi xấu, thành hướng đi lợi ích. Chúng ta không phải hủy diệt, đánh đuổi nó, chỉ cần chuyển hóa nó. Chúng tôi dùng những phương tiện thiện xảo để chuyển dục vọng thành đại ái, ước muốn đem đến tình thương cho mọi loài, ham muốn cá nhân thành ham muốn nhân loại. Người VN có tôn giáo nguyên thủy là đạo Phật, tôi khuyên người VN quay trở lại học tôn giáo gốc của mình, đưa vào thực hành chuyển hóa những giận hờn, tham lam, tật đố, ganh ghét, kiêu căng, oán hờn, gây khổ đau cho mình cho người, thành yêu thương, từ bi, để làm cuộc đời này an bình hơn, hạnh phúc hơn. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Con đường của cá nhân Ngài, theo tôi nghĩ là tinh thần của dòng Truyền thừa. Những hành xử, đấu tranh, dâng hiến cho con người của dòng Truyền thừa cũng hiển lộ trong con người Ngài. Bí mật nào làm nên sự lan tỏa và sức mạnh của dòng Truyền thừa, ở nhiều quốc gia, dân tộc, văn hóa, thể chế chính trị khác nhau? Hay đôi khi, bí mật là ở chỗ chẳng có bí mật nào? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Bạn nói đúng, chả có gì là bí mật. Rất giản đơn như mặt trời chiếu sáng ở VN, ở Tây phương hay Ấn Độ chỉ là một mặt trời, vẫn là một tia nắng với mục đích đem sự bình an ấm áp cho mọi loài. Nhưng khi xuất hiện ở VN, ta gọi là mặt trời VN. Khi xuất hiện ở Ấn Độ, ta gọi là mặt trời Ấn Độ. Cũng như giáo lý Truyền thừa đi khắp nơi trên thế giới này, nhưng ở mỗi quốc gia, đất nước, giáo lý này lại thâm nhập với văn hóa, phong cách, đời sống của quốc gia. Tôi đi khắp nơi với ước nguyện mang những bài pháp, sự an bình cho mọi người. Hay hướng giúp phương cách sống an lạc, tự chủ, độc lập, tự tin. Con người thường yếu đuổi, không tự tin ở khả năng của chính mình, nên có cảm giác phải nương tựa vào Trời, Phật, thần thánh. Vì chúng ta chưa hiểu được và chưa tin vào tiềm năng của con người. Ước nguyện của tôi là giúp con người có tự tin vào khả năng của mình. Tự tin rằng mình là nguyên nhân chính có thể đem khổ đau hay hạnh phúc cho mình. Khi đó, họ mới sống không ỷ lại vào Chúa, Trời hay đấng thần linh, sống có trách nhiệm với chính mình. Họ là người có trách nhiệm xây dựng cuộc đời họ, trách nhiệm cải thiện chính mình. Mỗi đất nước có nền chính trị khác nhau, nhưng trong sự thực hành tôn giáo, không có rào cản của chính trị, văn hóa, mà chỉ một mục đích duy nhất là con người cải thiện chính mình, nhận ra trách nhiệm chính mình, một cuộc sống bình an hạnh phúc. Đó là bí mật - nếu các bạn có thể gọi đó là bí mật. Còn tôi, gọi rất đơn giản, là thông điệp muốn trao gởi đến các bạn niềm tự tin chính vào bản thân bạn. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có những khoảnh khắc nhanh hơn cả một cái chớp mắt nhưng đủ giúp ta nhìn thấy con đường mà đôi khi ta đi hết cả đời vẫn không nhận biết được. Hồi nhỏ, khi sống ở nông thôn, những đêm mưa lớn chúng tôi đi bắt cá, bắt ếch trên cánh đồng. Trong đêm tối đen, tôi đã đi lạc ra khỏi cánh đồng làng mình và không xác định được con đường trở về làng mình nữa. Bất chợt có một tia chớp lóe lên, và trong khoảnh khắc ấy, tôi đã nhìn thấy toàn bộ con đường đi về làng, dù sau đó cả cánh đồng ngập chìm trong bóng tối Tôi tin rằng Đức Pháp Vương đã mang đến VN một trái tim nồng ấm. Tôi tin những gì Ngài cất lời hôm nay trong căn phòng nhỏ bé và giản dị này, căn phòng mà những người có mặt tại đây và những người đang lắng nghe lời ngài qua hệ thống truyền thanh của Vietnamnet sẽ nhận được tia chớp tư tưởng của tình yêu thương vạn vật và cuộc tranh đấu không mệt mỏi cho an bình của thế gian. Và tôi mong và tin Ngài đã và sẽ cầu phúc cho dân tộc này - một dân tộc đã có quá nhiều đau khổ, quá nhiều chiến tranh, một dân tộc xứng đáng được tất cả những vị Thánh trên trời xanh này ban phước cho. Rất đa tạ sự hiện diện của Đức Pháp Vương, với tất cả những điều Ngài đã cất lời hôm nay, lời của Ngài hay lời của một ai đó vô danh nhưng với tình yêu thương chân thành, khtas vọng hoà bình mãnh liệt và sự thấu hiểu hạnh phúc sẽ như hương thơm của bông sen, lan tỏa vào tâm hồn của những con người đang khổ đau, đang đi tìm ý nghĩa đích thực trong cuộc sống. Hi vọng một ngày nào đó, thế gian của chúng ta không cần một ngôi chùa hay một giáo đường, không cần những pho giáo lý mà tất cả những thứ đó đều ở trong chính con người chúng ta. Xin cúi đầu đa tạ. Tác giả: Tuần Việt NamBài đã được xuất bản.: 25/03/2010 13:37 GMT+71 like
-
1 like
-
- Đức Phật dạy: Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết - Kém hiểu biết vì vô minh, vì không biết duyên khởi của Kinh, duyên khởi của Thiền Sư - chỉ là đọc vẹt rồi mượn Kinh dẫn ý vô minh. Kinh Kim Cang mở lối cho bực tối thượng thừa, một ly nữa thành tựu Đạo quả Vô Thượng. Thiền Sư bổ tượng là khai ngộ cho nhà Sư còn thiếu một lần buông xả. Đối tượng để Phật thuyết kinh Kim Cang và đối tượng của Thiền Sư bổ tượng đều thuộc hàng thượng thừa xuất gia chỉ một bước nữa đạt Đạo. Vô minh, kém hiểu biết nên đánh đồng pháp. Pháp tùy căn cơ, duyên sanh khởi pháp. Phapvan1 like
-
cậu bé này hình như là con thứ 2 ,phía trên còn 1 chị gái thì phải nhỏ quá để lớn lớn 1 chút rồi xem1 like
-
10 điều kinh ngạc chưa biết về Trung Quốc vietnamnet.vnSắp trở thành trung tâm Thiên Chúa giáo thế giới, tiêu dùng 45 tỷ đôi đũa hàng năm, xây dựng 10 thành phố "cỡ" New York... có thể là những điều bạn chưa biết về Trung Quốc. Trung Quốc có số người bị tử hình so với phần còn lại của thế giới Theo ước tính của Tổ chức Ân xá Quốc tế (AL) thì các vụ tử hình tại Trung Quốc cao gần gấp ba lần các nước khác trên thế giới cộng lại. Trong năm 2008, tổ chức này xác định được 1.718 vụ thông qua thông tin báo chí và các tài liệu được công bố. Số lượng người Thiên Chúa giáo ở Trung Quốc đã vượt Italy và đại lục sắp trở thành trung tâm Thiên Chúa giáo thế giới Với sự tăng chóng mặt của các tín đồ Thiên Chúa tại Trung Quốc, người ta ước đoán có khoảng 54 triệu người Thiên Chúa giáo tại đây bao gồm 40 triệu người theo đạo Tin lành và 14 triệu tín đồ Công giáo. Trong khi đó, toàn bộ dân số Italy chỉ có khoảng 60 triệu người, trong đó 79% là người Thiên Chúa giáo, tức khoảng 47,4 triệu người, kém Trung Quốc 12%. Hơn 4000 trẻ em được đặt tên là "Áo Vận" khi đất nước chuẩn bị cho Olympic Bắc Kinh 2008 Olympic Bắc Kinh không chỉ là một niềm tự hào của Trung Quốc, nó là một phần quan trọng trong nhận thức dân tộc khi hơn 4000 trẻ em được đặt tên theo sự kiện này. Hầu hết 4.104 trẻ em với cái tên "Áo vận" nghĩa là Olympics đều được sinh ra trong khoảng năm 2000, khi Trung Quốc đang "đấu tranh" giành quyền đăng cai Thế vận hội mùa hè 2008. Hầu hết những đứa trẻ tên này đều là bé trai. Nhưng đây không phải là cái tên duy nhất liên quan đến Olympics. Hơn 4.000 người Trung Quốc khác được đặt tên theo 5 linh vật của Olympics. Trung Quốc dùng 45 tỷ đôi đũa mỗi năm Tại Trung Quốc, người ta ước tính được khoảng 45 tỷ đôi đũa bị vứt đi hàng năm. Con số này tương ứng với 1,7 tỷ m3 gỗ hay 25 triệu cây gỗ đến tuổi khai thác. 200 triệu người sống với thu nhập dưới 1 USD/ngày Những người nghèo tại Trung Quốc ứng với số người có thu nhập dưới ngưỡng nghèo khổ là 1,25 USD/ngày. Tỷ lệ đói nghèo tại Trung Quốc năm 1981 là 64% dân số. May mắn là tỷ lệ này giảm xuống còn 10% năm 2004, đồng nghĩa với khoảng 500 triệu dân phải chống chọi với đói nghèo trong suốt thời gian đó. Hơn 700 triệu người uống nước ô nhiễm Trung Quốc chiếm 20% dân số thế giới nhưng chỉ chiếm 7% nguồn nước toàn cầu. Thậm chí, theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), 90% nguồn nước ngầm tại thành phố là 75% sông, hồ của Trung Quốc bị ô nhiễm. Điều đó đồng nghĩa với 700 triệu dân đang phải uống nước độc hại hàng ngày. Trung Quốc có thể là nơi phát minh ra kem và mì ống Một hỗn hợp đông lạnh gồm sữa và gạo đã được phát minh tại Trung Quốc khoảng năm 200 trước công nguyên, là nguồn gốc của món kem hiện đại. Hơn nữa, những tô mì có niên đại 4.000 năm đã được tìm thấy tại điểm khảo cổ phía tây Trung Quốc có thể chứng minh Trung Quốc phát minh ra mỳ ống trước cả Ý. Hơn 50% hàng giả tại châu Âu bắt nguồn từ Trung Quốc Tại châu Âu, Trung Quốc là quốc gia vi phạm các điều khoản về quyền sở hữu trị tuệ nhiều nhất (54%). CD/DVD là mặt hàng chiếm tỷ lệ nhiều nhất với số lượng lên tới 79 triệu chiếc (44% toàn bộ số hàng giả), tiếp theo là thuốc lá (23%) và may mặc, phụ kiện (10%). Trung Quốc chưa thoát khỏi các đại dịch châu Âu thời Trung cổ Năm 2009, Trung Quốc phải cách ly cả một thị trấn ở phía tây bắc do dịch hạch thể phổi bùng phát. Nguy cơ lây lan cao và một số trường hợp đã tử vong vì bệnh này ở Ziketan thuộc tỉnh Thanh Hải. Tuy nhiên, do không có báo cáo về các trường hợp lây nhiễm trong vòng 1 tuần, chính quyền đã quyết định dỡ bỏ quyết định cách ly. Tại Trung Quốc, sự bùng phát các dịch bệnh dễ lây nhiễm từ bọ chét hay loài gặm nhấm thỉnh thoảng lại xảy ra. Năm 2025, Trung Quốc sẽ xây dựng 10 thành phố cỡ New York Quy mô và tốc độ đô thị hóa của Trung Quốc hứa hẹn sẽ phát triển với tỷ lệ chưa từng có. Ước tính dân số thành thị của Trung Quốc sẽ tăng vọt từ 572 triệu dân năm 2005 lên đến 926 triệu năm 2025 và đạt mốc 1 tỷ dân năm 2030. Trong vòng 20 năm, các thành phố tại Trung Quốc sẽ tăng thêm khoảng 350 triệu người - nhiều hơn toàn bộ dân số nước Mỹ ngày nay. Tới năm 2025, Trung Quốc sẽ có 219 thành phố 1 triệu dân trong khi con số tại châu Âu hiện nay là 35 và 24 thành phố sẽ có hơn 5 triệu dân. Thêm nữa, 40 tỷ km2 sàn nhà sẽ được xây dựng cùng với khoảng 5 tỷ tòa nhà trong đó 50.000 sẽ là những tòa nhà chọc trời - bằng 10 lần thành phố New York. Đinh Huyền (Theo Oddee)1 like
-
Chắc Rin86 vẽ là vẽ theo cảm hứng sáng tác chứ không phải có trạng thái hay tâm sự vào trong tranh. Do vậy đặt tên tranh có lẽ là theo mỗi người, Rubi thì áp cái tiêu đề với nội dung và cho ra một kịch bản kịch tính để đăt tên, không phải Rubi giỏi giang gì đâu. Nếu giỏi thì Rubi cũng thành danh tốt nghiệp MTCH hoặc kiến trúc rồi.1 like
-
Còn đây là toàn bộ nội dung cuốn "TUYỂN TRẠCH BỔN NGUYỆN NIỆM PHẬT TẬP" của Tổ Pháp Nhiên, xin được giới thiệu từng phần đến mọi người. Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập Pháp Nhiên Thượng Nhân Thích Tịnh Nghiêm dịch Hán Việt Chương Một: Hai Môn Chương Hai: Hai Hạnh Chương Ba: Bổn Nguyện Chương Bốn: Ba Hạng Người Chương Năm: Lợi Ích Chương Sáu: Đặc Lưu Chương Bảy: Nhiếp Thủ Chương Tám: Ba Tâm Chương Chín: Tứ Tu Chương Mười: Hóa Phật Tán Thán Chương Mười Một: Tán Thán Niệm Phật Chương Mười Hai: Phó Chúc Niệm Phật Chương Mười Ba: Nhiều Thiện Căn Chương Mười Bốn: Chư Phật Chứng Thành Chương Mười Lăm: Hộ Niệm Chương Mười Sáu: Ân Cần Phó Chúc Nam mô A Di Đà Phật Niệm Phật là căn bản của sự vãng sinh Chương Một HAI MÔN Ngài Đạo Xước thiền sư thiết lập hai môn Thánh Đạo và Tịnh Độ, sau đó đã xả bỏ Thánh Đạo Môn mà quay về Tịnh Độ Môn. An Lạc Tập quyển thượng nói: “Hỏi: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, từ xưa đến nay, ắt đã gặp nhiều Đức Phật, thế nhưng tại sao vẫn luân hồi sinh tử, chưa được ra khỏi nhà lửa? Trả lời: Y vào thánh giáo Đại thừa mà nói, lý do là vì chúng sinh không được hai pháp thù thắng để diệt trừ sinh tử, cho nên không thể ra khỏi nhà lửa. Hai pháp này là gì? Một là Thánh đạo, hai là Vãng sinh Tịnh độ. Pháp tu Thánh đạo, hiện nay rất khó chứng đắc, điều này có hai lý do, một là vì thời đại đã cách Phật rất lâu xa, hai là do nghĩa lý Đại thừa sâu xa khó hiểu. Đại Tập Nhật Tạng Kinh có nói: “Trong thời mạt pháp, có ức ức chúng sinh phát tâm tu hành, nhưng có rất ít người đắc đạo.” Đời mạt pháp hiện nay là đời ác ngũ trược, chỉ có pháp môn Tịnh Độ là con đường để vào đạo. Bởi thế, Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Nếu có chúng sinh, dù là cả đời tạo ác, giả sử lúc lâm chung, niệm danh hiệu của ta mười lần liên tiếp, nếu như không được vãng sinh, ta thệ không giữ ngôi Chánh Giác.” Lại nữa, tất cả chúng sinh đều không tự lượng sức mình, nếu luận về chân như thực tướng, đệ nhất nghĩa không của Đại thừa, bọn họ đều chưa từng để tâm đến, còn nếu luận về sự tu tập kiến đế tu đạo, nhẫn đến chứng quả A na hàm, A la hán, đoạn trừ năm phiền não lợi sử, năm phiền não độn sử,thì tất cả người đạo, kẻ tục đều không có phần. Giả sử có được quả báo trời người, đều là do sự hành trì ngũ giới thập thiện chiêu cảm, thế nhưng ít có người trì giới đến chỗ viên mãn; còn nếu luận về sự làm ác tạo nghiệp, thì thế lực chẳng khác gì mưa to gió lớn. Bởi lý do này, chư Phật đều đại từ đại bi, khuyên nhắc chúng sinh vãng sinh Tịnh Độ. Cho dù cả đời tạo ác, chỉ cần buộc tâm chuyên cần tinh tấn, thường thường Niệm Phật, thì tất cả chướng ngại, tự nhiên sẽ được tiêu trừ, quyết định sẽ được vãng sinh. Tại sao tất cả không chịu suy ngẫm, mà phát tâm cầu vãng sinh! Lời bàn: Phép lập giáo nhiều ít, lập trường của các tông phái không giống nhau, ví như Hữu Tướng Tông thiết lập ba thời giáo là hữu tông, không tông và trung đạo tông để phán định thánh giáo của Đức Thế Tôn; Vô Tướng Tông thiết lập hai thời giáo là Bồ tát giáo và Thanh văn giáo để phán định; Hoa Nghiêm Tông thiết lập năm thời giáo: tiểu thừa giáo, đại thừa thỉ giáo, chung giáo, đốn giáo và viên giáo, để thống nhiếp tất cả Phật giáo; Pháp Hoa Tông thiết lập bốn thời giáo: tạng giáo, thông giáo, biệt giáo, viên giáo, và năm mùi vị: nhũ, lạc, sinh tô, thục tô và đề hồ, để thống nhiếp tất cả Phật giáo; lại còn có Chân Ngôn Tông cũng thiết lập hai thời giáo, hiển giáo và mật giáo, để thống nhiếp tất cả Phật giáo. Hiện nay, Tịnh Độ Tông, nếu y theo bổn ý của Đạo Xước Thiền Sư, sẽ thiết lập hai môn: Thánh Đạo Môn và Tịnh Độ Môn, để thống nhiếp tất cả. Hỏi: Việc thiết lập tên gọi của các tông phái, vốn là do tám tông, chín tông như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, v.v..., phán định, chưa từng nghe qua các nhà tu Tịnh độ thiết lập tên gọi của chính tông phái mình. Việc đặt tên gọi này có chứng cứ gì không? Trả lời: Tên gọi Tịnh Độ Tông, chứng cứ không phải ít, như ngài Nguyên Hiểu trong Du Tâm An Lạc Đạo nói: “Bổn ý của Tịnh Độ Tông là vốn vì phàm phu, kiêm vì thánh nhân”, lại như ngài Từ Ân trong Tây Phương Yếu Quyết nói: “Y vào tông này”, hơn nữa, ngài Ca Tài trong Tịnh Độ Luận cũng nói: “Tông này, theo ý của tôi, là con đường trọng yếu”. Những chứng cứ như vậy, thật không còn nghi ngờ gì nữa. Thế nhưng, ý chính ở đây, không phải là bàn luận về sự phán lập giáo nghĩa của các tông phái, mà là muốn nói sơ lược về hai môn của Tịnh Độ Tông, tức là Thánh đạo môn và Tịnh độ môn. A/ Thánh Đạo Môn: ở đây có hai phần, một là Tiểu thừa, hai là Đại thừa. Trong Đại thừa, tuy có Hiển, Mật, Quyền, Thực, khác nhau, thế nhưng bổn ý của tập sách này chỉ là muốn hiển minh hạnh nguyện của Đại thừa và Quyền Đại thừa là ở trong sinh tử dài lâu để tu tập cứu độ chúng sinh. Nếu như y vào điều này mà suy ngẫm, phải nên bảo tồn Đại thừa Mật giáo và Đại thừa Hiển giáo. Nên biết rằng tám tông phái như Chân Ngôn, Phật Tâm (Thiền), Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Tam Luận, Pháp Tướng, Địa Luận, Nhiếp Luận đều có chung quan điểm này. Còn trong Tiểu Thừa, tất cả các kinh luật luận của họ đều nói về con đường tu tập để đoạn trừ phiền não, thấu rõ chân lý, chứng đắc thánh quả. Y cứ vào đây, giáo lý Tiểu Thừa chỉ bao hàm các tông phái như Luật Tông, Câu Xá và Thành Thực. Nói một cách khái quát, bổn ý của Thánh Đạo Môn, bất luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, đều là ở trong thế giới Ta Bà này tu tập chứng đắc đạo quả của bốn Thừa. Bốn Thừa, nghĩa là ngoài ba Thừa, còn thêm Phật Thừa. B/ Vãng Sinh Tịnh Độ Môn, trong đây có hai: (1) hiển minh chính thức giáo nghĩa Vãng Sinh Tịnh Độ, (2) hiển minh không chính thức giáo nghĩa Vãng Sinh Tịnh Độ. 1/ Hiển minh chính thức giáo nghĩa Vãng Sinh Tịnh Độ, gồm có ba bộ kinh và một bộ luận. Ba bộ kinh là Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh, và A Di Đà Kinh, còn một bộ luận là Vãng Sinh Luận của ngài Thế Thân. Có người gọi ba bộ kinh này là “Ba bộ kinh Tịnh Độ”. Hỏi: Gọi Ba bộ kinh, còn có trường hợp nào khác không? Trả lời: Gọi Ba bộ kinh, có nhiều trường hợp: (a) Ba bộ kinh Pháp Hoa, tức là Vô Lượng Nghĩa Kinh, Pháp Hoa Kinh và Phổ Hiền Quán Kinh; (2) Ba bộ kinh Đại Nhật, tức là Đại Nhật Kinh, Kim Cang Đỉnh Kinh và Tô Tất Địa Kinh; (3) Ba bộ kinh trấn thủ bảo hộ quốc gia, tức là Pháp Hoa Kinh, Nhân Vương Kinh và Kim Quang Minh Kinh; (4) Ba bộ kinh Di Lặc, tức là Di Lặc Thượng Sinh Kinh, Di Lặc Hạ Sinh Kinh và Di Lặc Đại Thành Phật Kinh. Hiện nay ba bộ kinh A Di Đà gọi là ba bộ kinh Tịnh Độ, tức là ba bộ kinh chính yếu của Tịnh Độ Tông. 2/ Hiển minh không chính thức giáo nghĩa Tịnh Độ: những bộ kinh như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Tùy Cầu (Phật Thuyết Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni Thần Chú Kinh), v.v..., đều có thuyết minh các công hạnh vãng sinh Tịnh Độ; lại còn có các bộ luận như Khởi Tín Luận, Bảo Tính Luận, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận, v.v..., cũng đều thuyết minh các công hạnh vãng sinh Tịnh Độ. Trong tập sách này, bổn ý của sự thiết lập hai môn Thánh Đạo và Tịnh Độ là muốn khiến cho chúng sinh xả bỏ Thánh Đạo Môn, quy hướng Tịnh Độ Môn. Điều này có hai lý do: (1) do vì cách xa đời Phật, (2) do vì giáo lý thâm sâu khó hiểu. Trong Tịnh Độ Tông, thiết lập hai môn, không những chỉ có ngài Đạo Xước, mà các ngài như Đàm Loan, Thiên Thai, Ca Tài, Từ Ân, v.v..., cũng có cùng chung quan điểm. Hơn nữa, ngài Đàm Loan Pháp Sư, trong Vãng Sinh Luận Chú có nói: “Như Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của ngài Long Thọ nói: “Bồ tát cầu A bệ bạt trí, có hai con đường, một là Đường khó đi (Hán: nan hành đạo), hai là Đường dễ đi (Hán: dị hành đạo). Đường khó đi, nghĩa là ở trong đời ác năm trược, lúc không có Phật, cầu A bệ bạt trí là khó, sự khó khăn này có nhiều phương diện, một là pháp thiện của ngoại đạo làm loạn pháp tu của Bồ tát, hai là sự tự lợi của hàng Thanh văn làm chướng ngại tâm đại từ bi, ba là những kẻ ác vô cớ phá hoại thắng đức của người khác, bốn là quả báo thiện điên đảo, có thể phá hoại phạm hạnh, năm là chỉ có tự lực, không có tha lực hộ trì. Những việc như vậy, chỗ nào cũng có, ví như đường lộ, lội bộ ắt là khổ nhọc. Đường dễ đi, nghĩa là chỉ cần nhờ nhân duyên Niệm Phật, nguyện sinh Tịnh Độ, nhờ nguyện lực của Phật, sẽ được vãng sinh cõi Phật thanh tịnh. Nhờ Phật lực gia trì, sẽ tiến nhập vào giai bậc chính định tụ, chính định tức là A bệ bạt trí, ví như đường thủy, đi thuyền ắt là vui sướng.” Ở đây, Đường khó đi, tức là Thánh Đạo Môn, còn Đường dễ đi, tức là Tịnh Độ Môn. Khó đi Dễ đi, Thánh Đạo Tịnh Độ, tên gọi tuy khác, nhưng ý thú giống nhau. Nên biết, hai ngài Thiên Thai và Ca Tài cũng có cùng quan điểm. Lại nữa, Tây Phương Yếu Quyết nói: “Nghĩ đến Đức Thích Ca khai sáng Phật giáo, hoằng dương lợi ích chúng sinh, tùy mỗi xứ mà xiển dương giáo nghĩa, rưới nước pháp mầu, làm cho chúng sinh được độ hóa, chứng ngộ ba Thừa, đối với những người ít phước mỏng duyên, thì khuyên họ vãng sinh Tịnh Độ. Người tu Tịnh Độ phải chuyên niệm A Di Đà, tất cả những thiện căn, đều phải hồi hướng về Tịnh Độ. Bổn nguyện của Đức A Di Đà là thệ độ tất cả chúng sinh cõi Ta Bà, từ người chuyên tâm tu tập cả đời, nhẫn đến người lúc lâm chung chỉ niệm mười danh hiệu, đều được quyết định vãng sinh Tịnh Độ.” Hơn nữa, bài bạt của cùng quyển sách trên nói: “Do vì sinh vào đời tượng pháp, cách xa đời Phật, nếu tu tập hạnh của ba Thừa, khó mà khế ngộ. Hai cõi trời người xao động bất an, chỉ có những bậc Bồ tát đại trí đại từ mới có thể ở lâu trong sinh tử. Nếu như kiến giải mê ám, công hạnh nông cạn, e rằng sẽ bị đọa lạc ba đường ác, bởi thế, phải nên lìa bỏ Ta Bà, cầu sinh Tịnh Độ.” Ở đây nói ba Thừa, ý muốn chỉ Thánh Đạo Môn, còn nói Tịnh Độ, là muốn chỉ Tịnh Độ Môn. Ba Thừa Tịnh Độ, Thánh Đạo Tịnh Độ, tên gọi tuy khác, ý thú tương đồng. Các học giả Tịnh Độ, trước tiên phải nên biết ý chỉ này, giả sử trước đó tuy đã học Thánh Đạo Môn, nếu như có chí hướng cầu sinh Tịnh Độ, phải nên xả bỏ Thánh Đạo, cầu sinh Tịnh Độ; chẳng hạn, như ngài Đàm Loan Pháp Sư xả bỏ sự giảng thuyết bốn bộ luận (Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận và Đại Trí Độ Luận) mà chuyên tâm Tịnh Độ; lại như ngài Đạo Xước Thiền Sư gác bỏ việc giảng giải Kinh Niết Bàn mà chuyên tâm hoằng dương Tịnh Độ. Các bậc hiền triết khi xưa đã từng như thế, chẳng lẽ những người ngu độn thô thiển mà lại không chịu tuân hành! Hỏi: Các tông phái Thánh Đạo Môn đều có sự truyền thừa từ đời này qua đời khác, chẳng hạn, Thiên Thai Tông, truyền thừa theo thứ tự, từ ngài Huệ Văn, đến các ngài Nam Nhạc, Thiên Thai, Chương An, Trí Uy, Tuệ Uy, Huyền Lãng, Trạm Nhiên; lại như Chân Ngôn Tông, truyền thừa theo thứ tự, từ Đức Đại Nhật Như Lai đến các ngài Kim Cang Tát Đỏa, Long Thọ, Long Trí, Kim Trí, Bất Không. Các tông phái khác cũng có sự truyền thừa huyết mạch. Hiện nay Tịnh Độ Tông có sự truyền thừa như thế hay không? Trả lời: Giống như huyết mạch của các nhà Thánh Đạo Môn, Tịnh Độ Tông cũng có huyết mạch, thế nhưng đối với sự truyền thừa của Tịnh Độ Tông, các nhà học giả cũng có những quan điểm không đồng, chẳng hạn như ngài Lô Sơn Tuệ Viễn Pháp Sư, ngài Từ Mẫn Tam Tạng, ngài Đạo Xước, Thiện Đạo, v.v... Nay y theo hai ngài Đạo Xước và Thiện Đạo mà luận về sự truyền thừa huyết mạch. Điều này có hai giả thuyết: (1) Bồ Đề Lưu Chi Tam Tạng, Tuệ Long Pháp Sư, Đạo Trường Pháp Sư, Đại Hải Thiền Sư, Pháp Thượng Pháp Sư (trích từ An Lạc Tập), (2) Bồ Đề Lưu Chi Tam Tạng, Đàm Loan Pháp Sư, Đạo Xước Thiền Sư, Thiện Đạo Thiền Sư, Hoài Cảm Pháp Sư, Thiếu Khang Pháp Sư (trích từ Cao Tăng Truyện đời Đường và đời Tống). Chương Hai Hai Hạnh Thiện Đạo Hòa Thượng thiết lập hai hạnh chánh và tạp, mục đích là muốn hành giả xả bỏ tạp hạnh, quay về chánh hạnh. Quán Kinh Sớ quyển bốn nói: Từ công hạnh mà thiết lập tín tâm, thế nhưng công hạnh có hai loại, một là chánh hạnh, hai là tạp hạnh. Chánh hạnh, tức là chỉ y tựa vào các kinh Vãng sinh mà tu tập. Đây là thế nào? Một là nhất tâm chuyên tụng Quán Kinh, A Di Đà Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, v.v..., hai là nhất tâm chuyên chú suy ngẫm, quán sát, ức niệm sự trang nghiêm của chánh báo và y báo của cõi Cực Lạc, ba là nếu như lễ lạy, thì chỉ chuyên tâm lễ lạy Đức Phật A Di Đà, bốn là nếu như xưng danh, thì chỉ nên nhất tâm xưng tán danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, năm là nếu như tán thán cúng dường, thì chỉ nên nhất tâm tán thán cúng dường Đức Phật A Di Đà. Đây gọi là chánh hạnh! Lại nữa, trong phần chánh hạnh, lại có hai loại, một là nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Đức A Di Đà, đi đứng nằm ngồi, bất luận thời gian dài ngắn, niệm niệm không quên, đây gọi là nghiệp chánh định, thuận theo bổn nguyện của Đức A Di Đà. Còn nếu như lạy Phật, tụng kinh, v.v..., thì gọi là nghiệp phụ. Ngoại trừ hai hạnh chánh và phụ này ra, tất cả các hạnh lành khác đều gọi là tạp hạnh. Nếu như tu tập hai nghiệp chánh, phụ, thì tâm thường thân cận Đức A Di Đà, nghĩ nhớ không gián đoạn, đây gọi là tâm không gián đoạn. Nếu như tu tập tạp hạnh, thì tâm sẽ thường gián đoạn, khó có thể hồi hướng vãng sinh, đây gọi là hạnh tạp nhạp, xa cách. Lời bàn: Đoạn văn này có hai ý, một là thuyết minh hành tướng của sự vãng sinh, hai là phán định sự được, mất của hai hạnh chánh và phụ. (A) Thuyết minh hành tướng của sự vãng sinh: Theo ý của Hòa thượng Thiện Đạo, công hạnh vãng sinh tuy nhiều, có thể chia làm hai loại, (1) chánh hạnh, và (2) tạp hạnh. (1) Chánh hạnh. Ở đây có hai nghĩa khai và hợp. Trước tiên, khai làm năm loại, sau đó hợp thành hai loại. i/ Khai làm năm loại, tức là (a) chánh hạnh đọc tụng, ( :) chánh hạnh quán sát, © chánh hạnh lễ bái, (d) chánh hạnh xưng danh, (e) chánh hạnh tán thán cúng dường. a/ Chánh hạnh đọc tụng. Chỉ đọc tụng Quán Kinh, v.v..., tức là như văn đã nói: “Nhất tâm chuyên tụng Quán Kinh, A Di Đà Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, v.v...”. b/ Chánh hạnh quán sát. Chuyên tâm quán sát y báo, chánh báo của cõi Cực Lạc, tức là như văn đã nói: “Nhất tâm chuyên chú suy ngẫm, quán sát, ức niệm sự trang nghiêm của chánh báo và y báo của cõi Cực Lạc”. c/ Chánh hạnh lễ bái. Chỉ lễ lạy Đức A Di Đà, tức là như văn đã nói: “Nếu như lễ lạy, thì chỉ chuyên tâm lễ lạy Đức Phật A Di Đà”. d/ Chánh hạnh xưng danh: Chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tức là như văn đã nói: “Nếu như xưng danh, thì chỉ nên nhất tâm xưng tán danh hiệu của Đức Phật A Di Đà”. e/ Chánh hạnh tán thán cúng dường. Chỉ tán thán, cúng dường Đức A Di Đà, tức là như văn đã nói: “Nếu tán thán, cúng dường, thì chỉ nên nhất tâm tán thán, cúng dường Đức Phật A Di Đà, đây gọi là chánh hạnh”. Nếu chia “tán thán cúng dường” ra làm hai, thì sẽ có sáu loại chánh hạnh. Hiện nay hợp làm một, thành thử chỉ có năm loại. Hợp làm hai loại, tức là (a) nghiệp chánh, ( :) nghiệp phụ. a/ Nghiệp chánh. Trong năm loại chánh hạnh trên, loại thứ tư “xưng danh” là nghiệp chánh định, như trong văn nói: “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Đức A Di Đà, đi đứng nằm ngồi, bất luận thời gian dài ngắn, niệm niệm không quên, đây gọi là nghiệp chánh định, thuận theo bổn nguyện của Đức A Di Đà”. b/ Nghiệp phụ. Ngoại trừ xưng danh, các hạnh còn lại như đọc tụng, v.v..., đều là nghiệp phụ, như văn có nói: “Các hạnh như lạy Phật, tụng kinh, v.v..., đều gọi là nghiệp phụ.” Hỏi: Tại sao trong năm loại, chỉ có xưng danh niệm Phật được coi là nghiệp chánh định? Trả lời: Đây là thuận theo bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà, ý muốn nói xưng danh chính là bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà, cho nên người tu nương vào bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà, ắt sẽ vãng sinh Cực Lạc. Ý nghĩa của bổn nguyện, phía dưới sẽ nói rõ. (2) Tạp hạnh. Như văn nói: “Ngoại trừ hai hạnh chính và phụ này, tất cả hạnh lành khác, đều gọi là tạp hạnh”, ý muốn nói tạp hạnh nhiều vô lượng, không thể nói hết, thế nhưng ở đây nói đến năm loại chánh hạnh là để nêu lên năm loại tạp hạnh. a/ Tạp hạnh đọc tụng. Ngoại trừ các kinh Tịnh Độ, như Quán Kinh, v.v..., nếu đọc tụng thọ trì các loại kinh Đại, Tiểu thừa, hoặc Hiển, hoặc Mật, đều gọi là tạp hạnh đọc tụng. b/ Tạp hạnh quán sát. Ngoại trừ y báo, chánh báo của cõi Cực Lạc, tất cả những quán hạnh, hoặc sự hoặc lý, hoặc Đại thừa, hoặc Tiểu thừa, hoặc Hiển, hoặc Mật, đều gọi là tạp hạnh quán sát. c/ Tạp hạnh lễ bái. Ngoại trừ lễ bái Đức A Di Đà, lễ bái cung kính chư Phật Bồ tát khác, nhẫn đến các vị trời thế gian, đều gọi là tạp hạnh lễ bái. d/ Tạp hạnh xưng danh. Ngoại trừ xưng danh Đức A Di Đà, xưng danh chư Phật Bồ tát khác, nhẫn đến danh hiệu của các vị trời thế gian, đều gọi là tạp hạnh xưng danh. e/ Tạp hạnh tán thán cúng dường. Ngoại trừ tán thán cúng dường Đức A Di Đà, tán thán cúng dường chư Phật Bồ tát khác, nhẫn đến các vị trời thế gian, đều gọi là tạp hạnh tán thán cúng dường. ( :) Phán định sự được, mất của hai hạnh: “Nếu như tu tập hai hạnh chánh và phụ, tâm thường gần gũi Đức A Di Đà, nhớ tưởng không nguôi, đây gọi là hạnh không gián đoạn. Nếu như tu tạp hạnh, tuy cũng có thể hồi hướng vãng sinh, thế nhưng tâm thường gián đoạn, đây gọi là hạnh xa lạ tạp nhạp (Hán: sơ tạp)”. Theo ý của đoạn văn vừa nói, đối với hai hạnh chánh tạp này, có năm cặp đối: (1) thân sơ, (2) gần xa, (3) gián đoạn không gián đoạn, (4) hồi hướng không hồi hướng, (5) thuần tạp. (1) Thân, sơ. Trước tiên, thân (thân thiết), nghĩa là hành giả tu tập hai hạnh chánh và phụ, sẽ rất thân thiết với Đức Phật A Di Đà, cho nên Quán Kinh Sớ nói: “Chúng sinh khởi tâm tu hành, miệng thường niệm Phật, Phật ắt nghe thấy, thân thường lạy Phật, Phật ắt nhìn thấy, tâm thường nghĩ Phật, Phật ắt biết rõ. Chúng sinh nghĩ Phật, nhớ Phật, Phật cũng nghĩ chúng sinh, nhớ chúng sinh. Ba nghiệp của đôi bên, không xa cách nhau.” Bởi thế, nên gọi là thân thiết. Kế đến, sơ (xa lạ), nghĩa là tạp hạnh. Chúng sinh không niệm Phật, Phật không nghe thấy, thân không lạy Phật, Phật không nhìn thấy, tâm không nghĩ Phật, Phật không hay biết. Chúng sinh không nghĩ Phật, nhớ Phật, Phật cũng không nghĩ chúng sinh, nhớ chúng sinh. Ba nghiệp của đôi bên, thường cách biệt nhau, bởi thế nên gọi là xa lạ. (2) Gần, xa (Hán: viễn cận). Trước tiên, gần, tức là tu tập hai hạnh chánh và phụ, thì sẽ gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Kinh Sớ nói: “Chúng sinh nguyện thấy Phật, Phật liền đáp ứng, hiện ra trước mặt ”, cho nên gọi là gần. Kế đến, xa, tức là tu tập tạp hạnh. Chúng sinh không nguyện thấy Phật, Phật sẽ không đáp ứng, không hiện ra trước mặt, cho nên gọi là xa. Ý nghĩa của thân và gần, tuy có vẻ giống nhau, thế nhưng, theo ý của ngài Thiện Đạo là chia làm hai trường hợp khác nhau. Ý chỉ này được nói rõ trong Quán Kinh Sớ, bởi thế, ở đây dẫn ra để giải thích. (3) Gián đoạn, không gián đoạn. Trước tiên, không gián đoạn, nghĩa là tu tập hai hạnh chánh và phụ, thì sẽ nghĩ nhớ Đức Phật A Di Đà không gián đoạn, cho nên gọi là “tâm không gián đoạn”. Kế đến, gián đoạn, nghĩa là tu tập tạp hạnh, thì thường ít nghĩ nhớ đến Đức Phật A Di Đà, cho nên gọi là “tâm thường gián đoạn”. (4) Hồi hướng, không hồi hướng. Không hồi hướng, nghĩa là nếu tu tập hai hạnh chánh và phụï, thì không cần phải hồi hướng riêng biệt, mà tự nhiên trở thành nghiệp vãng sinh, cho nên Quán Kinh Sớ nói: Trong Quán Kinh, niệm danh hiệu Phật mười lần, tức là có đủ mười nguyện, mười hạnh. Niệm “A Di Đà Phật” tức là hạnh, do ý nghĩa này “ắt sẽ được vãng sinh”. Kế đến, hồi hướng, nghĩa là nếu tu tập tạp hạnh, cần phải hồi hướng thì mới thành nghiệp vãng sinh, nếu như không hồi hướng, thì sẽ không trở thành nhân duyên cho sự vãng sinh, cho nên nói: “Tuy có thể hồi hướng vãng sinh”. (5) Thuần, tạp. Trước tiên, thuần, nghĩa là tu tập hai hạnh chánh và phụ là hạnh đơn thuần để vãng sinh Cực Lạc, còn tu tạp hạnh, tức không phải là hạnh đơn thuần để vãng sinh Cực Lạc, mà là hạnh chung cho pháp trời người, pháp của ba Thừa, và hạnh vãng sinh các cõi Tịnh Độ ở mười phương, cho nên gọi là tạp. Bởi lý do này, các hành giả Tây phương Tịnh Độ, cần phải bỏ tạp hạnh mà tu chánh hạnh. Hỏi: Ý nghĩa “thuần tạp” này, trong các kinh điển khác, có chứng cứ hay không? Trả lời: Trong kinh luận của Đại, Tiểu thừa, thiết lập hai môn thuần, tạp, trường hợp này không phải chỉ có một. Trong tám tạng của Đại thừa, có một tạng gọi là tạp tạng, như vậy bảy tạng kia là thuần, còn tạp tạng là tạp. Trong Luật tạng, hai mươi kiền độ là để biểu minh giới hạnh, mười chín kiền độ đầu là thuần, còn kiền độ cuối là tạp. Lại như hai bộ Cao Tăng Truyện của hai đời Đường và Tống đều lập mười khoa pháp, nói rõ đức hạnh của các vị cao tăng, chín khoa đầu là thuần, còn khoa cuối là tạp. Nhẫn đến, quyển Đại Thừa Nghĩa Chương, có năm tụ pháp môn, bốn tụ đầu là thuần, còn tụ cuối là tạp. Không những chỉ có Hiển giáo, trong Mật giáo cũng có pháp thuần và tạp, chẳng hạn như Phật Pháp Huyết Mạch Phổ của Sơn Gia Phái nói: “Thứ nhất, một bức Thai Tạng Giới Mạn Đà La Huyết Mạch Phổ, thứ hai, một bức Kim Cang Giới Mạn Đà La Huyết Mạch Phổ, thứ ba, một bức Tạp Mạn Đà La Huyết Mạch Phổ, hai bức đầu là thuần, bức cuối là tạp”. Chứng cớ về thuần tạp tuy nhiều, ở đây chỉ đề cập một ít mà thôi. Nên biết ý nghĩa của thuần tạp, tùy thuộc vào pháp, không có ý nghĩa nhất định. Ở đây chúng ta dựa vào ý của Hòa thượng Thiện Đạo, trên phương diện hành trì Tịnh Độ, mà bàn luận vấn đề thuần tạp. Hơn nữa, tên gọi “thuần, tạp” này, không hạn cục trong nội điển, hoặc ngoại điển, mà có rất nhiều lệ chứng, vì sợ phiền toái, cho nên không bàn đến. Thế nhưng, bàn đến công hạnh Tịnh Độ, có thể chia làm hai hạnh, điều này không chỉ có ngài Thiện Đạo, mà cả ngài Đạo Xước cũng có cùng quan điểm, tức là công hạnh vãng sinh tuy nhiều, gom lại còn có hai: một là “niệm Phật vãng sinh”, hai là “vạn hạnh vãng sinh”, còn nếu theo ý của ngài Hoài Cảm Thiền Sư, công hạnh vãng sinh tuy nhiều, gom lại cũng chỉ có hai: một là “niệm Phật vãng sinh”, hai là “chư hạnh vãng sinh”. Như vậy, ba ngài đều lập hai hạnh để bao quát công hạnh vãng sinh, điều này chứng tỏ các ngài đã thấu rõ ý chỉ thâm diệu của sự vãng sinh, còn các nhà chú giải khác thì không hẳn như vậy. Những hành giả Tịnh Độ phải nên suy ngẫm chính chắn điều này! Vãng Sinh Lễ Tán nói: “Nếu như có thể hành trì như trên, niệm niệm tương tục, trọn hết một đời, thì chắc chắn mười người tu, mười người vãng sinh, trăm người tu, trăm người vãng sinh. Vì sao? Vì không có tạp duyên nào khác nên đắc được chánh niệm, vì tương ưng với bổn nguyện của Phật, vì không đi ngược với giáo lý, và vì tùy thuận lời dạy của Phật. Nếu như xả bỏ sự chuyên tâm mà tu tạp nghiệp, thì trăm người tu, chỉ có được một hai người vãng sinh, ngàn người tu, chỉ có năm ba người vãng sinh. Vì sao? Vì tạp duyên loạn động làm mất chánh niệm, vì không tương ưng với bổn nguyện của Phật, vì đi ngược với giáo lý, vì làm trái với lời dạy của Phật, vì hệ niệm không tương tục, vì sự tưởng nghĩ đến Phật thường gián đoạn, vì sự hồi hướng không ân cần, chân thực, vì các phiền não tham, sân thường đến làm gián đoạn chánh niệm, vì không có tâm hổ thẹn sám hối, vì không tương tục nghĩ nhớ đến việc báo ơn Phật, vì sinh khởi tâm khinh mạn, tuy cũng tu tập, nhưng lại chạy theo danh lợi, vì hay phân biệt nhân ngã, không chịu thân cận những bậc đồng tu thiện tri thức, và vì thích gần gũi những tạp duyên, làm chướng ngại chánh hạnh vãng sinh của chính mình và người khác. Gần đây, tôi tự mình nghe rằng người tăng kẻ tục ở khắp mọi nơi, kiến giải, công hạnh không đồng nhau, chuyên tu, tạp tu cũng không giống nhau, thế nhưng, những người chuyên ý tu tập, thì mười người vãng sinh cả mười, còn những người tu tạp hạnh, tâm ý không chuyên nhất, thì trong ngàn người tu, không có đến một người vãng sinh! Hai hạnh được, mất này, như phần trên vừa nói rõ, ngưỡng mong các vị tu hạnh vãng sinh, cần phải khéo léo suy ngẫm. Nếu như trong đời này, đã có thể phát nguyện vãng sinh Cực Lạc, thì trong tất cả mọi lúc, đi đứng nằm ngồi, đều nên tự khuyến tấn mình, ngày đêm không bỏ phế, trọn suốt một đời hành trì chánh hạnh. Trong cuộc đời này, dường như phải chịu chút khổ, thế nhưng, giây phút trước vừa mệnh chung, giây phút sau ắt vãng sinh Cực Lạc, từ đó thọ mệnh vô cùng, vĩnh viễn hưởng thọ sự vui sướng, nhẫn đến khi thành Phật, không còn phải chịu sự khổ sinh tử, đây không phải là điều vui thú hay sao? Lời bàn: Đã đọc được đoạn văn trên, càng phải nên “xả tạp hạnh mà chuyên tu chánh hạnh”, lẽ nào lại bỏ chánh hạnh “trăm người tu trăm người vãng sinh”, mà lại tu tạp hạnh “ngàn người tu không có được một người vãng sinh” hay sao? Hành giả phải nên suy ngẫm chính chắn điều này! (con nua)1 like