• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 25/03/2010 in all areas

  1. Về thơ Lục Bát có từ bao giờ thì tôi có thể đặt vấn đề rằng: Nó có từ thời rất xa xưa, từ trước CN trong nền văn hiến Việt. Dấu ấn của Lục Bát có trong sách Trung Dung - vốn được coi là trước tác của Khổng Tử 500 năm trước CN. Trong văn hóa dân gian Việt Nam tồn tại những truyện thơ Nôm làm bằng Lục Bát khuyết danh , như: Hoàng Trừu, Phạm công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Thạch Sanh...vv.....thể hiện những nội dung có từ thời rất xa xưa của dân tộc Việt. Thí dụ như truyện Thạch Sanh với hình ảnh chiếc Rìu và cây đa, là những hình ảnh từ thời sơ khai lập quốc của dân tộc Việt. Hoặc như truyện Hoàng Trừu, nói về bà công chúa bị oan với án phạt là phải đội đèn. Đây là hình phạt chỉ có ở thời cổ đại. Mặc dù những dấu ấn có vẻ như mơ hồ, nhưng lại khó bác bỏ. Hơn nữa, không thể vì thấy tác phẩm thành văn đầu tiên của Việt Nam bằng Lục Bát xuất hiện vào thế kỷ XIV, XV thì kết luận thơ lục bát xuất hiện vào thời kỳ đó được. Bởi vì thơ lục bát có vần điệu, niêm luật được quy ước rất chặt chẽ phù hợp với ngôn ngữ và các âm tiết Việt - vốn phong phú so với tất cả các nền văn hóa liên quan. Không thể, tự nhiên xuất hiện vào thế kỷ XIV, XV do chỉ một tác giả duy nhất và trở thành phổ biến trong toàn dân tộc được. Bởi vậy, tôi cho rằng: Thơ Lục Bát phải có từ thời rất xa xưa trong ngôn ngữ Việt, lưu truyền trong dân gian, qua những thăng trầm của lịch sử của hơn 1000 năm Bắc Thuộc và được phục hồi vào thế kỷ XIV, XV - là khi đất nước Việt hoàn toàn ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội, đặc biệt vào thời Hậu Lê.
    3 likes
  2. Không thể hiểu như Tuấn Dương được. Tôi có thể tóm lược thế này: Thái Cực là một trạng từ được dùng như một danh từ để chỉ trạng thái khởi nguyên của vũ trụ theo Lý học Đông phương. Theo giả thuyết của khoa học hiện đại thì khởi nguyên của vũ trụ là "vật chất cô đặc" trước bigbang. Cực là giới hạn, Thái là vượt qua sự giới hạn. Trong Thái Cực không thể phân biệt Âm Dương vì không có cái đối đãi so sánh với nó. Thái Cực không có không gian và thời gian. Vận tốc bằng /O/. Thái Cực xuất hiện một trạng thái đối đãi với nó. Chính vì tính đối đãi này , nên nó nằm trong phạm trù Âm Dương. Thái cực lúc này thuộc phạm trù Dương trong cặp phạm trù Âm Dương. Vì Thái Cực là tuyệt đối, vận tốc bằng /O/, nên cái đối đãi với nó coi như gần tuyệt đối - Thiên nhất sinh Thủy. Sự tương tác giữa Thái Cực và cái đối đãi với nó tạo ra sự bùng nổ trong không gian nhiều chiều. Thiên nhị sinh Hỏa. Vũ trụ bùng nổ trong không gian nhiều chiều, Cổ thư gọi là: "Trạng thái hỗn độn". Khi sự ổn định trở lại, cổ thư viết: "Khi hỗn độn mới phân, khí nhẹ và trong bay lên thành trời. Khí nặng và đục tụ lại thành đất" là vì vậy. Đây chính là trạng thái thời gian khởi nguyên của vũ trước trước trần thời gian "10 lũy thừa âm 43 giây', mà khoa học hiện đại đang bế tắc trong việc tìm hiểu. Lý học Đông phương với cách hiểu của tôi giải thích như vậy. Nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm văn hiến.Tôi nhắc lại là người ta có quyền "nhân danh cội nguồn Việt sử - Thời Hùng Vương là mộtt liên minh bộ lạc với những người dân ở trần đóng khố" vì quan điểm của họ. Còn tôi nhân danh quan điểm của tôi. Miễn thắc mắc.
    2 likes
  3. Rằm tháng Giêng Canh Dần, Thiên Luân có dịp rong ruổi cùng vài người bạn vào phố cổ Hội An và ghé tham quan Hội Quán Phúc Kiến và tình cờ thấy trong điện thờ chính của hội quán có sử dụng đồ hình Âm Dương không như của TQ bây giờ (có 2 chấm thiếu dương, thiếu âm). Vài nét về Hội Quán Phúc Kiến Hội Quán Phúc Kiến do nhóm người Phúc Kiến (Trung Quốc) đến Hội An sinh sống tạo dựng vào năm 1759. Đây là nơi thờ thần, Tiền hiền và hội họp đồng hương của những người Phúc Kiến. Đến tham quan, du khách sẽ chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc độc đáo, tráng lệ, được chạm trổ tinh xảo. Hội quán có kiến trúc kiểu chữ “Tam” theo các trật tự: cổng – sân – hồ nước – cây cảnh – hai dãy nhà đông và tây – chính diện – sân sau – và hậu điện. Chính điện thờ Thiên hậu Thánh Mẫu, Quan Thế Âm Bồ Tát, Thần Tài, 3 bà Chúa sanh thai và 12 bà mụ. Tương truyền, tiền thân của Hội quán là một gian miếu nhỏ thờ pho tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu (bà chúa phù hộ cho thương nhân vượt sóng gió đại dương) vớt được tại bờ biển Hội An vào năm 1697. Qua nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp chủ yếu của Hoa kiều bang Phúc Kiến, hội quán càng trở nên rực rỡ, khang trang góp phần tô điểm diện mạo kiến trúc đô thị cổ Hội An. Thông qua cách bài trí thờ phụng các hình nhân: 6 vị tiền hiền (lục tánh), bà mụ, thần tài … hội quán thể hiện sâu sắc triết lý Á Đông về hạnh phúc con người. Hàng năm, vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng âm lịch), Vía Lục Tánh (16 tháng 2 âm lịch), vía Thiên Hậu (23 tháng 3 âm lịch) … tại hội quán Phúc Kiến diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham gia. Như vậy Hội quán được xây từ thế kỉ 17 nhưng vẫn sử dụng biểu tượng âm dương Lạc Việt, chứng tỏ rằng trong dân gian vẫn còn lưu giữ những bí ẩn của văn minh Việt Cổ và khi người Phúc Kiến - nam Dương Tử sang Hội An sinh sống đã mang theo thể hiện qua hình âm dương Lạc Việt tại Hội Quán, trung tâm Văn Hóa của họ. Theo 1 số người bạn của TL là du học sinh Việt Nam tại Trung Quốc, sau khi đi thăm Phúc Kiến, họ rất ngạc nhiên vì một bộ phận người Phúc Kiến ở đất TQ hiện nay có thói quen ăn nước mắm, xây nhà giống người Việt, thậm chí một số người cao tuổi ăn trầu! Những chi tiết này có thể không mới nhưng ít ra nó cũng góp phần cho tính hợp lý và logic với công trình của Sư Phụ cũng như một số các nhà nghiên cứu tâm huyết chứng minh sự tồn tại 5000 năm Văn Hiến của nước Việt. Một số hình ảnh về hội quán Phúc Kiến Cổng chính Cổng bên trong Sảnh Điện thờ chính, 2 vòng trong trắng là vị trí của 2 hình Âm Dương Lạc Việt
    1 like
  4. THUYẾT ĐỒNG NHẤT CỦA DỊCH "NHỮNG CHỮ CÓ ÂM GIỐNG NHAU SẼ CÙNG NHAU TRỢ NGHĨA CHO CÁI THỨ MÀ ĐƯỢC GỌI THEO ÂM ĐÓ" Giải: Đơn giản chỉ là sự Đồng Âm của chữ Hán vậy mà mãi chẳng có ai chịu hiểu cho. Một Âm có thể có nhiều Chữ, một Chữ có thể có nhiều Nghĩa. Thái Cực tức là quá nhiều Cực.
    1 like
  5. MÃNG CẦU XIÊM, CÂY PHÉP LẠ CHỮA UNG THƯ Nguyệt lê-Thiên Lôi chuyển bản tiếng Anh SOUR SOP TREATS CANCER-Bản dịch của Thảo Vy và Lương Thái Sỹ Những nghiên cứu về nước ép từ quả mãng cầu xiêm cho thấy đây là công cụ chữa ung thư an toàn, hiệu quả và có sẵn. Nó cũng bảo vệ hệ thống miễn dịch, tránh được một số bệnh truyền nhiễm. Ngoài việc chống ung thư, nước ép mãng cầu xiêm còn là tác nhân chống vi khuẩn, nhiễm nấm, chống ký sinh trùng đường ruột và giun sán, hạ thấp huyết áp, chống trầm cảm và những rối loạn tinh thần. Những phần khác của cây cũng rất hữu dụng. O O O O O O Nguy cơ đối với những con cá mập dược phẩm Theo các kết quả nghiên cứu, nước ép mãng cầu xiêm có thể tầm soát và tiêu diệt có chọn lọc các tế bào ác tính. Nhưng tại sao đến bây giờ chúng ta mới biết về tác dụng “phép lạ” của mãng cầu xiêm trong phòng chống ung thư? Và đã có bao nhiêu người thiệt mạng oan uổng khi công cụ chống ung thư hiệu quả này bị các công ty dược che giấu? Mãng cầu xiêm thuộc giống cây thân thấp có tên là Graviola ở Brazil, guanabana trong tiếng tây Ban Nha và Soursop trong tiếng Anh. Quả lớn ngọt, có nhiều hột tách ăn dễ dàng và làm nước ép có mùi vị rất ngon.Graviola là sản phẩm tự nhiên nên theo luật liên bang Mỹ không cần có bằng sáng chế. Như thế, làm sao nó có thể mang lại lợi nhuận nếu các con cá mập dược phẩm công bố khả năng trị liệu “phép lạ” của mãng cầu xiêm ra thị trường? Họ chờ cho đến khi chiết xuất được dưỡng chất chống ung thư của Graviola và bào chế được loại thuốc chống ung thư bằng thành phần nhân tạo từ chất này, xin bằng sáng chế và thu lợi. Tiếc thay khả năng chống ung thư của mãng cầu xiêm có ngay trong cây, qủa mà không cần phải chiết xuất gì cả. Vì vậy để bảo vệ khả năng thu lợi của các loại thuốc chống ung thư có sẵn, cách hay nhất là ém đi những nghiên cứu mang tính “cứu mạng” của mãng cầu xiêm, không công bố nó cho dân chúng. May mắn, có một nhà khoa học bị lương tâm cắn rứt đã làm lộ câu chuyện về “trái cây phép lạ” cho những người có trọng trách trong y tế Mỹ. Khi viện Khoa học Y tế Mỹ nghe tin này, nó bắt đầu truy tìm những công trình nghiên cứu chống ung thư liên quan đến cây Graviola lấy từ khu rùng mưa Amazon của Brazil. Sự thật được phô bày Năm 1976, Viện Ung thư Quốc gia Mỹ tiến hành cuộc nghiên cứu đầu tiên về loại cây này và kết quả cho thấy, lá và thân của Graviola tiêu diệt hữu hiệu các tế bào ác tính. Nhưng nghiên cứu vẫn chỉ được lưu hành nội bộ chứ không công bố ra ngoài. Sau đó 20 nghiên cứu độc lập khác của các công ty dược hay viện nghiên cứu ung thư do chính quyền tài trợ đều cho thấy khả năng trị ung thư của Graviola. Tuy nhiên, vẫn không có ca thử nghiệm nào được tiến hành chính thức tại các bệnh viện. Chỉ đến khi nghiên cứu của Đại học Cơ đốc giáo Hàn Quốc đăng trên tạp san Journal of Natural Products khẳng định một hoá chất trong Graviola đã tiêu diệt các tế nào ung thư ruột nhanh gấp 10.000 lần hoá chất Adriamycin thường dùng trong hoá trị ung thư người ta mới vỡ lẽ. không gây nôn ói, sụt cân và rụng tóc. Điều quan trọng là không như các hoá chất điều trị ung thư khác, Graviola và nước ép mãng cầu xiêm không hề làm hại gì cho các tế bào khỏe mạnh và không có tác dụng phụ. Người bệnh thấy mạnh khỏe hơn trong quá trình chữa ung thư và các bệnh khác; năng lượng được tăng cường và sống lạc quan hơn. Một nghiên cứu tại Đại học Purdue University sau đó cũng phát hiện ra lá mãng cầu xiêm có khả năng giết các tế bào ác tính của nhiều loại ung thư khác nhau như ung thư ruột, ung thư vú, tuyến tiền liệt, phổi và tuyến tụy. 7 năm im lặng bị phá vỡ. Sự thật được phô bày. Hiện mãng cầu xiêm do thổ dân Brazil trồng hoặc sản phẩm bào chế từ nó đã có mặt nhiều ở Mỹ như một công cụ điều trị và ngăn ngừa ung thư. Một báo cáo đặc biệt có tên Beyond Chemotherapy: New Cancer Killers, Safe as Mother's Milk, do Viện Khoa học Y tế Mỹ công bố về Graviola đã xem loại cây này là “công cụ cách mạng hoá” chống ung thư. Vì vậy, nếu nhà bạn có vườn rộng và thổ nhưỡng thích hợp, bạn nên trồng một cây mãng cầu xiêm trong sân. Nó sẽ có ích rất nhiều cho bạn và gia đình bạn. Nguyệt Lê-Bùi Duy Khuê-Thảo Vy-Lương Thái Sỹ
    1 like
  6. gửi Ceylin, ngày canh dần (TBM) tháng kỹ Mão (TDT) năm canh dần (TBM) giờ tân tị (BLK) Ceylin đang làm quốc tịch, giấy tờ đã đưa, bây giờ là đợi kết quả. Anh xem giúp Ceylin, khi nào thì Ceylin nhận được giấy chính thức trở thành người bên này? Đỗ Tiểu Cát Luận: Không biết thủ tục bên nước ngoài thế nào, thời gian giải quyết trong bao lâu? Nếu nhanh thì đầu tháng 3 sau, chậm thì cuối tháng 4 âm. Quẻ này tốt, tuy lúc đầu có hao tiền, và đi lại giao dịch mất công cảm thấy không thuận, nhưng kết cục cũng ổn. :) Thiên Đồng :)
    1 like
  7. SẤM TRẠNG TRÌNH: " Bao giờ Tiên Lãng chia đôi Sông Hàn nối lại, thì tôi lại về !" Hiện nay Tiên Lãng đã CHIA ĐÔI, cầu Hàn trên sông Hàn đã NỐI LẠI đôi bờ. Chắc cách đây 500 năm, thời của Trạng Trình (1491-1585) ngoại trừ ông, chẳng có ai có thể dám nghĩ "sông Hàn nối lại" (nghĩa là lấp sông, để hai bờ nối liền hay cần xây Cầu. Cây cầu đầu tiên của thế giới là ở Anh xây dựng năm 1773, khoảng 200 năm sau khi Trạng qua đời, "có lẽ" Trạng là người "đầu tiên" trên thế giới (?) có "ý tưởng" LÀM CẦU qua sông). Cho đến hiện nay (năm 2010), Vĩnh Bảo (Hải Phòng) chưa thấy có một nhân tài kiệt xuất nào xuất hiện. Chứng tỏ Trạng Trình chưa về. Tất cả đều đúng 99% còn 1% nữa là chưa thực hiện đúng câu Sấm của Trạng Trình, nên Trạng Trình chưa về, hay nói một cách khác: Vĩnh Bảo chưa có Nhân Tài Kiệt Xuất ra đời. "Vô tình" HN biết được "cách giải" câu Sấm này (Xin nhớ, HN chỉ biết câu này thôi nhé !) 1). Câu giải đã có gợi ý ở trong Video và hình ảnh này. 2). Xin gợi ý chữ của Trạng rất SIÊU: Đúng từng từ một ! 3). Giải câu này thì giải được. Nhưng Trạng Trình "Về" thật, chắc tốn kém rất nhiều tỷ tiền VN. Chúc các bạn giải được, để cùng mong: Trạng Trình sẽ lại trở về với dân Việt mến yêu. "BAO GIỜ TIÊN LÃNG CHIA ĐÔI SÔNG HÀN NỐI LẠI, THÌ TÔI LẠI VỀ !" ********************************************************************************
    1 like
  8. Tại sao anh lại bắt người khác phải công nhận cái ý tưởng này của anh là Khoa Học cơ chứ. Điều này đủ chứng tỏ anh giống như anh Thiên Sứ không hề biết một chút gì về Vật Lý học hiện đại.
    1 like
  9. Cách đây gần 100 năm. Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp cũng chuẩn bị chiến tranh để bảo vệ chủ quyền một số hòn đảo. Nhà cầm quyền cả hai quốc gia đều kêu gọi lòng yêu nước của mọi công dân.Bất ngờ, một trận động đất xảy ra, hòn đảo tranh chấp biến mất. Thế là "Hòa cả làng". Bởi hòn đảo này vốn là dung nham của núi lửa phun lên vài trăm năm trước đó. Bây giờ hiện tượng này lại lặp lại ở Vịnh Bengal. Một trò đùa của Thượng Đế với con người? Có thể coi đây là giải pháp tối ưu để giải quyết tranh chấp không nhỉ? Khi mà núi lửa ở Island phun lên thì sẽ có thêm vài hòn đảo lởm khởm chìm xuống biển. Mấy tấn xi măng do con người đổ thêm lên để được gọi là đảo, sẽ chẳng là cái đinh gì khi nước biển dâng lên. ---------------------------------------------------------------------- Đảo trên Vịnh Bengal biến mất (Dân trí) - Các nhà khoa học ở Ấn Độ vừa tiết lộ thế giới sẽ bớt đi một cuộc tranh chấp về lãnh thổ do một hòn đảo trên Vịnh Bengal đã biến mất trong lòng biển. Nghiên cứu do Trường nghiên cứu hải dương học ở Calcutta cho thấy hòn đảo bị biến mất trên không có người ở và cả Ấn Độ cùng Bangladesh đều tuyên bố chủ quyền suốt nhiều năm qua. Hòn đảo nhỏ này nằm ở nam sông Hariabhanga, được người Ấn Độ gọi là Đảo New Moore trong khi người Bangladesh gọi là Đảo Nam Talpatti. Hình ảnh vệ tinh gần đây cho thấy toàn bộ đảo này đã bị chìm nghỉm trong nước biển. Cũng chưa có ai định cư ổn định trên đảo, bởi thậm chí trong thời kỳ hoàng kim, hòn đảo này cũng chưa bao giờ nằm trên mực nước biển quá 2m. Theo Giáo sư Sugata Hazra thuộc Trường nghiên cứu hải dương học, bất kỳ ai giờ muốn thăm hòn đảo này sẽ phải nghĩ đến việc đi bằng tàu ngầm. Ngoài ra, Giáo sư Sugata Hazra còn cho biết nghiên cứu của ông cho thấy trong một thập kỷ qua mực nước biển ở vùng có đảo New Moore trên Vịnh Bengal đã tăng lên rất nhiều so với 15 năm trước đây. Và ông ước đoán trong một thập kỷ tới những hòn đảo ở vùng châu thổ Sundarbans cũng chịu chung số phận giống New Moore hay còn gọi là South Talpatti. Phan Anh Theo BBC
    1 like
  10. Kính thưa quý vị quan tâm đến cội nguồn văn hóa sử dân tộc. Hôm nay lướt web tôi vô tình tìm được bài văn này của GS Trần Quốc Vượng. Bài viết được thực hiện hồi năm 2002 và được đăng trên bản tin của ĐHQG Hà Nội. Xin chép toàn bộ nội dung của bài viết lên đây giới thiệu cùng quý vị, hi vọng sẽ cho thấy rõ hơn vì sao giới sử học chuyên ngành lại chỉ tính thời điểm lập quốc đầu tiên của nước ta chỉ vỏn vẹn trong giới hạn ở đồng bằng sông Hồng (!) TP. ------------------------- Trung thực và dũng cảm - lời thề chung cho các nhà sử học Tại hội nghị bàn về phương hướng xây dựng giáo trình Lịch sử Việt Nam và Lịch sử Văn hóa Việt Nam, GS. Trần Quốc Vượng đã trình bày một bản báo cáo vô cùng tâm huyết, hết sức sâu sắc và đầy tinh thần trách nhiệm của một nhà khoa học, một nhà giáo dục đầu ngành... Ngày 24 - 25/6/2002, trong khuôn khổ thực hiện đề tài độc lập cấp Nhà nước về Lịch sử Việt Nam do PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc - Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV làm chủ nhiệm, Hội nghị đã được tổ chức. Tại hội nghị bàn về phương hướng xây dựng giáo trình Lịch sử Việt Nam và Lịch sử Văn hóa Việt Nam, GS. Trần Quốc Vượng đã trình bày một bản báo cáo vô cùng tâm huyết, hết sức sâu sắc và đầy tinh thần trách nhiệm của một nhà khoa học, một nhà giáo dục đầu ngành. Từ đó đến nay, PGS. Nguyễn Quang Ngọc vẫn giữ bản báo cáo này như một "bảo bối" cho toàn bộ quá trình triển khai bộ "Lịch sử Việt Nam" 4 tập mà trong đó GS. Trần Quốc Vượng cũng là một tác giả. Bản tin ĐHQGHN xin trân trọng giới thiệu bài viết này như một lời căn dặn của người quá cố về một thái độ dũng cảm và trung thực trong khi viết về lịch sử. 1. Mỗi giáo trình đại học theo đúng nghĩa phải là một công trình nghiên cứu khoa học chất lượng cao. Chất lượng cao là gì? ở những phần sau sẽ nói, nhưng ở đây cần nói ngay rằng toàn bộ và trong từng phần cuốn sách nó phải là một công trình suy tư - nghiên cứu đã nhiều năm đau thiết của một/ những giảng viên đại học có nhân cách khoa học (Personnalité) được xã hội trí thức trong ngoài nước thừa nhận, tuy vẫn có thể được tranh cãi. Tất nhiên là nó phải có tính sư phạm với văn phong khá trường quy. 2. Thời đại mà tất cả các trường đại học trong nước chỉ dùng một giáo trình duy nhất đã qua rồi!. Kinh nghiệm giáo trình "Lịch sử Việt Nam" là vậy, và giáo trình "Cơ sở văn hoá Việt Nam" cũng là vậy. Cái ta sẽ viết là giáo trình cho ĐHKHXH&NV- trước hết là cho Khoa Sử của ĐHQGHN. Thế thì và nhất là ở thời buổi "đổi mới" hiện nay, ta chẳng ngần ngại gì mà không thừa nhận tính trường phái của giáo trình do Khoa Sử biên soạn, thậm chí tính cạnh tranh trong khoa học, dù ai đó có thể phê phán chúng ta là có tính đố kỵ hay thậm chí là tính biệt phái - hay bè phái. Miễn là từ tâm - óc, chúng ta trung thực và hoàn toàn tự nguyện tuân thủ phương pháp luận sử học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa macxit sáng tạo và tư tưởng Hồ Chí Minh sáng tạo và hội nhập với trào lưu sử học tiến bộ của Loài người từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, theo cách ta Học - Hỏi - Hiểu - Hành. Chẳng hạn như, nếu cấp trên giao cho tôi chủ biên giáo trình "Lịch sử Văn hoá Việt Nam" dùng cho Khoa Sử trường ĐHKHXH&NV - ĐHQGHN, tôi phải có quyền lựa chọn các cộng tác viên trong ngoài trường cùng "gu sử học" với tôi. Nếu không, tôi xin đứng ngoài, không thắc mắc gì và chỉ làm những cái gì và với ai mà tôi thích. Trong trường hợp đó xin chớ phê phán tôi là cá nhân, tiêu cực. Trước mắt tôi là con đường về hưu, hưởng thú thanh nhàn cho đến khi từ giã cõi đời giả tạm này. 3. Chúng ta sẽ viết giáo trình chất lượng cao, để đời. Đời sống của nó là một vài chục năm, cứ cho rằng tới khoảng 2020 sẽ "lạc hậu", quá thời. Và sẽ có một thế hệ khác viết lại. "Il a fait son temps" là một thành ngữ Pháp có tính phổ quát cho mỗi nhà khoa học, cho mỗi công trình khoa học. 3.1. Khối tư liệu dùng để biên soạn nên nó phải phong phú - đa dạng, có tính cập nhật cao. Như thế, đòi hỏi mỗi người viết sách giáo trình phải cập nhật cao, với trong nước và với quốc tế. Thí dụ về trước Công nguyên, tôi phải đưa vào giáo trình bài "Việt ca" và một bài thơ có nhắc đến Âu Việt - Lạc Việt cùng sự giải mã của học giả Nhật, học giả Trung Hoa và học giả Việt Nam (tuy họ giải mã khác nhau) cũng như tôi phải đưa vào các tài liệu khảo cổ hữu thể sưu tầm được cho đến 2002 (Lung Leng, Eo Bồng, Trà Kiệu, Lý Nhân, Cần Giờ, Domea...). 3.2. Không chỉ hiện đại về tư liệu mà tôi phải xử lý mối quan hệ biện chứng giữa Phá bỏ - Bảo tồn - Sáng tạo. Đừng mong hòng một cách ảo tưởng rằng Sử học là một khoa học tuyệt đối khách quan, phát hiện ngay được những quy luật khách quan của sự Vận động lịch sử. Có Histoire-Réalité và tôi không phải là một kẻ làm sử (Faire Histoire) hư vô chủ nghĩa (annihiliste) hay thực chứng (positiviste). Nhưng cái đó nói như Giáo sư Sử học lớn J.Furet - người tổng kết 200 năm lịch sử cách mạng Pháp (1789-1989) - luôn luôn còn ở phía chân trời của mỗi nhà sử học chân chính. Với đầy lòng kính trọng của một kẻ hậu tử với bậc tiền bối, tôi buộc mình không dối lòng khi nói rằng cụ Trường Chinh chưa phải là người tổng kết lịch sử Cách mạng tháng 8/1945 hay nhất, đúng nhất. Cụ Tảo Trang viết tặng tôi đôi câu đối của đức Phan Bội Châu : “Hậu tử thường đa tân tuế nguyệt Tiền trình bất thị ác phong vân." Tôi vô cùng cảm ơn nhưng vẫn để đấy để ngẫm suy. Trước mắt chúng ta vẫn chỉ có - và chỉ có thể có - cái Historie Conxience. Lịch sử gắn liền với nhà sử học, với nhân cách và nhận thức của họ. Viện sĩ Mounier, trong công trình De la connaissane Historique bảo: nhà sử học viết sử cũng chỉ như nhà hoạ sĩ vẽ chân dung (Portraitriste)! Hoạ sĩ vẽ chân dung tôi - một hiện thực khách quan đối với ông ta - nhưng cũng đồng thời họ vẽ chân dung họ, theo cách họ hiểu về tôi. Tôi vừa được đọc một tài liệu mới nhất: Học thuyết Tương đối luận của A.Einstein cũng chỉ là tương đối mà thôi !. Vì vậy mà hơn một chục năm trước, tôi đã viết bài "Giải ảo hiện thực Đống Đa” và năm nay tôi đã và sẽ viết bài "Giải ảo hiện thực Đồng Đậu” cùng bài "Giải ảo hiện thực núi Đá Bia" (Phú Yên). Tôi không muốn là kẻ quấy nhiễu sân cỏ lịch sử như Neuville quấy nhiễu sân cỏ World cup Korea - Japan. Số phận tôi là vậy và tôi buộc phải "đảm đương thân phận”- nói kiểu Từ Chi ! Chẳng hạn, tôi mong các nhà sử học - bạn tôi hãy suy nghĩ và viết lại - chí ít dưới khía cạnh "Lịch sử văn hoá Việt Nam” - về Triệu Đà (Lê Văn Hưu, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh có viết như ta trong các giáo trình thập kỷ 60, 70 không?), về Sĩ Nhiếp, về Cao Biền. Vì sao "Việt điện u linh" (1329) - và tâm thức dân gian cùng nhiều nhà sử học khác, gọi ngài là "Sĩ vương" và lập đền thờ cúng. Vì sao trong tờ "thủ chiếu" của đức vua khai sáng nhà Lý, lại gọi "Cao Biền" là "Cao vương"? v.v... Dựa trên suy tưởng của tôi đã có nhà sử học viết rằng: Cái gọi là thời Bắc thuộc về hiển thể chính trị chỉ là quyền tự trị địa phương. Giáo trình mới của Khoa Sử nên xem lại những chuyện đó, dù khuôn nó vào lĩnh vực Histoire mentale (lịch sử tâm thức), một phần của lịch sử văn hoá Việt Nam. Là một đơn vị được phong tặng danh hiệu cao quý - Đơn vị Anh hùng thời đổi mới, dưới sự chèo chống của ông PGS.TS. Chủ nhiệm Khoa “đức xứng kỳ chức”, với các giáo sư tài ba danh vọng vượt bậc Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang..., tôi chỉ mong toàn Khoa Sử, qua bộ giáo trình mới này, "đổi mới mạnh mẽ và kiên quyết" tư duy Sử học để thế hệ trẻ - như đứa cháu ngoại Phan Quang Anh, tức Bờm của tôi, mới bắt đầu học lớp 9 mà kiên quyết học để được tuyển thẳng vào Khoa Sử - được “phận nhờ” (cháu không chỉ đọc sách giáo khoa phổ thông (“ngắn quá”) mà đã dám đọc “Tiến trình lịch sử Việt Nam") và người già như tôi, ông Hãn, ông Lâm cũng sẽ được ngậm cười ở... thế giới bên kia! 4. Giáo trình mới không nên viết, chẳng hạn "Văn hoá Đông Sơn là văn hoá Lạc Việt”, “Trống đồng Đông Sơn là trống đồng Lạc Việt” như giáo trình Đại học Văn khoa thời thầy tôi, cố GS. Đào Duy Anh rồi gắn cái văn hoá đó với thời Văn Lang - Âu Lạc. Tôi có điên không? Có lẽ tôi cũng có máu điên trong người, nhưng... tôi tự cho là... vẫn còn "tỉnh". Học giả ngoại quốc biết bao lần đã nói vào cái "bản mặt" tôi rằng: Cái "giọng" của giới sử các ông Việt Nam rất chi là... "chauvin", "nationalist", tuy... ông là đỡ hơn cả đấy! ở Đại học Tổng hợp Hà Nội, tôi đã nêu luận điểm từ khi thành lập ngành Khảo cổ: Khi anh/ chị nghiên cứu những nền văn hoá tiền - sơ sử thì... hãy tạm thời quên đi những biên giới chính trị của các quốc gia hiện nay. Văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn chẳng hạn là của toàn Đông Nam á, cả lục địa và hải đảo. Đến khi được cấp trên chỉ thị thành lập ngành Văn hoá học, tôi lại nêu luận điểm: Không gian văn hoá và không gian chính trị là khác nhau. Và rất thường khi Biên giới chính trị cắt "ngang xương" một không gian văn hoá, ở châu Phi là vậy. ở Đông Nam á, ở Việt Nam cũng là vậy. Khi còn sinh thời GS. Phạm Huy Thông, lúc ông làm Viện trưởng Viện Khảo cổ học, tôi đã nài được ông cho thuyết trình ở Viện rằng: Cái không gian trống đồng loại I Heger là nằm trong một "tam giác đồng” (tôi nhái khái niệm “Tam giác Vàng") mà 3 đỉnh là Vân Nam - Việt Nam - Lưỡng Quảng ngày nay và nhấn mạnh rằng: ở thời đó nó vẫn là một không gian "Phi Hoa - Phi ấn", gọi là "Không gian Việt cổ" cũng được, nhưng Việt cổ là một khái niệm khá mơ hồ, chỉ nhìn "cái răng, cái tóc là góc con người" thì cũng đủ biết: “Người Đông Sơn” vừa búi tóc (tư liệu Việt Khê, Hải Phòng), vừa xoã tóc (tư liệu Đào Thịnh, Yên Bái), vừa tết tóc (tư liệu nhiều dao găm cán hình người Đông Sơn), có răng nhuộm đen, có răng để trắng: Bao nhiêu "mộ thuyền" đã chứng tỏ điều đó. "Sống xen kẽ giữa các tộc người" ở Việt Nam, dù Nam Á, Nam Đảo hay các ngữ hệ Tạng Miến... gì gì đi nữa đã là một quy luật lịch sử lâu đời để nhà khảo cổ học Thụy Điển, GS. Olov Janse rút ra một kết luận bất hủ: "Vietnam, Carrefour des Peuples et des Civilisations". Việt Nam hôm nay có sự thống nhất văn hóa và ngôn ngữ, nhưng cũng có sự đa dạng, nếu không muốn nói “huỵch toẹt” ra là có cái “đa văn hóa” (multicultural) và “đa ngôn ngữ” (multilinguistic). Thì có sao đâu ở trong một cái khuôn thể chế chính trị thống nhất, dân chủ? Vậy những người anh hùng ở Khoa Sử nên viết "Lịch sử Việt Nam" chứ không phải là "Lịch sử người Việt" cho dù tộc Kinh - Việt hiện nay là chủ thể quốc gia. Mà cái gọi là người Việt như ta hiểu cũng xuất hiện khá muộn mằn trong lịch sử... và cũng đa dạng lắm, từ Bắc - Trung tới miền Nam đất nước. Từ lâu, người Pháp đã phân biệt Histoire de France và Histoire des Francais. Ta nên tham khảo họ. Người Nhật (và cả người Hoa) cũng đã nhìn thấy nhiều “văn hoá Trung Hoa” rồi đấy (cùng lắm thì họ gọi là "Một văn hoá Trung Hoa có nhiều local cultures". 5. Cho nên cách viết "Lịch sử Việt Nam" nói chung, "Lịch sử văn hoá Việt Nam" nói riêng rất nên là cách viết một thời không gian liên tục kiểu A.Einstein, hay, nói theo một hướng tiếp cận hiện đại, là kết hợp nghiên cứu Lịch đại (Diachronic Studies) và nghiên cứu Vùng - Tiểu vùng (Area Studies). Đừng “lờ” một hiện tượng lịch sử quan trọng và kéo dài "Nam tiến" (The March to the South) hay còn gọi là Migration horizontale của người Kinh - Việt trong khi ở các nhóm H’mong - Yao, thì đó lại là migration vertical (Di cư theo chiều dọc). Đừng dùng các khái niệm đã mòn, thậm chí cái thủ thuật "đánh tráo khái niệm” bằng ngôn từ điêu xảo. Hãy gọi sự vật bằng chính cái tên của nó. Nếu có một lời thề chung cho các nhà sử học thì, theo tôi, nên là: "Trung thực và dũng cảm". Thư bất tận ngôn. Ngôn bất tận ý ! Hà Nội, 23/ 6/2002 GS. Trần Quốc Vượng [bản tin ĐHQG Hà Nội - số 173, tháng 7/2005]
    1 like