-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 14/03/2010 in all areas
-
Thưa các bạn, Là thành viên mới của diễn đàn, tôi mạnh dạn mở topic này với hy vọng có thể giúp các thành viên khác có được những thông tin để tham khảo từ lá số tử vi của mình trước khi đưa ra những quyết định về công danh, sự nghiệp. Những thành viên tham gia topic này xin vui lòng đưa ra các thông tin ngắn gọn, đầy đủ, chính xác và các câu hỏi cũng nên gắn gọn, rõ ràng. Với những kiến thức và kinh nghiệm có được, tôi sẽ cố gắng giải đáp cho các thành viên. Xin cảm ơn sự hưởng ứng tham gia của các thành viên. Xin chúc cho diễn đàn ngày càng phát trỉển mạnh mẽ. Huyencodieuly1 like
-
DiỄm XƯa
Thiên Phú liked a post in a topic by Thiên Sứ
“Diễm xưa” của Trịnh Công Sơn trở về 14/03/2010 1:14 Người đẹp "Diễm xưa" của Trịnh Công Sơn trong vòng vây của báo chí - Ảnh: B.N.L Lần đầu tiên sau hơn 50 năm im lặng trước mọi suy đoán, giả thiết..., người đẹp Diễm xưa của Trịnh Công Sơn đã công khai mối tình huyền thoại với cố nhạc sĩ tài hoa. Buổi giao lưu diễn ra chiều tối ngày 12.3 tại Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán Huế (TP Huế), do TS triết học Thái Kim Lan cùng một nhóm bạn Huế xưa tổ chức mang tính nội bộ giữa những người bạn Huế với thầy cô và bạn bè sau hơn mấy mươi năm xa cách. Thế nhưng, sự có mặt của Diễm xưa đã gây sự chú ý rất lớn đến các bạn trẻ, báo giới tại Huế và người yêu thích nhạc Trịnh Công Sơn. Về người đẹp Diễm trong Diễm xưa, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn khi còn sống đã từng tự bạch: “Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây long não lá li ti xanh mướt để đến trường Đại học Văn khoa ở Huế... Nhà cô ấy ở bên kia sông, mỗi ngày phải băng qua một cây cầu rồi mới gặp hàng long não để đến trường. Từ ban công nhà tôi nhìn xuống, cái bóng dáng ấy đi đi về về mỗi ngày bốn bận... Người con gái đi qua những hàng cây long não bây giờ đã ở một nơi xa, đã có một đời sống khác. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm nào cũng đáng nhớ nhưng cứ phải quên. Người con gái ấy là "Diễm của những ngày xưa". Diễm xưa của Trịnh Công Sơn tên thật là Ngô Thị Bích Diễm, con gái của ông Ngô Đốc Kh., người Hà Nội, dạy Pháp văn tại trường Đồng Khánh và trường Quốc Học Huế. Về bản thân mình, người đẹp Diễm xưa chỉ tâm sự vắn tắt: “Tôi sinh ra ở Hà Nội nhưng lớn lên ở Huế, trưởng thành ở TP.HCM, sau đó đi du học nước ngoài và bây giờ cùng chồng và các con định cư ở Mỹ”. Theo hồi ức của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân và nhiều người cùng thời với bà có mặt tại đêm giao lưu thì bà Bích Diễm ngày xưa giống bố, người gầy và dong dỏng cao, nét mặt thanh tú, bước đi thong thả nhẹ nhàng... Qua thời gian, Diễm xưa bây giờ đã là một mệnh phụ, tuy nhiên khuôn mặt, dáng người, phong thái vẫn còn lưu dấu những nét đẹp kiêu sa, đài các một thời. Riêng những kỷ niệm về Trịnh Công Sơn và về bài hát Diễm xưa, người đẹp nói: “Đây là một kỷ niệm đẹp, hãy để như thế cho nó đẹp...”. Thế nhưng, một đôi điều về kỷ niệm xưa cũ ngọt ngào cũng đã được hé lộ: Bà quen biết nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua họa sĩ Đinh Cường, thời ấy (khoảng những năm 1960) là một học trò Pháp văn của cha bà. Nhà bà ở 46 đường Phan Chu Trinh, bên kia sông An Cựu, đối diện với nhà cũ của Trịnh Công Sơn ở đường Nguyễn Trường Tộ, thành phố Huế. Trong thời gian hai người quen biết nhau, có lần bà tặng cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn một nhánh hoàng lan đầy hoa rất lớn bẻ từ nhà bà, và điều này đã trở thành một “cú sốc” tình cảm lớn đối với nhạc sĩ, theo như lời kể lại của em gái nhạc sĩ với bà sau này... Trò chuyện tại buổi giao lưu, nhà văn Bửu Ý - một người bạn thân của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - cho rằng: “Sinh thời, Trịnh Công Sơn có đến hơn... 23 người tình. Tuy nhiên, do mối tình đầu với bà Bích Diễm quá sâu nặng cho nên những mối tình sau này, thật ra Trịnh Công Sơn chỉ là đi tìm hình bóng của bà Diễm trước đó mà thôi”. Bùi Ngọc Long1 like -
Từ chữ "Phụ" đi tìm nguồn gốc chữ tượng hình. Nguyễn Thiếu Dũng Phụ là cha.Phụ là âm đọc theo tiếng Hán Việt. 1-Phụ là cha,như phụ mẫu : cha mẹ,phụ thân:cha ruột,dưỡng phụ :cha nuôi 2-Phụ chỉ những bậc lớn hơn cha,hoặc ngang hàng với cha như tổ phụ:ông,bá phụ :bác,thúc phụ : chú ,hoặc là tôn xưng người có danh giá:Thượng phụ chỉ Lã Vọng Khương Thái công,Ni Phụ chỉ Khổng Tử,Á phụ chỉ Phạm Tăng. 3-Phụ còn có âm là phủ,tiếng gọi tôn các người có tuổi như Ngư phủ :ông già đánh cá. Như vậy Phụ có thể đọc là phụ vừa có thể đọc là phủ. Đường vận đọc là phù vũ thiết = phủ, Tập vận hay Vận hội cũng đọc là phụng phủ thiết = phủ. Phụ có hai nghĩa, một nghĩa thân thích: cha, ông, một nghĩa tôn xưng: thượng phụ. Phụ cũng có hai âm đọc: phụ và phủ. Ta có thể tìm thấy nghĩa nguyên phát của chữ phụ trong Kim Văn tức Chung Đỉnh văn, là loại chữ được khắc trên chuông đồng hay vạc đồng ở các đời Thương Chu. Nghĩa của chữ phụ, Hán Điển giải thích: “指 事。甲骨文字形,象右手持棒之形。 意思是:手里举着棍棒教子女守规矩的人是家长,即父亲” (chỉ sự,hình tượng chữ trên Giáp Cốt văn, có tượng tay nắm cây roi,ý nghĩa: người tay nắm roi dạy con cái tuân thủ quy định về bổn phận làm người là gia trưởng tức là cha đẻ) Giảng nghĩa như vậy là mặc nhiên xác nhận chữ phụ mới được hình thành khi con người đã tiến đến thời đại văn minh lễ giáo. Lý giải này khó chấp nhận vì từ thời mông muội đến thời văn minh, con người trải qua thời gian rất dài có thể tính nhanh lắm cũng từ 3 đến 4 con số năm, không lẽ trong quảng thời gian dài đó người sinh ra con chưa được định danh! Thơ Lục Nga (Tiểu Nhã) trong Kinh Thi nói là: ”Phụ hề sinh ngã. Mẫu hề cúc ngã” (cha sinh ra ta, mẹ nuôi dưỡng ta). Người Việt ta cũng đồng một ý khi nói “cha sinh mẹ dưỡng”. Đây là cách nói theo văn hóa phồn thực,vào buổi ban đầu của nhân loại khi chuyện phối giống để sinh tồn được coi là việc trọng đại thiêng liêng, con người ngưỡng mộ và thờ phụng sinh thực khí, thì cha phải mang ý niệm là người sinh, người tạo giống, người phối giống , khi phôi đã tạo, thai đã thành thì mẹ là người nuôi nấng phôi thai đó. Vì vậy cha chính là người đã làm chuyện ấy để tạo sinh, chứ không phải ban đầu đã có ý niệm cha là người giáo huấn. Phụ Phụ Phụ Phụ (http://www.chineseetymology.org/CharacterImages/Bronze) Với hình vẽ diễn ý như thế này không thể cho đây là người đang cầm roi để giáo huấn, cái khe đen đó rõ ràng là sinh thực khí của người mẹ, cái roi không thể có hình tượng như vậy. Phần bên phải là hình ảnh người cha đang quỳ trước mẹ để thực hiện hành vi tính giao. Cha chính là người tạo sinh,người làm chuyện ấy để gieo mầm,mẹ là người hoài thai,nuôi nấng bào thai. Biến thể của chữ Phụ: (theo Hán Điển - zdic.net) Thuyết văn giải tự cho chữ mẫu là hình tượng người mẹ hoài thai. Như vậy chữ tượng hình đã diễn đạt được ý cha sinh mẹ dưỡng. Đến đây có một vấn đề cần đặt ra là tại sao ở Trung Quốc chữ Phụ chỉ có nghĩa là cha như phụ thân hay tôn xưng là ông như Ngư phủ và chỉ thừa nhận nghĩa Cha là người cầm roi dạy dỗ con cái, nghĩa là chỉ nhận nghĩa thứ phát chứ không nhận nghĩa nguyên phát, cha là người tạo sinh nghĩa là người có hành vi giao phối như hình tượng đã vẽ trên Giáp cốt hay Chung đỉnh? Kính xin các bậc cao minh chỉ giáo! Đó là phần tiếng Hoa, bây giờ ta thử quay sang tiếng Việt. Ta đã biết tiếng Hoa, Phụ là cha còn đọc là phủ. Âm phủ trong tiếng Việt có hai nghĩa: 1- che phủ: như trong các câu ca dao: - Chiều chiều mây phủ Hải Vân, Chim kêu gành đá gẩm thân thêm buồn. - Chiều chiều mây phủ Sơn Chà, Lòng ta thương bạn nước mắt và lộn cơm. - Chiều chiều mây phủ Sơn Chà, Sấm rèn non nước trời đà chuyển mưa. - Nhiểu điều phủ lấy gia gương,Người trong một nước phải thương nhau cùng. Chữ phủ này làm sáng nghĩa thứ hai của chữ phủ. 2- phủ chỉ hành vi tính giao. Ví dụ: -“ Nùng Trí Cao (Cổ tích Thái) Ngày xưa, dưới triều Lý Thái Tông (1028-1057) trong bộ tộc Thái ở vùng biên giới thượng du miền Bắc, có Nùng Tôn Phúc, tù trưởng châu Đằng Gio ở giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, nổi lên chiếm các hạt chung quanh, tự xưng là Hoàng Đế Trường Sanh (1039), không chịu thần phục nhà Lý. Vua Lý Thái Tông phái quân đi dẹp, bắt được Nùng Tôn Phúc và con trai là Nùng Trí Tông cùng năm tùy tướng giải về kinh đô Thăng Long trị tội. Vợ Nùng Tôn Phúc cùng con trai là Nùng Trí Cao chạy thoát được, đến lẩn tránh ở một nhà người cậu của Trí Cao. Tục truyền rằng một hôm Trí Cao đang chăn ngựa trên núi, bỗng thấy một vầng mây đen chở một con rồng đến phủ lên một con ngựa cái trong bầy ngựa đang ăn cỏ. Đến khi ngựa con do rồng phủ sinh ra, Trí Cao bắt cỡi, thấy nó sức lực phi thường, vượt núi như bay. Được con thần mã, Trí Cao bèn nối chí cha, liên kết các châu thượng du lại, tự xưng là Hoàng Đế Đại Lịch. Bị quân triều đình đánh bại, không nỡ diệt tuyệt họ Nùng, tha cho Trí Cao về, và phủ dụ bổ cho làm tri châu cai quản ba châu Quảng Uyên, Thượng Lang và Hà Lang, cùng phong cho chức Thái Bảo” (http://quehuongonline.vn/VietNam/Home/Goc-...07/09/2A4290FB/) Nghĩa thứ hai của chữ phủ chỉ hành vi tính giao trong tiếng Việt lại phù hợp với ý niệm mà chữ phụ trên Chung Đỉnh văn muốn minh họa, trong khi đó tiếng Hoa lại không có nghĩa này, nói cách khác là nghĩa và hình tiếng Hoa không ăn khớp với nhau. Mặc dầu chữ Phụ đã được biến thể qua nhiều giai đoạn: Giáp cốt văn, Kim văn, Tiểu triện, Khải thư nhưng ý niệm mà nó muốn minh họa vẫn được duy trì. Hãy hình dung chữ bát trên chữ phụ ở dạng khải thư là hình ảnh đôi chân người đàn bà dang rộng ra, và hai nét chéo giao nhau ở phần dưới chữ phụ là hình ảnh hai tay, hai chân người đàn ông, người đó đã dùng hai tay banh rộng háng của người đàn bà để thực hiện hành vi tính giao, người thực hiện hành vi tính giao đó để gieo mầm sự sống cho một sinh linh mới sẽ được gọi là cha (phụ, phủ). Phụ là phủ = phụ sinh Đến đây tôi xin nhường lại kết luận cho các bậc cao minh giải đáp. Làm sao mà tiếng Việt (qua chữ phụ) lại phù hợp với chữ tượng hình trên Giáp Cốt văn, Kim Văn, Tiểu Triện, Khải thư, trong khi tiếng Hoa lại bỏ mất nghĩa ban đầu. Tiếng Việt là tiếng có đủ 6 thanh. Vậy thì tiếng nào chịu ảnh hưởng của tiếng nào? Tiếng nào là gốc?1 like
-
Hoàng Sa-Trường Sa Mãi Mãi là của Việt Nam Đinh Kim Phúc - Ngày đăng: 20.1.2010 Một tấm bản đồ thế giới có tuổi đời hơn 400 năm,, vừa được trưng bày tại thư viện Quốc hội Mỹ. Báo China Daily cho biết, Matteo Ricci - một nhà truyền giáo người Italy - vẽ tấm bản đồ vào năm 1602 theo yêu cầu của vua Minh Thần Tông Nó là một trong hai bản sao còn được giữ ở trạng thái tốt. Một người sưu tầm tại Nhật Bản đã giữ nó trong nhiều năm trước khi bán cho Quỹ James Ford Bell vào tháng 10 năm 2009 với giá 1 triệu USD. Với mức giá đó, nó trở thành tấm bản đồ đắt giá thứ hai từng được bán. Do đây là một trong những bản đồ quý và dễ hư hại nên nó đã được in lên 6 tờ giấy gạo cỡ lớn. Theo hảng tin AP, tấm bản đồ có kích thước 3,65 m x 1,52 m. Chất liệu của tấm bản đồ này được làm bằng giấy hồ – một loại chất liệu được sử dụng rất phổ biến ở Trung Quốc vào thế kỷ XVII. Nó biểu thị nhiều khu vực trên thế giới bằng hình vẽ và lời chú giải. Ricci đề tên nhiều nước tại châu Mỹ, như Chih-Li (Chile), Wa-ti-ma-la (Guatemala) và Ka-na-ta (Canada). Bang Florida của Mỹ được mô tả là “vùng đất của các bông hoa”. Châu Phi được chú thích là “nơi có dãy núi cao nhất và dòng sông dài nhất thế giới”. Ford W Bell-một trong những người quản lý Quỹ James Ford Bell-nói với tờ Pittsburgh Tribune-Review rằng bản đồ được trưng bày trong thư viện Quốc hội Mỹ là một trong số hai bản đồ cổ có chất lượng tốt nhất. “Ricci là một nhà truyền giáo cực kỳ thông thái. Ông đặt Trung Quốc vào trung tâm của thế giới mới để ghi nhận sự quan trọng của đất nước này. Tất nhiên, Ricci là người phương Tây đầu tiên tới Bắc Kinh. Người Trung Quốc kính trọng Ricci và ông được chôn tại Trung Quốc”. Không có bất kỳ phiên bản nào của tấm bản đồ Ricci được tìm thấy tại Trung Quốc. Hãng tin AP cho biết thêm, chỉ có vài bản sao chép được lưu giữ trong các thư viện của Tòa thánh Vatican và các nhà sưu tầm ở Pháp, Nhật Bản. Theo kế hoạch tấm bản đồ của Matteo Ricci cũng sẽ được số hóa để đưa lên mạng. (Hình 1) Bản đồ nầy do nhà truyền giáo Italia, dòng Tên, Matteo Ricci(1552-1610) sáng tác trên đường truyền đạo ở Trung Quốc. Trong thời Nhật Bản “bế môn tỏa cảng” (1793-1858), phiên bản nầy đã được du nhập vào Nhật Bản, gây ảnh hưởng lớn đên nhận thức thế giới của người Nhật trong thời Edo(1603-1868). Ricci đã sáng tác tấm bản đồ thế giới đầu tiên bằng tiếng Hán theo bản đồ được vẽ ở Châu Ấu, hiện nay tấm bản đồ nầy đã thất lạc. Viên quan nhà Minh tên là Lý Chi Tảo(李之藻) đã dày công vẽ lại thành “phiên bản Lý Chi Tảo” với tên gọi là “Khôn dư vạn quốc toàn đồ”. Nguyên tác là bản vẽ một màu nhưng phiên bản (vẽ trên gỗ) sang Nhật bản được sao lại được tô thành nhiều màu, và một phần địa danh được sửa lại, vì vậy trong bản đồ phổ biến hiện nay có những địa danh phiên âm theo tiếng Nhật (Katakana). Bản khắc trên gỗ có 6 tấm nhưng phiên bản nầy chỉ có 2 tấm đông-tây mà thôi. Phiên bản nầy hiện nay được trưng bày tại Thư Viện Tỉnh Miyagi (thành phố Sendai ) và thư viện Đại Học Kyoto. Tiểu sử Matteo Ricci : Matteo Ricci (6 tháng 10 năm 1552 - 11 tháng 5 năm 1610), là một linh mục Thiên Chúa giáo người Ý. Matteo Ricci sinh năm 1552 tại Macerata, ông bắt đầu học thần học và luật tại trường Thiên Chúa Giáo Roma. Năm 1577, ông đăng ký trở thành thành viên của một đoàn thám hiểm tới Ấn Độ và chuyến đi bắt đầu từ tháng 3 năm 1578 từ Lisboa, Bồ Đào Nha. Ông tới Goa, một thuộc địa của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, vào tháng 9 năm 1578 và bốn năm sau đó được đưa tới Trung Quốc. Năm 1582, Ricci bắt đầu học về ngôn ngữ và phong tục Trung Quốc tại Ma Cao, một trạm giao thương của Bồ Đào Nha ở miền Nam Trung Hoa, và trở thành một học giả phương Tây hiếm có đã học được văn bản chữ viết cổ điển của Trung Quốc. Năm sau, 1583, thì Ricci bắt đầu du thám vào sâu đại lục, nhờ chuyến thăm tới Triệu Khánh thuộc Quảng Đông, từ lời mời của Tổng trấn Triệu Khánh thời đó là Wang P'an, người đã nghe về tài toán học và vẽ bản đồ của Ricci. Ông ở đó từ năm 1583 tới năm 1589 trước khi phải rời đi sau khi bị trấn tổng mới nơi này trục xuất. Chính tại Triệu Khánh, Ricci đã vẽ bản đồ thế giới đầu tiên bằng tiếng Hoa. Trong các chuyến du hành sau đó, Ricci tới Nam Kinh và Nam Xương năm 1595, Thông Châu năm 1598 và sau đó tớiBắc Kinh lần đầu tiên vào ngày 7 tháng 9 năm 1598. Tuy nhiên, do cuộc chiến tranh Nhật Bản-Triều Tiên vào thời điểm đó nên ông không được thăm cung điện hoàng gia. Sau hai tháng chờ đợi, Ricci rời Bắc Kinh để tới Nam Kinh và rồi dừng chân tại Tô Châu thuộc tỉnh Giang Tô. Năm 1601, Ricci trở lại Bắc Kinh, tuy lần đầu ông không được diện kiến hoàng đế Trung Hoa nhưng sau khi tặng hoàng đế chiếc đồng hồ rung chuông, Ricci cuối cùng cũng được phép tận tay trao món quà cho hoàng đế Minh Thần Tông tại cung điện và Ricci cũng chính là người phương Tây đầu tiên được mời vào Tử Cấm Thành của Trung Quốc. Dù cho Ricci được quyền tự do vào Tử Cấm Thành nhưng ông lại không được gặp mặt Minh Thần Tông, nhưng bù lại ông được Minh Thần Tông trao cho chức vụ Tổng giám mục về Thiên chúa Giáo tại Trung Quốc. Nhờ đó mà Ricci có cơ hội được gặp nhiều quan chức cũng như các nhân vật hàng đầu về văn hóa tại Bắc Kinh thời đó. Ricci học rất nhiều về lịch sử và văn hóa Trung Hoa và ông cũng là người phương Tây đầu tiên tìm hiểu về cộng đồng người Do Thái ở Trung Hoa. Ông từng được liên hệ riêng bởi một thành viên của cộng đồng dân Do Thái tại Bắc Kinh vào năm 1605. Dù không bao giờ gặp mặt cộng đồng này ở Hà Nam một cách chính thức nhưng Ricci cũng gửi một người truyền giáo tới đó ba năm sau vào năm 1608, đây là một trong rất nhiều nhiệm vụ được ủy quyền bởi Giáo hội. Ricci sống tại Trung Quốc cho tới khi ông qua đời ngày 11 tháng 5 năm 1610 tại Bắc Kinh. Một phát hiện mới Trong tấm bản đồ này (Hình 2), (Hình 3), các chú thích được ghi bằng hai ngôn ngữ: tiếng Hoa và tiếng Nhật, tại phần lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã được Ricci chú thích, phần chú thích này rất quan trọng. Đoạn tiếng Hoa (Hình 4) được chú thích trên vùng biển Đông được đọc là: “Đại Minh thanh danh văn vật chi thịnh tự thập ngũ độ chí tứ thập nhị độ giai thị kỳ dư tứ hải triều cống chi quốc thậm đa thử tổng đồ lược tải nhạc độc tỉnh đạo đại lược dư tường thống chí tỉnh chí bất năng đàn thuật”. “Thanh danh văn vật [triều] Đại Minh thịnh vượng, nhiều nước trong bốn biển - ở khoảng 15 độ đến 42 độ - đều đến triều cống. [bức] tổng đồ này [chỉ] diễn tả chung về núi, sông, tỉnh, đạo. không thể vẽ tường tận cụ thể như [sách] Nhất thống chí,Tỉnh chí ghi chép…” Và 4 chữ (hàng dọc) (Hình 5) đọc là: Vạn lý trường sa Những dòng chữ ghi chú trên được hiểu như thế nào ? Ở đây, cần nhắc lại quá trình Nam tiến trong lịch sử Việt Nam. Năm 1471 khi đi đánh Champa, lấy được kinh đô Vijaya, Lê Thánh Tông có ý dừng lại, chia làm cương vực ở đó. Mặc dù bấy giờ như ta đã biết, vương triều Vijaya đã suy mà Đại Việt thì đang trong thời thịnh trị. Nhà Lê không muốn và chắc chắn cũng sẽ không nghĩ tới việc cố thôn tính một quốc gia khác mà chỉ mong sự yên ổn lâu dài trên biên giới phía Nam. Vua Lê thân chinh, theo như tuyên bố, là vì Champa đã quấy nhiễu biên giới, cũng vì một quan niệm là “Đại Chiêm và Cổ Lũy trước là đất của ta, gần đây bị mất về nước Champa, nên lấy lại được hết, sai các ngươi trấn thủ”. Vua đã lấy cả vùng Vijaya nay là Bình Định liền một dải với Cổ Lũy để có địa giới tự nhiên hiểm trở ở phía Nam là đèo Cù Mông, lập nên đạo Quảng Nam, nhằm thực hiện ý định đó. Trong cuộc hành quân này, quân Đại Việt còn vượt qua đèo Cù Mông, tiến tới núi Bia Đá (Thạch Bi)(1). “Núi này có một chi, đến bờ biển thành hai… có một khối đá lớn, quay đầu về phía đông như hình người… (Vua Lê) sai mài vách núi dựng bia đá để chia địa giới với Champa”(2). Với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía Nam, vua Lê cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới đèo Cả (hay Đại Lãnh) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh. Lấy lại phần thượng nguyên ở phía tây Hoa Anh – vùng Che Reo để lập nước Nam Bàn. Như vậy, Champa ngăn cách hẳn với Đại Việt bằng hai nước, tuy nhỏ nhưng cũng là tấm đệm từ miền núi ra đến biển. Đầu thế kỉ XVI, nhà Lê suy yếu, tiếp đến việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi (1527), rồi đến việc họ Trịnh làm Chúa, nắm quyền và việc Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ phương Nam để tránh tị hiềm. Lúc đầu (năm 1558), Nguyễn Hoàng được nhận trấn thủ Thuận Hóa (gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế ngày nay), tiếp đó lại xin được giao thêm quyền trấn thủ Quảng Nam (từ Quảng Nam đến Bình Định ngày nay-năm 1570). Ngay khi vừa nhận thêm quyền trấn thủ Quảng Nam, Nguyễn Hoàng đã cử Lương Văn Chính làm Tri huyện Tuy Viễn (một trong hai huyện của tỉnh Bình Định, giáp giới Hoa Anh) và giao nhiệm vụ giữ yên phía Nam. Năm 1578, Lương Văn Chính cầm quân tiến vào Hoa Anh, vây và hạ thành An Nghiệp – thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử Champa, đẩy họ về cương giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Vua Champa, theo niên giám là Po At (1553- 1579), có lẽ đã bị chết trong thời điểm này. Trận đánh chỉ mới nhằm lập lại trật tự cũ, tuy nhiên Lương Văn Chính cũng đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rải rác từ phía Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn. Trong khoảng 10 năm cuối thế kỉ XVI và đầu thế kỉ XVII, Champa lại lấn đất Hoa Anh, giết và đuổi những người nông dân Việt vào cư trú khai khẩn miền đất này. Năm 1611, Nguyễn Hoàng sai Nguyễn Phong làm tướng, đem quân vào đánh lại, Champa bị thua, vua là Po Nit (1603 – 1613) phải bỏ Hoa Anh rút quân về phía Nam đèo Cả. Lần này họ Nguyễn đã lấy hẳn đất Hoa Anh, lập ra một phủ mới là phủ Phú Yên, gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa, lập dinh Phú Yên, đóng quân để phòng giữ. Lương Văn Chính đươc cử làm tham tướng dinh Trấn Biên, sau đó là dinh Phú Yên. Như vậy, Với việc lập phủ và dinh Phú Yên, chúa Nguyễn muốn xác lập hẳn quyền cai trị của mình trên một miền đất đã có sự góp sức khai khẩn của nông dân Việt trong mấy chục năm, muốn chấm dứt sự tranh chấp trên một vùng đệm để có thể yên tâm đối phó với cuộc chiến tranh chinh phạt của chúa Trịnh, một thử thách quyết liệt không thể tránh khỏi đối với chúa Nguyễn ở Đàng Trong(3). Xác định lại thời điểm lịch sử kể trên để thấy rằng, vào năm 1602 (năm mà Matteo Ricci hoàn thành tấm bản đồ của mình), Vạn lý trường Sa không thuộc về lãnh thổ của nhà Minh, mà nó đã thuộc về quốc gia Đại Việt. Điểm đặc biệt thứ hai là lần đầu tiên vùng biển giữa Triều Tiên và Nhật Bản được ghi là biển Nhật Bản (Nhật Bản hải) có lẽ vì là phiên bản lưu hành tại Nhật bản nên đã được thêm vào? Thứ tự ảnh : Trên bên trái qua(Hình 5), (Hình 4) (Hình 3), (Hình 2) Một phần bản đồ (khu vực Viễn Đông) của Matteo Ricci , Phía dưới (Hình 1) Bản đồ nầy do nhà truyền giáo Italia, dòng Tên, Matteo Ricci./. Chú thích: (1) Núi Thạch Bi ở phía Đông Huyện Tuy Hòa, phía Bắc đèo Cả, thuộc Thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên ngày nay. (2) Đại Nam nhất thống chí, T.III, trang 65 (3) Dẫn theo Lương Ninh (Chủ biên), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Giáo Dục, 20051 like
-
Trung Quốc rối trí với các dãy đảo ngoài khơi của Nhật Bản Tác giả: ASIA TIMES (Người dịch: Ngọc Thu) Bài đã được xuất bản.: 9 giờ trước Tuanvietnam.net Giờ đây Nhật Bản nhận ra là mình đã mắc nợ Việt Nam, dù là gián tiếp. Việt Nam đang đưa ra những mâu thuẫn lạ lùng mà nước này đã phát hiện ra trong vụ tranh chấp của Trung Quốc chống lại Nhật Bản trong trường hợp này. => Lập trường hai mặt của Trung Quốc đối với Luật biển Quốc tế Bài của Peter J Brown, nhà báo tự do từ tiểu bang Maine, Hoa Kỳ Đảo Okinotori của Nhật Bản, nơi có một địa chỉ bưu điện của Tokyo mặc dù nó nằm ở phía nam cách thủ đô 1.770 km và trên thực tế nó chỉ là một cặp đảo nhỏ xíu, nhưng nó đã trở thành một khúc xương khó nuốt trong việc tranh chấp đối với Trung Quốc. Cùng với các vấn đề khác, Trung Quốc không công nhận tình trạng hòn đảo, thay vào đó, xem nó như là một đảo san hô vòng, dải đá ngầm hay là đơn giản chỉ là một hòn đá. Làm như vậy, Trung Quốc hy vọng sẽ giảm tốc độ thực hiện kế hoạch của Nhật Bản trong việc thiết lập vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) ở đó. Tranh chấp ở Okinotori, mà Nhật Bản gọi là Okinotorishima, vẫn còn dai dẳng bởi vì nó liên quan tới mối quan ngại mang tính chiến lược và các quyền lợi về nguồn tài nguyên dưới đáy biển ở khu vực tương đương với toàn bộ khu vực đất đai rộng lớn trên bốn hòn đảo chính của Nhật. Tại hội nghị về phát triển nguồn tài nguyên dưới đáy biển do trường Đại học Kyushu đăng cai hồi tháng 12 năm ngoái, có các chuyên gia đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Triều Tiên và các nơi khác tham dự, đã nhấn mạnh đến những tầng địa chất mangan giàu chất cobalt quanh vùng Okinotori. Mặc dù "các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú" tại khu vực này cũng thường xuyên được Trung Quốc đề cập tới, nhưng lại thiếu chi tiết. Trong hội nghị về Biển Đông Á ở Manila hồi tháng 11 năm ngoái, bản đệ trình của Nhật Bản lên Ủy ban Ranh giới Thềm Lục địa Liên hiệp quốc (CLCS) tháng 3 năm 2009 đã được thảo luận. Tài liệu này đã nêu ra bảy khu vực nằm giữa Nhật Bản và Philippines gồm 740.000 km vuông. Ngoài việc đòi chủ quyền có khả năng chồng lấn với yêu sách của Hoa Kỳ và Cộng hòa Palau - không liên quan tới Okinotori - Nhật Bản phải đương đầu với cả Trung Quốc lẫn Cộng hòa Triều Tiên (Nam Triều Tiên), quốc gia đã đệ trình các đơn kiện hồi năm ngoái lên CLCS, liên quan tới những hành động của Nhật Bản tại Okinotori. [1] Bản đồ Nhật Bản, Ảnh: socwk.utah Khi Đảng Dân chủ của Nhật Bản, đứng đầu là Thủ tướng Yukio Hatoyama, lên cầm quyền vào năm ngoái, họ đã không bỏ phí thời gian khi tuyên bố rằng Nhật Bản đang dùng số tiền 7 triệu đô la trong năm 2010 để tạo dựng một công trình tại Okinotori trong một nỗ lực nhằm thiết lập thế đứng vững chắc của mình ở đó. Số tiền này có vẻ lớn, nhưng chưa tới 3% trong tổng số tiền của Nhật chi ra nhằm duy trì hòn đảo xa xôi này. Hàng trăm triệu đô la đã được người Nhật sử dụng trong suốt hai thập kỷ qua. Giờ đây Nhật Bản nhận ra là mình đã mắc nợ Việt Nam, dù là gián tiếp. Việt Nam đang đưa ra những mâu thuẫn lạ lùng mà nước này đã phát hiện ra trong vụ tranh chấp của Trung Quốc chống lại Nhật Bản trong trường hợp này. Việt Nam, cùng với các quốc gia Đông Nam Á khác, có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Năm ngoái, chính phủ Việt Nam đã đệ trình lên CLCS một bản báo cáo cấp quốc gia về giới hạn thềm lục địa của nước mình "trải dài 200 hải lý bên ngoài đường cơ sở quốc gia, nằm ở phía bắc của Biển Đông [tên Việt Nam gọi cho Biển Nam Trung Hoa]". Việc này xảy ra hồi cuối tháng 8. Việt Nam cùng với Malaysia cũng đệ trình một báo cáo chung lên CLCS về thềm lục địa của cả hai nước, "kéo dài 200 hải lý tính từ đường cơ sở ở phần phía nam Biển Đông". Bản báo cáo quốc gia của Việt Nam và bản báo cáo đứng tên chung của Việt Nam với Malaysia đã được Quốc hội Nhật thừa nhận trong phần đầu của bộ luật ban hành năm 2010, cho phép chính phủ trung ương - không phải chính quyền địa phương - quản lý và kiểm soát cả đảo Okinotori và thậm chí cả đảo Minamitori ở rất xa, phía đông nam Tokyo - xa hơn Okinotori khoảng 290 km. Trong khi Trung Quốc phủ nhận toàn bộ các hành động này của Nhật Bản, coi đó là không hợp pháp, thì Trung Quốc lo lắng nhìn qua vai mình, người Việt Nam táo bạo hơn trước. "Việc xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ không thay đổi vị trí pháp lý của dải đá ngầm Okinotori", phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bà Khương Du tuyên bố trong cuộc họp báo ngắn hồi tháng 1 và cho biết thêm là điều này vi phạm luật biển quốc tế. [2] Năm 1931 Nhật Bản đã đòi chủ quyền đối với Okimotori, cũng được biết đến với cái tên là dải Đá ngầm Douglas hay là Vòng cung Parece, như là bộ phận của xã Ogasawara thuộc quận Tokyo, và đặt tên chính thức cho nó là Okinotorishima. "Người Nhật đòi chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa quanh Okinotorishima dựa trên nhiều yếu tố", theo lời Trợ lý Giáo sư Peter Dutton thuộc Viện Nghiên cứu Hàng hải Trung Quốc của trường cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ". Trước hết, các học giả Nhật tuyên bố rằng Okinotorishima là một hòn đảo đủ tiêu chuẩn theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) quy định về khu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà trong đó duy trì được các hoạt động kinh tế, mặc dù bên ngoài nhìn vào nó chỉ rộng không quá 10 m vuông khi thủy triều lên cao. "Lập luận này có giá trị mong manh nhất dựa theo luật quốc tế hiện thời. Người Nhật có vẻ nhận ra thực tế này và đã đưa ra cơ sở pháp lý thứ hai, cụ thể là Nhật Bản có những lợi ích mang tính lịch sử lâu dài ở Okinotorishma, những vùng biển lân cận, và các nguồn tài nguyên xung quanh dưới đáy biển. Theo quan điểm của Nhật, những lợi ích này đã được củng cố qua thời gian thành những quyền lợi được bảo vệ một cách hợp pháp". Trung Quốc nhắm vào điều 121 của UNCLOS, định nghĩa một hòn đảo như là "một vùng đất được hình thành một cách tự nhiên, có nước biển bao bọc, nằm trên mực nước biển lúc thủy triều lên cao". Trung Quốc chỉ ra rằng, nó như là một hòn đá theo quy định trong điều này - các hòn đá không thể giữ vững chỗ ở cho con người hoặc cho đời sống kinh tế - bởi vì một hòn đá tự nó không thể được sử dụng để đòi vùng đặc quyền kinh tế hay kéo dài thềm lục địa ở dưới mặt nước biển trong một vùng biển tương đối nông cạn. Hành động như thể mình có vị trí hợp pháp theo UNCLOS, Trung Quốc đã bất ngờ mở cánh cửa cho Việt Nam, và Việt Nam đã nắm lấy cơ hội đó. Tầm chiến lược quan trọng của Okinotori mà ai cũng có thể nhận ra rằng nó nằm ở vị trí giữa căn cứ quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ trên đảo Guam và Đài Loan. Trong khi các quyền lợi chiến lược của Trung Quốc và Nhật Bản khác nhau trong cuộc tranh chấp này, thì nhu cầu tự do đi lại của Trung Quốc trên biển ngày càng tăng. Ông Dutton nhận xét: "Trung Quốc đã đặt cược vào vị trí pháp lý để loại bỏ tình trạng hợp pháp của các hoạt động quân sự nước ngoài ở EEZ của quốc gia ven biển. Phản đối của Trung Quốc đối với các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ trong vùng EEZ của mình là dựa trên quan điểm pháp lý này. Mặt khác, khi sức mạnh hải quân Trung Quốc gia tăng trong vài thập kỷ qua, chiến lược của Trung Quốc trong việc kiểm soát các hoạt động khắp Đông Á vào lúc diễn ra cuộc khủng hoảng cũng được suy ra từ đó. Trong thời gian khủng hoảng, Trung Quốc hiện có những khát vọng thách thức các cường quốc hải quân bên ngoài trong việc kiểm soát các vùng biển giữa chuỗi đảo đầu tiên và thứ hai". (Chuỗi đảo đầu tiên bao quanh Biển Hoàng Hải, Biển Đông Trung Hoa và Biển Nam Trung Hoa - tức Biển Đông. Chuỗi thứ hai bao quanh vùng Biển Nhật Bản, Biển Philippines và Biển Indonesia). Điều này đặt Trung Quốc vào một vị thế khó xử để nói lên điều tối thiểu nhất. "Để giữ vững lập trường trong việc đòi Hoa Kỳ ngưng các hoạt động quân sự ở trong và ở trên vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, thì Trung Quốc không cần thực hiện các hoạt động quân sự trong vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản bao quanh Okinotori. Như thế, để duy trì các lợi ích an ninh của riêng họ, Trung Quốc từ chối công nhận yêu sách chủ quyền của Nhật Bản", ông Dutton nói. Trước hành động của Việt Nam, mục tiêu chính của Nhật ở đây đã lịch sự bỏ qua sự phản đối của Trung Quốc và bảo đảm rằng, trên tất cả mọi thứ, Okinotori không thể chìm dưới biển. "Không có sự thay đổi về bản chất của vụ tranh chấp. Nhật Bản đã trồng san hô ở Okinotori để bảo đảm chắc chắn tình trạng của nó như "một hòn đảo", trong khi Trung Quốc chỉ trích [và khẳng định rằng] đó là một 'mỏm đá', để không cho phép Nhật có vùng đặc quyền kinh tế", ông Yukie Yoshikawa, nhà nghiên cứu kỳ cựu tại Trung tâm Reischauer thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á ở Washington, DC, nói. Trồng san hô ở đó chỉ là một trong những biện pháp mới nhất của Nhật Bản, bao gồm cả việc đổ hàng tấn bê tông, với chi phí lên tới $ 280 đô la, bao bọc lấy cả hai đảo nhỏ, cũng như bao phủ chúng bằng một tấm lưới titanium, tốn thêm $50 triệu đô la. Năm 2005, Nhật Bản đã gắn một tấm biển lớn, có địa chỉ trên đó "Đảo Okinotori 1, Làng Ogasawara, Tokyo", để tất cả mọi người nhận ra ngay khi họ tới. Ngay sau khi tấm biển được gắn lên, thống đốc Tokyo, ông Shintaro Ishihara đã chụp tấm ảnh cho thấy ông hôn tấm biển và vẫy tay chào quốc kỳ Nhật Bản. Lúc đó ông có mặc áo cứu sinh trên mình. [4] Khi Trung Quốc cố gắng thuyết các nước còn lại ở châu Á rằng, những gì Nhật Bản đang làm lúc này thực sự gây nguy hại cho các nước láng giềng, Việt Nam lắc đầu không đồng ý. Ông Wang Hanling, một chuyên gia trong vấn đề hàng hải và luật pháp quốc tế, thuộc Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, nói: "Nếu những nỗ lực của Nhật Bản thành công, các nước khác sẽ không được phép đánh cá hay chia sẻ các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú trong khu vực hiện được xem là vùng biển quốc tế. Ngoài ra, đối với một số nước láng giềng như Trung Quốc và Hàn Quốc, việc tự do đi lại trên biển của các đội tàu cùng một số tuyến đường chính trong khu vực cũng sẽ bị cản trở. Điều đó sẽ gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia". Trong khi giao thiệp với Nhật Bản, đôi lúc Trung Quốc đã nêu ra vấn đề công bằng, thủ đoạn chắc phải làm Hà Nội tức cười. Ông Jin Yongming, một nhà nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội Thượng Hải, nói: "Việc đòi chủ quyền của Nhật Bản ở Okinotori, mỏm đá nằm giữa Đài Loan và đảo Guam, là một vị trí chiến lược quan trọng đối với lợi ích Nhật Bản. Nhưng việc này gây nguy hại đến lợi ích trong việc đi lại của các quốc gia khác cũng như ảnh hưởng đến việc khảo sát trên biển, xung quanh khu vực Okinotori, và điều đó đi ngược lại nguyên tắc công bằng".[4] Trung Quốc bắt đầu nhận ra rằng lập trường của họ ở đây có thể có tác dụng ngược, ngày càng trở nên rõ ràng. Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa - Trung Quốc gọi là đảo Tây Sa - ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), trong khi quần đảo Trường Sa, hoặc Trung Quốc gọi là Nam Sa, đang tranh chấp bởi Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Brunei và Malaysia. Đầu năm 2009, hoặc có thể trước đó, Việt Nam bắt đầu đưa ra "các rạn san hô và các đảo" làm luận cứ để cãi với Trung Quốc khi Trung Quốc nêu ra quy định của UNCLOS trong trường hợp họ phản đối Nhật Bản, và nói đại ý rằng, "Chờ chút, Trung Quốc, các ông đang tranh cãi [với Nhật] đúng y như chúng tôi đang cãi với các ông ở Biển Đông". Việt Nam lập luận rằng, lúc thì Trung Quốc khẳng định Okinotori không thể có đặc quyền kinh tế hoặc xác định giới hạn thềm lục địa, vì đó là một đảo san hô, rạn san hô hoặc đá và không có sự sống độc lập về kinh tế, và lúc khác Trung Quốc lại khẳng định rằng cái gọi là "quần đảo" ở biển Đông tất cả có đời sống kinh tế độc lập để họ có thể đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý gồm 80% Biển Đông. Nghe như có vẻ không đúng, hoặc ít ra không phải điều mà Trung Quốc đang làm là điều họ muốn làm. Chủ quyền của các đảo ở Biển Đông thực sự không phải là tâm điểm của vấn đề bởi vì Việt Nam tranh cãi rằng "không một quốc gia nào có thể đòi đến 80% vùng biển Đông trên cơ sở đòi chủ quyền của những hòn đảo này". [5] Nói cách khác, hãy nhìn kỹ và một người có thể phát hiện ra hàng chục đảo "Okinotoris" nhỏ rải rác ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Trung Quốc chỉ hy vọng rằng phần còn lại của thế giới - ít nhất là phần còn lại của thế giới đã chạy theo nỗ lực của Trung Quốc gây thất bại cho Nhật Bản - sẽ không nhận ra chúng. "Dường như Việt Nam đang đưa ra tín hiệu rằng họ sẽ được thỏa mãn với chủ quyền trên các quần đảo và để lại hầu hết vùng biển Nam Trung Hoa như vùng biển quốc tế. Ngụ ý của quan điểm của Việt Nam là Việt Nam củng cố việc đòi chủ quyền của mình bằng chi phí của Trung Quốc, đó là hầu hết vùng Biển Nam Trung Hoa sẽ mở ra cho tất cả các nước đánh cá và khai thác nguồn tài nguyên dưới đáy biển ", ông Dutton nói." Đó không phải là kết quả của việc Trung Quốc đòi chủ quyền trên biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)". (Ghi chú của người dịch: theo quan điểm đòi đảo Okinotori của Trung Quốc mà đem áp dụng ở Biển Đông thì Trung Quốc chẳng có gì cả, và đó không phải là điều Trung Quốc muốn, Trung Quốc muốn tới 80% cả biển lẫn đảo ở vùng Biển Đông.) Đồng thời, nếu Trung Quốc cố gắng chống lại chiến thuật khôn khéo này của Việt Nam, thì họ đang làm một việc không mang lại hiệu quả cao. Quả thực, Trung Quốc làm ra vẻ như họ không nhìn thấy Việt Nam ở đây (ghi chú người dịch: Trung Quốc cố tình làm lơ, không nhìn thấy quan điểm mà Việt Nam đang tranh cãi với Trung Quốc ở chỗ này). "Điều này cho thấy Trung Quốc ở vào tình thế khó xử hơn mà họ vẫn chưa công khai bắt đầu giải quyết", ông Dutton nói. Quyết định của Bắc Kinh xây dựng một khu nghỉ mát sang trọng tại Hoàng Sa ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) đã không có lợi cho tình hình. "Đầu tháng 1 năm 2010, [Việt Nam] yêu cầu Trung Quốc từ bỏ các dự án, mà [Việt Nam] nói rằng đó là nguyên nhân gây căng thẳng và làm phức tạp thêm tình hình", ông Yoshikawa nói. Tuy nhiên, khi ông Chen Bingde, người đứng đầu Bộ Tổng tham mưu thuộc Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và là thành viên Ủy Ban Quân sự Trung ương, đã gặp Nguyễn Chí Vinh, Phó Bộ trưởng Bộ quốc phòng Việt Nam tại Bắc Kinh vào đầu tháng Ba, không có đề cập đến tranh chấp này, [hoặc nếu có đề cập mà] không công khai. Trung Quốc năng nổ trong các vấn đề hàng hải bất chấp sự phản đối. Ví dụ như mới hồi tháng trước, Trung Quốc đã hoàn thành việc xây dựng 13 trạm hải đăng trên các hòn đảo và dãi đá ngầm ở Biển Đông Trung Hoa, là một phần của vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mở rộng và trong quá trình phát triển. Một ngọn hải đăng mới tại Waikejiao [được dựng lên] là phần bổ sung mới nhất. "Bởi vì Nhật Bản và Trung Quốc có khuynh hướng nhìn vào chính sách đối ngoại trên mối quan hệ định hướng - chứ không theo chính sách về sự kiện của Washington - nếu cả hai nước đang có những quan hệ tốt, mà bạn có thể nói trong lúc này, vấn đề đảo Okinotori sẽ được giải quyết để không ảnh hưởng đến mối quan hệ ", ông Yoshikawa nói. (Ghi chú: chính sách đối ngoại của Trung Quốc - Nhật dựa trên quan hệ tổng thể giữa hai nước trong thời gian dài, quyết định điều gì tốt nhất cho quan hệ hai nước, khác với Washington, đối ngoại qua từng vụ việc, khi có chuyện thì giải quyết từng vấn đề). Nhật Bản dường như không phải chịu bất kỳ hậu quả nào khi họ tiến hành kế hoạch trên đảo Okinotori. "Tôi không thấy có chuyện gì xảy ra trong tương lai gần, đây là vấn đề bên ngoài mà nhiều khả năng ảnh hưởng đến mối quan hệ tổng thể giữa Trung Quốc - Nhật Bản ", ông Yoshikawa cho biết. (Ghi chú:ông Yoshikawa muốn nói rằng mối quan hệ tổng thể của 2 nước Nhật - Trung ảnh hưởng tới vấn đề đảo Okinotori hơn là vấn đề đảo Okinotori ảnh hưởng tới quan hệ hai nước). Tuy nhiên, Trung Quốc có lý do chính đáng để họ kiên trì các nỗ lực của mình ở đây, bất kể điều đó có làm cho Nhật Bản bực mình hay không. Ông Dutton nói: " Trung Quốc không thể làm gì hơn trong việc Nhật Bản đòi chủ quyền, khi Trung Quốc đưa ra tuyên bố như thế chủ quyền của họ ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), tuy nhiên, có lẽ Trung Quốc sẽ tiếp tục chính sách ngoại giao đối với việc đòi chủ quyền của Nhật Bản để bảo vệ quyền tự do hành động quân sự của Trung Quốc trong vùng biển xung quanh Okinotori. 1.) EAS CONGRESS 2009 HIGHLIGHTS , Nov 24, 2009 2.)Beijing slams Tokyo move on atoll, China Daily, Jan 8, 2010 3.)Japan and China Dispute a Pacific Islet , New York Times, July 10, 2005 4.) Japan atoll expansion 'hurts neighbors', China Daily, Feb 11, 2010 5.) Vietnam delimits its continental shelf in UN report. Vietnamnet, Aug 2009 * Mời đọc thêm: 305. QUAN HỆ TRUNG-NHẬT-BÀI HỌC CHO VN; 430. TQ,VN,NB.Ai phải lo lắng về những đốm núi lửa ở Thái Bình Dương?; 444. Biển Động. Đăng trong Biển Đông/TS-HS, Quan hệ Quốc tế, Quan hệ Việt-Trung | Tagged: Biển Đông, Biển Đông Trung Hoa, CLCS, EEZ, Hoàng Hải, Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Okinotori, Thềm lục địa, Trung Quốc, Việt Nam | Leave a Comment » -------------------------------------------------- Nhời bàn của Sư Thiến: Các cụ nhà ta bẩu: "Ăn gian, nó giàn ra đấy". Ngẫm lại thấy đúng thật. Chưa hết. Các cụ còn bẩu cho đám trẻ con hát đồng dao rằng: Nhận vơ bị vợ thằng Nhâm Nó cho bú tí đái dầm cả đêm. Nhâm biến vi Vương. Vợ thằng Nhâm tức đế vương đấy. Bú tí bị đái dầm là suy thận. Thận chủ thần trí.1 like
-
quá chuẩn. Nhà này cho người Đông tứ mệnh thuê thì rất tốt. Thân mến1 like
-
Học trò viết: Ý anh học trò là anh bảo chồng cô này hay làm vợ buồn khổ, cô này lại nói chồng rất quan tâm đến mình, đều là do mỗi người nhìn nhận hay sao? Anh nhìn theo cách gì? Cung phu cô nầy đẹp thế mà, chồng vừa có tri thức lại có tiền, lại đứng đắn, ai bảo là làm khổ vợ?1 like
-
Con Người Là Một Tiểu Vũ Trụ
Guest liked a post in a topic by quangnx
Chào các bạn, chào bác Liêm Trinh! Tiếp theo, tôi xin phép post một bài viết của một tác giả Việt, đó là bài viết về Tâm Thức Vũ Trụ (nguyên văn tác giả gọi là Tâm Vũ Trụ). Ý tưởng của bài viết này rất lạ... nhưng dễ đọc hơn nhiều so với bài trên, mời mọi người xem qua! TÂM THỨC VŨ TRỤ CHƯƠNG 1 VŨ TRỤ VÀ TÂM THỨC VŨ TRỤ Trong thời đại ngày nay, sự đan xen giữa các khoa học là một hiện tượng phổ biến. Chúng ta đã chứng kiến sự ra đời của nhiều ngành khoa học và các công trình khoa học mới mà chỉ cái tên của nó cũng đủ nói lên điều đó. Ví dụ như Lý Sinh, Hoá Sinh, Cơ Tin, Triết học của Toán học, Đạo của Vật lý v.v... Chính tại những miền giao khác rỗng của những ngành khoa học đó đã nẩy sinh những vấn đề mới, những ý tưởng mới... 1. VŨ TRỤ Trước khi đưa ra những tiên đề, định lý, và hệ quả về Vũ trụ chúng ta phải xây dựng lại một số các khái niệm cơ bản. Các khái niệm này như là "vật mang tin", nó giống như chữ viết và ký hiệu để diễn đạt một ngôn ngữ. Ta sẽ bắt đầu bằng khái niệm Đối tượng. Đối tượng dùng để chỉ mọi thứ: bát cơm, manh áo, con người, trái đất, hệ mặt trời, thiên hà, ý nghĩ, học thuyết, xã hội, một chính thể v.v... Khái niệm Đối tượng có tác dụng tạo ra một sự khu biệt trong tư duy khi ta xét đến một vật, một thực thể, một khái niệm, một hệ thống v.v... nào đó.Tiếp theo là khái niệm Tập hợp. Đầu tiên ta tạm hiểu nó như khái niệm tập hợp của Toán học. Chúng ta luôn nhớ rằng đối tượng không phải là tập hợp.Các thuật ngữ thuộc, các toán tử giao, hợp, phần bù v.v... trước hết hãy tạm hiểu như trong lý thuyết tập hợp.Khái niệm Vô cùng dùng để chỉ sự mở, sự không bị hạn chế.Duy nhất là khái niệm chỉ sự có một không hai.Tiếp theo là khái niệm Vận động. Vận động có thể hiểu như sự thay đổi trong không gian và thời gian, sự thay đổi trong các phản ứng hoá học, sự phát triển hoặc suy thoái của một quốc gia, một học thuyết hoặc một chính thể. Nó chỉ sự sinh trưởng hoặc chết đi của một sinh vật, sự thay đổi trong tư duy của một con người v.v...Cùng với sự vận động còn có khái niệm Vận tốc, Gia tốc v.v...Mối liên hệ dùng để chỉ sự ràng buộc, liên hệ, hàm, ánh xạ, toán tử, quan hệ, hàm tử v.v...Như vậy ta đã trình bày một số khái niệm cơ bản. Nội dung thông tin chứa trong các khái niệm cơ bản là rất lớn. Ý nghĩa của chúng sẽ sáng tỏ dần cùng với sự phát triển của lý thuyết.Ta sẽ bắt đầu bằng việc đưa ra quan niệm về Vũ trụ. Định nghĩa 1 : Vũ trụ là hợp của mọi đối tượng Định nghĩa 1 nói lên quan niệm của chúng ta về Vũ trụ. Vì như đã nói ở trên, đối tượng không phải là tập hợp (không có đối tượng rỗng ) nên định nghĩa này không phạm vào nghịch lý Rát-xen : Không có tập hợp của mọi tập hợp. Như sau này chúng ta sẽ thấy, các đối tượng trong Vũ trụ không phải chỉ là những đối tượng rời rạc nằm cạnh nhau mà giữa chúng có những mối liên hệ chằng chịt và chính những mối liên hệ này đã liên kết các đối tượng khác nhau, thậm chí tưởng chừng đối nghich nhau trong Vũ trụ để tạo nên một Vũ trụ hiện nay. Cũng theo định nghĩa 1, ta thấy Vũ trụ của thiên văn học chỉ là một phần của Vũ trụ vừa định nghĩa. Tiếp theo ta sẽ xác nhận hai tiên đề: Tiên đề 1: Vũ trụ là vô cùng. Tiên đề 2: Mọi đối tượng trong Vũ trụ luôn vận động. Tiên đề 2 xem vận động là thuộc tính của mọi đối tượng. Định lý 1: Vũ trụ là duy nhất Chứng minh: Giả sử V1 và V2 là hai Vũ trụ khác nhau. Khi đó theo định nghĩa 1 ta thấy V = V1 + V2 sẽ là Vũ trụ hiện hành. Cứ như thế phép hợp tạo nên một thực thể Vũ trụ duy nhất. Định lý 1 khẳng định Vũ trụ của chúng ta là duy nhất, không có Vũ trụ thứ hai. Điều này phù hợp với nhận thức của chúng ta .Đầu tiên khi còn nằm trong bụng mẹ, Vũ trụ của chúng ta là hợp của những cơ quan nội tạng chứa dòng máu của mẹ, các luồng ý thức mà mẹ truyền đến chúng ta v.v... Khi cất tiếng khóc chào đời, một sự nhảy vọt, phép hợp một lần nữa để tạo nên một Vũ trụ mới bởi bây giờ đã có thêm những đối tượng mới: ông, bà, bố, anh, em, mái nhà, vành nôi, những lời ru, bầu trời, các vì sao, v.v... Cứ như thế, nếu thấy bất kỳ một đối tượng nào nằm ngoài Vũ trụ của chúng ta thì phép hợp lại cho ra một Vũ trụ duy nhất. Định lý 2: Giữa hai đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ bao giờ cũng tồn tại ít nhất một mối liên hệ Chứng minh: Giả sử A và B là hai đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ. Khi đó mối liên hệ “A và B cùng vận động” hiển nhiên là một trong các mối liên hệ giữa A và B. Định lý này thật ra là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến mà Heghen đã đề cập. Khi nói đến một đối tượng ta phải hiểu nó tồn tại trong các mối liên hệ của nó với các đối tượng khác. Đôi khi để nhấn mạnh ta sẽ gọi là đối tượng đầy đủ. Như đã nói ở trên, các đối tượng trong Vũ trụ liên kết với nhau một cách chặt chẽ bởi các mối liên hệ. Các mối liên hệ này có được từ các đối tượng trong Vũ trụ nhưng chính chúng lại làm cho Vũ trụ này là duy nhất. Hơn thế nữa chính chúng lại là các Đối tượng và bởi thế nó luôn luôn vận động và làm mới. 2. TÂM THỨC VŨ TRỤ Đến đây ta sẽ đưa vào một khái niệm mới – Tâm thức Vũ trụ. Khái niệm này được trình bày một cách ngắn gọn nhất nên nó là một khái niệm hết sức trừu tượng nhưng lại là khái niệm trung tâm của chương này. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng một định nghĩa ngắn gọn: Định nghĩa 2: Tâm thức Vũ trụ là giao của mọi đối tượng Định nghĩa này mô tả Tâm thức Vũ trụ là cái thuộc về tất cả mọi đối tượng trong Vũ trụ. Nói cách khác Nó có trong mọi đối tượng. Định lý 3: Tâm thức Vũ trụ tồn tại. Chứng minh: Ta phải chứng minh giao của mọi đối tượng trong Vũ trụ là khác rỗng. Thật vậy vì thuộc tính vận động là có trong mọi đối tượng như tiên đề 2 đã khẳng định, mà tính vận động đến lượt nó lại là một đối tượng trong Vũ trụ nên giao của mọi đối tượng trong Vũ trụ là khác rỗng. Để ý rằng vận động chỉ là một trong các thành tố tạo nên Tâm thức Vũ trụ. Vận động là một biểu hiện của Tâm thức Vũ trụ. Hay nói cách khác, chính vì các đối tượng luôn vận động mà chúng ta cảm nhận thấy sự tồn tại của Tâm thức Vũ trụ. Ngoài vận động, Tâm thức Vũ trụ có thể còn những thành tố khác. Định lý 4: Tâm thức Vũ trụ là duy nhất Chứng minh: Giả sử v1 và v2 đều là tâm thức Vũ trụ. Ta phải chứng minh v1 trùng v2. Thật vậy vì v1 là Tâm thức Vũ trụ và v2 là một đối tương nên v1 chứa trong v2. Tiếp tục vì v2 là Tâm thức Vũ trụ và v1 là một đối tượng nên v2 chứa trong v1. Vì vậy v1 trùng v2. Như vậy chúng ta đã định nghĩa Tâm thức Vũ trụ và chứng minh hai định lý hết sức quan trọng khẳng định Tâm thức Vũ trụ là tồn tại và duy nhất. Tuy nhiên, cách chứng minh của hai định lý trên mới chỉ đưa ra một cách định tính về sự tồn tại và duy nhất cuả Tâm thức Vũ trụ. Định lý 5: Tâm thức Vũ trụ có trong mọi đối tượng. Chứng minh: Tâm thức Vũ trụ là giao của mọi đối tượng và Tâm thức Vũ trụ tồn tại duy nhất nên nó có trong mọi đối tượng trong Vũ trụ. Thực ra, đã từ lâu loài người đã cảm nhận được sự tồn tại của Tâm thức Vũ trụ và gọi nó với các cái tên khác nhau như: Thuộc tính, Bản chất, Tạo hoá, Chân lý Tối thượng, Tự nhiên, Trời, Thượng đế v.v... Nhưng có thể nói khái niệm Tâm thức Vũ trụ ở đây tổng quát hơn các khái niệm kể trên. Tâm thức Vũ trụ hết sức huyền ảo. Nó có trong mọi đối tượng nhưng thật khó để cảm nhận trực tiếp. Nó là thuộc tính, nó là bản chất chung nhất của mọi đối tượng. Nó chứa các quy luật tự nhiên phổ quát nhất. Định lý 6: Mọi đối tượng trong Vũ trụ không tự nhiên mất đi mà chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Chứng minh: Giả sử rằng A là một đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ. Khi đó theo định nghĩa Tâm thức Vũ trụ suy ra A chứa Tâm thức Vũ trụ. Nếu A bị mất đi suy ra Tâm thức Vũ trụ sẽ bị mất đi. Điều này trái với hai định lý về sự tồn tại và duy nhất của Tâm thức Vũ trụ. Đối với những đối tượng xác định và cụ thể thì định lý trên là một điều dễ hiểu. Nhưng đối với những đối tượng vô hình như truyền thống dân tộc, một nền văn hoá, một học thuyết v.v…thì việc nhận thức được như vậy không phải luôn luôn dễ dàng. Nếu ta xem các hệ thống triết học hoặc các tôn giáo chỉ là những đối tượng thì một hệ quả nữa có thể được rút ngay ra từ định lý Tâm thức vũ trụ là duy nhất Định lý 7: Đối với mọi triết học chỉ có một chân lý tối thượng. Đối với mọi tôn giáo chỉ có một Thượng Đế. Các khuynh hướng tư tưởng có thể khác nhau, thậm trí tưởng chừng đối lập nhau một mất một còn nhưng chúng vẫn có một miền giao khác rỗng (Tâm thức Vũ trụ), bởi vậy xu thế đối thoại sẽ thay thế cho sự đối đầu, sự loại trừ nhau và sẽ trở thành xu thế của thời đại. 3. KẾT LUẬN Vũ trụ là duy nhất.Các đối tựợng trong Vũ trụ luôn vận động.Tâm thức vũ trụ là giao của mọi đối tượng nên nó có trong mọi đối tượng. Nó tồn tại và duy nhất. Nó có mặt ở khắp nơi nhưng không thể thấy hết được và cũng không thể nắm bắt hết được. Nếu xem mỗi con người, mỗi vật là các đối tượng thì Tâm thức Vũ trụ không ở đâu xa mà ở trong chính lòng ta, ở chính trong tâm trí ta, ở chính trong các vật giản dị nhất.Không có đối tượng nào mất đi một cách vĩnh viễn mà nó chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác, kể cả những đối tượng hữu hình hoặc vô hình.Tâm thức Vũ trụ tồn tại và duy nhất càng khẳng định Vũ trụ này là thống nhất mặc dù các đối tượng thuộc Vũ trụ là cực kỳ phong phú muôn hình vạn trạng. Vũ trụ của chúng ta đa dạng mà thống nhất, hay thống nhất trong sự đa dạng.Thực ra có một sự tiếp cận khác đối với Vũ trụ và Tâm thức Vũ trụ. Cách tiếp cận đó là đầu tiên ta xây dựng các Vũ trụ sau đó hợp chúng lại để có Vũ trụ duy nhất. Tương tự, ta cũng xây dựng các Tâm thức Vũ trụ sau đó dùng phép giao để có một Tâm thức Vũ trụ duy nhất. Cách tiếp cận này dễ được chấp nhận vì nó đi theo một mạch tư duy thông thường nhưng tiếc thay đó là một công việc phân kỳ. Cách tiếp cận như vừa trình bày ở trên tuy có vẻ hơi khiên cưỡng khi mới đọc nhưng đó thực sự là một cách tiếp cận cô đọng và có tính khái quát rất cao.CHƯƠNG 2: TÂM THỨC VŨ TRỤ VÀ THÔNG TIN Trong chương 1 ta đã đưa ra định nghĩa Tâm thức Vũ trụ đồng thời chứng minh một số định lý và hệ quả liên quan tới Tâm thức Vũ trụ. Tuy nhiên các chứng minh này mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra một cách định tính sự tồn tại và duy nhất của Tâm thức Vũ trụ. Ngoài vận động ra, Tâm thức Vũ trụ còn có thành tố nào nữa không? Trong chương này, chúng ta sẽ trình bày định nghĩa về thông tin đồng thời chứng minh thông tin là một thành tố tạo nên Tâm thức Vũ trụ cùng với một số định lý, hệ quả và kết luận liên quan. Trước hết ta sẽ đưa ra khái niệm thông tin. 1. THÔNG TIN Trong Tin học định nghĩa: “Mọi yếu tố đem lại sự hiểu biết đều được gọi là thông tin”. Nhưng định nghĩa này mới nói đến sự hiểu biết của con người nên chưa tổng quát. Một số nhà triết học mô tả khái niệm thông tin như sau: Mọi vật trong thế giới tự nhiên đều có thuộc tính phản ánh khi bị tác động bởi một vật khác. Quá trình này được gọi là quá trình nhận thông tin, xử lý thông tin và đưa ra kết quả của sự xử lý. Để nhất quán chúng tôi đề nghị định nghĩa về khái niệm cơ bản này như sau: Định nghĩa 3: Cho A và B là hai đối tượng bất kỳ, ta gọi tập hợp tất cả những mối liên hệ giữa A và B là thông tin giữa A và B. A được gọi là nội dung thông tin của A trong B, và ngược lại B được gọi là nội dung thông tin của B trong A. Bản thân tập hợp các mối liên hệ giữa A và B, ta gọi là vật mang tin. Như vậy thông tin bao gồm nội dung thông tin và vật mang tin. Bây giờ ta sẽ bàn đến Tâm thức Vũ trụ và thông tin. 2. TÂM THỨC VŨ TRỤ VÀ THÔNG TIN Trước hết ta chứng minh một định lý vô cùng quan trọng khẳng định thông tin như một thành tố nữa ngoài vận động có ở Tâm thức Vũ trụ. Định lý 8 : Tâm thức Vũ trụ chứa thông tin. Chứng minh: Theo định lý 2 về mối liên hệ phổ biến và theo định nghĩa 3 vừa nêu trên ta có giữa hai đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ bao giờ cũng có thông tin về nhau. Vì vậy thông tin là thuộc tính của mọi đối tượng trong Vũ trụ và do đó, theo định nghĩa Tâm thức vũ trụ thì Tâm thức Vũ trụ chứa thông tin. Định lý 8 vừa nêu đã cho ta thấy có thêm một thành tố nữa ngoài tính vận động ở Tâm thức Vũ trụ: đó là thông tin. Ở đây cần nhấn mạnh là vì nhận thức của chúng ta mới chỉ ở lân cận của Tâm thức Vũ trụ nên chưa hiểu một cách chính xác về Tâm thức Vũ trụ vì thế mới sinh ra việc phân biệt thành tố này thành tố kia tạo nên Tâm thức Vũ trụ, nếu suy cho cùng các thành tố đó (vận động và thông tin) chỉ là một. Điều này được suy ra từ định lý Tâm thức Vũ trụ là duy nhất. Tuy nhiên việc xem xét Tâm thức Vũ trụ từ nhiều phía sẽ cho ta một hình ảnh rõ hơn về Tâm thức Vũ trụ. Đến đây ta đưa ra một định lý khác Định lý 9: Thông tin giữa hai đối tượng bất kỳ luôn phải thông qua Tâm thức Vũ trụ. Chứng minh: Cho A và B là hai đối tượng bất kỳ, f là một mối liên hệ bất kỳ giữa A và B. Theo định nghĩa 2 suy ra f là một thông tin giữa A và B. Nhưng đến lượt mình, f lại là một đối tượng trong Vũ trụ. Theo định lý 5 thì f phải chứa Tâm thức Vũ trụ. Hay nói cách khác f phải thông qua Tâm thức Vũ trụ. Định lý 10: Tâm thức Vũ trụ chứa toàn bộ thông tin của mọi đối tượng trong Vũ trụ. Chứng minh: Giả sử A là một đối tượng bất kỳ có một phần F(A) các thông tin không có ở Tâm thức Vũ trụ. Tức là sẽ tồn tại thông tin f của F(A) không thông qua Tâm thức Vũ trụ. Điều này trái với định lý 9. Định lý 10 khẳng định nếu ngộ được Tâm thức Vũ trụ thì ta có thể hiểu được về Vũ trụ. Ta có thể xem Tâm thức Vũ trụ như là một máy tính lượng tử chứa toàn bộ thông tin của mọi đối tượng trong Vũ trụ. Các đối tượng trong Vũ trụ muốn “liên lạc” với nhau đều phải thông qua chiếc máy chủ Vĩ đại này. Tiếp đến, ta sẽ phát biểu và chứng minh một định lý quan trọng khác Định lý 11: Vận tốc ánh sáng không phải là giới hạn vận tốc của mọi thông tin trong Vũ trụ. Chứng minh: Ta sẽ chứng minh bằng cách chỉ ra một phản ví dụ. Giả sử X là một hành tinh cách chúng ta 1 triệu năm ánh sáng. Bây giờ ta sẽ tưởng tượng đang ở trên hành tinh đó. Một, hai, ba! Bắt đầu! Chỉ trong không đầy một giây tư duy của chúng ta đã liên hệ đến hành tinh X đó. Ở đây, giữa ta (đối tượng A) và hành tinh X (đối tượng :D đã có mối liên hệ là sự tưởng tượng f từ A đến B. Theo định nghĩa về thông tin thì f chính là thông tin giữa A và B. Và như đã thấy ở trên vận tốc của f lớn hơn nhiều lần so với vận tốc ánh sáng. Cách chứng minh định lý 11 chưa hẳn làm bạn hài lòng nhưng vì chưa đủ hành trang nên chưa thể đưa ra một cách chứng minh đẹp đẽ hơn. Sau này chúng ta sẽ quay lại. Bây giờ chúng ta đưa ra một định lý cực kỳ quan trọng liên quan tới vận tốc truyền thông tin của Tâm thức Vũ trụ. Trước khi phát biểu và chứng minh định lý chúng tôi xin được nói qua về hệ quy chiếu. Đây là một khái niệm mà để đi sâu vào sẽ phải tốn rất nhiều giấy mực nên trước hết chúng ta hãy tạm hiểu như khái niệm hệ quy chiếu như trong Vật lý hoặc Toán học. Định lý 12: Tâm thức Vũ trụ truyền thông tin đến mọi đối tượng trong Vũ trụ một cách tức thời trong mọi hệ quy chiếu. Chứng minh: Giả sử tồn tại một đối tượng A trong Vũ trụ và tồn tại một hệ quy chiếu nào đó nhận thông tin từ Tâm thức Vũ trụ không tức thời. Tức là tồn tại một thời điểm t0 nào đó mà giữa A và Tâm thức Vũ trụ không có một mối liên hệ nào. Vì Tâm thức Vũ trụ cũng là một đối tượng nên điều này trái với định lý 2 về mối liên hệ phổ biến. Định lý 12 cho ta khả năng giải thích một điều rất khó hiểu trong Định lý 5: “Tâm thức Vũ trụ có trong mọi đối tượng”. Tại sao có vô vàn các đối tượng trong Vũ trụ mà đối tượng nào cũng chứa Tâm thức Vũ trụ trong khi Tâm thức Vũ trụ là duy nhất? Thật ra các đối tượng trong Vũ trụ chỉ chứa nội dung thông tin của Tâm thức Vũ trụ trong nó hay nói cách khác, các đối tượng trong Vũ trụ chỉ chứa “ảnh” của Tâm thức Vũ trụ. Vì việc truyền thông tin từ Tâm thức Vũ trụ đến các đối tượng là tức thời nên sự phân biệt Tâm thức Vũ trụ và ảnh của Tâm thức Vũ trụ là cực kỳ khó khăn. Đôi khi ta cảm thấy chúng chỉ là một. Thậm chí, việc tách chúng làm hai, cho dù trong tư duy cũng là khiên cưỡng. Thông tin giữa Tâm thức Vũ trụ và một đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ không chỉ diễn ra theo một chiều từ Tâm thức Vũ trụ đến đối tượng đó mà còn có thông tin ngược từ đối tượng đó đến Tâm thức Vũ trụ. Sự thông tin giữa hai đối tượng bất kỳ đều phải đi qua “Máy Chủ” vĩ đại- Tâm thức Vũ trụ. 3.KẾT LUẬN • Ngoài vận động, Tâm thức Vũ trụ còn chứa một thành tố nữa đó là thông tin. Tuy nhiên thông tin và vận động thực chất là một. • Với việc chứng minh tồn tại những thông tin vượt vận tốc ánh sáng, chúng ta, những người trên Trái đất vẫn nhận được thông tin từ vô vàn các nền văn minh ngoài Trái đất đến Trái đất, đến chúng ta thông qua Tâm thức Vũ trụ. Vì vậy để vươn tới cái thiện, cái tốt, cái hoàn mỹ v.v... thì ta phải luôn hướng tới Tâm thức Vũ trụ tức là sống, hành động và tư duy phù hợp với những quy luật phổ quát nhất của Vũ trụ. • Để thu nhận được những “ý thức” nêu trên chúng ta không thể dùng những thiết bị được chế tạo chỉ từ các “vật liệu” hữu hình. • Thông tin từ một đối tượng bất kỳ đến chúng ta đều phải thông qua Tâm thức Vũ trụ. Điều này cho ta một hệ quả quan trong là: "nếu nghiên cứu thấu đáo một đối tượng bất kỳ, cho dù đối tượng đó tầm thường đến mức nào ta cũng tìm thấy chân lý thậm chí là chân lý tối thượng." • Gần đây có những luận thuyết cho là mọi đối tượng trong Vũ trụ đã được lập trình sẵn bới một đấng Tối cao nào đó và rằng mọi đối tượng, đặc biệt là con người là đã “an bài ” và không tránh khỏi “số mệnh”. Điều này không chính xác vì thông tin giữa Tâm thức vũ trụ và một đối tượng bất kỳ là thông tin hai chiều, tức là luôn bao hàm cái mới. Hơn nữa, rất có thể có những “hacker” truy nhập vào “chiếc máy chủ vĩ đại” –Tâm thức Vũ trụ để làm thay đổi cái được gán là “định mệnh”. CHƯƠNG 3 TÂM THỨC VŨ TRỤ VÀ NĂNG LƯỢNG Tâm thức Vũ trụ đã chứa hai thành tố: Vận động và Thông tin. Trong chương này chúng ta sẽ cho thấy năng lượng cũng là một thành tố nữa có ở Tâm thức Vũ trụ. 1. NĂNG LƯỢNG Năng lượng lượng là một khái niệm mà hầu như ai cũng biết nhưng để hiểu thấu đáo về nó, đặc biệt khi ta nói đến năng lượng của các đối tượng phi vật thể thì không phải bao giờ ta cũng đi đến chỗ nhất trí. Trong bài viết này chúng ta sẽ dùng năng lượng theo nghĩa sau: Định nghĩa 4: Gọi A là một đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ. Mọi yếu tố gây ra sự vận động của A đều được gọi là năng lượng có trong A. Trong chương 1 chúng ta đã đưa ra khái niệm vận động. Năng lượng là yếu tố gây ra sự vận động của một đối tượng bất kỳ. Không có sự vận động nào mà không có năng lượng. 2. TÂM THỨC VŨ TRỤ VÀ NĂNG LƯỢNG Chúng ta sẽ đưa ra một định lý khẳng định năng lượng là một thành tố thứ ba có ở Tâm thức Vũ trụ. Định lý 13: Tâm thức Vũ trụ chứa năng lượng. Chứng minh: Giả sử A là một đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ. Theo tiên đề 2 A vận động. Theo mô tả khái niệm năng lượng và định nghĩa 4 thì A có năng lượng. Hay nói cách khác, có năng lượng là một thuộc tính của A. Theo định nghĩa của Tâm thức Vũ trụ thì Tâm thức Vũ trụ chứa năng lượng. Như vậy, ta đã chứng minh mọi đối tượng trong Vũ trụ đều có năng lượng. Năng lượng là nguyên nhân của vận động nhưng năng lượng được biết đến thông qua vận động. Vì bản thân năng lượng cũng là một đối tượng trong Vũ trụ nên nó tuân theo tiên đề 2 và cũng không ngừng vận động. Thông tin là một dạng của vận động nên để truyền thông tin giữa các đối tượng cũng cần phải có năng lượng. Ngược lại, năng lượng mà hai đối tượng truyền cho nhau chính là mối quan hệ của hai đối tượng đó nên năng lượng cũng là một dạng thông tin. Tóm lại, ba thành tố: vận động, thông tin và năng lượng tạo nên Tâm thức Vũ Trụ, suy cho cùng thì chỉ là một mà thôi. Tuy nhiên, vẫn cần nhắc lại việc nhìn Tâm thức Vũ trụ từ nhiều phía sẽ cho chúng ta hình ảnh rõ nét hơn về nó. Đến đây ta bàn đến việc truyền năng lượng giữa các đối tượng trong Vũ trụ. Ta sẽ chứng minh một định lý nói về cơ chế chung nhất của việc truyền năng lượng giữa chúng. Định lý 14: Năng lượng được truyền giữa hai đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ đều phải thông qua Tâm thức Vũ trụ. Chứng minh: Giả sử A và B là hai đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ. E là năng lượng được truyền giữa A và B. Khi đó rõ ràng E là mối liên hệ giữa A và B. Theo định nghĩa của thông tin thì E là thông tin giữa A và B. Theo định lý 9, E phải thông qua Tâm thức Vũ trụ. Định lý này cho ta một định lý rất quan trọng Định lý 15: Tâm thức Vũ trụ chứa toàn bộ năng lượng của các đối tượng trong Vũ trụ Chứng minh: Giả sử tồn tại một đối tượng A mà năng lượng E của nó không chứa trong Tâm thức Vũ trụ. Khi đó nếu A truyền năng lượng này cho bất cứ đối tượng nào thì E cũng không thông qua Tâm thức Vũ trụ. Điều này mâu thuẫn với định lý 14. Như vậy chúng ta đã chứng minh được một điều vô cùng quan trọng là: "Cùng với việc nắm giữ toàn bộ thông tin, Tâm thức Vũ trụ còn chứa toàn bộ năng lượng của mọi đối tượng trong Vũ trụ." Tiếp theo ta sẽ chứng minh một định lý liên quan tới vận tốc của việc truyền năng lượng từ Tâm thức Vũ trụ đến các đối tượng. Định lý 16: Năng lượng được truyền từ Tâm thức Vũ trụ đến mọi đối tượng trong Vũ trụ là tức thời đối với mọi hệ quy chiếu. Chứng minh: Giả sử A là một đối tượng bất kỳ trong một hệ quy chiếu nào đó mà nhận năng lượng từ Tâm Vũ trụ đến nó là không tức thời. Khi đó tồn tại thời điểm nào đó sao cho A không có năng lượng. Hay nói cách khác tại thời điểm to đó A không vận động. Điều này trái với tiên đề 1. Như vậy ta đã chứng minh bốn định lý liên hệ tới năng lượng, điều này sẽ cho phép chúng ta xem xét lại bức tranh toàn cảnh của Vũ trụ. 3. KẾT LUẬN • Nguồn năng lượng từ Tâm thức Vũ trụ cung cấp năng lượng cho từng đối tượng trong Vũ trụ một cách tức thời khiến cho ta có cảm giác năng lượng đó đã có sẵn, tiềm ẩn trong đối tượng đó. • Bất cứ đối tượng nào muốn truyền năng lượng cho đối tượng khác đều phải truyền thông qua Tâm thức Vũ trụ. Điều này là mới mẻ đối với quan niệm xưa của chúng ta. • Nếu chúng ta sống sống phù hợp với các quy luật phổ quát nhất thì trí tuệ càng minh mẫn vì Tâm thức Vũ trụ là giao của các chân lý. Hơn thế nữa sức khoẻ cũng càng được nâng cao vì Tâm thức Vũ trụ chứa toàn bộ năng lượng của Vũ trụ. • Tương tự quốc gia nào có một xã hội và tổ chức nhà nước càng phù hợp với các quy luật phổ quát nhất của Vũ trụ thì quốc gia đó sẽ càng hùng mạnh. • Bất cứ hành vi nào của con người, dù có giữ bí mật đến đâu vẫn để lại dấu vết ở Tâm thức Vũ trụ vì Tâm thức Vũ trụ chứa toàn bộ thông tin của Vũ trụ. TÓM TẮT • Chúng ta đã lần lượt khẳng định: Tâm thức Vũ trụ chứa vận động, Tâm thức Vũ trụ chứa thông tin và Tâm thức Vũ trụ chứa năng lượng. Bằng việc phát biểu hai tiên đề, chứng minh 16 định lý và mộtt loạt các kết luận, bức tranh Vũ trụ hiện tồn của chúng ta đã được vẽ lên. Trong bức tranh đó, Tâm thức Vũ Trụ là tâm điểm của sự xem xét. Tâm thức Vũ Trụ là tồn tại và duy nhất. Nó chứa toàn bộ sức mạnh của Vũ trụ. Nó mang đến sự vận động, thông tin và năng lượng cho mọi đối tượng trong Vũ Trụ một cách tức thời khiến cho ta tưởng rằng chúng là thuộc tính, cái “tự có” của các đối tượng trong Vũ Trụ. • Muốn hướng đến cái thiện, cái thông tuệ, cái cao thượng tình yêu và lòng vị tha v.v... thì phải hướng tới Tâm thức Vũ Trụ. Nơi đó hội tụ tất cả các chân lý vĩ đại, hội tụ tất cả trí tuệ của các nền văn minh. Nơi đó chứa toàn bộ thông tin và năng lượng của Vũ Trụ. • Khôngcần phải sợ rằng càng phát hiện ra nhiều thành tố tạo nên Tâm thức Vũ trụ thì sẽ mâu thuẫn với hai định lý Tâm thức Vũ trụ tồn tại và duy nhất vì giao của các thành tố đó sẽ tiến đến gần Tâm thức Vũ trụ hơn. • Tâm thức Vũ Trụ có trong mọi đối tượng nói chung và có trong mọi con người, mọi sinh linh nói riêng. Tâm thức Vũ Trụ ở ngay trong lòng ta, trong tâm trí ta và ngay trong những thứ giản dị nhất. CHƯƠNG 4 VŨ TRỤ Ý THỨC Chúng ta lại tiến thêm một bước về phía Tâm thức Vũ Trụ để khám phá những thành tố mới mà trong một chừng mực nào đó có thể nói là sâu sắc hơn các thành tố Vận động, Thông tin và Năng lượng được mô tả trong ba chương đầu của học thuyết Tâm thức Vũ Trụ. Đó là Ý Thức. Trong chương này chúng ta sẽ xây dựng khái niệm Ý Thức và Vũ Trụ Ý Thức. Vật Chất sẽ được nghiên cứu kỹ ở chương sau. 1.Ý THỨC Trước hết, ta đưa vào hai khái niệm cơ bản : đối tượng hữu hình và đối tượng vô hình Định nghĩa 5: Đối tượng hữu hình là đối tượng có kích thước hình học Cái bàn, cái cốc, thân thể con người, con sông, dãy núi, trái đất, hạt nhân nguyên tử, hạt quark, các photon, thân xác các siêu vi khuẩn. v.v… là các ví dụ về các đối tượng hữu hình Định nghĩa 6: Đối tượng vô hình là đối tượng không có kích thước hình học. Tư duy, ý nghĩ, khái niệm, truyền thống, tình yêu, hạnh phúc, lòng căm thù, tính cao thượng, linh hồn, văn hoá phi vật thể...v.v…là các ví dụ về các đối tượng vô hình. Vì các đối tượng hữu hình hay đối tượng vô hình đều là đối tượng trong Vũ Trụ nên theo định lý 5 chúng đều chứa Tâm thức Vũ Trụ. Điều này cho thấy khi tiến tới Tâm thức Vũ Trụ đối tượng vô hình và đối tượng hữu hình chỉ là một. Đừng nghĩ rằng đối tượng vô hình không có năng lượng. Thật vậy vì đối tượng vô hình cũng chứa Tâm thức Vũ Trụ mà năng lượng là thành tố của Tâm thức Vũ Trụ nên đối tượng vô hình vẫn phải có năng lượng. Định nghĩa 7: Nội dung thông tin của một đối tượng A bất kỳ trong Tâm thức Vũ Trụ được gọi là ý niệm tuyệt đối về A. Định lý 20: Ý niệm tuyệt đối về một đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ là một đối tượng vô hình. Đến đây chúng ta phát biểu một định nghĩa nói lên quan điểm dứt khoát của chúng ta về Ý Thức. Định nghĩa 8: Ý thức của một đối tượng bất kỳ trong vũ trụ là tập hợp tất cả các mối liên hệ vô hình của nó với mọi đối tượng trong vũ trụ. Tiếp theo đây ta sẽ chứng minh một định lý rất hay về ý thức. Định lý 22: Mọi đối tượng trong Vũ trụ đều có Ý Thức Chứng minh: Giả sử A là một đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ. Ta chỉ cần chứng minh tồn tại một mối liên hệ vô hình của A với một đối tượng nào đó trong Vũ Trụ. Thật vậy, luôn tồn tại mối liên hệ f :" Ý niệm tuyệt đối về A" là một mối liên hệ vô hình giữa A và Tâm thức Vũ Trụ. Mọi đối tượng đều có ý thức kể cả những vật mà loài người cho là vô tri nhất. Định lý 22 còn cho ta giải thích tại sao loài người, đặc biệt là trong văn chương lại có loại văn Nhân Cách hoá; tại sao loài người lại thờ nhiều thần như thế : thần biển, thần núi, thần gió, thần mặt trời v.v…; tại sao lại có các khái niệm “ hồn nước”, “hồn thiêng song núi”,v.v…. Như vậy Ý Thức có trong mọi đối tượng, do đó nó là một thành tố tạo nên Tâm thức Vũ Trụ. Định lý 23: Tâm thức Vũ Trụ chứa Ý Thức. Chứng minh: Vì Tâm thức Vũ Trụ là giao của mọi đối tượng và đối tượng nào cũng có Ý Thức nên Tâm thức Vũ Trụ chứa Ý Thức. Để ý một chút, chúng ta thấy Ý Thức chính là một trường hợp đặc biệt của Thông Tin do đó việc truyền ý thức từ Tâm thức Vũ Trụ đến mọi đối tượng trong Vũ Trụ là tức thời trong mọi hệ quy chiếu tuy nhiên cơ chế truyền Ý Thức trong Vũ Trụ có nhiều điểm đặc biệt mà ta sẽ nói sau. Vì Ý Thức cũng là một đối tượng trong Vũ trụ nên nó tuân theo tiên đề 2: Nó luôn luôn vận Động. Để cho hoàn chỉnh và theo mạch tư duy giống như khi bàn đến Thông Tin, ta sẽ chứng minh một loạt các định lý sau. Định lý 24: Ý Thức truyền cho nhau giữa hai đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ bao giờ cũng phải thông qua Tâm thức Vũ Trụ. Chứng minh: Giả sử A và B là hai đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ, f là một mối liên hệ vô hình bất kỳ giữa A và B. Theo định nghĩa Ý Thức suy ra f là Ý Thức. Nhưng đến lượt mình f lại là một đối tượng trong Vũ Trụ. Theo định lý 5, f phải chứa Tâm thức Vũ Trụ. Hay nói cách khác f phải thông qua Tâm Vũ Trụ. Định lý 25: Tâm Vũ Trụ chứa toàn bộ Ý Thức của mọi đối tượng trong Vũ Trụ Chứng minh: Ta chứng minh bằng phản chứng. Giả sử tồn tại một đối tượng A có một phần Ý Thức F(A) không có trong Tâm Vũ Trụ. Khi đó tồn tại một ý thức f chứa trong F(A) không thông qua Tâm Vũ Trụ. Điều này trái với định lý 24 vừa phát biểu. Định lý 26: Tâm Vũ Trụ truyền Ý Thức đến mọi đối tượng trong Vũ trụ là tức thời trong mọi hệ quy chiếu. Chứng minh: Ta chứng minh bằng phản chứng. Giả sử tồn tại một đối tượng A trong Vũ Trụ nhận được Ý thức từ Tâm Vũ Trụ đến mình không tức thời. Suy ra tồn tại một thời điểm t0 A không có Ý Thức. Điều này trái với định lý 22. Đến đây ta sẽ chứng minh định lý 11 trong chương 2 một cách tường minh hơn. Định lý 27 : Vận tốc ánh sáng không phải là giới hạn vận tốc của ý thức trong Vũ trụ. Chứng minh: Giả sử A và B là hai đối tượng cách nhau 1 tỷ năm ánh sáng, f là một ý thức từ A đến B. Theo định lý 24 “đoạn đường” mà f chuyển động được chia thành 2 phần d1: từ A đến Tâm thức Vũ Trụ và d2: từ Tâm Vũ Trụ đến B. Theo định lý 25 thì f chuyển động trên d1 là tức thời. Theo định lý 26 f chuyển động trên d2 cũng tức thời. Vậy thì f chuyển động từ A đến B là tức thời. A và B cách nhau 1 tỷ năm ánh sáng nên f có vận tốc lớn hơn vận tốc ánh sáng. Chúng ta đã chứng minh một loạt các định lý rất quan trọng với cách chứng minh hết sức giản dị… nhưng nó chứa đựng một "vũ trụ quan" khác hẳn. Tâm thức Vũ Trụ chứa toàn bộ ý thức của Vũ Trụ và cấp phát những ý tưởng, những cảm xúc, những tình yêu, những chân lý v.v.. xuống các đối tượng một cách tức thời làm cho chúng ta tưởng rằng những thứ đó có sẵn trong các đối tượng. Khi truyền tình yêu hoặc lòng căm thù đến một người nào đó thì tình yêu đó, lòng căm thù đó phải tập kết ở Tâm thức Vũ Trụ rồi mới được truyền đến người đó… Ở Tâm thức Vũ Trụ không có cái gì là tương đối, là ngẫu nhiên, là may rủi. Tất cả là tuyệt đối là chính xác hoàn toàn, là chắc chắn. 2.VẬT CHẤT Ta sẽ nghiên cứu Vật Chất kỹ hơn trong các chương sau. Định nghĩa 9: Tập hợp tất cả các thành tố hữu hình tạo nên một đối tượng bất kỳ A và các mối liên hệ hữu hình của A với mọi đối tượng trong Vũ Trụ được gọi là Vật Chất của A. Ta sẽ chứng minh ngay sau đây một định lý để chúng ta hình dung rõ hơn về Vũ Trụ Định lý 28: Mọi đối tượng trong Vũ Trụ đều có Vật Chất. Chứng minh: Giả sử A là một đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ. Theo tiên đề 2, A luôn luôn vận động, do đó luôn tồn tại mối quan hệ hữu hình của A vì vậy A luôn có tính vật chất. Định lý trên được các nhà triết học Duy Vật coi như một Tiên đề. Như vậy một đối tượng A bất kỳ trong Vũ Trụ đều gồm 2 phần: Vật Chất và Ý Thức. Lưu ý: 1) Đối với một đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ bao giờ cũng có cả Vật Chất và Ý Thức trong nó. Không có đối tượng nào hoàn toàn là vô tri. Núi có hồn của núi, sông có hồn của sông, các cơn bão cũng có Ý Thức.v.v.. Ngược lại không có đối tượng nào chỉ có thuần túy Ý Thức. Linh hồn của một người đang sống hoặc đã chết vẫn có các mối liên hệ Vật Chất với các đối tượng hữu hình. Tư duy của một con người có thể biến thành một sức mạnh Vật Chất. Ý Thức có thể làm thay đổi quỹ đạo của một cơn bão, gây ra động đất v.v… 2) Vật Chất và Ý Thức trong một đối tượng là thống nhất không thể tách rời do đó câu hỏi cơ bản của triết học: “ Vật Chất và Ý Thức cái nào có trước? Cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?” là một câu hỏi không có nghĩa!!! ..... .... Hà Nội, ngày 16/08/2004 TS. Đinh Xuân Thọ ................................................................ Tôi không quen biết anh Thọ, cũng như anh Thiên Sứ cũng không biết mặt tôi... và tôi thực sự rất ấn tượng về bài viết này. Trong bài viết trên, tôi đã biên dịch lại đôi chỗ nhằm giúp cho nó thân thiện hơn với mọi người. Thân mến1 like -
đó, chính thế đó. Nếu sống với bố thì một trong hai người sẽ bị một điều gì đó Thân mến p/s: chẳng thấy ai bấm nút cảm ơn cho mình nhẩy :D . Thôi thì tự mình bấm lấy vậy :P1 like
-
Vợ chồng bạn cưới năm Tam tai nên cuộc sống sẽ gặp khó khăn đấy ! Nếu năm Kỷ sửu đẻ thêm đưa nữa thì mọi chuyện sẽ ổn nhưng thời gian trôi qua rồi ! Về tương quan tuổi của v/c thì không xấu, ở mức trung bình. Việc đẻ bé tiếp theo phải đến năm Bính Thân - 2016 mới thực sự tốt, còn các năm gần đây không tốt cho gia đình bạn. Cần xem thêm phong thủy nhà đang ở để tìm cách hóa giải xung khắc vậy. Linh Trang1 like
-
Bạn thật bộp chộp khi phát biểu ! Ngay câu trích bạn đưa ra Thiên Đồng đã nói rõ: Thế mà vẫn cứ cố tình lơ đi là làm sao ?Ở đây có những nhà nghiên cứu bản lĩnh và thâm niên. Không ai lại đi lấy truyện cổ tích ra làm luận cứ cho các chứng minh khoa học cả! Bạn không cần phải nhắc nhở điều đó! Nhưng những tích truyện hay lời kể dân gian có thể tạo nên cảm hứng và gợi mở tư duy thì không ai phủ nhận cả. Một dân tộc bị đô hộ, bị truy diệt, tráo đổi, đánh cắp giá trị văn hóa thì còn cách nào hơn gửu gắm lại cho con cháu đời sau những thông tin cần thiết để tìm lại cội nguồn thông qua những câu truyện như thế. Con cháu đời sau đọc những câu truyện đó để suy nghĩ, định hướng hành động. Còn hành động như thế nào thì phải thuyết phục, hiệu quả trong hoàn cảnh hiện tại. Trước khi phát biểu bạn nên suy nghĩ kỹ, rũ bỏ định kiến, xuất phát từ một cái tâm trong sáng thì mới xứng đáng với cái mà bạn tự giới thiệu là Thân ái !1 like
-
Vui quá vui quá, em chờ lớp này lâu lắm rồi. BQT cho em xin đăng ký một suất với ạ. Họ và tên: Chu Định Sơn, 30t Địa chỉ: 36 ngõ 215 Định Công Thượng, Hoàng Mai Hà Nội Nơi công tác: KHoa QTKD ĐHQG Hà Nội ĐIện thoại: 0984850880 Rất mong BQT cho biết số tài khoản để em chuyển tiền học phí ạ Em xin chân thành cảm ơn!1 like