• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 03/03/2010 in all areas

  1. "TRỤ ĐỒNG MÃ VIỆN" THỜI NAY LIỆU CÓ PHẢI ĐÃ ĐƯỢC CẮM Ở TÂN RAI-BẢO LÂM-LÂM ĐỒNG ? Một trong 2660 cột trụ bê tông được đào tại nhà máy luyện alumin Tân Rai Lâm Đồng có chiều sâu 34 m và do công nhân Trung Quốc đào thủ công có giống với trụ đồng Mã Viện thời Hán ? III - Ý nghĩa câu “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” Trong hầu hết cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại, giải thích câu này chỉ là một lời thề. Ðiểm này có nhiều nghịch lý. 1. Ðây không thể là một lời thề. Thật vậy, Mã Viện là người đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có động cơ nào để tạo ra một lời thề ghi trên trụ đồng. Vì vậy sách sử gọi đây là lời thề là không đúng sự thật. 2. Ý nghĩa câu chữ “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ý hăm dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử sách cho biết Mã Viện là một danh tướng văn võ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị như trên hay không? Tất nhiên là không, vì thế Mã Viện cố tình ghi khắc câu này tất phải có mưu đồ sâu độc nào đó đối với đất nước Giao Chỉ vậy. 3. Ða số sách sử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều giải thích câu: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là trụ đồng gãy thì dân Giao chỉ bị giết. Chữ Chiết mà dịch là gãy đúng với ngôn ngữ, thế nhưng trong trường hợp này có điều không ổn. Vì rằng một cột trụ đồng kim loại, đặc ruột dựng giữa thiên nhiên thì làm sao có thể gãy được? nếu so với một cây cau, một cây dừa thân mộc, cao, tán cây rộng lung lay trước gió bão còn có thể đứng vững. Thì đây là một nghịch lý. Do vậy sự dịch thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố tình nhằm che dấu một bí mật lịch sử mà người viết sẽ phân tích ở phần sau. IV- Công dụng của trụ đồng Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cũng chưa có lời đáp thích hợp. 1) Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho có thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên, tr.199). Ðây chỉ là lối nói huề vốn khi không lý giải được những nghịch lý của câu chuyện trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện mỹ đàm, kể chơi cho vui. Vườn hoa trồng theo hình Quốc ấn tại dinh Bảo Đại- T.P Đà Lạt... 2) Theo tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử). Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Ðồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này. Giả thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch lý sau: Một cột đồng đặc ruột thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không thể gọi là một đài (?) thiên văn được. Theo người viết hiểu ý của tác giả là trụ đồng Mã Viện được sử dụng như là một cái cột chuẩn để đo lường sự di chuyển của bóng mặt trời, mặt trăng... Nếu chỉ với công dụng như vậy thì chẳng cần phải dùng cột đồng làm gì cho năng nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển, dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian. Ngoài ra còn viện lý do khỏi bị thời tiết xâm hại lại không chuẩn. Vì rằng cột đồng to và cao đủ để đo bóng mặt trời thì rất nặng hàng tấn tạo sức ép trên một tiết diện nhỏ thì với thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp, đất ướt, mềm nở ra rất dễ bị lún, hay đổ ngã nguy hiểm. Với độ lún hằng năm của trụ đồng, thì độ đo đạc lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm mất giá trị công dụng nói ở trên. Với trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lý hơn cột đồng. Với uy danh của một tướng lãnh thống trị đương thời chắc chắn có rất nhiều cách để bảo quản trụ đồng cần gì phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu “Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô chính trị đối với một vị tướng văn võ toàn tài, vừa mất tư cách đạo đức của một kẻ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải ngầm bảo dân bị trị coi sóc? 3) Theo cổ sử, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới mà lại ghi câu: “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng? Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh? Trụ sở làm việc của Ban quả lý dự án nhà máy luyện Alumin Tân Rai-Lâm Đồng B - KIỂN THÀNH Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử. Hình dáng của Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong sử sách, là loại hình dài và gầy hẹp có rất nhiều nhược điểm như sau: - Dễ bị tàn phá bởi thời tiết gió bão, thật vậy một trường thành dài và ốm sẽ hứng chịu nhiều sức tàn phá của gió bão hơn là một bức thành ngắn, tròn hay vuông và rộng. - Mục đích xây thành cho dân ở vì dân số đông mà lại xây thành hình ốm và đài là không kinh tế và khó có thể thỏa mãn đầy đủ nhu cầu phát triển cư dân về lâu dài. - Về mặt quân sự một trường thành dài rất khó trấn thủ vì tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và khó tiếp ứng từ đầu này đến đầu khác. Vì thế câu hỏi đặt ra là tại sao không xây thành hình vuông, đa giác lồi hay hình tròn bình thường như những thành quách khác mà lại xây thành hình cái kén? Ẩn ý của kiến trúc này là gì vẫn chưa được giải đáp trong sử sách. Tóm lại, những nghịch lý trên của lịch sử đã trải qua gần 2.000 năm vẫn chưa được lý giải minh bạch dưới nhãn quang của các nhà sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng, nếu nhìn sự việc trên đây bằng nhãn quang của một nhà phong thủy thì tất cả mọi nghi vấn trên đều được giải đáp thỏa đáng. Cổng vào nhà máy luyện alumin có tượng hình sinh thực khí đàn bà, treo cờ của tập đoàn luyện alumin Chaleco Trung Quốc... Thật vậy đây là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc, thế nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là yêu tặc. Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt Nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau: Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Ðế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đành các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua... Ðến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Ðô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng... (viethoc.org) Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lý phong thủy. Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng (?) đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm hãm hại đất nước ta không còn vua nữ giới nữa bằng những hành động như sau: 1- Mã Viện cho dựng một trụ đồng tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại sao không đặt nơi đồng bằng trống trải dễ thấy hay tại những con đường đi lại giữa hai nước như là cột mốc bình thường mà lại đặt tại một hang động? Chỉ có thể trả lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn vua nữa, dễ bề cai trị. Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Ðồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khiêu khích lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai trụ đồng nặng hàng tấn tạo một sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng từ từ lún sâu vào lòng đất mỗi khi thời tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có như vậy mới che dấu được quỷ kế thâm độc của mình và tác dụng phong thủy lại càng tăng cao. Trụ bêtông thời Hồ Cẩm Đào giống Dương Hoả Tượng, một loại bùa chú thời Hán có hình sinh thực khí đàn ông đóng vào sinh thực khí của đàn bà Giao Chỉ để tuyệt đường sinh sản ??? 2- Ý nghĩa thật sự của câu: “Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt”, Ðây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”. Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lý. Như vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương. 3- Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện này ra thì sẽ không thấy âm mưu sâu độc của Mã Viện, vì thế người viết, kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình, bạn đọc sẽ thấy rõ ràng hơn: Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, Âm, Thủy, tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, Dương, Hỏa, tượng hình của người đàn ông. Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái. Bùa lưỡng nghi (loại tượng hình) Nguồn: Thiên Ðức 8/2005 Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch. Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành, Âm thủy và trụ Ðồng Mã Viện, Dương Hỏa. Ngoài ra, nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “Ðóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể chứng minh truyền thuyết quân Mã Viện lúc giao chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà đã chơi trò đồng loạt “Truồng cởi” làm hổ thẹn nữ binh không phải là không có lý. Tóm lại câu chuyện trên có thể kết luận như sau: - Cột đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ. - Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi được giải mã (?). - Hình dáng Kiển Thành kết hợp với trụ đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc. Sở dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi hội đủ những điều kiện sau đây: - Ðặt đúng huyệt vị. - Ðiều quan trọng nhất không ai có thể hại mình bằng chính mình hại mình. Dựa vào nguyên tắc này Mã Viện đã thâm hiểm khích tướng để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng để giữ vững cho chôn trụ đồng có thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm hiệu lực cho bùa trấn yểm. - Thời gian hiệu lực của bùa chú càng lâu dài nếu bí mật của nó chưa được tiết lậu, các sử gia Trung Quốc vì quyền lợi Trung Quốc đã che đậy sự việc này và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự kiện. Và theo truyền thuyết bùa ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa chú hại người khác nếu được cao nhân cứu giải thì loại bùa chú đó sẽ trở lại tác động với chủ nhân của nó. Vì thế người Trung Quốc rất sợ phản đòn và rất kín miệng về sự việc này. Ngoài ra để cho đất Giao Chỉ không còn huyệt phát vua chúa nữa, Hán tộc đã âm thầm cướp trắng một phần đất của Giao Chỉ, trong đó có vùng châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để người dân Việt không còn phương cách truy cứu. Và sự việc này cũng không được ghi chép vào sử sách. T.Đ Toàn cảnh nhà máy luyện Alumin Tân Rai- Lâm Đồng trưng ở cổng vào nhà máy là Âm Thuỷ, một phần của bùa chú có tượng hình sinh thực khí đàn bà... Đây ống khói bêtông cốt thép thời Hồ Cẩm Đào có là Dương Hoả Tượng có tượng hình sinh thực khí đàn ông... Thiên Đức Pham Viet Dao
    2 likes
  2. Nam Mô là âm tiếng Ấn Độ, nghĩa là Quy Y. Quy là trở về, Y là nương theo. Nam Mô nghĩa là trở về nương tựa. Sám Hối là Sám và Hối. Sám là chỉ cho lỗi đã phạm, lỗi trước. Hối là chỉ cho lỗi chưa phạm, lỗi sau. Không biết lỗi gì đã phạm thì khó tránh lỗi tiếp theo. Đại khái thế. Các lỗi đều từ Tham Sân Si phát ra ở Thân Miệng Ý, nếu không Sam Hối thì tội không được tiêu trừ thì quả báo ngày càng nặng. Bồ Tát là Bồ Đề Tát Đỏa, tiếng Ấn, nghĩa là Phần Giác hay là giác ngộ phần nào, khác với Phật là Toàn Giác. Ma Ha là Đại là Lớn, Bồ Tát Ma Ha Tát là Bậc Giác Ngộ gần như rốt ráo sắp tiến đến quả vị Phật. Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát nghĩa là "Quy Y vị Đại Bồ Tát đã có hạnh mong cầu người có đức chứng minh cho sự sám hối". Tức là học theo và hành theo hạnh sám hối của vị Đại Bồ Tát. Niệm Phật một câu thì tội trong 8 vố số kiếp được tiêu trừ, đại khái là có con số 8. Đó chính là Niệm: Nam Mô A Di Đà Phật. Nam Mô là Quy Y-Trở về Nương tựa. Phật là Phật Đà-Người giác ngộ vẹn toàn, gọi là Bậc Toàn Giác có mười danh hiệu. Phật là danh hiệu trong mười danh hiệu đó của một bậc Toàn giác. A-Di-Đà là âm Hán dịch từ tiếng Ấn. Ấn ngữ đọc là A-Mi-Ta hay A-Mi-Ta-Ba-Gia, nghĩa là Danh Hiệu của một vị Phật, danh hiệu A-Mi-Ta có nghĩa là tuổi thọ vô lượng và ánh sáng vô lượng, gọi tắt là Vô Lượng Thọ Quang. Có thể niệm là Quy Y Phật Vô Lượng Thọ Quang. Phật Vô Lượng Thọ Quang là vị Phật đã thành tựu 48 đại nguyện lớn lao để cứu độ chúng sinh, tiếp dẫn các hành giả tu Niệm Phật về thế giới của ngài, đó là cõi Tịnh Độ (cõi đất thành tịnh). Hành giả niệm Phật là các vị từ Đại Bồ Tát cho đến hàng Thanh Văn, Duyên Giác hay cho đến một chúng sinh như người và động vật. Có rất nhiều sự tích động vật biết Thính Pháp và Niệm Phật rồi được thần lực của Phật A-Mi-Ta tiếp dẫn Thần Thức hóa sinh sang cõi Tịnh Độ. Có hai vị Đại Bồ Tát trụ tại cõi Ta Bà (Uế Độ-Cõi đất Bất Tịnh) này để cứu nạn và tiếp dẫn hành giả niệm Phật, hai vị này là Bồ Tát Đại Thế Chí và Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm. Phật A Mi Ta và nhị vị Đại Bồ Tát là Ba vị thường được gọi là Tây Phương Tam Thánh. Nam-Mô A-Mi-Ta-Ba-Gia Bu-Đa-Gia
    2 likes
  3. Trước Đức Thích ca chưa ai thành Phật, vậy Ngài tu theo ai? Verocana Bodhi nghĩa là Tỳ Lô Giá Na tượng trưng cho pháp thân của Như lai nghĩa là Phật tánh bên trong, nghĩa là bản thể sự vật, nghĩa là cái đầu tiên, nghĩa là chân không mà diệu hữu, nên Như Lai gọi là Chân Như. Nghĩa là trong cái không, không phải là tịch diệt hoàn toàn, mà có mầm sống của vạn pháp ẩn tàng trong ấy. Pháp thân này thường trụ, bất hoại, không thêm, không bớt hằng còn như thế mãi. Nó là cái mà Chư Tổ gọi là Con Người Thật của Bạn. Nó là cái mà Chư Tổ gọi là Bản lai Diệu mục của Bạn. Nó là cái mà Chư Phật gọi là Phật Tánh của Bạn. Phật Tánh của bạn ở dạng Thể và dạng Dụng. Thể và Dụng hợp nhất lại vượt lên trên thì gọi là Phật. Ở dạng thể thì các Bạn tiếp cận bằng kỹ thuật Thiền. Ở dạng dụng thì Bạn tiếp cận bằng kỹ thuật Năng lượng của mật tông. Bạn không thể tu để thành Phật được, vì Phật tánh có sẵn bên trong. Bạn vốn Phật đã thành, tại vô minh quên đi mà thôi. Nay Bạn đi dần về thế tịnh, mọi sự phóng chiếu của tâm thức đều gãy đổ đi, Bạn có cái biết trực nhận, trực ngộ và trực tiếp với sự vật, Bạn và sự vật hợp nhất làm một, không qua suy luận của lý trí nhị nguyên thì gọi là Bạn hành thâm Bát Nhà Ba La Mật Đa (Prajna Paramita). Bát nhã không thể ngồi im như vậy mà đạt được, nếu ngồi im mà đạt Bát nhã thì cục đá kia thành Phật trước Bạn. Nếu ăn chay mà thành phật thì con bò, con trâu kia thành Phật trước Bạn, nếu như tụng kinh mà thành Phật thì con chim, con cuốc kêu ngoài rừng thành phật trước Bạn. Bạn không bị cái hữu tướng lôi đi. Bạn chẳng những gạt bỏ dần bụi bặm của tâm hồn. Bạn chớ bày, làm cho các hữu tướng dày đặc thêm lên, khiến cho Phật tánh không hé lộ ra được. Bạn phải biết, các pháp hữu vi của nhà Phật chỉ là phương tiện, Bạn đừng nô lệ các phương tiện này. Trong đầu bạn đã có muôn vàn ý nghĩ, Bạn đừng để cho ý nghĩ thành Phật làm nhiều thêm các ý nghĩ này. Trong đầu bạn có muôn vàn sự loạn động, đừng tụng kinh với tham dục mà làm các loạn động này kích hoạt thêm lên. Trong các tham dục, tham làm Phật cũng làm tham dục. Trong các hữu tướng, nô lệ các tướng cũng là sự nô lệ. Không phải Bạn tu để thành người tu, mà Bạn tu để thành Phật. Thành Phật thì xả bỏ bớt đi, đừng vơ vào làm gì. Bạn theo ý nghĩ, ý chỉ của nhà Phật mà sống, mà quán tưởng, mà tiến dần về thế tịnh. Bạn đừng đem tám vạn bốn ngàn pháp môn của Như lai vây chặt lấy tâm hồn sáng suốt của Bạn. Chẳng phải Bạn quá đau khổ vì mọi sự của chúng sanh chăng? Chẳng phải cơm, áo, gạo, tiền… làm bạn quá đau khổ rồi chăng? Vậy cớ sao bạn còn cộng thêm cái khổ tu vào làm gì? Bạn tu như vậy là quá khổ ! Bạn tu như vậy Niết Bàn đâu không thấy mà vơ cái cực nhọc vào người. Bạn đang sống trong địa ngục đấy mà Bạn chẳng hay! Bạn làm người bình thường còn chưa được, sao muốn thành phật được. Chỉ có gạt bỏ định kiến của bạn đi. Tâm trí nhị nguyên Bạn gãy đổ đi. Bạn có cái thấy hồn nhiên của đứa bé, bạn có cái biết trực tiếp bằng sự rung động của con tim, không qua ý thức hệ, lý luận và kinh sách nào. Bạn và sự tự nhiên là một thì gọi là thành Phật, thì gọi là sống thuận tự nhiên, thì gọi Bạn và vũ trụ đồng biến dịch. Các sự trái tự nhiên đều dẫn đến DukKha là đau khổ, đều tạo ra Karma là nghiệp lực. Vậy Bạn bận quần áo tu sĩ, vậy Bạn ăn chay, vậy Bạn tụng kinh chỉ là vô ích nếu bạn không dụng tâm quán tâm mình được, nếu Bạn không giữ được tịnh giữa muôn ngàn ý nghĩ phải có trong tâm bạn, Bạn ngồi đấy trù gạt bỏ mọi ý nghĩ của Bạn, người mà không có ý nghĩ làm sao làm việc được. Cục đá kia chẳng có ý nghĩ mà nó có thành Phật đâu. Bạn muốn ngồi thiền để thành gỗ đá vô tri chăng ? Nếu hòn đá kia mà có con tim rung động thì nó thành Phật trước bao nhiêu Nhà tu khổ hạnh khác. Bạn phải sống, phải làm việc, phải là một con người với đầy đủ mọi tâm tư, tình cảm. Sự rung động tự nhiên mà Bạn vẫn thành Phật. Đó là vì Bạn giữ tịnh giữa muôn ngàn ý nghĩ. Đó là vì Bạn giữ tịnh giữa muôn ngàn hành động. Đó là vì Bạn tu mà không thấy có tướng tu. Đó là vì Bạn tụng kinh mà không có người tụng kinh. Đó là vì Bạn ăn chay mà chẳng có người ăn chay, Đó là vì Bạn niệm phật mà chẳng có người niệm phật, Đó là vì Bạn lễ lạy mà bản chất là rỗng không và tịch lặng. Kinh nói: ''Năng lễ, sở lễ tánh không tịch'' - Người lạy và Người nhận sự lễ lạy của Bạn bản chất là tánh không và tịch lặng. Nếu Bạn tưởng có ông Phật ngồi đấy để nhận cái lạy của Bạn, Bạn là phật tử mê tín. Nếu Bạn tưởng có Phật gỗ ngồi đấy nghe tụng kinh, Phật gỗ làm sao có tai? Bạn là Phật tử mê tín. Bạn ăn chay, niệm Phật như vậy, là để tham dục khỏi khởi lên, là để Bạn gạt bỏ được bụi bặm của tâm hồn Bạn, là để Bạn hội nhập với thế tịnh và an lạc của Như lai. Chứ không phải bạn ăn chay, niệm phật và tu các pháp hữu vi làm Bạn nặng nề thêm, làm Bạn chất chứa thêm, làm Bạn tốn thì giờ thêm, làm Bạn thêm cái khổ và muôn ngàn cái khổ khác mà bạn đang có. Vậy, Bạn quay về Ngôi Nhà Tâm của Bạn bằng cách nào? Vậy Bạn tiến về chân lý bằng cách nào? Bằng hai con đường thể và dụng để cuối cùng Bạn hội nhập với cái bất tư nghì là phật Tánh. Về thể, Bạn dụng tâm quán tâm không phút nào ngừng nghỉ. Hành động của Bạn, Bạn phải chứng kiến cho được. Lời nói của Bạn, Bạn phải chứng kiến cho được, ý nghĩ khởi trong đầu bạn, bạn phải chứng kiến cho được. Tu là trở thành chứng nhân của chính mình. Chứ nếu Bạn là người làm, chứ nếu Bạn là người muốn sở đắc thì lập tức sa vào thiện nghiệp, rớt xuống địa ngục và dính vào Dukkha. Nếu bạn tụng kinh nhằm cầu lành bệnh, nhằm sinh con đẻ cái, nhằm giàu có và phước báo ở thế gian là bạn dùng cái Tâm tham dục tụng kinh. Như vậy đâu phải là chánh giáo của Như Lai. Nếu Bạn niệm Phật mà như cầu Phật gia hộ Bạn cái gì thì Bạn chả biết Phật là gì. Nếu thật sự có Chư Phật, Chư Bồ Tát ở cõi tâm linh này, Ngài đâu có cần Bạn tốn thời giờ cầu khẩn như vậy. Nếu chờ đợi Bạn tụng kinh quá lâu, cầu nguyện quá nhiều mới gia hộ thì đâu phải là Đại từ Đại Bi. Bạn tụng kinh quá lâu, Bạn cầu nguyện liên tục là để Tâm Bạn hợp nhất với thế tịnh của Như Lai. Nếu Bạn càng tụng kinh, Bạn càng cầu sở đắc. Nếu Bạn càng niệm Phật, để bạn cầu cái lợi gì đấy hữu tướng, là Bạn đã bắt đầu xa rời con đường chánh của Như Lai. Pháp tụng kinh cao nhất của Bạn là gì? Đó là kinh vô tự của Như Lai. Bạn giữ được thế tịnh giữa muôn vàn ý nghĩ của Bạn. Giữ được thế tịnh và an lạc trong khi vẫn làm việc và tu tập. Như vậy gọi là tụng kinh liên tục mà không xa rời Pháp của Như Lai. Bởi vậy, Bạn tiếp cận ở vấn đề bằng hai mặt tâm lý và năng lượng. Về tâm lý, Bạn nhất thiết phải hành thiền, không hành thiền thì không thể tiến lên được và không thể thực chứng được. Đối với pháp của chư Phật, Thiền Tông là yếu lĩnh. Khi hành Thiền, Bạn phải chứng kiến, chớ làm người hành động mà chỉ là chứng nhân cho chính mình. Bạn tụng kinh, Bạn có thấy mình đang tụng kinh chăng hay là tham dục đang choán đầy tâm Bạn. Tụng kinh để trả nợ Như Lai vì đã lỡ hứa rồi, Như Lai đâu có tai mà nghe Bạn hứa, Như Lai làm sao chấp nhận tâm tham dục của Bạn mà Bạn cầu. Bạn tụng kinh, thứ nhất để đi vào thế tịnh an lạc, mục đích dần dần hội nhập với biển quang minh của Như Lai, tâm Bạn dần dần đi về thế tịnh giữa muôn vàn cái động. Trong cuộc sống, trong tu tập, Bạn không bao giờ rời xa vị trí chứng nhân. Bạn là khán giả, không phải là diễn viên. Bạn phải thấy Bạn đang tụng kinh, tụng kinh như vậy có tịnh chăng hay tham dục tụng kinh. Bạn phải thấy Bạn đang ngồi thiền, ngồi thiền như vậy là Vô Ngã hay nhằm sở đắc cái gì mà ngồi thiền. Bạn có một hành động nào, Bạn phải thấy hành động này, hành động này xuất phát là đáp ứng tình huống tự nhiên hay là do cái tôi tham dục điều khiển. Bạn nói một lời nói nào, lời nói ấy là vô ngã, đáp ứng tình huống hay do sự tham dục làm Bạn nói ra lời ấy. Khi Bạn đang tu tập, Bạn đang làm việc đời, Bạn có chứng kiến sự vận động trong não Bạn chăng? Các ý nghĩ khởi lên Bạn có biết chăng ? Nếu sân hận tham dục khởi lên mà không biết thì tụng kinh là mỏi miệng. Nếu không giữ được thế tịnh giữa muôn vàn ý nghĩ này thì tu như vậy là vô ích. Bạn trụ vào trạng thái chứng kiến như vậy không phút giây nào xao nhãng cho đến khi sự chứng kiến là tự nhiên, chỉ có hành động chứng kiến mà không có sự cố gắng chứng kiến thì gọi là Bạn thực chứng về Thiền Tông. Đó là một nửa của vấn đề về tâm lý. Nửa còn lại về SATTVA, thể xác và năng lượng của Bạn. Chẳng những Bạn không khổ hạnh, không làm suy kiệt cơ thể đi, mà phải biết vận dụng phương tiện hữu ích này là thân xác bạn để tu tập và rèn luyện. Trong sự vận dụng này, Bạn tập Thiền năng lượng là quan trọng. Vì Điển quang là khởi nguồn của sự sống, vì Điển quang là năng lượng thiết yếu của cuộc sống. Vậy về năng lượng, Bạn luyện thể xác Bạn và Bạn Luyện năng lượng Bạn, cho đến khi năng lượng Dục chuyển hoá thành năng lượng Giác Ngộ, thăng hoa dần lên và cuối cùng thành cực tịnh để giao thông với Điển Quang của Như Lai. Năng lượng nhỏ bé của Bạn qua hệ thống bảy luân xa nhập vào biển quang minh của Chư phật gọi là Nhập pháp Giới. Bạn sẽ có sức mạnh của Như Lai. Bạn sẽ tiếp cận với Như Lai qua phương diện năng lượng này. Dụng Tâm quán Tâm và thực chứng năng lượng để hội nhập với biển quang minh Như lai là hai chân của Bạn tiến về thế Phật. Bạn tiến bằng hai chân này cho đến khi rốt ráo, Bạn sẽ nhập Đại Định và thực chứng Bất Tư Nghì của nhà Phật. Lúc ấy, không có vị thầy nào hướng dẫn Bạn được nữa, không ai có thể truyền đạt cái gì được nữa. Tự Bạn Bạn biết. Tự Bạn Bạn chứng . Trước lúc ấy, nhất thiết phải đi bằng hai chân, đừng đi một chân mà không tiến được. Thể và dụng song hành, tu và hành song đôi, hiển và mật viên thông Hết... Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát, Nam Mô A Di Đà Phật - ngoclam sưu tầm - Trích từ: Duongsinh.net
    1 like
  4. Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn UM MANI PADMI HUM! gọi là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn. Nó có công năng diệt trừ mọi tai nạn, đau khổ, giúp người tu đạt trí tuệ sáng suốt của Phật Thừa, gọi là Đại Minh. Bởi vậy thực hành sáu chữ này thì đạt cái huệ tự nhiên, cái vô phân biệt trí, cái trí tự nhiên biết, thấy như thật, biết như thật để làm như thật. nên gọi là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn. Trong đó Chân Ngôn nghĩa là Đalani. Lục Tự nghĩa là gồm có sáu chữ . Đại Minh nghĩa là sáu chữ này hành công rốt ráo sẽ đưa lại cái biết to lớn, sự sáng suốt to lớn, nghĩa là cái huệ, cái tự nhiên biết, cái phản ảnh như thật của Tâm Bát Nhã Bala Mật Đa (Prajna Paramita). UM MANI PADMI HUM! là câu thần chú nổi tiếng ở thế giới. Phật tử nào cũng thuộc, môn phái nào cũng trì tụng vì lực bất tư nghì của nó. Nó có công dụng diệt trừ đau khổ. Giúp người tu tập vượt qua Dukkha, đạt giải thoát và cái huệ tự nhiên của nhà Phật. Thần chú này do Đại Bồ Tát Quán Thế Âm thương xót chúng sanh mà tuyên thuyết trước mặt Như Lai. Vậy phải hiểu thế nào là Quán Thế Âm thì bạn mới biết cách dụng của Quán Thế Âm - 'Um Mani Padmi Hum'. Quán Thế Âm Bồ Tát tượng trưng cho cái nghe ngược về bên trong của bạn. Chẳng những nó có ý nghĩa là Bồ Tát quán sát, lắng nghe âm thanh kêu khổ của thế gian để phát tâm đại từ đại bi cứu khổ chúng sanh. Chẳng những nó có ý nghĩa thông thường như vậy mà đối với mật tông đại thừa, Quán Thế Âm Bồ Tát còn có ý nghĩa là cách quán sát âm thanh thế gian để đạt đến Phật Thừa. Cách ấy là thế nào? Bạn quán sát âm thanh với tâm tịnh, để tịnh tiến dần đến điểm lặng yên tột cùng . Theo đấy, âm thanh sẽ có năm dạng mà bạn phải thực hành, quán sát và tu tập luyện công. Từ từ qua kỹ thuật quán sát âm thanh này, bạn sẽ đạt nhĩ căn viên thông. Như vậy, đạt Bồ Tát Thừa và Phật Thừa qua kỹ thuật quán sát âm thanh. Năm dạng âm thanh ấy là gì? Đầu tiên người mới tu tâm loạn động, vọng niệm là đầu mối của vô minh. Muốn chặt đứt vọng niệm này, người tu phải cột chặt tâm mình vào một giả âm cần thiết. Cột chặt tâm vào một âm thanh giả tạo này để tạo chánh định cho tâm. Thí dụ bạn trụ tâm chặt vào câu niệm 'Nam Mô A Di Đà Phật', 'Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát' hoặc 'tôi đang nhận khí đây' chẳng hạn. Đó là giả âm, đó là âm thanh giả tạo chẳng hề có ở thế gian, do bạn tự đặt ra, do tôn giáo đặt ra. Nó là phương tiện cột chặt tâm lại mà thôi, không để nó phát triển tự phát. Do trụ chặt vào câu giả âm này, tâm đứng yên gọi là chánh định. Sau thời gian chánh định. Kỹ thuật quán sát âm thanh tiến lên bậc thứ nhì đó là tập quán sát thực âm, âm thanh thực tế của cuộc sống. Lúc bấy giờ, các tiếng động ở thế gian, âm thanh ở thế gian, bạn sử dụng giống như câu niệm Phật, giống như mã khóa. Nó có tác dụng để hành động bạn đáp ứng với tình huống. Thay vì bạn niệm 'Nam Mô A Di Đà Phật' ... thì nay bạn phải thích ứng với một âm thanh tự nhiên có thật trong xã hội. Bạn quán sát âm thanh này, trụ tâm vào âm thanh này thì âm thanh này biến thành mã khóa và nó có tác dụng cột chặt tâm bạn để vào định, nên gọi là Quán Thế Âm ở bậc thực âm. Theo thời gian tu tập, bạn tiến lên quán sát âm thanh vi tế hơn gọi là diệu âm. Thế nào là diệu âm? Diệu âm có nghĩa là không phải nghe âm thanh bằng lỗ tai, mà nó là cái hiểu biết qua sự nghe, gọi là nhĩ thức. Bạn nghe một âm thanh não bạn vận động, tư duy tạo ra một ý niệm về âm thanh này gọi là cái biết của sự nghe, gọi là nhĩ thức. Nếu thực sự bạn tu đến mức độ này thì sáu căn bạn sẽ hợp nhất. Chẳng những nghe bằng tai mà bạn còn nghe bằng mắt, nghe bằng mũi, nghe bằng lưỡi, nghe qua xúc giác của đụng chạm sờ mó. Chẳng những bạn nghe bằng tai mà ý nghĩ trong đầu bạn cũng là một dạng âm thanh. Bởi vì lục căn tiếp xúc với lục trần sinh ra lục thức. Nếu không trụ vào các căn mà trụ vào cái biết của căn khi đối diện với lục trần thì nhĩ thức cũng như các thức khác. Cái biết sau khi nghe cũng như cái biết sau khi thấy, không khác gì nhau. Bởi vậy gọi là quán sát âm thanh ở thể diệu âm. Dù tai bị điếc đi, bạn vẫn nghe bằng các giác quan khác như thường. Qua quá trình tu tập, nếu đã thực chứng diệu âm bạn tiến lên quán sát âm thanh của Đalani nghĩa là âm thanh không nội dung. Đalani hay thần chú của Chư Phật là âm thanh không nội dung, gọi là âm thanh vô ngã. Bạn nhập vào biển âm thanh này, âm thanh chỉ là tác nhân, khiến năng lượng giác ngộ (bodhi) hiển thị thành Phật lực, khiến trí tuệ phát triển thành tự nhiên trí. Giai đoạn chót nghĩa là âm thanh thứ năm, dạng âm thanh tối thượng, nếu thực chứng sẽ đạt Bát Nhã Ba La Mật Đa, đó là âm thanh cõi lặng yên, âm thanh không tiếng động. Làm sao quán sát âm thanh không tiếng động (?), âm thanh cõi lặng yên là gì (?). Đó là ý nghĩ trong đầu, đó là cảnh biến diệt của nội tâm, bạn là chứng nhân cho trạng thái vận động của não bộ. Tâm không có ý niệm không có âm thanh nào thì biết nó không có âm thanh nào, âm thanh nào khởi lên có đặc tính của âm thanh ấy. Một ý nghĩ sân hận khởi lên, nghe được âm thanh sân hận này. Một ý nghĩ tham dục khởi lên, nghe được âm thanh tham dục này. Bạn nhận biết, chứng kiến trạng thái biến dịch của tâm qua kỹ thuật lắng nghe âm thanh của tâm thức mình. Âm thanh này không có tiếng động mà như có tiếng động , người ngoài chẳng biết, tai chẳng nghe được. Nó là sự cảm nhận, gọi là âm thanh cõi lặng yên. Tâm thức bạn chính là pháp giới này, âm thanh của tâm chính là âm thanh kêu khổ của thế gian. Bạn nghe được âm thanh của tâm thì tượng trưng cho Bồ Tát Quán Thế Âm nghe tiếng kêu khổ của thế gian này. Bởi vậy, niệm danh hiệu của Bồ Tát mà không quán tâm mình, chờ thần lực của Bồ Tát gia trì mà âm thanh tâm mình khởi lên, mình không thấy, mình không biết, mình chẳng chứng kiến nó, mình chẳng phải là học trò của Quán Thế Âm, làm sao nhận được sự gia trì. Nếu niệm Quán Thế Âm mà không biết lắng nghe âm thanh cõi lặng yên thì chính là sự mê tín. Vậy muốn giác ngộ thành Phật, nhất thiết từng giờ từng phút trụ vào trạng thái nhận biết tỉnh giác, quán sát âm thanh cõi lặng yên. Nghĩa là thấy biết các ý nghĩ của mình. Để giúp cho sự chứng kiến này, để giúp cho trạng thái Quán Thế Âm, để giúp kiểm tra chứng kiến điều chỉnh tâm mình bằng kỹ thuật Quán Thế Âm. Bồ tát Quán Thế Âm đã tuyên thuyết thần chú 'UM MANI PADMI HUM'. Công năng của nó giúp bạn cực kỳ sáng suốt, luôn luôn nghe được âm thanh cõi lặng yên nghĩa là luôn luôn biết được sự biến diệt trong não bộ , sự vận động của tâm và tham dục khởi lên trong tâm mình, Bạn không biết làm sao sửa, không biết làm sao tu, không biết thì nhất thiết không thể giác ngộ. Phật Thừa là cái biết tối thượng. Quán Thế Âm là con đường đến cái biết này. Thần chú 'UM MANI PADMI HUM' có công năng giúp bạn đạt được sự việc ấy. Thần chú là bất tư nghì không giải thích được. Qua thực chứng, mỗi người có cái biết riêng, kinh nghiệm riêng khi hành trì. Đây không phải ý nghĩa của thần chú mà là cái biết của Chư Tổ và cái biết riêng của các Vị tu chứng truyền thừa lại. UM nghĩa là gì (?), UM nghĩa là âm thanh mở luân xa bảy ở đỉnh đầu gọi là Sahasrara hoặc là nê hoàn cung. Nó là luân xa chót khi nội khí thăng hoa vượt qua hệ thống luân xa. Nó là cửa ngõ để nội điển bạn giao hòa với điển quang Chư Phật, Chư Bồ Tát. UM tượng trưng cho bản thể, tượng trưng cho cái một, tượng trưng cho Phật tánh ở thể dụng . Um là cái bản thể hiện thị thành vạn pháp. MANI nghĩa là hạt ngọc môni châu, nghĩa là tinh khí thần hợp nhất mà phát ra ánh sáng, còn gọi là 'tam miệu tam bồ đề', còn gọi là 'samadhi'(đại định). PADMI nghĩa là hoa sen. HUM nghĩa là quay về, tịch diệt, lặng tắt. Như vậy, UMMANI PADMI HUM như bức tranh vẽ lại khung cảnh giữa hoa sen có hạt ngọc môni châu sáng lấp lánh, tỏa hào quang. Sau đó lặng ngắt đi mọi sự trở về trống rỗng (Sunnya). Tại sao có hiện tượng này ? Khi bạn tu pháp Quán Thế Âm vào định, độ định sâu dần. Trước khi vào đại định, trong sự lặng yên của tâm thức bạn bỗng vang lên âm thanh UM! . . .UM! . . .UM! . . . . . . như tiếng sấm rền, từ màn tối tăm của tâm thức ánh sáng bỗng bừng lên bằng vô lượng vô biên các hạt sáng lập lánh gọi là hạt Bindu, hạt vi trần, hạt điển quang. Các hạt sáng này quay tít, sau đó co lại giống như hình hoa sen, ở giữa tâm của nó có vùng rất sáng giống như hạt ngọc môni châu. Toàn thể quang cảnh này xảy ra ở tâm khi bạn vào đại định. Sau đó quang cảnh này bỗng tắt đi, bạn rơi vào trạng thái hẫng hụt gọi là trống rỗng không còn gì cả, Bạn nhập vào Samadhi, bất tư nghì không thể nói lại được. Như vậy, 'UM MANI PADMI HUM' là quang cảnh ở tâm trước khi đạt thể tâm không của nhà Phật. Tâm không là gì ? Giống như cái gương phản chiếu như thị mọi sự. Khi đối diện với sự việc gì thì bạn biết như thật. Cái biết này không maya, cái biết này không huyền ảo, cái biết này không méo mó khi qua tâm phóng chiếu nhị nguyên. Khi đạt tâm không thì không có môi trường nhị nguyên nữa nên bạn sẽ thấy như thật. Trước khi đạt trạng thái này thì 'UM MANI PADMI HUM' xảy ra trong cơn thiền định của bạn. Khi chưa đạt tâm không, độ định còn kém bạn trì âm thanh này nghiã là làm định lý đảo để nhằm đạt trạng thái HUM tiếp cận tâm không, nghĩa là với trạng thái tịnh hành công với thần chú này, qua thời gian tu tập nhất thiết sẽ đi vào Samadhi của Chư Phật và đạt trạng thái prajna (bát nhã). Khi ấy, tâm bạn không phóng chiếu sự vật nữa mà thấy như thật, biết như thật nên sẽ làm như thật. Như vậy gọi là Nirvana, gọi là Niết Bàn vì thuận tự nhiên. - Huệ Khải - từ: duongsinh.net http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/luctuchanngon.htm
    1 like
  5. Cháu xem lại ngày giờ sinh ,hỏi cha mẹ có đúng không ? chứ theo lá số nầy Liêm trinh + lưỡng phá +song hao + không -kiếp + hỏa ; là tên đại gian ác nhân , phản thầy hại bạn !
    1 like
  6. Tướng Đồng Sỹ Nguyên cảnh báo việc cho nước ngoài thuê rừng Nguồn Tuanvietnam.net.vn Tác giả: Thu Hà Tướng Đồng Sĩ Nguyên lên tiếng về việc một số địa phương cho người nước ngoài thuê dài hạn đất rừng đầu nguồn. "Với Việt Nam đừng tưởng mạnh mà thắng được yếu" Nghĩ về sức mạnh cộng hưởng của dân tộc Trách nhiệm phải lên tiếng - Được biết ông đã có thư gửi các cấp lãnh đạo có thẩm quyền cảnh báo nguy cơ từ việc cho nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn dài hạn. Vì sao ông không đồng tình với việc này? Ai làm gì tôi không biết nhưng tôi thấy đây là một trách nhiệm phải lên tiếng. Đặc điểm nước ta nhỏ hơn một tỉnh của Trung Quốc, chiều ngang hẹp, chiều dài dài, độ dốc núi đổ ra biển rất gần, các cơn lũ quét nhanh ngang tiếng động, thiên tai xảy ra liên tục, môi trường ngày càng xấu đi, đặc biệt nước biển dâng mất thêm diện tích ruộng đồng bằng. Đây là một hiểm hoạ cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia. Ngoài chuyện chặt rừng đầu nguồn gây lũ lụt tôi còn băn khoăn ở chỗ nhiều địa điểm cho thuê có vị trí chiến lược và địa chính trị trọng yếu. Nhớ lại các thời kháng chiến, tất cả các tỉnh đều có căn cứ là các vùng rừng núi, kháng chiến chống Pháp ta có Việt Bắc, kháng chiến chống Mỹ ta có rừng Trường sơn và vùng Tây Nam Bộ. Những đất rừng đầu nguồn này đều nằm trong đất căn cứ hoặc ở vùng biên giới. Ví dụ. Nghệ An đang cho thuê ở Tương Dương, Quỳ Châu, Quỳ Hợp đây là 3 địa bàn phên dậu quốc gia. Lạng Sơn cũng vậy. Đảng, Nhà nước ta trong thời đổi mới cần sử dụng đất cho các mục tiêu là cần thiết nhưng phải cân nhắc kỹ quy mô, địa điểm, tính từng mét đất. Triệt để không bán, không cho thuê dài hạn cho nước ngoài kinh doanh, trồng rừng nguyên liệu, địa ốc, sân gôn, sòng bạc... trong khi dân ta còn thiếu đất, thiếu nhà, thiếu việc làm. Tuy đã muộn, nhưng ngay từ bây giờ, bất cứ cấp nào đều phải trân trọng từng tấc đất của quốc gia. Hám lợi nhất thời, vạn đại đổ vào đầu cháu chắt. Mất của cải có thể làm lại được, còn mất đất là mất hẳn. Nhiều ý kiến phản đối, chính quyền tỉnh vẫn ký Tướng Đồng Sĩ Nguyên. Ảnh Thu Hà - Có ý kiến cho rằng kiến nghị của ông bắt nguồn từ việc thiếu thông tin chính xác, do đó phản ứng như vậy là có phần cực đoan? Tôi có thông tin chứ không phải chỉ nghe nói đâu đó. Sở dĩ tôi có thông tin là do anh em ở bộ chỉ huy quân sự tỉnh và công an báo lên. Ngay khi nhận được tin báo tôi đã gọi về các địa phương để hỏi, lãnh đạo tỉnh cũng công nhận với tôi là có chuyện đó. Ở một số địa phương, công an và bộ chỉ huy quân sự tỉnh đã lên tiếng ngăn cản nhưng chính quyền vẫn ký. Thậm chí, có nơi Chủ tịch tỉnh kí cho nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn. Hồi anh Võ Văn Kiệt làm Phó Thủ tướng, anh Kiệt có giao cho tôi làm đặc phái viên hai việc: Một là làm sao chấm dứt được việc đốt rừng; Hai là tạm thời đình chỉ việc xuất khẩu gỗ. Anh Kiệt cho đến lúc cuối đời vẫn còn trăn trở với 2 phần việc này. Trong một văn bản ủy quyền cho tôi, anh ghi rõ giao đồng chí Đồng Sỹ Nguyên có quyền xử lí tại trận không cần báo. Gay gắt đến thế trong việc giữ rừng giữ đất. Để đồng bào có sức trồng rừng, anh Kiệt còn cho chở gạo từ phía Nam ra tiếp trợ. Trong bảy năm được Đảng, Chính phủ giao phụ trách chương trình 327, tôi đã cùng các bộ, các địa phương lặn lội khắp mọi nẻo rừng, ven biển, các đảo; đã từng leo nhiều ngọn núi cao hàng 1000m, từ bước chân, qua ống nhòm đã tận mắt thấy cảnh tàn phá rừng để làm nương rẫy, chặt phá gỗ quý để sử dụng và xuất khẩu. Mối nguy hại của việc tàn phá rừng đầu nguồn thế nào mọi người đều đã rõ. Bởi vậy, trồng rừng đầu nguồn là vấn đề sống còn, là sinh mệnh của người dân, chúng ta không chỉ trồng rừng mà còn phải bảo vệ rừng. Đã cho thuê hơn 300 ngàn ha rừng - Đến nay ông đã nhận được phản hồi nào về kiến nghị của mình chưa? Khi tôi gửi kiến nghị lên thì có nhận được điện thoại của Thủ tướng. Thủ tướng nói với tôi là đã nhận được thư và đang giao cho Bộ Nông nghiệp đi điều tra thực tế. Bộ Nông nghiệp cũng đã thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng điều tra xong và gửi lại bằng văn bản cho tôi. - Kết quả điều tra của Bộ Nông nghiệp ra sao, thưa ông? Bộ Nông nghiệp đồng ý với tôi việc 10 tỉnh cho nước ngoài thuê rừng đầu nguồn là sự thật. Bộ đã trực tiếp kiểm tra tại 2 tỉnh Lạng Sơn, Quảng Ninh. Ngoài ra tổng hợp từ báo cáo của 8 tỉnh Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, Kon Tum và Bình Dương. 10 tỉnh này đã cho 10 DN nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn dài hạn (50 năm) trồng rừng nguyên liệu với tổng diện tích hơn 300 ngàn ha, trong đó DN từ Hongkong, Đài Loan, Trung Quốc chiếm trên 264 ngàn ha, 87% ở các tỉnh xung yếu biên giới. "Ai làm gì tôi không biết nhưng tôi thấy đây là một trách nhiệm phải lên tiếng". Ảnh: Thu Hà Đó là một tầm nhìn rất ngắn! - Giới chức địa phương khi được phỏng vấn đã bác bỏ quan ngại với lý do các dự án đều đã được cân nhắc kỹ lưỡng vì lợi ích của cộng đồng dân cư. Ông nghĩ sao về lập luận này? Nói như thế là không thuyết phục. Ngay trong báo cáo của Bộ Nông nghiệp cũng đã xác nhận một sự thật là một số nơi đã thu hồi đất của dân (đất lâm nghiệp thực tế đã có chủ) để giao cho nước ngoài thuê. Theo tự nhiên, dân đồng bằng phải có ruộng, người miền núi phải có rừng. Nay cho thuê hết đất rừng thì người dân sẽ mưu sinh thế nào, điều đó cần phải làm rõ. Bao nhiêu cuộc kháng chiến của ta cũng chỉ vì mục tiêu người cày có ruộng, người dân miền núi có rừng. Cách mạng thành công cũng nhờ mục tiêu đó mà người dân hướng theo. Việc lo cho dân phải là việc đặt lên hàng đầu, trước cả việc thu ngân sách. Cứ dựa vào những lập luận như tăng thu ngân sách để có những quyết định ví dụ như cho người nước ngoài thuê dài hạn đất rừng đầu nguồn là một tầm nhìn rất ngắn! Sao không tự hỏi vì sao các DN nước ngoài lại chọn thuê đất chủ yếu ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, đặc biệt ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, nơi có trục đường 7, đường 8 sang Lào, đường đi lên Tây Nguyên? Rõ ràng đó là những tỉnh xung yếu biên giới, có những vị trí địa chiến lược mang tính cốt tử. Bản thân dân nước mình cũng đang thiếu việc làm.Và khi đã thuê được rồi thì liệu họ có sử dụng lao động là người Việt Nam hay là đưa người của họ sang? Lấy ngay ví dụ việc cho nước ngoài thuê đất ở Đồ Sơn. Tôi đã trực tiếp đến kiểm tra, xung quanh khu vực đó, họ cho đóng những cột mốc to như cột mốc biên giới và không cho người Việt vào đó. Cận vệ của tôi tiếp cận xin vào họ cũng không cho, đến khi tôi trực tiếp xuống xe, làm căng quá mới vào được. Việc một số địa phương nói rằng có những vị trí cho người nước ngoài thuê vì bao lâu nay vẫn để trống, nói như vậy là vô trách nhiệm, địa bàn anh quản lí mà để như thế tức là đã không làm tròn nhiệm vụ. Hồi tôi đi làm dự án 327, tôi rõ lắm, dân mình lúc nào cũng thiếu đất, muốn làm dự án còn không có mà làm, sao có đất để không được. Kiến nghị đình chỉ ngay những dự án chưa ký "Đất đai là thứ tài sản nhạy cảm, muôn đời, vì hiện tại và tương lai của dân tộc, hãy tính toán chặt chẽ từng tấc đất cho các mục đích cần sử dụng". Ảnh: Thu Hà - Vậy theo ông, chúng ta cần phải làm gì trước hiện trạng này? Một số tỉnh đã lỡ ký với doanh nghiệp nước ngoài cần tìm cách thuyết phục họ khoán cho đồng bào tại chỗ trồng. Đặc biệt các tỉnh thuộc vùng xung yếu biên giới, những tỉnh chưa kỷ đình chỉ ngay. Thay vào đó, huy động các doanh nghiệp trong nước đầu tư, kết hợp sử dụng một phần vốn chương trình 5 triệu ha rừng để thực hiện. Các tỉnh chỉ đạo các huyện, các lâm trường lập ra bộ phận chuyên trách. Trong vòng một năm, chính thức giao khoán đất, khoán rừng cho từng hộ. Trong bản, trong xã cấp sổ đỏ quyền sở hữu sử dụng đất rừng vào mục đích trồng rừng phòng hộ kết hợp rừng kinh tế. Từ đây, tôi đề nghị mở rộng chương trình xoá đói giảm nghèo ở miền núi thành chương trình làm giàu cho đồng bào miền núi, kết hợp bố trí tái định cư của các công trình. Điều kiện làm giàu ở miền núi tốt hơn ở đồng bằng. Đất đai là thứ tài sản nhạy cảm, muôn đời, vì hiện tại và tương lai của dân tộc, hãy tính toán chặt chẽ từng tấc đất cho các mục đích cần sử dụng.
    1 like
  7. Thứ nhất là bạn post bài nhầm box. Bạn nên post bài vào chuyên mục TƯ VẤN. Thứ hai là bạn nên chọn cách xưng hô dễ nghe hơn vì trên này nhiều người lớn tuối và những người đủ khả năng tư vấn cho bạn cũng là những người lớn tuối.
    1 like
  8. Thiên can vợ khắc can chồng, thiên can bố khắc thiên can con gái nên anh lận đận về kinh tế cũng là hợp lý, đặc biệt là sau khi sinh bé gái. Để hóa giải và hỗ trợ thêm cho anh về đường kinh tế, nên sinh 1 bé năm Nhâm Thìn 2012!!! Thiên Can Nhâm sinh Giáp sẽ rất tốt cho bố! Sinh vào mùa xuân hoặc hè thì tốt! Chúc anh may mắn! Ps : sư phụ Thiên Sứ đã ngoài lục tuần!!!
    1 like
  9. Bạn nên tôn trọng điều lệ của diễn đàn, năm nay có thể có tang trong gia quyến sức khỏe cha ông nội kém tháng 3 đến 5 al. Lá số này cẩn thận đề phòng tai nạn, nhất là tai nạn sông nước
    1 like
  10. Mình nói giờ dần thì năm sửu cha hoặc ông nội đau yếu bệnh chứ giờ mão không có cách đó, giờ mão là phần bên dưới...
    1 like
  11. 47xd5 thân mến, tôi có thể thấy anh rất buồn khi nói ra tâm sự trong chuyện tình cảm của mình. Tôi chỉ muốn góp ý với anh 1 chút, vì tôi nhìn lá số của anh thì thấy anh cũng là một người có tài, có mưu lược và tài ăn nói. Cung tài bạch cơ lương miếu tại thìn lại có thanh long thì cứ lo làm giàu đi sau này lắm tiền kiểu gì gái đẹp chẳng chạy theo hàng đàn? :lol: Nếu anh thực sự muốn giành lại tình yêu xin góp ý với anh 1 kế nhỏ, lá số của anh xương khúc cự thì đúng là có tài ăn nói nhưng thêm hóa kỵ thì không thích hợp trong việc tranh giành tình cảm, con gái đa phần không thích người con trai quá ủy mị nói nhiều hay quan tâm thái quá đến mình. Kế này có tên "Dục Cầm Cố Tung" (nghĩa là muôn bắt mà lại thả ra), muốn thực hiện nó thì phải có sự bình tĩnh nhẫn nại và cái nhìn bao quát, ngoài mặt thì tỏ ra không còn quá quan tâm nữa để cô ta tự quyết định, mặt khác lại bí mật tác động tới cô ta ở nhiều phương diện (bạn bè, cha mẹ...cái này a tự nghĩ quan trọng là không để cô ta biết anh là người tác đứng sau tác động) có thể tâm lý cô ta sẽ thấy hụt hẫng khi thiếu sự quan tâm của anh, cộng thêm các tác động của anh mà lay động... Bác haithienha đã tư vấn cho anh khá đầy đủ rồi, phần còn lại là do anh quyết định.Thay vì ngồi buồn than vãn thì tìm cách giành lấy người mình yêu hoặc là tập trung lo cho tương lai sự nghiệp(cách sau có vẻ hay hơn) chứ nếu không đây lại là diễn đàn tư vấn tình cảm mất thôi :) . Chúc anh vui vẻ và thành công, thân chào !
    1 like
  12. Phát bệnh lạ sau khi thấy vật thể bay bí ẩn Một người đàn ông ốm và mắc chứng bệnh bí ẩn trên da sau khi thông báo với cảnh sát về việc nhìn thấy vật thể bay không xác định (UFO). > 10 hiện tượng bí ẩn không thể giải thích/ UFO bay trên quảng trường Đỏ Ảnh minh họa vật thể bay lạ trên trang colinandrews.net.Telegraph cho biết, Bộ Quốc phòng Anh vừa công bố các tài liệu liên quan tới một vật thể bay không xác định vào giữa tháng 2. Một tài liệu ghi lại rằng, vào ngày 27/1/1997, một người đàn ông nhìn thấy một vật thể bí ẩn trên trời trong lúc lái xe ở thành phố Ebbw Vale thuộc miền nam xứ Wales. Bầu trời quang mây trong đêm đó. Theo mô tả của một tài liệu thì ban đầu vật thể bay giống như một ngôi sao lớn di chuyển về phía chiếc xe. Người đàn ông dừng xe và tắt các đèn. Chùm sáng bao vây chiếc xe trong khoảng 5 phút rồi di chuyển xa dần. Trong khoảng thời gian đó radio và điện thoại di động của anh đều ngừng hoạt động. Người đàn ông bước qua chùm sáng và nhận thấy cường độ của nó rất mạnh. Không có bất kỳ âm thanh nào vang lên. Người đàn ông cảm thấy mệt mỏi và sợ hãi. Sau khi chùm sáng biến mất, bụi phủ kín chiếc xe. Hôm sau người đàn ông lại gọi điện tới đồn cảnh sát thành phố Ebbw Vale để thông báo rằng anh cảm thấy sức khỏe có vấn đề. “Người đàn ông cảm thấy mệt mỏi và sau đó ốm trong buổi tối mà anh ta nhìn thấy vật thể lạ. Anh ta vẫn ốm tới tận ngày 28/1/1997 và mắc một căn bệnh lạ trên da”, Telegraph trích một đoạn trong báo cáo. Một tài liệu thứ hai ghi nhận một người đàn ông gặp UFO ở cự ly gần ở khu vực Kingstanding, Birmingham, Anh vào 4h sáng ngày 18/3/1997. Người đàn ông nói vật thể lượn ở phía trên khiến các con chó sủa. Sau đó nó biến mất, để lại một chất màu trắng trên các cây trong vườn gần đó. Người đàn ông đã thu thập chất màu trắng và cho vào một chiếc hộp. Trong một báo cáo thứ ba, một người đàn ông khẳng định một người bay đã thăm viếng nhà anh ta vào ngày 11/6/1997. Báo cáo không ghi địa điểm mà cuộc gặp diễn ra. Khi đó nhân chứng ngủ trong phòng khách. Đột nhiên anh ta tỉnh giấc vì cửa sổ bừng sáng và một người nhảy vào phòng qua cửa sổ rồi nằm lên chăn. Người đàn ông lập tức gọi điện thoại tới đồn cảnh sát, song họ không tới vì cho rằng anh ta bịa chuyện hoặc mắc chứng hoang tưởng. Sau đó anh ta gọi điện tới đồn cứu hỏa. “Nhân chứng nhấn mạnh anh ta không phải người lập dị và trong đêm đó anh ta không dùng bất kỳ loại thuốc nào”, báo cáo viết. Minh Long
    1 like
  13. Tánh tình nóng nẩy , liều lĩnh táo bạo ,có óc kinh doanh đầu tư cạnh tranh, có thể làm những chuyện phi pháp hay bất nhân cũng không từ chối nếu có lợi ,nên chuyên về buôn bán kỷ nghệ nếu làm công về ngành thủ công cũng rất khéo tay /số nầy phải sớm phá tổ ly tông mà sống xứ xa ,nếu không sẽ gặp nhiều tai nạn bất kỳ như tù tội ,hay mắc những bệnh ác tính khó chữa về gan.
    1 like
  14. Tôi tin là cháu sanh vào giờ Dần /năm sửu có Thái Dương + BỆNH +linh tinh ; cha bị STROKE / mẹ sanh ra cũng đông nhưng còn lại cũng ít anh em suy tán ,bệnh phù +địa không có anh chị em mang ác bệnh mà mất /tuần tại phụ mẫu không thể ở gần cha mẹ được ,sớmxa cách song thân ...
    1 like
  15. Không quên nhưng nhà bạn hơi khó kiếm. - Năm Tân Mão thì thuận hơn. Nhâm Thìn thì lúc mới sinh thì đứa bé sợ yếu ớt. Thích đông con thì sinh luôn lèo Tân Mão rồi Nhâm Thìn đi :) Thân mến Quá tốt.
    1 like
  16. Video clip 2010 Hàn Quốc: Chiến đấu cơ đâm vào núi, 3 phi công mất tích Thứ ba, 02/03/2010, 14:28(GMT+7) Máy bay chiến đấu F-5 VIT - Hãng tin Renhap dẫn nguồn tin từ Bộ Quốc phòng Hàn Quốc cho biết, 2 máy bay chiến đấu của Không quân Hàn Quốc đã đâm vào núi trong khi thực hiện chuyến bay huấn luyện vào hôm nay (02/3). Cũng theo nguồn tin trên, hiện vẫn chưa rõ số phận của 3 phi công. Công việc tìm kiếm phi công đã được bắt đầu. Vụ tai nạn diễn ra vào sáng nay tại vùng vúi cạnh thành phố Gangneung, cách thủ đô Seoul 237km về phía Đông. Những máy bay gặp nạn là F-5 của Không quân nước này. Hai máy bay đã biến mất khỏi màn hình radar khi chúng bay đang bay ở khoảng cách 20km từ phía Tây sang phía Đông của bờ biển nước này. Được biết. đây không phải là sự cố đầu tiên liên quan đến chiến đấu cơ của Không quân Hàn Quốc. Năm 2008, 2 chiếc F-5E của Không quân Hàn Quốc đã va vào nhau trong khi đang thực hiện các chuyến bay huấn luyện. Một trong 2 máy bay chiến đấu mang 4 tên lửa trên boong đã bị cháy, rất may không có phi công nào bị thương. Không quân Hàn Quốc hiện đang được trang bị khoảng 100 máy bay chiến đấu của Mỹ do tập đoàn Northrop Corp sản xuất. Hàn Quốc mua những chiến đấu cơ này từ những năm 1974-1978. Northrop F-5 Freedom Fighter/Tiger II là máy bay chiến đấu đa chức năng hạng nhẹ của Mỹ do Northrop Grumman sản xuất vào thập niên 1950. Chiến đấu cơ F-5 đã thực hiện những chuyến bay đầu tiên vào đầu thập niên 1960. Máy bay chủ yếu được xuất khẩu sang những quốc gia nhận sự hỗ trợ quân sự của Mỹ. Vào những thời điểm khác nhau, F-5 đã trang bị cho quân đội nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh và trở thành một trong những chiến đấu cơ được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Một phiên bản của F-5 đã được sản xuất theo giấy phép của Mỹ cấp cho công ty Canadair (Canada) với tên gọi CF-116. Huy Linh (Theo Itar-Tass, VZ, Rosbalt)
    1 like