phoenix

Linh điểu nước Việt

9 bài viết trong chủ đề này

Trong văn hóa Việt của ta có hai hình ảnh cổ xưa về loài chim gắn bó với dân tộc là chim Lạc và chim Việt. Lịch sử đã trải dài và bị mai một đến mức chúng ta còn phải mày mò rất lâu nữa mới có thể viết lại áng sử của dân tộc. Góp chút nhỏ bé trên con đường tìm kiếm, khảo cứu, mời các ACE có tư liệu về hai loài chim Lạc và Việt cùng đưa vào topic này để chúng ta có thêm thông tin phân tích, nghiên cứu.

Giới thiệu một bài viết của tác giả Nguyễn Xuân Quang. Riêng đối với Phoenix, bài viết này không thuyết phục nhưng cũng là một cách nhìn. Mời ACE cùng tham khảo.

Con Chim Việt Đậu Tại Văn Miếu, Hà Nội

Tác giả: BS Nguyễn Xuân Quang

Nguồn: trangdenonline.com

Posted Image

Suốt một đời, tôi miệt mài đi tìm cái căn cước Việt, cái bản sắc Việt của mình. Từ nhỏ cho tới bây giờ, tôi đã được dậy, đã nghe, đã thấy và đã đọc những điều cho là văn hóa Việt thật là mơ hồ, thật là lẫn lộn với văn hóa Trung Hoa. Nếu chúng ta là Việt khác Trung Hoa thì cái cốt lõi văn hóa Việt phải có sắc thái Việt, khác văn hóa Trung Hoa. Hãy lấy một ví dụ, tại Little Saigon, Orange County, California, đang có dự án xây hai cái cổng chào hình vòm ở hai đầu khu phố Việt trên đường Bolsa, những người thiết kế hai cái cổng này vẽ hình Long, Li, Qui, Phượng và giải thích cho người Mỹ hiểu theo ý nghĩa của tứ linh Trung Hoa. Khi nhìn thấy hình tứ linh này, thì ai ai, nhất là người Tây phương, cũng đều cho đây là biểu tượng của người Trung Hoa. Ngộ nhận là chuyện tất nhiên. Tôi đã lên

tiếng và yêu cầu ít ra cũng nên chọn những vật biểu thuần Việt chỉ riêng người Việt có mà người Trung Hoa không có, nhằm mục đích để tránh được lầm lẫn, ngộ nhận, tránh tròng vào cổ cái ách đô hộ của văn hóa Trung Hoa, cũng tránh biến Little Saigon trở thành Little Chợ Lớn (chẳng hạn như thay thế Long, Ly, Qui, Phượng bằng Cò Lang, Chim Việt). Hãy nhìn về diện vật tổ như vừa nói chẳng hạn, thì vật biểu, totem Việt phải thuần Việt. Hôm nay xin nói tới con chim tổ tối cao tối thượng của Đại Tộc Việt là con chim Việt. Chúng ta thường nghe nói tới con Chim Việt đậu cành Nam và nghe bài hát Đàn Chim Việt. Tôi đã tìm thấy hình bóng con chim Việt trong sử sách (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt), trong sử miệng (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt) và trong sử đồng (Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á) (đang in). Tôi biết khó có thể thuyết phục ngay được những người làm văn hóa Việt hiện nay, nhất là những kẻ đang làm xiếc văn hóa Việt, những tên phù thủy văn hóa Việt. Theo linh tính tôi biết con chim Việt phải còn để lại hình bóng, dấu tích ở đâu đó trong văn hóa Việt Nam ngày nay, nhất là ở những nơi thờ tự, miếu đình nào đó. Vì thế nhằm mục đích thuyết phục thêm nữa các người làm văn hóa Việt và phục vị lại được con chim Việt, chim tổ của Đại Tộc Việt, tôi quyết tâm, quyết chí đi tìm một hình bóng chim tổ Việt thật hết sức đặc thù, thật hết sức dễ nhận diện, còn ở đâu đó, ngay trước mắt mọi người, ai nhìn thấy cũng nhận biết ra ngay là chim

Việt. Nhưng tìm kiếm bóng chim Việt trong đời sống hàng ngày hiện nay thật là khó khăn vì tôi sống ở đất Bắc, ở đất tổ, nơi chắc chắn còn nhiều dấu tích hình bóng chim Việt, lúc đó còn quá nhỏ, vào Nam lúc còn học tiểu học và rồi ra hải ngoại. Dĩ nhiên trong Nam và nhất là ở hải ngoại càng khó có cơ may tìm kiếm được. May mắn thay! Eureka! Tôi đã tìm thấy! Tôi đã tìm thấy! Tôi đã tìm thấy! Tôi đã tìm thấy con chim Việt rất đặc thù đang đậu ở Văn Miếu, Hà Nội.

Chim Việt là chim gì?

Trước hết nên biết Việt là gì?

Tôi đã viết rất cặn kẽ Việt Là Gì? trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt và trong Y Học Thường Thức, ở đây chỉ xin nhắc lại vài điểm chính yếu. Việt có nghĩa gốc, nghĩa chính là búa, rìu, có nghĩa chung là vật sắc nhọn. Việt là búa, vật nhọn cũng thấy qua tên vua Việt Câu Tiễn thời Xuân Thu. Câu là chiếc móc cong như lưỡi câu, chiếc liềm (câu liêm), Tiễn là Cắt như tiễn mía, là Tiện (cắt) như thợ tiện, Tiễn là vật nhọn như mũi tên (hỏa tiễn dịch là “tên lửa”). Câu Tiễn là vật, khí giới sắt bén hình nhọn và cong, một thứ việt lưỡi cong. Việt lưỡi cong Câu Tiễn mang hình ảnh của chữ yuè (Việt) khắc trên giáp cốt và kim văn:

Posted Image

Từ Việt là một từ Hán Việt. Tên của tộc họ chúng ta không thể là một từ Hán Việt. Hiển nhiên từ Việt chỉ là một từ phiên âm dịch nghĩa của một từ nôm trăm phần trăm nào đó. Từ Việt phiên âm dịch nghĩa từ một từ Nôm nào? Việt phiên âm hay biến âm với các từ nôm:

-Vớt là “large knife” (used as weapon): dao lớn dùng làm khí giới (Đặng Chấn Liêu). Cũng nên biết các tộc thù nghịch và những người Việt có “Tây học” trước đây thường xỉ nhục những người gốc Việt quê mùa là bọn “răng đen mã tấu”. Mã tấu là một thứ vớt, thứ việt, chính là khí giới biểu của người Việt và răng đen là nét đặc thù của người Việt thuộc tộc Mặt Trời Nước Lạc Việt Lạc Long Quân (màu đen là màu của nước thái âm).

-Việt biến âm với Mường ngữ vác là con dao lớn như chiếc mác, mã tấu. Theo v=m (váng = màng), ta có vác = mác.

-Vọt (theo qui luật biến âm ie=o như hiệp = hợp, ta có Việt = vọt). Nghĩa đen vọt là chiếc roi, chiếc que, chiếc nọc.

-Việt còn biến âm với vạch (khắc, chạm, viết bằng mũi nhọn), với Hán Việt viết cùng nghĩa với vạch, với diết, diệt, giết (làm cho chết bằng vật nhọn sắc như đâm, chém con thú bằng mũi dao, mác, lao, giáo, mũi tên, rìu búa...).

Tóm lại Việt phiên âm hay biến âm với từ vớt, vác (mác), vọt, vạch, viết có nghĩa chính là vật nhọn sắc, nọc nhọn ứng với nghĩa Hán Việt búa, rìu. Dưới diện ý nghĩa biểu tượng, vật nhọn dùng làm biểu tượng cho bộ phận sinh dục (nõ, nọc), đực (nọc), dương, thái dương, mặt trời (dương là đực và cũng có một nghĩa là mặt trời). Vậy Việt mang một ý nghĩa biểu tượng cho mặt trời, mang nghĩa mặt trời nọc, lửa, thái dương có nọc tia sáng tỏa rạng ra như mũi tên, mũi mác (>) như nọc nhọn. Việt hiểu theo nghĩa biểu tượng là MẶT TRỜI TỎA RẠNG, MẶT TRỜI RẠNG NGỜI, HỪNG RẠNG hay muốn dùng theo Hán Việt thì là VIỆT MẶT TRỜI THÁI DƯƠNG. Chúng ta thuộc họ Việt mặt trời rạng ngời, Việt mặt trời thái dương dòng thần Mặt Trời Viêm Đế, Viêm Việt.

Hiểu rõ Việt như thế rồi, nhìn tổng quát tất cả các tên, hiệu, biểu tượng, vật tổ, vật biểu, chim biểu, thú biểu về ngành Nọc, dương của Đại tộc Việt đều có nghĩa nói chung là vật nhọn (nọc, cọc, que, vọt, búa rìu, dao, giáo, mác…), đực, dương, mặt trời thái dương tức là VIỆT ví dụ như trăm lang (lang biến âm với chàng là con trai, chàng cũng là chiếc đục ‘chisel’), Hùng (có một nghĩa là đực như thư hùng), chim biểu của Lang Hùng, Hùng Vương là chim Lang, chim Hùng, chim Việt là chim Nọc, chim Rìu; thú biểu bốn chân sống trên mặt đất là con thú Việt, là Hươu Việt nôm na gọi là con Cọc (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc)...

Chim Rìu, Chim Việt

Như trên đã nói, con chim tổ tối cao tối thượng của Đại Tộc Việt phải là con chim Việt, chim Rìu. Tôi đã tìm thấy con chim Việt này và đã viết trong ba bộ sử sách, sử miệng, sử đồng, nếu cần các chi tiết xin tham khảo ở đó, ở đây chỉ xin nhắc lại một vài điểm chính yếu để độc giả dễ theo dõi và dễ hiểu bài viết này mà thôi.

Hình bóng chim Việt qua:

Sử sách

Như đã thấy, qua ngôn ngữ, chim Việt là chim Rìu. Đây chính là chim mỏ Cắt còn có tên là chim mỏ rìu như thấy qua bài vè các loài chim:

Cũng còn có chú mỏ rìu,Rõ là tay thợ, khẳng khiu chán chường.

Chim cắt là chim rìu, chim Việt của đại tộc Việt ở Cõi Trên Tạo Hóa. Cắt liên hệ với Anh ngữ cut (cắt), Phạn ngữ khad, to divide, to break, ta có k(h)ad = khắc = cắt (t=d), Tiền cổ-Ấn Âu ngữ *kès- 'cut' và gốc Ngôn ngữ của chúng ta Nostratic *k'aca. Theo chuyển hóa c=h (cùi = hủi), ta có cắt, cát, các = hac, hache (Pháp ngữ), hacha (Tây Ban Nha ngữ), hack (Anh ngữ) có nghĩa là rìu, búa chim... Chim cắt là chim rìu, chim Việt...

Chim Cắt là chim Rìu, chim Việt thấy rõ qua truyện thần thoại Con Chim Torok hay Burong Tebang Rumah Bapok Mentua (Con Chim Bổ Sập Nhà Bố Vợ) của thổ dân Kelantan, Borneo. Chim Torok là chim bổ cắt. Mã ngữ torok là thọc, thục, đục, đực... Con chim bổ sập nhà bố vợ hiển nhiên phải có mỏ là mỏ đục (chisel), mỏ rìu, mỏ cắt (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Chim cắt Anh ngữ là hornbill, tên khoa học là Rhinoplax vigil, (Forst., Bucerotidae) có horn là sừng (vật nhọn) và bill là bổ là mỏ. Chim mỏ cắt có tên Hán Việt là chim hồng hoàng. Chúng ta thường nói tới hai từ Lạc Hồng hay Hồng Lạc, chúng ta là con Hồng cháu Lạc. Nhìn dưới diện vật tổ chim thì Lạc Hồng là chim Hồng, chim Lạc. Chim Hồng là chim Đỏ, chim Lửa, chim Lạc là chim Nác, chim Nước. Chim Lạc chim Nước có thể là loài ngỗng trời (con ngỗng chân có màng là một loài chim nước) không phải là loài cò, một loài chim Gió (xem Chim Lạc hay Cò Lang?). Chim Hồng, theo duy dương, là chim hồng hoàng bổ cắt (xem dưới). Như thế chim cắt là chim Rìu, chim Việt, Chim Lửa, chim mặt trời, chim Nọc, hồng hoàng.

Sử miệng Ca Dao Tục Ngữ

Hình bóng chim rìu, chim cắt còn thấy nhiều trong ca dao như qua bài đồng dao Bổ nông là ông bồ cắt nói về sáu con chim tổ của Đại Tộc Việt ứng với Việt Dịch Chim Nông Cắt ở Cõi Trên, Tạo Hóa.

Bổ nông là ông bồ cắt,

Bồ cắt là bác chim di,

Chim di là dì sáo sậu

Sáo sậu là cậu sáo đen

Sáo đen là em tu hú

Tu hú là chú bồ nông.

Sử đồng

Hình bóng chim Rìu, Chim Việt bổ cắt cũng thấy rất nhiều trên trống đồng âm dương Đông Sơn. Trên mặt trống đồng Duy Tiên, mặt tuy bị vỡ nhưng còn thấy rõ hình ba con mỏ cắt, mỏ lớn, đầu có mũ sừng. Đây là loài Great hornbill, loài mỏ cắt lớn nhất.

Những hình thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ đầu thuyền có hình Rắn-Nước miệng há rộng biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ với hình chim mỏ rìu, biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam đâm vào miệng Rắn Nước. Đây là dạng lưỡng hợp sinh tạo thái âm thái dương ở cõi Đại Vũ Trụ. Đuôi thuyền hình chim nông và ngay sau đuôi thuyền có một hay hai cây nọc hình đầu chim cắt, ở dạng lưỡng hợp bổ nông (thiếu âm) với bồ cắt (thiếu dương) ở cõi trời Tiểu Vũ Trụ. Trên nhiều trống đồng khác như trên trống đồng sông Đà, một đuôi thuyền khắc đầu chim hình chiếc rìu (Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á).

Mường

Mường Việt cổ có vật tổ chim là chim tráng, chim cháng. Giữa Việt và Mường có qui luật biến âm dấu sắc Mường = dấu huyền Việt như mấn = mần (làm) nên ta có tráng (trai tráng) = Việt ngữ chàng (chàng trai) và cháng = Việt ngữ chàng (đục, chisel). Chim cháng là chim chàng, chim đục, chim rìu, chim mỏ cắt. Theo truyền thuyết Mường hai con chim Kláng, Klao (tương ứng với truyền thuyết khác là chim Ây, cái Ứa) đẻ ra trứng trăm trứng nghìn, nở ra muôn vật muôn loài, đẻ ra người Đáo (tức người Kinh, người Việt) đẻ ra người Mường... Từ Kláng chuyển sang Việt ngữ là Tráng, Chàng (đục) tức chim mỏ cắt (xem chương Nhận Diện Danh Tính Hùng Vương trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt)

-Chim Khướng

Chim mỏ cắt cũng còn gọi là chim khướng như thấy trong truyện thơ Mường:

Khách phương nào tới

Mà sao tốt tướng oai nghi

Như con chim khướng mấy thu mấy thì

Bay qua lèn đá dựng,

Đã đứng nên đứng,

Đã ngồi nên ngồi...

(Truyện Út Lót - Hồ Liêu, Hoàng Anh Nhân, t.2, tr.99).

Tác giả trên giải thích “Chim Khướng: loại chim lớn, mỏ to và trên mỏ có mũ sừng cứng, thường gọi là chim Phượng hoàng đất”. Tác giả đã không nhận diện ra được “chim Phượng hoàng đất ”mỏ to và trên mỏ có mũ sừng" chính là chim cắt. Rõ ràng chim khướng là chim cắt lớn great hornbill. Theo qui luật biến âm dấu sắc Mường = dấu huyền Việt ta có khướng = khường và kh Mường = s Việt như khang = sang, không = sông, nên khướng = khường = sường = sừng. Con chim khướng là con chim sừng (đầu có mũ sừng), tức chim hornbill và ta cũng thấy khướng biến âm với Hán Việt khương (có nghĩa là sừng). Chim khướng là chim sừng, chim khương. Viêm Đế có họ là Khương (sừng) như thế chim Sừng Khướng mỏ cắt là chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế họ Khương, của Viêm Việt. Chim cắt cũng được thờ phượng đúc thành tượng vàng thấy trong truyện Út Lót. Nàng Út Lót nói với hai chị rằng: “Đồ vàng đúc hình con chim cắt...”.

Ê-Đê

Người Ê-đê có chim mling, mlang thấy qua bài hát

Anh đến từ nơi xa,

Anh mang theo chim mơ-linh từ nhà,

Chim mơ-lang từ buôn.

Anh nghĩ rằng em là con gái chưa tơ vương...

(Vũ Ngọc Phan, Tục Ngữ, Cao Dao, Dân Ca, Việt Nam).

Chim mling, mlang này chính là chim cắt. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với Mã Lai ngữ langling: the Southern pied hornbill (chim cắt có lông sặc sỡ, nhiều màu ở miền Nam). Ta cũng thấy rất rõ Mã ngữ lang: a generic name for hauks, kites and eagles (một tên chủng loại chỉ diều hâu và ó, ưng). Như thế chim lang, chim linh chỉ chung loài mãnh cầm, loài chim mang hùng tính biểu tượng cho đực, dương, phái nam, mặt trời. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với hai từ langlinh trong Việt ngữ. Việt ngữ langchàng, con trai. Linh ruột thịt với Ấn ngữ linga (bộ phận sinh dục nam). Linh biến âm với lính (ngày xưa chỉ đàn ông con trai mới phải đil ính), với đinh theo kiểu linh đinh. Đinh là con trai, thanh niên như tráng đinh, lễ thành đinh. Rõ ràng chim mlang, mling là chim langling, chim cắt, chim rìu, loài chim mang biểu tượng cho đực, dương, hùng tính, mặt trời tức chim Việt. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, địa danh Mê Linh mang tên loài chim Việt này. Ông dựa vào các nghiên cứu tổng hợp các tài liệu lịch sử, ngôn ngữ và truyền thuyết dân gian, Mê (Ma, Minh, Mi) Linh là Mling. Mling, mlang (cặp tên có tính chất lấp láy) theo tiếng của các dân tộc Tây nguyên có nghĩa là một loài chim... Mọi tài liệu đều nói lên một cách thống nhất huyện đó, bộ lạc đó, khi xưa mang tên một loài chim Mling với một thị tộc (bào tộc) gốc thờ chim làm vật tổ. Đó là bộ lạc gốc thời Hùng Vương dựng nước (Hùng Vương Dựng Nước, tập I, tr.154). Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, hai Bà Trưng là con cháu, dòng dõi vua Hùng Vương. Hùng Vương đóng đô ở Phong châu. Lê Ngô Các, Phạm Đình Toái, đã ghi lại rành rành trong Đại Nam quốc sử diễn ca:

Bà Trưng quê ở châu Phong,

Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.

Chị em nặng một lời nguyền,

Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân...

Hai Bà khi lên ngôi đóng đô ở đất Mê Linh (Ý Nhĩa Ngày Lễ Hai Bà Trưng Mồng 6 Tháng 2 Âm Lịch, khoahoc.net) . Mê-Linh, Mlang, Mling, Langling là chim lang, chim biểu tượng cho Lang Hùng, là chim chàng (chisel), chim đục, chim rìu, chim Việt, chim đực, chim biểu của Hùng Vương (Hùng có một nghĩa là con chim đực). Hùng Vương thế gian có một khuôn mặt chim biểu là chim cắt (có thể là loài chim cắt đất), chim Việt đội lốt chim cắt chim sừng, chim Khướng, chim Khương Great Hornbill, chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế dòng Viêm Việt.

Người Ao (Âu) Naga ở Assam, miền cực tây Vân Nam

Người Ao-Naga tức Âu-Rồng Nác, Âu-Long ruột thịt với Âu Cơ-Long Quân, với Âu-Lạc. Chứng tích thờ chim cắt thấy đi kèm với rắn nước, rồng đất cắc kè, kì nhông, kỳ đà, thằn lằn còn thấy nhiều ở người Ao Naga. Trong nghệ thuật khắc gỗ của họ còn thấy chiếc rìu đầu chim mỏ cắt.

Posted Image

Đồ khắc gỗ của người Ao Naga có chiếc rìu đầu chim mỏ cắt (Mills, The Ao Naga).

Sắc dân này có tộc Ozukumtzur (bird-became- woman) tự nhận là con cháu của chim Mỏ Cắt có hèm (taboo) là không ăn thịt chim mỏ cắt (William Carson Smith, p.111).

Người Katu

Người Katu có căn nhà thiêng liêng trên nóc có con chim đực.

Posted Image

Nhà của người Katu trên nóc có con chim đực (theo Maurice).

Chú ý hình chim này đầu có nọc nhọn hay sừng nhọn biểu tượng cho dương, lửa. Đuôi chim cũng vểnh lên thành hình nọc. Đầu nọc (I), đuôi nọc (I) nghĩa là chim thái dương (II). Lưng chim là đường sống nóc nhà có hình chuỗi chữ viết nòng nọc mũi mác, răng cưa, răng sói (>) biểu tượng cho đực, nọc, dương, thái dương, mặt trời, theo thái dương (Càn) là sóng lửa vũ trụ, ánh sáng, theo thiếu dương (Li) là rặng núi tháp, lửa thế gian. Con chim mang hình ảnh con chim cắt.

Người Co

Người Co ở Trà Bồng, Trà Mi (miền Trung Việt Nam) có con chim biểu có mỏ rất lớn mang hình bóng chim rìu, chim cắt.

Người Ngaju, Dayak Nam Borneo.

Giáo sư Kim Định cho họ là Bộc Việt. Hai vật tổ tối cao tối thượng cuả người Ngaju thuộc tộc Dayak, ở miền Nam Borneo là Rắn Nước (Watersnake) và Mỏ Cắt (Hornbill). Chim Cắt gọi là Tingang, trong ngôn ngữ của thầy tế pháp sư gọi là bungai. Vật tổ này thường thấy vẽ, khắc trên hình thuyền Chim Cắt, Thuyền Rắn Nước, những con thuyền mà các thần tổ dùng đi từ thượng giới xuống trần gian.

Người Hắc Đảo ở Đại Dương châu.

Các Thổ dân Hắc Đảo cũng coi chim cắt là biểu tượng cho đực, dương, lửa, mặt trời. Mỏ bồ cắt là biểu tượng cho cơ quan sinh dục nam như thấy qua hình chim mỏ cắt để trong một miếu âm hồn ở Maprik, Papua, New Guinea.

Posted Image

Chim mỏ cắt để trong một miếu âm hồn ở Maprik, Papua, New Guinea (Richard Cavendish, p. 282).

Mỏ chim biểu tượng dương vật trong khi mặt trăng ở thân người chim biểu tượng âm hộ. Hình diễn tả nõ nường, nòng nọc, âm dương sinh tạo, giao hợp âm dương. Ở đây ta cũng thấy rõ chim cắt có một khuôn mặt là mặt trời giao hòa với mặt trăng ở thân người chim.

Tóm lại vật tổ chim Mặt Trời thuần dương của họ Nọc Việt Mặt trời thái dương là con chim Cắt, chim Rìu, chim Việt, chim Hồng hoàng. Chim Cắt là chim Nọc (Đực), Chim Việt biểu tượng của họ Nọc Mặt trời Viêm Đế, Viêm Việt.

Những nét đặc thù của chim cắt, chim rìu, chim Việt.

Sau đây là vài đặc tính của chim cắt:

1. Mỏ lớn và dài (prominent bill). Mỏ là yếu tố chủ yếu, nổi bật, đập vào mắt.

2. Có giống cắt có sừng ngà hay “mũ bảo vệ đầu” (bony casque or helmet) nhô ra sau trông như bờm. Chim cắt ngoại trừ hai giống sống dưới đất còn tất cả làm tổ trên chóp ngọn cây cao. Sống trong những rừng cây Đông Nam Á, Ấn Độ, Phi châu, Nam Arabia. Dĩ nhiên Việt Nam cũng có chim này. Trên bìa báo Khoa Học của khoa học gia Nguyễn Công Tiễu số 65 ngày 1er Mars 1934 cũng có vẽ hình con chim “có phong tục lạ” (khi con cái ấp trứng, con đực lấy bùn đắp kín tổ lại, nhốt con cái bên trong, chỉ chừa một lỗ nhỏ để đưa mồi vào nuôi con cái ấp trứng) tên Tây là dichocère và “ta gọi là chim hồng hoàng”. Tại tòa báo Khoa Học ở Ngọc Hà có nuôi một con để độc giả đến xem. Mỏ Cắt Lớn có mỏ lớn dài gần hai tấc rưỡi (25cm) rất đặc biệt. Mũ (casque) con trống có rãnh sâu. Mũ con cái bằng phẳng. Con chim “hồng hoàng” trưng bầy ở tòa báo Khoa Học chính là con Bồ Cắt Lớn, qua lời tả “chim nuôi ở tòa báo dang hai cánh đo được 1 thước 74, từ mỏ đến hết lông đuôi dài 1 thước 25... Mỏ màu vàng trên be ra nom như múi khế...”.

3. Nhưng điểm đặc thù nhất của chim mỏ cắt là cách ăn.

Posted Image

Vì mỏ quá to nên khi ăn phải gắp, nhặt lấy quả hay hạt rồi tung cao lên trời và há to mỏ hứng cho hạt rơi vào phần sau của mỏ gần cổ họng thì mới nuốt được thức ăn. Đây là một nét đặc thù thấy trong các biểu tượng chim cắt thái cổ. Con chim mỏ to như mỏ rìu có mũ sừng, ngậm hạt trong mỏ trăm phần trăm là chim cắt.

Một vài hình bóng chim mỏ cắt với nét đặc thù là ngậm hạt, quả thức ăn trong mỏ còn thấy trong văn hóa Ngaju, Dayak, Borneo. Họ có quan tài dành cho phái nữ thường đầu có hình chim Bổ Cắt để có dạng âm dương hôn phối và quan tài dành cho phái nam có hình Rắn Nước để có dạng dương âm hôn phối, mong hồn người chết được tái sinh hay về miền hằng cửu. Chim bổ cắt đầu quan tài có nét đặc thù chuyên biệt là mỏ đang ngậm một quả hay một hạt thức ăn.

Posted Image

Họ cũng có thuyền vong hình Rắn Nước cho phái nam và thuyền vong hình Chim Cắt cho phái nữ. Chim bổ cắt đầu thuyền có nét đặc thù chuyên biệt là mỏ đang mổ một quả hay hạt thức ăn.

Posted Image

Con Chim Cắt Việt Đậu Ở Văn Miếu, Hà Nội

Tôi đã tìm thấy con chim tổ bổ cắt ngậm quả hay hạt thức ăn này ở Văn Miếu, Hà Nội. Con chim mỏ to như mỏ rìu, có mũ sừng, ngậm hạt trong mỏ này trăm phần trăm là chim cắt, chim rìu, CHIM VIỆT.

Posted Image

Con chim Việt ngậm quả, hột thức ăn trong mỏ tại Văn Miếu, Hà Nội.

Con chim cắt Việt này đã linh vật hóa, thần thoại hóa thành linh điểu Việt nên ngày nay không ai nhận ra. Hiển nhiên như đã thấy với điểm đặc thù ngậm quả, hạt trong mỏ đây không phải là con chim phượng của Trung Hoa. Chim phượng biểu tượng cho Lửa, là con chim Lửa có cốt là con chim trĩ, có đuôi rất dài như những dải lụa vì thế còn có tên là chim giải cùi. Con chim ở đây đuôi ngắn. Đây là con chim Việt cũng là chim biểu cho Lửa nhưng có cốt là con chim rìu, chim cắt. Hai con mang ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Chim phượng có cốt là chim trĩ, thuộc họ nhà gà, sống nhiều trên mặt đất nên biểu tượng cho Lửa đất, lửa cõi thế gian có một khuôn mặt chính ứng với Li, trong khi chim Việt, chim rìu, chim cắt có loài sống trên cao, làm tổ trên ngọn cây cao như thấy qua bài đồng dao:

Bổ cu, bổ cắt,

Tha rác lên cây,

Gió đánh lung lay,

Là ông Cao Tổ...

Bài hát này ở thể chơi chữ. Cao tổ là tổ rất cao mà cũng có nghĩa là ông tổ tối cao hay vua Cao Tổ nhà Hán... Chim Cắt sống, làm tổ trên ngọn cây cao biểu tượng cho Lửa trời, lửa vũ trụ ứng với Càn. Lửa vũ trụ sinh ra lửa thế gian. Chim Cắt Việt cõi Tạo Hóa là chim tổ tối cao của Đại tộc Việt. Chim Cắt Việt, chim (mũ) Sừng, chim Khướng, Hornbill là chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế có họ Khương (Sừng), là chim biểu của Viêm Việt. Chim Cắt Việt tạo hóa là ông tổ của chim phượng thế gian của Trung Hoa. Văn hóa chim phượng của Trung Hoa là văn hóa thế gian, là di duệ, con cháu của văn hóa chim Cắt Việt vũ trụ. Sau này có lẽ bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa các nhà nho cũng hay nói tới con trĩ Việt tức trĩ lửa thế gian. Cắt Việt vũ trụ là chim tổ của trĩ Việt thế gian, là chim tổ của trĩ phượng Trung Hoa.

Chim Việt biểu tượng cho Nọc, đực, dương, lửa, mặt trời nọc rạng ngời, bộ phận sinh dục nam, đối ứng với chim Nông, chim Nước, chim Nòng, hai chim biểu Nọc Nòng tối cao của Đại Tộc Việt. Chim nông, chim cắt là chim nòng nọc, âm dương, chim biểu của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, của Dịch nòng nọc. Vì thế con chim Việt đứng ở Văn Miếu phải mang nghĩa vũ trụ tạo sinh ngành nọc, lửa dương. Thật vậy, trên đầu có hình nọc hơi cong như lưỡi lửa cho biết con chim này là con chim nọc Lửa vũ trụ, chim Việt vũ trụ. Phần mũ trên đầu phía trước gồm có ba nọc nhọn tức ba hào dương, quẻ Càn (III), lửa vũ trụ. Phần mũ sau gáy biến thành mào hình móc cong biểu tượng cho khí, gió lửa (khí gió ngành lửa, dương) Đoài. Phần bờm sau cổ hình sóng lưỡi lửa biểu tượng cho nước lửa (nước ngành lửa, dương) ứng với Chấn và chuỗi hình mũi mác răng cưa, cứ ở giữa hai sóng nước lửa lại có hai nọc mũi mác ghép lại thành hình chữ M. Phân tách M ra ta có /\ V /\, tức hai chữ viết nòng nọc mũi mác chỉ thiên /\ hình núi tháp nhọn là hai hào dương (I...I) kẹp ở giữa một chữ viết nòng nọc V, là một hào âm (O) tức /\V/\ = IOI, quẻ Li, lửa thế gian, núi dương, lửa, đất lửa ngành nọc dương. Mặt khác, nếu ta chồng hai nọc mũi mác này lên nhau, ta có hình tháp vách kép /\ biểu tượng cho núi tháp nhọn giống như hình núi tháp vách kép cũng biểu tượng cho lửa thế gian, đất dương Li thấy ở hoa văn Tứ Tượng trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I mà hiện nay các nhà khảo cổ học Việt Nam gọi nhầm là “họa tiết lông công” (xem The Da Vinci Code và Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Như thế đầu chim biểu tượng cho Nọc, dương, cho ngành nọc, Việt và Tứ Tượng ngành nọc, lửa, dương... Con chim cắt Việt cho thấy cốt lõi văn hóa Việt là Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo và Dịch nòng nọc.

Hạnh phúc thay! Tôi đã tìm thấy con chim Việt, chim biểu của Đại Tộc Việt ở Văn Miếu, Hà Nội, nơi biểu trưng cho trí tuệ Việt, đầu óc Việt, tinh hoa Việt, tinh anh Việt. Tôi đã tìm thấy hình bóng tổ Việt, tìm thấy một mấu chốt của căn cước Việt của mình trong đời sống tâm linh hàng ngày hiện nay. Mong các nhà làm văn hóa Việt nhận ra điểm này và giúp cho con chim Việt vỗ cánh bay bổng trở lại trên bầu trời non nước Việt Nam. Giới khoa bảng ưu việt đã bảo tồn, lưu truyền lại hình bóng chim tổ Việt tại Văn Miếu. Để tránh lầm lẫn với văn hóa Trung Hoa, xin hãy thay thế con chim phượng Trung Hoa bằng con chim Việt có cốt là con chim cắt, chim rìu đang ngậm quả, hạt này.

Tài Liệu Tham Khảo

.Đặng Chấn Liêu, Từ điển Việt Anh, nxb KHXH, 1993.

.Hans Scharer, bản dịch Anh ngữ của Rodney Needham, Ngaju Religion.

.Hoàng Anh Nhân, Tuyển tập truyện thơ Mường, t.2.

.Nguyễn Văn Huyền, Hoàng Vinh, Những Trống Đồng Đông Sơn Đã Phát Hiện ở Việt Nam, Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam xuất bản 1975.

.Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên; Hùng Việt Sử Ca, Thằng Mõ xuất bản 1984.

.Mills, The Ao Naga.

.Nguyễn Công Tiễu, báo Khoa Học, số 65 ngày 1er Mars 1934 tr.26.

.Nguyễn Xuân Quang:

-Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt (Y Học Thường Thức, 1999).

-Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt (Y Học Thường Thức, 2002).

-Tiếng Việt Huyền Diệu (Hừng Việt, 2004).

-The Da Vinci Code và Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á, khoahoc.net 18 tháng 11 năm 2007.

-Ý Nghĩa Ngày Lễ Hai Bà Trưng Mồng 6 Tháng 2 Âm Lịch, khoahoc. net 15 tháng 03 năm 2007.

-Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc (Y Học Thường Thức, 2006).

-Việt Là Gì? Y Học Thường Thức số 33 bộ IV, tháng 5-6, 1999.

-Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á (đang in).

.Lê Ngô Các, Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử diễn ca.

.Richard Cavendish, An Illustrated Encyclopedia of Mythology.

.Trương Sỹ Hùng Bùi Thiện, Vốn Cổ Văn Hóa Việt Nam, nxb Văn Hóa Thông Tin Hà Nội 1995, tập I, II.

.Wang Hongyuan, The Origins of Chinese Characters, Sinolingua Beijing, 2004.

.William Carson Smith, The Ao Naga Tribes of Assam.

. R.J. Wilkinson, Malay-English Dictionary.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một thông tin về Quốc điểu của Nhật Bản - quốc gia đang được nhiều nhà nghiên cứu đặt vấn đề là "hậu duệ" của người Việt cổ

Quốc điểu của Nhật là gì? (http://www.nhatban.net)

Posted ImagePháp luật không quy định rõ quốc điểu. Ở Nhật người ta coi chim trĩ là quốc điểu bởi chim trĩ xanh lục chỉ có ở Nhật, bên cạnh đó chim trĩ lại có mặt trong rất nhiều chuyện dân gian. Có thể nói chim trĩ là một phần của phong thổ nước Nhật.

Hình ảnh chim trĩ trong đồng tiền của nước Nhật rất phổ biến:

Posted Image">

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted Image

Posted Image

NCM cám ơn bác Phoenix về những bài sưu tầm này.

NCM không có kiến thức gì để dám nhận xét đúng sai, nhưng NCM thấy hình chim cắt thật thì cổ ngắn nhưng chim Việt trên Văn Miếu thì cổ quá dài. Chỉ tiếc không thấy cái đuôi của chim Việt trên Văn Miếu như thế nào.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhatchimai:

Hình ảnh đủ của con chim trong Văn Miếu Quốc Tử Giám chính là cặp hạc thờ trong các đình đền ở khắp đết Việt và những vùng ảnh hưởng văn hiến Việt ở khắp Đông Nam Á như Nhất Bản, Hàn Quốc, Trung Hoa ..vv...Nhưng chú khẳng định lại một lần nữa: Chim đó là chim Hạc - một cách phát âm khác của Chim Lạc. Còn chim Việt chính là chim Bạch Trĩ. Loài chim cao quí, thanh khiết nhất trong các loài chim.

Bởi vậy, Bách Việt còn gọi là Lạc Việt.

Chim Lạc - Hạc tượng trưng cho trí tuệ Lạc Việt - hình tròn mà chim Lạc ngậm không phải là hạt mà loài chim này ăn - (Sự suy luận đơn giản) mà chính là Thái Cực biểu tượng của Vũ trụ và con Rùa mà loài chim này đứng trên chính là phương tiện đầu tiuên ghi lại những ký tự thể hiện tri thức Lạc Việt.

Chim Việt - Trĩ - Tượng trưng cho sự cao quý của giống nòi Bách Việt - Hình tượng Loan Phụng trong Tứ Linh Phương Đông chính là sự cách điệu của loài chim Việt cao quý này (Phải chăng địa danh Việt Trì - Phú Thọ chính là một cách gọi trại của Việt Trĩ Phúc Thọ?)

Thiên Sứ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phải chăng địa danh Việt Trì - Phú Thọ chính là một cách gọi trại của Việt Trĩ Phúc Thọ ?

Kinh ngạc !!! Cám ơn Topic này ! Cám ơn anh Thiên Sứ ! Cám ơn tất cả !!!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trích: Hưng Việt - Bài viết của tác giả KIM ĐỊNH (nguồn: catholic.org.tw)

"6. Ðiểu tục còn được thực hiện bằng các bà đều mang tên chim. Bà Âu Cơ là chim hải âu. "Vụ" tiên trên ngũ Lĩnh thì "vụ" là cò bể. "Lộ" bàn, lộ bộc thì lộ là cò trắng. Còn các bà khác không mang tên chim thì trong đồ mặc lại có lông chim. Như Mỵ Châu rải lông chim cho Trọng Thủy biết đường là rút lông trong đồ mặc. Rõ nhất là khi tế tự hay ca múa (ca múa để tế tự) thì đều có mang lông chim như ta thấy đầy trên trống đồng. Ðồ mặc đó chữ Nho kêu là "vũ nghi". Tự điển Hán Việt Ðào Duy Anh còn ghi nghĩa là: "lông chim hồng dùng làm đồ nghi sức". Tôi ghi tên sách vì cho đó là một sự may chứ còn hầu hết các sách khác đã đánh mất ý nghĩa nguyên thủy nên không hiểu được ý câu "nghi thường vũ y khúc" chỉ là khúc ca vũ có mang lông chim hồng. Với Hồng Bàng còn trơ trơ ra đó vậy mà để mất ý nghĩa người ta chiếm mất.

7. Tức sau chữ "nghi" cũng là "nghê" thành ra "nghê thường vũ y khúc" chữ "nghê" có nghĩa là màu ráng đỏ hay đỏ màu ráng, màu của mặt trời lúc mới mọc. Và bản "nghê thường vũ y khúc" là bài hát chào mặt trời lúc mới mọc mà Khuất Nguyên gọi là "Ðông Quân" là vì đó. Tục ngữ Việt Nho có câu: "Phượng Minh Triều Dương" "Con Phượng hót (minh) chào mặt trời buổi mai". Sách Quảng Ðông Tân Ngữ ghi là "tùy dương Việt trĩ" = con trĩ của Việt tộc khi bay thì theo hướng mặt trời. Như có ghi lại trong "Vân Ðài Loại Ngữ" bản dịch Phạm Vũ và Lê Hiền nhà xuất bản Miền Nam trang 519. Nên ghi nhận con phượng chính là chim Việt trĩ này đây. (xem ghi chú cuối sách Triết Lý Cái Ðình). Văn tự ghi chép lại rành rẽ vậy thế mà sau có truyện Ðường Minh Hoàng nằm mơ lên chơi Cung Quảng Hàm, được xem tiên múa bài "Nghê thường Vũ y khúc" tức coi khúc hát đó là của tiên. Thế là Việt trơ ra cứ tưởng bài đó là ở cõi tiên hay có dưới trần gian thì cũng mãi ở bên Ấn Ðộ chứ không ai dám nghĩ - dù chỉ có ý nghĩ - đến rằng đó là tên bài vũ của tổ tiên ta hay còn tạc ghi trong trống đồng. Thôi tạm chấm dứt ở đây về chữ Tiên của Mẹ."

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trích: Nguồn: Khoahoc.net

CỘNG ĐỒNG BÁCH VIỆT

HIỆN THỰC LỊCH SỬ CỦA TRUYỀN THUYẾT

“TRĂM TRỨNG NỞ TRĂM CON”

Phạm Trần Anh

".....Thật vậy, đã là Tiên thì Mẹ Âu Cơ có thể làm bất cứ điều gì mà người phàm không làm được … đó là đẻ ra “trứng” thuộc phạm trù tín ngưỡng nguyên thủy cũng như phạm trù tôn giáo đòi hỏi phải có niềm tin một cách mặc khải ..v. v… Gạt sang một bên vấn đề tự tình dân tộc để tìm hiểu xem tại sao Mẹ Âu lại đẻ ra “trứng”, chúng ta thấy rõ hàm ý sâu xa của tổ tiên ta. Thật vậy, ý niệm trứng trong huyền thoại biểu trưng Totem vật linh biểu trưng của Việt tộc là tộc người thờ chim (bái điểu tộc) là một con vật đứng đầu trong tứ linh: nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng. Nguồn thư tịch cổ cũng cho ta biết “Lạc bộ Chuy” là chi tộc Việt đầu tiên từ vùng Cao Nguyên Côn Sơn Hi Malaya tiến xuống Trung Nguyên qua vùng núi Dân, Ba Thục. Lạc bộ Chuy là chi Việt cổ của họ Hồng Bàng có vật biểu là chim Việt (Việt điểu, Lạc điểu), ông cha ta đã theo dấu chim Hồng, chim Lạc thiên cư xuống vùng đất miền núi Dân, Ba Thục cũng được gọi là Châu Phong. Địa danh Phong Châu ở Bắc Việt Nam cũng chỉ là nhắc lại địa danh cư trú ban đầu của Việt tộc nơi mà mẹ Âu dẫn 50 con lên núi rồi suy cử người con trưởng làm vua nước Văn Lang… như truyền thuyết kể lại. “ Âu Cơ và 50 con lên đất Phong Châu, suy phục lẫn nhau cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là VĂN LANG, Đông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc tới Động Đình Hồ, Nam tới Hồ Tôn (Chiêm Thành)”.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguồn: dactrung.net

TIẾNG HÓT LOÀI CHIM DI

Từ thời thượng cổ, người Việt thờ chim Thần - Thần điểu. Trong loại chim Thần đó có chim Trĩ Trắng là sứ giả văn hóa Việt. Việt Thường Thị đem cống (trao đổi văn hóa) chim Trĩ Trắng và Rùa Thần. Trên mai rùa có chữ Khoa đẩu của Việt tộc in rõ dấu tích, thần thoại về sự hình thành vũ trụ vạn vật của Thần đạo chính thống Việt Nam. Ngoài ra Việt tộc thờ chim lạc - Thần điểu Việt. Sau này Ðinh Tiên Hoàng lên ngôi lấy Quốc hiệu là Ðại Cồ Việt. Cồ là đôi mắt lửa sáng rực của loài linh điểu. Truyền thuyết linh thiêng đó là tâm linh muôn đời của người Việt tự ngàn xưa. Không phải vô tình mà người Việt ngày nay hay nhắc tới loài Việt điểu. Thời Bách Việt, nước ta giòng Việt tộc đã cư trú gần phân nửa nước Tàu ngày nay. Sau thời chiến quốc, giòng Bách Việt bị Hán đồng hóa, còn lại giòng Lạc Việt anh hùng nhất loài Chim Việt kiêu hùng đó trải qua muôn vàn gian khổ, máu xương giữ nước cho mãi đến ngày nay. Sự tích Chim Việt đậu cành Nam cũng ghi dấu ấn đau buồn của những người phải xa quê hương cội nguồn, tổ quốc. Con Chim Việt khi bị đưa đi về đất Bắc đã chọn cành hướng Nam mà đậu mà hót... Từ trong tiềm thức, thần thức Việt đã có bóng dáng chim linh vì thế mà kẻ tha hương bốn bể không phải vì vô tình mà than mà thốt lên lời ai oán. Tinh thần đó, tâm linh đó lại bắt đầu vọng lên âm hưởng của loài chim Việt cành Nam xưa. Khắc khoải sầu đưa giọng lẳng lơ. Ấy hồn Thục đế thác bao giờ. Năm canh máu chảy đêm hè vắng. Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ (Nguyễn Khuyến).

Ðến nay thì giòng lịch sử đen tối của loại ma quỷ ý thức hệ vong thân khiến người Việt lại một lần lưu vong, hằng hà sa số, hằng triệu người Việt lại bỏ quê hương trên những nẻo đường Thủy Mộ Quan (Viên Linh) để đi tìm tự do, lẽ sống nhân đạo hơn, ở đất nước người - Tiếng Hót loài Chim Di - chim Việt của Song Nhị lại một lần lên tiếng u hờn khắc khoải làm động lòng người, chấn động tâm can, tâm linh và nghĩa khí hào kiệt của dân tộc Việt ở bốn phương trời, gợi cho lòng kẻ sĩ phương Nam dấy lên những hoài vọng, hoài bão lớn lao, một ý thức về trách nhiệm của người trí thức về lịch sử của thời đại mình phải làm gì để giành lại quê hương, giữ lại tinh thần và đạo lý Việt, để thể hiện cái tự-do tuyệt đối của đời mình. Và, nói như Khổng Tử “uy vũ bất năng khuất” - nói như Nguyễn đức Quỳnh “tư tưởng bất năng hoặc” trước loại “Cùm Ðỏ” của bạo lực phi nhân tham tàn này.

Tiếng Hót của loài Chim Di đã lên tiếng nhiều lắm, rất hàm xúc nhiều điều mà ở tại quê hương này khó lòng người dân nói được.

Viết đến đây tôi bồi hồi nhớ đến bao người bạn đã ra đi rời xa tổ quốc. Tôi nhớ đến bao lần nghe những con Chim Việt lên tiếng hót thần kỳ ở khắp mọi nẻo đường tha hương biệt xứ. Và ao ước tất cả những người xa xứ trở về trong bản Anh hùng ca độc lập tự do muôn thuở tại quê hương mình.

Những con Thần điểu Việt nay ở phương trời nào?

Trên núi cao có con Thần điểu

Ba năm thu cánh không tiếng kêu

Ngày hận mây mờ che bóng lửa

Ðêm hờn thơ lặn rải sườn rêu

A ha! Thần điểu còn nương náu

Chờ ngày thét nở núi khe sâu....

Con Thần điểu bay về đâu từ ngày núi non thay trời đổi chủ, trở thành hình bóng chim Việt cành Nam ở tận phương trời hải ngoại nào. Tôi có cảm tưởng đầu tiên như vậy khi đọc “Tiếng hót loài chim di” của Song Nhị, có lẽ tập thơ này là tập thơ “gay cấn” nhất của Song Nhị đây - nói như giọng của thi sĩ họ Bùi. Ðối với họ Bùi, chuyện gì ghê gớm lắm đều dùng chữ “gay cấn” này mà diễn tả ra cho nó có vẻ... chịu chơi một chút. Sự điêu linh nào đã tạo cho Song Nhị viết tập thơ gay cấn này đến thế. Ðiêu linh đó thuộc về bi kịch đồi tranh “Hãi hùng bi kịch đồi tranh!” (B.G) của dân tộc Việt. Ai cũng biết là cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa Quốc Gia Tự Do và Ðộc tài đảng trị Cộng Sản. Và điêu linh nhất phe Tự Do thất bại để đất nước rơi vào tay giặc Cộng khiến ta nhớ đến từ Nguyễn thái Học, Nguyễn tường Tam - Ông, trước khi tự vẫn, còn kịp ghi: “Anh em Ngô đình Diệm phải chịu trách nhiệm để nước mất vào tay Cộng Sản” - cho mãi đến ngày nay một bức màn vô hình phủ khắp non sông bằng sự dối trá tham tàn, tội ác và tham nhũng, tất cả đều được tẩy não bằng nhục hình bạo lực cho đến tận vô thức, tiềm thức tim óc của dân tộc. Mà tiếc thay một số người Việt hải ngoại quá vô tình, vô ý không nhìn thấy rõ được. Ðình miếu thần linh đất Việt, chùa chiền, nhà thờ đều sống trong vòng vây ý thức hệ Xã Hội Chủ Nghĩa - đường lối tư tưởng văn hóa, nghệ thuật đều thoát thai từ trường trại Xã Hội Chủ Nghĩa. Và tất cả đều là một lũ văn nô cả đến Hoàng Cầm ngày nay cũng không hơn gì Phạm Duy, hay Trịnh Công Sơn trong chiến lược văn hóa Ðảng cả.

Ngày đêm bọn giáo sư Hoàng như Mai, Trần Bạch Ðằng, Trần trọng Ðăng Ðàn và lũ văn nô Bắc Việt ra sức đánh phá văn nghệ miền Nam tự do một cách điên cuồng u mê ám chướng... đến khôi hài! Tất cả chỉ vun hồi cho cái gốc đại thụ tham nhũng ngu dân để bảo vệ cái tổ quốc non sông mà bọn Mông Cổ này mới cướp được để phụng thờ Mác-Lê.

Nước mất nhà tan! Xưa nay cũng thế thôi! May ra thân phận và đời người còn được ra khỏi cái màn ma quỷ của Xã Hội Chủ Nghĩa - để sống lưu vong trong sự tự do quí báu nhất của cá nhân mình, dù thế nào đi nữa còn hơn vạn lần anh em mình ở lại, để hằng ngày chạm mặt với kẻ thù luôn khủng bố quanh mình loài chim Việt đó cũng có ngày quay lại. Chờ ngày thét vỡ núi khe sâu. Và anh em ta không có quyền nỉ non than vãn nữa. Tôi còn nhớ mấy vần thơ của ông Lam Giang Nguyễn trang Trứ dịch:

Ðại Vương cờ phất ải xa

Ngậm ngùi thấy bạn đã là quỷ oan

Bừng sôi máu hận muốn tràn

Vần thơ mọn có muôn ngàn kiếm đao!

Hồ Hữu Tường hay Vũ Khắc Nam hay nhiều vị văn hóa lão thành từng nói. Thời đại chúng ta là thời Tân Xuân Thu - thời Chiến Quốc Mới - những con chiến mã vẫn còn đất tung hoành. Sức kiệt hơi tàn thì chiến đấu bằng văn, có tiền của thì chiến đấu bằng kinh tế tự do, bằng tất cả mọi thứ gì ta có được, thời thế Xuân Thu mà - Gặp thời thế thế thời phải thế! Trong trần ai ai dễ kém ai!

Ðừng quên Chim Việt đậu cành Nam, bao giờ chân lý và nhân nghĩa cũng thắng bạo ngược tham tàn, tinh thần dân tộc Ðại Việt còn đó. Bản anh hùng ca bất tử vẫn còn đúng,

thì người tự do Quốc gia làm văn hóa đã thắng Cộng từ lâu rồi. Bọn Cộng Sản làm gì có văn hóa mà nói đến chen vai thích cánh với chúng ta được phải không anh em!

Bây giờ thì mời quí bạn yêu thơ, cùng tôi đọc những vần thơ, đúng nghĩa chân tình của nhà thơ Song Nhị gởi đến bằng hữu bốn phương và “Quê hương yêu dấu” của chúng ta - chúng ta không khóc lên vì quê hương nữa, như cô gái trong thơ Hoàng Trúc Ly độ nào:

Những người xưa đi rồi không trở lại

Một mình tôi lại gặp một mình em

Chiều lửng lơ nghe nắng rụng bên thềm

Em không khóc - mắt buồn ươn ướt đỏ!

Hoàng Trúc Ly

Ta hãy bắt đầu từ “Tiếng Hót loài Chim Di” để rồi chuyển âm nó thành những âm điệu cuồng phong thác lũ của mối Hờn Chiến Mã trên bãi sa trường vẫn còn đầy đủ khí độ anh hùng của những Chàng Trai Ðất Việt (Nguyễn Vỹ). “Tiếng Hót của loài Chim Di” còn là tiếng hót của thơ, của kỷ niệm êm đềm, của cuộc tình nồng ấm của men tình đầy hoa trái ngọt có thủy có chung!

Thời thế này mà con người còn giữ được những thủy chung và kỷ niệm thì thật là hạnh phúc, đó là nhà thơ Song Nhị đấy bạn ạ! Chàng là một Gérar de Nerual của chúng ta đấy.

(Trích bài Tiếng Hót Loài Chim Di trang 13, 14, 15, 16)

T I Ế N G H Á T

L O À I C H I M D I

1.

Hỡi bầy chim trên khóm rừng già

hỡi đàn ngựa hoang trên cánh đồng khô

hãy thức dậy từ giờ

nghe tiếng hát và nghe lời giục giã

Hãy tiếp tục bước đi

đi suốt một ngày

một tháng

một năm

một đời

Một đời

sống

chết

không nguôi

Hãy mang đi những điều dang dở

hãy bước đi trên vô tận con đường

sẽ có gì trọn vẹn?

một niềm vui

mấy nỗi buồn!

2.

Hỡi trái tim

đời đời là máu đỏ

đời đời là yêu thương

sao cả trăm năm

trên quê cha khốn khổ

trên đất mẹ nhục nhằn

khổ đau và bội bạc

3.

Hỡi thân yêu

trăm nghìn lần yêu dấu

cuộc biển dâu làm vỡ vụn tinh cầu

thời gian qua chưa đủ mờ dĩ vãng

nên lòng còn trên chóp đỉnh thương đau

nên lòng còn trăm nghìn lời muốn nói

nên tình còn trăm nghìn điều mến thương

trong nỗi ngây ngất không cùng

hãy ném hồn lên đỉnh ngọn sầu đông

uống cạn sương mai giữa bầu trời lạnh giá

4.

Nếu im lặng như một chấp nhận

nếu bước đi như một an bài

nói làm gì

để một đời không nguôi thao thức

thêm nhọc nhằn cho toan tính ngày mai

5.

Hãy uống đi

uống cạn khối tình sầu nhung nhớ

hãy nghĩ về cuộc trùng phùng

là giả thuyết

ước mơ

hãy tạm quên ngày đau thương khổ nạn

để được yêu nhau hơn cả bao giờ

6.

Trời sẽ nắng cây rừng hoang sẽ dậy

Bầy chim di sẽ vỗ cánh bay về

Ngày sẽ tới và mặt trời sẽ mọc

Hỡi loài người vội vã tỉnh cơn mệ

song nhị

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ta là ai?

Nguồn: http://dongtac.net Posted Image Thứ tư 7, Tháng Ba 2007

Mức độ viếng thăm : 1% Ảnh bên: Tượng chim (Việt?) bằng đồng, khoảng 5600 TCN (Bảo tàng Di chỉ Sanxingdui ở Trung quốc)

Tiên tổ người Việt Nam lần đầu tiên trả lời câu hỏi “Ta là ai?” trong bài thơ thần bất hủ:

Nam quốc sơn hà nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Sách trời (thiên thư) ở đây nhiều khả năng là Thượng thư, tương truyền do Khổng Tử san định. Phần Đại truyện, Thượng thư chép: “Năm Tân Mão đời Chu Thành Vương (1063 – 1026 TCN) có Việt Thường Quốc phía nam Giao Chỉ đến kinh đô nhà Chu giao hảo, tặng chim bạch Trĩ”. Nam Man truyện trong Hậu Hán thư cũng viết đại ý như vậy: “Giao Chỉ chi nam hữu Việt Thường Quốc. Chu công cư nhiếp lục niên, chế lễ tác nhạc, thiên hạ thái bình. Việt thường thị dĩ tam tượng trọng dịch nhi hiến bạch trĩ”.

Trĩ là một loài gà rừng có lông đẹp. Khai phím điện não đầu xuân Ất Dậu, tôi muốn đưa ra cách hiểu mông muội của mình về “Việt Thường Quốc” - 越裳国.

Sử cũ của người Việt rất bất nhất: An Nam chí lược của Lê Tắc (1335) xem Việt Thường thuộc Cửu Chân, tức Thanh Hóa ngày nay. Đại Việt sử lược (1388) xếp Việt Thường trong 15 bộ lạc xưa của Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư (1697) coi chữ Việt trong Việt Thường là cội rễ của tên gọi Đại Việt sau này, Giao Chỉ cũng như Việt Thường đều thuộc Bách Việt, Châu Dương. Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ (1775) cho rằng Việt Thường là 1 trong 15 bộ của Văn Lang và diễn giải nước Việt khi đến giao hảo với nhà Chu tự xưng là Việt Thường. Khâm định Việt sử (TK 19) định vị Việt Thường thuộc Thuận Hóa, miền trung Việt Nam, cũng là 1 trong 15 bộ của nước Văn Lang.

Như đã tiền luận ở các bài viết trước tại talawas, Giao Chỉ đầu thời Chu là vùng Đan Dương (hiện thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Người Lạc Việt gọi tổ quốc, gọi mảnh đất mình sống là Đất Nước, hoặc Nước. Người Trung Nguyên dùng Hán tự ký âm Đất Nước thành Âu Lạc hay dịch nghĩa Nước là Quốc. Vậy Việt Quốc có thể hiểu là Nước Việt, là Lạc Việt.

Vậy thì Việt Thường Quốc có liên quan đến Lạc Việt hay không sẽ nằm trong ngữ nghĩa của từ “Thường”.

Ai cũng biết "thường" thuộc bộ y mang nghĩa sơ khai là cái "quần". Cho nên tôi đoan nghi chữ "thường" mà cổ văn Trung Hoa gán thêm cho người Việt chính là tấm "khố" đặc trưng của văn minh Lạc Việt, của người Văn Lang và hiện nay nó vẫn minh diện trên trống đồng.

Trong chiều hướng này, "Việt Thường Quốc" là Nước Việt (Lạc Việt), nơi có những con người mặc khố và ở trần. Tục đóng khố ở trần của người Lạc Việt xưa cũng được nhắc đến trong Sử ký, quyển 113 Nam Việt Uý Đà Liệt truyện: “Kỳ Tây Âu Lạc lõa quốc diệc xưng vương”.

Ngoài ra với nguyên tắc "đồng âm thông giả", "thường" có thể là bình thường, nhỏ, bé... (như trong từ thường dân). Do đó "Việt Thường Quốc" cũng có thể là Nước Việt nhỏ, nước bình thường, kẻ ở chiếu dưới so với nhà Chu. Xin hiểu đây là kiểu mà sử sách Trung Hoa hay dùng để chỉ các nước phi Hán một cách tự cao tự đại. Hiển nhiên trong trường hợp này "thường quốc" khác hẳn "thuộc quốc", nó chứng tỏ sự độc lập không thể khác được từ buổi bình minh lịch sử của Lạc Việt.

Tròn một vòng Ất Dậu, từ đận non nước Việt Nam cởi bỏ xích xiềng nô lệ, ngành sử học ở đây vẫn chưa trả lời thỏa đáng câu hỏi: “Người Việt, nước Việt, chúng ta là ai?”. Ngày xuân khai bút, xin được nêu ra một cách diễn giải Việt Thường Quốc chính là Lạc Việt, đầu thời Chu trung tâm của nó nằm tại Động Đình Hồ.

Trương Thái Du

Thung Lũng Đa Thiện, Đà Lạt

Mùng 3 tết Ất Dậu

Share this post


Link to post
Share on other sites