phoenix

CHỢ ÂM DƯƠNG

6 bài viết trong chủ đề này

CHỢ ÂM DƯƠNG

Nguồn: http://vannghesongcuulong.org

Chợ nằm ở địa phận Làng Ó (nay là làng Xuân Ổ), xã Võ Cường, thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Mỗi năm chợ chỉ họp một lần vào đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 Tết (tháng giêng âm lịch)...

Những huyền thoại về chợ Âm Dương

Theo tương truyền của người xưa, nơi họp chợ Âm Dương xưa là bãi chiến trường do đó có nhiều người chết. Chợ họp là để tạo cơ hội cho người chết và người sống gặp nhau. Chợ bắt đầu họp vào lúc lên đèn, trên một bãi đất trống cạnh ngôi miếu cổ có tiếng là linh thiêng của làng. Chợ không có lều, quán, không sử dụng đèn nến. Người đi chợ mang một con gà đen đã được chăm sóc cẩn thận làm vật tế Thành Hoàng làng. Trong chợ cũng có cả những dãy hàng mã, hương, nến, cau trầu. Ở đầu chợ, người ta đặt một chậu nước để thử tiền âm hay tiền dương. Có người sớm hôm sau xem trong túi đựng tiền toàn là vỏ hến, lá đa, thậm chí có cả mẩu yếm sồi. Mọi người đều rất vui vẻ vì coi đó là dịp làm điều phúc, điều thiện với người đã chết. Chợ tan khi còn đêm.

Với người dân nơi đây, chợ Âm Dương cũng chẳng khác một lễ hội cầu mùa ở các địa phương khác, bởi nó mang đậm nét văn hóa dân gian vùng Kinh Bắc và đã tồn tại cách đây gần ngàn năm. Vào dịp đầu Xuân năm nào cũng vậy, mọi người đến hội chợ chỉ cốt được cầu may; những điều rủi ro, phiền muộn sẽ được xóa tan khi vào đêm hội chợ, có như thế việc làm ăn, mùa vụ năm đó mới thuận lợi, được mùa bội thu.

Chợ nằm ở địa phận Làng Ó (nay là làng Xuân Ổ), xã Võ Cường, thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Mỗi năm chợ chỉ họp một lần vào đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 Tết (tháng giêng âm lịch)...

Người xưa đi chợ Âm Dương

Bây giờ, cũng không ai còn nhớ phiên chợ Âm Dương đầu tiên bắt đầu từ khi nào, chỉ biết rằng ngày xưa, làng Ó còn nghèo lắm; thiếu ăn, thiếu mặc nên con cháu phải kéo nhau đi làm thuê ở những tỉnh xa. Dẫu có đi nơi đâu, nhưng nhớ ngày hội chợ Âm Dương, họ lại rủ nhau về dự đêm hội chợ và để có cơ may gặp lại người đã mất. Họ tin rằng, hòa lẫn trong dòng người đến phiên chợ đêm nay sẽ có cả hương hồn của ông cha, người thân hiện về để tìm gặp lại gia đình, bạn bè. Để an ủi, động viên nhau xua tan nỗi buồn, nhớ tiếc người thân đã mất, họ cùng ca những làn điệu dân ca Quan họ của quê mình. Hát mãi, buồn hóa thành vui, nỗi tiếc nhớ hóa thành niềm hạnh phúc khi có thêm bạn bè làm trà, rượu, bạn tâm tình. Chợ tan khi đến canh ba. Trong sương sớm, khúc Giã bạn như làm các liền anh, liền chị thêm nghẹn lời, lưu luyến hẹn đến phiên chợ lần sau.

Cụ Nguyễn Văn Hỷ (85 tuổi), một trong những già làng ở làng Xuân Ổ, kể: Ngày xưa, cụ nghe rằng chợ bắt đầu họp vào lúc chập tối, mỗi dịp lễ hội làng đều có đến 2 sào đất ruộng làm bãi chợ bán gà đen đủ loại to, nhỏ. Nhiều gà lắm nhưng cũng không ai biết mỗi phiên chợ tiêu thụ khoảng bao nhiêu con gà. Bởi chợ bán nhiều gà đen, nên người ta gọi là chợ Gà Đen và tên làng Ó cũng có từ thuở ấy. Người bán có thể là người làng, cũng có thể là người từ nơi khác đến, điều đặc biệt là chỉ bán gà mái đen, mà không phải gà trống để cúng giỗ như nhiều nơi. Chợ không có lều quán, không hàng lối, người bán để gà trong lồng nhỏ, cũng có người ôm gà trên tay, người mua chỉ sờ xem gà béo, gầy. Người bán không nói giá cả, người mua không mặc cả, trả bao nhiêu tiền cũng được. Mua gà xong, người ta mua thêm vàng mã, trầu cau, nến, hương đã được bó sẵn thành bó để về hóa gửi cho người cõi âm. Trong đêm, chỉ có bóng người lờ mờ qua lại và tiếng thì thào làm quen, họ mời nhau khi tan chợ thì về ăn cơm và hát Quan họ cùng gia đình để lấy may.

Người ta mua gà đen nhiều như vậy là để ngày 8 (tháng giêng) là đem vào hội đình làng dự Cỗ Kén (tức là cỗ chọn) giữa Lục Giáp (6 Giáp – các đơn vị dân cư của làng) bằng cách chọn những con gà làm đẹp, xôi ngon. Những mâm xôi này là phải do các trai tráng trong làng quây cót giã gạo nếp trước hằng tháng trời, bản thân họ phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc gọn gàng, vóc dáng khỏe mạnh (đã ăn ở thanh tịnh 2 tuần lễ). Mỗi Giáp sẽ làm 2 lễ, 6 Giáp có 12 lễ, trong đó Ban Tổ chức là những người già làng sẽ chọn 3 lễ đẹp nhất, ngon nhất để dâng lên 3 bàn thờ chính là Chính, Tả, Hữu của đình. Còn lại các cỗ khác sẽ đặt xung quanh và ở các bệ thờ phụ. Những cỗ được giải nhất, nhì, ba sẽ được thưởng mỗi lễ một miếng trầu, cau têm cánh phượng. Tuy công sức bỏ ra làm mâm cỗ tốn bao công phu, vất vả nhưng nếu được chọn là Cỗ Kén thì người dân ở Giáp ấy tin rằng cả năm được may mắn, làm ăn phát đạt.

Song, cái may mắn trọn vẹn lại là khâu cuối cùng, trước khi mời được bạn bè về gia đình tụ họp và hát Quan họ, chủ nhà và khách cùng đem vàng mã hóa để tưởng nhớ dòng họ, tổ tiên và nhớ đến người đã mất cho cả gia đình của chủ và khách. Điều quan trọng hơn nữa là mỗi gia đình đã làm sẵn 4 đến 5 mâm cỗ để đãi khách. Cỗ đã được chuẩn bị từ sáng mồng 4, chiều tối đi hội chợ là các mâm cỗ đã phải chuẩn bị xong. Khách đến ăn thì ít, mà hát Quan họ lại say sưa khiến giây phút giã bạn bao giờ cũng lưu luyến, không muốn chia tay. Người ta không để ý đến mâm cỗ đầy hay vơi mà nhà nào càng mời được nhiều khách về nhà, năm đó may mắn và lộc đến càng nhiều.

Chợ Âm Dương hôm nay

Gần một thế kỷ qua, thời gian đã cuốn theo biết bao đổi thay đến vùng đất Kinh Bắc này, ngay cả dòng sông Tiêu Tương êm ả chảy qua làng xưa giờ đã được bồi đắp. Ở đó nhiều nhà mới xây mọc lên, đến cái tên làng Ó cũng ít người biết đến để nói rằng làng quê này đã đổi mới, trẻ hóa và tươi mới như mùa Xuân về làng. Ông Nguyễn Sơn, Trưởng Ban Mặt trận Tổ quốc xã, đưa chúng tôi đến nơi họp chợ Âm Dương xưa trong nỗi luyến tiếc. Nơi bán gà đen giờ đã là những ruộng rau xanh non. Dù vậy, cứ mỗi độ Xuân về, người làng Xuân Ổ, thanh niên, trai gái đến cả người già, con trẻ lại xúng xính trong những bộ quần áo tứ thân, khăn xếp đẹp nhất, náo nức đón chờ đêm hội chợ. Chợ Âm Dương bây giờ tuy vẫn không có lều quán, không đèn nến, vẫn tiếng thì thào trong đêm nhưng trong chợ đã có bán đủ thứ hàng vài vóc, khăn quàng cổ, khăn tay, bít tất, cặp tóc, hoa quả và vẫn có đủ đồ cúng tế cho người âm... Con cháu đến chợ đã không bắt buộc phải mua cho được gà đen, mà gà mái thường, đẹp, cũng được đem bán. Các trai tráng trong làng không phải giã gạo thâu đêm mà gạo ngon đã được xay xát sẵn để dành từ vụ mùa. Duy chỉ có việc chuẩn bị cỗ đón khách là không thể thiếu.

Cái vẻ huyền bí của chợ xưa đã lan rộng đến cả những tỉnh xa tận trong Nam, ngoài Bắc, khách thập phương cũng kéo nhau về dự đêm chợ Âm Dương để cầu được nhiều lộc may mắn, được bay tỏ nỗi nhớ quê hương hay nỗi niềm đam mê Quan họ của mình. Đi chợ, đám thanh niên còn muốn tìm nơi bán đồ của con gái làng bên mà mình thích để mua đồ. Tiếng thì thào trong đêm chợ ấy còn là tiếng làm quen, tiếng tỏ tình và khi được cô gái mời về nhà dự cỗ cùng gia đình, bạn bè mới là những thử thách ban đầu. Ngôi miếu cổ vẫn linh thiêng và cây đa cổ thụ của làng vẫn còn đó xum xuê xòa bóng mát như để chứng kiến bao đổi thay của làng, của biết bao mối tình hò hẹn, đơm hoa kết trái của những đôi lứa yêu nhau từ phiên chợ đêm nay. Trong những làn điệu Quan họ trữ tình sâu lắng cùng men rượu Xuân mỗi lúc thêm nồng đượm, còn chứa đựng cả lời yêu đương, da diết mà chàng trai muốn nhắn gửi cho người mình yêu. Sau đêm chợ huyền thoại ấy, đã có rất nhiều chàng trai, cô gái nên duyên chồng vợ và những làn điệu dân ca Quan họ còn ngân vang mãi..

- Hội dân tộc học Việt Nam

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trong "Sự tích sông Nhà Bè" cũng nói đến một nơi tương tự như chợ Âm Dương trong bài viết này. Nhưng địa danh Nhà bè ở miền Nam và đến nay tôi chưa biết ở trong này địa điểm tương tự như chợ Âm Dương có hay không? Tuy nhiên điều này cho thấy những giá trị văn hóa phi vật thể Việt vẫn có một sức sống mạnh mẽ trong dân gian. Hiện tượng chợ Âm Dương này cho thấy người Việt đã có một quan niệm về cõi Âm từ rất lâu rồi.

Cảm ơn Phoenix.

Thiên Sứ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chợ Âm Dương đầu xuân, ai nhớ ai thương

Nguồn:http://www.bacninh.gov.vn

Trong bộ phim “Bao giờ cho đến tháng Mười” đạo diễn Đặng Nhật Minh đã xây dựng một trường đoạn xúc động: do quá đỗi đau khổ, âm thầm nhớ thương người chồng đã hy sinh trên chiến trường, người vợ trẻ đã đến miếu Thủy Thần trong làng cầu xin được dẫn đường chỉ lối tới cõi u minh gặp chồng. Họ đã gặp nhau trong phiên chợ Âm Dương, bàn tay hai người cứ muốn cầm nắm lấy nhau nhưng cố gắng thế nào cũng không được, thành thử đôi uyên ương này cứ rượt đuổi bóng hình trong vũ khúc luân hồi hư ảo.Ý tưởng về trường đoạn trên được gợi mở từ câu chuyện về chợ Âm Dương ở làng ó (tên chữ là Xuân ổ) thuộc xã Võ Cường (Bắc Ninh) mà nhà văn Đỗ Chu kể cho đạo diễn Đặng Nhật Minh. Gọi là chợ Âm Dương bởi chợ không họp vào ban ngày, không có phiên chính phiên xép; mỗi năm chỉ họp một lần vào đêm mồng Bốn tháng Giêng lúc chạng vạng tối, thời điểm âm dương đang “chuyển kênh”, trời đất giao hòa. Phiên chợ kỳ lạ ấy đã tồn tại như một huyền thoại ở ngôi làng đã có tuổi đời 3.500 năm nằm bên tay phải cây số 27 nếu từ Hà Nội theo đường quốc lộ số 1 ngược lên phía Bắc. Nơi đây, hiện tại và quá khứ thăm thẳm đan xen thấp thoáng trong muôn ngàn màu xanh lá cây, trong lô xô những dãy nhà cao tầng, trong gương hồ biếc soi bóng mái cong đình làng. Những câu hát âm vang thay lời giới thiệu, quảng bá về một vùng đất Quan họ tưng bừng rộn rã lễ hội đầu Xuân: Mồng Bốn là hội kéo co Mồng Năm hội ó chẳng cho nhau về Không hiểu ai là người đầu tiên khởi xướng loại... Hội chợ độc đáo cho cả người sống và người chết để tất cả cùng thanh thản, vui vẻ đón xuân. Truyền thuyết kể lại rằng: nơi đây từ ngàn xưa từng là bãi chiến trường ngập chìm trong máu, lửa “Trống trường thành lung linh bóng nguyệt. Khói cam tuyền mờ mịt thức mây”. Bao sinh linh tử trận, hay lâm nạn đã hóa thành những vong hồn phiêu diêu trong không gian với những nỗi niềm u uẩn... Thấu cảm và mong cầu sự siêu thoát tâm linh cho các vong hồn chiến binh, thập loại chúng sinh và vạn vật thì ngoài việc thờ cúng nơi đình chùa đền miếu còn có phiên chợ Âm Dương cũng vì ý nghĩa nhân văn ấy. Khi hoàng hôn mờ tỏ, bồng bềnh cùng sương khói trong không gian, xóm làng bàng bạc bức tranh thủy mạc, thấp thoáng lên đèn cũng là lúc dương đi âm đến. Người ta tất bật mang ra chợ những chú gà đen (phải chăng vì thế mà làng có tên gọi là ó?) đã được chăm sóc nuôi nấng cẩn thận. Trên một khoảng đất trống khá rộng cạnh một cái miếu thiêng trong làng chợ họp không đèn đuốc không lều quán. Những chú gà đen - vật tế thành hoàng làng và những bó hàng mã, hương đăng, gạo muối được bày la liệt thành dãy trong đêm sau 3 ngày Tết “Mồng Một thì ở nhà Cha, mồng Hai nhà Mẹ, mồng Ba nhà Thày”. Người mua không mặc cả, người bán không cần đếm tiền, họ cứ lặng lẽ trao tiền và đồ vật cho nhau như ngầm hiểu, thỏa thuận. Trong chốn “tù mù thiên địa”, người ta đang “mua may bán rủi” người cõi dương đang đi chợ với người cõi âm. Người mua kẻ bán nườm nượp nhưng không rõ ai là người ai là ma, mà phân biệt để làm gì? Từ người chết thuở làng ó còn hoang sơ toàn rừng rậm đầm lầy “dưới thì nước, trên thì mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt” (Hậu Hán thư) đến người hy sinh vì Tổ quốc và những số phận rủi ro bất hạnh “nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”... Tất cả, vong linh muôn đời muôn kiếp rủ rín nhau về phiên chợ Âm Dương để sắm sửa, mua bán, đổi buồn lấy vui. Người ta không dám cười nói ồn ào vì sợ những hồn ma hoảng sợ, không dám thắp đèn vì sợ những chú gà đen tưởng ánh bình minh sẽ cất tiếng gáy gọi mặt trời khiến những hồn ma sẽ tan tác bay đi. Chỉ có ánh sáng của chòm sao Nam Tào - Bắc Đẩu vời vợi giữa thiên hà soi rọi cho các sinh linh đang hối hả giao thương, giao lưu. Ở đầu chợ có đặt một chậu nước để thử xem tiền cõi dương hay tiền cõi âm nhưng rồi vẫn phải cầm tiền ma. Có người đã kể rằng chính mình nhận rõ ràng là tiền thật nhưng sáng hôm sau xem lại thì thấy là một đống vỏ hến. Có người lại thấy vài mảnh bát, mảnh chai, viên sỏi hoặc chiếc cúc áo, mẩu... yếm sồi. Người có được những “vật quý” đó không tức bực, không cho mình bị thua thiệt trái lại hết sức vui sướng cho rằng đã có duyên làm điều phúc, điều thiện với những người đã chết. Chợ Âm Dương làng ó phải chăng là dấu vết hoài niệm chợ nguyên thủy trong thương nghiệp là một hình thức lễ hội đoàn tụ giao hòa hồn vía vũ trụ, con người trong các cõi trước mùa Xuân - biểu tượng của sự sinh thành? Chợ tan vào khoảng tám, chín giờ tối, người ta mời nhau vào các lầu quán bên đường xơi trầu, uống nước và hát canh Quan họ thâu đêm. Với những lời ca thiết tha được dồn nén, thăng hoa từ vạn thuở, người sống hát cho mình và hát cho cả người chết: Mặt trời đã tắt Đêm hội đã tàn Các phận hồng nhan Người mang về cả Cái giòn cái giã ở cả nơi người Nơi đứng nơi ngồi Trong thì xe thắm Ngoài thì xe thâm Mong kết tri âm Sao người chẳng biết... Phiên chợ Âm Dương đã tàn nhưng những câu hát “Liêu Trai” thấm đẫm tình người vẫn lưu luyến lòng ai, thầm hẹn mùa Xuân năm sau “đến hẹn lại lên”.

Trương Thị Kim Dung

Share this post


Link to post
Share on other sites

  • "Chợ âm dương" họp ở xã Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh: có tên gọi là "chợ Chằm".
Chợ Chằm là một chợ dân sinh nhỏ, phục vụ nhu cầu mua sắm của nhân dân trong xã Mão Điền cũng như vùng lân cận. Bình thường, chợ không họp liên tục, mà chỉ họp ấn định vào các ngày mùng 4, 9, 14, 18, 24, 28 trong tháng,theo lịch âm. Tuy nhiên chỉ có phiên chợ tết ngày mùng 4 tháng Giếng (4/1 - âm lịch) là được gọi là chợ âm dương.

Bởi vì, tương truyền nơi đây trước kia cũng là nơi chiến trường đẫm máu (từ thời phong kiến xa xưa), số người chết nhiều không kể xiết. Theo quan niệm duy tâm xưa, các oan hồn này không được siêu thoát, mà bị lưu vong ở dưới địa ngục (không được đầu thai), chỉ đến dịp tết hàng năm mới được "hồn lên dương thế" quay lại nơi mình đã chết trước kia.

Chuyện kể rằng, từ sau năm có chiến tranh không lâu, người dân họp chợ ngày mùng 4 tháng Giêng hay gặp những chuyện lạ thường như: đi mua bán hay bị đưa tiền giả, mang về nhà mới biết (tiền xu bị biến thành đất, lá chuối khô,...), người dân nghi là do các oan hồn chiến sĩ đã về đi chợ mua hàng, họ trả tiền âm phủ, ở chợ có quá nhiều âm khí nên không nhận ra được. Ban đầu nhân dân trong vùng cũng nhờ thầy về cúng xua đuổi tà ma, nhưng không nổi vì âm khí quá nặng. Sau đó họ được thầy bày cho cách là khi đi chợ thì mang theo một thau nước (nhất là người bán), kiểm tra tiền chỉ cần thả vào nước là biết, nếu chìm là tiền thật, nổi là tiền giả!

Do đã có cách phân biệt tiền âm, tiền dương, hơn nữa mỗi năm người âm cũng chỉ lên có một lần, nên người ta vẫn tiến hành họp chợ bình thường.

Cho đến thời gian gần đây (thời phong kiến trước Cch mạng Tháng 8) , mặc dù không mua bán được bằng tiền âm, nhưnng dường như các hồn vẫn muốn tranh thủ cơ hội lên trần đi chợ ngắm cảnh, tham quan - nên người ta vẫn thi thoảng có những câu chuyện chứng tỏ người âm lên trần, mặc dù thưa thớt dần đi.

Cho đến bây giờ, thì người dân trong vùng đã không đi họp chợ vào ngày mùng 4 tháng Giêng nữa, coi như nhường hẳn cho người âm không gian khu chợ trong ngày đó. Kèm theo đó là tín ngưỡng hóa vàng, cúng cho tổ tiên và các thần linh, người dân trong vùng cũng đồng loạt tiến hành vào sáng sớm ngày mồng 4 tết, để cho người âm kịp đi chợ ngày hôm đó.

(Nguồn: http://vi.wikipedia.org)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phiên chợ âm dương

(Nguồn: quangnam.org)

Posted Image

Phiên chợ chiếu tại Bàn Thạch (Duy Vinh, Duy Xuyên) họp mỗi sáng, từ 5 giờ đến 8 giờ mới chấm dứt.

Chợ họp từ 5 giờ cho đến 8 giờ sáng mỗi ngày. Chợ chỉ toàn bán chiếu - phiên chợ duy nhất Quảng Nam bất chấp mưa nắng, trải qua bao thời gian, tồn tại suốt mấy trăm năm ở Bàn Thạch, Duy Vinh, Duy Xuyên.

[/b]1. 4 giờ 30 sáng. Quán cà phê nhỏ xíu ở góc đường vào làng đã mở. Thương lái địa phương (dự chợ hoặc không), ngư phủ sông hồ sau đêm đánh bắt trở về..., ngồi tán đủ thứ chuyện trên đời. Từ chuyện giá đay, lác lên xuống thất thường, đất trồng nguyên liệu ngày càng bị thu hẹp vì sạt lở, thiếu nước, sông hồ “cạn” cá, tôm... đến cả chuyện súng nổ, bạo loạn tận trời Tây... 30 phút sau, sương đêm chưa tan trên đầu ngọn cỏ, đã nghe tiếng kẽo kẹt quang gánh, tiếng dép quệt trên mặt đường bê tông, tiếng xe đạp, xe máy vang khắp các con đường làng... Chợ bắt đầu họp.

Posted Image

Thu hoạch đay.

Khu vực mua bán chiếu ở phía trước cổng chợ. Chiếu được đưa đến chợ bằng nhiều cách. Chiếu Bàn Thạch theo chân người vác bộ. Theo xe đạp, xe máy từ Duy Thành sang, Duy Phước xuống. Chiếu nằm thuyền ngược sông cùng các gánh cá còn nồng nàn vị biển mặn từ Duy Hải, Duy Nghĩa lên, chật kín bến sông... Mỗi lúc một đông hơn. Người ta bày cá tươi dọc bến sông, trên các ngả đường quanh chợ, âm thầm mua bán. Le lói, vàng vọt... đèn dầu. Không có tiếng mặc cả, ngã giá bán mua. Chỉ có âm thanh rì rầm như tiếng sóng và tiếng người, đại loại “hôm nay, mấy đôi?”, “khổ thước mấy”, “giá có hạ hoặc lên rồi đó”... vang giữa ánh sáng nhờ nhờ, không rõ mặt người hắt ra từ phía các căn nhà ở chợ mở cửa sớm. Thi thoảng tiếng “phành phạch” của đủ loại chiếu ném xuống mặt chợ, mỗi lúc một đầy hơn, từ chiếu bùa, chiếu in đến chiếu trổ - loại chiếu cao cấp với kỹ thuật tinh xảo, được làm ra từ những bàn tay kinh nghiệm và khéo léo và tiếng đếm tiền sột soạt... Tất cả người dự chợ đều là bạn hàng của nhau đã rất lâu ngày. Cho dù, đó là người sản xuất kiêm bán hàng chạy chợ, thương lái địa phương gom hàng từ mỗi gia đình hoặc những người từ Đà Nẵng vào gom chiếu, đều chuẩn bị cho các chuyến đi xa... 8 giờ sáng, người bán chiếu trở về, không quên ghé vào gian hàng nguyên liệu đay, lác, phẩm màu (cũng bày sớm ở chợ), chuẩn bị cho các đôi chiếu sẽ được dệt trong ngày, chờ mai lại... chợ. Số chiếu thu gom tại chợ, mỗi ngày khoảng từ 3.000 đến 4.000 đôi chiếu sẽ được lái buôn đường dài, đóng hàng lên xe tải “chu du” khắp đất nước: vào Quy Nhơn, Bình Định, Phú Yên; ra Đà Nẵng, Huế..., thậm chí lên cả Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn...

Posted Image

Dệt chiếu.

2. Chợ chiếu Bàn Thạch cách thị trấn Nam Phước 12km về hướng đông) vẫn tồn tại suốt mấy trăm năm nay. Những cánh đồng phù sa, hoặc bàu đầm mặn chát nơi cuối sông Thu Bồn, xẻ nhánh gặp Trường Giang nuôi dưỡng cây đay, gai, lác... đã làm thức dậy những làng chiếu Bàn Thạch (Duy Vinh), An Phước (Duy Phước) ngót trăm năm tuổi... Người làng kể, của hồi môn của cô gái theo chồng không phải là những công ruộng, vòng vàng, nhẫn, xuyến... mà chỉ là nghề dệt chiếu - một nghề cực, nhưng không sợ đói. Chỉ cần sáng đến tối là đã có tiền chạy chợ. Vì thế, chẳng có gì lạ khi con gái mới lớn đã theo mẹ học nghề và suốt từ lâu nay vẫn âm thầm dệt chiếu... để mỗi ngày họp chợ. Mùa nắng tưng bừng tuốt đay, gặt lác, phơi phóng đủ sắc màu dọc các ngả đường quê. Và cũng sẽ không hề ngạc nhiên khi đất mỗi ngày mỗi hẹp, nguyên liệu phải mua lại từ thương lái bên ngoài và công dệt có khi xuống thấp hơn 20.000 đồng/người/ngày... nhưng chiếu thì vẫn cứ được sản xuất ra thường xuyên. Số thợ dệt đã lên đến cả nghìn người. Ngay như làng An Phước mới vừa được công nhận làng nghề truyền thống, đã có 170 hộ (trong tổng số 240 hộ) theo nghề dệt chiếu.

Xưa kia, làng chỉ sản xuất những loại chiếu bùa, chiếu in, chiếu trổ với chữ hỷ, chữ vạn bằng chỉ vàng đơn giản. Nay, thợ làng nghề đã có thể làm chiếu theo đơn đặt hàng, sản xuất các loại chiếu trổ - người dệt lẩy chữ, hình vẽ theo ý muốn với kỹ thuật cao, tinh xảo, không dễ gì làng chiếu khác có được. Kể cả có thể dệt cả hình ảnh chùa Cầu hay tháp Mỹ Sơn vào chiếu. Tất cả đã tạo nên bức tranh sống động, như một tác phẩm nghệ thuật, dưới bàn tay kinh nghiệm và khéo léo của các nghệ nhân còn sót lại.

Sau thành công của ngày hội làng chiếu được mở trong những ngày “Hành trình di sản - Hội ngộ Đông Dương” hồi cuối tháng 6-2007, người làng chiếu có dự định sẽ tiếp tục tổ chức các ngày hội thi tài để chấn hưng làng nghề và thu hút khách du lịch. Cô thợ chiếu trẻ măng, tròn xoe mắt nói nhỏ: “Từ người sản xuất đến người bán chiếu đều than rằng nghề ni cực lắm. Nhưng người làng vẫn còn làm chiếu và chợ vẫn họp mỗi ngày một phiên, trừ tết và mưa bão. Ước chi, chợ và làng chiếu ni có tên trên bản đồ du lịch cùng Trà Quế, Kim Bồng, Thanh Hà... thì vui biết mấy!”.

Theo BaoQuangNam

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phiên chợ gặp con (nguồn: Vietnamnet.vn)

Posted Image Bà nội tớ kể rằng, cách đây nhiều năm, chỗ bãi đất trống gần đình làng có một phiên chợ rất kỳ lạ. Phiên chợ ấy chỉ họp đúng một lần, vào đêm rằm cuối cùng của tháng cuối cùng của năm (tức tháng Chạp âm lịch). Cách thức họp chợ có vẻ gần giống chợ Viềng ở Nam Định, nhưng người ta không bán nhiều đồ “thập cẩm” như thế, chỉ bán đồ lễ, hình nhân và rất nhiều những chiếc gương bát quái con con. Ai cũng mang ra chợ một tờ giấy hồng điều. Bên trong tờ giấy là những hình vẽ bằng mực tàu rất khó hiểu và vài dòng chữ nôm. Mỗi tờ giấy là một bí mật của mỗi con người. Người ta viết vào đó những điều mình cảm thấy áy náy, lỗi lầm, sai trái đã mắc phải trong một năm vào cả trong giấy đỏ, rồi cùng với vàng, hương, hoa quả mang ra ngôi miếu con con gần đó khấn vái cầu xin các thần linh xá tội. Sau đó họ hóa vàng tờ giấy điều rồi đội mâm lễ ra ngoài, chia đều lộc cho những người cũng đi cầu xin ở gần đấy mà mình bắt gặp, không kể thân, sơ ...

Bà bảo : “Chẳng biết các thần có nghe được những lời cầu xin xá tội không nhưng nhà nào vì lý do gì đó mà không làm sớ... tẩy rửa bụi trần thì cả năm đó cứ bứt rứt không yên, công việc vì thế mà có phần trắc trở, chẳng được như ý...”. Phiên chợ vào đêm rằm tháng Chạp âm lịch ấy có người còn đồn đại rằng đó là chợ âm dương. Thỉnh thoảng, người ta vẫn bắt gặp một người nào đó đã “khuất” từ lâu bỗng nhiên hiện về, thản nhiên đi chợ. Cách phân biệt người âm - kẻ dương rất khó, chỉ nhờ vào phương tiện suy nhất là chiếc gương. Soi gương vào ai, không thấy bóng người ấy hiện lên trong gương, có nghĩa đó là người cõi khác.

Có một bà trong làng năm nào cũng ra ngôi miếu thắp hương rồi khóc. Bà thương cậu con trai út ít của bà vì hoàn cảnh nheo nhóc, trong một lần đi tản cư đã bị lạc mẹ, chẳng biết sống chết thế nào. Từ đó, lúc nào bà cũng ăn năn, giận mình vì mải đi kiếm miếng ăn cho cả nhà mà nỡ để con đi lạc. Lúc nào, nom bà cũng như người mất hồn. Có thời gian nghe người đi chợ xa kể lại rằng cậu con bà hình như làm con nuôi cho một gia đình nào đó giàu có lắm trên tỉnh, bà lân la đi tìm mà chẳng thấy, rồi cũng có tin đồn rằng cậu bé không còn sống nữa. Bà càng suy sụp nặng...

Buổi chợ âm dương hôm ấy, lúc bà hóa vàng tờ giấy điều xong liền đi ra một hàng vàng mã mua chiếc gương con theo tục lệ. Chưa kịp cầm gương, bà nghe tiếng thầm thì bên tai : “Đừng mua, mẹ ơi, con đây mà!...” bà giật mình quay lại, chẳng thấy ai, nhưng linh tính mách bảo bà cứ đi lại phía vừa cất lên tiếng nói... Đến một gốc cây con, có cậu bé mặc áo bông bỗng nhiên túm lấy áo bà “Con nhớ mẹ nhiều lắm!”... Bà sững sờ nhìn cậu bé, không khóc mà nước mắt đã chảy vòng quanh, chẳng kịp nói gì chỉ lẩm bẩm : “Tạ ơn trời phật! tạ ơn trời phật!”. Cậu bé ấy giống y hệt con bà, nhưng thật lạ, sau bằng ấy năm mà nó chẳng lớn tí nào, vẫn mặc cái áo hồi lạc mẹ. Bà ngồi xuống, vuốt tóc, vuốt má và xoa mãi vào cái cằm lẹm đáng yêu của đứa bé rồi nói như mơ : “Không thể tin được! Con tôi, giời ơi...”. Từ lúc gặp con, bà sướng quá như người mất hồn, bà hỏi han đủ thứ, nhưng cậu bé chỉ cười và nói “Con nhớ mẹ lắm, nhớ cả cái bánh khảo mẹ vẫn mua cho con ... Vài năm nữa, con mới về ở hẳn với mẹ được...”. Bà nói nhanh như sợ ai cướp mất con : “Không, con về nhà đi, mai mẹ sẽ đến nhà người nuôi con để xin chuộc lại, bao nhiều mẹ cũng chuộc, dù có phải bán nhà ...”. Cậu bé ôm ngang lưng người mẹ rồi đòi mẹ mua bánh khảo. Bà cuống quýt lấy tiền mua bánh cho cậu bé. Lúc quay ra, cậu bé đã biến mất từ lúc nào. Người mẹ lại thêm một lần đau khổ, suy sụp nặng... Bà cứ sống lay lắt như một cái bóng.

Rồi vài năm sau, vào một buổi chiều 30 Tết, nhà bà đột nhiên có khách, khách là một anh bộ đội trẻ măng, ào vào nhà gọi mẹ. Bà chẳng tin, lại ngỡ ai trêu, anh bộ đội đó mừng vui, cứ ấp iu đôi bàn tay nhăn nhăn của bà, giọng lạc đi vì xúc động : “Bao nhiêu năm con mới tìm được mẹ ...”. Bà mẹ lần này không giống như hồi đi chợ âm dương, cứ nhất định bắt anh bộ đội vạch bắp chân ra, khi nhìn thấy vết bớt xanh lè trên bắp chân phải người chiến sĩ thì bà ngã lăn ra bất tỉnh... Lúc hồi lại, bà khóc như mưa : “Con ơi, ở lại với mẹ nhé! Đừng đi đâu hết !!!...”. Mẹ tìm được con, các anh chị tìm được em, cả nhà người mẹ và anh chiến sĩ nọ mừng vui khôn xiết... Đó là cái Tết vui nhất trong đời bà và cả nhà.

Sau này bà mẹ kể lại chuyện ban đêm ở chợ âm dương cho con trai nghe. Anh ấy ngạc nhiên tột độ và kể : “Hình như cũng vào thời điểm ấy, con bị ốm một trận rất nặng, tưởng khó lòng qua được. Trong lúc mơ, lúc tỉnh, con thấy mình lang thang đi tìm mẹ, và đã tìm thấy mẹ thì lại thiếp đi... Đêm ấy, mẹ mặc cái áo len màu bã trầu phải không, con vẫn nhớ...”. Bà mẹ thảng thốt và nhớ lại đúng là đêm ấy bà đã mặc cái áo màu bã trầu. Nhưng câu chuyện đã qua thì là một bí ẩn không thể lý giải được. Bà chỉ còn biết tạ ơn trời đất, thần phật đã đoái thương đến tình cảnh của hai mẹ con bà.

(Thiếu niên Tiền phong Xuân 2006)

Share this post


Link to post
Share on other sites