Posted 6 Tháng 10, 2009 '''Pháp Luân''' (Trong Pháp Luân Đại Pháp) - '''''Một hiểu biết sơ lược ''''' (Chỉ là hiểu biết hạn hẹp bề ngoài của Pháp Luân, chưa phải là chân thực nhất về Pháp Luân...) Pháp Luân chữ dạng phồn thể: 法輪, chữ dạng giản thể: 法轮, bính âm: Fǎlún. == Pháp Luân là gì? == Pháp Luân là một sinh mệnh cao cấp vốn có uy lực lớn mạnh, gọi theo ngôn ngữ khoa học hiện đại thì Pháp Luân là dạng vật chất cao năng lượng có linh tính. Nó xoay chuyển theo sự vận động của vũ trụ, của hệ Ngân Hà chúng ta. Pháp Luân xoay chuyển theo cả hai chiều, chiều thuận kim đồng hồ và chiều nghịch kim đồng hồ. == Pháp Luân được hình thành như thế nào? == Pháp Luân, khí cơ và những cơ chế nội tại của Pháp Luân với hàng vạn thứ đã được luyện thành từ thời tiền sử xa xưa http://www.falundafa.org/Vietnamese/book/zfl_html/index.html. Là kết quả của bao nhiêu thế hệ người trong trường phái Pháp Luân Đại Pháp (Đại Pháp Tu Phật) hay còn gọi là Pháp Luân Công mới luyện thành. Do đó nó vô cùng trân quý, cả đến người tu Đạo ngàn năm cũng muốn có mà không được. Đắc được Pháp Luân thì con đường tu luyện coi như đạt được một nửa chặng đường http://www.falundafa.org/Vietnamese/book/flg_html/index.html. == Pháp Luân tồn tại ở không gian nào? == Pháp Luân tồn tại ở một không gian khác, ngoài không gian vật chất nơi nhân loại sinh tồn là Trái Đất. Nói cách khác Pháp Luân tồn tại ở một không gian có cấu trúc vật chất vi mô hơn cấu trúc vật chất của Trái Đất. Các học viên Pháp Luân Đại Pháp thông qua thiên mục có thể nhìn thấy Pháp Luân. Thiên mục khai mở từ tầng Huệ Nhãn Thông trở lên mới nhìn thấy Pháp Luân. Nếu thiên mục ở tầng thấp thì chỉ thấy Pháp Luân xoay xoay như chiếc quạt hoặc thấy hình ngoài Pháp Luân màu xanh đỏ như vòng tròn quay, không thể nhìn thấy chữ Vạn lớn ở giữa. Thiên mục ở tầng cao có thể nhìn thấy trọn vẹn Pháp Luân tươi sáng rực rỡ http://www.falundafa.org/Vietnamese/intro.html#thefalun. == Pháp Luân là một hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ == Phật Gia coi vũ trụ như một thế giới thập phương. Bốn phương 8 hướng cộng chiều công trụ trên, dưới trở thành khái niệm vũ trụ thập phương. Pháp Luân này có đầy đủ cấu trúc và tính năng như vậy. Nó là hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, có đầy đủ công năng, uy lực của vũ trụ. Pháp Luân được gắn lên gốc của Đại Vũ Trụ. == Cấu trúc một Pháp Luân == Trong các cách tu luyện truyền thống đã được truyền qua hàng ngàn năm, học phái Đạo gia đã xem ký hiệu Thái Cực {âm-dương} như là đại diện cho toàn bộ vũ trụ. Tương tự như vậy, các cách tu luyện của trường phái Phật tin rằng hình chữ vạn là tượng trưng cho toàn bộ vũ trụ. Pháp Luân này bao hàm hình chữ Vạn lớn ở giữa và hình âm dương ở phần ngoài. == Đặc tính của Pháp Luân?== Pháp Luân xoay thuận theo chiều kim đồng hồ thì hấp thu năng lượng từ vũ trụ; khi Pháp Luân xoay ngược chiều kim đồng hồ thì phát phóng năng lượng http://www.falundafa.org/Vietnamese/audiovideo_video.html. == Pháp Luân được cấp cho học viên == Một Pháp Luân được cài ở bụng dưới cho mỗi học viên Pháp Luân Đại Pháp. Pháp Luân xoay chuyển không ngừng, tự động trợ giúp học viên gia tăng năng lượng tu luyện. Không giống các sự luyện tập khác, Pháp Luân Đại Pháp cho phép các học viên phát triển năng lượng tu luyện bất kể họ có thiền định hay không. Pháp Luân liên tục quay 24 giờ mỗi ngày, luôn luôn phát triển năng lượng tu luyện, ngay cả khi các học viên đang làm việc, chơi và ngủ. Do đó công tăng trưởng cực nhanh, thu ngắn thời gian luyện công của học viên. == Làm thế nào một người nhận được Pháp Luân?== Những người tu luyện chân chính đọc các sách Pháp Luân Đại Pháp, tham dự hoặc nghe ghi âm các bài giảng, xem băng hình các bài giảng của Ông Lý Hồng Chí, hoặc học luyện tập từ các học viên Pháp Luân Đại Pháp khác, tất cả đều có thể nhận được Pháp Luân. Quá trình thiết lập là tự động và không nhìn thấy được, xảy ra ở không gian khác. Một số người có thể cảm thấy Pháp Luân đang quay khi họ mới nhận được nó trong khi một số người khác không thể thấy; bất kể thế nào Pháp Luân cũng vẫn hoạt động bình thường. Pháp Luân được cấp cho học viên khi đã ổn định thì thông thường không còn cảm giác thấy. == Tham khảo đồ hình Pháp Luân == Đồ hình Pháp Luân (tham khảo tại đây) http://www.falundafa.org/Vietnamese/intro.html#thefalun Đồ hình Pháp Luân trong bìa sách Chuyển Pháp Luân (tham khảo tại đây) http://www.falundafa.org/Vietnamese/book/zfl_html/index.html == Công Đắc nhờ tu tập Pháp Luân == Muốn hiểu biết sâu hơn về Pháp Luân đọc Chuyển Pháp Luân http://www.falundafa.org/Vietnamese/book/zfl_html/index.html, Đồ hình Pháp Luân http://www.falundafa.org/Vietnamese/intro.html#thefalun trong Chuyển Pháp Luân, Đại Viên Mãn Pháp http://www.falundafa.org/Vietnamese/book/d...html/index.html và công Đắc nhờ tu tập Pháp Luân http://www.falundafa.org/Vietnamese/audiovideo_video.html. == Hồng Ngâm về Thế Giới Pháp Luân http://www.falundafa.org/Vietnamese/book/hongyin_v.pdf== 法轮世界 '''''Pháp Luân Thế Giới''''' 美妙穷尽语难诉, Mỹ diệu cùng tận ngữ nan tố, 光彩万千耀双目; Quang thải vạn thiên diệu song mục; 佛国圣地福寿全, Phật quốc thánh địa phúc thọ toàn, 法轮世界在高处。 Pháp Luân thế giới tại cao xứ. 一九九六年一月二十三日 1996 niên 1 nguyệt 23 nhật Diễn nghĩa: '''Thế giới Pháp Luân''' Đẹp và kỳ diệu không thể tả thành lời, Ánh sáng vạn nghìn (rất nhiều) chiếu rọi rực rỡ hai mắt; Nước Phật đất thánh phúc thọ vẹn toàn, Ấy là thế giới Pháp Luân ở xứ trên cao [tầng]. Tạm dịch: '''Pháp Luân Thế Giới''' Mỹ diệu vô cùng khôn tả xiết, Song mục chói muôn điệu ánh quang; Phật quốc Thánh địa tròn phúc thọ, Thế giới Pháp Luân tại cao tầng. 23 tháng Giêng, 1996 == Tham khảo tư liệu == http://www.falundafa.org/Vietnamese/home.html http://www.thuviendaiphap.com/ http://chanhkien.org/58.html http://chanhkien.org/378.html http://minhhue.net/news/2510-Mot-nha-su-Ha...Thien-quoc.html Share this post Link to post Share on other sites
Posted 6 Tháng 10, 2009 Nói gì thì nói phải công nhận là trình độ PR của đệ tử Pháp luân công thuộc loại siêu đẳng thượng thặng. Chỉ trong vòng hơn chục năm mà khuyếch trương thanh thế khắp thế giới thế này thì ĐCS Trung Quốc lo sợ là phải rồi. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 10, 2009 "Pháp Luân là một sinh mệnh cao cấp vốn có uy lực lớn mạnh, gọi theo ngôn ngữ khoa học hiện đại thì Pháp Luân là dạng vật chất cao năng lượng có linh tính. Nó xoay chuyển theo sự vận động của vũ trụ, của hệ Ngân Hà chúng ta. Pháp Luân xoay chuyển theo cả hai chiều, chiều thuận kim đồng hồ và chiều nghịch kim đồng hồ." Nghe có vẻ đây là một tôn giáo duy thần,mà đã duy thần thì chớ nên nói mình theo phật pháp.Mà theo khoa học thì nếu nó là một vật thể đủ lớn thị không thể nào lại đổi chiều liên tục nếu không có sự tac động của ngoại lực, vạy cái ngoại lực đó là gì,(không phải là do ông lý tạo ra chứ ,)mà tự thân nó xoay thì năng lượng lấy ở đâu vạy hay nó là đấng tối cao tự có năng lượng=>, cái định nghỉa này thật lố bịch --------------------------------------------------------------------------------- "Pháp Luân, khí cơ và những cơ chế nội tại của Pháp Luân với hàng vạn thứ đã được luyện thành từ thời tiền sử xa xưa http://www.falundafa.org/Vietnamese/book/zfl_html/index.html. Là kết quả của bao nhiêu thế hệ người trong trường phái Pháp Luân Đại Pháp (Đại Pháp Tu Phật) hay còn gọi là Pháp Luân Công mới luyện thành. Do đó nó vô cùng trân quý, cả đến người tu Đạo ngàn năm cũng muốn có mà không được. Đắc được Pháp Luân thì con đường tu luyện coi như đạt được một nửa chặng đường http://www.falundafa.org/Vietnamese/book/f...dex.html." Xin hỏi trong trường phái giả tưởng này thì ai đã chứng đắc,hay là tự sướng với nhau trong ảo vọng. ------------------------------------------------------------------------------------------- == Pháp Luân là một hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ == Phật Gia coi vũ trụ như một thế giới thập phương. Bốn phương 8 hướng cộng chiều công trụ trên, dưới trở thành khái niệm vũ trụ thập phương. Pháp Luân này có đầy đủ cấu trúc và tính năng như vậy. Nó là hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, có đầy đủ công năng, uy lực của vũ trụ. Pháp Luân được gắn lên gốc của Đại Vũ Trụ. Xin nói vủ trụ chỉ có một,phật giáo coi vủ trụ là thế giớ thập phương hoàn toàn dúng theo khoa học,vủ trụ không có giới hạn,không có biên,Còn pháp luân ở đây gắn lên gốc của đại vủ trụ và coi nó là tiểu vũ trụ,thật là hoan tưởng,không đúng khoa học mà củng chẳng hợp với suy luận duy tâm. -------------------------------------------------------------------------- == Làm thế nào một người nhận được Pháp Luân?== Những người tu luyện chân chính đọc các sách Pháp Luân Đại Pháp, tham dự hoặc nghe ghi âm các bài giảng, xem băng hình các bài giảng của Ông Lý Hồng Chí, hoặc học luyện tập từ các học viên Pháp Luân Đại Pháp khác, tất cả đều có thể nhận được Pháp Luân. Quá trình thiết lập là tự động và không nhìn thấy được, xảy ra ở không gian khác. Một số người có thể cảm thấy Pháp Luân đang quay khi họ mới nhận được nó trong khi một số người khác không thể thấy; bất kể thế nào Pháp Luân cũng vẫn hoạt động bình thường. Pháp Luân được cấp cho học viên khi đã ổn định thì thông thường không còn cảm giác thấy. -chỉ đọc sách,nghe giảng,tập vài bài khí công,thế là có cái pháp luân gì đó ở thế giới bên kia,và sẽ thành tựu,vì nó giúp minh tăng nội công,nghe cứ như truyện kiếm hiệp vậy,tự bản thân không lo tu tâm mà chỉ tác động của cái ngoại lực tưởng tượng pháp luân,mà dù đó là do ông lý nói thì đó củng là lời phỉnh gạt ,do bản thân ông ta đả đạt dược gì đâu,nếu ông ta là phật thì đã không dạy đẹ tử của mình tin theo một cái pháp luân vật chất gì đó,vì tất cả các vị phật đều nói chúng sanh bản thể là tâm,chứ không phải là cái thân này. -------------------------------------------------------------- Rỏ ràng đây là tà giáo mong mọi người nhận ra kẻo bị phỉnh gạt,và sớm bài trừ thứ tà giáo này ra khỏi nhân loại. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 10, 2009 :lol: Xin hỏi nguoithuong1 tu học theo môn phái nào? Tôn danh Quý danh Tôn Sư là ai vậy? Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 10, 2009 :lol: Xin hỏi nguoithuong1 tu học theo môn phái nào? Tôn danh Quý danh Tôn Sư là ai vậy? Nếu là Thiền Tông thì: Tôn danh tức Vô Đắc Quý danh tức Vô Cầu Tôn Sư tức Vô Niệm. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 10, 2009 Nếu là Thiền Tông thì: Tôn danh tức Vô Đắc Quý danh tức Vô Cầu Tôn Sư tức Vô Niệm. 1. Có thể luận giải cao minh về Vô Đắc, Vô Cầu, Vô Niệm cho chư vị đồng đạo và bạn hữu được mở rộng tầm nhìn chăng? 2. Tông phái có ưu điểm gì? Nếu tu học theo thì đạt được gì? 3. Sách chính tông phái? Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 10, 2009 1. Có thể luận giải cao minh về Vô Đắc, Vô Cầu, Vô Niệm cho chư vị đồng đạo và bạn hữu được mở rộng tầm nhìn chăng? Pháp gốc vốn không pháp, đắc mà thật không có chỗ để đắc nên nói Vô Đắc Xa lìa điên đảo mộng tưởng, buông tất cả mà được tất cả nên nói Vô Cầu Lấy âm thành cầu Phật người ấy hành đạo tà, vậy nói Tôn Sư tức Vô Niệm. 2. Tông phái có ưu điểm gì? Nếu tu học theo thì đạt được gì? Tự giác giác tha là ưu điểm của Tông phái. Xả được thì sinh Hỉ. Hỉ sinh Bi. Bi sinh Từ. Ấy tức là đạt được Từ Bi Hỉ Xả. 3. Sách chính tông phái? Tâm ngộ thật tướng, duyên khởi tánh không làm nhân. Vậy nên, nói không cầu đúng mà chẳng khi nào sai, ấy là quả. Nên lấy Tâm thông làm sách (chứ không phô chương thần thông để làm mất đi sự chánh kiến). Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 10, 2009 chúng sanh sinh ra bản thể tâm trong sáng,thuần khiết như nước,như ngọc,bình đẳng như nhau Nhưng do tạp niệm như bùn đất vấy bẩn nước,làm lu mờ ngọc mà chúng sanh quên đi cái bản thể của mình.Khi không còn nhớ đến bản thể thì như người đi lạc tìm đủ mọi cách về nhà,đường đi thì nhiều chướng ngại hiểm nguy nếu đi không có người chỉ đường thì sẽ rất khó tự mình tìm ra,và các vị phật những người đã tìm thấy con đường giờ trở thành người dẩn đường cho chúng ta.(dỉ nhiên là mọi con đường các đức phật đều đã chỉ dẩn rất rõ cho chúng ta đó là thiền định,tịnh độ,vv..,tất cả mọi con đường đều có trong pháp của cá ngài ,tất cả,không thiếu một con đường nào.Tôi nhấn mạnh điều này vì sẽ có những thế lực dựa vào điểm này nói đức phật chưa đưa ra con đường ngắn nhất để rồi hủy hoại giáo pháp,và chính bản thân họ) . Xét về phật tánh chúng ta vốn như nhau,bình đẳng như nhau,không phân định đẳng cấp,đia vị.Nhưng như thế không có nghỉa là chúng ta như phật.Các đức phật phải trải qua vô lượng kiếp mới rủ được vô minh,vọng tưởng chúng ta chỉ mới tu một vài kiếp làm sao mà thanh tựu ,chưa kể đi sai đường (ví dụ:Pháp luân công )thì sẽ mãi ở trong vô minh đến lúc nào mới thoát ra được.Vì thế chúng ta phải chọn cho mình một con đường đúng đắn,nhửng người chỉ đường sáng suốt:đó chính là phật,pháp,tăng.Phật là ngọn đèn ở đích đến chiếu ánh sáng trên con đương chúng ta đi,pháp là con đường và là cổ xe chở chúng ta đến đích nhanh nhất,tăng là những người đồng hành và dẩn đường cho nhửng người theo sau,nối tiếp nhau và tất cả sẽ cùng đến đích. --Mong mọi người hãy suy ngẫm ,đừng sa chân vào nhửng con đường u minh.Con đường chúng ta tìm đã có sẵng ,đã được vô lượng các vị tôn sư đi qua,vì sao chúng ta lại đâm đầu vào những con đường vô minh không lối thoát ấy. chúc an lành. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 10, 2009 2 bạn xem đoạn này viết có đúng không? Bồ-đề-đạt-ma (zh. 菩提達磨, sa. bodhidharma, ja. bodai daruma), dịch nghĩa là Đạo Pháp (zh. 道法), ~470-543, là Tổ thứ 28 sau Phật Thích-ca Mâu-ni của dòng Thiền Ấn Độ và là Sơ tổ của Thiền tông Trung Quốc. Các tên gọi khác là: Bồ-đề-đạt-ma-đa-la (zh. 菩提達磨多羅), Đạt-ma-đa-la (zh. 達磨多羅), Bồ-đề-đa-la (菩提多羅), và tên viết tắt thường gặp trong văn cảnh nhà Thiền là Đạt-ma (zh. 達磨). Bồ-đề-đạt-ma là đệ tử và truyền nhân của Tổ thứ 27, Bát-nhã-đa-la (sa. prajñādhāra) và là thầy của Huệ Khả, Nhị tổ Thiền Trung Quốc. Sự tích truyền pháp của Bát-nhã-đa-la cho Bồ-đề-đạt-ma được truyền lại như sau: Tổ hỏi: "Trong mọi thứ, thứ gì vô sắc?" Bồ-đề-đạt-ma đáp: "Vô sinh vô sắc". Tổ hỏi tiếp: "Trong mọi thứ, cái gì vĩ đại nhất?" Bồ-đề-đạt-ma đáp: "Phật pháp vĩ đại nhất". Sau khi trở thành Tổ thứ 28, Bồ-đề-đạt-ma đi thuyền qua Nam Trung Quốc năm 520. Sau khi truyền đạo cho Lương Vũ Đế không thành, Bồ-đề-đạt-ma đến Lạc Dương, lên chùa Thiếu Lâm trên rặng Tung Sơn. Nơi đây, Bồ-đề-đạt-ma tu thiền định, chín năm quay mặt vào vách không nói; cũng tại đây, Huệ Khả đã gặp Bồ-đề-đạt-ma để lại truyền thuyết bất hủ về việc quyết tâm học đạo của mình. Tư liệu về cuộc đời của Bồ-đề-đạt-ma là một vương tử Nam Ấn Độ không rõ ràng. Có truyền thuyết cho rằng sư phụ của Bồ-đề-đạt-ma là Bát-nhã-đa-la từng dặn Sư hãy đợi 60 năm sau khi mình chết mới được đi Trung Quốc. Như thế Bồ-đề-đạt-ma phải cao tuổi lắm lúc đến Trung Quốc. Theo tài liệu khác thì Bồ-đề-đạt-ma đến Trung Quốc lúc 60 tuổi. Cả hai thuyết này không phù hợp với cuộc đời Sư, từ 470-543, là ngày tháng được phần lớn nguồn tài liệu công nhận. Sau khi đến, Sư nhận lời mời của Vũ Đế đi Nam Kinh. Cuộc gặp gỡ giữa Bồ-đề-đạt-ma và Vũ Đế được các ngữ lục ghi lại như sau: Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây trong nước mình nhiều chùa chiền, bảo tháp. Vũ Đế hỏi nhà sư Ấn Độ: "Trẫm từ lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?" Đạt Ma đáp: "Không có công đức." - "Tại sao không công đức." - "Bởi vì những việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật." - "Vậy công đức chân thật là gì?" Sư đáp: "Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được." Bồ-đề-đạt-ma (zh. 菩提達磨, sa. bodhidharma, ja. bodai daruma), dịch nghĩa là Đạo Pháp (zh. 道法), ~470-543, là Tổ thứ 28 sau Phật Thích-ca Mâu-ni của dòng Thiền Ấn Độ và là Sơ tổ của Thiền tông Trung Quốc. Các tên gọi khác là: Bồ-đề-đạt-ma-đa-la (zh. 菩提達磨多羅), Đạt-ma-đa-la (zh. 達磨多羅), Bồ-đề-đa-la (菩提多羅), và tên viết tắt thường gặp trong văn cảnh nhà Thiền là Đạt-ma (zh. 達磨). Bồ-đề-đạt-ma là đệ tử và truyền nhân của Tổ thứ 27, Bát-nhã-đa-la (sa. prajñādhāra) và là thầy của Huệ Khả, Nhị tổ Thiền Trung Quốc. Sự tích truyền pháp của Bát-nhã-đa-la cho Bồ-đề-đạt-ma được truyền lại như sau: Tổ hỏi: "Trong mọi thứ, thứ gì vô sắc?" Bồ-đề-đạt-ma đáp: "Vô sinh vô sắc". Tổ hỏi tiếp: "Trong mọi thứ, cái gì vĩ đại nhất?" Bồ-đề-đạt-ma đáp: "Phật pháp vĩ đại nhất". Sau khi trở thành Tổ thứ 28, Bồ-đề-đạt-ma đi thuyền qua Nam Trung Quốc năm 520. Sau khi truyền đạo cho Lương Vũ Đế không thành, Bồ-đề-đạt-ma đến Lạc Dương, lên chùa Thiếu Lâm trên rặng Tung Sơn. Nơi đây, Bồ-đề-đạt-ma tu thiền định, chín năm quay mặt vào vách không nói; cũng tại đây, Huệ Khả đã gặp Bồ-đề-đạt-ma để lại truyền thuyết bất hủ về việc quyết tâm học đạo của mình. Tư liệu về cuộc đời của Bồ-đề-đạt-ma là một vương tử Nam Ấn Độ không rõ ràng. Có truyền thuyết cho rằng sư phụ của Bồ-đề-đạt-ma là Bát-nhã-đa-la từng dặn Sư hãy đợi 60 năm sau khi mình chết mới được đi Trung Quốc. Như thế Bồ-đề-đạt-ma phải cao tuổi lắm lúc đến Trung Quốc. Theo tài liệu khác thì Bồ-đề-đạt-ma đến Trung Quốc lúc 60 tuổi. Cả hai thuyết này không phù hợp với cuộc đời Sư, từ 470-543, là ngày tháng được phần lớn nguồn tài liệu công nhận. Sau khi đến, Sư nhận lời mời của Vũ Đế đi Nam Kinh. Cuộc gặp gỡ giữa Bồ-đề-đạt-ma và Vũ Đế được các ngữ lục ghi lại như sau: Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây trong nước mình nhiều chùa chiền, bảo tháp. Vũ Đế hỏi nhà sư Ấn Độ: "Trẫm từ lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?" Đạt Ma đáp: "Không có công đức." - "Tại sao không công đức." - "Bởi vì những việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật." - "Vậy công đức chân thật là gì?" Sư đáp: "Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được." Vua lại hỏi: "Nghĩa tối cao của thánh đế là gì?" - "Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh." - "Ai đang đối diện với trẫm đây?" - "Tôi không biết." Đó là những lời khai thị về yếu tính Phật pháp rất rõ ràng, nhưng Vũ Đế không lĩnh hội được. Cuộc gặp với Lương Vũ Đế cho Bồ-đề-đạt-ma thấy rõ là chưa đến thời truyền pháp tại Trung Quốc. Sau đó - theo truyền thuyết - Sư vượt sông Dương Tử bằng một chiếc thuyền con (chiếc thuyền về sau trở thành một đề tài của hội hoạ Thiền), đến chùa Thiếu Lâm ở Bắc Trung Quốc. Người ta không biết rõ Sư mất tại đó hay rời Thiếu Lâm sau khi truyền tâm ấn cho Huệ Khả. Theo một truyền thuyết thì Bồ-đề-đạt-ma về lại Ấn Độ sau chín năm lưu lại Trung Quốc. Vua lại hỏi: "Nghĩa tối cao của thánh đế là gì?" - "Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh." - "Ai đang đối diện với trẫm đây?" - "Tôi không biết." Đó là những lời khai thị về yếu tính Phật pháp rất rõ ràng, nhưng Vũ Đế không lĩnh hội được. Cuộc gặp với Lương Vũ Đế cho Bồ-đề-đạt-ma thấy rõ là chưa đến thời truyền pháp tại Trung Quốc. Sau đó - theo truyền thuyết - Sư vượt sông Dương Tử bằng một chiếc thuyền con (chiếc thuyền về sau trở thành một đề tài của hội hoạ Thiền), đến chùa Thiếu Lâm ở Bắc Trung Quốc. Người ta không biết rõ Sư mất tại đó hay rời Thiếu Lâm sau khi truyền tâm ấn cho Huệ Khả. Theo một truyền thuyết thì Bồ-đề-đạt-ma về lại Ấn Độ sau chín năm lưu lại Trung Quốc. Sư có ý muốn hồi hương, trước khi về, gọi đệ tử trình bày sở đắc: "Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình". Đạo Phó bạch: "Theo chỗ thấy của tôi, muốn thấy đạo phải chẳng chấp văn tự, mà cũng chẳng lìa văn tự." Sư đáp: "Ông được lớp da của tôi rồi." Ni Tổng Trì nói: "Chỗ giải của tôi như cái mừng vui thấy nước Phật (tâm) bất động, thấy được một lần, sau không thấy lại nữa." Sư nói: "Bà được phần thịt của tôi rồi." Đạo Dục, một đệ tử khác, bạch: "Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải thật có, vậy chỗ thấy của tôi là không một pháp nào khả được." Sư đáp: "Ông được bộ xương của tôi rồi." Cuối cùng, đến phiên Huệ Khả. Huệ Khả lễ bái Sư rồi đứng ngay một chỗ, không bạch không nói gì cả. Sư bảo: "Ngươi đã được phần tuỷ của ta." Rồi ngó Huệ Khả, Sư nói tiếp: "Xưa Như Lai trao 'Chánh pháp nhãn tạng' cho Bồ tát Ca Diếp, từ Ca Diếp chánh pháp được liên tục truyền đến ta. Ta nay trao lại cho ngươi; nhà ngươi khá nắm giữ, luôn với áo cà sa để làm vật tin. Mỗi thứ tiêu biểu cho một việc, ngươi nên khá biết." Huệ Khả bạch: "Thỉnh Sư chỉ bảo cho." Sư nói: "Trong, truyền pháp ấn để khế chứng tâm; ngoài, trao cà sa để định tông chỉ. Đời sau, trong cảnh cạnh tranh, nếu có người hỏi ngươi con cái nhà ai, bằng vào đâu mà nói đắc pháp, lấy gì chứng minh, thì ngươi đưa bài kệ của ta và áo cà sa ra làm bằng. Hai trăm năm sau khi ta diệt rồi, việc truyền y dừng lại. Chừng ấy, đâu đâu người hiểu đạo và nói lý rất nhiều, còn người hành đạo và thông lý rất ít, vậy ngươi nên cố xiển dương đạo pháp, đừng khinh nhờn những người chưa ngộ. Bây giờ hãy nghe bài kệ của ta:" 吾本來玆土 傳法救迷情。 一華開五葉 結果自然成 Ngô bản lai tư thổ Truyền pháp cứu mê tình. Nhất hoa khai ngũ diệp Kết quả tự nhiên thành. Ta đến đây với nguyện, Truyền pháp cứu người mê. Một hoa nở năm cánh, Nụ trái trổ ê hề. Sư lại nói thêm: "Ta có bộ kinh Lăng Già bốn cuốn, nay cũng giao luôn cho ngươi, đó là đường vào tâm giới, giúp chúng sanh mở được cửa kho tri kiến của Phật. Ta từ Nam Ấn sang đến phương Đông này, thấy Xích Huyện Thần Châu có đại thừa khí tượng, cho nên vượt qua nhiều nơi, vì pháp tìm người. Nhưng bao nhiêu cuộc gặp gỡ không làm ta mất lòng, bất đắc dĩ phải ừ hử vậy thôi. Nay được ngươi để truyền thọ y pháp, ý ta đã toại!" Theo một thuyết khác thì Bồ-đề-đạt-ma sống đến 150 tuổi, cuối cùng bị đầu độc và được chôn ở Hồ Nam. Sau đó một vị tăng đi hành hương ở Ấn Độ về gặp Bồ-đề-đạt-ma trên núi Hùng Nhĩ. Bồ-đề-đạt-ma, tay cầm một chiếc dép, cho biết mình trên đường về Ấn Độ và Trung Quốc sẽ tiếp nối dòng Thiền của mình. Về tới Trung Quốc vị tăng này vội báo cho đệ tử, đệ tử mở áo quan ra thì không thấy gì cả, chỉ còn một chiếc dép. Vì tích này, tranh tượng của Bồ-đề-đạt-ma hay được vẽ vai vác gậy mang một chiếc dép. Bồ-đề-đạt-ma truyền phép thiền định mang truyền thống Đại thừa Ấn Độ, đặc biệt Sư chú trọng đến bộ Nhập Lăng-già kinh (sa. laṅkāvatāra-sūtra). Tuy nhiên, Thiền tông Trung Quốc chỉ thành hình thật sự với Huệ Năng, Tổ thứ sáu, kết hợp giữa thiền (sa. dhyāna) Ấn Độ và truyền thống đạo Lão, được xem là một trường phái đặc biệt "nằm ngoài giáo pháp nguyên thuỷ". Thiền tông Trung Quốc phát triển rực rỡ kể từ đời nhà Đường. Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì Bồ-đề-đạt-ma có thể từng đến Việt Nam (Giao Châu) cuối đời nhà Tống (420-447) cùng với một vị sư Ấn Độ tên là Pháp Thiên (sa. dharmadeva). Huệ Năng Huệ Năng (zh. huìnéng/ hui-neng 慧能, ja. enō), 638-713, là vị Tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Quốc, môn đệ và pháp tự của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Trước Huệ Năng, Thiền còn mang nặng ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đến đời Sư, Thiền bắt đầu có những đặc điểm riêng của Trung Quốc. Vì vậy mà có người cho rằng Sư mới thật sự là người Tổ khai sáng dòng Thiền tại đây. Huệ Năng không chính thức truyền y bát cho ai, nên sau đó không còn ai chính thức là truyền nhân. Tuy nhiên Sư có nhiều học trò xuất sắc. Môn đệ chính là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng là hai vị Thiền sư dẫn đầu hầu như toàn bộ các dòng Thiền về sau. Cả hai dòng này cũng được truyền đến Việt Nam qua các vị như Thảo Đường, Nhất Cú Tri Giáo, Vô Ngôn Thông và Chuyết Công. Sư là tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là "Kinh", một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền. Cũng nhờ Pháp bảo đàn kinh mà người ta biết được ít nhiều về Huệ Năng. Sư họ Lô (zh. 盧) sinh trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, lớn lên giúp mẹ bằng cách bán củi. Một hôm, trong lúc bán củi, nghe người ta tụng kinh Kim cương, Sư bỗng nhiên có ngộ nhập. Nghe người đọc kinh nhắc đến Hoằng Nhẫn, Sư liền đến tìm học. Hoằng Nhẫn nhận ra ngay căn cơ của Sư, nhưng không truyền pháp ngay, bắt tiếp tục chẻ củi, vo gạo. Truyền thuyết nổi tiếng về việc truyền tâm ấn cho Huệ Năng và việc phân đôi hai phái Thiền Nam-Bắc được kể lại như sau: Hoằng Nhẫn biết tới lúc mình phải tìm người kế thừa nên ra lệnh cho học trò mỗi người viết kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ. Cuối cùng chỉ có Thần Tú, một đệ tử với tri thức xuất sắc mới dám làm. Thần Tú viết bài kệ, so sánh thân người như cây Bồ-đề và tâm như tấm gương sáng và người tu hành phải lo lau chùi, giữ tấm gương luôn luôn được trong sáng. Sư đang làm việc trong bếp, nghe đọc bài kệ biết người làm chưa Kiến tính. Sư cũng nhờ người viết bài kệ của mình như sau: 菩提本無樹。明鏡亦非臺 本來無一物。 何處有(匿)塵埃 Bồ-đề bản vô thụ, minh kính diệc phi đài Bản lai vô nhất vật, hà xứ hữu (nặc) trần ai? Bồ-đề vốn chẳng cây, gương sáng cũng chẳng phải là đài Xưa nay không một vật, nơi nào dính bụi trần? Nghe bài kệ, Hoằng Nhẫn biết căn cơ của Sư vượt hẳn Thần Tú, nhưng sợ di hại nên nửa đêm gọi Sư vào thất và thuyết trọn kinh Kim cương cho Sư. Đến câu "Đừng để tâm vướng víu nơi nào" (ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm 應無所住而生其心), Sư hoát nhiên đại ngộ. Ngũ tổ truyền y bát cho Sư và khuyên đi về phương Nam. Khi tiễn Sư xuống thuyền, Tổ muốn tự chèo đưa Sư sang sông, Sư bèn nói: "khi mê thầy độ, ngộ rồi tự độ" và tự chèo qua sông. Suốt 15 năm sau, Sư ở ẩn, và trong thời gian này vẫn là cư sĩ. Sau đó, Sư đến chùa Pháp Tính ở Quảng Châu. Đó là nơi sản sinh công án nổi tiếng "chẳng phải gió, chẳng phải phướn" (Vô môn quan, công án 29). Sau khi Sư chen vào nói "tâm các ông động" thì Ấn Tông, vị sư trụ trì của chùa hỏi Sư "Nghe nói y pháp Hoàng Mai đã truyền về phương Nam, phải chăng là hành giả?" Lúc đó Sư mới nhận mình là truyền nhân của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Ấn Tông sai người cạo đầu cho Sư, cho Sư gia nhập Tăng-già rồi xin nhận Sư làm thầy. Sau đó, sư bắt đầu giáo hoá ở chùa Pháp Tính, về sau về Bảo Lâm tự ở Tào Khê và thành lập Nam tông, trong lúc đó Thần Tú và đệ tử thành lập Bắc tông và cũng tự nhận là truyền nhân của Ngũ tổ. Nam tông cho rằng, giác ngộ là một sự nhảy vọt bất ngờ, mang tính trực giác trong lúc Bắc tông chủ trương dùng suy luận, tu tập dần dần theo chỉ dạy của kinh sách mà giác ngộ. Trong cuộc tranh chấp giữa hai phái đốn ngộ (ngộ ngay tức khắc) và tiệm ngộ này, Nam tông đã chứng tỏ sinh lực của mình, sản sinh vô số Đại sư và trở thành truyền phái đích thật của Phật pháp tại Trung Quốc. Phái Thần Tú chỉ vài thế hệ sau là khô kiệt. Với Huệ Năng, được xem là người "ít học" nhất lại được truyền tâm ấn, Thiền đã qua một bước ngoặt quyết định, trở thành Thiền tông Trung Quốc với sự ảnh hưởng ít nhiều của đạo Lão. Các hiền triết Lão giáo cũng là những người cười nhạo văn tự, họ đã có ảnh hưởng lên cái "bất lập văn tự" của Thiền tông để từ sự dung hợp này, tất cả các tông phái Thiền Trung Quốc ra đời. Với Huệ Năng và các vị Đại sư nối tiếp, Thiền tông. Huệ Năng (zh. huìnéng/ hui-neng 慧能, ja. enō), 638-713, là vị Tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Quốc, môn đệ và pháp tự của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Trước Huệ Năng, Thiền còn mang nặng ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đến đời Sư, Thiền bắt đầu có những đặc điểm riêng của Trung Quốc. Vì vậy mà có người cho rằng Sư mới thật sự là người Tổ khai sáng dòng Thiền tại đây. Huệ Năng không chính thức truyền y bát cho ai, nên sau đó không còn ai chính thức là truyền nhân. Tuy nhiên Sư có nhiều học trò xuất sắc. Môn đệ chính là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng là hai vị Thiền sư dẫn đầu hầu như toàn bộ các dòng Thiền về sau. Cả hai dòng này cũng được truyền đến Việt Nam qua các vị như Thảo Đường, Nhất Cú Tri Giáo, Vô Ngôn Thông và Chuyết Công. Sư là tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là "Kinh", một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền. Cũng nhờ Pháp bảo đàn kinh mà người ta biết được ít nhiều về Huệ Năng. Sư họ Lô (zh. 盧) sinh trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, lớn lên giúp mẹ bằng cách bán củi. Một hôm, trong lúc bán củi, nghe người ta tụng kinh Kim cương, Sư bỗng nhiên có ngộ nhập. Nghe người đọc kinh nhắc đến Hoằng Nhẫn, Sư liền đến tìm học. Hoằng Nhẫn nhận ra ngay căn cơ của Sư, nhưng không truyền pháp ngay, bắt tiếp tục chẻ củi, vo gạo. Truyền thuyết nổi tiếng về việc truyền tâm ấn cho Huệ Năng và việc phân đôi hai phái Thiền Nam-Bắc được kể lại như sau: Hoằng Nhẫn biết tới lúc mình phải tìm người kế thừa nên ra lệnh cho học trò mỗi người viết kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ. Cuối cùng chỉ có Thần Tú, một đệ tử với tri thức xuất sắc mới dám làm. Thần Tú viết bài kệ, so sánh thân người như cây Bồ-đề và tâm như tấm gương sáng và người tu hành phải lo lau chùi, giữ tấm gương luôn luôn được trong sáng. Sư đang làm việc trong bếp, nghe đọc bài kệ biết người làm chưa Kiến tính. Sư cũng nhờ người viết bài kệ của mình như sau: 菩提本無樹。明鏡亦非臺 本來無一物。 何處有(匿)塵埃 Bồ-đề bản vô thụ, minh kính diệc phi đài Bản lai vô nhất vật, hà xứ hữu (nặc) trần ai? Bồ-đề vốn chẳng cây, gương sáng cũng chẳng phải là đài Xưa nay không một vật, nơi nào dính bụi trần? Nghe bài kệ, Hoằng Nhẫn biết căn cơ của Sư vượt hẳn Thần Tú, nhưng sợ di hại nên nửa đêm gọi Sư vào thất và thuyết trọn kinh Kim cương cho Sư. Đến câu "Đừng để tâm vướng víu nơi nào" (ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm 應無所住而生其心), Sư hoát nhiên đại ngộ. Ngũ tổ truyền y bát cho Sư và khuyên đi về phương Nam. Khi tiễn Sư xuống thuyền, Tổ muốn tự chèo đưa Sư sang sông, Sư bèn nói: "khi mê thầy độ, ngộ rồi tự độ" và tự chèo qua sông. Suốt 15 năm sau, Sư ở ẩn, và trong thời gian này vẫn là cư sĩ. Sau đó, Sư đến chùa Pháp Tính ở Quảng Châu. Đó là nơi sản sinh công án nổi tiếng "chẳng phải gió, chẳng phải phướn" (Vô môn quan, công án 29). Sau khi Sư chen vào nói "tâm các ông động" thì Ấn Tông, vị sư trụ trì của chùa hỏi Sư "Nghe nói y pháp Hoàng Mai đã truyền về phương Nam, phải chăng là hành giả?" Lúc đó Sư mới nhận mình là truyền nhân của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Ấn Tông sai người cạo đầu cho Sư, cho Sư gia nhập Tăng-già rồi xin nhận Sư làm thầy. Sau đó, sư bắt đầu giáo hoá ở chùa Pháp Tính, về sau về Bảo Lâm tự ở Tào Khê và thành lập Nam tông, trong lúc đó Thần Tú và đệ tử thành lập Bắc tông và cũng tự nhận là truyền nhân của Ngũ tổ. Nam tông cho rằng, giác ngộ là một sự nhảy vọt bất ngờ, mang tính trực giác trong lúc Bắc tông chủ trương dùng suy luận, tu tập dần dần theo chỉ dạy của kinh sách mà giác ngộ. Trong cuộc tranh chấp giữa hai phái đốn ngộ (ngộ ngay tức khắc) và tiệm ngộ này, Nam tông đã chứng tỏ sinh lực của mình, sản sinh vô số Đại sư và trở thành truyền phái đích thật của Phật pháp tại Trung Quốc. Phái Thần Tú chỉ vài thế hệ sau là khô kiệt. Với Huệ Năng, được xem là người "ít học" nhất lại được truyền tâm ấn, Thiền đã qua một bước ngoặt quyết định, trở thành Thiền tông Trung Quốc với sự ảnh hưởng ít nhiều của đạo Lão. Các hiền triết Lão giáo cũng là những người cười nhạo văn tự, họ đã có ảnh hưởng lên cái "bất lập văn tự" của Thiền tông để từ sự dung hợp này, tất cả các tông phái Thiền Trung Quốc ra đời. Với Huệ Năng và các vị Đại sư nối tiếp, Thiền tông Trung Quốc đi vào thời đại hoàng kim trong đời nhà Đường, nhà Tống. Và cho đến ngày nay, Thiền tông vẫn còn là nguồn cảm hứng sâu xa, vẫn là một pháp môn cho nhiều Phật tử. ông Trung Quốc đi vào thời đại hoàng kim trong đời nhà Đường, nhà Tống. Và cho đến ngày nay, Thiền tông vẫn còn là nguồn cảm hứng sâu xa, vẫn là một pháp môn cho nhiều Phật tử. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 10, 2009 Theo những tài liệu tôi được đọc qua thì đại ý cũng giống như những gì bạn nói,Và theo tôi nghĩ thì đó là nhứng điều đúng đắn. Và đoạn trên củng đã giải thích vì sao thiền tông truyền pháp ấn và tông chỉ và cũng chỉ truyền ngang đời Huệ Năng là dừng lại.Dừng lại là bởi các vị tổ sư biết sau này sẽ có nhửng con người như ông Lý đây không hành đạo,thông lý,nhưng lại nói lý rất nhiều. Ông lý bảo vào thiền tông các vị sư không dạy gì chỉ bảo chúng ta phải tự ngộ,thật sự là sai lầm Trong thiền tông các vị thiền sư dạy học trò bằng cách đưa ra các đề mục,hoc trò dỉ nhiên phải tự ngộ lấy .Cũng giống có viec chúng ta hỏi đường có người chỉ rồi thì chúng ta tự đi,chứ chẵng lẽ lại bắt người ta cõng mình đi hay sao. Tôi chỉ có đôi lời vậy thôi nếu có thời gian tôi sẽ viết bài để chỉ rõ những sai lầm của ông Lý,đó đều là những sai lầm căn bản và cố tình nhằm hủy hoại phật giáo . chúc an lành. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 10, 2009 2 bạn xác nhận 2 đoạn trích dẫn sau đây là chân thực không? Sư lại nói thêm: "Ta có bộ kinh Lăng Già bốn cuốn, nay cũng giao luôn cho ngươi, đó là đường vào tâm giới, giúp chúng sanh mở được cửa kho tri kiến của Phật. Ta từ Nam Ấn sang đến phương Đông này, thấy Xích Huyện Thần Châu có đại thừa khí tượng, cho nên vượt qua nhiều nơi, vì pháp tìm người. Nhưng bao nhiêu cuộc gặp gỡ không làm ta mất lòng, bất đắc dĩ phải ừ hử vậy thôi. Nay được ngươi để truyền thọ y pháp, ý ta đã toại!" Sư là tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là "Kinh", một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền. Cũng nhờ Pháp bảo đàn kinh mà người ta biết được ít nhiều về Huệ Năng. Sư họ Lô (zh. 盧) sinh trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, lớn lên giúp mẹ bằng cách bán củi. Một hôm, trong lúc bán củi, nghe người ta tụng kinh Kim cương, Sư bỗng nhiên có ngộ nhập. Nghe người đọc kinh nhắc đến Hoằng Nhẫn, Sư liền đến tìm học. Hoằng Nhẫn nhận ra ngay căn cơ của Sư, nhưng không truyền pháp ngay, bắt tiếp tục chẻ củi, vo gạo. Truyền thuyết nổi tiếng về việc truyền tâm ấn cho Huệ Năng và việc phân đôi hai phái Thiền Nam-Bắc được kể lại như sau: Hoằng Nhẫn biết tới lúc mình phải tìm người kế thừa nên ra lệnh cho học trò mỗi người viết kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ. Cuối cùng chỉ có Thần Tú, một đệ tử với tri thức xuất sắc mới dám làm. Thần Tú viết bài kệ, so sánh thân người như cây Bồ-đề và tâm như tấm gương sáng và người tu hành phải lo lau chùi, giữ tấm gương luôn luôn được trong sáng. Sư đang làm việc trong bếp, nghe đọc bài kệ biết người làm chưa Kiến tính. Sư cũng nhờ người viết bài kệ của mình như sau: 菩提本無樹。明鏡亦非臺 本來無一物。 何處有(匿)塵埃 Bồ-đề bản vô thụ, minh kính diệc phi đài Bản lai vô nhất vật, hà xứ hữu (nặc) trần ai? Bồ-đề vốn chẳng cây, gương sáng cũng chẳng phải là đài Xưa nay không một vật, nơi nào dính bụi trần? Nghe bài kệ, Hoằng Nhẫn biết căn cơ của Sư vượt hẳn Thần Tú, nhưng sợ di hại nên nửa đêm gọi Sư vào thất và thuyết trọn kinh Kim cương cho Sư. Đến câu "Đừng để tâm vướng víu nơi nào" (ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm 應無所住而生其心), Sư hoát nhiên đại ngộ. Ngũ tổ truyền y bát cho Sư và khuyên đi về phương Nam. Khi tiễn Sư xuống thuyền, Tổ muốn tự chèo đưa Sư sang sông, Sư bèn nói: "khi mê thầy độ, ngộ rồi tự độ" và tự chèo qua Share this post Link to post Share on other sites