Hà Uyên

VĂn HỌc SỨ SỞ MẶt TrỜi MỌc

1 bài viết trong chủ đề này

NHẬT BẢN LINH DỊ KÝ
(NIHONRYOIKI)



Nhật Bản linh dị ký, tên thường gọi là Linh dị ký, tên đầy đủ là Nhật Bản quốc hiện báo thiện ác linh dị ký (Nihonkoku gempozenaku ryoiki) là tập truyện cổ Phật giáo đầu tiên, viết bằng chữ Hán của Nhật Bản. Đây là một tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng văn học cổ điển Nhật Bản, phản ánh nhiều mặt của nền văn hóa Nhật Bản thời trung đại. Bài tựa sách đề năm Diên Lịch (Enryaku) thứ 6 (787).

Tác giả là Keikai, một nhà sư chùa Yakushi, ở phía nam Kinh đô Nara. Không rõ ông sinh ra và mất năm nào. Theo nhiều nhà nghiên cứu Nhật Bản thì có lẽ Keikai sinh vào khoảng những năm đầu thời Nữ hoàng Hiếu Khiêm (Kiken)(1), cho đến đầu thời Thiên hoàng Quang Nhân (Konin)(2). Ông là sư tăng tự độ, có vợ con, những vẫn tu hành Phật đạo. Không rõ ông xuất gia năm nào. Ông sống ở huyện Nakusa tỉnh Ki (nay thuộc tỉnh Wakayama). Do những cố gắng trong việc tu hành và truyền giáo, năm 795 ông được ban danh hiệu Truyền đăng trú vị(3). Ông viết Linh dị ký vào năm 787, hoàn thành năm 822. Hiện ở chùa Yakushi còn lưu giữ hai bản sao Linh dị ký vào năm Diên Bảo (Enho) thứ 7 (1088). Song bản sao được coi là cổ nhất phát hiện vào năm Đại Chính (Taisho) thứ 11 (1922) là bản sao năm Diên Hy (Engi) thứ 4 (904), tức bản sao sau 80 năm kể từ khi Linh dị ký ra đời. Bản sao này được coi là quốc bảo, hiện được lưu giữ ở Thư viên Quốc bảo (Quốc bảo quán ở tàng) chùa Kofuku, tỉnh Nara.

Linh dị ký gồm 3 quyển: Thượng, Trung, Hạ. Quyển Thượng có 35 truyện, quyển Trung có 42 truyện và quyển Hạ có 39 truyện, cả thảy là 116 truyện. Đầu mỗi quyển là lời Tựa, sau phần lớn mỗi truyện là lời Tán, xen kẽ trong các truyện là các đoạn thơ, ca dao. Có thể nói Linh dị ký là tác phẩm được viết dưới sự ảnh hưởng to lớn của Phật giáo. Các đề tài như chuyện về các thiền sư, chuyện về người có sức mạnh, chuyện sự trả ơn của súc vật, chuyện báo ứng luân hồi, chuyện ở hiền gặp lành, làm ác phải chịu quả báo… có liên quan đến sự linh nghiệm của đức Phật quan âm, Diệu Kiện bồ tát, Di lặc bồ tát, đến sự linh ứng của kinh điển và tượng Phật. Tất cả truyện kỳ lạ, linh nghiệm đều được dàn dựng gắn với hiện thực trên nền lịch sử có thật, được tác giả sắp xếp theo trục thời gian một chiều từ thời Thiên hoàng Hùng Lược (Yuryaku) (478)(4) cho đến hết thời Thiên hoàng Hằng Vũ (Kanmu) (781-806)(5). Cốt truyện tuy mộc mạc, đơn giản nhưng chủ đề chung bao trùm lên là đề cao cái đẹp nhân bản của con người: từ bi, bác ái, giữ gìn những đạo đức truyền thống như hiếu nghĩa, lòng thủy chung và sự hy sinh cao quý vì cộng đồng. Mặc dù các cốt truyện đều được xây dựng trên những tình tiết hoang đường kỳ ảo, song tác giả không có ý dẫn dắt người đọc thoát ly khỏi thế giới hiện thực. Trái lại, từ những câu chuyện tưởng như kỳ quái, tác giả hướng người đọc trở về với hiện thực bằng ý nghĩa giáo huấn của tác phẩm. Chính vì vậy Linh dị ký được phổ biến sâu rộng trong nhân dân, đi sâu vào niềm tin mang tính tôn giáo của người dân Nhật Bản.

Dưới đây, chúng tôi xin trích dịch 9 truyện trong Linh dị ký để bạn đọc tham khảo.

1. CHUYỆN BẮT THẦN SẤM

Sugaru thuộc dòng họ Chíiakobe là cận thần có tâm phúc, hộ vệ cho Thiên hoàng Hùng Lược (Yuryaku) hay còn gọi là Thiên hoàng Ohatsu Wakatake trị vì 23 năm ở cung Asakura ở Hatsuse. Thời Thiên hoàng sống ở cung Iware, Sugaru đã vô tình đi vào cung điện trong lúc Thiên hoàng đang cùng Hoàng hậu ân ái ở điện Daian. Thiên hoàng vô cùng xấu hổ không dám cùng Hoàng hậu tiếp tục chăn gối.

Khi đó trong không trung bỗng vang lên tiếng sấm. Thiên hoàng nghe thấy lập tức ra lệnh điệu Sugaru tới, hỏi rằng:

- Có phải nhà ngươi gọi thần Sấm đến không?

Sugaru đáp rằng:

- Bẩm thưa Thiên hoàng, thần mời thần Sấm đến đấy ạ.

Thiên hoàng nghe thấy thế bèn ra lệnh:

- Hãy mời thần Sấm đến cho ta.

Sugaru phụng lệnh Thiên hoàng, lui gót trở ra cung điện. Sugaru trên trán thắt dây sắn dây màu đỏ, vác một cây mâu trên có cắm lá cờ đuôi nheo nhỏ cũng màu đỏ, cưỡi con ngựa đi theo con đường trước chùa Toyora từ phía Yamada trước thôn Abe. Khi đến phố Morokoshi, ông lớn tiếng gọi:

- Hỡi thần Sấm trên trời, Thiên hoàng có lời mời ngài tới.

Nói rồi vừa cho ngựa quay trở lại vừa nói:

- Ngươi tuy là thần Sấm, nhưng vì cớ gì mà không nhận lời mời của Thiên hoàng ta.

Khi quay trở về đúng đến khoảng giữa chùa Toyora và Iioka đã thấy thần Sấm xuất hiện. Sugaru thấy thế lập tức gọi quan trông coi thần mang kiệu đến đưa thần Sấm về cung điện và tâu với Thiên hoàng rằng:

- Thưa Thiên hoàng, thần đã đón thần Sấm về rồi ạ.

Lúc đó thần Sấm bỗng loé chớp sáng rực. Thiên hoàng thấy thế vô cùng sợ hãi bèn dâng rất nhiều lễ vật và cho người rước thần Sấm về nơi đã giáng hạ. Bây giờ người ta vẫn gọi chỗ thần Sấm xuống là gò Ikazuchi. (Nay là phía bắc cung Oharida kinh đô cũ - Nguyên chú).

Về sau, khi Sugaru mất, Thiên hoàng ra lệnh làm lễ mai táng ông bảy ngày bảy đêm, ca tụng tấm lòng trung tín của ông và dựng mộ ông nơi thần Sấm giáng xuống, rồi lại dựng bia đề rằng: “Mộ của Sugaru, người đã bắt thần Sấm”. Thần Sấm thấy vậy vô cùng tức giận, giáng sấm sét xuống tấm bia, và nhảy xuống dẫm nát trụ bia. Nhưng cuối cùng thần Sấm lại bị kẹp chătụ vào vết nứt của trụ bia và lại bị bắt một lần nữa. Thiên hoàng nghe thấy chuyện đó, sai người gỡ ra, thần Sấm lần nữa lại thoát chết. Sau khi thoát ra ngoài, thần Sấm vẫn run bẩy bẩy, sợ hãi không thể bay về trời ngay được. Sau đó Thiên hoàng lại ra lệnh dựng lại bia và đề rằng: “Mộ Sugaru, người lúc sống bắt được thần Sấm, khi mất cũng bắt được thần Sấm”. Và tên gọi gò Ikazuchi có từ thời cố đô xưa (tức Asuka) chính là bắt nguồn từ câu chuyện kể trên.

2. CHUYỆN LẤY VỢ HỒ SINH CON

Ngày xưa, vào thời Thiên hoàng Khâm Minh (Kinmei, năm 539) (Thiên hoàng Kinmei còn gọi là Thiên hoàng Amekuni Oshiharuki hironiwa trị vì ở cung Kânzashi ở Shikishima - Nguyên chú), có người ở huyện ôn tỉnh Mino muốn lấy vợ bèn cưỡi ngựa đi tìm. Tình cờ gặp một cô gái xinh đẹp trên đồng cỏ. Thấy chàng trai cô gái liếc mắt đưa tình, chàng trai cũng ngây ngất nhìn cô. Thế rồi đi tới hỏi:

- Nàng đi đâu vậy.

Cô gái trả lời:

- Thiếp đi tìm người cùng kết duyên.

Chàng trai thấy vậy liền nói:

- Nàng có muốn làm vợ ta không?

Cô gái trả lời:

- Thiếp bằng lòng.

Chàng trai lập tức đưa cô gái về làm lễ cưới và cùng nhau chung sống. Chẳng bao lâu cô mang thai, sau sinh ra một cậu con trai.

Lại nói nhà chàng trai có con chó cái cũng đẻ con vào ngày 15 tháng 12. Con chó con mỗi lần gặp thiếu phụ cứ nhảy chồm lên, gầm gừ rồi bất ngờ xông ra cắn. Người thiếu phụ rất sợ bèn nói với chồng rằng:

Chàng hãy giết con chó con đi.

Người chồng thấy con chó con đáng thương không nỡ giết. Khoảng tháng 2, tháng 3, vào vụ giã gạo nộp thuế hàng năm, khi người thiếu phụ vào gian để cối giã gạo chuẩn bị bữa ăn trưa cho mấy cô gái, lập tức bị con chó mẹ xông ra đuổi cắn. Trong lúc hoảng hốt sợ hãi, người thiếu phụ liền biến thành con hổ chạy trốn, leo lên ngồi trên cái sọt. Người chồng thấy thế nói:

- Chúng ta chẳng phải đã có con với nhau sao? Ta làm sao quên được nàng, nàng hãy thường xuyên đến đây ngủ cùng ta nhé?

Nhớ lời chồng dặn, hổ thường xuyên đến và nghỉ lại. Vì vậy được đặt tên là “Kitsune”. Có một lần, người vợ mặc chiếc váy nhuộm hồng (bây giờ gọi là mầu hoa đào - Nguyên chú), thướt tha đi tới, rồi lại thững thờ bỏ đi. Người chồng nhớ tới người vợ đã bỏ đi, buồn rầu mà hát rằng:

Tình yêu có ở đời này, lúc nào cũng ở bên ta, làm ta day dứt.

Nếu là nàng hãy hiện ra giây lát.

Ta đau khổ vì người con gái trẻ nay không biết đã đi đâu…

Rồi đặt tên cho con trai của mình là Kitsune và họ Konoatae. Người con trai đó sau quả thành người có sức mạnh, đi như chim bay. Tên họ Konoatae ở tình Mino có liên quan đến câu chuyện kể trên.

3. CHUYỆN CHÚ BÉ CÓ SỨC MẠNH NHỜ SỰ HẢO TÂM CỦA THẦN SẤM

Ngày xưa vào thời Thiên hoàng Mẫn Đạt (Bitatsu, năm 572 - 585), (là Thiên hoàng Nunakura Futotamshiki trị vì ở cung Osada ở Iware - Nguyên chú), có một nông dân ở làng Katawa, quận Aichino tỉnh Owari. Một hôm, người nông dân đi dẫn nước vào ruộng thì trời bắt đầu mưa, liền chạy trú mưa dưới gốc cây, chống gậy sắt xuống đất. Lúc đó bỗng vang lên tiếng sấm, người nông dân sợ qúa vội cầm gậy sắt, chăm chăm lên nhìn trời, lập tức thần Sấm biến thành chú bé con xuất hiện trước mặt người nông dân. Người nông dân định dùng gậy sắt giết chết thần Sấm. Thần Sấm thấy thế vội nói rằng:

- Xin bác đừng giết tôi, nhất định tôi sẽ trả ơn cho bác.

Người nông dân hỏi rằng:

- Nhà người lấy gì để trả ơn cho ta.

Thần Sấm thưa rằng:

- Tôi sẽ cho bác một đứa con. Nhưng bác hãy vì tôi làm một máng nước bằng gỗ cây quế hương, dẫn nước vào và thả một lá tre xuống.

Người nông dân làm theo đúng lời thần Sấm dặn. Sau khi làm xong, thần Sấm lại nói:

Xin bác đừng tới gần máng nước.

Và cho ông lui ra. Bỗng mây đen kéo đến che kín bầu trời, lúc sau trên đầu chú bé mới sinh có hai con rắn cuộn tròn, đầu và đuôi rủ cả xuống phía sau.

Chú bé lớn lên được khoảng hơn mười tuổi, nghe tin triều đình có người rất khoẻ liền nảy ra ý định cùng người đó thử sức, bèn trẩy kinh lên sống ở gần cung điện vua. Lúc đó có một Thân vương, là người có sức mạnh không ai địch được, đến sống ở cung điện riêng, phía bắc chính cung. Ở góc phía đông bắc ấy có một hòn đá lớn cao 8 thước. Thân vương khoẻ bê hòn đá ném đi, nhưng hòn đá lại rơi vào cửa, chặn luôn cửa lại làm không ai có thể ra vào được. Chú bé tí hon nhìn thấy nghĩ bụng: có lẽ người này là Thân vương khoẻ nhất đây, nên chờ lúc đêm tối không ai nhìn thấy lẻn đến bê hòn đá, ném cách xa hơn Thân vương khỏe đến một thước. Thân vương khoẻ thấy thế vỗ tay, vặn người lấy hết sức bình sinh ném đá, nhưng cũng không thể ném xa hơn lần trước. Còn chú bé, lần này lại ném xa hơn tới hai thước. Thân vương khoẻ lại ném lần nữa, nhưng cũng chẳng xa hơn lần đầu. Thân vương khoẻ bèn đi ra chỗ chú bé đứng ném đá, thấy vết chân chú bé con hằn sâu trên mặt đất tới ba tấc. Thân vương nhìn thấy vết chân, nghĩ bụng ở đây chắc có chú bé con nào đó ném đá, định đi đến để bắt, nhưng khi Thân vương đến, chú bé đã chạy trốn. Thân vương đuổi thì chú bé chạy. Thân vương lại đuổi, chú bé liền chui qua hàng rào chạy trốn. Được một lúc lại chui qua tường quay trở lại. Thân vương liền nhảy qua tường đuổi theo, chú bé lại chui qua tường trốn đi. Cuối cùng Thân vương khỏe không thể nào bắt được chú bé. Ông ta nghĩ bụng: thằng bé này chắc khoẻ hơn ta, nên không đuổi theo nữa.

Về sau chú bé con vào làm tiểu ở chùa Gango. Tối tối lại có người chết ở gác chuông chùa. Chú thấy thế bèn nói với các sư tăng rằng:

- Xin cho con giải nạn cho người chết.

Các sư tăng đồng ý. Chú tiểu bèn lấy bốn cái đèn để bốn góc gác chuông và nói với bốn người rình ở bốn góc rằng:

- Nếu ta bắt được quỷ, tất cả các ngươi hãy cùng lúc mở chụp đèn ra.

Nói rồi chú bé nấp vào chỗ cánh cửa gác chuông. Nhưng phải chờ đến nửa đêm quỉ mới tới. Liếc thấy chú bé ở đó, quỷ không dám xuất hiện. Chờ đến canh tư quỷ mới dám đi vào gác chuông. Ngay lập tức, chú bé túm tóc đẩy vào trong. Bốn người đứng chờ sẵn đấy hoảng hốt, đứng ngây người ra, luống cuống không sao mở nổi chụp đèn. Chú bé vừa giữ quỷ vừa lần lượt mở chụp đèn ở bốn góc gác chuông. Gần sáng, quỉ phải chịu lột tóc mới trốn thoát được. Ngày hôm sau, khi lần theo vết máu quỉ đến ngã tư nơi chôn kẻ hầu ác bụng của nhà chùa mới vỡ lẽ, con quỉ ấy chính là linh hồn của người hầu xấu bụng đó. Mái tóc con quỉ được chùa Gango giữ lại sau trở thành vật báu của chùa.

Về sau chú bé trở thành Ubasoku (Tiếng Phạn là Upasaka, chỉ người tu tại gia - Người dịch chú) và vẫn tiếp tục sống ở chùa Gango. Một hôm, Ubasoku đi dẫn nước vào ruộng, nhưng các Thân vương lại không cho nước chảy vào ruộng chùa. Đến khi ruộng chùa khô nứt nẻ. Ubasoku nói với các sư tăng rằng:

- Hãy để tôi dẫn nước vào ruộng.

Các sư đồng ý. Thế rồi làm một cái mai mười người vác mới nổi mang đến cho ông. Ông vác mai và cây gậy sắt đứng đầu cửa ngòi nước. Các Thân vương ra giằng lấy mai của ông quẳng đi và đóng cửa ngòi nước lại. Ubasoku lần này vác hòn đá to trăm người bê không nổi đến chặn cửa ngòi nước lại và chỉ để một dòng nước chảy vào ruộng chùa. Các Thân vương thấy thế sợ hãi không dám chặn lại lần nữa. Vì vậy ruộng chùa không bị hạn, lại thu hoạt được nhiều thóc. Từ đó, các sư đã công nhận việc xuất gia đắc độ của Ubasoku và đặt tên cho ông là Đạo Trường Phát sư. Việc người đời sau truyền rằng: “Pháp sư Đạo Trường ở chùa Gango là người mạnh nhất”, có cơ sở từ câu chuyện kể trên. Pháp sư Đạo Trường sở dĩ có sức khoẻ hơn người là vì đã ra sức rèn luyện từ kiếp trước. Chuyện này là chuyện lạ ở Nhật Bản.

4. CHUỘC RÙA, LÀM VIỆC PHÓNG SINH, ĐƯỢC RÙA TRẢ ƠN

Thiền sư Gusai là người Bách Tế. Khi Bách Tế bị Tân La và nhà Đường xâm lược có một người là tổ tiên của Trưởng quan ở huyện Mitani, tỉnh Bingo, trong đoàn phái khiển quân đã xuất chinh sang cứu Bách Tế. Trước khi lên đường, ông cầu nguyện rằng:

- Nếu bình yên trở về, con sẽ xây chùa thờ thần phật.

Sau quả nhiên ông đã tránh được mọi tai họa và chiến thắng trở về. Khi đó ông mời Thiền sư Gusai cùng trở về xây dựng chùa Mitani. Ngoài ra, thiền sư còn xây dựng nhiều chùa chiền khác. Sư tăng các chùa và thiện nam tín nữ thấy vậy rất kính trọng thiền sư. Thiền sư còn bán gia sản của mình lên kinh đô mua vàng và sơn son thếp vàng để tạo tượng Phật. Trên đường trở về chùa Mitani, khi đến bờ biển Naniwa, ông thấy người ta bán bốn con rùa lớn bèn khuyên người khác bỏ tiền ra mua và thả xuống biển. Sau đó ông thuê thuyền mang theo hai chú tiểu ngày đêm rong ruổi vượt biển trở về. Trên đường về, có một hôm, trời đã về chiều, bóng tối lan dần, những người chèo thuyền nổi lòng tham, nhân lúc thuyền dừng lại ở đảo Kabane tỉnh Bizen, chúng bắt hai chú tiểu ném xuống biển và bức Thiền sư phải nhảy xuống biển. Thiền sư nhẹ nhàng khuyên giải, nhưng chúng cương quyết không nghe. Không có cách nào khác. Thiền sư bèn cầu nguyện rồi từ từ đi xuống biển. Khi nước vừa ngập đến ngang người thì chân Thiền sư chạm vào hòn đá. Đến sáng nhìn xuống thì ra đứng trên lưng con rùa. Thiền sư được rùa đưa đến bờ biển Bitchu, đến đây, rùa cúi đầu chào có lẽ là sự trả ơn của rùa khi được Thiền sư cứu sống.

Lại nói bọn cướp thuyền có sáu tên, chúng đến chùa Mitani để bán vàng và thếp vàng. Bậc đàn việt ra trước mặc cả giá, thiền sư từ phía sau đi ra xem. Liếc thấy thiền sư, chúng giật mình không biết tiến thoái thế nào. Thiền sư thấy vậy không nỡ bắt phạt. Thế rồi, Thiền sư tạo Phật tượng, trang trí tháp, cúng giàng tươm tất. Sau đó ông trở về sống ở vùng ven biển, ngày ngày giáo hóa chúng dân. Ông thọ hơn 80 tuổi.

Là con vật mà biết nghĩa lý, không quên trả ơn người đã cứu sống, huống hồ chúng ta lại có thể quên được sao.

5. CHUYỆN KỂ VỀ NGƯỜI TU HÀNH THEO PHÉP THẦN CHÚ CỦA KHỔNG TƯỚC MINH VƯƠNG, CÓ SỨC MẠNH KÌ LẠ, BIẾN THÀNH TIÊN BAY LÊN TRỜI

En Ubasoku là người họ En của dòng họ Kamo. Đại thần Takakamo Ason cũng là người xuất thân từ dòng họ này. Ông là người làng Chihara, huyện Kazurakinokami, tỉnh Yamato, sinh ra là người có học vấn vào bậc nhất, lại kính tin Tam bảo, coi đó là nghiệp của đời mình. Mỗi lần cầu nguyện, ông cưỡi mây ngũ sắc, bay lên không trung cùng tụ họp với các tiên nhân nơi tiên cung, vui chơi nơi thế giới vĩnh hằng, nằm nghỉ trên khu vườn đầy hoa, hít thở linh khí do mình nuôi dưỡng. Chẳng thế, hơn 40 tuổi ông vẫn còn sống nơi hang động, mặc áo thô bằng sợi cây sắn dây, ăn lá cây tùng, tắm nước suối trong, gột rửa bụi trần nơi trần thế, tu luyện theo kinh Khổng tước, chứng được pháp thuật linh nghiệm. Ông còn có thể sai khiến được quỷ thần, tự do tự tại trong mọi việc. Ông khuyến dụ quỷ thần, lệnh cho các thần rằng:

- Các thần hãy bắc cầu qua hai ngọn núi Kimpu (Kim phong) và Kazuraki (Cát Thành).

Các thần nghe vậy đều thở dài khó chịu.

Vào thời Thiên hoàng Văn Vũ (Mommu) trị vì thiên hạ ở cung Fujiwara, có thần Hitokotonushi ở núi Kazuraki nói xằng qua người khác rằng:

- Ubasoku họ En âm mưu lật đổ Thiên hoàng.

Thiên hoàng nghe thấy liền sai người định tới bắt Ubasoku. Nhưng do có sức mạnh phi thường nên không thể bắt ông được, họ liền quay ra bắt mẹ ông Ubasoku vì cứu mẹ nên đã chịu ra cho họ bắt. Ông lập tức bị lưu đày ở Izu. Lúc đó thân ông nổi trên mặt biển. Ông ngồi khom khom trên đỉnh núi cao vạn trượng rồi bay như chim phượng hoàng. Ban ngày ông tuân theo sắc lệnh của Hoàng thượng đến tu hành ở đảo. Ban đêm ông đi đến núi Phú Sĩ tỉnh Suruga để tu hành. Thế rồi ông xin được tha chém đầu và muốn trở về Kinh đô nơi Thiên hoàng đang sống, vì thế cho nên khi sắp bị hành hình ông lập tức bay lên đỉnh núi Phú Sĩ. Ông phải sống lưu đày ở Izu hơn ba năm. Thế rồi đội ơn lòng từ bi của Thiên hoàng, tháng giêng năm Tân Sửu niên hiệu Taiho (Đại Bảo) năm đầu, (701) ông được phép trở về gần Kinh đô. Cuối cùng ông trở thành tiên bay lên trời.

Có pháp sư Dosho người nước ta, phụng sắc lệnh sang Đường học đạo Phật. Lúc đó pháp sư tới Tân La (Hàn Quốc ngày nay) theo lời mời của Ngũ bách hổ và giảng kinh Pháp hoa ở núi đó. Lúc đó trong đám hổ có một người hỏi pháp sư bằng tiếng Nhật. Pháp sư liền hỏi:

- Ngươi là ai?

Người đó chính là Ubasoku. Pháp sư nghĩ: “Đây là thánh nhân của nước ta” liền từ trên tòa cao đi xuống tìm nhưng không thấy. Thần Hitokoto bị En Ubasoku niệm thần chú bắt, tới nay vẫn chưa được giải thoát.

Những chuyện kì lạ về sức mạnh huyền diệu của Ubasoku có rất nhiều, không kể xiết nên lược bớt đi. Chúng ta có thể thấy rằng pháp thuật Phật đạo rất rộng lớn. Những người quy y đạo Phật tất chứng được pháp thuật ấy.

Tạp chí Hán Nôm.



6. CHUYỆN KỂ NGANG NHIÊN CƯỚP ĐỒ VẬT CỦA NGƯỜI KHÁC LÀM ĐIỀU ÁC PHẢI CHỊU QỦA BÁO

Kashiwade no Omi Hirokuni là viên Thiếu lãnh ở huyện Miyako tỉnh Buzen. Vào thời Thiên hoàng Văn Vũ (Mommu) (697-707) trị vì thiên hạ ở cung Fujiwara, ngày 15 tháng 9, mùa thu năm Ất Tỵ, niên hiệu Khánh Vân (Kyoun) thứ 2 (705) Hirokuni đột nhiên mất. Nhưng qua ba ngày đến giờ Thân (3 giờ chiều) ngày Mậu (ngày 17) ông bỗng nhiên sống lại và kể lại câu chuyện sau:

- Có 2 sứ giả, một người búi tóc trên đầu, một là chú hầu nhỏ. Chúng tôi cùng nhau lên đường, đi qua khoảng 2 trạm nghỉ, gặp một con sông lớn. Trên sông có cây cầu, cầu sơn son thếp vàng. Chúng tôi qua cầu, khi sang tới bờ bên kia là nước hoàn toàn mới lạ. Tôi hỏi sứ giả rằng:

- Đây là nước nào?

Sứ giả trả lời:

Đây là nước Tonan.

Khi tới kinh đô của nước ấy có 8 người lính mang vũ khí đuổi theo. Phía trước có cung điện bằng vàng, khi vào cổng đã thấy Diêm Ma Pháp Vương ở đó. Ngài ngồi trên chiếc ghế bằng vàng và nói với tôi rằng:

Nay ta triệu ngươi tới đây vì chuyện ngươi bị vợ ngươi tố giác.

Rồi lập tức đưa một người phụ nữ ra. Tôi nhận ngay ra đấy là người vợ đã mất trước đây. Cô ấy bị đinh sắt đóng từ đỉnh đầu xuống tận hậu môn, từ trán xuyên qua gáy, chân tay trói bằng thừng sắt và bị 8 người giải đến. Diêm Vương hỏi:

- Ngươi có biết người đàn bà này không.

Tôi thưa rằng:

- Đây quả đúng là vợ tôi.

Diêm Vương lại hỏi:

- Ngươi có biết tội của ngươi là gì không.

Tôi trả lời rằng:

- Tôi không biết.

Diêm Vương quay sang hỏi người phụ nữ. Người phụ nữ đáp:

Dạ thưa biết. Ông ta đuổi tôi ra khỏi nhà, vì vậy tôi căm giận ông ta.

Đại vương quay sang nói với ta:

Ngươi vô tội. Ngươi có thể trở về nhà nhưng phải thận trọng không được hé cho ai biết chuyện dưới suối vàng này. Nếu muốn gặp cha ngươi, hãy đi về phương Nam.

Tôi liền đi tới đó, QUẢ thấy cha tôi. Ông đang bị đứng ôm cột đồng nóng rực, 37 đinh sắt đóng vào thân, lại còn bị đánh bằng roi sắt, sáng 300 roi, trưa 300 roi, tối 300 roi, cộng lại cả ngày bị đánh 900 roi. Ngày nào ông cũng bị đòn. Ta thấy vậy vô cùng thương tâm, than rằng:

- Than ôi, con không nghĩ cha lại khổ đến như thế này.

Người cha nói:

- Ta phải chịu khổ như thế này, con có biết không. Để nuôi dưỡng với vợ con có lúc ta giết súc vật. Cũng có lúc ta cho vạy 8 lạng bông ép lấy lãi thành 10 lạng. Cũng có lúc cho vay cân nhỏ ép lấy lãi cân lớn. Có lúc còn cưỡng đoạt đồ vật của người khác, cưỡng hiếp vợ người khác. Không chăm sóc cha mẹ già, không kính trọng người có tuổi, chửi mắng cả kẻ không phải người hầu của mình. Vì tội như vậy mà tấm thân bé nhỏ của ta bị 37 chiếc đinh đâm, mỗi ngày bị đánh 900 roi thật đau đớn khổ sở lắm. Ngày nào ta mới thoát tội, ngày nào thân ta mới được yên. Con hãy vì ta tạo ngay Phật tượng, viết kinh, chuộc lại tội lỗi cho ta. Dù thế nào cũng không được quên. (Năm ta mới mất) ngày mồng Bẩy tháng Bẩy, vì đói qúa biến thành con rắn lớn bò đến nhà con, định vào phòng thì bị con cầm gậy hất ta đi. Năm sau ngày mồng Năm tháng Năm, ta biến thành con chó nhỏ khi tới nhà con, con gọi con chó khác ra cắn đuổi, chẳng ăn được gì tức giận trở về. Lại vào ngày mồng Một tháng Giêng năm nay, ta biến thành con mèo vào nhà con, đêm đó ta được ăn no thịt và các lễ vật dâng cúng. Ta phải nhịn đói ba năm, mãi đến lúc đó mới được ăn. Ta là kẻ phi đạo lý, coi thường anh em, trên dưới, nên phải biến thành con chó lúc nào cũng sùi bọt mép. Ta lẽ nào không thể trở thành con chó nhỏ màu đỏ được sao?

Phàm kẻ bố thí một thăng gạo, sẽ được hưởng đồ ăn trong 30 hôm. Bố thí một bộ quần áo sẽ được quần áo mặc cả năm. Người cầu khẩn nhà sư đọc kinh, sau khi chết được ở cung điện bằng vàng ở phương Đông, kiếp sau được tùy ý sinh ra ở trên trời. Người tạo tượng Phật Bồ tát được sinh ra nơi Tây phương vô lượng tịnh thổ. Người phóng sinh được vãng sinh nơi Bắc phương cực lạc. Kẻ ăn chay một ngày được hưởng lương thực trong mười năm. Khi tới Địa Ngục tôi thấy được sự “ác giả ác báo, thiện giả thiện báo”. Sau đó, ta loanh quanh định ra khỏi Địa Ngục thì thấy có đứa trẻ vội đi tới qùy lạy. Đứa trẻ liền gọi tôi và đưa tôi đến cạnh cửa bên, đẩy cửa mở. Khi tôi định đi ra đứa trẻ nói với tôi rằng:

- Hãy đi mau đi.

Tôi liền hỏi đứa trẻ:

- Ngươi là con vị nào.

Cậu bé trả lời:

- Ông muốn biết ta là ai ư? Ta là kinh quan Âm Bồ Tát được nhà ngươi viết lúc còn nhỏ.

Thế rồi tôi trở về nhà, và bỗng nhiên thấy mình sống lại.

Hirokuni xuống suối vàng thấy rõ việc ở hiền gặp lành, làm ác phải chịu quả báo, liền đem chuyện đó kể lại với mọi người. Chuyện gây tội ác phải chịu quả báo cũng được nói nhiều trong kinh Đại thừa, ai dám không tin. Trong kinh có ghi rằng: “Hiện thế cam lộ, vị lại thiết hoàn” là nói về chuyện này chăng.

Hirokuni từ đó hết lòng vì cha tạo tượng Phật, chép kinh, cúng giàng Tàm bảo, đền đáp công ơn cha mẹ, chuộc lại lỗi lầm, về sau dốc lòng quy chính.

7. QUỶ SỨ CUNG DIÊM MA VƯƠNG BÁO ĐỀN ƠN ĐƯỢC MỜI CƠM

Ở huyện Yamada tỉnh Snuki có một người phụ nữ tên gọi là Nunoshiki no Omi Kinume. Vào thời Thiên hoàng Thánh Vũ (Shomu, 724-749), Kinume bỗng nhiên bị bệnh nặng. Cô bèn chuẩn bị rất nhiều món ăn ngon đặt ở hai bên cửa cúng thết thần dịch bệnh. Thế rồi quỷ sứ ở Diêm Ma Vương được lệnh đi bắt cô. Qua mấy ngày đi tìm, quỷ sứ thấy mệt và đói, nhìn thấyn lễ vật dâng cúng bọn chúng liền ngọt nhạt xin ăn. Thế rồi quỷ sứ nói với Kinume rằng:

- Ta đã ăn cơm của nhà ngươi nên sẽ báo lại ơn này. có người nào cùng họ tên với nhà ngươi không ?

Kinume trả lưòi:

- Ở huyện Utari cùng tỉnh có người cùng họ Kinume.

Quỷ sứ liền dắt cô đi đến nhà cô gái ở huyện Utari. Khi gặp cô gái đó, lập tức có cái đục một thước từ trong túi đỏ hiện ra đánh vào trán cô gái, rồi cứ thế quỷ sứ đưa cô gái đó đi. Còn cô Kinume huyện Yamada lén trở về nhà. Lúc đó Diêm Ma Vương đợi Mikinume tới, xem xét, thấy cô Diêm Ma Vương nói:

- Đây không phải Kinume ta cho gọi. Nhầm người này rồi. Thôi, cô cứ tạm ở lại đây. Bọn bay hãy triệu ngay Kinume của huyện Yamada tới đây ngay.

Bọn quỷ không dấu được buộc phải đi đến huyện Yamada đưa cô gái đó về. Diêm Ma Vương đợi thấy cô liền nói rằng:

- Đây đúng là Kinume mà ta cho gọi.

Cô Kinume huyện Utari trở về nhà, qua 3 ngày, ở nhà đã thiên thân thể của cô. Cô đành quay trở lại thưa với Diêm Ma Vương rằng:

- Thân thể của con đã mất rồi, không còn nơi nào nương tựa cả.

Diêm Vương lập tức hỏi:

- Thây của Kinume huyện Yamada có còn không ?

Cô trả lời:

- Dạ thưa còn.

Diêm Ma Vương liền ra lệnh:

- Ngươi hãy lấy thi thể đó làm thân nhà ngươi.

Vì vậy cô Kinume huyện Yamada sống lại trở thành cô Kinume huyện Utari. Tỉnh lại cô nói rằng:

- Đây không phải là nhà của ta. Nhà của ta ở huyện Utari kia.

Bố mẹ cô thấy vậy nói rằng:

- Con là con của chúng ta. Tại sao con nỡ nói như vậy.

Kinume không nghe, cô trở về nhà ở huyện Utari. Về đến nhà cô nói:

- Đây quả là nhà ta rồi.

Khi gặp cha mẹ, cha mẹ cô không nhận, nói rằng:

Cô không phải con gái chúng ta. Con gái ta chết, đã làm lễ hỏa táng rồi.

Kinnume liền thuật lại lệnh chỉ của Diêm Ma Vương. Thế rồi cha mẹ cô ở cả 2 huyện nghe chuyện đó, bằng lòng nhận cô làm con và chia tài sản cho cô. Vì vậy cô Kinnume này có 4 cha mẹ và tài sản của cả hai gia đình. Công đức làm cơm dâng quỷ thần không phải vô ích. Nguời có tài sản như vậy nên làm cơm cúng giàng. Đây cũng là chuyện lạ.

8. CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI BỊ ÁC QUỈ ĐẦY ĐOẠN VÀ ĂN THỊT

Vào thời Thiên hoàng Shomu (Thánh Vũ), người trong nước thường hát bài ca rằng:

Ai muốn lấy ngươi, con gái nhà Ai muốn lấy ngươi, con gái nhà Yorozu ở thôn Amuchi ơi !

Nam mô, nam mô.

Tiên ông trong núi uống đến một thạch rượu rồi đi thuyết pháp.

Sau đó... cô Yorozu trở thành tì thiếp của tiên ông”.

Đương thời, ở phía đông làng Amuchi huyện Tochi tỉnh Yamato, có một gia đình rất giàu có. Họ là Kagamitsukuri no Miyatsuko. Gia đình đó có một người con gái tên gọi là Yorozu no ko, chưa lấy chồng, cũng chẳng có quan hệ với chàng trai nào. Cô là trang thiếu người tử tế đến dạm hỏi song cô từ chối chưa muốn lấy ai.

Vài năm trôi qua, có một chàng trai đem rất nhiều lễ vật tới hỏi cô làm vợ. Ba cỗ xe chở đầy tấm lụa đẹp. Cô gái thấy thế liền ưng thuận, gần gũi thân mật với chàng và bằng lòng với lời cầu hôn của chàng, thế rồi cùng nhau ân ái. Đêm hôm đó, trong phòng ngủ của đôi vợi chồng trẻ, ba lần có tiếng kêu rên phát ra:

- Ôi đau quá, đau quá.

Cha mẹ cô gái nghe thấy vậy, nói với nhau rằng:

- Có lẽ chưa quen nên thấy đau.

và ngủ luôn chẳng cần để ý gì nữa. Sáng ngày hôm sau, không thấy đôi vợ chồng trẻ dậy, bà mẹ liền gõ cửa phòng ngủ, cất tiếng gọi nhưng không thấy ai trả lời. Bà thấy lạ bèn mở cửa thì trong phòng chỉ còn có cái đầu lâu và một ngón tay còn sót lại, tất cả đã bị ăn hết. Ông bà sợ qúa ra xem lại đồ sính lễ thì thấy những tấm lụa đẹp đã biến thành xương xẩu các loài thú vật. Cả ba cỗ xe cũng đã biến thành gỗ cây Gumi. Mọi người khắp nơi nghe chuyện bẻn kéo đến xem, ai cũng sửng sốt ngạc nhiên. Cha mẹ cô đặt chiếc đầu của cô vào chiếc hòm rất đẹp, sáng ngày thứ 7 làm lễ cúng cơm chay trước Phật. Có lẽ điềm báo trước tai họa đó là bài hát đó chăng. Có người nói đó là việc kỳ quái của thần, cũng có người cho rằng bị quỉ sứ ăn thịt. Nghĩ kĩ lại có lẽ là do thù hằn của kiếp trước chăng. Đây cũng là chuyện lạ.

9. CÔ GÁI NGHÈO KIẾT XÁC, CẦU PHÚC TUỢNG PHẬT QUAN ÂM NGHÌN TAY, TRỞ THÀNH NGƯỜI GIÀU CÓ

Amanotsukai Minome là người phường 2, khóm 9, ở Tả kinh Nara. Bà sinh hạ được 9 người con nên nghèo tới mức chẳng có gì so sánh được. Không có gì để sống, bà liền đi cầu phúc tượng Quan Âm ngàn tay ở chàu Amaho. Chưa đầy một năm, vào ngày mồng Mười tháng Mười, mùa đông năm Quý Mão, niên hiệu Thiên Bình Bảo Tự (Tempyohoji) thứ 7 (763), đời Thiên hoàng Thuần Nhân (Junnin), không ngờ em gái bà lại lặn lội tới thăm và gửi lại bà chiếc rương bằng da. Chân người em gái bị phân ngựa dây bẩn cả. Cô em gái nói với bà rằng:

- Em sẽ quay trở lại ngay, chị cho em để chiếc rương bằng da ở đây.

Nhưng bà chờ mãi không thấy em mình trở lại, bèn đi đến chỗ người em hỏi. Người em nói với bà rằng:

- Em không biết.

Bà lấy làm lạ bèn mở chiếc rương ra xem, thấy có 100 quan tiền ở trong đó. Thế rồi, cũng như mọi bận bà mua hương hoa dầu đèn đi đến dâng trước tượng Quan Âm ngàn tay. Bà thấy chân pho tươợng có phân ngựa dây bẩn vào. Bà tự hỏi: Số tiền này chẳng phải Quan Âm cho tay hay sao. Sau ba năm, số tiền 100 quan dùng để sửa chùa để ở viện ngàn tay của chùa Amaho tự nhiên mất. Chúng ta có thể hiểu rằng số tiền ở trong rương bằng da đó, chính là số tiền của chùa. Qủa thật số tiền đó là tiền Quan Âm đã ban cho bà. Lời tán rằng:

Thiên thay! người mẹ,
Amanotsukai Minome.
Sáng nhìn con đói,
Nước mắt trào rơi.
Tối dâng hương hoa,
Nguyện cầu đức Phật.
Tiền tự vào nhà,
Sầu nghèo tiêu tán
Quan Âm ban phúc,
Được giàu có ra.
Nuôi con đầy đủ,
Áo quần tinh tươm.
Chính nhờ Quan Âm,
Từ bi cứu giúp.
Đó là công đức,
Dàng cúng hương hoa.

Trong kinh Niết bàn cũng ghi rằng: “Vì yêu thương con hết mực nên được vãng sinh nơi thế giới trần tiên” là nói về chuyện này vậy. Đây cũng là chuyện lạ.

CHÚ THÍCH

(1). Nữ hoàng Hiêu Khiêm (Koken): Thiên hoàng đời thứ 46, tên là Abe, con gái thứ hai của Thiên hoàng Shomu (Thánh Vũ) và hoàng hậu Komei (Quang Minh). Bà ở ngôi từ năm 749 - 758. Cũng có thuyết cho là từ năm 718 - 770.

(2). Thiên hoàng Quang Nhân (Konin): Thiên hoàng đời thứ 49, tên là Shirakabe, con trai thứ 6 của Thân vương Shiki. Ông ở ngôi từ năm 770 - 781. Cũng có thuyết cho là từ năm 709-781.

(3). Truyền đăng trú vị: Chức thứ 3 trong sư tăng. Đó là Truyền đăng đại pháp sư vị; Truyền đăng pháp sư vị; Truyền đăng trú vị và Truyền đăng nhập vị. “Truyền đăng” chỉ sự tiếp nối không ngừng của Phật pháp, sự thắp sáng mãi, không lúc nào tắt.

(4). Thiên hoàng Hùng Lược (Yuryaku): Thiên hoàng đời thứ 21, tên là Ohatsuse wakatakeru, con trai thứ 5 của Thiên hoàng Doãn Cung (Inkyo). Ông ở ngôi khoảng giữa thế kỷ thứ V.

(5). Thiên hoàng Hằng Vũ (Kanmu): Thiên hoàng đời thứ 50, tên là Yamanobe, con trai thứ 2 của Thiên hoàng Quang Nhân (Konin). Ông ở ngôi từ năm 781-806. Cũng có thuyết cho là từ năm 737-806.

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay