VuongChu

Khoa Học Hiện đại Hé Lộ Các Không Gian được Nói Tới Trong Pháp Luân Đại Pháp

8 bài viết trong chủ đề này

Các nhà khoa học khám phá ra sự tồn tại của nhiều thế giới

Tác giả: Mo Xinhai

Liệu có ai đã từng tưởng tượng, trong khi nhìn lên bầu trời đầy sao, rằng trong vũ trụ bao la cự đại này có vô số vũ trụ song song đang đồng thời tồn tại? Các nhà khoa học đã khám phá ra rằng có nhiều ‘phiên bản’ của mỗi chúng ta tại vô số các thế giới trong vũ trụ, nơi mà mỗi ‘phiên bản’ trong chúng ta làm những việc không tương đồng. “Tất cả các sự kiện có thể xảy ra, tất cả các sự biến đổi có thể nhận thức được trong đời sống của chúng ta, phải tồn tại.” [1] Tất cả các loại vật chất điều có đặc tính riêng của chúng, cũng như hình thức tồn tại và tiến hóa riêng của chúng, ở mỗi thế giới. Điều này nghe có vẻ rất huyền bí, nhưng học thuyết “nhiều thế giới” chính là sự giải thích sáng tỏ của cơ học lượng tử.

“Sự tín nhiệm đã đến với Hugh Everett, người có luận án tiến sĩ được trình bày lần đầu tiên tại Princeton vào năm 1957, trong đó coi thuật ngữ “nhiều thế giới” là sự giải thích của thuyết cơ học lượng tử.” [1] Sau này, Tiến sĩ John Wheeler đã phát triển học thuyết này xa hơn nữa. Tiến sĩ Wheeler là nhà vật lý thiên văn nổi tiếng nhất tại Mỹ, một chuyên gia về Thuyết Tương đối, và là một trong những lãnh đạo của đội dự án Manhattan nhằm phát triển kế hoạch bom nguyên tử, cũng như đội chế tạo bom hydro trong Chiến tranh Thế giới II. Năm mươi năm sau, học thuyết “nhiều thế giới” tiếp tục thu hút nhiều thế hệ các nhà vật lý, những người đã cống hiến cho sự nghiệp phát triển học thuyết này. Giáo sư vật lý danh tiếng, ông David Deutsch tại Đại học Oxford là đại diện cho các nhà vật lý này.

Tiến sĩ Deutsch là “một trong những nhà vật lý học lý thuyết hàng đầu trên thế giới.” [1] Tạp chí Discover đã có một cuộc phỏng vấn đặc biệt với Tiến sĩ Deutsch và xuất bản một bài báo trong tháng 9 năm 2001, trong đó ông Deutsch giải thích ngắn gọn về học thuyết “nhiều thế giới.”

Kể từ khi thế kỷ 20 bắt đầu, các nhà vật lý học lượng tử đã bị sửng sốt bởi một số hiện tượng mà dường như xung khắc với thế giới vật lý rộng lớn của Newton và Einstein. “Theo phạm trù của thuyết lượng tử, các đối tượng dường như mơ hồ và khó phân biệt, như thể chúng được tạo ra bởi một vị thần ngốc nghếch. Một lạp tử đơn không chỉ chiếm vị trí tại một nơi, mà ở nhiều nơi và cả ở giữa những nơi đó.” [1] Những hiện tượng này hoàn toàn khác biệt với những kinh nghiệm hàng ngày của chúng ta, và làm đau đầu hầu hết các nhà vật lý.

Các nhà vật lý đã cố gắng giải thích những hiện tượng này, nhưng nói một cách nghiêm túc, không có lời giải thích thỏa đáng nào về mặt toán học. Không cần đợi đến những năm 1950, khi mà điều huyền bí được giải quyết bởi “học thuyết nhiều thế giới.” Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mỗi electron trong các thí nghiệm “dường như có thể tồn tại ở nhiều vị trí khác nhau cùng một lúc – nhưng chỉ khi không có ai đang quan sát. Ngay khi một nhà vật lý cố gắng quan sát một lạp tử, lạp tử ấy bằng cách nào đó đã định tại một vị trí, như thể là nó biết rằng nó đã bị phát hiện.” [1]

“Để giải thích sự mâu thuẫn này, đa số các nhà vật lý đã chọn một phương án dễ dàng: Họ hạn chế tính hiệu lực của thuyết lượng tử trong thế giới hạ nguyên tử (mức vi quan ở dưới mức nguyên tử). Nhưng ông Deutsch đã lý luận rằng quy luật của học thuyết phải có tính xác thực tại mỗi mức [vi quan]. Bởi vì mọi thứ trên thế giới này, bao gồm cả chúng ta, được cấu thành bởi những lạp tử này, và bởi vì thuyết lượng tử đã được chứng minh là không thể sai lầm ở mỗi thí nghiệm có thể nhận biết, các quy tắc lượng tử kỳ cục này phải được áp dụng cho chúng ta. Chúng ta, cũng như vậy, phải tồn tại ở nhiều trạng thái cùng một lúc, thậm chí cả nếu chúng ta không nhận ra nó. Phải có nhiều ông David Deutsch, nhiều trái đất, và nhiều vũ trụ [đồng thời tồn tại]. Chúng ta không chỉ sống trong một vũ trụ đơn, theo như ông Deutsch, mà phải trong một vũ trụ rộng lớn hay là “đa vũ trụ.” [1]

“Dưới điều kiện bình thường, chúng ta không bao giờ phải đối mặt với những hiện thực đa chiều như trong cơ học lượng tử. Chúng ta chắc chắn không thể nhận thức được những ‘cái tôi’ khác đang làm gì. Chỉ trong những điều kiện được kiểm soát một cách cẩn thận, như trong thí nghiệm hai khe hở (two-slit), chúng ta mới có được gợi ý về sự tồn tại của điều mà ông Deutsch gọi là “đa vũ trụ.” [1] Ông Deutsch, một bậc thầy trong lĩnh vực vật lý học lý thuyết, tin rằng không có cách nhìn nhận khác về cơ học lượng tử. Những thí nghiệm này được xây dựng dựa trên những phương trình toán học nghiêm ngặt và được lặp đi lặp lại nhiều lần.

Trong đoạn cuối bài báo, “Ông Deutsch lý luận rằng các nhà vật lý, những người sử dụng cơ học lượng tử một cách vị lợi – và điều đó có nghĩa rằng hầu hết các nhà vật lý đang làm việc trong lĩnh vực hiện nay – thật thiếu can đảm. Họ đơn thuần không thể chấp nhận sự kỳ bí của hiện thực lượng tử. Đây có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử, ông nói, các nhà vật lý đã từ chối tin vào những gì mà học thuyết đang thịnh hành nói về thế giới. Đối với ông Deutsch, điều này giống như Galileo từ chối tin rằng Trái đất quay xung quanh Mặt trời và sử dụng mô hình nhật tâm của hệ mặt trời chỉ để dự đoán vị trí của các ngôi sao và hành tinh trên bầu trời. Giống như các nhà vật lý hiện đại, những người cho rằng lượng tử ánh sáng (photon) vừa là dạng sóng vừa là dạng hạt, lúc ở chỗ này lúc ở chỗ kia, Galileo có thể lý luận rằng Trái đất vừa chuyển động vừa đứng im cùng một lúc và các sinh viên mới ra trường chế nhạo rằng điều này có nghĩa là gì vậy.” [1]

Posted Image

Bức ảnh 1: Sự giải thích “nhiều thế giới” của cơ học lượng tử đề xuất rằng những sinh viên này tại Oxford, cũng như trong số chúng ta, có hai bản sao giống hệt nhau trong vô số các vũ trụ khác.

Posted Image

Bức ảnh 2: Theo quan điểm của ông Deutsch, mỗi sự lựa chọn mà chúng ta từng có trong cuộc sống, bao gồm cả việc đi bộ qua một cánh cổng hay là đi xuyên qua nó, được thực hiện bởi ít nhất một ‘cái bóng’ của chúng ta trong ‘đa vũ trụ’ lượng tử.

http://chanhkien.org/2141.html

Share this post


Link to post
Share on other sites

Do chủ đề về PLC bên Giác Ngộ bị khóa nên tôi mượn tạm topic này để trao đổi với Vuong Chu

  Quote

Kính gửi anh vulam77!

.......

Đương thời Ngài có 10 vị đại đệ tử, mà Mục Kiều Liên, Liên Hoa Sắc đều là những vị có thần thông siêu đẳng. Vì lý do gì mà sau này Phật Thích Ca Mâu Ni cấm các đệ tử không được sử dụng thần thông? Vì lý do gì vậy?

Không biết VuongChu có phải gửi để trả lời tôi không vì tôi là vulam74 ? [:P]

Tôi không có ý định hỏi VuongChu các chứng nghiệm về "thần thông", cái mà người ta hay gọi là "Công năng đặc dị". Thực chất các công năng đó đã có sẵn trong chúng ta, chẳng qua ta chưa khai mở được thôi. Mà giả sử có khai mở được đi chăng nữa thì với tâm tính chưa được tốt e rằng nó sẽ tác động không nhỏ đến an sinh xã hội mất, về vấn đề này thì rất nhiều người cũng đã nói, ta không cần bàn đến. Trong quá khứ và ngay cả hiện nay cũng có một số người do được thọ nhận "trách nhiệm" nào đó mà họ có được một vài quyền năng (công năng đặc dị), họ sử dụng chúng đa phần để tăng thêm tín tức cho người đời, để người đời tin tưởng vào các đấng linh thiêng mục đích cuối cùng có lẽ cũng là dẫn dắt chúng sinh đến "giác".

  Quote

Theo hiểu biết hạn hẹp của cá nhân tôi thì thế này: con người ở trong mê cần phải ngộ, cần phải tự họ thay đổi chính tâm của họ. Các môn được coi là chính pháp môn xưa nay đều làm vậy; dù là Phật Giáo hay Đạo Giáo hoặc như Pháp Luân Đại Pháp hiện nay cũng vậy ([:rolleyes:][:P][A]nói vậy không phải có nghĩa là VuongChu có thần thông đâu nhé, chỉ là ngụ ý vậy thôi).

Cái tôi muốn hỏi là cái từ "Ngộ" trong câu (bolded) mà VuongChu trích trong Chuyển Pháp Luân ý.

Chúc tinh tấn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vâng chào anh Vũ Lâm, là trao đổi với anh! Ý Vũ Lâm là VuongChu đã không đúng khi trích dẫn câu từ trong Chuyển Pháp Luân sao?

Share this post


Link to post
Share on other sites
  VuongChu said:

Vâng chào anh Vũ Lâm, là trao đổi với anh! Ý Vũ Lâm là VuongChu đã không đúng khi trích dẫn câu từ trong Chuyển Pháp Luân sao?

Tôi không nói về việc VuongChu trích dẫn hay không trích dân mà tôi muốn hỏi:

  Quote

VuongChu có thể nói về các chứng nghiệm khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp của bản thân?

Share this post


Link to post
Share on other sites
  VuongChu said:

VuongChu đã trả lời cái ý tổng quát rồi đó...

VuongChu trả lời nhanh quá, có lẽ chính vì vậy mà không đọc kỹ.

  Quote

VuongChu có thể nói về các chứng nghiệm khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp của bản thân?

Tôi nghĩ rằng để việc GTCT được tốt hơn thì tất cả các Đệ tử ĐP nên chăng thử suy nghĩ theo cách "cho cái người ta cần chứ đừng đưa cái mà mình có". VuongChu thử xem lại toàn bộ các đối đáp của một số các đệ tử ĐP với những người khác trên các diễn đàn xem, có nên để những điều không đáng có như vậy không? e rằng như vậy cũng là gián tiếp phá hoại "Pháp" đó.

Bài giảng thứ 6, mục "Tâm Lý hiển thị" rất hay :rolleyes:

Chúc tinh tấn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cảm ơn Vũ Lâm! Thực ra mình đã nhận thấy Thiện Niệm của bạn rồi.

Khi mình và rất nhiều người khác đã có cơ duyên biết và theo Pháp Luân Đại Pháp. Khi đắc Pháp thường sản sinh ra chủng tư tưởng hoan hỉ vô cùng to lớn, bởi vì đây là thứ mà người có tâm cầu Đạo mong mỏi, họ đã tìm thấy ý nghĩa chân thực của đời sống con người khi đọc Pháp này. Thế nên tâm hoan hỉ vui sướng vô cùng to lớn, nhiều khi nói đùa rằng "tâm hoan hỉ cao vọt ngoài Tam giới". Thế cơ đấy Vũ Lâm.

Mọi người khác quả là khó mà hiểu được cảnh giới tư tưởng của họ, Sư Phụ đã truyền thụ cho họ thiên cơ, bí mật vũ trụ cũ, chỉ ra con đường tu luyện lên cao tầng. Điều này mọi người khác cũng không hiểu và cảm thụ được. Vũ Lâm cũng biết khi Phật Như Lai Thích Ca truyền Pháp, 10 đại đệ tử của ông là ai không? Họ đều là những người đã tu luyện cùng Ông, đã luôn hồi cùng ông biết bao nhiêu là kiếp. Vậy nên khi Phật Thích Ca khai công, khai ngộ đắc chính quả thì các đệ tử của ông cũng lần lượt được an bài thành đệ tử của Ông. Chuyện là như thế. Cho nên không phải ngẫu nhiên một người dễ dàng trở thành học viên Pháp Luân Đại Pháp, trở thành đệ tử của Sư Phụ. Cũng có khá nhiều người đã biết Pháp nhưng không theo được Pháp hoặc có thái độ khác nhau, dửng dưng hoặc là chống lại. Chuyện là như thế Vũ Lâm à.

Còn nhiều chuyện khác nữa không tiện nói, khi nào duyên bạn đến kỳ hạn, bạn chân chánh theo và được cấp Pháp Luân để tu luyện thì lúc đó bạn sẽ lí giải được. Bạn cũng sẽ hiểu được căn nguyên cội rễ việc làm của các học viên Pháp Luân Đại Pháp.

Cảm ơn những góp ý chân thành của bạn!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Các tầng Không gian và Y học hiện đại (I)

Tác giả: Một đệ tử tại California

Tôi là một bác sĩ, 57 tuổi, và tôi đã tập luyện Pháp Luân Công từ ngày 4 tháng 7, 1998.

Trong suốt rất nhiều năm về giảng dạy, nghiên cứu và điều trị trong lãnh vực khoa học y khoa, tôi đã chứng kiến rất nhiều những mẩu miếng trong y học cổ truyền, và rất nhiều giả thuyết trong khoa học y khoa hiện đại. Nguyên nhân và sự phát triển của bệnh tật, sự chẩn đoán, chữa trị và sự tiên đoán về bệnh tật vẫn còn nhiều điều không rõ ràng cho rất nhiều bệnh. Hầu hết những chẩn đoán đều dựa trên sự khám bệnh, kiến thức và kinh nghiệm của bác sĩ. Rất nhiều sự chẩn đoán chỉ là ‘chẩn đoán bề ngoài’. Với rất nhiều yếu tố thiếu căn bản, những chẩn đoán và điều trị không chính xác được. Hàng trăm ngàn người trên thế giới bị chết hằng năm vì chẩn đoán sai và điều trị sai. Tại Hoa kỳ, những phương pháp bằng điện tử được sáng chế rất kỳ khôi, nhưng quá trình hiểu về nguyên nhân và phát triển của bệnh tật thì yếu và rất nhiều người tự nhiên bị chết vì nhiều nguyên nhân không biết rõ. Rất nhiều giảng sư đại học và chuyên gia đều không làm gì được.

Trước đây tôi đã từng là giảng viên, phụ giảng sư, và là giảng sư trong đại học y khoa. Lương tâm tôi đưa tôi đến việc nghiên cứu những cách thức mới cho y khoa. Tuy nhiên, trong nhiều năm nghiên cứu, tôi đã không tìm được một giải pháp nào. Vì đã tập luyện Pháp Luân Đại Pháp từ ngày 4 tháng 7, 1998, tôi đã có thể nhìn vào những bệnh tật con người từ một khía cạnh hoàn toàn mới mẻ. Y học hiện đại Tây phương vẫn chỉ là một hệ thống không hoàn toàn, trong khi đó, kiến thức về bệnh lý của họ lại hạn chế vì chỉ biết đến tầng không gian vật chất này. Thật ra, rất nhiều bệnh tật tồn tại từ không gian khác. Nếu chúng ta không thể vượt qua được tầng không gian vật chất này để khám phá thân thể con người và bệnh tật thì chúng ta không thể tiến triển nhanh được. Qua kinh nghiệm chính bản thân tôi, tôi muốn chứng minh về những thiếu sót của y học hiện đại và sự huyền diệu thâm thúy của Pháp Luân Đại Pháp.

Vào tháng 4, 1998, tôi đang hành nghề bác sĩ y học cổ truyền Trung quốc tại Mount View, California, dùng châm cứu và thảo dược để chữa trị. Tuy nhiên, tôi chỉ làm bớt đau, và không thể chữa lành những vấn đề về tâm trí như là áp lực, mất trí, không điều khiển được tính tình..vv. Muốn tìm kiếm những ‘cách chữa trị mà không dùng thuốc’, tôi phải đi Los Angeles với một ý định to lớn, là tìm một người mà một người bạn đã giới thiệu cho tôi. Người này được mô tả là một ‘người có huyền năng siêu phàm’ vì ‘kỹ năng của ông ta’. Vì lúc đó tôi chưa học Pháp Luân Đại Pháp, tôi không biết rằng một người cần phải có tâm trung chính mới có thể tránh được ma quỷ. ‘Người có huyền năng siêu phàm’ này có ngón chân cái bên trái bị bệnh, vì thế tôi chữa trị cho anh ta bằng phương pháp nhồi bóp. Thì có rất nhiều điều kinh ngạc và kinh khủng đã xảy ra.

Ngay khi tôi bắt đầu bóp ngón chân cái bên trái của ‘người có huyền năng siêu phàm’ này, tôi thình lình cảm thấy bị áp lực rất nặng nề có diện tích lớn chừng 10 phân bề dài và 6 phân bề ngang, rất nặng nề đánh ngay vào lưng tôi ngay tại điểm huyệt Đản trung (một điểm huyệt gần ngay trung tâm của ngực) của tôi. Nó làm cho tôi có một cảm giác rất lạ lùng, giống như bị điện giật, mà nó xâm chiếm toàn cơ thể của tôi, mà cho tôi toát lạnh từ đầu đến chân.

Tôi la lớn “ai đẩy tôi vậy?” nhưng không thấy ai cả khi tôi nhìn lại phía sau. Người vợ và những người bạn của ‘người có huyền năng siêu phàm’ này đang đứng phía sau tôi ở lúc đó: “không ai đẩy ông cả”…Tôi đã bị “ma nhập” (hồn hay ma nhập). Sau khi học Pháp Luân Đại Pháp, tôi bây giờ hiểu rằng ‘ma nhập’ có nghĩa rằng cơ thể con người bị hồn ma qủy tồn tại tại các không gian khác chiếm đoạt.

Ngay lúc đó, giọng nói của tôi rời rạc: tôi không thể điều khiển được miệng của tôi, mặc dầu đầu óc tôi rất sáng suốt. Tôi càng bị nặng hơn sau khi tôi về nhà người bạn của tôi. Bạn tôi bèn bảo tôi thắp hương để lạy Phật. Tự nhiên tôi bị đau đầu rất nặng ngay khi tôi cắm bó hương đã đốt vào bình hương trước tượng Phật, nằm ngay giữa nhà nơi mà cả gia đình thường niệm Phật. Bạn tôi liền đưa tôi trở về lại nhà tôi tại thành phố Mount View.

Vì không có dấu hiệu nào cho biết rằng chứng đau đầu khủng khiếp chấm dứt, tôi được đưa vào phòng cấp cứu về giải phẫu não tại Bệnh viện Đa khoa San Francisco, California. Tôi được người ta chẩn đoán là bị liệt não (intracerebral hemorrhage (ICH)) sau khi được dùng máy chẩn đoán vi tính (CT scan), mà cho thấy có một lớp mỏng chất lỏng nằm trên bề mặt trong phim. Tuy nhiên, sự chẩn đoán này lại không trùng hợp với các triệu chứng của bệnh tật: Tôi lại không bị ói mửa hay cổ tôi bị cứng không di chuyển được, như thường xảy ra trong cách bệnh nhân của ICH. Bệnh của tôi được xem như là quá khó hiểu. Để chẩn đoán thêm, họ đưa tôi vào phòng chữa cho bệnh nhân sắp chết (intensive care unit (ICU)). Các y tá kiểm tra nhịp tim, huyết áp và tim mạch của tôi chừng mỗi 10 phút, và đưa dữ kiện vào máy điện toán. Cả hai tay và hai chân của tôi bị tiêm chích rất nhiều mũi kim chuyền nước biển và lấy máu. Các bác sĩ chạy ra chạy vào, và gia đình tôi thì không được cho phép vào phòng.

Vì không có triệu chứng của bệnh liệt não (ICH), người ta phải điều tra, nghiên cứu và chẩn đoán thêm. Tôi phải làm chiếu, chụp các mạch, xương trong người (MRI) hai lần, chích vào xương toạ của tôi để rút tủy sống, sau đó đưa vào máy xem xét, nghiên cứu, và khám mắt của tôi rất nhiều lần. Tôi như bị tra tấn bởi nhiều lần khám nghiệm với những dụng cụ tối tân, lấy máu nhiều lần và uống thuốc. Tôi như sắp bị chết sau nhiều lần tham vấn ý kiến của các nhóm bác sĩ và nghiên cứu viên.

Tôi muốn ủng hộ cách giảng dạy và nghiên cứu của họ trên thân thể tôi. Tôi trước đây cũng là giảng sư và với nhiều công trình nghiên cứu tại tầng cấp tỉnh bang và toàn quốc tại Trung quốc. Cuối cùng tôi gần như sắp bị ngộp thở trong một phòng cách ly khi tôi đi chiếu khám bằng máy MRI. Điều duy nhất mà tôi làm được là dùng chân tôi để đá một cách tuyệt vọng để nói với người bên ngoài bằng màn hình của máy MRI. Con gái tôi quyết tâm yêu cầu họ ngưng ngay cuộc khám nghiệm; nếu không cô ta sẽ gọi cảnh sát. Họ phải dừng cuộc khám nghiệm bằng máy tối tân hiện đại và cuối cùng cứu sống tôi.

Đây là một trường hợp khá lạ kỳ trong y học. Họ không thể tìm ra nguyên nhân bệnh tật của tôi. Các bác sĩ, chuyên môn và giảng sư đại học đều bị bối rối về trường hợp này. Tôi trở về nhà với một thân thể mềm nhủn. Tôi gần như sắp bị mù ngay lúc đó.

Các tầng không gian và Y học hiện đại (II)

Tác giả: Một đệ tử tại California

[Chanhkien.org] Là một bác sĩ, tôi biết rõ về chẩn đoán cho một người bị bệnh liệt não (ICH). Tình trạng thể lực của tôi đã đến mức quá độ. Lượng đường trong máu của tôi lên rất cao và mạch của tôi rất là yếu. Tôi bị ngất xỉu và đau đớn không dứt.

Một buổi sáng vào tháng Sáu 1998, một cặp vợ chồng là bệnh nhân cũ của tôi và sau này trở thành bạn của tôi, đến thăm viếng tôi tại nhà và mang cho tôi một quyển sách. Khi tôi cầm lấy quyển sách, ba chữ Hán “Chuyển Pháp Luân” sáng rực lên đập vào mắt tôi. Tôi giật mình. Đây là một quyển sách từ thiên đường. Tôi có thể thấy rõ ràng những chữ “Luận Ngữ” nổi hẳn lên từ bề mặt của giấy. Khi tôi đặt tay tôi giữa trang “Luận Ngữ” và ngoài bìa trước của sách, bóng của chữ “Luận Ngữ” rơi vào tay của tôi. Con gái tôi khóc lớn, các bạn tôi đều cảm động, và tôi giống như một đứa con bị lạc đường trở về ngôi nhà của mẹ.

Sau đó, các đệ tử ở gần đó tình nguyện đến nhà tôi để dạy tôi những bài động tác của Pháp Luân Đại Pháp. Vào ngày 4/7/1998, với sự giúp đỡ của con gái tôi, tôi đi đến đại học Stanford để tham dự buổi luyện công đầu tiên của tôi. Pháp thân của Sư phụ cung cấp cho tôi một Pháp Luân khi tôi tập “ôm pháp luân trước đầu”. Tôi tham gia vào nhóm học Pháp Luân Đại Pháp ngay tối hôm đó, và hai ngày sau, tôi bắt đầu xem giảng băng chín ngày giảng Pháp bởi Sư Phụ Lý. Các đệ tử săn sóc cho tôi và giúp tôi một cách vô ngã. Họ chở tôi đến địa điểm tập luyện và nhóm học Pháp trong mọi tình trạng thời tiết và suốt một năm. Tôi cảm thấy Phật tính nở rộ trong tâm và rất nhiều chấp trước dần dần biến mất. Tôi cảm thấy tôi hoà tan trong Pháp. Lòng quyết tâm của tôi trong tu luyện trở nên mạnh vô cùng và sức khoẻ tôi khá lên rất nhiều.

Pháp Luân Đại Pháp giải thích rất nhiều điều khó hiểu cho tôi. Tôi hiểu rằng thiện hay ác đến từ một niệm ngay lúc đó, chủ nguyên thần là bất diệt, tất cả mọi vật đều có linh hồn, thuyết tiến hoá [Darwin] là sai, văn hoá tiền sử là có thật, và có rất nhiều không gian khác đồng tồn tại. Tôi hiểu rằng một người phải nâng cao tâm tính (đạo đức, tâm trí) và phải phát huy Phật tính của mình mới tránh được tai họa và nghiệp báo. Người đó phải từ bi, phải chịu đựng được khổ cực, làm điều tốt và nghĩ đến người khác trước, và người đó không được theo đuổi việc gì cả. Khi chúng ta nâng cao tâm tính, Sư phụ sẽ chuyển hoá nghiệp lực của chúng ta thành đức, và chuyển đức thành Công cho chúng ta.

Sư phụ dạy “được mà không cầu”. Sau khi đắc Pháp, tôi dùng tất cả thời gian của tôi để học Chuyển Pháp Luân. Tôi hiểu nguyên nhân thật sự của bệnh tật là gì, và không để ý nhiều đến bệnh hay sự đau đớn của tôi, vì tôi biết rằng tất cả những đau đớn là nghiệp lực đang được chuyển hoá. Tất cả thứ đó đều tốt.

Sau khi tôi học Pháp Luân Đại Pháp được một năm, một phép lạ mà tôi chứng kiến từ thân thể của tôi. Một buổi sáng sớm vào tháng Ba 1999, tôi giật mình dậy lúc 3 giờ sáng bởi một cơn đau rất mạnh bên chân trái của tôi. Tôi kêu lớn con gái của tôi, “nhanh lên, mang cho cha ít nước nóng!” Tôi muốn làm ấm cái chân của tôi. Con gái tôi nhắc cho tôi rằng đây là Sư phụ Lý đang thanh lọc cơ thể của tôi. Ngay lúc đó, tôi cảm thấy một lực rất mạnh như sét đánh xuyên rất nhanh từ dưới lòng bàn chân trái của tôi. Cơn đau lớn chấm dứt ngay. Tôi rất xanh, yếu ớt và toàn thân tôi ướt đẫm mồ hôi. Vì lòng từ bi của Ngài, Sư phụ cứu tôi sống lại. Con gái của tôi và tôi khóc lớn và chấp tay trước ngực để bày tỏ lòng biết ơn đối với Sư phụ Lý. Tôi biết rằng ma quỷ nhập thân tôi (phụ thể) và tấn công thân thể tôi đã được tẩy sạch. Từ đó trở đi, tôi có thể điều khiển chính tôi và nói rõ ràng hơn và có thể thanh tỉnh và tập trung khi tôi thiền tập.

Khi bệnh viện Toàn Khoa San Francisco nghe về phép lạ này, những chuyên gia giải phẫu thần kinh yêu cầu tài liệu về Pháp Luân Công. Một số bác sĩ và y tá muốn học Pháp Luân Công. Bằng chứng trên thân thể tôi là huyền năng của Pháp Luân Đại Pháp.

Đây là kinh nghiệm bản thân tôi từ việc bị ma quỷ nhập thân đến việc đắc Pháp. Y học hiện đại không thể tìm ra nguyên nhân bệnh của tôi và không chẩn đoán đúng sau nhiều lần khám nghiệm, mà tất cả đều có giấy tờ đầy đủ trong hồ sơ bệnh viện. Lý luận của tôi là để cho y học hiện đại có một bước tiến cao hơn, chúng ta phải chú trọng nhiều hơn đến đạo đức và vượt qua tầng không gian vật chất này điều mà có thể nhìn thấy bằng đôi mắt thịt của chúng ta. Tại tầng không gian khác, có thứ vật chất màu trắng, gọi là Đức, mà có được chất trắng này là vì làm những việc thiện và đem hạnh phúc cho người khác. Còn có một loại vật chất màu đen, gọi là nghiệp, mà tạo ra là do làm những việc xấu như giết hại, hiếp đáp, gây người khác đau khổ và lấy những thứ mà thuộc về người khác. Những loại vật chất này tích luỹ không chỉ trong kiếp này, nhưng là từ nhiều kiếp khác. Hơn nữa, nghiệp sẽ gây ra đau khổ và khó nạn. Một trong những nguyên nhân của bệnh tật là do nghiệp, mà được biểu hiện bằng vi khuẩn hay vi trùng tại không gian vật chất này. Một nguyên nhân khác của bệnh tật là do ma quỷ nhập thân vì nghiệp của người đó hay người đó có tà niệm. Bệnh của tôi nằm trong loại thứ hai. Y học hiện đại bị đóng khung ở tầng không gian vật chất này mà chỉ có thể thấy được bằng mắt thường. Nó không thể thấy các tầng không gian khác hay sự quan hệ giữa nghiệp và bệnh tật. Các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp có thể thấy sự quan hệ này một cách rõ ràng và đạt được thể trạng tốt, là do tu luyện mà có. Y học hiện đại không đạt đến điểm này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay