Posted 2 Tháng 12, 2009 Huyệt pháp luận Huyệt có những thể nào? Nước chảy đổ vào là hơn hết, gió vào không ra được thứ nhì Ngự bình nước cuốn chầu là, Cháu con tướng tá vào ra triều đình Hình như chuông vàng sinh ở chùa đàng tây là phát tướng võ, quản đốc ba quân. Hình như chõ úp chứa ở đàng đông, nhà giàu đại phú, ruộng muông nghìn mẫu. Núi nga mi hiện ở kim khanh, con trai con gái duyên hài gặp chủ. Liên châu tròn như quả trứng ở gần thủy khẩu, anh em thi đỗ đồng khoa? Lâu đài cổ vũ xum vầy la liệt như thành biểu hoa giữ cửa trấn thủ ở gần thủy khẩu. Trông giống gươm bày, huy vũ can thành, phần nhiều sản xuất tướng tài. Cờ mở bút chong, quan văn quan vũ sinh ra tuấn kiệt. Núi nga mi hiện ra phương Tốn, con gái được làm cung phi. Hình giống như tờ cáo trục, hay thấy hình như hoa nở thì con trai lấy được nàng ông chúa. Thấy hình như văn bút ở liền với tờ cáo trục, thì đi thi một lần là đỗ. Thấy hình như bày mũ dựa ở ngự bình là đất phát đông cung thị giảng nên tìm cho được ba phương đất lành. Ba phương đất lành ấy là: Ất, Bính, Đinh thế vậy thôi. Còn thiên phương tức là hương Cấn vậy. Cốc tướng tức là mùi phương thế vậy. Phép kén chọn huyệt Nếu nhãn lực mơ hồ thì khó phân biệt ra được hình dung cho nên phải nhận ra rằng: Âm lại thì dương chịu nhận lấy Dương lại thì âm chịu nhận lấy (chứa đựng) (Trên to dưới nhỏ gọi là dương lại Trên nhỏ dưới to gọi là âm đại) Hình như nhũ đột ấy gọi là âm, hình như kiềm oa ấy gọi là dương. Hình vẹo (hình đất chéo lệch) lại đó thì chính phải thiện. Hình chính lại đó thì tà phải chịu. Nhận được càng rõ càng hay, Xem ngay cốt yếu khéo hay tinh tường Như bổ quả dưa, như cắt ngó sen, vợ con hai đoạn. Như cỡi rồng bay, như bắn tên lửa, tai hại hai phương. Xem long mạch cần nhất phải nhận dấu vết, nơi nào chứa những dấu vết nào. Biến dịch không bao giờ nhất định: người xem đó phải khéo mắt khôn ngoan. Tìm tòi đâu đã chắc mười phần hình dung mạch đã hình dung ở bụng. Cục đường xem xét phải sao nên, khi vào núi cốt phải tìm nơi thủy khẩu. Đăng cục cần xét đám đinh đường. Huyệt thuộc âm khai khẩu tất vuông, dương khai khẩu tất nhiên tròn trặn. Cờ hồng thấy lớn: Bính Đinh hai phương, núi hình như chữ bát: Người người như giữ thẻ hương, hay thế câu vào như gìn giữ cả đôi bên: đời đời áo tía. Địa trục thiên khai Thiên Ất: Tân phương gọi là Thiên Ất, Tốn phương gọi là Thái Ất. Ấn đông phương tốn phương, phương bính thì tất nhiên sản xuất được bậc công khanh tướng văn hay tướng võ. Ấn đóng ở phương Càn, phương Dần thì tất nhiên sinh ra sư nam tăng già mộ đạo. Thiên trụ tức là Bính Cấn phương vậy. Núi tổ cao dày cho nên ông Bành Tổ đã thọ được tâm trăm năm. Quan thượng thư Binh bộ nhà đại Minh, Hoàng phúc soạn. Họ Trần còn để bản thảo do ông Hoàng Phúc soạn. Những bậc danh nhân như ông Trần Quốc Việt soạn. So sánh thủy pháp Nguyên Thìn thủy (Càn thủy) nên hợp lòng đi thẳng. Nước phá thiên tâm: Thiên tâm tức là giữa minh đường vậy Kim nga nước chảy thẳng dài. Ruộng vườn bán hết ai hoài đấy chi. Nước chảy xuyên hai bên vai là nước kim nga thủy khẩu vậy. Bốn nước triều về lại đó, Bốn nước ấy là Càn Khôn Cấn Tốn những phương ấy vậy. Nước chảy văn khúc Văn khúc ấy là Dậu phương vậy Nước chảy phá thái âm, Thái âm tức là Mão phương vậy. Nước Quyển liêm (guộn rèm) Quyển liêm ấy là Dậu phương, Chu tước vậy. Đàng trước đường, liễu tường hoa nó bao dung (chịu đựng). Nếu được nước từ cát phương nó chảy vào thì tốt lành theo đó sinh ra vậy. Nếu nước từ hung phươn mà chảy lại thì bao nhiêu điều tay bay vạ gió nó cũng cùng theo đến. Tâm can được thả nước tốt thì đời đời thôi quan. Bát quái nước chảy đi luôn thì người nào cũng đoản mạnh. Nước chảy truyền tống khi sống thời phải lìa nhà xa cách mà khi chết thì thành ra lại chết đường. Truyền tống ấy là thân phương, ví bằng nước chảy vậy Nước chảy phá như Phục thì thì của cải rất là hao hụt. Phục thì ấy là Dần phương ví bằng có nước chảy phá vậy. Nước phá tiểu mộ: thì con trai con gái đều đoản mạnh. (Tiểu mộ ấy là Thìn phương) ví bằng có nước chảy phá vây. Nước chảy cốc tường: thì kho lẫm bịch thóc hư không. Cốc tường ấy là Thủy tinh Tý hại mùi như chữ nổi. Ví bằng nước chảy vậy. Bạch hổ có nước chảy ra vào thì con gái có thói dâm đãng. Ví bằng bạch hổ có như thế vậy. Thanh long có nước chảy xiên vẹo đi, chảy quanh quất lại thì làm quan thoái chức, ví bằng Thanh long nước chảy như thế thì như thế vậy. Thiên thương, địa kiếp: nước chảy thì sinh bệnh ngứa lở, hay là tật sứt môi. Thiên thương ấy là Cấn phương mà địa kiếp ấy là Mùi phương vậy. Thiên trụ, đông tào nước chảy phá ấy thì thương nam hại nữ. Thiên trụ ấy là Cấn phương vậy, huyền vũ vậy. Công tào ấy là dần phương vậy, chu tước vậy. Nước chảy phá quan vượng thì không có chức vị quan. Quan vượng ấy là giáp phương huyền vũ vậy. Quan vượng nước phá thì không có quan chức vì giáp phương thế vậy. Nước chảy phá quan đới thời ít nhân đinh. Quan đới ấy là mão phương chu tước vậy. Thủy phá đại mộ thì con gái trong phòng giữ một mình. Đại mộ ấy là Thìn phương vậy. Nước chảy câu trận thì con cháu chết đường. Câu trận ấy là Tốn phương vậy. Nước chảy phá thiên kiếp thì mềm yếu yên sống. Thiên kiếp ấy là Ngọ phương ấy vậy. Nước chảy hình kiếp thì tội đến ngay. Ví bằng nước phá hình kiếp thời thế vậy. Hình kiếp ấy là phương Đinh Mùi vậy Nước chảy mọ6c dục ra đi thì sinh ra thói lười biếng, không chịu thi thố việc chi cả. Ví bằng nước chảy đi thì như thế vì tốn ly phương ấy vậy tam kiếp nước chảy lại thì trốn tránh thành thói quen. Ví bằng nước chảy lại, tam kiếp ấy là Ngọ Đinh Mùi phương ấy vậy. Đây là mới cử kỳ đại khái cốt phải nên nhận cho rành rẽ đến tinh vi. Nước cần xem chảy phương nào, Núi xem long mạch biết bao công trình Địa lý thông huyền phú Ngự bình khuất khúc lại chầu Cháu con khanh tướng dài lâu vững vàng Càn Khôn cấn tấn hiên ngang Vinh hoa phát phúc rõ ràng nước sinh Kén chọn về nước Cát thần, cát tướng, chẳng gì hơn là chẳng khiến phá phạm vào phương ngung. Cát thần tức là Càn Khôn Cấn Tốn vậy. Cát tường tức là Giáp, Canh, Bính, Nhâm, Ất, Tân, Đinh, Quý, Ất vậy. Hung thủy hung tinh thì chớ cho vào đăng đường nhuệ mộ cục. Hung thủy tức là tà thủy, chàng thủy, quyển liêm thủy, trực thủy, hoàng tuyền thủy, hình lục thủy ấy vậy. Hung tinh tức là lộc tồn, liêm trinh, phá quân, văn khúc, là những tinh ấy vậy. Kinh rằng: Thiên lý lai long Huyệt kết nhất tịch Kinh rằng: Long mạch dặm nghìn Chung quy huyệt kết chỉ tìm chiếu con. Mười can có âm dương. Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là dương. Ất Đinh Tỵ Tân Quý là âm. Mười hai chỉ có âm dương: Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là dương. Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi là âm. Bát quái có âm dương: Càn, Khảm, Cấn, Chấn là dương. Tốn, Ly, Khôn, Đoài là âm. Hai mươi bốn hướng, âm dương đều có một nửa. Càn, Giáp, Khôn, Ất, Ly, Nhâm, Dần, Tuất, Khảm, Quý, Thân, Thìn, mười hai vị là dương long: Cấn, Bính, Tân, Tốn, Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, Chấn, Canh, Hợi, Mùi là mười hai vị là âm long. Dương lại thì âm chịu Âm lại thì dương chịu. Dương long thì âm hướng Âm long thì dương hướng Huyệt dương thì âm chầu, Huyệt âm thì dương chầu. Long mạch Long huyệt Long hướng Hai mươi bốn long mạch lành dữ đoán rằng: Thượng tầng là cát long, hạ tầng là hung long: Thượng tầng cát long là: Nhâm long Chính khí là Bính Tý Nhâm long có ba hướng là: Ngọ: Khôn Ất. Nên ngồi Tý phương hướng về Ngọ: ngồi tân hướng về Ất, ngồi Cấn hướng về Khôn. Nhâm là dương long. Quý long chính khí Đinh Sửu. Quý long có hai hướng là Ngọ và Khôn. Nên ngồi phương Tý hướng Ngọ, ngồi phương Cấn hướng Khôn. Quý là dương long. Cấn long chính khí Mậu Dần. Cấn long có tám hướng: Bính, Đinh, Canh, Thân, Tỵ, Mùi, Tốn, Đoài nên ngồi phương Nhâm hướng về phương Bính, ngồi phương Quý hương về phương Đinh, ngồi phương Giáp hướng về phương Canh, ngồi phương Ất hướng về phương Tân, ngồi phương Hợi hướng về phương Tỵ, ngồi phương Sửu hướng về phương Mùi, ngồi phương Kiến hướng về phương Tốn, ngồi phương Mão hướng về phương Dậu. Cấn là âm long. Mão long chính khí Quý Mão. Mão long có bốn hướng, Canh Tân Đinh Hợi nên ngồi phương Giáp hướng về phương Canh, ngồi phương Ất hướng phương Tân, ngồi phương Quý hướng phương Đinh, ngồi phương Tỵ hướng phương Hợi, Mão là âm long. Tốn long chính khí Tân Tỵ, Tốn long có ba hướng: Tân, Hợi, Cấn. Nên ngồi phương Ất hướng phương Tân, ngồi phương Tỵ hướng phương Hợi, ngồi phương Khôn hướng phương Cấn, Tốn là âm long. Bính long Chính khí Nhâm Ngọ, Bính Long có bốn hướng là Hợi, Canh, Tân, Cấn nên ngồi phương Tỵ hướng Hợi, ngồi phương Giáp hướng Canh, ngồi phương Ất hướng Tân, ngồi phương Khôn hướng Cấn, Bính là âm long. Đinh Long Chính khí Quý Mùi, đinh long có hai hướng Cấn, Hợi nên ngồi phương Khôn hướng Cấn, ngồi phương Tỵ hướng Hợi, Đinh là âm long. Canh Long chính khí Ất Dậu, Canh Long có hai hướng là Mão và Cấn nên ngồi phương Dậu hướng Mão, ngồi phương khôn hướng Cấn, Canh là âm long. Dậu long Chính khí Ất Dậu, Dậu long có ba hướng Cấn, Tốn, Tỵ, nên ngồi phương khôn hướng cấn, ngồi phương kiền hướng tốn, ngồi phương hợi hướng tỵ. Dậu là âm long. Tân long Chính khí Bính Tuất. Tân long có ba hướng Tốn, Mão, Cấn nên ngồi phương kiền hướng tốn, ngồi phương Dậu hướng mão, ngồi phương khôn hướng cấn. Tân là âm long. Hợi long Chính khí tân hợi. Hợi long có ba hướng bính tốn đinh. Nên ngồi phương nhâm hướng binh, ngồi phương kiền hướng Tốn, ngồi phương quý hướng đinh. Hợi là âm long. nguồn: vnthuquan.net Share this post Link to post Share on other sites
Posted 3 Tháng 12, 2009 Hạ Tầng Hung Long Tý long Chính khí Canh Tý, Tý long có một hướng là hướng Khôn. Nên ngồi phương Cấn hướng khôn Tý là dương long. Sửu long Chính khí Tân Sửu, Sửu Long có một hướng bính. Nên ngồi phương nhâm hướng Bính. Sửu là âm long. Dần long Chính khí Nhâm Dần. Dần long có hai hướng khôn và thân. Nên ngồi phương Cấn hướng khôn, ngồi phương Dần hướng Thân. Dần là dương long. Giáp long Chính khí Tỵ Mão. Giáp long có hai hướng Càn và Khôn. Nên ngồi phương tốn hướng càn, ngồi phương cấn hướng khôn. Giáp là dương long. Ất long Chính khí Canh Thìn. Ất long có một hướng là hướng khôn. Nên ngồi phương Cấn hướng về Khôn. Ất là dương long. Thìn long Chính khí Giáp Thìn. Thìn long có hai hướng kiền và khôn. Nên ngồi phương tốn hướng kiền, ngồi phương cấn hướng khôn. Thìn là dương long. Tỵ long Chính khí Ất Tỵ. Tỵ long có một hướng là hợi. Nên ngồi phương Tỵ hướng Hợi. Tỵ là âm long. Ngọ long Chính khí Bính Ngọ. Ngọ long có hai hướng là Quý Nhâm. Nên ngồi phương Đinh hướng quý, ngồi phương bính hướng nhâm. Ngọ là dương long. Mùi long Chính khí Đinh mùi. Mùi long có một hướng là cấn. Nên ngồi phương khôn hướng cấn. Mùi là âm long. Khôn long. Chính khí Giáp Thân. Khôn long có một hướng là Quý. Nên ngồi phương Đinh hướng Quý. Khôn là dương long. Thân long Chính khí Mậu Thân. Thân long có hai hướng là Quý Giáp. Nên ngồi phương Đinh hướng Quý, ngồi phương Canh hướng Giáp. Thân là dương long. Tuất long Chính khí Canh Tuất. Tuất long có một hướng là Ất. Nên ngồi phương Tân hướng Ất. Tuất là dương long. Kiền long Chính khí Đinh Hợi. Kiền long có một hướng là Ất nên ngồi phương Tân hướng Ất Kiền là dương long. Xem nước lại phương nào sinh vượng. Bát đất đi khỏi chỗ hưu tù. Phải là được phép đó ru? Mới thành kết quả mới thu công trình. So sánh để lập huyệt ở chỗ bình dương. Đại phàm chọn đất ở chỗ bình dương, thì nên lấy nước tốt làm chủ, lấy phương hướng làm tôn vậy. Vậy nên xem được nước phải như thế nào. Nước thu về ở phương trường sinh đế vượng, bát đất đi khỏi nơi hưu tù nước đọng, ấy là người đã hiểu được phép vậy. Ví bằng được phương hướng trường sinh đế vượng thì sinh con rất thông minh tuấn tú. Nếu như đế vượng đi mà tràng sinh nghinh tiếp đến thì phú quý nó hẹn đến ngay. Như đế vuợng đi mà phá trường sinh, thì dẫu có con mà cũng chả làm ra gì. Trường sinh lại mà phá đế vượng thì dẫu có giàu sang rồi cũng chẳng ra làm sao, chỉ luống công vậy thôi. Ví như gặp minh đường phương hướng cực chẳng hợp với thủy khẩu cho lắm nhưng cũng có thể tòng quyền mà lập hướng chứ không nên coi nhẹ mà vội bỏ đi vậy chăng. So sánh thế nào là giả, kén chọn hình cục ấy thời là giả. So sánh thế nào là chân, kén chọn trường sinh đế vượng ấy là chân. So sánh thế nào là âm? - Nổi cao lên ấy thời là âm. So sánh thế nào là dương? - Bằng mà thấp ấy là dương. Trường sinh phương lại được nước tốt tức là lập được sinh hướng là tốt. Đế vượng phương mà được nước tốt tức là đã lập được vượng hướng là tốt. Mộ phương mà được nước tốt tức là đã lập được mộ hướng là tốt. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 5 Tháng 12, 2009 Ngũ hành phương cục Thử xem bản sơn chỗ vị trí thuộc ngũ hành nào, Mộc tinh trường sinh ở Hợi, Hỏa tinh trường sinh ở Dần, Kim tinh trường sinh ở Tỵ, Thủy và thổ tinh trường sinh ở Thân Các vị đều phải chiếu theo địa vị của nó khởi tự đâu, rồi đuổi theo trường sinh mà xem sao quan diệu để mà xem phương vị. So sánh hai sao quan diệu để mà xem phương vị sinh tử. Trường sinh cung xuất hiện là đỗ khôi giáp. Quan diệu chủ ra đại quan về. Nửa năm tất nhiên đã phát. Mộc dục cung xuất hiện thời bổng lộc hậu, quan diệu cung sao xuất hiện thì phát đại quan. Quan đới cung xuất hiện thì phát tài hoa. Quan diệu sao chiếu chủ sang mà thanh chính. Lâm quan cung xuất hiện thì có tài chính sự. Quan diệu sao xuất hiện thì làm quan bị chín lần đổi. Đế vượng cung xuất hiện thì là người thống đạt Quan diệu sao chiếu thì làm quan chín lần đổi. Ai cung xuất hiện thì là lưu liên đình trệ Quan diệu sao chiếu chủ lâm quan không lộc. Bệnh cung xuất hiện là bị chinh chiến. Quan diệu sao chiếu thì chủ lâm quan làm ác ngược. Tử cung xuất hiện thì là người không khí độ. Quan diệu sao chiếu thì lâm quan không cất nhắc thì không có giấy tờ. Mộ cung xuất hiện là bổng lộc coi kho. Quan diệu chiếu là chủ làm quan tích bảo. Tuyệt cung xuất hiện thì bị hao hụt của cải. Quan diệu chiếu thì là làm quan chết đường. Thai cung xuất hiện thì người ta hình dung đẹp đẽ. Quan diệu sao chiếu thì chủ lâm quan thanh tú. Dưỡng cung xuất hiện là người nhân từ. Quan diệu sao chiếu thì làm quan hàm dưỡng khéo. Long mạch bằng ở hướng nước mà so sánh. Ông Dương quân Tùng làm cái thuật cứu bần cũng tùy theo tất cả trên phương hướng mà lên lên xuống xuống, đổi thay thay đổi luân chuyển tuần hoàn. Vì rằng long huyệt vốn không phải là lành dữ, mà chỉ dạy lấy hướng nước là lành dữ vậy. Cho nên long mạch dẫu chẳng được đẹp tốt hoàn toàn cho lắm mà thủy thần nếu được trường sinh đế vượng chi khí thì cũng có thể phát phúc đinh tài lưỡng vượng vậy. Trường sinh đế vượng nước đó cần phải đến, tử tuyệt nước đó cần phải đi. Nước lại nước đi quan hệ ở long huyệt lành hay dữ vậy. Một việc tối ư khẩn thiết không gì bằng cái nước trường sinh đế vượng phương mà nó tan rã. Thời long huyệt dẫu có thật cũng chẳng hay sinh tài phát phúc gì được, vậy mà lại còn tai bay vạ gió đến ngay. Đấy khá thấy bởi nước mà long huyệt thành ra dữ vậy. Mà nước nó lành dữ lại tại phương hướng. Cho nên ông Dương Quân Tùng nói rằng tìm long mạch mà điểm huyệt tất nhiên phải lấy nước làm chủ, lấy hướng làm tôn trọng vậy như gặp phương trường sinh đế vượng, sa thủy hay lấy hướng thu về cục nội làm gốc ở huyệt quan lộc. Thời phát phú quý phát phúc không còn ngờ vậy. Ngày xưa có người lập hướng nhỡ một khi nhầm lẫn, lại đem đế vượng phương sa thủy bát sang cái ngôi tử tuyệt thời bản huyệt quan lộc, hóa ra làm quỉ sát hại người tốn của. Đấy cái lý đương nhiên thật là việc đáng tiếc vậy. Giả như khôn thân hành long, dần mão là ngôi bệnh, tử Tỵ Ngọ là tuyệt hai địa vị vậy. Mà Dần Mão Tý Ngọ có núi cao nước cả ví bằng lộc tốn tỵ canh ba hướng, mà họa đến ngay. Như Bính Ngọ hướng thời cái núi Dần Mão làm hỏa tinh của tràng sinh mà cái nước của Tỵ Ngọ làm cái nước lâm quan đế vượng há chẳng làm phúc ru? Cho nên kén chọn hình thục ấy là giả Kén chọn đế vượng ấy mới là thật. Vậy cho nên những chỗ hay, còn phải ở người khéo biến báo hoạt bát vậy. Tam hợp ngũ hành kén chọn long mạch, đại phàm xem long mạch phải biết từ núi tổ nó phát ra đi thế nào. Xuất thân chuyển qua quan ải núi non rộng hẹp nương tựa đổi thay mà lại, nhưng cần phải đến chỗ nào đặc biệt nhất làm cốt, thảng hoặc như có chân long thay đổi vắn mà sau rốt lại dài tất nên bỏ chỗ nguy mà nhận lấy chỗ chân nương tựa vào nước mà lập hướng như long nhập thủ mùi phương nước chảy thì lập Giáp Mão hướng vượng Đinh Mùi mộ hướng. Cho nên cần phải so sánh tam hợp. Bốn cục cũng đều như thế vậy Tam hợp là: Thân, Tý, Thìn Bốn cục là: Thân Tý Thìn là thủy cục. Tỵ, Dậu, Sửu là kim cục Hợi Mão Mùi là mộc cục Dần Ngọ Tuất là hỏa cục. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 6 Tháng 12, 2009 So sánh để lập huyệt nơi bình dương phép động tĩnh Đại phàm khi lập huyệt, cần nhất phải xem đất hay ruộng chỗ nào là chỗ động thì mới là chân thực xác đáng. Thế nào là động? Nơi cao nơi thấp của đất ruộng là động. Động nghĩa là hoặc lồi hoặc lõm, chỗ khác thường đi thời là long mạch hay ở những chổ ấy vòng quanh xúm xít hay ở những chỗ đứng mạch lại. Thế cho nên chỗ hơi cao một chút là động, hơi thấp một chút là tĩnh. Cho nên nói rằng: cao hơn một tấc là núi, thấy đi một tấc là nước vậy Nước vốn động nhưng cầu được chỗ tĩnh mới tốt. Đất vốn tĩnh nhưng cầu được chỗ động mới hay. Tính tình nước động chảy đi Ý thiêng tụ hội tĩnh thì mới hay Đất thường bình tĩnh xưa nay, Mạch động đặc biệt khác ngay mới là... Người xưa có nói rằng: Huyệt không động tĩnh, phúc ấm không hay kém thịnh, đất không cao thấp, mỏi mắt nhọc lòng uổng công phí sức, người ý tứ phải như thế đấy. Luận về Minh đường cao thấp Phàm khi định huyệt, huyệt cần nên xem những chỗ nào âm dương biến hóa, như được những phương đế vượng thì nhân định thịnh nhiều. Cao một tấc là núi thuộc âm, thấp một tấc bằng phẳng, ruộng thuộc dương. Cũng có khi vì ruộng thấp mà phải bồi đắp thêm đất để mà táng ấy cũng thành thuộc âm. Nhược bằng ấy nước thủy triều lên xuống cũng tức là thuộc dương. Chỗ âm dương cùng giao cảm với nhau tức là vượng tướng, phàm làm huyệt, trong minh đường nếu có ruộng thấp quá thì nên làm khí quản (ống hơi). Kinh nói rằng: Minh đường như lòng bàn tay Nhà giàu đấu đựng vàng đầy của dư. Nhưng ở ngoài minh đường cũng cần nên phải để cho cao. Lại có câu kinh rằng: Minh đường cao lại ưa cao, Phúc cho con cháu biết bao sang giàu Minh đường thấp quá hoặc sâu, Nghèo nàn con cháu buồn rầu xác xơ nguồn: vnthuquan.vn Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 12, 2009 Luận về sự tranh đấu tịnh âm tịnh dương Đại phàm lập huyệt, chỉ nên xem nước nỏ chảy đi chảy lại thế nào, không những là kén chọn âm dương long mạch, điều ấy thì người ta ai cũng phải biết rồi. Như các sách Trác ngọc phủ biên ra trước kia có nói âm long dương hướng, dương long kỳ âm hướng là những lời nói như thế, người sau chẳng biết duyên cớ gì đâu lại cho là chính tông, thật là hại cho người ta quá tệ, chẳng biết rằng ông Lưu Thanh Điền có nói dương long dương hướng nước chảy cũng dương ấy là lời nói rất hoang đường. Âm long âm hướng nước chảy cũng âm. Người giết người câu lệ là thường, vì rằng âm long âm hướng, dương long dương hướng nó phối hợp với nhau vốn cũng đã nhiều mà âm long dương hướng, dương long âm hướng nó phối hợp với nhau lại cũng chẳng phải là ít vậy. Chỉ duy có người sáng suốt mới nhận định ra ngay nước chảy đứng chầu là bí quyết. Được như thế, thì không đi đến đâu mà chẳng đích đáng vậy. Hai bên cũng rất cần phóng khoáng Kinh có nói rằng: Chốn bình dương hình thế không cùng, núi thì giữ gió, nước nguyên do phát tự ở đâu lại phải phân biệt nước chảy đi chảy lại làm sao kiêng gió kiêng nước cũng thật là chân tuyệt diệu. Nhưng gió thổi thủy kiếp thì sống lâu giàu bền, con cháu nối dõi lâu dài mà minh đường thế đất trùng điệp sóng dồn lại thì càng tốt. Phép so sánh long mạch Kìa như kim mộc thủy hỏa thổ ấy là thiên tinh đấy vậy. Tròn hay là uyển chuyển, thẳng hay là nhọn vuông ấy là hình thế của đất vậy. Thiên tinh địa hình: Trên dưới cùng nương tựa nhau, mà mỗi cái vẫn có nguyên nhân, duyên theo chỗ đó mà phát sinh ra cho nên mới nói rằng: Hình tức là tinh vậy. Hiện thiên kim Trương thiên thủy Sung thiên mộc Diệm thiên hỏa Chướng thiên thổ Đây là năm sao chính ở trên trời vậy. Chủ phát đại phú đại quý. Phép kén chọn huyệt Tham lang tinh thuộc mộc tức là sao tử khí tinh, tức là sao sinh khí. Cự môn tinh thuộc thổ, tức là sao thiên tài, tức là sao thiên y. Lộc tồn tinh thuộc thổ, tức là sao cô diệu, tức là sao lộc cung. Sao văn khúc thuộc thủy tức là sao trảo đãng, lại tức là sao lục sát. Sao liêm tinh thuộc hỏa tức là sao táo hỏa. Sao vũ khúc thuộc kim tức là sao duyên niên vậy. Sao phá quân thuộc kim, tức là sao thiên cương, lại là tuyệt mệnh Thái dương thuộc kim tinh Thái âm thuộc kim tinh. Sao tả phụ thuộc kim Sao hữu bật thuộc kim. Sao tử khí thuộc mộc, tức là sao tham lang. Sao thiên tài thuộc thổ, tức là sao cự môn. Sao cô diệu thuộc thổ, tức là sao lộc tồn. Sao trảo đãng thuộc thủy tức là sao văn khúc Sao hỏa táo thuộc hỏa, tức là sao liêm trinh. Sao duyên niên thuộc kim, tức là sao vũ khúc. Sao thiên cương thuộc kim, tức là sao phá quân. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 12, 2009 Luận về các sao xuất huyệt Sao Tham Lang xuất huyệt, thì hiển đạt văn chương, thiếu niên cập đệ: Người ta tranh nhau để cho được xem mặt quan tân lang, vì tại phương Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cung là được đất, năm sáu người con chủ ứng ở phương Chấn là con trai trưởng vậy. Sao Cự Môn xuất hiện thì doanh nghiệp mở mang ngày thêm thịnh vượng, người ta chăm đọc thi thư nên tính tình độ lượng khoan hồng. Bởi tại Khôn, Cấn, Đoài, Kiều, Cung là được đất bốn con thủ ứng phương Khảm là người con trai giữa vậy. Sao Vũ Khúc xuất huyệt, thì vượng người vượng của, mũ xanh áo tía đàng hoàng đoan trang theo hút lại. Bởi tại Kiền, Khôn, Cấn, Đoài, Cung là được đất tam tự chủ ứng phương Cấn là người con trai Út vậy. Sao Tả Phụ xuất huyệt, đất phát võ quan soái phủ được người ta tôn sùng lại thêm mạnh mẽ làm quan tới chức tam công. Sao Thái Dương xuất huyệt, thì con cháu rất tốt, giàu sang của cải đề đa, tức là bạch ốc xuất công khanh thế vậy. Sao Thái Âm xuất huyệt, thời con gái thành cung nga, con trai mở kho lẫm, bên là đỗ đại khoa. Sao Thủy tinh tức là trương thiện xuất huyệt, thì con cháu đông đúc, nhiều người chăm đọc sách, đỗ đạt rất nhiều, giàu có, điền viên thiên mạch. Sao Mộc Tinh tức là xung thiên xuất huyệt văn chương hiển đạt giàu sang đẹp đẽ người nhiều ruộng lắm đất hay. Sao Thiên Tài xuất huyệt thì con cháu nối tiếp nhau thi đỗ, đôi con đôi vợ của cải giàu sang phát đạt. Kén chọn long mạch Từ đây trở xuống là thu góp các nhà so sánh về long mạch tốt xấu. Quý long ba hướng lành mạnh. Gọi là Cấn, Tốn, Đoài là ba phương tốt vậy. Xuất ở hải vũ kinh. Năm phương tiện long xấu, bảo rằng Càn, Khảm, Ly, Chấn là năm thứ hung long vậy. Xuất ở hải vũ kinh. Bốn khu vực của ngôi sao quý long: Bảo rằng là Hợi Cấn Binh Đoài là bốn khu vực của ngôi sao. Xuất ở thanh nang kinh. Hải lão tiện long. Bảo rằng là Kiền Khôn là hải lão tiện long. Xuất ở ngọc xích kinh. Lục tú quý long bảo rằng Hợi là đệ nhất, Cấn Tốn Đoài Binh Đinh Tân là lục tú quý long vậy. Xuất ở thôi quan thiên. Tứ khố tiện long bảo rằng là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là tứ khố tiện long vậy. Xuất ở ngọc xích kinh. Bất tường long nói rằng là Dần Thân Ất Khôn là bất tường long vậy. Bát cá tinh xuất ở la kinh vậy. Trong kinh có thơ nói rằng: Tốn Đoài Cấn Binh với Tân Đinh, Kỷ, Hợi bao gồm lại bát tinh. Núi nước được chiều ai phúc đức Cành vàng lá ngọc giúp vua mình. So sánh về thủy luận Từ đây trở xuống là gom góp các nhà nói về dị đồng của nước. Đây là mười hai phương âm thủy có: Hợi Mão Mùi Kỷ Dậu Sửu Cấn Bính Tân Tốn Đinh Canh ấy là âm thủy vậy nên chầu về long âm. Đây là 12 dương thủy có: Thân Tý Thìn Dần Ngọ Tuất Càn Giáp Khôn Nhâm Quý Ất là dương thủy vậy nên chầu về dương long. Đại thần thủy có: Nói rằng là Càn Khôn Cấn Tốn ấy vậy. Trung thần thủy có: Nói rằng là Giáp Canh Bính Đinh ấy vậy. Tiển thần thủy có: Nói rằng là Ất Tân Đinh Quý ấy vậy. Tiến thần thủy có. Nói rằng là sinh vào khắc ra ấy vậy. Thoái thần có. Nói rằng là thủy sinh ra khắc vào ấy vậy. Âm thôi thủy có. Bảo rằng là Cấn Chấn Tốn Đoài ấy vậy. Dương thôi thủy ấy có. Bảo rằng là Bính Đinh Canh Tân ấy vậy. Tứ khổ thủy ấy có. Bảo rằng là Thìn Tuất Sửu Mùi ấy vậy, nên xúc tích chẳng nên chảy. Lúc thần thủy ấy có bảo rằng là thanh long bạch hổ chu tước huyền vũ, câu trận, đằng xà là sáu thần thủy ấy vậy. Trích theo tràng sinh khởi: Lục kiến thủy ấy có nói rằng Hợi là thiên kiến, Cấn là địa kiến, Đinh là nhân kiến, Mão là tài kiến, Tốn là lộc kiến, Bính là mã kiến, là sáu kiến ấy vậy. Tam cát thủy ấy có nói rằng là Cấn là tam lang, thủy tinh chủ quan lộc. Tốn là cự môn. Thủy tinh chủ tài bạch. Đoài là vũ khúc. Thủy tinh chủ nhân tài ấy vậy. Xá văn thủy ấy có nói rằng là Tốn Bính Đinh là văn thủy ấy vậy. Trường thọ thủy ấy có nói rằng là Cấn Bính Đinh Đoài là tràng thọ thủy ấy vậy. Ngũ cát thủy ấy có bảo rằng là Mão Tốn Bính Tân Đinh là năm cát thủy ấy vậy. Bảo thương thủy ấy có nói rằng là Mão Thủy ấy vậy. Văn bút thủy ấy có bảo rằng là Tốn Thủy ấy vậy. Kim đường thủy ấy có bảo rằng là kính thủy ấy vậy. Ngọc môn thủy ấy có bảo rằng là đinh thủy ấy vậy. Học đường thủy ấy có bảo rằng là tân thủy ấy vậy. Lục tú thủy ấy có nói rằng là Cấn Tốn Đoài Binh Đinh Tân là lục tú thủy ấy vậy. Kim giai thủy ấy có nói rằng là Canh Dậu Tân là Kim giai thủy ấy vậy. Ngự nhai thủy ấy có nói rằng là Kiền Khôn Tốn Cấn là ngư nhai thủy ấy vậy. Đào hoa thủy ấy có nói rằng là Tý Ngọ Mão Dậu là đào hoa thủy ấy vậy. Sát kiếp thủy ấy có nói rằng là Dần Thân Tỵ Hợi là kiếp thủy sát ấy vậy. Hoàng tuyền thủy ấy có nói rằng là Canh Đinh hướng, thì khôn thủy là hoàng tuyền. Ất Bính hướng, thì Tốn thủy là hoàng tuyền. Tân Nhâm hướng, thì Càn Thủy là hoàng tuyền. Quý Giáp hướng, thì cấn thủy là hoàng tuyền. Đinh Canh Ngọ Mùi Thân năm hướng. Ất Bính Mão Thìn Tỵ năm hướng. Tân Nhâm Dậu Tuất Hợi năm hướng. Quý Giáp Tý Sửu Dần năm hướng. Khôn hướng, thì Canh Đinh thủy là hoàng tuyền. Tốn hướng, thì Ất bính thủy là hoàng tuyền. Càn hướng, thì Tân Nhâm thủy là hoàng tuyền. Cấn hướng, thì Quý giáp thủy là hoàng tuyền. Bát diệu thủy ấy có: Kiền long kiêng ngọ thủy, khảm long kiêng Thìn thủy. Cấn long kiêng Dần Thủy, Chấn long kiêng thân thủy. Tốn long kiêng Dậu Thủy, ly long kiêng hợi Thủy. Khôn long kiêng Mão thủy, Đoài long kiêng Tỵ thủy. Quy nguyên thủy ấy có nói rằng là thai tuyệt là hai vị vậy. Thủy của tôn miếu Pháp hồng Nhân lại nói rằng: Nước đi khuất khúc có tình, Tinh thần chưa hợp nhưng hình tốt thay Ông Dương Quân Tùng nói rằng: Cứu bần nước đến chữ huyền Hỏi chi cung cách tần phiền phi công Ông Khắc Yêm lại nói rằng: Dữ lành nước hỏi thành nao? Ly phương phúc trạch dồi dào cháu con. Đây là nói phương hướng tốt, còn như hình thế xung đột, bắn nhắm, bay lạc, xiên vẹo, dùi thủng, trái ngược, nghiêng ngửa, thì dẫu có ở được ngôi lành rồi sau cũng suy sút. Xuất gia dị đồng thủy. nguồn: vnthuquan.net Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 12, 2009 Phép Kén Chọn Nước Tốt. Kìa như nước ấy phát nguồn bao công linh động long được nó mới hay, huyệt hay được nó mới đến. Chính mạch nước chảy vào khuất khúc, thì gọi tên là cửu khúc thủy, cũng có tên là ngự nhai thủy, hoặc từng tầng từng cấp chầu vào, thì gọi tên là chiều hoài thủy, cũng có tên là thương bản thủy, đều là những thứ nước chóng phát giàu sang hiển đạt. Xuất ở thủy luận. Triều Thủy Nguyên nhân bốc nói rằng nước cửu khúc chầu vào minh đường thì đương triều làm tới tể tướng. Xuất ở thủy luận. Vậy có lời quyết rằng: Nước bể từng lớp chầu vào, Uy quyền chức trọng quan cao đương thời. Cho nên có lời bói rằng: Nước về rúc rích có tình, Không hợp lệ cũng tốt lành hẳn hoi. Xuất ở thủy luận Ông Dương Quân Tùng nói rằng: Nước có chảy đi như vô tinh thời dẫu có hợp quái lệ, ta thấy cũng chỉ lấy làm khinh vi nó xấu. Nước chảy bao bọc có tinh, thì dẫu chẳng hợp quái lệ ta thấy cũng cho nó là tốt. Xuất ở thủy luận. Minh Đường Ông Cố Ai nói rằng: "Đàng trước huyệt nên có chỗ đất bằng phẳng, thì mới được chân khí kết tụ vậy. Xuất ở thủy luận Ông Cố Dương nói rằng: Kết là cốt ở minh đường Nước giao khí tụ huyệt thường kết tinh Xuất ở thủy luận. Ông Cố Dương lại nói rằng: Minh đường như lòng bàn tay, Giàu có của cải chứa đầy vựa kho Ông Cố Dương lại nói rằng: Minh đường rộng rãi phẳng phiu Giàu sang đệ nhất muốn lưu luyến hoài. Ông Tạ nói rằng: Minh đường bằng phẳng hồ gương Giàu sang lừng lẫy bốn phương kinh thành. Ông Mông nói rằng: Núi quanh nước bọc nhà khoan Giàu sang vàng bạc muôn ngàn của dư Ông Cố Phạm nói rằng: Huyệt ở trên núi, minh đường lấy rộng rãi làm chính pháp, bình dương lại cần chỗ đường rộng mà thu hẹp lại. Núi cao ví bằng hẹp, bình dương ví bằng rộng, ấy là tinh thần đất bắc vậy. Xuất ở thủy luận. Cho nên người xưa có câu rằng: Hai nước giáp nhau ra chẳng nên ở giữa, trung tâm nước chảy đi mười phần xấu cả mười. Lại nói rằng: Hai nước hợp nhau chảy ra như đổ trước mặt là dấu trốn tránh đào vong chết tuyệt nhiều nghèo hèn. Xuất ở thủy luận Cho nên người xưa có nói rằng: Trở lại mình xem nước chảy về, Liên miên phát phúc nọ khen chê Lại nói rằng: Chưa xem được nước, núi xem chi. Cốt yếu cần xem hướng nước đi Có nước không non còn phát đạt Có non không nước chẳng ra gì. Ông Cố Lưu nói rằng: Những kẻ nghèo hèn cô độc đói rét là bởi tại vì thoái thần. Những người giàu sang anh hùng hiển đạt, là chỉ bởi tại vì tiến thần. Thuận dòng nước chảy xiết đi, thì gọi là thoái thần. Nước chảy ngược lên ứ lại dâng lên trên thì gọi là tiến thần. Xuất ở phong thủy luận. Bàn Luận về Thủy Khẩu Minh đường chỗ nước nó chảy ra thì gọi là thủy khẩu, thanh long hay bạch hổ đàng trước huyệt hai tay giao khớp với nhau, giữa có nước chảy. Đó là đệ nhất trùng khẩu. Gần án có sinh ngành thừa được thanh long bạch hổ châu ngành giao khớp vào đó. Ấy là đệ nhị trùng thủy khẩu. Núi vòng chầu quanh củng cố sau án để hộ trì giao thác hai núi giao khớp. Đó là đệ tam trùng thủy khẩu. Cho nên có câu ca rằng: Không khai thủy khẩu phi công Khí không chung đúc tất không phát nào Tam gia ngũ hộ xôn xao Cũng thành cơ cực biết bao khốn cùng. Ông Cố Lưu nói rằng: Cửa then chẳng thấy khóa nhiều Một đời phong vận chuyển vèo ra hung. Xuất ở thủy luận Thảng hoặc gặp địa thế đãng dịch chạy thẳng tuốt đi, thì quyết nhiên đất không có kho xúc tích tụ hội. Cho nên người ta sinh ra nghèo nàn. Ông Cố Tạ nói rằng: Cốt yếu phải nhận biết những chổ đại địa phát phú quý thì nước chảy như người chức nữ đưa thoi đi đi lại lại cuồn cuộn dệt vải. Xuất ở thủy luận. Luận về Hãn Môn Đại thủy khẩu mà được hai ngọn núi đứng hai bên nơm nớp mọc ngay nơi thiên biểu thì gọi là giữ cửa cho nhà vua. Hai ngọn sách đôi đối chiếu trong mây thì gọi là hoa biểu hãn môn. Hoặc là có núi tam thai, tam tinh, như chữ phẩm, phẩm vị nước tới, nước theo hai sao ở trong ra làm thành hàng thành dòng. Một sao tả hữu hai bên đó gọi là tam diệu hãn môn ấy vậy. Xuất ở thủy luận Ông Cố Tạ nói rằng: Đế tòa, hoa biểu hãn môn, thì nhất định sản xuất ra bậc vương hầu công khanh tể tướng. Xuất ở thủy luận. Ông Dương Quân Tùng nói rằng: Cửa then khóa khóa nghìn trùng Công hầu danh tướng anh hùng ở đây Xuất ở thủy luận. nguồn vnthuquan.net Share this post Link to post Share on other sites