Rubi

ĐẠi CƯƠng VÔ CỰc BÁt QuÁi

27 bài viết trong chủ đề này

Thưa các đọc giả, Rubi chuyển bài từ vietlyso.com sang lyhocdongphuong.org.vn .

Đang khi chuyển bài, các đọc giả làm ơn không tham gia đối thoại, khi chuyển xong, Rubi sẽ có tin là đã chuyển xong.

Xin cảm ơn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đại cương Vô cực-Bát quái

Lời nói đầu:

Chủ đề này, nguyenle chỉ quanh quẩn trong kho kiến thức cơ bản hạn hẹp. Và vì lấy yếu tố đại cương làm chủ đạo nên những chứng minh chi tiết cho từng phần không nêu ngay ra đây. Có thể trong khi đối thoại, nguyenle sẽ lý luận chi tiết cho từng phần. nguyenle cảm thấy nội dung có tính logic nên mạnh dạn đưa ra, mong được các chuyên gia xem và đánh giá thiện chí và rất khoát, ngay thẳng.

001.Vô cực, Thái cực, Hoàng cực:

A. Vô cực:

Nói cho dễ hiểu là giống như vô niệm. Thấy biết đó, như như đó, nhưng không phân biệt thì gọi là vô niệm.

7 đại (đất, nước, gió, lửa, không, kiến, thức) của vũ trụ có đó nhưng vẫn chỉ là nguyên liệu. Chưa hình thành ra một cái gì, nên gọi là Vô cực. Biểu tượng của Vô cực là một hình tròn:

Posted Image

B. Thái cực:

Bất giác, ý thức(thức đại) khởi niệm phân biệt. Đó chính là cái nhân để hình thành Thái cực.

Thái cực gồm những gì?

Đó là lưỡng nghi và tứ tượng!

Lưỡng nghi là nghi âm và nghi dương.

Tứ tượng(trong âm có dương, trong dương có âm) là Thái âm, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương.

Biểu tượng của Thái cực là một hình tròn 4 màu:

Posted Image

Thái cực cũng tức là trạng thái cân bằng giữa hai cực.

Cực âm: Thái âm (sắc đen), Thiếu dương (sắc xanh)

Cực dương: Thái dương (sắc đỏ), Thiếu âm (sắc trắng)

C. Hoàng cực: Tức là Ngũ hành.

Hoàng cực tức là Thái cực có đối tượng đối lập nhưng không mâu thuẫn. Thế nghĩa là sao?

Tức là có hai Thái cực, một là biểu (bên ngoài), một là lý (bên trong). Bên ngoài thì một tách ra làm bốn(tứ tượng), bên trong thì bốn hợp lại là một (thái cực). Một đó với Bốn đó là 5 yếu tố tạo nên một cực gọi là Hoàng cực.

Biểu tượng Hoàng cực là hình ngôi sao 5 màu.

Posted Image

Posted Image...................Posted Image

Ngũ hành tương sinh

Posted Image...................Posted Image

Ngũ hành tương khắc

---

Cái thể của Hoàng cực là Thái cực.

Cái tướng của Hoàng cực là Ngũ Hành.

Cái dụng của Hoàng cực là Bát Quái.

002. Bát quái là Ngũ hành, Ngũ hành là Bát quái

Bát là 8, quái là biểu tượng. Bát quái hình thành từ đâu?

Hoàng cực gồm hai thái cực.

Một thái cực phận kỳ (Dương Thái Cực) thành tứ tượng(kim, mộc, thuỷ, hoả), biểu lộ ra bên ngoài (biểu).

Một thái cực hội tụ (Âm Thái Cực) tứ tượng (thổ) nằm ở bên trong(lý).

Khi thái cực bên trong (Âm Thái Cực-hành thổ) chưa phân kỳ thì Hoàng cực là Ngũ hành(kim, mộc, thuỷ, hoả/ thổ)

Khi thái cực bên trong (Âm Thái Cực-hành Thổ) phân kỳ thành tứ tượng thì Hoàng cực là Bát quái:

(Kim+Mộc+Thuỷ+Hoả=4)x(Âm+Dương=2)=8:

Số 1_ Cung Khảm .....Dương thuỷ-nước

Số 6_ Cung Tốn.........Âm thuỷ-gió

Số 8_ Cung Cấn........Dương mộc-núi

Số 3_ Cung Khôn......Âm mộc-đất

Số 9_ Cung Càn........Âm kim-trời

Số 4_ Cung Đoài.......Dương kim-đầm

Số 2_ Cung Chấn......Âm hoả-sấm

Số 7_ Cung Ly..........Dương hỏa-lửa

Ngũ hành tương sinh:

Posted Image

phân kỳ thành Tiên thiên Bát quái:

Posted Image

Ngũ hành tương khắc:

Posted Image

phân kỳ thành Hậu thiên Bát quái:

Posted Image

003. Trung thiên bát quái và chu kỳ 12 đường kinh:

Trong phần này, nguyenle đã có xem sách "Tìm về cội nguồn kinh dịch" của Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Dựa theo đó, và thế vị trí hai quái cấn và chấn cho nhau, và có hình minh họa như sau:

Posted Image

Sau đây, nguyenle nạp chu kỳ 12 đường kinh vào Trung thiên Bát quái, trên cơ sở ngũ hành tương ứng:

Posted Image

Ghi chú: Như nguyenle đã nói, vì mang tính chất đại cương và vì kiến thức cơ sở hạn hẹp nên chủ đề được trình bầy rất ngắn gọn. Trong phần đối thoại tiếp theo, nguyenle sẽ có những lý luận chi tiết trong khả năng có thể. Mong được thảo luận cùng các chuyên gia.

(05-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhờ anh chị em biên tập lại hình ảnh, tôi đã cố xử lý nhưng bó tay rồi!

Tức là có hai Thái cực, một là biểu (bên ngoài), một là lý (bên trong).

Xin hỏi:

* Hai thái cực đó gọi là gì? Thái cực nào là Âm và Thái cực nào là Dương, Hay nó không phải Âm không phải Dương mà là hai Thái cực?

* Đã là Thái cực sao lại là hai?

Thiên Sứ

@xeda111:

nguyenle cảm niệm anh đã chỉnh sửa lại giúp. Cũng do chưa có kinh nghiệm nên lúc đầu các hình ảnh minh họa không hiện lên được. Lần sau, nguyenle sẽ cẩn thận hơn.

@Thiên Sứ:

Nếu :

Vô cực có thể gọi là Pháp giới, cũng gọi là Không hai (không có sự đối lập). Và lại, Dịch có nói Một sinh Hai.

Vậy thì:

Một thái cực cân bằng cũng có thể gọi là Vô cực-cái Một (dựa theo sự kiện "biến pháp thành pháp giới"-trong nhà Phật). Do Dịch nói Một sinh Hai, nên cũng có cơ sở để cho rằng có hai thái cực. Hai thái cực lại đối lập nhưng không mâu thuẫn, tức là một thái cực âm, một thái cực dương.

nguyenle thấy có một số cách lý luận, nhưng nghĩ là nên chọn cách dựa vào hệ đại cương đã trình bầy trên là có vẻ hợp lý:

Khi tượng quái đã được thống nhất với Số thì có thể dựa vào số mà quay trở lại để luận về thái cực âm và thái cực dương:

Phương án 1:

nguyenle Nhớ rằng

1234 là bình diện vô hình

6789 là bình diện hữu hình

Phương án 2: Các số sinh, thành trong Hà đồ:

Các số lẻ 1-3-5-7-9 gọi là số Trời (Dương), hay Cơ số, trong đó

1-3-5 gọi là số sinh của Trời

7-9 gọi là số thành của Trời

Các số chẵn 2-4-6-8-10 gọi là số Đất (Âm), hay Ngẫu số, trong đó

2-4 gọi là số sinh của Đất

6-8-10 gọi là số thành của Đất

nguyenle tạm đưa những thông tin như vậy, chưa có kết luận gì bởi ngay lúc này, tư duy thế nào thì nói vậy.

(05-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hai thái cực lại đối lập nhưng không mâu thuẫn, tức là một thái cực âm, một thái cực dương.

Xin hỏi:

* Đã là Thái cực Âm và Thái cực Dương thì tức là phân âm dương rồi. Vậy cái có trước Âm Dương - tức có trước hai cái Thái cực Âm và Thái cực Dương ấy gọi là gì?

* Sách nói: Thái cực sinh lưỡng nghi vậy: Thái cục Dương sinh ra lưỡng nghi gì? Và Thái Cực Âm sinh ra lưỡng Nghi gì?

* Nếu bảo vô cực sinh ra hai Thái Cực - một Thái Cực Âm và một Thái cực Dương thì sao không ghi thẳng là Vô cực sinh lưỡng nghi ma 2lai5 phải là Thái cực sinh lưỡng nghi?

Thiên Sứ

Xin hỏi tiếp:

Sách xưa chỉ thấy nói đến Hậu Thiên bát quái và tiên thiên bát quái. Nay lại có Trung Thiên bát quái. Như thế thì từ Tiên Thiên đến Hậu thiên có giai đoạn chuyển tiếp giữa được biểu tượng là Trung Thiên bát quái. Vậy xin hỏi còn giai đoạn chuyển tiếp giữa Tiên thiên đến Trung Thiên có đồ hình bát quái nào nữa không?

nguyenle đã có xem sách "Tìm về cội nguồn kinh dịch" của Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Dựa theo đó, và thế vị trí hai quái cấn và chấn cho nhau, và có hình minh họa như sau:

Theo tôi hiểu thì sách của Nguyễn Vũ Tuấn Anh không hề có một đoạn nào có thể liên hệ hợp lý đến Trung Thiên Bát quái đồ , hoặc dồ hình ở trên. Nguyenle có thể nói rõ căn cứ vào lý luận nào , hay sự suy diễn như thế nào từ sách của Nguyễn Vũ Tuấn Anh để có đồ hình mà Nguyenle đã trình bày?

Thiên Sứ

(05-09-2007)

@Thiên Sứ:

nguyenle xin được đối thoại:

*Theo như phần đại cương đã nêu, nguyenle thấy:

Ngũ hành và bát quái chỉ khác nhau ở chỗ Thái cực âm phân kỳ hày không phân kỳ.

Vậy thì hỏi,trước khi có thái cực âm và thái cực dương là cái gì thì cũng như là hỏi ngũ hành từ đâu mà có, hay là hỏi bát quái từ đâu mà có?

nguyenle thấy là từ tứ tượng mà có ngũ hành, từ tứ tượng mà có bát quái. Cũng tức là trước khi có thái cực âm và thái cực dương thì là một thái cực.

Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương có khẳng định, khi một thái cực cân bằng thì nó không sinh ra cái gì cả, nhưng có một yếu tố nào đó khiến cực âm thịnh hơn cực dương để phá vỡ sự cân bằng thì nó sẽ bắt đầu vận động và phân chia.

Tóm lại, trước khi có thái cực âm và thái cực dương là một trạng thái cân bằng của tứ tượng.

*Thái cực sinh ra lưỡng nghi, có thể coi là một định luật chung. Cũng có thể hiểu là thái cực gồm cực âm và cực dương, trong cực dương lại có yếu tố âm và ngược lại.

Vậy thì, dù là thái cực âm hay là thái cực dương, hễ được gọi là thái cực thì nó phải tuân thủ các điều kiện của thái cực nói chung.

Tức là,

Thái cực âm thì cũng có nghi âm và nghi dương

Thái cực dương cũng có nghi âm và nghi dương

Để chứng mình thì nguyenle thấy dựa vào Tám quẻ là đầy đủ minh chứng cho vấn đề này.

*Một thái cực ở trạng thái cân bằng thì nó không sinh ra pháp gì cả, cho nên khi đó Thái có thể biến thành Vô. Nhưng khi cực âm của thái cực thịnh hơn cực dương do một yếu tố nào đó thì Thái cực sinh lưỡng nghi.

Thái cực ở trạng thái cân bằng tĩnh thì có thể gọi là Vô cực.

Thái cực ở trạng thái cân bằng động thì sinh ra lưỡng nghi.

Trong phép tính bằng toán học, GS Nguyễn Hoàng Phương đã chứng minh trong cuốn (tích hợp đa văn hóa đông tây cho một chiến lược giáo dục tương lai)

Ghi chú: trong khi đối thoại, nguyenle không sử dụng một cách xưng hô chủ khách trên dưới, có gì thì xin anh lượng thứ cho, Thiên Sứ. nguyenle nghĩ là trong diễn đàn này, có nhiều hội viên là học giả và đã có tuổi...

Xin trả lời tiếp:

Sách xưa chỉ thấy nói đến Hậu Thiên bát quái và tiên thiên bát quái. Nay lại có Trung Thiên bát quái. Như thế thì từ Tiên Thiên đến Hậu thiên có giai đoạn chuyển tiếp giữa được biểu tượng là Trung Thiên bát quái. Vậy xin hỏi còn giai đoạn chuyển tiếp giữa Tiên thiên đến Trung Thiên có đồ hình bát quái nào nữa không?

nguyenle xin nói thật là:

Tiên thiên, Trung thiên và Hậu thiên là ý tưởng hay phát hiện của một học giả nào đó mà nguyenle đã có lần biết đến. Nhưng đó cũng chỉ là một ký ức, rồi nó hình thành dần dần thì nguyenle mới theo hướng đó.

Tóm lại là chỉ có 3 bát quái vậy thôi, nếu thêm nữa thì rất rắc rồi đấy ạ!

Trong cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", nguyenle thấy Tác giả có đề cập đến vị trí các quái của Hậu thiên. Sau đó nguyenle theo hướng xắp lại các quái đó, và dựa vào BQ Hậu Thiên của Tác giả rồi đổi thêm vị trí hai quái cấn và chấn. Rồi dựa vào đó để tiếp tục nghiên cứu chứng minh.

Sau đó thì phát minh ra các hành của bát quái đồng nhất với các Số, nên phát triển Hậu Thiên và Tiên Thiên như đã nói. Như vậy, còn lại đồ hình Hậu thiện kia khớp với chu kỳ 12 đường kinh nên gọi nó là Trung thiên. Trung thiền, là theo học giả nào đó đá từng có ý tưởng về Trung thiên.

Vậy đó ạ!

bổ xung:

Một điểm đặc về hành của bát quái nạp vào Số như vậy thì có:

CÁC CẶP QUÁI SINH KHÍ (thượng biến sinh khí) CÓ TÍNH CHẤT LÀ CÙNG MỘT HÀNH. QUÁI NÀY LÀ ÂM TÍNH THÌ QUÁI KIA LÀ DƯƠNG TÍNH. VÀ TRONG TRUNG THIÊN BÁT QUÁI, CÁC CẶP SINH KHÍ ĐƯỢC NẠP ĐÚNG THEO THỨ TỰ SỐ CỦA LẠC THƯ

1-2

3-4

6-7

8-9

.

(06-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xin hỏi lại rõ hơn:

1) Trước Thái cực Âm và Thái Cực Dương là cái gì? Không lẽ lại là Thái Cực? Nếu Thái Cực phân ra Dương Âm thì cần gì phải có Thái Cực Dương và Thái cực âm?

2)

Trong cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", nguyenle thấy Tác giả có đề cập đến vị trí các quái của Hậu thiên. Sau đó nguyenle theo hướng xắp lại các quái đó, và dựa vào BQ Hậu Thiên của Tác giả rồi đổi thêm vị trí hai quái cấn và chấn.

Hai quái CấnChấn là hai quái không có liên hệ hoán chuyển giữa Bát quái Hậu thiên Văn Vương Hậu thiên Lạc Việt. Hay nói rõ hơn là vị trí hai quái CấnChấn của Hậu thiên Văn Vương Hậu thiên Lạc Việt như nhau.

Vậy đâu cần phải theo tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh mà đổi đâu? Ở đây tôi chưa bàn tới lý do đổi.

Nói cụ thể cho dễ hiểu với mọi người biết hoặc không biết về Kinh Dịch là như thế này.

Có một cái xe đạp (Trong Nam gọi là xe máy đạp) từ trước đến nay vẫn coi là của ông Chu Văn Vương làm ra. Nhưng cái xe của ông Chu Văn Vương thì yên xe ở phía bánh sau và cái nệm chở (Bọp ba ga) thì ở đằng trước. Tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh sửa lại cái yên xe ra phía trước và đặt cái nệm chở về phía sau. Ngoài ra các cấu hình khác đều giữ nguyên. Nay anh Nguyenle đổi cái càng xe (Ghi dong) thì không cần phải căn cứ vào cái xe của ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh để đổi. Anh Nguyenle có thể đổi cái Ghi đông ngay từ xe của ông Chu Văn Vương.

Tương tự như vậy, hai quái CấnChấn thì đều giống nhau giữa Bát quái Văn Vương Bát quái Lạc Việt. cũng như cái ghi đông xe vậy. Cho nên, khi anh Nguyenle đổi vị trí Cấn Chấn thì không liên quan đến Bát quái Lạc Việt.

Thiên Sứ

1) Đúng ạ, trước khi đó là một tứ tượng cân bằng với một chiếu xoáy biểu diễn một trạng thái cân bằng động, cho nên nó sẽ phân chia. Do mỗi hành của tứ tượng phân chia âm dương nên nguyenle nói chia ra hai nhóm tứ tượng, một nhóm là thái cực âm gồm các tứ tượng âm tính, một nhóm là thái cực dương gồm các tứ tượng dương tính.

Nhưng mà cách đặt tên như thế có lẽ cần sự góp ý của các chuyên gia có nhiều ngôn ngữ đúng, nguyenle xin được tiếp thu.

2)

Xin trả lời câu 2:

Hai quái chấn và cấn là do nguyenle hoán đổi vị trí để cho nó có đối xứng tâm tổng thể. Rồi thử chứng minh, vậy thôi ạ!

@Thiên Sứ:

Kiến thức về sử học và triết học cũng như dịch học của nguyenle hầu như không có gì.

Vậy nên vấn đề nguyenle đưa ra chỉ là kiến thức góp nhặt từ một số sách về lý học đông phương. Từ khi đọc sách của Nguyễn Vũ Tuấn Anh mới bắt chước đi theo hướng tìm tòi những nguyên lý căn bản.

Cũng không dám khẳng định là đúng để mà tuyên truyền đâu ạ, chỉ là tự thấy một vài điểm logic đặc biệt trong phép toán đối xứng vậy thôi.

Mà có gì gọi là "đạo"(đạo nhạc, hay đạo..) thì cũng xin nhận lỗi, nhưng vẫn muốn nói nên những cái mà nguyenle thấy hay ạ.

(06-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hai quái chấn và cấn là do nguyenle hoán đổi vị trí để cho nó có đối xứng tâm tổng thể. Rồi thử chứng minh, vậy thôi ạ!

Như vậy thì không liên quan gì đến tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh cả. Nguyenle cứ tiếp tục nghiên cứu.

Chúc thành công.

Nhưng lưu ý Nguyenle là:

Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi mới sinh tứ tượng. Nay nguyenle lại viết:

1) Trước Thái cực Âm và Thái Cực Dương là cái gì? Không lẽ lại là Thái Cực? Nếu Thái Cực phân ra Dương Âm thì cần gì phải có Thái Cực Dương và Thái cực âm?

ng.le trả lời:

Đúng ạ, trước khi đó là một tứ tượng cân bằng với một chiếu xoáy biểu diễn một trạng thái cân bằng động, cho nên nó sẽ phân chia. Do mỗi hành của tứ tượng phân chia âm dương nên nguyenle nói chia ra hai nhóm tứ tượng, một nhóm là thái cực âm gồm các tứ tượng âm tính, một nhóm là thái cực dương gồm các tứ tượng dương tính.

Như vậy trước Thái Cực đã có tứ tượng rồi sao?

Theo tôi, Nguyenle cần xem lại ý tưởng này.

Nguyenle lưu ý là:

Sẽ không có một công cụ hiện đại nào của nhân loại bây giờ cho đến ngày tận thế kiểm định được tính thực của Thái Cực cả. Nhưng con người sẽ nhận ra nó bằng một sự minh triết có tính hợp lý. Và chỉ vậy thôi.

Nguyenle hãy suy nghiệm.

Thiên Sứ

@Thiên Sứ:

nguyenle sẽ suy ngẫm thêm, nhưng mà hiện tại còn chưa đủ kiến thức "nghiệp dư".

Cảm niệm Thiên Sứ đã thảo luận và chỉ giáo thêm cho em!

(06-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trong tiêu đề đưa ra, bài viết lúc đầu mang tính đại cương. Trong phần đối thoại này, nguyenle sẽ tiếp tục nêu lên một vài điểm nhấn của phần đại cương đó, để được các chuyên gia xem xét và thảo luận. nguyenle xin phép được có lời như vây.

TIỂU ĐỀ-THÁI CỰC

Posted Image

Trên đây là hình thái cực, nó có màu sắc như vậy cũng là do nguyenle dựa trên một số thông tin sưu tầm được rồi đúc kết lại.

Mặt khác, trong lúc nghiên cứu phần đại cương đã trình bày, nguyenle thấy cần phải nghiên cứu xem hình thái cực này nó có gì bí ẩn không. Sau đó, khi xuất hiện ý tưởng nạp màu của tứ tượng vào thái cực, thì tự cảm thấy mỗi một vị trí màu đều phải có cái lý luận cơ sở.

Sau đây, nguyenle xin được trình bày:

Về mặt tứ tượng:

Thái âm có sắc đen. Thái dương có sắc đỏ. Thiếu âm có sắc trắng. Thiếu dương có sắc xanh.

Về mặt âm dương:

Vẫn dựa trên cái lý sẵn có-trong âm có dương, trong dương có âm và nhấn mạnh là trong thái âm có thiếu dương, trong thái dương có thiếu âm.

Dựa vào đó thì vừa đủ để cho ra một hình thái cực có 4 màu như trên.

Posted Image

Điểm đặc biệt thứ nhất của hình thái cực này là nó phân chia thành hai cực, và giữa hai cực có thể hiện tính chất đối lập nhưng không mâu thuẫn. Đó là:

Cực âm là cực tương sinh: Thái âm Thuỷ sinh thiếu dương Mộc.

Cực dương là cực tương khắc: Thái dương Hỏa khắc thiếu âm Kim

Có thể nói đây là biểu tượng cho Dịch: sáng tạo cái mới và hủy diệt cái cũ phải đồng thời. "Hay nói một cách khác theo ngôn ngữ cổ điển như truyền thuyết về dấu ấn của vua Salomon là: khả năng hủy diệt, phát triển và tiên tri"-sách tìm về cội nguồn kinh dich.

Posted Image

Điểm đặc biệt thứ hai là sự cân bằng sinh khắc giữa hai cực:

-Tương sinh: cực âm sinh cực dương có Mộc sinh Hoả, cân bằng với, cực dương sinh cực âm có Kim sinh Thuỷ.

-Tương khắc: cực âm khắc cực dương có Thuỷ khắc Hoả, cân bằng với, cực dương khắc cực âm có Kim khắc Mộc.

Như vậy, hai trạng thái đối lập nhau, nhưng không mâu thuẫn và có sự tương tác cân bằng thúc đẩy nhau tạo ra sự vận động không dừng nghỉ.

Trên đây là nguyenle trình bày một số điểm nhấn của Thái cực đồ nạp sắc, mong được các chuyên gia nhận định.

(06-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh NguyenLe,

Bé phải công nhận rằng anh vẽ tấm hình trên rất là đẹp . Chỉ tiếc thay là lời giảng của anh mà đơn sơ như hình vẽ thì đẹp biết mấy. Bé đọc bài của anh làm bé chóng mặt luôn . Không biết anh tự viết hay học những chi tiết trên từ đâu.

Thôi để bé giải thích theo cách nhìn của bé nhe .

Lưỡng Nghi

Thái cực là một chia ra lưỡng nghi đó là

vạch _____ dương và vạch ___ ___ âm

Tứ Tượng

Từ lưỡng nghi sinh ra bốn tượng hay

1) ở trên vạch dương vạch thêm một vạch dương gọi là Thái Dương

2) ở trên vạch dương vạch thêm một vạch âm gọi là Thiếu Âm

3) ở trên vạch âm vạch thêm một vạch dương gọi là Thiếu Dương

4) ở trên vạch âm vạch thêm một vạch âm gọi là Thái Âm

Nếu theo cái hình của anh thì

Posted Image

Màu ĐEN tượng trưng cho ÂM ( ___ ___ )

Màu ĐỎ tượng trưng cho DƯƠNG ( ________ )

Màu TRẮNG tượng trưng cho ÂM ( ___ ___ )

Màu XANH tượng trưng cho DƯƠNG ( _______ )

Màu ĐEN + Màu XANH => có nghĩa là ở trên vạch âm vạch thêm một vạch dương gọi là Thiếu Dương

Màu ĐỎ + Màu TRẮNG => có nghĩa là ở trên vạch dương vạch thêm một vạch âm gọi là Thiếu Âm

Chỉ đơn sơ vậy thôi là đủ giải thích cho 2 dấu chấm trên hình làm cho hình tượng trưng cho tứ tượng

Còn anh muốn nêu ra ngũ hành trong hình vẽ thì anh phải vẽ thêm một tấm hình cho cái hình của anh quay tròn, thì nó mới hiện tượng sự thay đổi từ tứ tượng hóa thành bát quái

Bát Quái

1) ở trên thái dương vạch thêm một vạch dương gọi là Càn

2) ở trên thái dương vạch thêm một vạch âm gọi là Ðoài

3) ở trên thiếu âm vạch thêm một vạch dương gọi là Ly

4) ở trên thiếu âm vạch thêm một vạch âm gọi là Chấn

5) ở trên thiếu dương vạch thêm một vạch dương gọi là Tốn

6) ở trên thiếu dương vạch thêm một vạch âm gọi là Khảm

7) ở trên thái âm vạch thêm một vạch dương gọi là Cấn

8) ở trên thái âm vạch thêm một vạch âm gọi là Khôn

Sau khi có được 8 quẻ bát quái rồi thì anh phối hợp với Hà Đồ thì nó mới ra Hậu Thiên Bát Quái Lạc Việt, lúc đó thì anh mới có thể nêu ra ngũ hành tương sinh tương khắc. Lúc đó những người đọc bài như bé thì mới thấy được cái đẹp của hình vẽ trên

Mến,

Bé LinhNhi xí xọn

(06-09-2007)

@Linh Nhi:

Cảm ơn Bé Nhi đã có lời khen về cách thể hiện Thái cực đồ nạp sắc của anh. Anh tiết lộ một chút về nguyên liệu hiếm để thể hiện ra nó cho Bé biết. Cái khung hình vuông là anh copy trong một trang web của Phật giáo Tây tạng, nói về Lạt Ma 14 ấy. Còn tỉ lệ giữa hình vuông và hình tròn có con số vàng là 1.618, tức là đường kính của hình tròn nhân với 1.618 thì cho ra độ lớn của hình vuông. Không biết bé có biết đến tỉ lệ vàng này chưa, nếu chưa biết thì vào blog của anh xem nhé: 360.yahoo.com/bat_minh_hong.

Còn về nội dung Bé Nhi nêu ra để minh giải cho Thái cực đồ sắc này thì anh thấy, đó cũng là cái rất căn bản đấy, ai cũng phải biết đến thì mới thâm nhập vào môn lý học này được.

Nhưng có một điểm anh thấy bé nói :

"Tứ Tượng

Từ lưỡng nghi sinh ra bốn tượng hay

1) ở trên vạch dương vạch thêm một vạch dương gọi là Thái Dương

2) ở trên vạch dương vạch thêm một vạch âm gọi là Thiếu Âm

3) ở trên vạch âm vạch thêm một vạch dương gọi là Thiếu Dương

4) ở trên vạch âm vạch thêm một vạch âm gọi là Thái Âm"

Thì anh thấy là phải như thế này:

Tượng của Thiếu Âm Kim là hai vạch: trên là vạch dương dưới là vạch âm.

Tượng của Thiếu Dương Mộc là hai vạch: trên là vạch âm dưới là vạch dương.

Bé có thể hỏi một vài chuyên gia để rõ hơn về điểm này nhé.

Còn vấn đề nội dung ngũ hành và bát quái mà Bé Nhi nói đến, anh cũng sẽ trình bày thêm, nhưng vẫn còn đang biên tập lại theo đại cương nên chưa nêu ra trong đối thoại với bé.

Không biết Bé Nhi có Blog Y!360 không, có thì cho anh Link nhé.

Anh NguyenLe,

Mấy năm trước trong trường bé có lấy vài môn kiến trúc, cho nên cho số 1.61803398.. là con số không khác lạ gì với bé. Bé ngày nay vẫn còn thường xuyên dùng tới nó trong công việc làm. Tiếng Hy Lạp gọi con số đó là PHI

PHI - 1 = 1 / PHI cho nên thường gọi là cái kiếng hay "mirror" . Theo ngũ hành thì màu vàng trong hình vẽ anh tượng trưng cho PHI hay là Khảm.

À, bé hiểu được hình vẽ nầy rồi. Wow !!! Bé thấy được bé PHI và PI hay là Khảm và Ly . Còn thấy luôn E và C hay là Khôn và Càn . Nếu bé nhìn càng sâu thêm một chúc thì bé thấy sự so sánh hay liên hệ của 4 góc vuông .

Quả là một hình tuyệt đẹp, tuyệt đẹp !!!

Cám ơn anh nhiều nhe,

Bé LinhNhi xí xọn

(07-09-2007)

LinhNhi nắm biết được các con số đặc biệt nhỉ. Thật là đặc biết khi nó liên quan đến phần Lý học căn bản. Khi nào đó, phải mau thỉnh giáo mới được.

(09-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

TIỂU ĐỀ- TỪ LƯỠNG NGHI ĐẾN TIÊN THIÊN BÁT QUÁI

Vài lời giới thiệu:

Phần này nều ra sự cần phải chỉnh sửa lại, hay định nghĩa lại biểu tượng của Tứ tượng. Vì sao?

Vì tính chất logic là "tứ tượng sinh bát quái" thì hành của tứ tượng phải đồng nhất với hành của bát quái.

...nguyenle mong nhận được sự thảo luận của các bậc học giả và các chuyên gia(không phân biệt độ tuổi.)

Có một số phần được nhắc lại và một số phần mở rộng để đảm bảo bố cục tiểu để. Nên nguyenle cũng xin nói rõ trước vậy.

Posted Image

Hình minh hoạ: sự liên quan giữa các vấn đề Thái cực sinh lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh tứ tượng, biểu tượng của tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, sự liên quan giữa hành của Tứ tượng và hành của Bát quái trong trong quá trình trùng quái.

Cách trùng quái và nạp Bát quái vào Hà đồ để có được Tiên thiên bát quái

001-THÁI CỰC NẠP SẮC

Những lý học căn bản để nạp sắc vào hình Thái cực:

Về mặt tứ tượng:

Thái âm Thuỷ có sắc đen (Ban đêm, mùa đông, hướng Bắc...).

Thái dương Hoả có sắc đỏ (Ban ngày, mùa hè, hướng Nam).

Thiếu âm Kim có sắc trắng (Buổi chiều, màu thu, hướng Tây).

Thiếu dương Mộc có sắc xanh (Buổi sáng, màu xuân, hướng Đông).

Về mặt âm dương:

Vẫn dựa trên cái lý sẵn có-trong âm có dương, trong dương có âm và nhấn mạnh là trong thái âm có thiếu dương, trong thái dương có thiếu âm.

Dựa vào hai điểm của lý-học trên thì đủ cơ sở để nạp sắc cho hình Thái cực và chiều xoắn lốc của nó thuận theo chiều kim đồng hồ.

Posted Image

Điểm đặc biệt thứ nhất của hình thái cực này là nó phân chia thành hai cực, và giữa hai cực có thể hiện tính chất đối lập nhưng không mâu thuẫn. Đó là:

Cực âm là cực tương sinh: Thái âm Thuỷ sinh thiếu dương Mộc.

Cực dương là cực tương khắc: Thái dương Hỏa khắc thiếu âm Kim

Có thể nói đây là biểu tượng cho Dịch: sáng tạo cái mới và hủy diệt cái cũ phải đồng thời. "Hay nói một cách khác theo ngôn ngữ cổ điển như truyền thuyết về dấu ấn của vua Salomon là: khả năng hủy diệt, phát triển và tiên tri"-sách tìm về cội nguồn kinh dich.

Điểm đặc biệt thứ hai là sự cân bằng sinh khắc giữa hai cực:

-Tương sinh: cực âm sinh cực dương có Mộc sinh Hoả, cân bằng với, cực dương sinh cực âm có Kim sinh Thuỷ.

-Tương khắc: cực âm khắc cực dương có Thuỷ khắc Hoả, cân bằng với, cực dương khắc cực âm có Kim khắc Mộc.

Như vậy, hai trạng thái đối lập nhau, nhưng không mâu thuẫn và có sự tương tác cân bằng thúc đẩy nhau tạo ra sự vận động không dừng nghỉ.

002-Thái cực sinh lưỡng nghi:

Thái cực gồm hai cực, dương cực và âm cực, hay có thể nói là Bắc cực và Nam cực.

Biểu tượng của Nam cực hay Dương cực là một vạch liền, gọi là nghi dương (sắc đỏ)

Biểu tượng của Bắc cực hay Âm cực là một vạch đứt, gọi là nghi âm (sắc đen).

003-Lưỡng nghi sinh tứ tượng:

Dương cực gồm có hai hành, trong trạng thái: Thái dương Hoả khắc Thiếu âm Kim.

Vì vậy, Dương cực có khả năng sinh ra hai hành là hành Hoả và hành Kim.

Âm cực gồm có hai hành, trong trạng thái: Thái âm Thuỷ sinh Thiếu dương Mộc.

Vì vậy, Âm cực có khả năng sinh ra hai hành là hành Thuỷ và hành Mộc.

Biều tượng của 4 hành, hay tứ tượng là:

Thái Dương Hoả có biểu tượng là hai vạch:

-- -- Vạch âm ở trên .

------ Vạch dương ở dưới.

Thái Âm Thuỷ có biểu tượng là hai vạch:

------ Vạch dương ở trên.

-- -- Vạch âm ở dưới.

Thiếu Dương Kim, biểu tượng là hai vạch âm (thiếu dương-không có vạch dương nào):

-- -- 1 vạch âm ở trên.

-- -- 1 vạch âm ở dưới.

Thiếu Âm Mộc, biểu tượng là hai vạch dương ( thiếu âm-không có vạch âm nào):

------ 1 vạch dương ở trên.

------ 1 vạch dương ở dưới.

Posted Image

Hình minh hoạ: sự liên quan giữa các vấn đề Thái cực sinh lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh tứ tượng, biểu tượng của tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, sự liên quan giữa hành của Tứ tượng và hành của Bát quái trong trong quá trình trùng quái.

Cách trùng quái và nạp Bát quái vào Hà đồ để có được Tiên thiên bát quái

004-Tứ tượng sinh Bát quái:

Thái cực gồm hai cực (Dương cực và Âm cực) có khả năng phân thành hai cực riêng rẽ.

Và, các phần tử của Thái cực cũng có khả năng trên:

Thiếu Âm Kim phân thành hai, gồm Kim dương và Kim âm.

Quái Càn là biểu tượng của Kim dương.

Quái Đoài là biểu tượng của Kim âm.

Thái Dương Hoả phân thành hai, gồm Hoả dương và Hoả âm.

Quái Ly là biểu tượng của Hoả dương.

Quái Chấn là biểu tượng của Hoả âm.

Thái Âm Thuỷ phân chia thành hai, gồm Thuỷ dương và Thuỷ âm.

Quái Tốn là biểu tượng của Thuỷ âm.

Quái Khảm là biểu tượng của Thuỷ dương.

Thiếu Dương Mộc phân chia thành hai, gồm Mộc dương và Mộc âm.

Quái Cấn là biểu tượng của Mộc âm.

Quái Khôn là biểu tượng của Mộc dương.

Ghi chú:

1. Có sự chỉnh sửa tính chất âm dương của các quái so với Phần "Đại cương Vô cực Thái cực". Tức là tính chất âm dương của mỗi hành căn cứ vào một số yếu tố sau:

- 1-3-5-7-9 là số dương

- 2-4-6-8-10 là số âm

- lấy thứ tự liên tiếp của tám quái (càn > đoài > ly > chấn > tốn > khảm > cấn > khôn) tạo thành một chu kỳ soắn, rồi nạp vào nạp vào Hà Đồ.

2. Biểu tượng của tứ tượng có khác so với sách. Tức là chỉnh sửa lại cho nó có sự logic theo Đại cương.

3. Trong mỗi một hành, có hai quái. Hai quái này quan hệ với nhau theo tính chất sinh khí (sinh khí thượng biến-tức là so sánh hào trên cùng của quái này với hào trên cùng của quái kia thì thấy nó đối lập nhau về tính chất âm dương. Còn hào trung; hào hạ giữa hai quái thì cùng tính chất, hoặc )

(09-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh NguyenLe,

Một trong những bí mật trong hình vẽ

Posted Image

là 4 góc vuông . 4 góc nầy không phải tượng trưng cho tứ tượng đâu. Nó tượng trưng cho bốn phương bốn góc, hay là một bí mật trong những con số trong Lạc Thư .

Anh nhìn kỷ lại thấy góc vuông đó . Mỗi góc vuông đều bị mất đi một góc nhỏ. Đó là PHI đó anh, bởi vì :

Phi = (đường dài + đường ngắn) / đường dài

Vì vậy hình vẽ trên của anh tượng trưng cho Lạc Thư và Tiên Thiên Bát Quái . Mong anh nhìn kỷ lại hình vẽ

Bé LinhNhi xí xọn,

(09-09-2007)

@LinhNhi:

Cái khung vuông trong hình Thái cực này nguyenle chỉ có ý tưởng mang tính chất trang trí phụ hoạ. Nhưng tại sao lại lấy nó để trang trí?

Một lần lướt web vào các trang của Lạt Ma 14, thấy trang chủ có cái khung đẹp và copy về. Sau này, thì lấy nó để dùng vào đây.

Người Tây tạng cũng có những triết học rất hay, như chiêm tinh hay vẽ các Mandala. Cho nên, khi thành lập websize thì họ cũng ứng dụng triết học vào phần diện mạo. Cũng có thể cái khung hình này nó bị ảnh hưởng của triết học Mandala...

LinhNhi có cái sở học riêng, nên có thể luận, hiểu và phát hiện nào đó. Nhưng anh thì chưa biết nhiều về lĩnh vực này. Tuy nhiên, anh thấy đụng đến con số PHI là rất bí ẩn và kỳ diệu. Anh biết khá nhiều các trang web nghiên cứu và phát hiện các ứng dụng của con số này của các nền văn hóa cổ. Thấy đây cũng là một cái sở học có triển vọng.

Hiện tại anh vẫn đang nghiên cứu mấy cái cơ bản đã, chưa có thời gian để chuyển sang nghiên cứu những con số này. Nhưng mờ LinhNhi đã hiểu về các con số đó,vậy có thể nói cho anh biết được không. Sao mấy con số này lại liên quan đến các quái nhỉ?...

Anh NguyenLe,

Nếu anh nói như vậy thì cái hình vuông của anh chỉ là một cái khuông cho cái hình lưỡng nghi, thì bé còn gì mà giải thích.

Như vậy cái những bài trên của anh nói về cái hình tròn lưỡng nghi. Những phát kiến của anh :

Thái Dương Hoả có biểu tượng là hai vạch:

-- -- Vạch âm ở trên .

------ Vạch dương ở dưới.

Thái Âm Thuỷ có biểu tượng là hai vạch:

------ Vạch dương ở trên.

-- -- Vạch âm ở dưới.

Thiếu Dương Kim, biểu tượng là hai vạch âm (thiếu dương-không có vạch dương nào):

-- -- 1 vạch âm ở trên.

-- -- 1 vạch âm ở dưới.

Thiếu Âm Mộc, biểu tượng là hai vạch dương ( thiếu âm-không có vạch âm nào):

------ 1 vạch dương ở trên.

------ 1 vạch dương ở dưới.

nằm ngoài sách kinh dịch hiện nay, cho nên bé cũng không còn ý kiến gì hết. Chúc anh nhiều may mắn trên con đường suy tầm nền văn học Phương Đông.

Bé LinhNhi xí xọn

@LinhNhi & All:

Posted Image

Hình minh hoạ: sự liên quan giữa các vấn đề Thái cực sinh lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh tứ tượng, biểu tượng của tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, sự liên quan giữa hành của Tứ tượng và hành của Bát quái trong trong quá trình trùng quái.

Cách trùng quái và nạp Bát quái vào Hà đồ để có được Tiên thiên bát quái

Đính chính TIỀU ĐỀ-TỪ LƯỠNG NGHI ĐẾN TIÊN THIÊN BÁT QUÁI

Phần 003-Nội dung đã viết là

"Dương cực gồm có hai hành, trong trạng thái: Thái dương Hoả khắc Thiếu âm Kim.

Vì vậy, Dương cực có khả năng sinh ra hai hành là hành Hoả và hành Kim.

Âm cực gồm có hai hành, trong trạng thái: Thái âm Thuỷ sinh Thiếu dương Mộc.

Vì vậy, Âm cực có khả năng sinh ra hai hành là hành Thuỷ và hành Mộc.

Biều tượng của 4 hành, hay tứ tượng là:

Thái Dương Hoả có biểu tượng là hai vạch:

__ __ Vạch âm ở trên .

______ Vạch dương ở dưới.

Thái Âm Thuỷ có biểu tượng là hai vạch:

______ Vạch dương ở trên.

__ __ Vạch âm ở dưới.

Thiếu Dương Kim, biểu tượng là hai vạch âm (thiếu dương-không có vạch dương nào):

__ __ 1 vạch âm ở trên.

__ __ 1 vạch âm ở dưới.

Thiếu Âm Mộc, biểu tượng là hai vạch dương ( thiếu âm-không có vạch âm nào):

______ 1 vạch dương ở trên.

______ 1 vạch dương ở dưới."

Phần nội dung được tô màu đỏ là nguyenle viết sai với ý tưởng nên đính chính lại như sau:

Thiếu Âm Kim, biểu tượng là hai vạch âm (thiếu dương-không có vạch dương nào):

______ 1 vạch dương ở trên.

______ 1 vạch dương ở dưới.

Thiếu Dương Mộc, biểu tượng là hai vạch dương ( thiếu âm-không có vạch âm nào):

__ __ 1 vạch âm ở trên.

__ __ 1 vạch âm ở dưới.

Như vậy thì thấy rằng có một điểm hơi lạ là:

Thiếu âm Kim thuộc tính là âm mà lại không có(thiếu) khí âm (nghi âm) .

Thiếu dương Mộc thuộc tính là dương mà lại không có(thiếu) khí dương (nghi dương).

Mong được các chuyên gia thảo luận cái điểm có vẻ như mâu thuẫn này!

(10-09-2007)

nguyenle Bổ xung hình minh họa cách Trùng Quái:

Posted Image

(11-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hoan nghênh anh đã đăng bài (với tư cách cá nhân thôi)

Tuy có một vài khúc mắc nho nhỏ muốn hỏi anh nhưng tôi nghĩ là phần sau sẽ hấp dẫn hơn.

Xin anh cứ tiếp tục.

@ganda:Thx!

------------

Tiểu đề-ĐỊNH NGHĨA MỚI VỀ THÁI CỰC

Posted Image

Thái cực gồm những gì ?

Đó là Lưỡng nghi và Tứ tượng!

Lưỡng tức là nghi âm và nghi dương.

Nghi âm biểu tượng cho Cực âm.

Nghi dương biểu tượng cho Cực dương.

Và sau đây cần phải định nghĩa tên gọi các phần tử trong mỗi cực :

Thuỷ là giai đoạn đầu của Âm cực nên gọi là Thiếu âm Thuỷ.

Mộc là giai đoạn cuối của Âm cực nên gọi là Thái âm Mộc.

Thuỷ và Mộc đều thuộc âm tính!

Hoả là giai đoạn đầu của Dương cực nên gọi là Thiếu dương Hoả

Kim là giai đoạn cuối của Dương cực nên gọi là Thái dương Kim.

Hoả và Kim đều thuộc dương tính!

THÁI ÂM Mộc (của tứ tượng) có biểu tượng là hai hào âm; (chồng thêm một hào âm thì thành quái Khôn-ứng với MẸ)

THÁI DƯƠNG Kim (của tứ tượng) có biểu tượng là hai hào dương;( chồng thêm một hào dương thì thành quái Càn-ứng với CHA.)

THIẾU ÂM Thuỷ (của tứ tượng) có biểu tượng là hai hào: dưới là hào âm, trên là hào dương; (chồng thêm một hào âm thì thành quái Khảm-ứng với con gái (nói chung))

THIẾU DƯƠNG Hoả (của tứ tượng) có biểu tượng là hai hào: dưới là hào dương, trên là hào âm; (chồng thêm một hào dương thì thành quái Ly-ứng với con trai (nói chung))

Như vậy, từ SỰ mà tìm lại LÝ. Tức là không áp dụng cái lý "trong âm có dương, trong dương có âm" cho môi trường Cực(âm hoặc dương) của Thái cực.

Lúc này nguyenle thấy cái hình thái cực này nói lên một câu:

"Sinh con rồi mới sinh cha

Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông"

Tức là:

Thiên nhất sinh thuỷ...

Địa nhị sinh hoả...

Ấy là con trai con gái sinh ra trước!

Thiên tam sinh mộc...

Địa tứ sinh kim...

Ấy là cha mẹ được lên chức vậy!

Anh nguyenle,

Bé thấy anh là người hiếu học và đủ thông minh để tìm hiểu nguồn gốc của hình lưỡng nghi . Mấy năm trước bé cũng bắt đầu học Lạc Thư, Hà Đồ và tấm hình lưỡng nghi.

Bé thấy anh cư ngụ tại Hà Nội. Khi nào anh rãnh thì ghé nganh cái nơi có Trống Đồng. Trong hình nầy có rất nhiều hình lưỡng nghi. Những hình lưỡng nghi đó không có giống như hình của người Tàu, mà nó giống như cái hình lưỡng nghi hay avatar của chú Thiên Sứ. (anh nhìn bên tay trái, trong tấm hình vẽ của nhà tài trợ cũng có hình nầy).

Khi nào anh hiểu tại sao người Lạc Việt vẽ cái hình lưỡng nghi như vậy, thì anh sẽ hiểu những bí mật trong hình lưỡng nghi và sẽ hiểu được 2 dấu chấm trên hình lưỡng nghi tượng trưng cho 2 quẻ gì .

Chúc anh được nhiều may mắn trên con đường tìm hiểu cội nguồn của văn hóa phương Đông

Bé LinhNhi xí xọn

(12-09-2007)

@LinhNhi:

Anh thì cứ theo ý tưởng của mấy Chú chuyên gia thôi, chẳng có ý tưởng của riêng mình. Nhưng may là xem được sách của Nguyễn Vũ Tuấn Anh, cho nên lại thành ra thích nghiên cứu mấy cái cơ bản của Lý học.

Các phần ứng dụng vì không học hỏi ai nên không đi sâu, chỉ xem để thấy các qui luật có chỗ nào sai lệch không...nhưng mà rất nhiều chỗ bị lệch giống như kiểu lệch hành của cái bảng Lục thập Hoa giáp ấy, Độn giáp, Thái ất hình như cũng có chỗ lệch lệch thì phải, các sao thì có vẻ đối xứng mà các Quái thì vẫn cứ không chịu đối xứng:). Chính vì vậy, nên càng hứng thú nghiên cứu phần Lý học cơ bản. Chẳng biết lang thang trên net thế nào mà anh lại lạc vào diễn đàn này...lần thứ 3 đi làm thủ tục ghi danh mới được.

Gợi ý của LinhNhi cũng hay, để khi nào anh dạo qua Bảo tàng Mỹ Thuật và Bảo tàng Lịch Sử tìm xem có cái mặt trống đồng nào không, để coi ra làm sao.

Cảm niệm lời chúc của LinhNhi! LinhNhi có Blog Y!360 thì khi nào cho anh Link nha. Nếu chưa có thì tạo một cái đi. Đề nghị, :lol:

(13-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

TIỂU ĐỀ-HOÀNG CỰC_THÁI CỰC VÀ HÀNH THỔ

Trong chuyên mục Tử Bình Chân Thuyên

Bài-Sách Tử Bình Chân Thuyên - Quảng Văn

Quyển I

Khảo luận về nguồn gốc của ngũ hành

Theo cổ thuyết, khi Trời đất chưa phân biệt, đó là thời kỳ hỗn độn, chưa có mặt trời và trăng sao. Khí âm, khí dương cũng như tiết trời nóng lạnh chưa rõ rệt. Trên trời chưa có mây mưa sương tuyết, bầu trời mờ mịt. Dưới đất chưa xuất hiện cỏ cây, sông núi chim muông, người ở. Tất cả đều là một khối mông lung. Khi đó có một KHÍ kết lại, do đó:

- Thời kỳ Thái Dịch đầu tiên sinh ra thuỷ: chưa có khí là Thái Dịch.

- Thời kỳ Thái Sơ sinh ra hoả: có khí mà chưa có hình.

- Thời kỳ Thái Thuỷ sinh ra nước: có hình mà chưa có chất.

- Thời kỳ Thái Tố sinh ra kim: có chất mà chưa có thể.

- Thời kỳ Thái Cực sinh ra thổ: khí chất hình thể đều đủ, mệnh danh là thời kỳ Thái Cực hoặc Khí Thái Cực cũng vậy.

Căn cứ vào tiến trình trên, người ta mới lấy thuỷ là số 1 (+6); hoả là số 2 (+7), Mộc là số 3 (+8), Kim là số 4 (+9) và thổ là số cuối cùng 5 (+10).

...

Theo lập luận của Hà Công: Nếu Trời mà thiếu Thổ thì lấy gì mà bao bọc. Đất mà thiếu Thổ, lấy gì mà vận tải, lấy đâu ra ngũ cốc, con người nếu không có thổ thời không có điểm tựa để sinh hoạt. Tóm lại thiếu thổ thời ngũ hành không thể có và tồn tại - có thổ mới có:

+ Ngũ thường tức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

+ Ngũ hành tức Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.

Cũng vì lẽ đó mà Tam Tài (tức Thiên, Địa, Nhân) cũng không thể thiếu Thổ.

+ Mộc nếu thiếu thổ thời không có chất để tài bồi.

+ Hoả nếu thiếu thổ thời làm sao chói lọi bốn phương.

+ Kim nếu thiếu thổ thời khó được khí bén nhọn.

+ Thuỷ nếu thiếu thổ thời khó ngăn được nước tràn.

+ Thổ mà thiếu thuỷ cũng không nuôi dưỡng được vạn vật.

Posted Image

Hình minh hoạ:HOÀNG CỰC-ngũ hành

Posted Image

Hình minh hoạ: ngũ hành tương sinh

Posted Image

Hình minh hoạ: ngũ hành tương khắc

Posted Image

Hình Thái Cực (thái cực tiên thiên)

Như vậy thì có thể thấy rằng quá trình hình thành Thái cực cũng là quá trình hình thành nên Hành Thổ. Khi thái cực đã đầy đủ khí chất của tứ tượng thì nó đã bắt đầu trở thành một cơ thể sống. Bình diện tâm linh và thái cực hợp nhất thì cũng là lúc hoá sinh ra Hành Thổ.

Có thể khẳng định rằng, Tứ tượng là bình diện hữu hình của Hành Thổ. Hay nói một cách khác, Hành Thổ là một Thái cực. Khi Hành Thổ được hoá sinh thì cũng là lúc vũ trụ tiếp tục vận động có qui luật, có chu kỳ và qui luật ấy chính là luật sinh khắc của Ngũ Hành.

Nói chung, Thái cực là một Hành Thổ (Đại ngã). Nói riêng, Hành thổ là một Thái cực (tiểu ngã). Tức là áp dựng sự kiện trong cái lớn thì có cái nhỏ, cái nhỏ lại mang đầy đủ tính chất của cái lớn.

Và có lẽ phải phân biệt giữa Đất (đất trời) với Hành Thổ. Đất nói chung có thể coi là một cực của Thái cực(Đại ngã). Trong môi trường Đất, lại hình thành nhiều môi trường nhỏ khác, mỗi một môi trường nhỏ lại hội tụ các yếu tố để hình thành nên một tiểu Thái cực. Khi một tiểu Thái cực được hình thành thì nó được coi là một phần tử có tính chất là Hành Thổ. Và Hành Thổ này lại tham gia tác động vào một môi trường Thái cực (tứ tượng) khác và hợp lại thành một cực gọi là Hoàng Cực (Ngũ Hành)

Ví dụ: Lục phủ ngũ tạng ở người:

Gan, Tim, Phổi, Thận đóng vai trò là một Thái cực (tứ tượng). Tỳ đóng vai trò là một Thái cực(hành thổ) khác. Hai thái cực này tạo nên một Hoàng cực (ngũ hành).

Thái cực là Hành thổ!?

(14-09-2007)

nguyenle bổ xung hình minh họa-Hà đồ nạp Bát quái Trung Thiên:

Posted Image

(16-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thông báo!

nguyenle xin có vài lời trước khi tiếp tục nội dụng của entry "Đại cương Vô cực-Bát quái" này.

Phần đầu "Đại cương Vô cực - Bát quái" là ý tưởng vạch ra sau quá trình hứng thú nghiên cứu những nguyên lý căn bản. Vì là ý tưởng nên trong đó vẫn có những cái đúng sai mà chính nguyenle chưa biết.

Hiện tại, từ đầu cho đến nay, trong gian ngắn đó, nguyenle có thấy được thêm một vài điểm rõ ràng hơn, và cũng có một vài ý tưởng cần gác lại để tiếp tục tiến độ của entry.

Về phần Tứ tượng và Bát quái thì nguyenle tự tin hơn, về phần ngũ hành là Bát quái thì vẫn là ý tưởng-chưa có thêm căn cứ khoa học khách quan nào nên tạm thời phải vượt rào ý tưởng này để phát triển nội dung Thái cực, Bát quái.

Về phần thảo luận trong Đề tài này thì nguyenle mong được các chuyên gia và các bạn thảo luận tự do không hạn chế. Song song với phần thảo luận, nguyenle sẽ có những tổng kết định kỳ để đảm bảo tính tổng quát của chuyên đề nghiên cứu.

Thiết nghĩ nên như vậy, đây cũng là một cái tùy thuận theo thực tại.

nguyenle thông báo!

Và nguyenle cũng rất muốn có ý kiến của Ban Điều Hành cho thông báo trên của nguyenle, xin được tiếp thu.

Nguyenle mến

Để thảo luận đc đề tài của bạn thì cần phải biết kết quả của nó ra sao, tương quan của nó so với tất cả các ứng dụng hiện tại. Nếu không quả thật rất khó.

Theo thiển ý của tôi, quan hệ giữa bát quái và ngũ hành mới thực sự là cốt lõi, các ứng dụng đều cần đến.

Chúc bạn thanh tâm và thành công trong đề tài của mình.

Nguyenle mến

Để thảo luận đc đề tài của bạn thì cần phải biết kết quả của nó ra sao, tương quan của nó so với tất cả các ứng dụng hiện tại. Nếu không quả thật rất khó.

Theo thiển ý của tôi, quan hệ giữa bát quái và ngũ hành mới thực sự là cốt lõi, các ứng dụng đều cần đến.

Chúc bạn thanh tâm và thành công trong đề tài của mình.

Cháu, nguyenle rất cảm ơn chú ganda đã góp ý cho cháu.

Trong phần ứng dụng của Bát quái thì phải có mặt của Ngũ hành, đó cũng là một ý tưởng đại cương không thể thiếu.

Phong cách của Triết học cổ Đông phương là Lý học kết hợp với qui luật (toán học). Vì vậy, hiện tại cháu vẫn truy tìm nguyên lý để Hành thổ có mặt trong Tứ tượng và Bát quái.

Như phần đại cương cháu đã nêu, Bát quái là Ngũ hành, Ngũ hành là Bát quái, nó khác nhau ở chỗ Hành thổ phân kỳ thành tứ tượng hay là Tứ tượng hội tụ thành Hành thổ.

Hiện tại, Hành thổ là một hành đặc biệt và vẫn còn là điều bí ẩn đổi với cháu. Và, cháu nghĩ là nên hoàn thiện phần ý tưởng về Tứ tượng và Bát quái trước. Vì hiện tại, nó cũng có cơ sở gốc rễ, mỗi cái đều liên quan chặt chẽ với nhau.

Sau khi nhẹ phần này, có thể sẽ có những yếu tố liên quan hợp lý của nó với ngũ hành nói chung và hành thổ nói riêng.

Cháu nghĩ là nên như vậy, không thì hiện tại rất khó sắp xếp, bởi những các yếu tổ hợp lý nó cứ hiện ra mà không nói luôn thì tư tưởng bị bế tắc.

Cháu có vài lời như vậy.

Ấy chết bạn Nguyenle

tôi chỉ hơn bạn vài tuổi thôi. Chỉ làm anh được thôi.

(19-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

NGHIÊN CỨU PHẦN MỘT
HỆ THỐNG LÝ THUYẾT
TIÊN THIÊN-VŨ TRỤ HỒI ĐẦU
(ĐẠI CƯƠNG VÔ CỰC-BÁT QUÁI)




Vô cực sinh Thái cực
Thái cực sinh Lưỡng nghi
Lưỡng nghi sinh Tứ tượng
Tứ tượng sinh Bát quái


Posted Image
Hình biểu trưng Dịch lý từ Vô cực đến Bát quái



I. Vô cực:
Nói cho dễ hiểu là giống như vô niệm. Thấy biết đó, như như đó, nhưng không phân biệt thì gọi là vô niệm.
7 đại (đất, nước, gió, lửa, không, kiến, thức) của vũ trụ có đó, nhưng vẫn chỉ là nguyên liệu; Chưa hình thành ra một cái gì, nên gọi là Vô cực. Biểu tượng của Vô cực là một hình tròn:

Posted Image
Hình 1-Vô cực



II.Thái cực:
Vô cực sinh Thái cực:


Bất giác, ý thức (thức đại) khởi niệm phân biệt. Đó chính là cái nhân để hình thành Thái cực.
Thái cực gồm những gì?
Đó là lưỡng nghi và tứ tượng!

Posted Image
Hinh 2: Thái cực đồ nạp sắc- Thái cực Tiên thiên đồ



III.Lưỡng nghi:

Thái cực sinh Lưỡng nghi:

Thái cực sinh ra hai cực. Cực âm và cực dương.

Posted Image
Hình 3: Lưỡng nghi


Tượng của Lưỡng nghi:
Nghi âm biểu tượng cho Cực âm, được ký hiệu là một vạch đứt.
Nghi dương biểu tượng cho Cực dương, được ký hiêu là một vạch liền.

IV.Tứ tượng:

Lưỡng nghi sinh Tứ tượng

Tứ tượng là Thái âm, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương.
Cực Âm của Thái cực có Thuỷ và Mộc, cực Dương của Thái cực có Hoả và Kim.
Thuỷ là giai đoạn đầu của Âm cực nên gọi là Thiếu âm Thuỷ.
Mộc là giai đoạn cuối của Âm cực nên gọi là Thái âm Mộc.
Thuỷ và Mộc đều thuộc âm tính!
Hoả là giai đoạn đầu của Dương cực nên gọi là Thiếu dương Hoả.
Kim là giai đoạn cuối của Dương cực nên gọi là Thái dương Kim.
Hoả và Kim đều thuộc dương tính!

Tượng của Tứ tượng:

Posted Image
Hình 4: Tứ tượng


THÁI ÂM Mộc (của tứ tượng) có biểu tượng là hai hào âm;
(chồng thêm một hào âm lên Thái Âm Mộc thì thành quái Khôn-ứng với MẸ)

THÁI DƯƠNG Kim (của tứ tượng) có biểu tượng là hai hào dương;
(chồng thêm một hào dương lên Thái Dương Kim thì thành quái Càn-ứng với CHA.)

THIẾU ÂM Thuỷ (của tứ tượng) có biểu tượng là hai hào: dưới là hào âm, trên là hào dương;
(chồng thêm một hào âm lên Thiếu Âm Thuỷ thì thành quái Khảm-ứng với con gái (nói chung))

THIẾU DƯƠNG Hoả (của tứ tượng) có biểu tượng là hai hào: dưới là hào dương, trên là hào âm;
(chồng thêm một hào dương lên Thiếu Dương Hoả thì thành quái Ly-ứng với con trai (nói chung))

V.Bát quái:

Tứ tượng sinh Bát quái


Thái cực gồm hai cực (Dương cực và Âm cực) có khả năng phân thành hai cực riêng rẽ.
Và, mỗi phần tử của Thái cực cũng có khả năng trên (theo định lý một sinh hai(âm và dương)):

Thiếu Âm Kim phân thành hai, gồm Kim dương và Kim âm.
Quái Càn là biểu tượng của Kim dương (Trời).
Quái Đoài là biểu tượng của Kim âm (Đầm).

Thái Dương Hoả phân thành hai, gồm Hoả dương và Hoả âm.
Quái Ly là biểu tượng của Hoả dương (Lửa).
Quái Chấn là biểu tượng của Hoả âm (Sấm).

Thái Âm Thuỷ phân chia thành hai, gồm Thuỷ dương và Thuỷ âm.
Quái Khảm là biểu tượng của Thuỷ dương (Nước).
Quái Tốn là biểu tượng của Thuỷ âm (Gió).

Thiếu Dương Mộc phân chia thành hai, gồm Mộc dương và Mộc âm.
Quái Khôn là biểu tượng của Mộc dương (Đất).
Quái Cấn là biểu tượng của Mộc âm (Núi).

Tượng của Bát quái:

Posted Image
Hình 5: Bát quái


Chồng thêm một hào DƯƠNG lên Thái Dương Kim thì thành quái Càn.
Chồng thêm một hào ÂM lên Thái Dương Kim thì thành quái Đoài.
Chồng thêm một hào DƯƠNG lên Thiếu Dương Hoả thì thành quái Ly.
Chồng thêm một hào ÂM lên Thiếu Dương Hoả thì thành quái Chấn.

Chồng thêm một hào DƯƠNG lên Thái Âm Thuỷ thì thành quái Tốn.
Chồng thêm một hào ÂM lên Thái Âm Thuỷ thì thành quái Khảm.
Chồng thêm một hào DƯƠNG lên Thiếu Âm Mộc thì thành quái Cấn.
Chồng thêm một hào ÂM lên Thiếu Âm Mộc thì thành quái Khôn.

Trùng quái

Biểu tượng của Lưỡng nghi, biểu tượng của Tứ tượng, biểu tượng của Bát quái có một sự thống nhất căn bản. Điều này dựa trên định lý "một sinh hai" áp dụng trong quá trình Biến dịch từ Vô cực thành Bát quái: Thái cực sinh lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái.

Định lý "một sinh hai" áp dụng cho Thái cực sinh Lưỡng nghi:
Thái cực gồm hai cực, Dương cực và Âm cực.

Định lý "một sinh hai" áp dụng cho Lưỡng nghi sinh Tứ tượng:
Dương cực gồm có 2 thành phần là Hành Kim và Hành Hoả.
Âm cực gồm có 2 thành phần là Hành Thuỷ và Hành Mộc.

Định lý "một sinh hai" áp dụng cho Tứ tượng sinh Bát quái:
Hành Kim gồm có 2 thành phần là Kim dương và Kim âm.
Hành Hoả gồm có 2 thành phần là Hoả dương và Hoả âm.
Hành Thuỷ gồm có 2 thành phần là Thuỷ dương và Thuỷ âm.
Hành Mộc gồm có 2 thành phần là Mộc dương và Mộc âm.
Như vậy, do Tứ tượng sinh Bát quái thì hành của Bát quái phải đồng nhất với hành của Tứ tượng. Do Lưỡng nghi sinh Tứ tượng thì tính Âm Dương của Tứ tượng phải đồng nhất với tính Âm Dương của Lưỡng nghi. Đây là một lẽ đương nhiên của Dịch.

Dựa trên định lý "một sinh hai" trong quá trình Biến dịch mà tìm về cách trùng quái và tính chất Hành của mỗi quái là một điều rất căn bản.

Posted Image
Hình minh hoạ cách trùng quái


Nạp Quái

Bát quái Tiên thiên
Nạp Bát quái vào Hà Đồ theo tính chất ngũ hành tương ứng thì được Bát quái Tiên thiên đồ:

Posted Image


Bát quái Hậu thiên

Nạp Bát quái vào Lạc Thư theo tính chất ngũ hành tương ứng thì được Bát quái Hậu thiên đồ:

Posted Image


Bát quái Trung thiên: Còn tiếp!
========================

Kính báo!

nguyenle xin có vài lời trước khi tiếp tục nội dụng của entry "Đại cương Vô cực-Bát quái" này.

Phần đầu "Đại cương Vô cực - Bát quái" là ý tưởng vạch ra sau quá trình hứng thú nghiên cứu những nguyên lý căn bản. Vì là ý tưởng nên trong đó vẫn có những cái đúng sai mà chính nguyenle chưa biết.
Hiện tại, từ đầu cho đến nay, trong gian ngắn đó, nguyenle có thấy được thêm một vài điểm rõ ràng hơn, và cũng có một vài ý tưởng cần gác lại để tiếp tục tiến độ của entry.
Về phần Tứ tượng và Bát quái thì nguyenle tự tin hơn, về phần ngũ hành là Bát quái thì vẫn là ý tưởng-chưa có thêm căn cứ khoa học khách quan nào nên tạm thời phải vượt rào ý tưởng này để phát triển nội dung Thái cực, Bát quái.
Về phần thảo luận trong Đề tài này thì nguyenle mong được các chuyên gia và các bạn thảo luận tự do không hạn chế. Song song với phần thảo luận, nguyenle sẽ có những tổng kết định kỳ để đảm bảo tính tổng quát của chuyên đề nghiên cứu.
Thiết nghĩ nên như vậy, đây cũng là một cái tùy thuận theo thực tại.

nguyenle kính báo!

(20-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh NguyenLe,

Nhìn qua hình tứ tượng của anh, bé thấy anh thay đổi vị trí của 2 quẻ Thiếu Dương và Thiếu Âm.

Posted Image

Bé nghĩ là anh cố ý thay đổi để khi vẽ ra hình Tiên Thiên Bát Quái thì Thiếu Dương nằm bên phía Thái Dương, và Thiếu Âm nằm bên phái Thái Âm

Posted Image

Nếu anh đổi thiếu âm thành thiếu dương như vậy thì khi anh vẽ hình Hậu Thiên Bát Quái thì 4 tứ tượng của anh sẽ bị âm dương đối nghịch. Anh nhìn lại hình bé vẽ bên trên rồi cho bé biết ý kiến của anh. Nếu bé có sai thì mong anh chỉ giáo

Bé LinhNhi xí xọn

Nói chung, tôi không có ý kiến gì cả. Tuy nhiên, Vô cực sinh Thái cực là cái mà tôi thấy vô lý vô cùng. Trong Đạo Đức Kinh thì Lão Tử mô tả đấy là Đạo. Chỉ có cái ấy vĩ đại nhất thôi. Nhưng trong Kinh Dịch thì có Vô cực, Thái cực. Nhiều sách viết là Vô cực sinh Thái cực. Ta biết Kinh dịch phần lớn ngoài các giảng giải thuộc về Nho Giáo thì logic hình thành của nó hầu hết liên quan đến Đạo Giáo. Nếu bảo hai cái đó khác nhau thì còn gì là cái vô thỷ vô chung hè?

Theo tôi, (có lẽ cũng đã có sách nói điều này) (có lẽ không phải tôi là người đầu tiên) đầu tiên có cái thiêng liêng nhất. Cái đó tĩnh gọi là Vô cực. Cái đó động thì thành Thái Cực có chứa lưỡng nghi. Vì thế, nói Vô cực sinh ra Thái cực là phản với sự tồn tại một và chỉ một cái thiêng liêng nhất.

Ý tôi là vậy và sẽ trình bày trong tất cả các sách sắp tới của tôi. Còn ai quan niệm thế nào xin tùy thích. Miễn thảo luận thêm.

KLA

nguyenle chào LinhNhi:)

Anh NguyenLe,

Nhìn qua hình tứ tượng của anh, bé thấy anh thay đổi vị trí của 2 quẻ Thiếu Dương và Thiếu Âm.

Posted Image

Bé nghĩ là anh cố ý thay đổi để khi vẽ ra hình Tiên Thiên Bát Quái thì Thiếu Dương nằm bên phía Thái Dương, và Thiếu Âm nằm bên phái Thái Âm

Anh thấy như thế này:

Thái cực sinh Lưỡng nghi. Ví dụ Nghi dương là nam giới, Nghi âm là nữ giới.

Vậy khi Lưỡng nghi sinh Tứ tượng thì Nghi dương sinh ra Thiếu dương và Thái dương (2 trong một: hai thời kỳ phát triển của một người).

Nam giới hồi nhỏ(tuổi; chưa có gia đình) thì gọi là Thiếu nam-ứng với Thiếu dương.

Vị ấy khi lớn lên, lập gia đình thì thành Cha-ứng với Thái dương.

Như vậy, cũng là người ấy(nam). Nhưng lúc nhỏ và lúc lớn, cho nên gọi là thiếu dương và thái dương. Hay nói một cách khác, đây là hai giai đoạn trong đời của một người, giống như là hai giai đoạn Mệnh(thiếu) và Thân(Thái) trong tử vi nói đó.

Nữ giới hồi nhỏ-cũng lại phân tích như thế.

Tóm lại là,

Thái /thiếu nghĩa là lớn /nhỏ.

Âm /dương nghĩa là /nam nữ.

Lớn nhỏ là hai giai đoạn của Một.

Nam nữ đều có hai giai đoạn như vậy!

Anh NguyenLe,

Posted Image

Nếu anh đổi thiếu âm thành thiếu dương như vậy thì khi anh vẽ hình Hậu Thiên Bát Quái thì 4 tứ tượng của anh sẽ bị âm dương đối nghịch. Anh nhìn lại hình bé vẽ bên trên rồi cho bé biết ý kiến của anh. Nếu bé có sai thì mong anh chỉ giáo

Bé LinhNhi xí xọn

Chỗ này thì anh phải đưa ra Trung thiên Bát quái để giải!

Posted Image

Hãy để ý đến hai nhóm Tứ tượng tương sinh, một nhóm tương sinh thuận theo chiều kim đồng hồ (hình vuông diềm mầu đen). Một nhóm tương sinh nghịch chiều kim đồng hồ (hình vuông diềm mầu đỏ)

Như LinhNhi nói, vậy thì bị âm dương đối nghịch. Thế cũng đúng, nhưng đấy là nhìn tổng quan theo chu vi bên ngoài. Nhưng, đó cũng là lẽ đương nhiên khiến các quái luân chuyển theo chu kỳ thứ tự số Hà Đồ hay Lạc Thư...

Anh tạm lý giải vậy:)

Nói chung, tôi không có ý kiến gì cả. Tuy nhiên, Vô cực sinh Thái cực là cái mà tôi thấy vô lý vô cùng. Trong Đạo Đức Kinh thì Lão Tử mô tả đấy là Đạo. Chỉ có cái ấy vĩ đại nhất thôi. Nhưng trong Kinh Dịch thì có Vô cực, Thái cực. Nhiều sách viết là Vô cực sinh Thái cực. Ta biết Kinh dịch phần lớn ngoài các giảng giải thuộc về Nho Giáo thì logic hình thành của nó hầu hết liên quan đến Đạo Giáo. Nếu bảo hai cái đó khác nhau thì còn gì là cái vô thỷ vô chung hè?

Theo tôi, (có lẽ cũng đã có sách nói điều này) (có lẽ không phải tôi là người đầu tiên) đầu tiên có cái thiêng liêng nhất. Cái đó tĩnh gọi là Vô cực. Cái đó động thì thành Thái Cực có chứa lưỡng nghi. Vì thế, nói Vô cực sinh ra Thái cực là phản với sự tồn tại một và chỉ một cái thiêng liêng nhất.

Ý tôi là vậy và sẽ trình bày trong tất cả các sách sắp tới của tôi. Còn ai quan niệm thế nào xin tùy thích. Miễn thảo luận thêm.

KLA

Cháu, nguyenle kính chào chú Khonglaai.

Theo cháu, người xưa hay dùng cách gọi tắt như:

Chúng sinh là gọi chung cho chúng sinh và chúng tử.

Thái dương là gọi chung cho thái dương và thái âm.

Như vậy, cũng có thể là:

Thái cực là gọi chung cho thái cực và thiếu cực.

Cháu nghĩ cũng phải có một cái không thể nói đến đến được. Nhưng vì sự diệu dụng của Thái cực mà vẫn có thể đặt tên cho cái không thể hiểu là Vô cực.

Cháu tư duy vậy. Nhưng thật ra thì từ vô cực là cháu cũng bắt chước người ta mà gọi vậy thôi ạ!

(20-09-2007)

Đây là dẫn từ Hệ Từ Truyện một trong Thập Dực nổi tiếng trong Kinh Dịch. Bạn hãy tham khảo.

Chương XI.

5. Thị cố Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái.

Dịch: dịch có thái cực, thái cực sinh ra lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái.

Chú thích: Những từ ngữ lưỡng nghi, tứ tượng được giảng ở phần I, Chương I. Quan niệm thái cực, thời Văn Vương, Chu Công chưa có, thời Chiến quốc hay Hán mới xuất hiện; tới đời Tống lại thêm quan niệm vô cực nữa (các tiết từ đây trở xuống, Phan Bội Châu đều bỏ).

Chú thích rất bổ ích đó là của Nguyễn Hiến Lê.

Thời Tống là thời sự nghiên cứu Dịch phát triển rất mạnh và mở ra nhiều trường phái (Hầu hết các tài liệu về Kinh Dịch trên năm châu bốn bể này đều thống nhất một điểm như vậy). Đó là một ưu điểm, tuy nhiên cũng dẫn đến một khuyết điểm lớn là, người ta đã thêm thắt, cởi buộc những lời, những ý để hợp với kiến giải từng người. Và Dịch một số phần mất đi ý nghĩa nguyên thủy của nó. Ví dụ, ở trên tôi có nói về sự quan trọng của động tĩnh thì có rất nhiều tiết trong một số chương có nhấn mạnh sự động tĩnh này.

Nếu cần tham khảo bạn vào vnthuquan để đọc Kinh Dịch-Đạo của người quân tử của Nguyễn Hiến Lê.

KLA

P/S: nếu bạn đổi qua suy tư theo kiểu Động-Tĩnh thì tôi nghĩ bạn sẽ có nhiều thành công hơn.

Đây là dẫn từ Hệ Từ Truyện một trong Thập Dực nổi tiếng trong Kinh Dịch. Bạn hãy tham khảo.

Chương XI.

5. Thị cố Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái.

Dịch: dịch có thái cực, thái cực sinh ra lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái.

Chú thích: Những từ ngữ lưỡng nghi, tứ tượng được giảng ở phần I, Chương I. Quan niệm thái cực, thời Văn Vương, Chu Công chưa có, thời Chiến quốc hay Hán mới xuất hiện; tới đời Tống lại thêm quan niệm vô cực nữa (các tiết từ đây trở xuống, Phan Bội Châu đều bỏ).

Chú thích rất bổ ích đó là của Nguyễn Hiến Lê.

Thời Tống là thời sự nghiên cứu Dịch phát triển rất mạnh và mở ra nhiều trường phái (Hầu hết các tài liệu về Kinh Dịch trên năm châu bốn bể này đều thống nhất một điểm như vậy). Đó là một ưu điểm, tuy nhiên cũng dẫn đến một khuyết điểm lớn là, người ta đã thêm thắt, cởi buộc những lời, những ý để hợp với kiến giải từng người. Và Dịch một số phần mất đi ý nghĩa nguyên thủy của nó. Ví dụ, ở trên tôi có nói về sự quan trọng của động tĩnh thì có rất nhiều tiết trong một số chương có nhấn mạnh sự động tĩnh này.

Nếu cần tham khảo bạn vào vnthuquan để đọc Kinh Dịch-Đạo của người quân tử của Nguyễn Hiến Lê.

KLA

P/S: nếu bạn đổi qua suy tư theo kiểu Động-Tĩnh thì tôi nghĩ bạn sẽ có nhiều thành công hơn.

Chú KLA kính mến!

Về vấn đề từ Vô cực đến Bát quái, thì có nhiều tầng kiến giải. Và đặc biệt cái kiến giải về Vô cực ('vô cùng') cũng có khi là ảnh hưởng của trường phái vô tướng nào đó. Nhưng cháu thì cũng nêu ra Vô cực trong phần nghiên cứu của cháu, bởi cũng có chút kiến giải, chú ạ.

Còn về vấn đề nghiên cứu Kinh dịch và luận bàn theo cái thấy riêng của mối nhóm hay mỗi cá nhân rồi tạo ra những cách giải thích khác nhau nhất định. Thì cháu thấy là phải có sự hiểu biết bao quát, hay là một giả thuyết bao quát rồi mới có thể triển khai nghiên cứu từng phần. Bởi vì cái Lý học này nó sinh ra nhiều loại tư duy logic. Những tư duy của mỗi nhóm hay cá nhân ví như là Lạc(chi, nhánh, ngõ cụt), để khẳng định tư duy đó đúng sai ra làm sao thì phải xem cái Lạc ấy nó có cùng gen với Kinh hay không...

nguyenle cảm ơn chú KLA đã chỉ giáo và gợi ý cho cháu tham khảo tài liệu về Kinh dịch. Theo đó cháu tìm được rồi. Cháu cũng thấy là tư duy theo hướng động tĩnh cũng có nhiều điều hay.

Cháu, nguyenle cảm ơn Chú.

Posted Image

Bé LinhNhi xí xọn

Quan trọng, chủ nhân của Hậu Thiên Bát Quái Lạc Việt là anh Thiên Sứ có đồng ý với kiến giải này của bạn Linh Nhi không?

KLA

Anh KhongLaAi,

Có lý !!! có lý !!! Bé quên mất điều nầy. Phải hỏi chủ nhân mới được .

Bé LinhNhi

Chú KLA kính mến!

Về vấn đề từ Vô cực đến Bát quái, thì có nhiều tầng kiến giải. Và đặc biệt cái kiến giải về Vô cực ('vô cùng') cũng có khi là ảnh hưởng của trường phái vô tướng nào đó. Nhưng cháu thì cũng nêu ra Vô cực trong phần nghiên cứu của cháu, bởi cũng có chút kiến giải, chú ạ.

Còn về vấn đề nghiên cứu Kinh dịch và luận bàn theo cái thấy riêng của mối nhóm hay mỗi cá nhân rồi tạo ra những cách giải thích khác nhau nhất định. Thì cháu thấy là phải có sự hiểu biết bao quát, hay là một giả thuyết bao quát rồi mới có thể triển khai nghiên cứu từng phần. Bởi vì cái Lý học này nó sinh ra nhiều loại tư duy logic. Những tư duy của mỗi nhóm hay cá nhân ví như là Lạc(chi, nhánh, ngõ cụt), để khẳng định tư duy đó đúng sai ra làm sao thì phải xem cái Lạc ấy nó có cùng gen với Kinh hay không...

nguyenle cảm ơn chú KLA đã chỉ giáo và gợi ý cho cháu tham khảo tài liệu về Kinh dịch. Theo đó cháu tìm được rồi. Cháu cũng thấy là tư duy theo hướng động tĩnh cũng có nhiều điều hay.

Cháu, nguyenle cảm ơn Chú.

You are welcome.

Lạc cùng gen với Kinh là sao? Ý bạn đổi Chấn lên gần Khảm là làm Kinh cùng gen với Lạc hả bạn?

Hỏi vậy thôi chứ bạn cứ làm việc của mình. Chúc thành công.

KLA

@khonglaai & LinhNhi:

nguyenle xin hỏi nhỏ Chú và LinhNhi là danh bút Nguyễn Vũ Tuấn Anh có phải là Hành giả Thiên Sứ không vậy. Hình như là vậy? Các đạo hữu mạch cho nguyenle biết mới

Trích-KLA:"Lạc cùng gen với Kinh là sao? Ý bạn đổi Chấn lên gần Khảm là làm Kinh cùng gen với Lạc hả bạn?"

Cái đoạn lấy Kinh và Lạc, nói để làm ví dụ ấy-Thực ra là, nói chung cách nói của cháu thỉnh thoảng nó nghe hơi ngang ngang và khó chịu. Có gì thì chú KLA thông cảm.

Trong đông y nói, Lạc với Kinh là để dẫn khí huyết. Và, khác nhau ở chỗ là Lạc thì chỉ là chi nhánh, không có chu kỳ vòng quanh như Kinh. ...Ui, mà xem ra câu hỏi trên của chú không hẳn chỉ là câu hỏi...nguyenle bái phục

nguyenle thân mến!

Ai cũng biết điều đó mà.

Dịch gia lại làm thơ rất hay (anh TS có nhận mình là nhà thơ không? Tôi định gọi anh là nhà thơ, nhưng sợ anh không đồng ý) Nguyễn Vũ Tuấn Anh chính là anh Thiên Sứ đó.

Thân.

KLA

nguyenle thân mến!

Ai cũng biết điều đó mà.

Dịch gia lại làm thơ rất hay (anh TS có nhận mình là nhà thơ không? Tôi định gọi anh là nhà thơ, nhưng sợ anh không đồng ý) Nguyễn Vũ Tuấn Anh chính là anh Thiên Sứ đó.

Thân.

KLA

Cháu, nguyenle, cảm niệm chú đã tiết lộ thiên cơ (bởi cháu đang nghi hai Danh bút ấy là Một). Cháu có, đã xem thấy một vài hình ảnh trên diễn đàn, trong đó có Chú TS. Thế là, cũng nảy sinh cái tật tò mò xem tướng, cháu chỉ xem được có mỗi một điểm, đó là vùng huyệt liên quan đến Thận ở trên Tai.

Những người có tài, thường biểu lộ trên cái vùng huyệt này một hình dạng dài, rộng và có độ khép . Nói chung là ai có cái tướng này thì thường là có nội công thâm hâụ, có sức khỏe dẻo dai dẫn đến tính lao động bền bỉ và kiên trì...nguyenle, cháu nói sơ sơ vậy thôi, tránh lạc đề quá xa.

(21-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhật ký nghiên cứu:

Ngày xửa ngày xưa! Nói vậy chứ cũng mới mấy năm gần đây.

Vào một buổi tối, nguyenle lang thang tại mấy hiệu sách giảm giá, ở phố Đinh Lễ ấy. Có cái hàng bán sách ngay cạnh cổng sau của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội (số 2 Đinh Lễ). Đang đưa mắt "tia" sách, bỗng thấy ngay dưới có cuốn sách màu bìa rất đẹp. Thấy thoáng thoáng lại có chữ Kinh Dịch, thế là cầm lên xem rồi hỏi giá mua liền. Giá bìa hình như 80 ngàn, quảng cáo giảm giá 30% còn hơn 50 ngàn. Bây giờ thì cuốn sách này nguyenle không còn giữ nữa, bởi cái ông bạn hồi bên Đức về chơi, ông ấy mượn rồi từđó không gặpđược thế là không đòi được sách.

I-Ý TƯỞNG BÁT QUÁI CÓ TÍNH ĐỐI XỨNG TỔNG THỂ

Với một chút kiến thức hiểu biết từ trước về mấy thứ triết học cổ, nào là tý sửu dần mão, nào là Độn giáp Thái ất, mỗi thứ gọi là biết một tí và nguyenle cũng có cuốn "Tích hợpđa văn hoá Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai" của cố giáo sư Nguyễn Hoàng Phương. Cộng với cuốn sách "Tìm về cội nguồn Kinh dịch", nguyenle bắtđầu từ Hậu thiên Bát quái Lạc Việt của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, rồi xuất hiện ý tưởngđổi thêm vị trí hai quái chấn cà cấn cho nhau, để cho cái Bát Quái Đồ nó có tính đối xứng tổng thể.

Posted Image

Hình 1

II-XÁC ĐỊNH HÀNH CỦA BÁT QUÁI

Ý tưởng tiếp theo là xác định hành của Bát quái:

Khảm và Ly thì là Thuỷ và Hoả rồi, cái này giữ nguyên như cũ.

Càn và Đoài thì cùng thuộc Kim, cái này cũng giữ nguyên như cũ.

Còn Khôn và Cấn, hiện tại không nhớ rõ lắm. Nhưng hình như Khôn thuộc Mộc là ý tưởng bắt chước trong sách. Nói tóm lại là Khôn và Cấn đều là Hành mộc.

Chấn thuộc Âm hoả cái này thì là ý tưởng mới của nguyenle.

Tốn thuộc Âm thuỷ cũng là ý tưởng mới của nguyenle.

Tóm lại

Càn, Đoài thuộc tính là Kim. Ly, Chấn thuộc tính là Hoả. Tốn, Khảm thuộc tính là Thuỷ. Cấn, Khôn thuộc tính là Mộc.

Posted Image

Hinh 2 Trung thiên Bát quái

Sở dĩ nguyenle khẳngđịnh như vậy là do bắt chước tính chất của hai quái Càn và Đoài. Hai quái này quan hệ với nhau theo sự sinh khí thượng biến, tức là theo cái lý sẵn có thì hai quái quan hệ với nhau ở mức tốt nhất khi hào trên cùng của quái này là âm thì hào trên cùng của quái kia là dương, còn hào giữa( và hào dưới cùng) của quái này cùng tính chất âm dương với hào giữa (và hào dưới cùng) của quái kia.

Và lại. Càn, Đoài có quan hệ sinh khí, đồng thời cùng tính chất là Kim. Như vậy cứ thế mà suy ra, các cặp quái có quan hệ sinh khí thì phải cùng tính chất:

Ly và Chấn có quan hệ sinh khí, Ly thuộc Hoả thì Chấn cũng thuộc Hoả.

Khảm và Tốn có quan hệ sinh khí, Khảm thuộc Thuỷ thì Tốn cũng thuộc Thuỷ.

Khôn và Cấn có quan hệ sinh khí, Khôn thuộc hành nào thì Cấn cũng thuộc hành ấy.

nguyenle thấy Khôn và Cấn thuộc Mộc cũng có lý, là vì thấy trong Bát quái:

Khảm và Ly đối xứng với nhau ứng với Thuỷ và Hoả. Thì từđó mà suy ra, Càn và Khôn đối xứng với nhau ứng với Kim và Mộc.

III-BÁT QUÁI TIÊN THIÊN

Khi xác định được tính chất hành của mỗi quái, sau một thời gian khá lâu, nguyenle lại xuất hiện ý tưởng là:

Do thấy tính chất hành của Quái ứng với tính chất hành của Số:

Càn-Đoài-9-4 thuộc Hành kim.

Ly-Chấn-7-2 thuộc Hành hoả.

Tốn-Khảm-6-1 thuộc Hành thuỷ.

Cấn-Khôn-8-3 thuộc Hành mộc.

Thấy như trên, nguyenle nạp quái vào Hà Đồ thì thấy được một Bát quái đồ giống với hình Bát quái Tiên thiên(cũ). Tạm gọi là hai Bát quái đồ này là Bát quái Tiên thiên CŨ và Bát quái Tiên thiên MỚI.

Hai Bát quái này chỉ khác nhau ở một điểm là, khi nạp quái vào Hà Đồ thì Bát quái Tiên thiên Cũ có vị trí Càn tại SỐ 1, còn Bát quái Tiên thiên MỚI thì có vị trí Khảm tại SỐ 1.

Bát quái Tiên thiên MỚI có một điểm hợp lý là nó có nguyên tắc LẠP quái vào Hà Đồ theo tính chất Ngũ hành tương ứng.

Posted Image

Hình 3: Bát quái Tiên thiên Càn tại 1

Posted Image

Hình 4 Bát quái Tiên thiên Khảm tại 1

Lại xuất hiện một vấn đề là tính chính xác âm dương của các quái, nguyenle tư duy và kết luận có thể căn cứ vào hai yếu tố gián tiếp là:

-Một, giữ nguyên chu kỳ xoắn của Bát quái Tiên thiên là Càn > Đoài > Ly > Chấn xoắn sang Tốn > Khảm > Cấn > Khôn.

-Hai, theo chu kỳ đó của Bát quái trên Hà Đồ, quái nào ứng với số nào thì sẽ cùng tính chất âm hay dương của sô ấy: số lẻ thuộc dương, số chẵn thuộc âm.

IV-BÁT QUÁI HẬU THIÊN

Như vậy, từ Bát quái Tiên thiên MỚI. có một vài cơ sở để tồn tại nhưđã nêu trên. Cũng có nghĩa là cách Lạp quái ứng với số theo tính chất ngũ hành tương ứng, có giá trị. Vậy là nguyenle lại Lạp Bát quái vào Lạc Thư theo tính chất Ngũ hành tương ứng, và cho ra một Bát quái đồ Mới thứ hai.

Và, nguyenle đặt tên Bát quái đồ MỚI thứ hai này là Bát quái Hậu thiên(mới).

Posted Image

Hình 6: Bát quái Hậu thiên

Vì sao lại gọi là Hậu thiên?

Vì căn cứ vào sự tương phản (thuận nghịch) giữa Hà Đồ và Lạc Thư; Nếu Hà Đồ đã gọi là Tiên thiên thì Lạc Thư sẽ được gọi là Hậu thiên. Cho nên nguyenle gọi:

Bát quái Lạp vào Hà đồ là Bát quái Tiên thiên đồ.

Bát quái Lạp vào Lạc Thư là Bát quái Hậu thiên đồ.

VI-BÁT QUÁI TRUNG THIÊN

Như vậy thì lúc này vấn đề giải quyết cái hình Bát quái (Bát quái Hậu thiên Lạc Việt cộng với sựđổi vị trí hai quái Cấn và Chấn) đó là gì đây?

Posted Image

Hình 7: Bát quái Trung thiên

nguyenle gọi nó là Bát quái Trung thiên Đồ!

Căn cứ vào đâu lại gọi nó là Bát quái Trung thiên Đồ?

Có hai điểm để nguyenle gọi đó là Bát quái Trung thiên Đồ:

-Một là, trước đó, nguyenle có xem được một bài viết trên mạng. Bài viết này có ý tưởng nói đến 3 cái Bát quái đồ: Tiên thiên Bát quái, Trung thiên Bát quái và Hậu thiên Bát quái.

-Hai là, trước đó, nguyenle có nghiên cứu cuốn sách "Tích hợp đa văn hoá Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai" của Cố giáo sư Nguyễn Hoàng Phương. Trong đó có nói đến sự liên quan giữa Hậu thiên Bát quái, Lạc Thư và chu kỳ tuần hoàn của 12 đường Kinh.

Căn cứ vào hai điểm trên mà nguyenle gọi Bát quái (Bát quái Hậu thiên Lạc Việt cộng với sự đổi vị trí hai quái Cấn và Chấn) đó là Bát quái Trung thiên Đồ.

Trên đây, nguyenle đã nói về tiến trình các ý tưởng xác định lại Hành của các quái, và 3 hình Bát quái là : Tiên thiên Bát quái, Trung thiên Bát quái và Hậu thiên Bát quái.

VII-THÁI CỰC ĐỒ LẠP SẮC

Tiếp theo là ý tưởng Lạp sắc cho Thái cực đồ.

Các yếu tố Lý học sẵn có mà nguyenle áp dụng để Lạp sắc cho Thái cựcđồ là:

-Thái dương Hoả: biểu tượng là hai hào dương, (ứng với sắc đỏ...ban ngày, mùa hè, tạng tim, phủ tiểu tràng, vị đắng...).

-Thái âm Thuỷ: biểu tượng là hai hào âm, (ứng với sắc đen...ban đêm, mùa đông, tạng thận, phủ bàng quang, vị mặn...)

-Thiếu âm Kim: biểu tượng là hai hào-trên là hào dương, dưới là hào âm; (ứng với sắc trắng...buổi chiều, mùa thu, tạng phổi, phủ đại tràng, vị cay...)

-Thiếu dương Mộc: biểu tượng là hai hào-trên là hào âm, dưới là hào dương; (ứng với sắc xanh...buổi sáng, mùa xuân, tạng gan, phủ đởm(mật), vị chua...)

Đó là các yếu tố Lý học sẵn có trong sách, nguyenle biết và đem ra ứng dụng để Lạp sắc cho Thái cực.

Posted Image

Hình Thái cực Tiên thiên

Sau khi đó, nguyenle dựa vào Thái cực đồ Lạp sắc để tư duy tìm hiểu xem nó có khả năng tồn tại hay không và thấy có các điểm đặc biệt như sau:

-Một, cực dương đối lập với cực âm về sự sinh khắc. Tức là, Cực dương có tính tương khắc là Hoả khắc Kim. Cực âm có tính tương sinh là Thuỷ sinh Mộc. Cái sự đối lập này về bản chất giữa hai cực này nói lên một điều là quá trình sáng tạo (tương sinh) phải song song với quá trình huỷ diệt (tương khắc).

-Hai, giữa hai Cực âm và Cực dương của Thái cực có sự týõng tác cân bằng như sau:

Cực dương khắc Cực âm có Kim khăc Mộc.

Cực âm khắc Cực dương có Thuỷ khắc Hoả.

Cực dương sinh Cực âm có Kim sinh Thuỷ.

Cực âm sinh Cực dương có Mộc sinh Hoả.

Đến đây, phần Lạp sắc cho thái cực có một số căn cứ. Tuy nhiên, về sau nguyenle có sự thay đổi định nghĩa biểu tượng của tứ tượng do trong khi trùng quái mới thấy được sự cần phải thay đổi này. nguyenle sẽ nêu ra trong phần trùng hào thành quái.

VIII-TRÙNG QUÁI

Như nguyenle đã kể ở phần đầu, do cho người bạn mượn cuốn sách "Tìm về cội nguồn Kinh dịch". Đã lâu không xem lại. Nhưng nếu nguyenle không nhầm thì trong đó có nói đến cách trùng quái...nguyenle cũng đã đọc cuốn "Thời Hùng Vương và bí ẩn lục thập hoa giáp", mượn trong thư viện Hà Nội, nhưng đã lâu cũng không đọc lại.

Phần trùng quái này sẽ cũng có hai giai đoạn, và nội dung giữa hai giai đoạn cũng có một số yếu tố thay đổi. nguyenle sẽ trình bày sau đây.

A-Giai đoạn 1:

Căn cứ vào nguyên lý Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái. Theo đó, nguyenle nhớ thì mô hình trùng quái được minh hoạ như sau:

Posted Image

Hình 8: Trùng hào thành quái

Từ đây, nguyenle Lạp sắc cho các biểu tượng trên cở sở sau:

-Một là, về màu của nghi âm và nghi dương thì nguyenle Lạp cho nó màu vàng. Màu vàng này chủ yếu là để phần biệt với các màu của các Tượng khác, chứ nó không phải là tính chất của lưỡng nghi.

-Hai là, về màu của Tứ tượng thì nguyenle lấy y nguyên theo cái lý sẵn có trong các sách, tức là:

Thái dương: biểu tượng là hai hào dương, hành Hoả, sắcđỏ.

Thiếu dương: biểu tượng là hai hào (trên là hào âm, dưới là hào dương), hành Mộc, sắc xanh.

Thiếu âm: biểu tượng là hai hào (trên là hào dương, dưới là hào âm), hành Kim, sắc trắng.

Thái âm: biểu tượng là hai hào âm, hành Thuỷ, sắc đen.

-Ba là, về màu của Bát quái thì nguyenle căn cứ như sau:

Điểm thứ nhất là Bát quái chỉ thuộc bốn hành (Kim, Hoả, Thuỷ, Mộc), không có quái nào thuộc hành thổ. (nếu có quái nào có thể là hành Thổ thì có khả năng là hành Thổ có tính chất nào đó mà quái đó có thể tạm thờiđại diện cho Hành Thổ, cái này sẽ nguyenle sẽ nghiên cứu sau, trước mắt là chỉ có 4 hành).

Điểm thứ hai là quái thuộc tính là Hành nào thì sẽ có màu của Hành đó.

Căn cứ vào hai điểm trên, màu của Bát quái được xác định như sau:

Càn và Đoài: hành Kim, sắc trắng.

Ly và Chấn: hành Hoả, sắcđỏ.

Tốn và Khảm: hành Thuỷ, sắcđen.

Cấn và Khôn: hành Mộc, sắc xanh.

Căn cứ vào cách Lạp sắc cho các biểu tưởng nhưđã nói, thì cho ra một biểu đồi minh hoạ như sau:

Posted Image

Hình 9: minh hoạ cách trùng quái có mầu SAI BIỆT

B-Giai đoạn 2:

Nhìn vào hình minh hoạ này, nguyenle thấy màu sắc của Tứ tượng có vẻ là có vấn đề, ở chỗ là:

Theo định lý Tứ tượng sinh Bát quái thì Tượng(tứ tượng) nào sinh ra Quái của tượng(tứ tượng) ấy. Và, cần nhấn mạnh là Tượng (tứ tượng) thuộc hành nào thì sẽ sinh ra Quái (bát quái) thuộc hành đó. Mà đã cùng hành thì lẽ đưõng nhiên là phải cùng cả Sắc (màu).

Lấy Hành và Sắc của Bát quái làm chuẩn, nguyenle có được màu của Tứ tượng như sau:

Xin đừng giật mình nha, đoạn sau đây sẽ rất mâu thuẫn; và hãy bình tĩnh, nói xong nguyenle sẽ giải thích tiếp:

Thái dương Hoả: biểu tương là hai hào dương, sắc trắng, Hành kim.

Thiếu dương Mộc: biểu tượng là hai hào (trên là hào âm, dưới là hào dưong), sắc đỏ, Hành hoả.

Thiếu âm Kim: biểu tượng là hai hào (trên là hào dương, dưới là hào âm), sắc đen, Hành thuỷ.

Thái âm Thuỷ: biểu tượng là hai hào âm, sắc xanh, Hành mộc.

Sở dĩ có sự mâu thuẫn như vậy là do Lý thuyết cũ và Lý thuyết mới khác nhau vậy. nguyenle sẽ trình bày rõ hơn:

Lý thuyết cũ:

Thái dương Hoả: biểu tượng là hai hào dương.

Thiếu dương Mộc: biểu tượng là hai hào (trên là hào âm, dưới là hào dương).

Thiếu âm Kim: biểu dượng là hai hào (trên là hào dương, dưới là hào âm).

Thái âm Thuỷ: biểu tượng là hai hào âm.

Posted Image

Hình 10: Tứ tượng cũ

Lý thuyết mới-lấy hành của Hành và Sắc của Bát quái làm chuẩn, suy ra màu và sắc của Tứ tượng là:

-Biểu tượng hai hào dương: sắc trắng, Hành kim (ứng với cặp quái Càn và Đoài)

-Biểu tượng hai hào (trên là hào âm, dưới là hào dương: sắcđỏ, Hành hoả (ứng với cặp quái Ly và Chấn).

-Biểu tượng hai hào (trên là hào dương, dưới là hào âm): sắcđen, Hành thuỷ (ứng với cặp quái Tốn và Khảm).

-Biểu tượng hai hào âm: sắc xanh, Hành mộc (ứng với cặp quái Cấn và Khôn)

Như vậy, với ý tưởng lấy lý thuyết "Tứ tượng sinh Bát quái" làm cốt, từđó suy ra hành của Tứ tượng phải đồng nhất với hành của Bát quái và tất nhiên là Sắc của Tứ tượng phải đồng nhất với sắc của Bát quái. Và vấn đề là phải thay đổi cả tên gọi của Tứ tượng cho phù hợp. Do đo, có được hệ Tứ tượng như sau:

THÁI ÂM Mộc có biểu tượng là hai hào âm, sắc xanh.

THÁI DƯƠNG Kim có biểu tượng là hai hào dương, sắc trắng.

THIẾU ÂM Thuỷ có biểu tượng là hai hào: dưới là hào âm, trên là hào dương, sắc đen

THIẾU DƯƠNG Hoả có biểu tượng là hai hào: dưới là hào dương, trên là hào âm, sắc đỏ.

Posted Image

Hình 11: Tứ Tượng mới

Posted Image

Hình 12 Thái cực Tien thiên

Với hệ Tứ tượng này, nguyenle có sự giải thích về tên gọi như sau:

Thuỷ là giai đoạn đầu của Âm cực nên gọi là Thiếu âm Thuỷ.

Mộc là giai đoạn cuối của Âm cực nên gọi là Thái âm Mộc.

Thuỷ và Mộc đều thuộc âm tính!

Hoả là giai đoạn đầu của Dương cực nên gọi là Thiếu dương Hoả.

Kim là giai đoạn cuối của Dương cực nên gọi là Thái dương Kim.

Hoả và Kim đều thuộc dương tính!

Tại sao Thuỷ và Mộc thuộc âm tính?

Tại sao Hoả và Kim thuộc dương tính?

Tứ tượng là Thái dương, Thiếu dương, Thiếu âm, Thái âm.

nguyenle lấy lý thuyết "Lưỡng nghi sinh Tứ tượng" làm cốt, từ đó suy ra, tính âm dương của Tứ tượng và tính âm dương của Lưỡng nghi phải đồng nhất với nhau.

Tức là :

Nghi âm(cực âm) sinh ra Thiếu âm và Thái âm. Thiếu âm là giai đoạn đầu của Cực âm, Thái âm là giai đoạn cuối của Cực âm.

Nghi dương (cực dương) sinh ra Thiếu dương và Thái dương. Thiếu dương là giai đoạn đầu của Cực dương, Thái dương là giai đoạn cuối của Cực dương.

Thiếu âm là trong âm vẫn còn khí dương, theo Dịch lý dương tiêu âm trưởng nên thiếu âm phát triển thành Thái âm, khi thuần âm thì bắt đầu đi vào sự huỷ diệt vậy.

Thiếu dương là trong dương vẫn còn khí âm, theo Dịch lý âm tiêu dương trưởng nên Thiếu dương phát triển thành Thái dương, khi thuần dương thì bắt đầu đi vào sự huỷ diệt vậy.

Như vậy, chúng ta phải hiểu cái lý trong âm có dưong, trong dưong có âm là dành cho sự vật lúc ban đầu (còn non). Và nó sẽ phát triển theo nguyên lý âm tiêu dương trưởng, âm trưởng dương tiêu để rồi đi đến cái sự lớn mạnh là Thuần một tính là Thái âm hoặc Thái dương. Khi thuần thì nó lại biến dịch theo nguyên lý cực thịnh rồi suy để đi đến chỗ huỷ diệt...cực tĩnh lại sinh động...

Vậy thì Nghi âm (cực âm) của Thái cực (Tứ tượng ) có Thuỷ và Mộc, cực dương (Nghi dương) của Thái cực có Hoả và Kim. Thì lẽ đương nhiên, Thuỷ và Mộc là thuộc tính Âm, Hỏa và Kim là thuộc tính Dương.

Như vậy. qua hai giai đoạn trên, cho ra cách trùng quái với nội dụng sau cơ bản như sau:

Biểu tượng của Lưỡng nghi, biểu tượng của Tứ tượng, biểu tượng của Bát quái có một sự thống nhất căn bản. Điều này dựa trên định lý "một sinh hai" áp dụng trong quá trình Biến dịch từ Vô cực thành Bát quái: Thái cực sinh lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái.

Định lý "một sinh hai" áp dụng cho Thái cực sinh Lưỡng nghi:

Thái cực gồm hai cực, Dương cực và Âm cực.

Định lý "một sinh hai" áp dụng cho Lưỡng nghi sinh Tứ tượng:

Dương cực gồm có 2 thành phần là Hành Kim và Hành Hoả.

Âm cực gồm có 2 thành phần là Hành Thuỷ và Hành Mộc.

Định lý "một sinh hai" áp dụng cho Tứ tượng sinh Bát quái:

Hành Kim gồm có 2 thành phần là Kim dương và Kim âm.

Hành Hoả gồm có 2 thành phần là Hoả dương và Hoả âm.

Hành Thuỷ gồm có 2 thành phần là Thuỷ dương và Thuỷ âm.

Hành Mộc gồm có 2 thành phần là Mộc dương và Mộc âm.

Như vậy, do Tứ tượng sinh Bát quái thì hành của Bát quái phải đồng nhất với hành của Tứ tượng. Do Lưỡng nghi sinh Tứ tượng thì tính Âm Dương của Tứ tượng phải đồng nhất với tính Âm Dương của Lưỡng nghi. Đây là một lẽ đương nhiên của Dịch.

Dựa trên định lý "một sinh hai" trong quá trình Biến dịch mà tìm về cách trùng quái và tính chất Hành của mỗi quái là một điều rất căn bản.

Posted Image

Hình minh hoạ cách trùng quái

(22-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tiểu đề Họ Nội Họ Ngoại

Trích trong cuốn "Tích hợp đa văn hoá đông tây cho một chiến lược giáo dục tương lai"/trang 365/cuốn này hình như là in đợt đầu, bởi nguyenle thấy không có phần nội dung của phong thuỷ/xuất bản ngày 12/10/1994/ nộp lưu chiểu tháng 7/2005:

"Trong kinh dịch, có sự phân loại nam, nữ như sau:

Họ ngoại:

Tốn: thiếu nữ, Ly: trung nữ, Đoài: trưởng nữ.

Họ nội:

Cấn: thiếu nam, Khảm : trung nam, Chấn: trưởng nam.

Ta thêm vào sự phân loại trên:

Kiền xem là Cha (Cha Trời),(chủ họ Nội)

Khôn xem là Mẹ (Mẹ Đất),(chủ họ Ngoại)

Như thế có hai tập con Nội, Ngoại (sẽ được gặp trong học thuyết Thái Ất và trong Kinh Dịch)..."

Posted Image

Hình minh hoạ họ Nội-Ngoại theo sách

Kính thưa các Hành giả quan tâm!

Điều quan trọng ở đây là hiểu như thế nào về hai họ này!

Nếu nói rằng một gia đình cứ phải có đầy đủ tám người thì đó thật là phi lý.

Hoặc hiểu theo một cách khác là một gia đình cứ phải có đủ ngần đó thành phần trai và gái thì mới luôn luôn sung túc thì là một điều rất khó phổ biến. Nếu đây là một quy luật tất yếu để một gia đình luôn luôn có được vị trí vững mạnh thì dân số sẽ tăng vùn vụt.

Và có thể còn nhiều cách quan niệm về hai họ .

Nhưng nguyenle thì cũng có ý kiến riêng về nội dung định nghĩa hai họ như sau:

Khi có yếu tố thời gian thì trên thực tế, đời người có thể chia ra 4 giai đoạn phát triển. 4 giai đoạn của nữ giới và 4 giai đoạn của nam giới, gộp lại thành hai Họ.

4 giai đoạn phát triển của nam giới gọi là Họ nội, thứ tự là: Thiếu nam, Trung nam, Trưởng nam, Cha (chủ họ Nội).

4 giai đoạn phát triển của nữ giới gọi là Họ ngoại, thứ tự là: Thiếu nữ, Trung nữ, Trưởng nữ, Mẹ (chủ họ Ngoại).

Hai giai đoạn đầu của Họ nội gọi là Thiếu dương, hai giai đoạn sau của Họ nội gọi Thái dương.

Hai giai đoạn đầu của Họ ngoại gọi là Thiếu âm, hai giai đoạn sau của Họ ngoại gọi là Thái âm.

Kinh thưa các Hành giả, học giả quan tâm!

Với định nghĩa Họ nội và Họ ngoại như trên thì có thể xác định Họ nội và Họ ngoại ứng với Bát quái như sau:

Thứ nhất là xét về Họ nội:

Hai giai đoạn đầu của Họ nội gọi là Thiếu dương thì ứng với Thiếu dương Hoả trong Tứ Tượng. Thiếu dương Hoả chồng thêm hào âm thì thành Quái chấn, Thiếu dương Hoả chồng thêm hào dương thì thành Quái ly. Do vậy Quái chấn và Quái ly ứng với hai giai đoạn đầu của Họ nội.

Hai giai đoạn sau của Họ nội gọi là Thái dương thì ứng với Thái dương Kim trong Tứ Tượng. Thái dương Kim chồng thêm hào âm thì thành Quái đoài, Thái dương Kim chồng thêm hào dương thì thành Quái càn. Do vậy, Quái đoài và Quái càn ứng với hai giai đoạn sau của Họ nội.

Sự phát triển của Họ nội theo qui tắc âm tiêu dương trưởng. Tức là Thiếu dương (trong dương có âm) phát triển thành Thái dương (thuần một tính là dương). Như vậy để đánh giá vị trí lớn nhỏ của các quái thuộc Họ nội thì căn cứ vào độ chênh lệch về số hào âm giữa hai quái:

Quái chấn và Quái ly ứng với hai giai đoạn đầu của Họ nội. Quái chấn có hai hào âm (hào thượng và hào trung), Quái ly có một hào âm (hào trung). Vậy thì Quái chấn là tượng của Thiếu nam, Quái ly là tượng của Trung nam trong Họ nội.

Quái đoài và Quái càn ứng với hai giai đoạn cuối của Họ nội. Quái đoài có một hào âm (hào thượng), Quái càn không có hào âm (thuần dương). Vậy thì Quái đoài là tượng của Trưởng nam, Quái càn là tượng của Chủ họ nội (Cha).

Như vậy, tượng của Họ nội trong Bát quái là 4 quái:

Quái càn: Cha (chủ họ Nội)

Quái đoài: Trưởng nam.

Quái ly: Trung nam.

Quái chấn: Thiếu nam.

Posted Image

Hình minh hoạ Tứ tượng (mới)

Posted Image

Hình minh hoạ Họ nội, Họ ngoại (mới)

Tiếp đến là Họ ngoại.

Hai giai đoạn đầu của Họ ngoại gọi là Thiếu âm thì ứng với Thiếu âm Thuỷ trong Tứ Tượng. Thiếu âm Thuỷ chồng thêm hào dương thì thành Quái tốn, Thiếu âm Thuỷ chồng thêm hào âm thì thành Quái khảm. Do vậy Quái tốn và Quái khảm ứng với hai giai đoạn đầu của Họ ngoại.

Hai giai đoạn sau của Họ ngoại gọi là Thái âm thì ứng với Thái âm Môc trong Tứ Tượng. Thái âm Mộc chồng thêm hào dương thì thành Quái cấn, Thái âm Mộc chồng thêm hào âm thì thành Quái khôn. Do vậy, Quái cấn và Quái khôn ứng với hai giai đoạn sau của Họ ngoại.

Sự phát triển của Họ ngoại theo qui tắc dương tiêu âm trưởng. Tức là Thiếu âm (trong âm có dương ) phát triển thành Thái âm (thuần một tính là âm). Như vậy để đánh giá vị trí lớn nhỏ của các quái thuộc Họ ngoại thì căn cứ vào độ chênh lệch về số hào dương giữa hai quái:

Quái tốn và Quái khảm ứng với hai giai đoạn đầu của Họ ngoại. Quái tốn có hai hào dương (hào thượng và hào trung), Quái khảm có một hào dương (hào trung). Vậy thì Quái tốn là tượng của Thiếu nữ, Quái khảm là tượng của Trung nữ trong Họ ngoại.

Quái cấn và Quái khôn ứng với hai giai đoạn cuối của Họ ngoại. Quái cấn có một hào dương (hào thượng), Quái khôn không có hào dương (thuần âm). Vậy thì Quái cấn là tượng của Trưởng nữ, Quái khôn là tượng của Chủ họ ngoại (Mẹ).

Như vậy, tượng của Họ ngoại trong Bát quái là 4 quái:

Quái khôn: Mẹ (chủ họ Ngoại)

Quái cấn: Trưởng nữ.

Quái khảm: Trung nữ.

Quái tốn: Thiếu nữ.

Trên đây là định nghĩa mới và phần tích của nguyenle về Họ nội và Họ ngoại, mong các Hành giả và các Học giả tham gia thảo luận.

Posted Image

Hình Sự phân phối họ Nội-Ngoại trong Bát quái Tiên thiên

Posted Image

Hình Sự phân phối họ Nội-Ngoại trong Bát quái Hậu thiên

Posted Image

Hình Sự phân phối họ Nội-Ngoại trong Bát quái Trung thiên

(25-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thông báo: tiếp theo topic này là phần nghiên cứu tìm cách trùng 64 quẻ Hậu thiên. Vậy nguyenle xin kính báo trước để các Hành giả và Học giả quan tâm theo dõi:

Đại cương 64 quẻ Hậu thiên:

1-dựa trên qui tắc nhỏ lẻ của Hệ 64 quẻ Hậu thiên Văn Vương.

2-dựa trên Bát quái nạp Lạc thư theo nguyên tắc ngũ hành tương ứng.

3-Tổng hợp 1 và hai để cho ra một Hệ 64 quẻ Hậu thiên có cách Trùng theo qui luật.

Xin thông báo, trong một hai ngày tới (30/09 hoặc 01/10) nguyenle sẽ đăng bài viết tiếp trong topic này. Mong được sự chú ý và góp ý của các chuyên gia.

(29-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chu Dịch Thượng Kinh

nguyenle Kính thưa các Bậc học giả, sau đây là bản CHU DỊCH THƯỢNG KINH mà nguyenle nghiên cứu. Mong các quí Học giả xem, nhận xét và góp ý kiến.

Đây mới là bản Chu Dịch Thượng Kinh, bản Chu Dịch Hạ Kinh nguyenle sẽ post lên tiếp sau.

Các yếu tố nguyenle dựa vào để tạo lại bản Chu Dich Thượng Kinh gồm các yếu tố sau:

1-Căn cứ vào Hành của Bát quái như đã nói trong các phần trước.

2-Nạp Bát quái vào Lạc Thư theo qui luật ngũ hành tương ứng để cho ra Hình Hậu Thiên Bát Quái.

3-Căn cứ vào 64 quẻ Hậu thiên Văn Vương:

-64 QUẺ gồm 2 phần: Thượng Kinh và Hạ Kinh.

-Nguyên lý phản phục và tính đối xứng cục bộ của Hệ Văn Vương.

Đó là đại cương mà nguyenle lấy làm cơ sở để nghiên cứu.

Sau đầy là hình minh hoạ cách Trùng quẻ phần Chu Dịch Thượng Kinh:

Posted Image

Kính mong các Bậc thiện tri thức nhận định và góp ý. nguyenle xin tiếp thu!

(30-09-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Qui luật sắp 64 trùng quái thuộc bát quái Tiên Thiên thì dễ rồi. Nhưng qui luật sắp 64 quẻ Hậu Thiên thuộc về chu ký vận động của vũ trụ liên quan đến Địa Cầu. Không biết được bản chất của qui luật này không thể chứng minh được. Trường hợp Nguyenle chứng minh được, chú thành thật chúc mừng. Còn nếu thấy có gì không ổn thì đừng cố gắng dễ bị mất ổn định tâm lý. Trong Nguyên Lý học thuật cổ Đông phương, còn nhiều cái khác để chứng minh.

Chú thành thật trình bày ý tưởng vì quí tinh thần khám phá của Nguyenle.

Chúc vạn sự an lành.

Thiên Sứ

Nói rõ hơn là sự tương tác của vũ trụ lên địa cầu có tính quy luật, nhưng là sự tương tác mang tính tổng hợp rất phức tạp. Tri thức của cả một nền văn minh phát triển trong lịch sử cả chục ngàn năm mới tổng hợp được. Để chứng minh tính quy luật của 64 quẻ Hậu Thiên - dù chỉ cần ở tính hợp lý - cũng cần phải có kiến thức rất tổng hợp về các phương pháp ứng dụng trong học thuật cổ Đông phương.

Nhưng đấy là chú chỉ suy ngẫm có tính lý thuyết. Biết đâu, chân lý đơn giản hơn nhiều. Nó cũng giống như việc chú đổi chỗ Tốn Khôn và hiểu chỉnh lại toàn bộ các vấn đề liên quan vậy. Bởi vì suy cho cùng, chúng ta chỉ phục hồi chứ không phải là phát minh.

Chúc Nguyenle thành công. Tuy nhiên cũng cần nhớ lời dặn của chú.

Thiên Sứ

Qui luật sắp 64 trùng quái thuộc bát quái Tiên Thiên thì dễ rồi. Nhưng qui luật sắp 64 quẻ Hậu Thiên thuộc về chu ký vận động của vũ trụ liên quan đến Địa Cầu. Không biết được bản chất của qui luật này không thể chứng minh được. Trường hợp Nguyenle chứng minh được, chú thành thật chúc mừng. Còn nếu thấy có gì không ổn thì đừng cố gắng dễ bị mất ổn định tâm lý. Trong Nguyên Lý học thuật cổ Đông phương, còn nhiều cái khác để chứng minh.

Chú thành thật trình bày ý tưởng vì quí tinh thần khám phá của Nguyenle.

Chúc vạn sự an lành.

Thiên Sứ

Chú Thiên Sứ kính mến, vì cháu cũng hơi vội để đưa nội lên topic nhưng cũng vì thấy phần hình ảnh minh hoạ cũng hoàn thiện xong nên cháu nghĩ là đưa phần đại cương lên trước và sẽ diễn giải sau.

Những ý kiến của chú cũng mở ra cho cháu một số cách nghiên cứu để xem phần 64 quẻ Hậu thiên này có giá trị hay không. Về mặt ổn định tâm lý thì cháu thấy đến được 64 quẻ này cũng tạm tạm.

Còn nói riêng về cách trùng quái thành quẻ của Hệ 64 quẻ hậu thiên thì cháu có thể nói ngắn gọn trước thế này ạ:

-Hình Lạc thư Lạp sắc theo độ số hay Bát quái Hậu Thiên Lạp sắc có qui được về dạng Thái cực, nhưng là chiều tương khắc.

-Theo nguyên lý 1 sinh 2, Thái cực Hậu thiên cũng có 2 cực.

-Mỗi cực của Thái cực lại chia ra hai phần (thượng kinh gồm Thái dương Kim và Thái âm Mộc-ứng với "Thái ất", hạ kinh gồm Thiếu âm Thuỷ và Thiếu âm Hoả ứng với "Độn giáp")

-Mỗi cực sau khi chia ra hai phần như vậy thì có được 8 thành phần con. Mỗi Tám thành phần này lại hấp thụ khí âm dương của Thái cực và đó là cách trùng quẻ mà cháu thấy trước mắt.

-Mỗi quái (của nhóm 8 thanh phần con) nhân đôi và kết hợp với một cặp quái đối xứng trong Hậu thiên để cho ra 1 cặp QUẺ (có nguyên lý phản phục và tính đối xứng cục bộ)

Nếu trường hợp cách trùng quẻ Hậu thiên có giá trị thì rất có thể cách trùng quẻ Tiên thiên cũng phải có thêm qui luật như trên (cái này thì cháu mới nghĩ tới)

Cháu cảm ơn chú Thiên Sứ !

(01-10-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chu Dịch Hạ Kinh

Kính thưa các bậc Thiện tri thức, trước nguyenle đã post bản Chu Dịch Thượng Kinh ở hình thức đại cương. Phần sau đây là nội dung tiếp theo, Chu Dịch Hạ Kinh.

Posted Image

Khi số hoá theo tính chất ngũ hành, nguyenle thấy bản 64 Hậu thiên Văn Vương (theo sách) có một tính đối xứng không chỉ cục bộ trong từng cặp quẻ mà nó còn manh nha một tính đối xứng bao quát, đó là sự đối xứng giữa Thượng Kinh và Hạ Kinh. Thứ hai là, Thượng Kinh có liên quan đến quái Càn ở vị trí ban đầu, còn Hạ Kinh có liên quan đến quái Khảm ở vị trí ban đầu.

Thì ở đây, hai bản Thượng Kinh và Hạ Kinh nguyenle cũng có sự tương đồng như vậy.

nguyenle có quyển BÁT TỰ HÀ LẠC-BÙI BIÊN HOÀ. Đúng cái phần nội dung nói về quẻ thứ 27 thì lại là 2 trang trắng tinh, không có một chữ nào. Mà đúng quẻ 27 đó lại là quẻ cuối trong bản Hạ Kinh ở trên. Vậy, Thiện tri thức nào có biết nội dung của quẻ thứ 27 thì giúp nguyenle đưa lên để tham khảo. Xin cảm ơn.

(01-10-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chịu chết. Từ đầu chí đuôi tôi không hiểu gì cả. Cứ như người mù. Còn các hình vẽ thì không hiểu bạn dùng website nào để upload mà không thể download được. Nói chung là tôi không thấy một hình nào cả.

Nếu được xin bạn gởi cho tôi xem thử theo tuvilyso@mail.ru.

KLA

Cũng cần hỏi anh TS là tại sao anh nghĩ là Chu Dịch đúng? Nếu anh bảo đổi Tốn Khôn của anh cho ra Bát quái đúng nhất thì tại sao Bảng Chu Dịch đi từ Hậu Thiên Văn Vương là đúng?

Tôi không hiểu logic suy luận của anh lắm.

Vâng, mọi chuyện rất đơn giản. Vô cùng đơn giản. Bởi vì Chu Dịch đã được thiết lập một cách sai lầm. Tuy nhiên, một số kiến thức của cách thiết lập lại đúng. Hai điều này cần phải phân biệt rạch ròi.

KLA

Chịu chết. Từ đầu chí đuôi tôi không hiểu gì cả. Cứ như người mù. Còn các hình vẽ thì không hiểu bạn dùng website nào để upload mà không thể download được. Nói chung là tôi không thấy một hình nào cả.

Nếu được xin bạn gởi cho tôi xem thử theo tuvilyso@mail.ru.

KLA

Chú Khonglaai kính mến!

Nội dung trong topic này là như thế này, thưa chú:

1.Bài đầu tiên là cháu đưa ra một hệ "Đại cương Vô cực Bát quái".

2.Sau một vài bài đối thoại thì có một vài nội dung thay đổi như sau:

a. Trong phần đại cương, cháu có ý tưởng chứng minh ngũ hành và bát quái là một. Nhưng sau đó gác lại ý tưởng này.

b. Sau khi đưa ra hệ đại cương, thì cháu tiếp tục nghiên cứu và thấy cần phải chỉnh sửa định nghĩa Tứ tượng (màu sắc và biểu tượng của tứ tượng)

3.Trong bài viết của cháu có nhiều chỗ khác với các định nghĩa nội dung trong các sách đang được bày bán. Nhưng trong khi viết theo cảm hứng nên cháu không nêu ra tất cả những điểm khác đó, chỉ khi nào cần thì cháu mới so sánh sự thay đỗi giữa lý cũ và luận mới ra làm sao.

4.Sau này soạn lại thì cháu sẽ so sánh cụ thể và nêu ra rõ ràng hơn

5.Những yếu tố cơ bản mà cháu đã định nghĩa mới là:

a. Thái cực: Thái cực gồm lưỡng nghi và tứ tượng!

b. Biểu tượng của tứ tượng:

-Thái dương Kim: hai hào dương. Sắc trắng!

-Thái âm Mộc: hai hào âm. Sắc xanh!

-Thiếu dương Hoả: hai hào (dưới hào dương, trên hào âm). Sắc đỏ!

-Thiếu âm Thuỷ: hai hào (dưới là hài âm, trên là hào dương). Sắc đen!

-Hoả và Kim thuộc dương, Thuỷ và Mộc thuộc âm!

c.Bát quái:

-Thái dương Kim, chồng thêm hào dương thành quái Càn (hành kim, ứng với số 9 của Hà Lạc)

-Thái dương Kim, chồng thêm hào âm thành quái Đoài (hành kim, ứng với số 4 của Hà Lạc).

-Càn và Đoài thuộc hành Kim!

-Thiếu dương Hoả, chồng thêm hào dương thành quái Ly (hành hoả, ứng với số 7 của Hà Lạc ).

-Thiếu dương Hoả, chông thên hào âm thành quái Chấn (hành hoả, ứng với số 2 của Hà Lạc).

-Ly và Chấn thuộc hành Hoả!

-Thiếu âm Thuỷ, chồng thêm hào dương thành quái Tốn (hành thuỷ, ứng với số 6 của Hà Lạc).

-Thiếu âm Thuỷ, chồng thêm hào âm thành quái Khảm (hành thuỷ, ứng với số 1 của Hà Lạc).

-Khảm và Tốn thuộc hành Thuỷ!

-Thái âm Mộc, chồng thêm hào dương thành quái Cấn (hành mộc, ứng với số 8 của Hà Lạc).

-Thái âm Mộc, chồng thêm hào âm thành quái Khôn (hành mộc, ứng với số 3 của Hà Lạc).

Khôn và Cấn thuộc hành Mộc!

d. Nạp quái:

-Bát quái lạp vào Hà Đồ theo tính chất ngũ hành tương ứng thì cho ra hình Tiên thiên Bát quái (mới).

-Bát quái lạp vào Lạc Thư theo tính chất ngũ hành tương ứng thì cho ra hình Hậu thiên Bát quái (mới).

6. Hệ 64 quẻ:

- Hệ 64 quẻ Tiên thiên thì cháu chưa nghiên cứu!

- Hệ 64 quẻ Hậu thiên thì cháu đã nghiên cứu và tích hợp một số qui luật trong hệ 64 quẻ Văn Vương (theo sách).Dựa vào đó cháu tìm lại bảng 64 quẻ Hậu thiên mới, có qui luật (lấy Bát quái HẬU THIÊN MỚI làm cơ sở)

7. Nói tóm lại, chỗ nào cháu cũng sửa đổi so với các sách, nhưng dựa trên các qui luật còn sót lại trong các sách đó.

Kính thưa chú Khonglaai!

(01-10-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

64 quẻ hệ Văn Vương-số hoá theo hệ thập phân Hà Lạc

Kính thưa các Thiện tri thức!

Dưới đây là 64 quẻ hệ Văn Vương được thay bằng số.

nguyenle đưa lên để cùng khám phá một số qui luật trùng quái cho hệ Văn Vương này.

Posted Image

Có Thiện tri thức nào thấy điểm đặc biệt khi nhìn vào bảng số không ạ? Hi hi!

Kính thưa các Thiện tri thức!

Sau đây là nguyenle chia nhóm 64 cặp số:

Posted Image

Posted Image

Thiện tri thức nào thấy có điểm gì đặc biệt trong các nhóm này không ạ?

(02-10-2007)

Kính thưa các Thiện tri thức!

Sau đây là nguyenle chia nhóm 64 cặp số:

Posted Image

Nhìn vào hình trên, có thể thấy rằng:

-Nhóm thứ nhất là các quẻ ứng với các số lẻ, nhưng vẫn được xếp canh nhau theo dạng "âm dương thay phiên nhau trong quá trình tương giao, chẳng hạn Thịnh cực thì tất Suy, vật cùng tắc biến, mà Biến là Phản Phục". Nhưng có lẽ đó chỉ là một dạng khéo dùng quy tắc chung sẵn có để cố tình sửa đổi mà thôi!

Căn cứ vào Bát quái đồ Hậu Thiên Mới thì có thể giả thuyết rằng, biểu tượng của qui luật phản phục(các cặp quái) thực chất là 'một phần tử (quái) trong mỗi cực, hấp thụ khí âm và khí dương (các cặp quái có vị trí đối xứng tâm) của Thái cực Hậu thiên. Khí đó quá trình diễn ra là, Phần tử(quái) đó sẽ phân thành hai (một sinh hai), một kết hợp với khí dương của Thái cực, một kết hợp với khí âm của Thái cực...'.

Như vậy, thì có thể nhận xét rằng, các cặp quái của nhóm một chỉ thể hiện được một điều là tính một sinh hai của một phần tử (quái). Nhưng lại sai ở chỗ, hai phần tử cùng nhân đôi lại kết hợp với nhau.

Còn nhìn vào nhóm thứ hai, đó là các cặp quái Thuần. Các cặp quái này đi đôi với nhau như vậy cũng rất giống dạng 'qui luật Phản biến'. Nhưng cũng chẳng phải vậy, bởi vì nhận xét ký thì thấy là nó không có dạng Một sinh Hai đông thời để hấp thụ khí âm dương của Thái cực.

Xét đến nhóm thứ ba, mỗi phần tử trong nhóm đều là hai số chẵn, hai phần đi chung liên kề nhau thành một cặp. Nội quái của phần tử này đối xứng tâm với Ngoại quái của phần tử kia, đó là hai khí của Thái cực. Nhưng trong một cặp đó, lại là thuần khí Thái cực, không có sự nhân đôi của một phần tử kết hợp với khí âm dương của Thái cực.

Như vậy, nhóm 1,2 và 3 có thể đặt ra một vấn đề là:

Đây là những quái đặc biệt mà có thể dùng để làm sai lệch bảng 64 quẻ Hậu thiên.

Còn tiếp!

Kính thưa các Thiện tri thức!

Posted Image

Nhóm thứ tư này thì có một dạng chung, về mặt số lượng thì nó chiếm 50% của 64 quái.

Các điểm đặc biệt trong nhóm thứ 4 này là:

-Các cặp quái có chung một qui luật nhất định.

-Trong mỗi cặp quái thì có hai điểm đặc biệt đông thời:

-Nội quái của quẻ này giống với Ngoại quái của quẻ kia!

-Ngoại quái của quẻ này và Nội quái của quẻ kia chính là một cặp đối xứng tâm trong Bát quái đồ Hậu Thiên Mới.

+Hai điểm này phải chăng là luật phản phục và tuần hoàn của Dịch!?

-Mỗi cặp quái lại có một cặp quái khác có dạng đối xứng với nó. Điều này đặt ra một vấn đề là có khả năng: cặp quái này ở Thượng kinh thì cặp quái kia ở Hạ kinh.

Tóm lại, nhóm thứ 4 là có triển vọng khai thác các qui luật trùng quẻ Hậu thiên. Và, các nhóm khác phải tuân thủ qui luật của nhóm thứ 4!

Còn tiếp!

(03-10-2007)

Kính thưa các Thiên tri thức.

Công việc tiếp theo là:

-Lấy nhóm 4, giả thuyết là có các qui luật đúng.

-Thay đổi các nhóm 1,2 và 3 về dạng nhóm thứ 4.

-Sơ đồ trùng quẻ cục bộ của một cặp quái là như thế nào?

-Các điểm khởi đầu cho Thượng kinh và Hạ kinh ?

(04-10-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cũng cần hỏi anh TS là tại sao anh nghĩ là Chu Dịch đúng? Nếu anh bảo đổi Tốn Khôn của anh cho ra Bát quái đúng nhất thì tại sao Bảng Chu Dịch đi từ Hậu Thiên Văn Vương là đúng?

Tôi không hiểu logic suy luận của anh lắm.

Vâng, mọi chuyện rất đơn giản. Vô cùng đơn giản. Bởi vì Chu Dịch đã được thiết lập một cách sai lầm. Tuy nhiên, một số kiến thức của cách thiết lập lại đúng. Hai điều này cần phải phân biệt rạch ròi.

KLA

Anh xem lại xem cụ thể tôi viết như thế nào. Hình như tôi chưa bao giờ khẳng định có tính tổng hợp là "Chu Dịch đúng" cả. Tôi cũng chưa bao giờ nói bảng 64 quẻ Hậu Thiên là đúng cả.

Nhưng tôi xác định tính qui luật cục bộ là hai quẻ liền nhau có tính đối xứng tạo thành 32 cặp đối xứng thôi. Còn bản thân cách sắp xếp 32 cặp quẻ đó có đúng hay không thì tôi chưa hề có ý kiến gì. Nhưng chính tính qui luật cục bộ này phủ nhận cách bố cục của Hậu Thiên Văn Vương. Hay nói cách khác: Hậu Thiên Văn Vương không phải là nguyên lý và là tiền đề cho hệ thống 64 quẻ Hậu Thiên.

Bởi vậy, tôi chỉ nói chung chung là hệ thống 64 quẻ Hậu Thiên phản ánh qui luật vũ trụ tương tác với Địa Cầu.

Tuy nhiên, tôi giả thiết rằng: Hệ thống 64 quẻ Hậu Thiên đúng thì nó không hẳn là hệ quả tất yếu của Hậu Thiên Văn Vương, khi người ta chưa hiểu qui luật của một thực tại nào làm nên hệ thống 64 quẻ đó.

Còn lâu nền khoa học hiện đại này mới biết được bí ẩn của nó.

Thiên Sứ

Posted Image

Bé LinhNhi xí xọn

Quan trọng, chủ nhân của Hậu Thiên Bát Quái Lạc Việt là anh Thiên Sứ có đồng ý với kiến giải này của bạn Linh Nhi không?

KLA

Hoàn toàn không. Khái niệm Thái Âm, Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương được dùng trong một trường hợp khác, chứ không trong trường hợp này.

Xin xem cuốn "Hoàng Đế nội kinh tố vấn", có thể xuất bản sẽ lý giải rõ khái niệm này.

Trong vòng tròn Âm Dương và Thái Cực Lạc Việt (Trên bức tranh dân gian Việt "Đàn Lợn) không thể hiện hai cái chấm mà sách Hán gọi là Thiếu Dương với Thiếu Âm.

Còn khái niệm Vô cực xuất hiện vào đời Tống do Chu Hy khởi xướng chỉ là một cách hiểu phi lý nhất để giải thích sử khởi nguyên vũ trụ từ khái niệm Thái Cực.

Sự khởi nguyên vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành - "Thái Cực sinh lưỡng nghi", tôi đã trình bày trong cuốn "Định mệnh có thật hay không?" và trong bài giảng "Luận tuổi Lạc Việt". Không tự cho là đúng, nhưng có thể tham khảo.

Thiên Sứ

(04-10-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa các Thiên tri thức.

-Lấy nhóm 4, giả thuyết là có các qui luật đúng:

Posted Image

-Thay đổi các nhóm 1,2 và 3 về dạng nhóm thứ 4 như hình minh họa sau:

NHÓM 1,2 VÀ 3 NGUYÊN GỐC:

Posted Image

NHÓM 1, 2 VÀ 3 THAY ĐỔI THEO DẠNG NHÓM 4:

Posted Image

Kính thưa các Thiên tri thức.

Công việc tiếp theo là:

-Sơ đồ trùng quẻ cục bộ của một cặp quái là như thế nào?

-Các điểm khởi đầu cho Thượng kinh và Hạ kinh ?

(04-10-2007)

Kính thưa các Thiên tri thức.

-Lấy nhóm 4, giả thuyết là có các qui luật đúng:

Posted Image

-Thay đổi các nhóm 1,2 và 3 về dạng nhóm thứ 4 như hình minh họa sau:

NHÓM 1, 2 VÀ 3 THAY ĐỔI THEO DẠNG NHÓM 4:

Posted Image

Kính thưa các Thiên tri thức.

Đến đây, dựa vào 2 bảng trên thì có thể khẳng định như sau:

-Vị trí các phần tử(quẻ=2quái) trong một cặp (2 phần tử) chưa phải là đã cố định.

Vì sao?

Vì, xét về khía cạnh khí âm và khí dương (nội quái của quẻ này và ngoại quái của quẻ kia đối xứng với nhau trong Hậu Thiên Mới) trong một cặp; tổng thể toàn bộ 32 cặp thì có

-8 cặp số lẻ.

-24 cặp số chẵn.

-Vị trí mỗi quái cũng như mối cặp quái chỉ có thể được xác định chính xác trong qui luật trùng quái chung.

-Dựa vào 2 bảng trên, chỉ có thể định hướng cho hệ 64 quẻ là:

-Thượng kinh và hạ kinh phải có sự đối xứng với nhau theo một tính chất nào đó.

-Nói riêng các cặp quái cũng phải có tính đối xứng như 2 bảng trên.

Do đó, công việc tiếp theo là tìm ra :

-Sơ đồ trùng quẻ cục bộ của một cặp quái là như thế nào?

-Các điểm khởi đầu cho Thượng kinh và Hạ kinh ?

(04-10-2007)

Một chút suy ngẫm-đối thoại

Kính thưa các Thiện tri thức.

Chu Dịch Thượng Kinh và Chu Dịch Hạ Kinh. Tại sao nguyenle lại lấy tên cũ đặt cho cái bản mới?

nguyenle không biết trả lời thế nào cho câu hỏi này, bởi một lẽ là nghiên cứu cái gì thì lấy tên của cái đó. Nhưng cũng có ý kiến của Thiện tri thức, là tại sao không đặt tên khác đi ? Vậy, nguyenle xin đặt lại tên là:

Chu Dịch Thượng Kinh do nguyenle nghiên cứu có tên là :

Hậu Thiên Thượng Kinh.

Chu Dịch Hạ Kinh do nguyenle nghiên cứu có tên là :

Hậu Thiên Hạ Kinh.

-Các Thiện tri thức có thể góp ý cho nguyenle trong vấn đề này, nguyenle xin được tiếp thu!

=============

Tiếp theo là:

nguyenle rất kém về cách phát âm hai các từ có các chữ L và N, cho nên trong từ nạp sắc đã hay dùng có lỗi là : lúc thì viết là Lạp sắc, lúc thì viết là Nạp sắc. Vậy cũng mong được Thiện tri thức và các bạn nhận định hộ chút xíu để nguyenle sử dụng cho chính xác, nguyenle xin cảm niệm.

=============

Có ý kiến của Thiện tri thức góp ý là :

Không nạp sắc cho các quái trong Hệ 64 quẻ Hậu thiên, để tính hết các cách sắp xếp 64 quái. Sau đó mới chứng minh cách của nguyenle là có cơ sở, rồi sau đó muốn nạp sắc thì nạp!

Thật ra thì nguyenle xem và thấy ý kiến trên như thế này:

1. Không nạp sắc cho hệ 64 quẻ, tạm thời thôi, thế cũng được. Nhưng không nạp sắc thì cũng rất là rối cho nguyenle, vì sao? Vì hầu hết các kiến thức lý luận của nguyenle là nó phát triển theo những định nghĩa thứ tự, nạp sắc hay số là nhứng yếu tố quan trong để xét đến tính logic. Tóm lại là, tạm thời không nạp sắc thì cũng được, bởi đây cũng là ý tưởng mở rộng cục bộ và ý tưởng thì đã thể hiện được rồi.

2. Tính hết các cách sắp xếp 64 quẻ Hậu thiện, cũng là một công việc mở rộng. Nhưng cái này mà là ý tưởng chủ đạo thì nó sẽ làm cho bộ não của nguyenle không còn dành để phóng khoáng cảm hứng có gì đó mang tính đại cương tự nhiên. Nhưng sau khi ý tưởng chủ đạo đã có thì tính đến tất cảc các sách sắp xếp 64 quẻ Hậu Thiên cũng nhẹ nhàng hơn.

3. Vấn đề tính đến các cách sắp xếp thì nguyenle cũng tự đặt ra, nhưng phải tìm được một vài yếu tố có sẵn làm cơ sở để xác định cách sắp sếp. Chứ nếu không có điểm từa thì rất thiếu khoa học. Tuy nhiên, về các cách sắp xếp thì nguyenle cũng sẽ có và sẽ trình bày.

nguyenle cảm niêm Thiện tri thức đã có ý kiến.

(04-10-2007)

Bảng trùng quẻ cục bộ

Kính thưa các thiện tri thức!

Sau đây là sơ đồ trùng quẻ cục bộ, tức là cách trùng quẻ 64 quẻ hậu thiên theo qui luật phản phục thì phải có dạng như sau:

Posted Image

(05-10-2007)

Quái ban đầu của Thượng Kinh và Hạ Kinh

Kính thưa các học giả.

Học thuyết Thái Ất là một học thuyết Dự báo môi trường cộng đồng theo quy luật.

Học thuyết Độn Giáp là một học thuyết Dự báo chung về môi trường cho cá nhân.

Và, các mối quan hệ giữa hệ 64 quẻ Văn Vương với học thuyết Độn Giáp và Thái Ất là:

HỆ 64 QUẺ VĂN VƯƠNG CHIA RA PHẦN THƯỢNG VÀ PHẦN HẠ

PHẦN THƯỢNG <=>MÔI TRƯỜNG CHUNG CHO CỘNG ĐỒNG: THÁI ẤT.

PHẦN HẠ <=> MÔI TRƯỜNG CHUNG CHO CÁ NHÂN: ĐỘN GIÁP.

Trong đó, điểm đặc biệt là:

Trong thiên bàn của học thuyết Thái Ất, để có thể chuyển sang bình diện tiên thiên, cổ nhân không còn đặt quẻ Khảm tại số 1 như trong Độn Giáp (với chức năng Thiên nhất sinh thuỷ), mà lại đặt quẻ CÀN, tức là quẻ Trời: Thiên tại nhất!

Điểm đặc biệt nói trên, tức là:

Đồ hình Hậu Thiên Bát quái cũ nạp vào Lạc Thư là hình cơ sở của học thuyết Độn Giáp. Trong hình này thì quái Khảm ứng với vị trí số 1 của Lạc Thư.

Đồ hình Hậu Thiên Bát quái cũ nạp vào Lạc Thư là hìn cơ sở của học thuyết Thái Ất. Trong hình này thì toàn bộ độ số của Lạc Thư phải xoay một góc độ để sỗ một của Lạc Thư ứng với quái Càn trong hình Hậu Thiên cũ.

Chính vì vậy, nguyenle khai thác được một yếu tố để khởi đầu cho bảng Hậu Thiên Thượng Kinh và điểm khởi đầu cho bảng Hậu Thiên Hạ Kinh là:

Phần thượng, khởi đầu là quái Thuần Càn.

Phần hạ, khởi đầu là quái Thuần Khảm.

Ngoài ra, quái Càn và quái Khảm là hai quái có vị trí đối xứng tâm trong hình Bát quái nạp vào Lạc Thư (nạp theo tính chất ngũ hành tương ứng).

Những yếu tố này cũng góp phần khẳng định giá trị tồn tại của Hình Bát Quái Hậu Thiên Mới .

Tóm lại, căn cứ vào qui luật trùng quái cục bộ cho mỗi cặp quái như đã nêu, căn cứ vào điểm khởi đầu của Phần Thượng Kinh và Phần Hạ Kinh như đã nêu, căn cứ vào Hình Hậu Thiên Bát quái Mới như đã nêu. nguyenle cho ra kết quả bảng Hậu Thiên Thượng Kinh và bảng Hậu Thiên Hạ Kinh như hình minh hoạ sau:

Posted Image

Hình 1: Hậu Thiên Thượng Kinh

Posted Image

Hình 2: Hậu Thiên Hạ Kinh

(05-10-2007)

Share this post


Link to post
Share on other sites