phoenix

Lễ hội đền Hùng

12 bài viết trong chủ đề này

Nguồn: http://www.binhthuan.gov.vn/KHTT/vanhoa/0000/0002/HuongToi.htm

Ngày 26-7-1999, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về việc tổ chức các ngày lễ lớn của dân tộc trong năm 2000, trong đó có Giỗ Tổ Hùng Vương.

"Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành biểu tượng của giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam, thể hiện sức mạnh và niềm tự hào dân tộc, củng cố khối đoàn kết, truyền thống uống nước nhớ nguồn và bản sắc độc đáo của nhân dân ta". Đó là nội dung tờ trình Thủ tướng Chính phủ của Bộ trưởng Văn hóa-Thông tin nhằm xúc tiến khẩn trương lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2000 như một quốc lễ.

Sơn Tây vui nhất Hội Thầy

Vui thì vui thật, chẳng tày Hội He

Hội He là hội Đền Hùng có từ lâu đời của dân các làng quanh vùng Đất Tổ, mà tộc phả họ Hoàng ở khu vực Đền Hùng ghi rõ sự tích Làng Trẹo (nay là Triệu Phú) là làng Cả trông nom việc thờ cúng đức vua Tổ. Đã có tới 200 truyền thuyết liên quan thời đại các vua Hùng với các vị tổ như Kinh Dương Vương, An Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ... và các câu chuyện đã trở thành cổ tích ăn sâu vào tâm thức các thế hệ người Việt Nam: Sơn Tinh-Thủy Tinh, Thánh Gióng, Bánh Chưng-Bánh Giầy, sự tích Trầu Cau...

Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, diễn ca quốc sử đã mô tả lời thề:

Một xin rửa sạch mối thù

Hai xin đem lại nghiệp xưa Vua Hùng.

Đến thời Hồng Đức nhà Lê (cuối thế kỷ 15), triều đình mới sai soạn ngọc phả ghi rõ "Từ nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa (Đền Hùng). Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi. Tại đây, nhân dân cả nước đều đến lễ bái để tưởng nhớ công ơn gây dựng nước nhà của các đấng thánh tổ ngày xưa" và giao cho dân làng Hy Cương và Vy Cương (tức làng Trung Nghĩa) làm "dân trưởng tạo lệ" chuyên lo việc thờ phụng và tổ chức hằng năm việc tế lễ cho bàn dân cả nước về dự. Có một số tài liệu cho rằng lễ hội cổ xưa được tổ chức vào 12.3 âm lịch. Sau này, kể từ sau việc dân các tỉnh Bắc Kỳ quyên góp hưng công trùng tu các đền Thượng, Lăng và Đền Giếng (từ 1917 đến 1922) thì mới chọn ngày 10.3 để đại diện triều đình đến tế lễ trước, sau đó mới đến lễ hội của làng xã. Cứ 5 năm một lần, đại diện triều đình thường là Tổng đốc tỉnh sở tại được nhà vua ủy quyền đứng ra chủ lễ. Ngoài việc cấp ruộng và miễn sưu thuế cho dân làng Trung Nghĩa, hằng năm nhà vua gửi về ba đấu gạo nếp thơm làm bánh hoặc xôi để cáo Tổ (đấu cũ tương đương với khoảng 6kg).

Trong năm hội chính, nét đặc sắc nhất trong lễ hội Đền Hùng là lễ rước kiệu của 40 làng quanh vùng Đất Tổ như các làng: Hạ Giáp, Dữu Lâu, Việt Trì, Tảo Sơn, Phú Sơn, Thạch Sơn, Mai Đình, Cao Mại, Sơn Vi.. mỗi làng rước ba cỗ kiệu (trầu cao, hương hoa, hương án và bánh chưng, bánh giầy,...) rồi tập trung ở chân núi để chấm giải.

Lễ tế ở Đền Thượng, chủ tế là quan đầu tỉnh đại diện nhà vua, phụ tế là các quan hàng tỉnh, huyện trong địa hạt tỉnh Phú Thọ. Hội xưa kéo dài từ mồng 7, 8 đến 16, 17 tháng 3 âm lịch.

Sau cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, lễ Giỗ Tổ đầu tiên sau ngày nước nhà độc lập được tổ chức trọng thể với sự có mặt của cụ Phó Chủ Tịch Huỳnh Thúc Kháng. Các cụ cao tuổi còn thuật lại rằng trong buổi lễ đó cụ Huỳnh dâng lên vua Tổ một tấm bản đồ Việt Nam và một thanh kiếm để cáo với Vua Hùng nước nhà đã độc lập nhưng đang còn bị họa xâm lăng.

Từ năm 1947 đến năm 1954, trong hoàn cảnh kháng chiến, lễ hội chỉ giới hạn trong các hoạt động tín ngưỡng của nhân dân địa phương.

Ngày 19-9-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi gặp gỡ các chiến sĩ quân đội chuẩn bị về tiếp quản thủ đô, tại Đền Hùng, Người đã căn dặn: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước"

Ngày 19.8.1962, Bác Hồ thăm lại Đền Hùng, Người đã nhắc nhở các cơ quan lãnh đạo địa phương: Phải chú ý trồng thảm hoa, cây cối để Đền Hùng ngày càng trang nghiêm và đẹp đẽ, thành một công viên lịch sử để cho con cháu sau này đến tham quan.

Giỗ Tổ năm 1956, Bộ Văn hóa đứng ra tổ chức lễ hội, nhưng từ đó do quan niệm cho lễ hội là phục cổ, phong kiến... nên thôi không tổ chức. Người hành hương vẫn đông nhưng lễ rất đơn giản, nhất là trong những năm chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ.

Năm 1963, Bộ Văn hóa đã xếp hạng Đền Hùng là di tích lịch sử quốc gia. Thời gian đó, Tổng Bí thư Lê Duẩn khi thăm Đền Hùng, căn dặn: "Là người Việt Nam, ai mà không nhớ đến tổ tiên. Đồng bào khắp mọi miền rất thiết tha về thăm Đấ Tổ Hùng Vương... Chúng ta phải xây dựng Đền Hùng để từ Đền Hùng nhìn khắp cả nước và cả nước nhìn về Đền Hùng". Tổng Bí thư cũng nói đến ý tưởng xây dựng tại đây một tháp cao để tưởng niệm các Vua Hùng.

Tháng 8-1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm Đất Tổ cũng nhấn mạnh rằng: "Đây là khu di tích lịch sử quý báu nhất của nước ta và dân tộc Việt Nam ta". Các vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội và Nhà nước đều đã có dịp viếng thăm Đền Hùng.

Từ năm 1987, Chính phủ đã quyết định xếp khu rừng quanh Đền Hùng là rừng cấm quốc gia để bảo vệ cảnh quan môi trường thiên nhiên. Cũng năm đó, Bộ Văn hóa-Thông tin cùng tỉnh Vĩnh Phú tổ chức một cuộc hội thảo đầu tiên để bàn về các quy thức lễ hội Đền Hùng và kể từ đó, các năm chẵn (1990, 1995), việc Giỗ Tổ do Bộ Văn hóa-Thông tin thay mặt Nhà nước cùng tỉnh sở tại (trước là Vĩnh Phú, nay là Phú Thọ) đồng đứng ra tổ chức.

Ngày 8-2-1994, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quyết định quy hoạch tổng thể Khu di tích Đền Hùng làm cơ sở pháp lý để Nhà nước đầu tư tôn tạo khu di tích. Một bảo tàng về thời đại Hùng Vương được xây dựng trong khuôn viên Khu di tích (1993).

Với nghị quyết ngày 26-7-1999 của Bộ Chính trị, kể từ năm 2000, Giỗ Tổ Hùng Vương sẽ được coi như là một ngày lễ chính thức (quốc lễ) và giao cho Bộ Văn hóa-Thông tin xây dựng những dự án cho Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2000 cũng như lễ hội các năm sau này.

Những thống kê của cơ quan quản lý di tích Đền Hùng cho biết, nếu như những năm 60, mỗi mùa lễ hội có chừng từ bảy đến tám vạn lượt người hành hương thì năm 1978 đã lên tới 20 vạn lượt người; từ 1981 đến 1985 con số trung bình là từ 20 đến 25 vạn lượt người; từ năm 1986 đến 1990, con số trung bình hằng năm là từ 30 đến 40 vạn; từ 1991 đến 1994 là từ 30 đến 45 vạn. Riêng năm 1995 có tới 60 vạn... Dự kiến con số người đến viếng sẽ ngày một tăng, đặc biệt là các năm chẵn.

Cũng theo dự án của Bộ Văn hóa-Thông tin thì để đáp ứng nhu cầu hướng về Đất Tổ của nhân dân cả nước, ngoài các đền thờ Hùng Vương có từ lâu đời rải rác tại các làng xã vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ cho tới Bắc Trung Bộ, cũng như nhiều địa phương trong cả nước, nay sẽ tạo điều kiện để xây dựng với quy mô phù hợp, trang trọng nhưng tiết kiệm tại những địa phương chưa có. Riêng thành phố Hồ Chí Minh, tại khuôn viên Làng văn hóa các dân tộc, vào dịp Giỗ Tổ năm 2000 sẽ chính thức khởi công một công trình Tưởng niệm các Vua Hùng với quy mô tương xứng với tâm thức của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, tưởng vọng về Đất Tổ và các Vua Hùng đã có công dựng nước.

Theo đề nghệ của Bộ Văn hóa-Thông tin, nếu được Quốc hội và Chính phủ chuẩn y thì ngày Giổ Tổ Hùng Vương hằng năm sẽ trở thành "Ngày Di sản văn hóa Việt Nam". Trong ngày ấy mọi người dân Việt sẽ hướng về Đất Tổ, tưởng nhớ đến các Vua Hùng cùng các thế hệ những người có công đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong ngày ấy, mọi người chăm lo sang sửa từ góc bàn thờ tổ tiên trong nhà đến những di tích lịch sử văn hóa, thăm các bảo tàng, hưởng thụ các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống.

Một mùa lễ hội sắp tới, cũng như thường niên:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba

Nhưng dịp Giỗ Tổ năm nay sẽ được ghi vào trong pho biên niên sử nước nhà như khởi đầu cho một tầm nhìn mới của dân tộc Việt Nam trước ngưỡng thềm một thế kỷ mới, một thiên niên kỷ mới, một tầm nhìn hướng tới một tương lai công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập với thế giới nhưng vẫn bám chắc vào cội rễ của nền văn hiến dân tộc, mà thời đại các Vua Hùng là một biểu tượng của sự vững chãi.

(Dương Trung Quốc

Tổng Thư ký Hội khoa học lịch sử Việt Nam.)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguồn: http://www.binhthuan.gov.vn/KHTT/Vanhoa/0000/0002/CaNuoc.htm

Cả nước hướng về đất Tổ

Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Phong Châu (Phú thọ) là quần thể di tích lịch sử quốc gia, ghi dấu tích các vua Hùng buổi ban đầu dựng nước, gắn với những huyền thoại được lưu truyền qua bao thế hệ, trở thành niềm tự hào của dân tộc ta. Đây là khu đền được tạo lập từxa xưa và quan nhiều lần sửa sang, tu bổ, trong ngọc phả viết năm Thiên Phúc nguyên niên đời vua Lê Đại Hành (980) ghi rõ có đền Thượng, đền Trung, đền Hạ và chùa. Các triều đại phong kiến Việt Nam đều công nhận khu Đền Hùng là "Nam Việt Triệu Tổ" và dành ruộng giao dân sở tại cày cấy lấy hoa lợi tế lễ. Địa thế núi Nghĩa Lĩnh thật đắc dụng, có thể quan sát được cả một vùng đất trung du rộng lớn chuyển tiếp giữa rừng núi và đồng bằng. Phía trước là ngã ba Việt Trì, có hàng chục quả đồi thấp hình đàn rùa bò. Làng Hy Cương (Tiên Kiên) ở phía sau mang hình con phượng cập thư. Phía phải có đồi Khang Phụ (Chu Hóa) tựa như vị tướng quân bắn nỏ. Làng Cổ Tích bên chân núi tọa lạc trên lưng một tuấn mã. Dãy đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình được xem là 99 con voi chầu về đất Tổ. Xa xa phía Tây, dòng sông Thao nước đỏ và phía đông là sông Lô xanh trong.

Đền Hùng hiện còn một số kiến trúc cổ thời hậu Lê là gác chuông, tam quan, đền Hạ. Với tấm lòng tôn kính các Vua Hùng, nhiều địa phương như TPHCM, các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Lâm Đồng, Minh Hải... đều có đền thờ. Riêng ở Phú Thọ và Vĩnh Phúc có hơn 600 nơi thờ các vua Hùng cùng gia quyến và các tướng lĩnh. Đặc biệt, Việt Kiều về nước đã xin đất và chân hương ở Đền Thượng, lập bài vị các Vua Hùng đưa sang thờ tại Pari (Pháp) và bang California (Mỹ). Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng, thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của người Việt Nam. Trước kia, lễ hội Đền Hùng định lệ cứ năm chẵn, có quan triều đình và quan hàng tỉnh về cúng tế. Những năm khác thì do dân "Trưởng tạo lệ" gồm hai làng Hy Cương và Vy Cương sắm lễ cúng Tổ. Năm hội chính, treo cờ thần, 40 làng chung quanh đền rước kiệu tới chầu. Mỗi làng rước ba kiệu: một kiệu trầu cau, hoa quả, rượu hương nến; một kiệu nhang án và một kiệu bánh chưng, bánh dày, có chấm giải và trao thưởng. Những nghi thức hành lễ rất trang trọng và tôn nghiêm. Nhiều trò chơi dân gian và nghệ thuật diễn xướng như hát xoan, hát chèo, hát tuồng diễn ra, thu hút đông đảo công chúng tham dự.

Hội đủ thế đất "sơn chầu, thủy tụ", dồi dào "khí thiêng sông núi", Đền Hùng chứa đựng những sự tích thần kỳ của nước Văn Lang cổ đại, và là nơi thể hiện tấm lòng gắn bó và thành kính nhớ ơn những bậc tiền nhân của người Việt. Trong dịp kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Đảng 3.2 đầu xuân Canh Thìn 2000, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tới dâng hương, trồng cây tại Đền Hùng và làm việc với Đảng bộ, chính quyền tỉnh Phú Thọ. Vinh dự được sống ở vùng đất Tổ, cán bộ, nhân dân Phú Thọ cố gắng làm tròn phận sự giữ gìn Đền Hùng và tha thiết nghị hai vấn đề chủ yếu. Thứ nhất, ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam phát động phong trào "Cả nước hướng về Đền Hùng" nhằm thu hút sự hỗ trợ của các tỉnh, thành phố, các doanh nghiệp, các cá nhân trong nước và kiều bào ở nước ngoài đầu tư, tu bổ quần thể di tích lịch sử Đền Hùng, xây dựng khu trung tâm lễ hội và làng văn hóa thời HùngVương. Thứ hai, Quốc hội và Chính phủ xem xét, quyết định ngày Giỗ Tổ Hùng Vương mồng 10 tháng ba lịch âm hằng năm là ngày quốc lễ.

Trong quá trình giao lưu, vùng văn hóa đất Tổ và các vùng văn hóa ở mọi miền đất nước sẽ phong phú thêm, và hình thành rõ nét bản sắc văn hóa dân tộc.

Tỉnh Phú Thọ đang triển khai dự án xây dựng công viên Văn Lang tại TP Việt Trì thuộc vùng cố đô Văn Lang xưa và xây dựng trung tâm lễ hội Đền Hùng, phân định khu vực trồng cây lưu niệm tại Đền Hùng và trong tương lai, dành riêng 61 quả đồi để mỗi tỉnh, thành phố tạo một công trình kiến trúc mang nét đặc trưng văn hóa truyền thống của mình. Như vậy, bằng việc huy động sức mạnh các nguồn lực, trước hết là từ trong nước theo tinh thần "Cả nước hướng về Đền Hùng", chắc chắn sẽ tạo nên khu di tích có giá trị và ý nghĩa về nhiều mặt, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường, sáng tạo trong lao động sản xuất, làm cho khối cộng đồng đoàn kết 54 dân tộc anh em ngày càng vững chắc, dồn công sức đi tới mục tiêu xây dựng Tổ quốc giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Có lẽ trên thế giới này hiếm có nơi nào lại có được hình tức tín ngưỡng thờ Tổ độc đáo như ở Việt Nam khiến chúng ta phải nhìn nhận nó như một hiện tượng xã hội mang bản sắc riêng của Việt Nam, góp phần tạo nên hệ giá trị tinh thần và bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Đó là truyền thống thờ gia tiên trong từng gia đình, thờ tổ họ của dòng họ, thờ Thành Hoàng của làng và thờ Tổ chung của đất nước ở Đền Hùng. Xét dưới góc độ bảo tàng học, các cấp độ thờ cúng này như là hình thức lưu niệm nhằm tôn vinh những người đã sinh thành ra mình, những người có công với làng xóm, với quê hương, đất nước.

Vào khoảng thế kỷ 6-7 trước Công nguyên, trên địa bàn miền Bắc nước ta hình thành một nền văn minh rực rỡ và nổi tiếng thế giới- văn hóa Đông Sơn- văn hóa của người Lạc Việt, là tổ tiên của người Việt. Cơ tầng văn minh này lại trùng hợp truyền thống tốt đẹp về cội nguồn dân tộc thông qua câu chuyện về Âu Cơ (Tiên) và Lạc Long Quân (Rồng) được ghi lại trong sách Lĩnh Nam chích quái với tên truyện Họ Hồng Bàng phản ánh lịch sử Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng. Chính Âu Cơ và Lạc Long Quân là thủy tổ của người Việt, là cha-mẹ của Vua Hùng.

Người Lạc Việt là chủ nhân văn hóa Đông Sơn, và muốn đi tìm tổ tiên của người Việt thì thì tất nhiên phải tìm trong các nền văn hóa Tiền Đông Sơn. Ngày nay tài liệu khảo cổ học đã chứng minh một cách chắc chắn phổ hệ Phùng Nguyên-Đồng Đậu-Gò Mun-Đông Sơn là các nền văn hóa này phát triển thành văn hóa kia hợp thành một hệ thống văn hóa mà khởi đầu là văn hóa Phùng Nguyên với niên đại sớm được xác định ở di chỉ Đồng Chỗ là 3.800 + 60 năm cách ngày nay. Đó chính là những cơ sở khoa học để chúng ta khẳng định Việt Nam là đất nước có hàng nghìn năm lịch sử. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc viết nên thiên anh hùng ca hùng tráng và bất diệt. Và trong dòng lịch sử đó nhiều phẩm chất cao quý của dân tộc đã được hình thành, tạo nên hệ giá trị tinh thần Việt Nam, tạo nên bản lĩnh văn hóa Việt Nam, trong đó đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" nổi lên như một truyền thống tiêu biểu.

ở Phú Thọ và một số địa phương khác có hơn 600 nơi thờ các Vua hùng, gia quyến và tướng lĩnh, nhưng tập trung nhất là khu di tích Núi Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương hay núi Nghĩa Lĩnh hiện có bốn đền thờ (Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng và Đền Giếng), một chùa (Thiên Quang Thiền Tự) và Lăng Vua Hùng. Cũng như các hình thức tín ngưỡng khác, việc thờ cúng các Vua Hùng khởi đầu và trước hết là công việc của dân, do dân. Với tấm lòng biết ơn và tưởng nhớ tổ tiên, nhân dân các làng quanh Đền Hùng đã tự đứng ra xây dựng các công trình thờ cúng các Vua Hùng. Đền Hạ nguyên là miếu thờ cũ của dân thôn Vi Cương (xã Chu Hóa), đền Trung là nơi thờ cũ của thôn Trẹo (xã Hy Cương), làng Cổ Tích xây đền Thượng, chùa Thiên Quang và đền Giếng. Một số người làm nghề buôn bán ở Hà Nội cũng tham gia đóng tiền để làm các bậc lên xuống và xây cổng Đền Hùng.

Bởi Vua Hùng là Ông Tổ chung cho nên trước đây nhiều địa phương đã đóng góp cho việc tu bổ, tôn tạo khu di tích này. Chẳng hạn, trong những năm từ 1918 đến 1922, có 18 tỉnh, thành phố ở Bắc Kỳ đã đóng góp tiền để trùng tu các đền. Đồng thời Nhà nước phong kiến cũng cho thực hiện một số cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện cho việc thờ cúng các Vua Hùng, như Nhà Lê miễn hẳn sưu thuế, phục dịch cho dân Hy Cương để phục vụ việc thờ tự và ngày hội gọi là dân Trưởng tạo lệ.

Ngay sau ngày hòa bình lập lại, Nhà nước ta đã cho tu bổ những công trình bị thực dân Pháp tàn phá (1955), xây dựng Nhà Công quán, đường ôtô (1693), nhà đón tiếp, trồng cây (1980-1983) và xây Bảo tàng Hùng Vương (1987). Xuất phát từ quan niệm cho rằng việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy di tích lịch sử-văn hóa phải gắn liền với việc phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện từng bước nâng cao đời sống nhân dân trong khu vực di tích, ngày 8-2-1944, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Dự án tổng thể khu di tích lịch sử Đền Hùng với mục tiêu cụ thể là: Bảo tồn, tôn tạo, bảo vệ các di tích lịch sử và các công trình kiến trúc cổ đã được xếp hạng; xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, các công trình phục vụ lễ hội và khách tham quan du lịch, song không được phá vỡ cảnh quan khu di tích; bảo vệ, tu bổ rừng cấm và vùng đệm, cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái; nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân vùng ven khu di tích.

Cho đến nay, các nhóm dự án đã và đang được triển khai đồng bộ, khẩn trương hoàn thiện các hạng mục chủ yếu để phục vụ lễ hội năm 2000. Tỉnh Phú Thọ cũng đã dành một t rộng trong khu di tích Đền Hùng để các bộ, ngành, đoàn thể, các tỉnh, thành phố cây lưu niệm; đồng thời cũng dự kiến dành 61 quả đồi quanh Đền Hùng để các địa phương cả nước xây dựng các công trình đặc sắc của địa phương mình với ý thức "trăm con một bọc". Với tấm lòng "cả nước hướng về Đền Hùng". Trong một cuộc hội thảo gần đây tổ chức tại Phú Thọ, nhiều nhà nghiên cứu tán thành ý tưởng bên cạnh việc bảo tồn, tu bổ những di tích hiện có, Nhà nước ta cần cho xây dựng thêm trong khu di tích Đền Hùng những công trình tưởng niệm mang dấu ấn thời đại chúng ta như đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân, đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ và Tháp tưởng niệm các Vua Hùng ở những vị trí và quy mô thích hợp những giải pháp kiến trúc tối ưu, tương xứng tầm vóc của thời đại chúng ta nhằm tôn vinh với lòng biết ơn công lao dựng nước của các Vua Hùng.

Thư tịch xưa không ghi chép một cách đầy đủ về quá trình tổ chức Lễ hội Đền Hùng. Tuy nhiên, qua ngọc phả Hùng Vương soạn đời Hồng Đức năm thứ nhất (1470) chúng ta được biết từ đời Nhà Đinh, Lê, Lý, Trần và Hậu Lê việc thờ cúng ở làng Cổ Tích, xã Hy Cương. Những ruộng đất, sưu thuế được để lại dùng vào việc cúng tế và nhân dân các vùng của đất nước đều đến lễ để tưởng nhớ các "đấng thánh tổ ngày xưa". Đồng thời cũng từ Hồng Đức hội Đền Hùng được "gia hạn quốc tế", việc tế lễ do Nhà nước chủ trì ủy quyền cho quan trấn thay mặt triều đình vào tế. Đến triều Minh Mạng thì bài vị thờ Hùng Vương được rước vào Huế thờ ở miếu Lịch Đại Đế Vương, còn ở Đền Hùng thì cấp sắc để phụng thờ. Đến năm Tự Đức thứ 27 (1874) lễ hội Đền Hùng mới cho khôi phục như cũ và cho xây Lăng Hùng Vương ngay cạnh Đền Thượng. Trong thời Pháp thuộc, dù không tổ chức lớn, nhân dân địa phương vẫn tự tổ chức thờ cúng các Vua Hùng. Từ sau năm 1958, Hội Đền Hùng được Nhà nước ta tổ chức, năm chẵn do Bộ Văn hóa-Thông tin chủ trì, còn năm lẻ do UBND tỉnh chủ trì. Và ngày 26-7-1999, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn năm 2000, trong đó có Giỗ Tổ Hùng Vương. Như vậy, năm Canh Thìn là năm đầu tiên Nhà nước ta tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương với tầm quốc tế.

Đến ngày Giỗ Tổ, đến với Đền Hùng là đến với hồn đất nước, là cuộc hành hương về cội nguồn dân tộc với tâm tưởng "Uống nước nhớ nguồn", với lòng tôn kính và biết ơn công lao của tổ tiên, không chỉ của mình mà của cả dân tộc, với ý thức "trăm con một bọc", biểu hiện cao đẹp nhất của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, gắn bó cộng đồng các dân tộc, dù Nam hay Bắc, dù miền ngược hay miền xuôi, dù người Kinh hay người dân tộc thiểu số đều là con một nhà trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Sự thiêng liêng và đức tin là hai yếu tố cơ bản của tín ngưỡng. Nhưng sự thiêng liêng ở Đền Hùng không làm người ta sợ hãi như khi đến các nơi thờ cúng khác, mà đến với Đền Hùng như đến bàn thờ tổ tiên trong gia đình với ý nghĩa lớn lao gắn nhà với nước: cha - mẹ trong gia đình và cha - mẹ dân tộc. Đạo thờ cha - mẹ chính là bản sắc văn hóa Việt Nam. Người Việt thường có xu hướng tôn vinh con người-con người thật cũng như con người huyền thoại. Người ta đặt niềm tin và cầu mong những điều giản dị không chỉ cho mình mà cả cho cộng đồng dân tộc: Đất nước thanh bình, mưa thuận gió hòa, vạn sự như ý, sức khỏe dồi dào... Ước nguyện riêng của từng người cũng là ước nguyện chung của cả cộng đồng.

Lễ hội Đền Hùng còn là sự hội nhập có tính xã hội trong đời sống đương đại, mang giá trị văn hóa tiêu biểu. ở đấy cộng đồng các dân tộc biểu dương sức mạnh cộng đồng, các giá trị văn hóa truyền thống với bản chất dân tộc, nhân văn và dân chủ thể hiện trong các hình thức rước sách, trò chơi dân gian, hoạt động văn nghệ,...

Ngày Giỗ Tổ đang đến gần. Người dân Việt Nam ta ở mọi miền đất nước và ở xa Tổ quốc, dù đến hay không đến được, đều hướng về Đền Hùng, hướng về cội nguồn dân tộc với lòng biết ơn công lao các Vua Hùng và với niềm tin vào sự trường tồn và sức mạnh của dân tộc.

Vào tiết thanh minh, tháng ba, mùa xuân ấm trời, chúng tôi về thăm đất Tổ trên chiếc xe Ford đỏ do giáo sư Nguyễn Xuân Đào tự lái. Cầu Việt Trì dựng lại sau ngày chiến tranh, hiện lên khỏe đẹp dưới nắng, soi trên bến sông Bạch Hạc cảnh nước non tuyệt đẹp.

Từ đây - theo địa đồ vừa thấy ở huyện Bình Xuyên - đến sườn Nghĩa Cương không còn mấy phút ô tô nữa. Chúng tôi dừng chân ở thành phố công nghiệp của đất Tổ đầy chiến công hiển hách: bắn rơi máy bay Mỹ chiếc thứ 400 chiếc thứ 4.000 của miền Bắc những tháng ngày qua.

Chúng tôi lần theo dấu vết khảo cổ trên những triền đồi trung du - thềm phù sa xưa kia, khu vực vũ của "văn hóa sông Hồng" - lãnh thổ của bộ lạc Văn Lang thuở nọ. Đồng chí ở Sở Văn hóa Thông tin đưa chúng tôi về vùng núi Sơn Vi - Lâm Thao. Nền văn hóa Sơn Vi thuộc cuối thời kỳ đồ đá cũ, nơi đầu tiên tìm thấy di tích tiêu biểu cho thời đại này. Các cánh đồng xanh xanh lúa xuân ở Sơn Vi đã 7 tấn từ lâu. Đất Lâm Thao, đất quật ngã chiếc máy bay Mỹ thứ 100 của tỉnh. Và theo đồng chí Bí thư Huyện ủy, cho biết: Vùng xã Cao Mại, Kinh Kệ còn là quê hương của hát xoan. Đó là một loại hình dân ca hát vào mùa xuân - riêng biệt của địa phương Vĩnh Phú - theo truyền thuyết, có từ thuở vua Hùng dựng nước. Những di chỉ khai quật được ở Phùng Nguyên (Lâm Thao): Mũi nhọn đá và rìu mài nhỏ, đọi xe chỉ và lò gốm, bàn mài, vòng tay, hạt chuỗi, tượng đá, đồ đựng bằng đất nung... cho ta biết rõ giai đoạn Phùng Nguyên là thời kỳ tiền Hùng Vương của lịch sử dân tộc.

Trong nhà bảo tàng xã Nguyệt Đức, những di chỉ đào ở Đồng Đậu được người trông giữ bảo tàng, giới thiệu với khách những mảnh gốm và các hoa văn trang trí khác, kể cả các khuôn đúc rìu, mũi dao, hoa tai bằng đá, khuôn đúc tên đồng - đào được dưới tầng sâu 4m. Và theo các nhà khảo cổ đã phân tích tro than lấy trong tầng văn hóa ở chi chỉ Đồng Dậu - bằng phương pháp cácbon phóng xạ (C14) - cho rõ: giai đoạn này cách chúng ta khoảng trên dưới 3.300 năm. Mỗi bước chúng tôi đi trên miền đất Phong Châu cũ chiếc nôi của dân tộc - đều gợi lại một thời kỳ lịch sử huy hoàng... Theo các sử sách cũ, Cựu đường thư chép rằng: năm Vũ Đức thứ tư (621), nhà Đường đặt đất Phong Châu thành 6 huyện. Và có lẽ Phong Châu thời kỳ Hùng Vương qua các di chỉ và vật khảo cổ ấy, thì Phong Châu là vùng đất nằm giữa Ba Vì và Tam Đảo với trung tâm miền hội lưu của các dòng sông Hồng, Đà, Lô, Đáy...

Đây đền Hùng. Chúng tôi lần từng bước lên đền Thượng - điện chín tầng mây - rốn của kinh thành Phong Châu thuở trước. Đền Thượng đặt trên đỉnh Nghĩa Cương, ngôi mộ Tổ bên trái chân đền. Bên phải là phiến đá làm bàn đánh cờ của các vua Hùng và mốc đá của Thục Phán thề: "Nguyện có trời cao lồng lộng chứng giám xét soi, xin đời đời giữ gìn non sông bền vững và trông nom miếu võ họ Hùng". Thuở xa xưa buổi rạng đông của dân tộc, Hùng Vương lên ngôi đặc quốc hiệu là nước Văn Lang.

Trời chiều, gió về hoa trầu rụng trắng xóa lối đi, chúng tôi: một đoàn anh chị em làm báo, làm văn, xuống thăm đền Trung. Anh Nguyễn kể cho một nữ sinh con một gia đình liệt sĩ đi học ở Ngà về "Vinh Quy bái tổ" - sự tích của ngôi chùa, nơi xưa kia vua Hùng thường ra lễ bái. Dưới cùng là đến Giếng, có giếng Ngọc xây đá trước điện thờ Ngọc Hoa và Tiên Dung Mỵ nương mắt phượng, má son ngồi trên long ngai. Đó là hai con gái của vua Hùng Duệ Vương, chi thứ 18, lấy Sơn Tinh và Chử Đồng Tử, cùng với Phù Đổng Thiên Vương thời vua Hùng thứ 6 và bà chúa Liễu Hạnh thành bộ "Tứ bất tử", tức là bốn vị thần được nhân dân truyền tụng, đứng đầu muôn thuở. Phù Đổng và Sơn Tinh là "Đệ nhất phúc thần" cứu dân khỏi xâm lăng và lụt lội. Vị sư nữ kể cho các cô học trò nhỏ nghe về chuyện Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh, một thiên anh hùng ca đậm đà màu sắc thần thoại.

Kính cẩn nghiêng mình trước đền Giếng, chỗ cây đại già mọc trước bẩy bậc cấp, nơi Bác Hồ mùa thu năm 1954 ngồi nói chuyện với các chiến sĩ trong đại đoàn quân tiền phong trở về giải phóng thủ đô.

Tại đây Người đã ân cần dặn các chiến sĩ: Các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.

Từ xưa đến nay biết bao nhiêu câu đối, bao nhiêu vần thơ của người trước ca ngợi Hùng Vương. Chúng tôi có đọc được các thần tích ở xã Lâu Thượng (Việt Trì), thần tích đình Mạo Phổ huyện Thanh Ba, thần tích đình Mẫu Thọ huyện Tam Nông, đình Lạng Hồ Vu Tử (Lâm Thao) đình Giếng Giá, Sơn Vị, đình Hạ Khế (Cẩm Khê), đình các làng Xuân Dương, Hạ Bì, Bì Chấu (Thanh Thủy). Bằng con đường "dân gian ấy", tổ tiên mình đã anh dũng dẹp thù trong, chống giặc ngoài, và đem lại cho ta niềm kiêu hãnh lớn hôm nay.

Đoàn Minh Tuấn

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguồn: www.binhthuan.gov.vn/khtt/vanhoa/0000/0002/LinhPhap.htm - 6k -

LÍNH PHÁP BỒNG SÚNG ĐỨNG CHÀO Ở ĐỀN HÙNG

Cách đây đúng 55 năm, vào mùa xuân ất Dậu 1945, dân tỉnh Phú Thọ trẩy hội Đền Hùng vô cùng ngạc nhiên thấy một trung đội lính Pháp bồng súng đón chào trước cổng đền.

Ông Trịnh Khuê, Phó Chủ tịch xã Cao Mại huyện Phong Châu kể lại chuyện xưa: Ngày 9/3/1945, tỉnh lỵ Phú Thọ vang tiếng súng Nhật đảo chính Pháp. Chi bộ cộng sản xã Cao Mại nhận được lệnh chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, trong đó nêu rõ: Sau cuộc đảo chính này, phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương. Những vẫn phải đề phòng Tướng De Gaulle định vận động khôi phục quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương.

Ngay hôm sau, một tiểu đoàn bộ binh Pháp đồn trú tại tỉnh lỵ Phú Thọ thất thểu chạy về xã Cao Mại xin tạm trú ít ngày. Xã có 13 ngôi đền đình thờ Công chúa Nguyệt Cư - con gái Hùng Vương thứ 17 - cùng phò mã Lý Văn Lang và 12 người con đều là danh tướng có công dẹp Thục phù Hùng, bảo vệ đất nước. Tục truyền rằng: Lúc 15 tuổi, Lý Văn Lang đánh được con cá trắng dài 2,5m, mổ bụng cá có một thanh kiếm sáng quắc, nhờ thần kiếm lập nhiều chiến công, trở thành Phò mã. Còn Công chúa trước khi sinh con đầu lòng, mơ được rồng vàng tặng bọc 12 trứng; sau đó, hạ sinh liên tiếp 12 con trai khôi ngô, dũng mãnh...

Dưới sự chỉ đạo của Chi bộ xã, dân làng dẫn quân Pháp vào nghỉ tại đền đình. Đền vùng núi rét căm căm, thấy quân Pháp đói mềm nằm rét co ro, dân làng rủ lòng thương đem cơm nắm muối vừng cho ăn, lấy rơm nhét bao tải cho họ nằm. Lừa ngựa đói hí vang, dân làng bứt lá tre, cắt cỏ cho ăn. Cảm kích, viên chỉ huy cử một trung đội Pháp lon mũ chỉnh tề đến cổng đền Hùng làm hàng rào danh dự bồng súng chào đón dân làng dự lễ.

ít hôm sau, viên chỉ huy Pháp đề nghị xã giúp đỡ vượt sông lên Tây Bắc, sang Hoa Nam, nhập vào tàn quân của tướng Alexandre trong lực lượng đồng minh chống Nhật. Đại diện xã nói sẵn sàng giúp nhưng đừng có ảo tưởng theo âm mưu của Tướng De Gaulle. Ngay sau đó, dân làng đem thuyền chở quân Pháp vượt sông, không quên cho gạo và lương khô mang theo.

Thời gian sau, đế quốc Pháp quay lại xâm lược Việt Nam. Và tiếc thay Ông Trịnh Khuê ngậm ngùi kể: "Vào năm 1950, tôi đang chăn trâu thấy 4 máy bay Hellcat lao đến ném bom, bắn phá nát tan các đền đình mà cả tiểu đoàn Pháp trú ngụ dưới sự che chở của dân xã, làm hơn chục người bị thiệt mạng."

Trong cuốn sổ truyền thống của CLB UNESCO, ông Charlotle Jean Marie trong đoàn Crédit Lyonnais lên thăm xã có ghi: "Cuộc đón tiếp rất nồng hậu của các vị lãnh đạo xã này mà lịch sử vẫn còn ghi nhận sự giúp đỡ của dân xã Cao Mại hơn 40 năm trước đã cứu hàng trăm lính Pháp. Thật là quý, nếu những người Pháp trở lại Việt Nam giờ đây ghi nhớ là phải mang đến xã Cao Mại này và đất nước này một sự đóng góp thích đáng!"

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHÚC VĂN GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG

GS, Anh hùng Lao động VŨ KHIÊU

Mừng hôm nay
Trống đồng dội tới, núi sông dậy sấm anh hùng!
Trống đồng vang lên, trời đất ngút ngàn linh khí!
Toàn dân giỗ Tổ Hùng Vương
Cả nước vui ngày Quốc Lễ
Rộn rã trống chiêng
Tưng bừng cờ xí!
Bừng lên nhật nguyệt, mây xanh hạc trắng, bát ngát trường thiên
Rực sáng sơn hà, cờ đỏ sao vàng, thênh thang thánh địa
Thuyền xuôi sóng vỗ, sông ba dòng tưới mát muôn phương
Hổ lượn rồng bay, núi trăm ngọn chầu về một phía
Từ đỉnh cao muôn trượng cơ đồ
Cùng nhìn lại bốn mươi thế kỷ
Núi mây sừng sững công cha
Sông nước dạt dào nghĩa mẹ.
Nhớ thuở xưa
Mẹ từng non cao tỏa sáng nghĩa nhân
Cha vốn biển cả quật cường mưu trí
Sánh đôi tài sắc Kim cổ kỳ phùng
Hợp một âm dương Uyên ương tuyệt mỹ!
Ðẹp gia đình trăm trứng trăm con
Vui sơn thủy một lòng một ý
Cuộc mưu sinh thử thách muôn vàn
Ðường lập nghiệp gian nan xiết kể
Nào rừng rậm, đầm lầy, sông sâu,
núi hiểm há quản xông pha!
Nào kình nghê, hổ báo, bệnh tật,
bão giông, lấy gì bảo vệ?
Chia con hai ngả lên đường
Chọn trưởng một ngôi kế vị
Giang sơn một cõi: sao cho vạn đại trường tồn?
Rừng bể đôi nơi: cùng dựng bốn phương hùng vĩ!
Hiên ngang thay! Phù Ðổng diệt thù!
Dũng cảm thay! Sơn Tinh trị thủy!
Ðẹp thay Chử Ðồng Tử, tình yêu như ngọc sáng gương trong
Giỏi thay Mai An Tiêm, lao động như dời non lấp bể
Vẻ vang mười tám vương triều
Rực rỡ trăm đời thịnh trị
Qua gian nan bao độ nổi chìm
Trải thử thách, những hồi hưng phế!
Chỉ công lao khai phá một thời kỳ
Mà uy lực trải dài trăm thế hệ!
Gái anh hùng: nào Trưng Nữ, Triệu Trinh
Trai dũng lược: nào Phùng Hưng, Lý Bí!
Sóng Bạch Ðằng cuốn cuộn thế Ngô Vương
Gió Như Nguyệt vang vang lời Thái Úy
Hội Diên Hồng rung chuyển cả trăng sao
Hịch Hưng Ðạo xốn xang toàn tướng sĩ!
Nằm gai nếm mật, mười năm ròng,bạt vía lũ Vương Thông
Lở đất long trời, một trận đánh, tan hồn quân Sĩ Nghị...
Thế kỷ 20:
Cờ giải phóng xua tan bóng tối
Danh Bác Hồ vang dội đông tây
Khắp toàn cầu hết nạn thực dân
Mộng đế quốc tan thành mây khói!


Thế mới biết:
Nước giàu không chỉ quân lương
Dân mạnh còn nhờ đạo lý
Coi sơn hà xã tắc là thiêng!
Lấy độc lập tự do làm quý!
Chúng con nay
Sáu mươi bốn tỉnh thành: nhớ lại tổ tông
Năm mươi tư dân tộc: tìm về cội rễ!
Trăm con một bọc, yêu thương nhau như ruột thịt chan hòa
Một gốc trăm nhành, gắn bó mãi như keo sơn chặt chẽ
Dựng cơ đồ, chị ngã em nâng
Cơn hoạn nạn bầu thương lấy bí
Bốn phương: nam, bắc, tây, đông
Trăm họ: gái, trai, già, trẻ
Hân hoan muôn dặm trùng phùng
Kính cẩn một chầu đại lễ
Xin Tổ Vương vạn thế linh thiêng
Giúp con cháu trăm điều chỉ vẽ.



Nay gặp buổi
Ðảng thành công, trong đổi mới tư duy
Dân phấn khởi, cùng dựng xây kinh tế
Con đường giàu mạnh đã thênh thang
Cuộc sống văn minh càng đẹp đẽ
Tuy thời cơ thuận lợi đã thêm nhiều
Nhưng thách thức gian nan còn chẳng dễ
Cả hành tinh còn đầy rẫy bất công
Phường ác độc vẫn tham tàn ích kỷ
Nêu "đua tranh bình đẳng", mà nước giàu cứ hại nước nghèo
Nói "thương mại tự do", mà cá lớn càng nuốt cá bé
Nhưng nghĩ rằng:
Quốc tế giao lưu phải triển khai
Hội nhập toàn cầu là xu thế
Nên lãnh đạo mở đường
Cùng nhân dân vững chí
Tinh thần càng sáng tạo thông minh
Truyền thống lại chí nhân đại nghĩa
Toàn dân học tập, vươn xa trí tuệ vạn trùng cao
Cả nước đua tài, đánh thức tiềm năng thiên cổ dậy


Bác răn bảo
Hoàn thành nhiệm vụ, vượt mọi khó khăn, thắng mọi kẻ thù
Uy vũ coi thường, không ngại bần hàn, không ham phú quý
Vĩ đại thay Quốc Tổ! Dựng cơ đồ biết mấy công lao
Sáng suốt thay Bác Hồ! Truyền hậu thế mọi điều lý lẽ



Chúng con nguyện
Dựng giang sơn hùng mạnh phồn vinh
Cùng nhân loại hòa bình hữu nghị
Sáng muôn đời Hồng Lạc tinh hoa
Cao muôn trượng Hùng Vương khí thế!


Ðền Hùng, ngày 10 tháng 3 năm Canh Thìn
GS, Anh hùng Lao động VŨ KHIÊU phụng thảo


Share this post


Link to post
Share on other sites

  • DIỄN VĂN CỦA CHỦ TỊCH NÔNG ĐỨC MẠNH TẠI QUỐC LỄ GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG

  • Thưa đồng bào, chiến sĩ cả nước và bà con người Việt Nam ở nước ngoài,
  • Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
  • Thưa các vị khách quý,
Hôm nay, mồng 10 tháng 3 năm Canh Thìn, tại Đền Hùng, vùng đất thiêng của dân tộc, chúc ta long trọng tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương- ngày quốc lễ có ý nghĩa vô cùng sâu sắc đối với toàn thể dân tộc Việt Nam. Về với đất Tổ, đứng trước bàn thờ các vua Hùng, mỗi một chúng ta, ai cũng đều xúc động và tự hào hướng về cội nguồn dân tộc, thành kính tri ân công đức Tổ tiên, đúng như các thế hệ ông cha ta đã ghi thành câu đối ở Đền Hùng:

"Lăng tẩm tự năm nào, núi tản, sông Đà, non nước vẫn quy về đất Tổ"

Văn minh đương buổi mới, con Hồng, cháu Lạc, giống nòi con biết nhớ mồ ông"

Nhân dịp này, thay mặt các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi xin gởi lời chào thân ái và đoàn kết đến toàn thể đồng bào các dân tộc đang cùng nhau chung sống trên đất nước Việt Nam, đồng bào ta đang sinh sống ở nước ngoài, đến các vị khách quý và toàn thể bầu bạn khắp năm châu.

Thưa đồng bào, chiến sĩ cả nước,

Thời đại Hùng Vương là thời đại mở đầu rực rỡ của lịch sử dân tộc Việt Nam, mà cách đây mấy ngàn năm, cha ông ta đã kiên cường, dũng cảm, khai sơn, phá thạch cùng nhau gây dựng nên bờ cõi, non sông đất nước, lập nên quốc gia độc lập, có chủ quyền đầu tiên của người Việt.

Các Vua Hùng, từ đời này qua đời khác, đã xây dựng nước Văn Lang với một nền văn minh lúa nước và một nền văn minh Sông Hồng rực rỡ từ các văn hóa tiền Đông Sơn đến văn hóa Đông Sơn, một nền văn hóa, nghệ thuật truyền thống phong phú, độc đáo. Từ đó, đất Tổ Hùng Vương trở thành cội nguồn dân tộc, nơi đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ và vững bền của dân tộc Việt Nam. Về đất Tổ, về Đền Hùng là tìm về cuội nguồn dân tộc, vì chính nơi đây đã diễn ra bao sự kiện trọng đại đối với dân tộc ta trong buổi đầu dựng nước và giữ nước, là trung tâm sinh tụ và phát triển của người Việt cổ, nơi các Vua Hùng đã đến để tiến hành những nghi lễ tín ngưỡng của dân, dạy dân làm ruộng, đánh giặc và bàn bạc các việc hệ trọng của đất nước. Theo truyền thuyết kể lại, mẹ Âu Cơ đã sinh bọc trăm trứng với trăm người con trong cùng một bọc, từ đó cho ra đời cái nghĩa đồng bào thiêng liêng như "Con một cha, nhà một nóc" mà mỗi người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam chúng ta đều cảm thấy như một tình cảm máu thịt của mình.

Từ bao đời nay, đồng bào luôn luôn tôn kính và ngưỡng mộ các Vua Hùng đã có công dựng nước. Đền Hùng là nơi qui tụ con Lạc, cháu Hồng ở khắp mọi miền Tổ quốc. Mọi người Việt Nam thuộc các dân tộc, tầng lớp, thế hệ, già cả, gái trai... dù ở trong nước hay đang sinh sống ở nước ngoài đều có chung một Tổ, một ngày giỗ Tổ, chung một cội nguồn. Vì vậy giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành tình cảm thiêng liêng sâu đậm trong tâm khảm của nhân dân ta từ bao đời nay. Giỗ Tổ cũng trở thành biểu tượng của giá trị văn hóa, tinh thần vô cùng sâu sắc và độc đáo của dân tộc Việt Nam, thể hiện nguồn tự hào, sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân và truyền thống của nước nhớ nguồn, góp phần làm nên sức mạnh dân tộc trong tiến trình dựng nước và giữ nước.

Con cháu các Vua Hùng đời đời khắc cốt ghi tâm người Việt Nam là anh em trong cùng một bọc, noi gương tổ tiên và các anh hùng dân tộc để có Văn Lang, có Đại Việt và có Việt Nam hôm nay. Chúng ta hãy cùng nhau ôn lại những bài học quý báu của tổ tiên, để từ đó thấy rõ trách nhiệm của mình với đất nước mà các Vua Hùng đã có công gây dựng và khơi nguồn văn minh.

Đó là bài học toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng cùng nhau xây dựng một xã hội bình đẳng, bác ái, trọng hiền tài, nghĩa đồng bào trong sáng, thiêng liêng, sống thủy chung thân ái, cần cù, thông minh sáng tạo và kiên cường đấu tranh chinh phục thiên nhiên, tự lực tự cường và tự tôn dân tộc mạnh mẽ. Đó cũng chính là bài học: Dựng nước phải đi đôi với giữ nước khi có họa ngoại xâm thì cả nước cùng đánh giặc, là bài học kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa, lối sống, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam... Những điều đó đã tạo nên giá trị văn hóa mới trên cơ sở phát huy bản sắc tốt đẹp của dân tộc, đồng thời kết hợp với tinh hoa của thời đại.

Thưa đồng bào và chiến sĩ của cả nước

Trải quả bao thăng trầm của lịch sử, Đền Hùng đã bị giặc dã thiên tai và thời gian tàn phá, nhưng nhân dân ta từ đời này qua đời khác đã xây dựng, giữ gìn để làm nơi hương khói Đất Quốc Tổ. Những di sản văn hóa của thời đại Hùng Vương là vô cùng quí giá, là niềm tự hào về cội nguồn dân tộc, mà chúng ta phải có trách nhiệm giữ gìn để khẳng định tinh thần của thời đại Hùng Vương là bất diệt, mãi mãi trường tồn cùng với lịch sử của đất nước.

Từ xa xưa cho đến nay và mãi mãi về sau, giỗ Tổ Hùng Vương đã, đang và sẽ trở thành nơi hội tụ của con cháu từ khắp mọi miền đất nước với ý tích tôn vinh tổ tiên và truyền thống đạo lý của dân tộc. Tiếp tục công cuộc dựng nước và giữ nước của các Vua Hùng và các thế hệ cha anh, chúng ta hãy dốc sức, đồng lòng và tin tưởng vững bước tiến vào thế kỷ mới, với niềm tự tin và sức mạnh đã được khuôn đúc qua hàng ngàn năm lịch sử.

Đền thờ Hùng Vương không chỉ là di tích lịch sử văn hóa mà còn là tài sản vô giá của nhân dân cả nước Việt Nam. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tin tưởng giao cho đồng bào các dân tộc tỉnh Phú Thọ trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ. Trong giờ phút thiêng liêng này chúng ta hãy nguyện cùng hướng về đất Tổ, cùng nhau đóng góp sức lực và trí tuệ vào việc tu bổ, tôn tạo khu di tích Đền Hùng để mãi mãi xứng đáng với giá trị truyền thống quí báu và lâu đời của lịch sử và dân tộc.

Càng tự hào về lịch sử dân tộc, chúng ta càng phải đồng tâm hiệp lực, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời dạy của Người đã thấm sâu trong trái tim khối óc của triệu triệu người Việt Nam chúng ta. Thực hiện lời căn dặn của Người, Đảng ta đã không ngừng phát huy truyền thống của tổ tiên, kế thừa những giá trị tinh thần tốt đẹp của thời đại Hùng Vương và các thời đại oanh liệt trong lịch sử, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành các cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ và oanh liệt, đánh thắng nhiều kẻ thù oanh liệt, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, bảo vệ vững chắc kỷ cương và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, góp phần làm rạng rỡ thêm lịch sử và truyền thống Việt Nam anh hùng. Trong thời kỳ đổi mới đất nước đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi trở ngại, thử thách, tranh thủ thời cơ và vận hội để lý tưởng và mục tiêu cao cả của Chủ nghĩa Xã hội trở thành hiện thực trên Tổ quốc Việt Nam của chúng ta. Để tưởng nhớ công ơn của các Vua Hùng, chúng ta sẽ thực hiện lý tưởng của đồng chí cố tổng Bí Thư Lê Duẩn khi về thăm Đền Hùng: "Tiến hành xây dựng tháp tưởng niệm các Vua Hùng, để từ đây nhìn ra mọi miền của đất nước và từ mọi miền của đất nước luôn hướng về các Vua Hùng".

Chúng ta tưởng niệm các Vua Hùng, và tưởng nhớ công lao to lớn của các thế hệ nối tiếp đã có công dựng nước, giữ nước và mong ước cho trí tuệ công sức của chúng ta được phụng sự vì mục đích hòa bình và hạnh phúc của nhân dân.

Trước anh linh của tổ tiên, tôi kêu gọi đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước đồng bào ta ở nước ngoài nêu cao truyền thống uống nước nhớ nguồn, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân, trên dưới một lòng, đồng tâm nhất trí, ra sức thi đua dành nhiều thành tích xuất sắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, giữ gìn, phát huy truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố Nhà nước "Của dân, do dân, vì dân" phát huy dân chủ ở cơ sở và giữ gìn kỷ cương phép nước, không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, với ý thức tự lực tự cường và tự tôn dân tộc, chúng ta phải phát huy nổ lực, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sử dụng có hiệu quả các hiệu lực bên ngoài, trên cơ sở hợp tác, bình đẳng cùng có lợi để xây dựng đất nước ta phát triển bền vững và trưởng tồn, làm đẹp giàu giang sơn gấm vóc và khẳng định địa thế Việt Nam trên trường Quốc tế.

Cầu chúc cho dân tộc ta, nhân dân ta và các dân tộc anh em, bạn bè trên thế giới được sống trong hòa bình hữu nghị và hạnh phúc.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lễ giỗ tổ Hùng Vương 2008: Thay Diễn văn bằng Chúc văn

Nguồn: http://www.vov.org.vn/?page=109&nid=63959

Văn tế Giỗ Tổ Hùng Vương của Giáo sư Vũ Khiêu là một bản hùng văn khẳng định vị trí và ý nghĩa to lớn của ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày Quốc lễ của dân tộc

(VOV)_ Đây là nội dung chính trong công văn số 1290/BVHTTDL-VP ngày 10/4/2008 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đồng ý để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (Chủ lễ) đọc Bài ca ngày Giỗ Tổ Hùng Vương trong Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng năm 2008 thay cho bài diễn văn hàng năm.

Bài ca ngày Giỗ Tổ Hùng Vương do Giáo sư Vũ Khiêu viết trên cơ sở chỉnh sửa phần cuối bài “Văn tế Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2000" đã được Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) trình bày trong Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2000.

Văn tế Giỗ Tổ Hùng Vương của Giáo sư Vũ Khiêu là một bản hùng văn khẳng định vị trí và ý nghĩa to lớn của ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày Quốc lễ của dân tộc; giáo dục truyền thống yêu nước, biết ơn sâu sắc các Vua Hùng và các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước; thể hiện được tâm tư, tình cảm của toàn dân hướng về cội nguồn dân tộc; cổ vũ tinh thần yêu nước, thương nòi, đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiếng trống đồng vang xa, Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã đến. Người dân Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước và kiều bào ở nước ngoài đều hướng về Đền Hùng, hướng về cội nguồn dân tộc.

Với “Bài ca ngày Giỗ Tổ Hùng Vương" được Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ (Chủ lễ) đọc trong Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng năm 2008 cùng với các yếu tố thuộc nghi thức lễ Giỗ Tổ gồm: trang phục lễ, nhạc lễ, nghi thức lễ phẩm, lễ vật, tiến trình hành lễ... và các hoạt động lễ hội sôi động, đậm bản sắc văn hoá cội nguồn sẽ góp phần làm cho Giỗ Tổ Hùng Vương thêm linh thiêng, trang trọng, thành kính, thực sự trở thành biểu tượng của giá trị văn hóa tinh thần, biểu tượng của sức mạnh và niềm tự hào dân tộc./.

Nguyễn Huy Hoàng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giỗ Tổ Hùng Vương trang trọng và thành kính

Nguồn: http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=43&a...;article=119906

Posted Image</IMG>ND - Sáng 15-4, mồng mười tháng ba năm Mậu Tý, tại Khu di tích lịch sử Ðền Hùng, UBND tỉnh Phú Thọ trang trọng tổ chức Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng.
Dự Lễ dâng hương, có các vị: Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội; Trương Vĩnh Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ; Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên T.Ư Ðảng, Phó Thủ tướng Chính phủ; Hoàng Tuấn Anh, Ủy viên T.Ư Ðảng, Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Ngô Ðức Vượng, Ủy viên T.Ư Ðảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HÐND tỉnh Phú Thọ; Nguyễn Doãn Khánh, Chủ tịch UBND tỉnh, cùng đại diện nhiều bộ, ban, ngành ở Trung ương và tỉnh Phú Thọ, đại biểu và nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài.
Ngay từ sáng sớm, các ngả đường vào Ðền Hùng đã chật kín người và xe. Cả khu di tích náo nhiệt trong không khí lễ hội trang nghiêm và thành kính. Về Ðất Tổ, mọi người đều xúc động và tự hào là dòng dõi Hùng Vương, cùng nhau thành kính thắp nén hương thơm tưởng nhớ các Vua Hùng - những người đã "chi công lao khai phá một thời" để đất nước ta "uy lực trải dài trăm thế hệ".
Ðúng 7 giờ sáng, trong tiếng nhạc lễ, tiếng chiêng, trống âm vang gợi nhớ về thuở xa xưa, Ðoàn dâng hương khởi hành từ sân lễ hội, đến cổng đền, qua Ðền Hạ, Ðền Trung, rồi lên Ðền Thượng. Ði đầu là đội tiêu binh rước cờ Tổ quốc, cờ hội và vòng hoa mang dòng chữ "Ðời đời nhớ ơn các Vua Hùng đã có công dựng nước". Tiếp đó là tám thiếu nữ trong trang phục áo dài truyền thống mầu đỏ thắm mang hương hoa, lễ vật cung tiến và 100 thanh niên - tượng trưng cho 100 người con trai của truyền thuyết Mẹ Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, trong trang phục cổ, tay giương cao cờ Hội thể hiện sức sống mãnh liệt của con cháu Vua Hùng. Sau các chàng trai, cô gái là đội nhạc lễ, đội rước kiệu lễ vật của thị trấn Hùng Sơn (Lâm Thao, Phú Thọ) và Ðoàn đại biểu lãnh đạo Ðảng, Nhà nước, các cơ quan Trung ương, địa phương và nhân dân về dự Giỗ Tổ.
Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng bắt đầu lúc 7 giờ 30 phút trước Ðiện kính Thiên tại Ðền Thượng, trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Sau khi cùng Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng vào Thượng cung Ðền Thượng kính cẩn dâng hương, hoa, lễ vật lên bàn thờ Tổ, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ Nguyễn Doãn Khánh, Chủ Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2008, đọc Bài ca Ngày Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương (do Giáo sư Vũ Khiêu phụng thảo. Báo Nhân Dân đăng trên số báo ra ngày 15-4, tức mồng 10 tháng 3 Mậu Tý). Trong không khí thành kính, các vị đại biểu và nhân dân tới thắp hương, hành lễ tại Lăng Vua Hùng; dâng hoa tại bức phù điêu có hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Ðại đoàn Quân Tiên phong ở ngã năm Ðền Giếng. Lẵng hoa mang dòng chữ "Mãi mãi ghi sâu và làm theo lời Bác dạy".
Trong âm vang tiếng nhạc của bài hát Ca ngợi Hồ Chủ tịch, 100 thanh niên con cháu Lạc Hồng đứng thành vòng tròn, Chủ lễ và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng kính cẩn đặt lẵng hoa dưới chân bức phù điêu, thay mặt nhân dân cả nước bày tỏ lòng thành kính, biết ơn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, khắc ghi lời Người căn dặn tại đây vào ngày 19-9-1954: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".
Sau khi tiến hành các nghi thức của Ngày Quốc lễ hàng triệu con dân nước Việt đã có mặt tại các khu vực thờ cúng và lăng mộ để thắp hương tưởng nhớ công ơn tổ tiên. Các hoạt động văn hóa, thể thao của ngày Lễ hội được Ban Tổ chức chuẩn bị chu đáo đã diễn ra phong phú, sinh động, nhiều mầu sắc, thu hút sự tham gia của hàng vạn người. Trong âm vang sôi động của tiếng trống đồng, trong cuộc gặp gỡ hân hoan của ngày Lễ hội, hình ảnh của các Vua Hùng, lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu vẫn vang vọng trong tâm hồn và trái tim mỗi người, và càng thôi thúc mọi người quyết tâm giữ gìn cơ nghiệp tổ tiên, xây dựng đất nước của các Vua Hùng ngày càng giàu đẹp.
* Sáng 15-4, tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam TP Hồ Chí Minh, Thành ủy, HÐND, UBND, UBMTTQ Việt Nam TP Hồ Chí Minh tổ chức trọng thể lễ Giỗ Tổ Hùng Vương. Ðến dự, có các vị: Trương Mỹ Hoa, nguyên Phó Chủ tịch nước; Phan Trung Kiên, Ủy viên T.Ư Ðảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Lê Hoàng Quân, Ủy viên T.Ư Ðảng, Chủ tịch UBND thành phố; đại diện các sở, ban, ngành, các đồng chí lão thành cách mạng, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cùng đông đảo đại biểu các tầng lớp nhân dân, sinh viên, học sinh thành phố.
Tại buổi lễ, mọi người cùng nhau ôn lại lịch sử dựng nước vẻ vang của dân tộc, thành kính dâng hoa, dâng hương và tế lễ Quốc Tổ, ghi tạc công đức to lớn của các Vua Hùng đã có công khai phá, dựng lên non sông Việt Nam gấm vóc.
Cũng trong ngày 15-4, tại Công viên văn hóa Tao Ðàn, khu du lịch văn hóa Suối Tiên, Công viên văn hóa Ðầm Sen, lễ Giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra long trọng với nhiều hoạt động lễ hội đặc sắc.
Tại Khu Du lịch - văn hóa Suối Tiên (TP Hồ Chí Minh) nhân dịp Giỗ Tổ Hùng Vương năm nay, dâng 4.000 chiếc bánh chưng lên Quốc Tổ Hùng Vương. Bên cạnh đó, trong ngày Giỗ Tổ, tại Suối Tiên, có các hoạt động: Lễ rước kiệu "Quốc Tổ Hùng Vương vi hành miền đất tứ linh" với đội hình rước kiệu 2.000 người; tái hiện các truyền thuyết thời đại Hùng Vương, với sự tham gia của 2.000 nghệ sĩ, nghệ nhân, diễn viên và nhiều tiết mục văn hóa nghệ thuật của đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong ngày Giỗ Tổ 15-4, giá vé giảm 50%.
Trước đó, ngày 14-4, Ðoàn đại biểu TP Hồ Chí Minh do đồng chí Nguyễn Thị Thu Hà, Phó Chủ tịch UBND thành phố dẫn đầu, đã thành kính dâng cúng lễ Giỗ Tổ Hùng Vương cặp bánh chưng, bánh dày cùng nhiều sản vật miền nam, thể hiện tấm lòng ghi nhớ công ơn tổ tiên của nhân dân TP Hồ Chí Minh. Chiếc bánh chưng nặng 1,8 tấn, bánh dày nặng một tấn cùng một số sản vật miền nam được xe chuyên dùng chở từ TP Hồ Chí Minh đã đến sân trung tâm Lễ hội Ðền Hùng chiều 14-4.
* Tối 14-4, (tại trung tâm TP Mỹ Tho, Tỉnh ủy, HÐND, UBND, MTTQ tỉnh Tiền Giang tổ chức trọng thể lễ Giỗ Tổ Vua Hùng.
Ông Nguyễn Hữu Chí, Chủ tịch UBND tỉnh đọc lời chúc văn tưởng nhớ công lao dựng nước của các Vua Hùng và quyết tâm của đảng bộ, chính quyền, nhân dân Tiền Giang nỗ lực phấn đấu xây dựng quê hương Tiền Giang ngày càng giàu đẹp. Theo đó là lễ dâng hương tưởng nhớ các Vua Hùng của lãnh đạo, nhân dân trong tỉnh; chương trình sân khấu hóa được dàn dựng theo truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, quá trình dựng nước của các Vua Hùng và những trang sử hào hùng của dân tộc với chủ đề "Ðất nước rồng tiên" gồm ba chương: Nhật nguyệt giao hòa, bản hùng ca dựng nước và hướng đến tương lai với gần 100 diễn viên của Ðoàn nghệ thuật sân khấu tổng hợp Tiền Giang và học sinh các trường trên địa bàn TP Mỹ Tho tham gia biểu diễn, được truyền hình trực tiếp trên sóng Ðài PTTH Tiền Giang.

PV

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguồn: http://www.calitoday.com/news

Lễ quốc tổ Hùng Vương tại Sacramento

Trần Văn ghi thuật, Apr 25, 2007

Cali Today News -

Hàng năm, vào ngày ngày Mồng Mười Tháng Ba âm lịch:Dù ai đi ngược về

xuôi.Nhớ ngày Quốc Tổ mồng mười tháng baTại Thủ Phủ Sacramento, như

là một truyền thống, Hội Người Việt Cao Niên đứng ra mời các tôn giáo, hội đoàn

bạn cùng trách nhiệm tổ chức Ngày Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương thật long

trọng.Năm nay, Đinh Hợi 2007, ngày Mồng Mười Tháng Ba nhằm ngày thứ năm

26.4.07 nên Ban Tổ Chức chọn ngày chủ nhật 22.4.07 cử hành Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng

Vương. Cử hành Lễ Giỗ Quốc Tổ lúc 11 giờ 30 ngày

chủ nhật 22 tháng 4 năm 2007 tại phòng hội ở số 6207 đường Logan, nơi thường tổ

chức.Sau nghi thức khai mạc, chào cờ, phút mặc niệm, giới thiệu thành

phần tham dự, diễn văn của ông Trần Gia Tường, Hội Trưởng Hội Hội Cao Niên,

Trưởng Ban Tổ Chức. Đến phần chính của buổi Lễ, ông Trần Văn Ngà được Ban Tổ

Chức ủy nhiệm trình bày về ý nghĩa và lược sử các Vua Hùng dựng nước cho đến

ngày nay. Với nghi thức lễ dù đơn giản nhưng đầy đủ các lễ thượng hương,

tiến tửu, thỉnh chúc văn, lễ tiến trà. Cụ Bùi Tín, tuổi thọ cao, 90, cụ

vẫn còn giọng đọc văn tế trầm buồn sâu lắng. Ông Trần Gia Tường, Trưởng

Ban Tổ Chức Chánh Tế với hai Phó Tế ông Nguyễn Tài Thảo và ông Nguyễn Văn Lợi,

ông Trần Văn Ngà làm thông xướng, ông Sa Giang Phan Văn Phận và ông Nguyễn Văn

Sờ hầu lễ. Nghi thức cúng tế xong, Thượng Tọa Thích Minh Hậu, trụ trì

chủa Huyền Giác ở Sacramento phát biểu về ý nghĩa truyền thống người Việt phải

nhớ đến công đức của Quốc Tổ Hùng Vương và Thượng Tọa Minh Hậu lập lại lời của

Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ thường nói : Trước khi tôi làm Linh Mục, tôi là người

Việt Nam. Như vậy, Quốc Tổ và Dân Tộc có trước và trên các tôn giáo.

Trong buổi lễ hôm nay, có đến hàng chục vị bên Đạo Cao Đài thuộc Ban Trị Sư và

đạo hữu hương đạo Sacramento với bộ sắc phục trắng truyền thống của tôn giáo này

lên đảnh lễ trước Bàn Thờ Quốc Tổ. Tiếp theo có nhiều vị chức việc và tín hữu

Phật Giáo Hòa Hảo thuộc Ban Trị Sự Sacramento với áo màu “đà’ truyền thống của

tín hữu Phật Giáo Hòa Hào.lên đảnh lễ. Về các hội đòan tham dự đông nhất và là

nòng cốt có đông đủ thành phần điều hành và các hội viên của Hội Người Việt Cao

Niên, Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị. Kế đến có Hội Cựu SVSQ Thủ Đức, Hội Cứu Trợ

Thương Phế Binh & Cô Nhi Qủa Phụ, Hội Thanh Thiếu Niên Quân Đội, Hội Nữ Quân

Nhân… và thiếu vắng vài hội đoàn kỳ cựu ở Sacramento. Về truyền thông có ông

Tràn Hùng Giám Đốc hảng thông tấn VNN, ông Châu Ngọc Thủy chủ nhiệm tuần báo Hải

Vân kiêm Giám Đốc đài truyền hình Việt Nam Sacramento, cô Diễm Hương chủ bút báo

BN, ông Hồ Bửu đại diện đài phát thanh Tiếng Nước Tôi…Chương trình văn

nghệ thật đặc sắc, cổ nhạc do ông Tám Tuồng phụ trách với các nghệ sĩ Kim Xuân,

Văn Nhược, Bảy Phát (Stockton) và các nghệ sĩ khác. Về tân nhạc do nhạc sĩ

Nguyễn Hữu Tân phụ trách với các giọng hát của Nguyễn Hữu Tân, Hương Nam, cháu

nội đích tôn của ca nhạc sĩ Phiêu Bồng, từ Việt Nam mới qua gần đây.Về

ẩm thực khá dồi dào, ngoài thức ăn do Ban Tổ Chức đặt ở nhà hàng, còn được siêu

thị Vĩnh Phát tặng nguyên con heo quay lớn, nhà hàng New Paris Bakery tặng bánh

mì, bà Đông Y Sĩ Huỳnh Văn Góp tặng thức ăn chay…Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng

Vương năm nay thật long trọng và có trên dưới 150 người tham dự. Dù vậy, cộng

đồng người Việt ở Sacramento cũng chưa chứng tỏ đủ lớn mạnh vì Lễ Quốc Tổ là

ngày lễ có thể nói là ngày trọng đại nhất của người Việt vì chim có tổ người có

tông . Quốc Tổ Hùng Vương phải đứng ngoài trên các tôn giáo, tổ chức chính tri,

hội đoàn… Trong chiều hướng đó, nhà văn Dương Phan khi phát biểu đã nhiệt tình

trình bày là cá nhân ông và nhóm của ông do một thanh niên trẻ có lòng muốn xây

dựng một Đền Thờ Quốc Tổ, tiền đã có trong qũy dù ít nhưng là bước đầu để tiến

tới xây dựng được một nơi thờ phượng nghiêm trang Quốc Tổ. Thay vì đến ngày Lễ

Quốc Tổ mỗi năm muợn, mướn chỗ này chỗ khác, không có cơ ngơi thờ phượng ổn

định. Người viết có cảm nhận tội nghiệp cho Quốc Tổ Hùng Vương mình quá,

chỉ một chỗ khiêm nhường để thờ phượng các ngài cũng chưa có. Trong khi đó ở

Sacramento nhà thờ và chùa cứ mọc lên, mọc lên hoài và cái sau đẹp, đồ sộ hơn

cái trước. Bà con đồng hương thử suy nghĩ lại coi!Nhân viết bản tin về

Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương, người viết xin được viết đôi điều tìm hiểu về cội

nguồn dân tộc Việt.Người Việt Nam chúng ta thường hãnh diện là đã có

nguồn gốc văn hiến gần 5 ngàn năm trước đây.Quốc Tổ của dân tộc Việt Nam

là các vua Hùng theo truyền tích do tiền nhân để lại qua truyền khẩu hay qua

những dã sử và chính sử ghi chép lại.Theo truyền thuyết, vua Đế Minh,

cháu ba đời vua Thần Nông bên Trung Quốc, lập Đế Nghi làm vua ở phương Bắc và

phong Lộc Tục làm vua ở phương Nam, khoảng năm Nhâm Tuất tức năm 2879 trước Tây

Lịch.Đến nay, năm 2007, nước ta có 4886 năm lập quốc.Lộc Tục đặt

Quốc Hiệu là Xích Quỷ, vương hiệu là Kinh Dương Vương, mở đầu họ Hồng Bàng và là

vị vua đầu tiên của bộ tộc (dân tộc) Việt.Bấy giờ, lãnh thổ nước Xích

Quỷ, bắc giáp hồ Động Đình (thuộc tỉnh Hồ Nam bên Tàu), phía nam giáp với nước

Hồ Tôn (tức là nước Chiêm Thành, nay là miền trung Trung Phần Việt Nam), tây

giáp đất Ba Thục (thuộc tỉnh Tứ Xuyên bên Tàu), phía đông giáp Đông Hải, tức là

biển Đông con gọi là Nam Hải của nước Việt Nam.Như vậy, lãnh thổ nước

Xích Quỷ cổ xưa bao gồm một vùng đất đai bao la của các tỉnh: Quảng Đông, Quảng

Tây,Quý Châu, Vân Nam của Trung Quốc ngày nay và chạy dài xuống toàn bộ miền bắc

và bắc Trung Phần Việt Nam.Chúng ta dùng mốc thời gian từ vua Kinh Dương

Vương (Lộc Tục) lên ngôi vua trị vì nước Xích Quỷ, bao gồm từ miền Nam Trung

Quốc đến miền bắc Trung Phần Việt Nam.Vào Năm 2879 trước Tây Lịch, tổ

tiên tộc Việt đã khởi đầu xây dựng đất nước Việt Nam, vua Kinh Dương Vương lấy

con gái của Động Đình Quân là Long Nữ sinh ra Sùng Lãm tức Lạc Long

Quân.Lạc Long Quân lấy bà Ău Cơ , con gái vua Đế Lai, lên ngôi vua xưng

là Hùng Vương, lập nên nước Văn Lang (Đế Lai là con vua Đế Nghi ở phương bắc),

sinh ra được một cái bọc một trăm trứng, nở ra được một trăm người con trai. Vì

vậy, người Việt gọi với nhau là đồng bào có nghĩa là cùng một bọc, cùng một tổ

tiên nguồn cội.Từ vua Kinh Dương Vương lập quốc, năm 2879, đến năm 257

trước tây lịch, các vua Hùng truyền được 18 đời, trị vì 2622 năm (Kinh Dương

Vương, Hùng Hiền Vương, Hùng Quốc Vương, Hùng Hoa Vương, Hùng Hy Vương, Hùng Huy

Vương, Hùng Chiêu Vương, Hùng Vĩ Vương, Hùng Định Vương, Hùng Uy Vương, Hùng

Trinh Vương, Hùng Vũ Vương, Hùng Việt Vương, Hùng Anh Vương, Hùng Triều Vương,

Hùng Tạo Vương, Hùng Nghị Vương, Hùng Tuyên Vương).Vào năm 257 trước tây

lịch, cháu Thục Vương là Thục Phán bất ngờ đánh chiếm nước Văn Lang (quốc hiệu

Xích Quỷ trước kia), lập nước Âu Lạc, xưng là An Dương Vương, kết thúc 18 đời

vua Hùng Vương.Đất nước Việt nam đã trải qua biết bao đổi thay từ ngày

dựng nước. Vận mệnh của dân tộc thăng trầm theo vận nước, biến thiên của lịch

sử. Nhưng, ông cha ta đã hiên ngang, anh dũng dựng nước, giữ nước và mở mang bờ

cõi. Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại

núi e sông, lời của cụ Nguyễn Bá Học, chúng ta còn ghi khắc trong

lòng.Là người Việt Nam cùng một bọc, chúng ta hãy hướng nhìn về đất nước

quê hương với quyết tâm xây dựng lại những đổ nát, nghèo đói, lạc hậu thành một

quốc gia văn minh, tiến bộ và giàu mạnh. Đó là cách suy nghĩ và hành xử của những người Việt Nam yêu nước để

xứng danh là con Hồng cháu Lạc và cũng là cách đền đáp công ơn dựng nước của

Quốc Tổ Hùng Vương vậy.

Trần Văn, Sacramento 25.4.07

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tháng ba về giỗ tổ

Tháng ba giỗ tổ về cùng
Quê Cha - Đất Mẹ - Đền Hùng nỡ quên?

Bậc cao nâng bước ta lên
Hùng Vương là gốc Tổ tiên Nước nhà

Bồi hồi... trẩy hội tháng ba
Nhớ anh lính đảo Trường Sa muộn về

Buâng khuâng... hội mở bốn bề
Thương em áo lấm vá đê giữa làng

Tâm thành dâng một tuần nhang
Lá trầu tươi quả cau vàng thủy chung

Dang tay đi giữa hội Hùng
Con Rồng- cháu Lạc tương phùng hân hoan

Trai hiền âu yếm gái ngoan
Rồng Tiên vẹn mối phượng loan đời đời

Đỉnh cao Nhgĩa Lĩnh rạng ngời
Lời thiêng Bác dặn sáng trời đất ta

Bốn ngàn năm vượt phong ba
Việt Nam đất nước ông bà mãi xanh

Diềm bâu áo vải thơm lành
Câu ca hồn mẹ tạc thành kính thương

Tự hào: Quốc Tổ Hùng Vương
Nhiễu điều càng thắm, giá gương càng bền!

Diệu Phán

Share this post


Link to post
Share on other sites

NGÀY XUÂN ĐI VỀ GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG

Thuở Vua Hùng, con cháu tự mười phương
Về giỗ tổ, về cội nguồn đất nước
Đoàn con cháu, kẻ sau người trước
Kính cẩn lên đền tâm niệm dâng hương.

Từ tổ ấm ban sơ chúng con đã đi xa
Tay xước gai băng ngàn đẵn gỗ
Chân lèn đất mở dần ra xứ sở
Bè về xuôi mở vạn bến phù sa.

Chân chúng con bước dài lịch sử
Lội suối, vượt đèo, nắng đổ, mưa tuôn
Đất hoang vắng thành ruộng vườn nhà ở
Anh cày sâu, em trấn thủ lưu đồn.

Từng chặng đường phải dừng chân lấy sức
Sông núi kiên gan đứng trụ trời sâu
Cây cỏ xém và mặt người gân guốc
Thách thức hoài với số mệnh gian lao.

Chúng con đi, lòng nặng lòng thương nhớ
Quê sở sinh rắn rỏi đồng thau
Tiếng trống giục nghìn năm nhắc nhở
Ôi xum xuê màu mỡ đất Phong Châu.

Chúng con đi xây đời nhân nghĩa
Sóng Biển Đông dào dạt nhịp tim yêu
Tình chồng vợ, tình bạn bè chung thủy
Tình quê hương tha thiết trăm chiều.

Chúng con từng đau nỗi giang sơn chia cắt
Hờn sông Gianh nhức nhối trăm năm
Còn nước đó mà lòng đau quặn thắt
Trời âm u, đất cũng chẳng yên dằm.

Thuở Vua Hùng, ngã ba đường Trái Đất
Chúng con phải đánh ta bao kẻ xâm lăng
Non nước cũ lại vui vầy thống nhất
Xây lại quê hương to đẹp, đàng hoàng.

Huy Cận

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dù ai đi ngược về xuôi

Posted Image Posted Image

Vào thời nhà Lê, ý thức dân tộc Việt phát triển mạnh, đền Hùng được vua Lê Thánh Tôn cho viết lại thần tích, đặt làm quốc lễ và cử đại thần về tế lễ hằng năm, người trưởng xã Hy Cương được vua phong quan chức. Từ ấy, hội đền Hùng (hội He) đánh dấu một bước thắng thế của ý thức dân tộc đối với những ngày hội tôn giáo.

[Sửa]

Nguồn cội dân tộc

Theo truyền thuyết, hơn 4.000 năm trước, vua Hùng Vương đời thứ nhất trong quá trình dựng nước Văn Lang đã đi khắp chốn tìm nơi đóng đô. Đến một vùng đất rộng rãi, bằng phẳng, nhiều khe suối Vua sai lũ chim đại bàng khuân đất đá đắp thành 100 quả gò, hẹn phải xong trước khi trời sáng. Đắp được 99 quả, chợt có chú gà trống ngủ mơ cất tiếng gáy, đại bàng giật mình bay mất. Vua không ưng bụng, bèn tìm vùng đất khác. Đến một quả núi cao sừng sững có hàng trăm ngọn đồi bao quanh, non sông tươi đẹp Vua rất vừa ý nhưng khi xuống núi, vó ngựa giẫm mạnh làm sạt một góc đồi. Vua cho rằng thế đất nơi đây không vững, lại tiếp tục đi.

Tương truyền rằng ngài đã xem xét 99 nơi nhưng chưa vừa ý. Một hôm, khi đến một vùng trung du, ngựa bỗng giậm chân hí vang, vua thấy lạ bèn lên đỉnh núi cao nhất ngắm nhìn bốn phương. Trước mặt là ba sông tụ hội: Sông Đà, Sông Thao, Sông Lô; hai bên là Tân Viên, Tam Đảo chầu về. Cuộc đất này có nơi như long chầu hổ phục, nơi lại như phượng bay ngựa chạy; bãi rộng phù sa; cây lá xanh tươi; đủ hiểm để giữ, đủ thế để mở có thể tụ hội muôn dân, dựng nước muôn đời. Từ đó, núi Nghĩa Lĩnh (hay núi Cả, núi Hy Cương, núi Cổ tích, núi Hùng) cao 175m được chọn làm kinh đô nước Văn Lang, nơi 18 đời Vua Hùng thay nhau trị vì dân Lạc Việt.

Khu vực đền Hùng đến nay vẫn còn là cái nôi của vùng cổ tích, truyền thuyết. Những ngọn đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình mang truyền thuyết về trăm con voi, 99 con hướng về đền, một con ngoảnh mặt đi đã• bị chém đầu trừng phạt, những lúc trở trời cổ còn ứa máu. Từ đỉnh núi Hùng, dáng như rồng vươn tới, nhìn về ngã• ba Việt Trì là hàng chục quả đồi như đàn rùa nổi lên mặt nước chầu về đền. Bên phải núi, đồi Khang Phụ như dáng hổ phục, bên trái là đồi An Thái như vị tướng cầm nỏ giữ đền. Nơi Vua ghì cương ngựa sau thành làng Ghì Cương (nay là xã Hy Cương), dưới chân núi là làng Thậm Thình, nơi xưa dân làng đã thức suốt đêm thậm thình để giã gạo làm bánh cho chàng Lang Liêu dâng vua.

[Sửa]

Lễ hội đền Hùng - "Quốc Lễ"

Từ năm 2005, lễ hội truyền thống đền Hùng của nước ta đã được nhà nước nâng lên thành “Quốc lễ”. Về dự lễ hội du khách sẽ phải đi qua 225 bậc thang bằng đá, dưới tán những cây chò xanh mát rượi, du khách sẽ hành hương đến đền Hạ, nơi tương truyền bà Âu Cơ đã sinh ra chiếc bọc trăm trứng. Bảy ngày sau trứng nở thành trăm người con - tất cả đều là “con Lạc cháu Hồng” - căn nguyên của 2 chữ đồng bào trong ý thức buổi sơ sinh của dân tộc Việt Nam. Từ nơi này, 50 đứa con theo cha Lạc Long Quân xuống biển, 49 con theo mẹ Âu Cơ lên núi, để lại người con trưởng lập ra nước Việt Văn Lang... Bên phải đền là chùa Thiên Quang (còn gọi là Cảnh Sơn Thừa Long Tự). Trước chùa là những cây Thiên Tuế, nơi Bác Hồ đứng nói chuyện cùng Đại đoàn quân tiên phong trước lúc tiến vào tiếp quân thủ đô Hà Nội. Bác cũng đã từng dạy rằng: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Du khách lại leo lên 168 bậc thang nữa để đến đền Trung, nơi sẽ thấy lồng lộng đất trời bên ngoài sườn núi. Đây là chốn các Vua Hùng nghỉ ngơi, bàn việc nước cùng Lạc hầu, Lạc tướng; bàn bạc việc nhà với các quan Lang, Mị Nương. Đây cũng là nơi chàng Lang Liêu dâng lên vua cha tấm bánh chưng, bánh dầy tượng trưng cho đất trời, tạo vật...

Để lên đỉnh Nghĩa Lĩnh, nơi có đền Thượng - ngôi điện thờ nằm giữa 9 tầng mây du khách còn phải leo tiếp thêm 102 bậc thang nữa. Đây là nơi các Vua Hùng thờ thần trời, đất, thần lửa, thần lúa; Lập đàn tế cáo cầu mưa, cầu nắng và tương truyền đây chính là nơi vua Hùng Vương thứ 6 đã cho xây đền thờ Thánh Gióng - người thiếu nhi anh hùng đã cỡi ngựa sắt đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi. Chênh chếch cạnh đền là lăng của vua Hùng Vương thứ 6 còn gọi là mộ Tổ. Phía trước cửa phía phải đền là cột đá thề - một chứng tích lịch sử ghi dấu lời thề của Vua Thục Phán khi nhận lại non sông nước Việt từ Hùng Vương thứ 18 “Nguyện có trời cao lồng lộng chứng giám xét soi, xin đời đời giữ gìn non sông bền vững và trông Vũ miếu Họ Hùng”. Trong đền còn có giếng ngọc, nước giếng trong suốt như pha lê. Ngày xưa, hai nàng công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa vẫn thường đến đây tắm gội, chải tóc. Người đời sau nói rằng chỉ cần bỏ xuống giếng một đồng xu, uống một ngụm nước mát lạnh bằng chiếc gàu mo cau từ giếng ngọc sẽ “cầu được ước thấy”. Những ngày trời trong, nắng đẹp mọi người có thể nhìn được những đồng xu dưới đáy giếng - lễ vật của hàng ngàn người đời sau đến đây cầu tự...

Kiến trúc của đền Hùng đã bị thời gian hủy hoại, dấu tích còn lại chỉ là các di vật kho cổ đào tìm được trong những năm gần đây. Kiến trúc hiện tại của đền Hùng chính là được xây mới lại từ thời hậu Lê và thời nhà Nguyễn. Sau nhiều lần trùng tu, kiến trúc đền Hùng nay chỉ còn lại đền Trung, đền Hạ và gác chuông. Cổng đền và 539 bậc xi măng, gồm 495 bậc từ cổng đến Thượng và 44 bậc từ đền Giếng lên đền Hạ, được làm trong dịp đại trùng tu năm 1918-1922. Ngôi nhà Công quán đối diện cổng đền cũng chỉ mới xây sau này vào năm 1962. Nhà bảo tàng phía sau Công quán hoàn thành vào cuối năm 1990 với kinh phí xây dựng khoảng 1,5 tỉ đồng được dùng làm nơi bảo quản các di chỉ khảo cổ và hiện vật thời vua Hùng. Đây là một cố gắng lớn của Nhà nước ta để giới thiệu về thời đại Hùng Vương.

Vào thời nhà Lê, ý thức dân tộc Việt phát triển mạnh, đền Hùng được vua Lê Thánh Tôn cho viết lại thần tích, đặt làm quốc lễ và cử đại thần về tế lễ hằng năm, người trưởng xã Hy Cương được vua phong quan chức. Từ ấy, hội đền Hùng (hội He) đánh dấu một bước thắng thế của ý thức dân tộc đối với những ngày hội tôn giáo. Cũng từ thời ấy, người Việt có định lệ 5 năm mở hội lớn một lần, còn hàng năm thì giao cho dân Trưởng tạo lệ làm lễ cúng Tổ. Theo con số thống kê bách thần của Bộ Lễ thời Lê thì các tỉnh miền Bắc nước ta có đến 1.027 nơi thờ Hùng Vương. Hiện nay con số này đã quá lạc hậu so với các nơi có thờ Vua Hùng từ Bắc chí Nam. Chỉ riêng ở Vĩnh Phú - cái nôi của giỗ Tổ đã có đến 562 điểm có di tích thờ Hùng Vương.

Trong ngày hội đền Hùng năm 2007, du khách về dự lễ đền Hùng sẽ phải choáng ngợp trước cảnh mọi con đường dẫn lên đền Hùng đều đông nghẹt những dòng người. Trẻ già, trai gái náo nức hân hoan, dù chỉ có thể nhích theo nhau từng bước chân. Từ cách chân núi hơn 3km, các con đường phải ngăn hẳn xe cộ để đảm bảo an toàn trật tự cho khu vực quanh đền... Chính lễ diễn ra đúng vào buổi sáng mùng 10 tháng 3 âm lịch trong tiếng trống đồng và tiếng cồng chiêng. Nét đặc sắc ngày nay vẫn giữ được là việc rước kiệu (rước cổ chay) gồm xôi trắng, xôi màu, bánh dầy, bánh chưng để nhắc lại sự tích Lang Liêu và tưởng nhớ công đức dạy dân trồng lúa nước của vua Hùng. Sau kiệu là cuồn cuộn biển người hành hương lên đền Thượng - nơi sẽ diễn ra các nghi thức tế lễ. Dứt lễ, mọi người trở lại công quán, nơi biểu diễn múa sư tử cổ truyền và các cô gái Mường trong bộ y phục duyên dáng biểu diễn đâm đuống - nhạc cụ dân tộc cổ...

Lễ hội đền Hùng là “Quốc Lễ” của dân tộc Việt Nam, câu ca thuở nào vẫn vang lên trong lòng mỗi người “con Lạc cháu Hồng”:

Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba... (nguồn Báo Cần Thơ)

Lấy từ « http://www.bandovanhoa.net

Share this post


Link to post
Share on other sites

Khu Di tích lịch sử Đền Hùng
1. Hình thế thiên nhiên

Núi Hùng (còn gọi là Nghĩa Linh, Nghĩa Cương, Bảo Thiếu Lĩnh, cao 175m so với mặt biển) thuộc thôn Cổ Tích xã Hy Cương huyện Phong Châu tỉnh Phú Thọ.

Người xưa nói:

Núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình uốn khúc thành dãy núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo ở phía sau.

Từ núi Hùng nhìn ra:

- Phía trước, ngã ba Việt Trì có hàng chục quả đồi thấp là đàn rùa bò từ ao nước lớn lên.

- Phía sau, mảnh đất làng Hy Sơn (Tiên Kiên) là hình một con phượng cắp thư.

- Phía bên phải, quả đồi Khang Phụ (Chu Hóa) là hình một con hổ phục.

- Phía bên trái, quả đồi An Thái (Phượng Lâu) hình vị tướng quân bắn nỏ.

- Làng Cổ Tích bên chân núi nằm trên lưng một con ngựa ghi cương.

- Dãy đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình là 99 con voi chầu về đất Tổ.

Xa xa phía tây dòng sông Thao nước đỏ, phía đông dòng sông Lô nước xanh như hai dải lụa màu viền làm ranh giới của cố đô xưa. Đặc biệt không khí trên núi rất thông thoáng, mát dịu và quanh năm thoang thoảng hương thơm.

Tương quyền Vua Hùng đi khắp trong nước, cuối cùng mới chọn được vùng sơn thủy hữu tình này làm đất đóng đô.

2. Thờ Tự

Khu di tích Đền Hùng có 4 đền, 1 chùa và lăng vua Hùng, phân bố như sau:

Posted ImageĐền thượng và lăng trên đỉnh núi:

Nơi đây các vua Hùng lập miếu thờ Trời "Kính thiên lĩnh điện", thờ 3 ngọn núi thiêng là Đột Ngột Cao Sơn (núi Hùng), Aáp Sơn (núi Trọc), Viễn Sơn (núi Vặn), thờ Thần lúa (có mảnh vỏ trấu bằng chiếc thuyền thúng mới mất trong kháng chiến chống Pháp), thờ Thánh Gióng là tướng Nhà Trời giúp đuổi giặc Ân.

Giữa thế kỷ 3 trước công nguyên, Thục Phán được Vua Hùng 18 nhường ngôi, mới lập hai cột đá thề trên đỉnh núi và làm đền thờ 18 vua Hùng. Lại mời dòng tộc nhà vua đến ở chân núi giao cho việc thờ cúng.

Sau đời An Dương Vương, nhân dân địa phương vẫn tiếp tục thực hiện các tín ngưỡng trên qua suốt thời Bắc thuộc; đến thời phong kiến tự chủ các Vua Hùng được tôn lên là Tổ tiên của dân tộc và việc thờ tự dần dần mang tính chất của cả nước.

Hiện nay còn thờ danh hiệu 18 đời Vua Hùng và 3 vị thần núi: "Hùng đồ thập bát thế Thánh Vương thánh vị", "Đột ngột Cao Sơn", "Aáp Sơn", "Viễn Sơn".

Lăng chính là mộ vua Hùng thứ 6. Tương truyền sau khi đuổi giặc Ân, ngài cởi áo vắt trên cành kim giao rồi hóa, táng tại đó.

Đền Trung:

Nơi này trên 2.300 năm trước dựng quán nghỉ ngơi ngắm cảnh của vua Hùng, đôi khi họp bàn việc nước cơ mật với Lạc hầu, Lạc tướng. Tương truyền còn là nơi hoàng tử Lang Liêu dâng bánh dày, bánh chưng.

Sau thời Hùng Vương nhân dân lập miếu thờ các vua Hùng "Hùng Vương tổ miếu".

Đền Hạ và chùa:

Theo truyền thuyết, bãi bằng lưng chừng núi này là nơi tổ mẫu Âu Cơ chuyển dạ sinh ra bọc trăm trứng nở thành trăm con trai. Do sự tích này mà nhân dân lập ra đền Hạ để thờ các vua Hùng. Bên phải là chùa Sơn cảnh thừa long tự (còn gọi Thiên quan thiền tự). Phía trước chùa là gác chuông. Phía trước đền là nhà bia công đức.

Đền giếng:

Ơở đây có giếng Ngọc của hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con vua Hùng 18. Tương truyền giếng này hai nàng dùng rửa mặt chải tóc chít khăn. Đền thờ hai công chúa làm chùm lên giếng.

Ngọc phả đền Hùng viết sớm nhất là triều Tiền Lê (vào năm Thiên Phúc nguyên niên, tức 890 tây lịch). Viết lại và sao trì triều nào cũng làm, nhưng phong sắc thì không triều nào dám phong, vì là Tổ tiên.

Bản ngọc phả soạn thời Trần (thế kỷ 13), năm Hồng Đức thứ nhất hậu Lê (1470) san nhuận lại viết "... Từ nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa (đền Hùng - VKB). Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi. Ơở đây nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái để tưởng nhớ công ơn gầy dựng nước nhà của các đấng thánh tổ ngày xưa..."

3. Kiến Thiết

Về kiến trúc đền chùa, qua khảo sát thực địa thì thấy: Đền miếu các thời đại xa xăm đã bị hư hoại hết. Chỉ còn những di vật nói lên tình hình kiến thiết cũ mà thôi. Tìm thấy 13 hiện vật thời Hùng Vương (rìu, giáo đồng), mẫu tháp đất nung, mảnh bát đĩa gốm sứ có niên đại Lý Trần trở về trước, 3 cột đá cổ, lỗ xà bị bào mòn lớn chứng tỏ rất lâu đời (một chiếc dựng trên bệ trước cửa đền Thượng).

Kiến trúc hiện còn lại là của thời Hậu Lê và Nguyễn. Bản ngọc phả sao năm Hoằng Định thứ nhất (1600) nói trên núi Hùng có đền Thượng, mộ vua Hùng thứ 6, hai cột đá thề của Phục Phán, đền Trung, đền Hạ và chùa.

Đền Giếng chưa thấy nói đến. Có lẽ sau đó đền Giống mới làm. Qua nhiều lần trùng tu kiến trúc Hậu Lê chỉ còn đền Trung, đền Hạ và gác Chuông. Trong dịp đại trùng tu 6 năm liền 1917 - 1922, nhân dân 18 tỉnh Bắc Bộ cung tiến được 6000 đồng (tiền Đông Dương) xây lại đền Thượng, Lăng và đền Giếng. Nhà tư sản Nghĩa Lợi cung tiến 1000 đồng xây 539 bậc xi măng (cổng lên đền Thượng 496 bậc, đền Hạ xuống đền Giếng 44 bậc).

Nhà tư sản Đồng Thuận cung tiến tiền xây cổng chính (biển đề: Cao Sơn cảnh hành = núi cao đường rộng).

Năm 1962 tổ chức xổ số được 24.000 đồng xây khu nhà Công Quán trưng bày hiện vật và tiếp khách. Năm 1973 UBND tỉnh Vĩnh Phú quyết định khoanh 1.562 ha làm khu bảo vệ Đền Hùng, trong đó khu trung tâm bất khả xâm phạm gồm: Núi Nghĩa Lĩnh, núi Trọc lớn, núi Trọc con, núi Vặn, núi Yên Ngựa, núi Nỏn, đồi Cò Kè, đồi Cao Phầy, đồi Phân Đậu và đồi Công Quán. Năm 1976 đắp đập hồ Đa Vao. Năm 1980 xây nhà khách và mở tuyến đường nhựa. Năm 1983 khởi khảo kế hoạch xây dựng nhà Bảo tàng trên đồi Công Quán. Năm 1995 hoàn thành. Nguồn kinh phí dựa vào Nhà nước cấp và nhân dân cung tiến, tổng cộng trên 3000 triệu đồng. Bên khu đền làm thâm sân Lăng và tuyến đường phụ từ Lăng xuống đền Giếng.

Như vậy là bên cạnh khu di tích lịch sử trên núi Nghĩa Lĩnh, còn có khu phục vụ ở đồi Công Quán. Khu phục vụ gồm có nhà bảo tàng, nhà khách và sân giữ xe, được trang điểm bởi các hoa cây cảnh.

Vài nét về bảo tàng

Nhà bảo tàng tuy trưng bày làm nhiều phòng, nhưng chung quy có thể hiểu tổng quát là, tại đây trưng bày 5 loại hiện vật.

1. Hiện vật tìm thấy tại Đền Hùng, gồm 13 hiện vật có từ thời Hùng Vương và nhiều hiện vật có sau thời Hùng Vương. Những hiện vật đó cho biết từ thời Vua Hùng con người đã lên núi này khá đông đúc và bỏ sót lại đồ dùng. Những mẫu đá, gốm xây dựng và đồ thờ có niên đại từ sau công nguyên đến các thời Lý, Trần, Hậu Lê cho thấy khu vực này được thờ tự liên tục ngày từ khi triều đại Hùng Vương kết thúc đến bây giờ.

2. Hiện vật lấy ở các di chỉ khảo cổ thuộc thời Vua Hùng hoặc có liên quan tới thời Vua Hùng, ở nhiều nơi tập hợp về. Những hiện vật này giống như hiện vật ở mọi bảo tàng.

3. Những cuối sách sử, những mẫu trích từ các sách cổ của người Trung Quốc và nước ta nói về thời Hùng Vương. Những hiện vật này cũng giống như ở mọi bảo tàng, nghĩa là muốn nói rằng thời Hùng Vương là có thật.

4. Hiện vật phản ánh các hình thức tín ngưỡng Vua Hùng của nhân dân, ở trong cũng như ở ngoài khu vực đền Hùng. Đó là các bản ngọc phả, đồ thờ tự, tranh vẽ và ảnh chụp các đình đền , các lễ hội.

5. Hiện vật lưu niệm đồng bào về thăm mộ Tổ. Đó là những quà tặng, những ảnh chụp các nhà lãnh đạo, các đoàn đại biểu và nhân dân tới thăm Đền Hùng.

4. Lễ hội cổ truyền

Thời phong kiến định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (còn gọi là hội chính) vào những năm chẵn (ví dụ 1900 - 1905), còn hàng năm thì giao cho dân Trưởng tạo lệ (con trưởng) sửa lễ cúng Tổ vào ngày 12-3 âm lịch (ngày giỗ Kinh Dương Vương). Đầu thế kỷ 20 này nhà Nguyễn ấn định lấy ngày 10-3 làm chuẩn (xem phụ lục)

Dân trưởng tạo lệ là dân Hy Cương, họ được miễn sưu thuế phu phen để trông nom đền miếu và làm giỗ Tổ.

Nhà vua phong cho vị trưởng lão của dân Trưởng tạo lệ chức quan gọi là "lệnh đồng trà". Ông này cứ đến ngày giỗ Tổ, tới kinh đô nhận 3 gạo nếp thơm của vua đưa cho, về thổi xôi cúng trên Đền.

Năm hội chính người ta treo lá cờ thần trên đỉnh núi Nỏn báo cho đồng bào từ rất sớm. Ngoài việc quan triều đình và quan hàng tỉnh đứng tế, các làng xã có đình thờ Vua Hùng, vợ con vua hoặc tướng lĩnh thời Hùng Vương còn rước kiệu đến chầu. Trên địa bàn Vĩnh Phú có hơn 600 nơi thờ nhưng chỉ hơn 40 làng quanh đền là có điều kiện rước chầu.

- Rước kiệu là một hoạt động tín ngưỡng hết sức nghiêm trang và vui vẻ. Hầu kiệu có những người che lọng, vác cờ, bát bửu, tấu nhạc bát âm, đánh chiêng trống, phường chèo đóng đường (vừa đi vừa diễn). Làng ở xa phải rước hai ba ngày mới tới đền.

- Trò chơi: Thường có các mục đu tiên, ném còn, kéo co, chọi gà, đánh vật, bắn nỏ thi, kéo lửa nấu cơm thi, bịt mắt bắt dê...

- Văn nghệ: ban ngày có hát sẩm, hát ví, hát trống quân, cò lả, sa mạc... Sẩm là nghệ sĩ dân gian hát lấy tiền thưởng, còn các điệu hát khác do thanh niên nam nữ các làng tự biên tự diễn hát đối đáp nhau cho vui. Đêm đến có hát xoan cửa đền do phường An Thái, Kim Đơn phục vụ, hát chèo, tuồng ở ngoài các bãi rộng chân núi.

- Một số sinh hoạt ngày nay cấm đoán nhưng xưa rất thịnh hành là đồng bóng, bói toán, cờ bạc.

Năm 1946 giỗ Tổ đầu tiên dưới chính quyền cách mạng, cụ Huỳnh Thúc Kháng Phó Chủ tịch nước lên làm lễ dâng hương (mặc áo the, đội khăn xếp, khấn vái theo lễ tục cổ truyền). Dịp này cụ Huỳnh còn dâng lên bàn thờ Tổ tấm bản đồ Việt Nam và thanh kiếm, là hai vật báu nói lên ý chí bảo vệ đất nước của Chính phủ và nhân dân ta trước họa xâm lăng đang đe dọa. Trong kháng chiến chống Pháp việc đèn hương tuần tiết do nhân dân quanh đền làm với tư cách cá nhân.

Sau năm 1952, Nhà nước bắt đầu chịu trách nhiệm tổ chức giỗ Tổ hàng năm, thường là tỉnh đứng làm. Thành phần Ban tổ chức có UBND, Văn hóa, Thể thao, Y tế, Công an, Thương nghiệp v.v... Nghi thức chính là biểu lễ dâng hương hoa của đoàn đại biểu Quân Dân Chính tỉnh, huyện và xã sở tại.

Hội đền Hùng có chiều hướng ngày càng đông và kéo dài. Vào những năm 60 ước độ 10 vạn người về dự hội; những năm 70 ước độ 20 vạn; những năm 80 ước độ 30 vạn; những năm tới có thể lên đến 40-50 vạn. Những ngày đấy đứng trên đỉnh núi nhìn xuống xung quanh sẽ thấy từ mọi con đường tới đền Hùng, người ta đổ về dự hội như những dòng sông đổ về biển cả. Đứng từ xa nhìn lên núi sẽ thấy muôn vàn chấm động đủ màu sắc hòa lẫn cây xanh như một rừng hoa tươi thắm trước gió xuân.

Mọi người già, trẻ, gái, trai náo nức lúc đi, hân hoan lúc đến, lưu luyến lúc ra về, cảnh trí tình người thân thương tha thiết vô cùng. Thật là một dịp hội để đồng bào cả nước: miền ngược, miền xuôi, miền Nam, miền Bắc gặp nhau sum họp trên đất Tổ quê hương, bộc lộ những tình cảm thiêng liêng tự đáy lòng.

5. Truyền thuyết tiêu biểu

Bọc trăm trứng:

Vua đầu nước ta là Kinh Dương Vương cháu bốn đời Viêm Đế Thần Nông (vị thần coi về nông nghiệp của Trời) Kinh Dương Vương lấy Thần Long nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đi tuần thú gặp Âu Cơ ở động Lăng Xương kết làm vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở thành trăm con trai. Khi các con khôn lớn, Lạc Long Quân nói: "Ta giống Rồng, nàng giống Tiên không thể ở lâu với nhau được" bèn chia 50 con cho Âu Cơ đem lên núi, Lạc Long Quân dẫn 49 người con xuống biển, để lại người con cả nối ngôi hiệu là Hùng Vương đặt tên nước Văn Lang đóng đô ở thành Văn Lang (Việt Trì - VKB), truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương

Phù Đổng Thiên Vương: (Tháng Gióng)

Về thời Hùng Vương thứ 16, nước Văn Lang bị giặc Ân xâm lược. Vua cho sứ giả đi rao người tài ra giúp nước. Ơở làng Phù Đổng bộ Vũ Ninh có một cậu bé 3 tuổi nghe tiếng sứ giả bèn vươn người thành cao lớn, xin vua rèn ngựa sắt, nón sắt, roi để đánh giặc. Đuổi xong giặc Ân chàng cưỡi ngựa bay lên trời. Vua Hùng phong là Phù Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ trên đỉnh Nghĩa Lĩnh.

Bánh dày bánh chưng:

Vua Hùng thứ 6 muốn chọn con hiền cho nối ngôi, mới ban lệnh thi cỗ. Các hoàng tử ra sức tìm kiếm sơn hào hải vị bày biện. Riêng Lang Liêu mẹ mới mất không đi xa được, chàng nghĩ cách dùng gạo nếp thơm chế ra bánh dày, bánh chưng. Vua thấy Lang Liêu hiếu thảo siêng năng, sáng chế ra hai bánh quý bèn truyền ngôi cho làm Hùng Vương thứ 7.

Dưa hấu:

An Tiêm là con nuôi Vua Hùng, nói năng kiêu ngạo, bị đày ra đảo hoang. Vợ chồng An Tiêm chỉ được mang theo một số lương thực và con dao phát. Chàng thấy đàn quạ đến đảo ăn thứ quả da xanh lòng đỏ, dây bò trên mặt đất. An Tiêm lấy một quả ăn thử thấy ngon ngọt khỏe người, bèn trỉa đất rắc hạt trồng khắp đảo. Đến vụ thu hoạch chàng gọi thuyền buôn vào bán. Vua biết tin liền cho đón về.

Chử Đồng Tử:

Công chúa Tiên Dung con Vua Hùng 18 thích du chơi phóng khoáng. Nàng cưỡi thuyền xuôi sông Cái, đến bãi Tự Nhiên sai căng màn tắm. Không ngờ dội lớp cát trôi lộ ta chàng đánh cá trần truồng vùi mình trong hố, tên là Chử Đồng Tử. Tiên Dung cho rằng duyên trời xe, bèn lấy chàng làm chống. Vua cha biết tin giận sai quân đến bắt, thì toàn bộ khu vực của Chử Đồng Tử tách khỏi đất bay lên trời.

Sơn Tinh - Thủy Tinh:

Sơn Tinh và Thủy Tinh đều đến cầu hôn công chúa Ngọc Hoa con Vua Hùng 18. Nhà vua hẹn ai đem lễ vật đến trước sẽ được lấy công chúa, Sơn Tinh nhờ có sách ước và các thần thổ địa giúp sức nên sớm có lễ vật đem đến trình vua, vua bèn gả Ngọc Hoa cho Sơn Tinh đem về núi Tản Viên. Thủy Tinh đến sau thất bại liền hô phong hoán vũ đánh đuổi Sơn Tinh. Sơn Tinh huy động các loại dã thú đánh lui các loài thủy tộc và làm cho núi luôn luôn cao hơn nước. Thủy Tinh thua nhưng vẫn chưa nguôi tức giận, mỗi năm dâng nước đánh Sơn Tinh một lần, gây ra lũ lụt.

Cột đá thề:

Vua Hùng 18 không có con trai, nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn (tức Tản Viên). Thục Phán là cháu Vua Hùng làm lạc tướng bộ lạc Tây Vu đem quân đến tranh ngôi, xảy ra chiến tranh Hùng - Thục. Tản Viên khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Phán cảm kích dựng hai cột đá thề trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thề rằng sẽ kế tục giữ nước và thờ tự các Vua Hùng. Phán sai thợ đẽo đá dựng miếu trên núi và cho mời dòng tộc nhà vua đến ở chân núi lập ra làng Trung Nghĩa giao cho trông nom đền miếu, cấp cho đất ngụ lộc từ Việt Trì trở ngược đến hết địa giới nước nhà. Lại sai dựng miếu ở động Lăng Xương thờ bà mẹ Tản Viên, cấp đất ngụ lộc cho Tản Viên từ cửa sông Đà trở lên phía Tây Bắc. Sau đó Phán xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa đặt tên nước là Âu Lạc.

Nguồn: Binhthuan.gov.vn

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay