Lê Bá Trung

Thái Cực Môn Chủ Táo Pháp

1 bài viết trong chủ đề này

Tuy có sự phân chia làm 24 sơn nhưng cũng nằm trong phạm vi Bát quái, mỗi quẻ bao gồm 3 sơn, Ví dụ 3 chữ Càn Tuất Hợi đều thuộc quả Càn, Nhâm Tý Quý đều thuộc quẻ Khảm. Vì thế khi xem xét, bất luận là 1 hay 2, 3, 4, 5 đều 10 viện, cũng bất luận là phòng chính, phòng phụ, cũng bất luận là viện trước viện sau, trái hay phải, chỉ cần lấy phòng viện nào cao lớn nhất làm chuẩn, chiều cao thời căn cứ vào cái nóc. Tại nơi được chọn lựa ngay giữa nhà hạ La bàn xem thuộc chữ nào và cung nào của Bát quái. Môn là cổng ra đường đi, chứ không cần phân biệt lớn, nhỏ, muốn biết cát hung phải xem cổng này. Xét về bếp thời xét hướng của nhà bếp, tức là cửa ra vào bếp, chứ không phải là cửa bếp lò, cả 3 nơi này đều đặt La bàn để xác định phương hướng, rồi tổng hợp cả 3 để khảo sát theo ngũ hành sinh khắc mà định cát hung. Cách phân biệt Tĩnh trạch, Động trạch, Biến trạch, Hóa trạch: Dương trạch gồm có 4 loại là Động Tĩnh Biến Hóa:

- Nếu nhà đó chỉ có đơn thuần 1 viên, 1 phòng thời gọi là Tĩnh trạch. Việc khảo sát chỉ cần xét nơi cửa an các sao theo Du Niên.

- Nếu nhà đó gồm có 2, 3, 4 đến 5 viện thời gọi là Động trạch, đúng phép xảo phiên Bát quái.

Tại sao Động trạch lại chỉ giới hạn có 5 phòng, vì chỉ có 5 hành Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ. Từ 6 phòng đến 10 phòng, gọi là Biến trạch. Điều này có thể lý giải là: Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục Thành Chi… Từ Nhất, Lục, Nhị, Thất, Tam Bát, Tử Cửu và Ngũ Thập, số 10 là số cuối cùng và là thành số. Quá số 10 lại trở về số 1, vì thế gọi là Biến trạch. Cách khảo sát phải cùng song Kim, song Mộc, song Thổ, đó lập hướng pháp Xảo phiên Bát quái nói trên. Sau hết là nhà có từ 11 phòng trở lên đến 15 thời được gọi là Hóa trạch, Thổ thuộc số 5, muôn vật đều

do Thổ mà ra. Phép giải hung của bếp: Đây là nguồn gốc nuôi dưỡng con người, bệnh tật cũng do ăn uống mà sinh ra. Do đó bếp phải an theo hướng có sinh khí. Thiên Ất hay Diên Niên, đó là 3 kiết phương, điều tối kỵ là làm bếp ở hung phương như Ngũ quỷ và Lục sát. Nếu phạm vào cát hung phương này thời hại người hại của, hay sinh bệnh hoạn. Muốn giải trừ hung họa, thời dọn dẹp hết tro bụi trên bếp cũ, cúng nước sạch quét rửa cho sạch sẽ. Sau đó đem tro bụi ra đổ ở sông hoặc hoặc ở vùng đồng trống. Mua những vật liệu mới xây cất theo cát phương Thiên y như vậy có thể giải quyết được hung tai, điều này rất ứng nghiệm, nếu bếp thuộc phương Mộc sẽ ứng nghiệm trong vòng 30 ngày, bếp thuộc phương Thổ ứng trong vòng 50 ngày, bếp thuộc phương Kim, ứng nghiệm trong vòng 40 ngày, bếp thuộc Hỏa ứng trong vòng 20 ngày, cuối cùng bếp thuộc phương Thủy sẽ ứng trong vòng 60 ngày. Nếu chủ cũng được cát phương thời bệnh mau khỏi, thêm con thêm của, và công danh hoạn lộ thường ứng trong vòng 3 năm. Ngoài ra những đồ thiết khí hay vật cứng, trang bị cho bếp cũ, vì e hung khí chưa tan, nên để ý nơi trống trải, đúng 100 ngày có thể dùng lại mà vô hại. Riêng những vật dụng thường dùng như chén bát, đũa, muỗng… đều không kỵ. Trái lại chỉ kỵ đồ dùng bằng sắt, sau 5 ngày mang đi bỏ ở nơi xa, đúng 5 ngày là lấy theo ý nghĩa phá Ngũ quỷ. Cách phân biệt rõ các táo Khi thấy trong nhà có những hiện tượng như ốm đau, trẻ con khó nuôi, tuổi già cô độc không con cái bệnh hoạn lâu không khỏi, hôn nhân trắc trở, cần đặt lại bếp vào phượng Thiên y (Thiên Ất hay Cự môn) và chiếu theo mạng nguyên của Trạch chủ mà an giường nằm, bếp nước sẽ được đại cát. Học hành mãi mà thi cử không đậu, hoặc trong nhà gặp cảnh cùng khốn,

thời nên đặt bếp vào phương sinh khí, cổng lớn theo phương sinh khí, ngoài sinh trong tức là Môn sinh chủ sẽ có hiệu quả rất mau. Nếu cầu tài, trong vòng 100 ngày sẽ hiệu nghiệm. Con trai con gái trong nhà thường bị yểu mạng đó là hung triệu, gặp trường hợp này nên đặt bếp vào phương Diên Niên sẽ được tặng tuổi thọ. Đặt cổng lớn theo phương Diên Niên và Chủ an theo Thiên y phương rất tốt. Các phương sinh khí, Thiên y và Diên Niên kể trên cần được hợp với Mạng Nguyên của Trạch chủ. Nếu không được sự tương hợp thời an giường và táo khẩu

(miệng lò lửa) hợp với phương hướng của Trạch chủ cũng rất tốt, tuy vậy không bằng trường hợp trên. Tóm lại, muốn được toàn mỹ cần được 5 điều: Môn, Chủ, Táo, giường nằm và táo khẩu đều hợp với bản mệnh của Trạch chủ. Hiệu quả tốt của 3 cát tinh: - Gặp được cát phương Tham Lang (tức sinh khí) thời sinh được 5 con, công danh hiển đạt, mau giàu có, tăng nhân khẩu, may mắn dồn dập đến, trong 30 ngày có hiệu quả. - Gặp được cát phương Thiên Ất (tức Cự môn) thời vợ chồng hòa thuận, sinh được 3 con hiền, làm ăn giàu có, ít bệnh tật, nhân

khẩu, gia súc đều tăng tiến hưng vượng, nó hiệu quả trong vòng 50 ngày. - Gặp được cát phương Vũ khúc (tức Diên Niên) sinh được 4 con hiền, giàu vào hàng trung phú nhưng thượng thọ, vượng tài, vợ chồng hòa thuận, hôn nhân tốt đẹp, ruộng vườn mở mang, nhân khẩu và lục súc đều thịnh, thường có tin mừng. - Gặp được Phục vị (tức hai sao Phụ Bật) thời được Tiểu Phú trung thọ, nhiều gái ít trai (Sao này có tính cách phụ họa). Hiệu quả xấu của 4 hung tinh: - Tuyệt mạng (Phá Quân) thuộc Kim đóng tại cung Ly ví như con thú cùng đường quay đầu lại cắn, đóng tại cung Tốn, giống như kẻ bạo tàn đắc chí, tàn hại kẻ trung lương, đóng tại 2 cung Cấn Khôn, ví như chứa lương để nuôi giặc, dưỡng hồ di họa, đóng tại cung Khảm như dồn cọp xuống hổ, gầm thét vang trời, đóng tại hai cung Càn Đoài giống như lang sói, sẽ có lúc cắn lại. - Ngũ quỷ (Liêm Trinh) đóng tại hai cung Chấn Tốn là mộc sinh hỏa, cháy chóc khắp nơi, đóng tại hai cung Càn Đoài như lửa mặt trời, tan vàng nát đá, đóng tại hai cung Cấn Khôn, như lửa rực của Hỏa Diệm sơn ngọc đá đều tan, đóng tại cung Khảm giống những vị thuộc bào chế (Dã cát và ô dâu), đóng tại cung lạ như tưới dầu vào lửa, mọi vật tiêu tan. - Họa hại (Lộc Tồn) đóng tại 2 cung Chấn Tốn như bọn nô tỳ gian ác, dù sau này bị chế phục, sau này sẽ phản chủ, đóng tại 2 cung Cấn Đoài như quân cướp bóc tạm thời đều hàng, nhưng sau sẽ phản phúc. Đóng tại cung Ly như nhận giặc làm con nuôi, sau sẽ bị chúng cướp đoạt gia tài, đóng tại cung Khảm như kẻ gian rình mò trong đêm tối tự tung tự tác, đóng tại hai cung Cấn Khôn như kết liên gian đang, sẽ bị họa diệt tộc. - Lục sát (Văn khúc) đóng tại hai cung Càn Đoài giống như kẻ phỉnh nịnh, gian ác, đào tường khoét vách. Đóng tại cung Cấn giống như đôi vợ chồng xấu xa bệnh hoạn. Đóng tại 2 cung Chấn Tốn giống như cô trinh nữ mà thất tiết, tấm thân ô uế, đóng tại cung Khảm giống như phường trên bậc trong đầu. Đóng tại cung Ly giống như ở cùng với mụ vợ ghen tuông, suốt ngày la hét. Luận về sự khác biệt giữa sơn cốc và thành thị: Xét về dương trạch phải phân biệt rõ là nơi đó thuộc thôn quê có núi non sông nước hay thành thị đất chật người đông. Nếu ở nơi sơn cốc, thời lấy núi non làm chủ và nhà phải theo pháp long, chân khí hùng tráng, núi non nước bọc như vậy tất được đại phát. Còn ở thành thị phải theo trạch pháp, nghĩa lại cổng mở theo các phương chủ và táo đều cần hướng hợp, được như vậy sẽ hiệu nghiệm nhãn tiên chí trong vòng 3 năm được cát lợi. Phương vị của Cửu tinh sinh vượng: - Tham Lang cư bắc chủ vinh xương (Tham Lang ở Khảm tốt) - Cự môn đáo Hỏa tử tôn cưỡng (Cự Môn ở cung Ly tốt) - Vũ khúc tới nghi lâm Thổ vị (Vũ Khúc ở Cấn Khôn tốt). - Các cứ bản vị diệc sinh tưởng (mỗi sao đóng ở phương vị, thuộc hành của mình cũng rất tốt, như Vũ Khúc tại Càn). - Duy hữu Lục Sát Văn khúc Thủy (chỉ có sao Văn Khúc thủy). - Trung ương thụ chế bất vi ương (đóng tại cung Thổ như Khôn Cấn không gây tai họa). Ảnh hưởng Cát hung của Cửu tinh: - Phục vị và Thiên Ất không gây tai họa. - Diên Niên và Sinh khí đều là điều lành. - Ngũ quỷ là Liêm Trinh nếu gặp phải thời tổn thương nhân khẩu và nhiều tai họa. – Lục sát là Văn khúc thuộc Nhâm Quý Thủy, gây tổn thương gia súc và nhiều nổi kinh hoàng. – Tuyệt mạng gây tổn thương nhân khẩu. - Họa hại cũng gây những sự chẳng lành. - Tham Lang tức sinh khí có lợi cho quan lộc. - Vũ Khúc tức Diên Niên, tuổi thọ cao. - Phụ Bật tức Phục vệ, mọi sự đều tốt. - Cự Môn tức Thiên Ất, có lợi cho tài lộc. - Liêm Trinh tức Ngũ quỷ, hay bệnh tật. - Phá Quân tức Tuyệt mạng, nhiều tai ương. - Lộc Tồn tức Họa hại, tổn thương nhân khẩu. - Văn Khúc tức Lục Sát, nữ nhân bị tổn thương. - Sao Tham Lang thuộc Mộc đóng tại các cung Khảm Ly Chấn Tốn là đắc vị, phát phúc bền lâu. Đóng tại các cung Càn Đoài là nội khắc, tại các cung Khốn Cấn là Ngoại chiến.- Sao Diên Niên thuộc Kim, đóng tại 2 cung Càn Đoài là đắc vị, tại cung Khôn Cấn là được sinh khí, tại cung Ly là Nội khắc, tại 2 cung Chấn Tốn là Ngoại khiến. Ở sơn cốc thời phương hướng là riêng mình, còn ở thành thị là của chung của nhiều người. Miếu tinh phương vị:Miếu tinh tức là Thiên tinh. Vậy Thiên tinh là gì? Trên thì ứng với tinh tú trên trời dưới ứng với họa phúc trong cõi nhân gian, Miếu tinh gặp phương tinh thời hung, ở phương cát thời cát, Cát phương là gì? Tức là Tam cát, Lục tú. Các phương Hợi, Chấn Canh là Tam cát, Các phương Càn Bính Tốn Tân Đoài Đinh là Lục Tú. Tam cát là phương tài lộc, Lục tú là phương Văn học thi cử, Khi Miếu vũ dành chừa đặt đúng phương Tam cát hay Lục tú thời phần an vật thịnh. Tại đế thánh thời lấy đại dương làm chuẩn. Ngoài ra, như các miếu vũ tên tuổi Đông Nhạc, Văn Xương, Tam Quan, Nhị Lang đều cát, không hung. Đặc biệt ở những ngã tư đường không nên xây cất đền miếu. Nếu phạm vào Mậu Kỷ Sát, tất bất lợi. Phương vị của tháp bút: Nói chung những nơi đô thành tỉnh thị, phủ huyện mà trong vùng ít người đậu đạt, thi cử khó khăn chật vật, thời nên chọn 4 phương vị Giáp, Tốn, Bính, Đinh trên đó xây những ngọn tháp gọi là văn bút phong, cần cao hơn các sơn khác. Như vậy vùng đó sẽ phát khoa bảng. Ngoài ra có thể cất tháp ở trên ngọn núi, hoặc ở núi đất phẳng thời xây tháp thật cao, văn học sẽ phát. Bát phương miếu tinh: Nhất hạch hữu thiện tinh, điên cuồng to dâm loạn sinh - Nhị hắc hữu Thiên tinh, phú quý vượng nhân đinh, Tam bích hữu Thiên tinh, phát khoa tại trạch trung. Tứ lục hữu thiên tinh, gia phú quý tử sinh. Lục bạch hữu thiên tinh, phú hào khoa giáp đăng. Thất xích hữu Thiện tinh, trạch trung vô lỗ công, tuy nhiên phát khoa giáp, dản khủng vô nhân đinh. Bát bạch hữu Thiên tinh, hào tuấn xuất kỳ anh, phú quý thùy kham địch, hộ hộ tung thống bình, Cửu tửu tử hữu Thiên tinh, hoạc mục hựu tuyệt ông, tây phương nhược vô bộ, đồng biến khuyết nhân đinh. Nhất bạch dâm dục tiểu cát tường, nhị hắc vô tây hể đông xương, tam bích đăng khoa phục thọ trường, tứ lục kim bảng hề phú cườn, lục bạch Thiên tứ phú quý hương, chất xích tú lệ hể cô sương, bát bạch phúc lộc thọ phân phương, cửu tử nhãn tật hể tử vong, cánh hưữ ngũ hoàng mầu kỳ phương, Thiên tinh như lâm hề tai ương, thử trung âm dương nguyên diệu tàng, tham bát thấu hề danh hề dương.

Nguồn:vuiveclub.net

Share this post


Link to post
Share on other sites