wildlavender

Phật giáo không chủ trương hành xác

12 bài viết trong chủ đề này

Phật giáo không chủ trương hành xác

17/06/2008 08:57 (GMT + 7)

Trong bài viết "Nên đi theo trung đạo” đăng trên chuyên trang điện tử An Ninh Thế Giới cuối tháng của Báo Công An Nhân Dân (9/6/2008), có mấy điểm sau đây mà tôi cho là chưa chuẩn xác." - Ý kiến của độc giả Tuần Việt Nam.Cư sĩ Duy Ma Cật có viết một cuốn kinh mang tên ông?

Ở trang 1, có đoạn PGS. Nguyễn Duy Hinh trả lời câu hỏi của nhà báo như sau: “Cư sĩ ở nhà, họ có vợ, có con đàng hoàng; có những cư sĩ rất nổi tiếng như là Duy Ma Cật. Ông này viết hẳn một bộ kinh mang tên mình, gọi là bộ kinh Duy Ma Cật…”.

Posted Image

Ảnh chụp màn hình bài viết trên báo An ninh Thế giới

Trong giới Phật giáo, ai cũng biết Duy Ma Cật là một trong những cư sĩ nổi tiếng, nhưng ông này đâu có “viết một bộ kinh mang tên mình, gọi là bộ kinh Duy Ma Cật”!

Đúng là có một bộ kinh tên Duy Ma Cật, nhưng kinh này do người đời sau viết lại. Nội dung bộ kinh bàn luận về Phật lý giữa Cư sĩ Duy Ma Cật và các vị đệ tử nổi tiếng của Phật như Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề, Văn Thù Sư Lợi…

Posted Image

Phật giáo không chủ trương hành xác

Ở trang 3, trong câu hỏi của mình, tác giả đã hiểu sai về Phật học khi nói rằng “Theo cái hiểu của tôi trước đây, muốn ngộ một điều gì đấy thì cần phải có sự ép xác nhất định, cần có sự chịu đựng về da thịt mình nhất định”.

Posted Image

Ảnh chụp màn hình bài viết trên báo An ninh Thế giới

Hiểu như vậy chỉ đúng với một số tôn giáo ở Ấn Độ cổ đại mà thôi, chứ không đúng với Phật giáo, vì Phật giáo luôn chủ trương lấy từ bi và trí tuệ làm sự nghiệp và lánh xa hai cực đoan: khổ hạnh ép xác và hưởng thụ dục lạc.

Các vị vua dưới hai triều đại Lý, Trần tuy ở trong cung vàng điện ngọc mà vẫn tu hành đắc đạo. Vua Trần Nhân Tông chẳng hạn. Vua ở trong cung tu mà ngộ đạo, đâu cần phải “hành xác”! Và ở trong cung, ở trong chốn “dục lạc”, vua đã không hành xác mà cũng không “hưởng thụ dục lạc”, không bị dục lạc chi phối.

Posted ImagePosted ImagePhật

Phât giáo không chủ trương hành xác. Tuy nhiên đối với vật chất, con người thường dễ không làm chủ được lòng ham muốn của bản thân, bị trói buộc bởi dục lạc, nên đức Phật dạy đối với vật chất cần phải thực hành “thiểu dục, tri túc” (ít muốn, biết đủ).

Nghĩa là dù có vật chất hay không có vật chất, thì tâm hồn lúc nào cũng biết đủ. Khi biết đủ thì ở đâu cũng thấy mình tự do, giải thoát. Ít muốn, biết đủ là một công hạnh được người tu hành thiết lập có ý thức rõ ràng, được áp dụng như là điều kiện để phát huy từ bi, trí tuệ và giải thoát, tuyệt nhiên không đồng nghĩa với chủ trương hành xác.

Tu sĩ và cư sĩ

Ở trang 1, có đoạn PGS Nguyễn Duy Hinh nói: “Trong tôn giáo, cần phải phân biệt hai tầng lớp: tu sĩ và quần chúng tín đồ”.

Posted Image

Ảnh chụp màn hình bài viết trên báo An ninh Thế giới

Thật ra theo tôi phải nói lại thế này mới chính xác: “Trong tôn giáo cần phải phân biệt hai tầng lớp: tu sĩ và cư sĩ”. Bởi vì tầng lớp quần chúng tín đồ đã bao gồm hai tầng lớp tu sĩ và cư sĩ.

Posted Image

Tôn giáo và pháp quyền

Cũng ở trang 2 có đoạn viết: “Bao giờ một tôn giáo muốn tồn tại được đều phải dựa vào pháp quyền, còn những tôn giáo nào chống đối với pháp quyền thì sẽ sinh ra pháp nạn”.

Posted Image

Ảnh chụp màn hình bài viết trên báo An ninh Thế giới

Vế trước của câu này thì rất đúng, nhưng vế sau chỉ đúng một nửa, bởi vì trong lịch sử có tôn giáo không chống đối pháp quyền nhưng vẫn bị pháp nạn, điển hình là Phật giáo. Xét đến bản chất và cả về lịch sử, thì Phật giáo không bao giờ chống đối pháp quyền, nhưng lịch sử cho thấy Phật giáo vẫn bị nhiều pháp nạn.

Bạn đọc: Nghiêm Nam

nguồn tuanvietnamnet

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phật giáo không chủ trương hành xác

Ở trang 3, trong câu hỏi của mình, tác giả đã hiểu sai về Phật học khi nói rằng “Theo cái hiểu của tôi trước đây, muốn ngộ một điều gì đấy thì cần phải có sự ép xác nhất định, cần có sự chịu đựng về da thịt mình nhất định”.

Posted Image

Ảnh chụp màn hình bài viết trên báo An ninh Thế giới

Hiểu như vậy chỉ đúng với một số tôn giáo ở Ấn Độ cổ đại mà thôi, chứ không đúng với Phật giáo, vì Phật giáo luôn chủ trương lấy từ bi và trí tuệ làm sự nghiệp và lánh xa hai cực đoan: khổ hạnh ép xác và hưởng thụ dục lạc.

Các vị vua dưới hai triều đại Lý, Trần tuy ở trong cung vàng điện ngọc mà vẫn tu hành đắc đạo. Vua Trần Nhân Tông chẳng hạn. Vua ở trong cung tu mà ngộ đạo, đâu cần phải “hành xác”! Và ở trong cung, ở trong chốn “dục lạc”, vua đã không hành xác mà cũng không “hưởng thụ dục lạc”, không bị dục lạc chi phối.

Cả hai cách hiểu đều phiến diện. Nếu không hành xác đến cùng cực sẽ không ngộ "Khổ" về thân xác. Và không "hưởng thụ dục lạc" cũng không ngộ "Khổ" về "hưởng thụ dục lạc". Không thấu triệt nỗi khổ đau, sẽ không hiểu được nguyên nhân của những nỗi khổ ấy. Nỗi khổ chưa chứng nghiệm thì khó có thể diệt được nguyên nhân của đau khổ.

"lấy từ bi và trí tuệ làm sự nghiệp và lánh xa hai cực đoan" . Từ bi và Trí tuệ lấy ở đâu ra ??? !!! Hoa Sen chỉ có thể mọc từ trong bùn lầy. Đức phật đã chỉ phương pháp diệt trừ đau khổ và chỉ có con đường duy nhất đến cảnh giới Niết bàn. Tùy chứng trị liệu - tùy nhân duyên mỗi người theo chỉ dẫn của Đức Phật mà tìm phương thang thích hợp cho mình.

Tu đọc hiểu là điều kiện cần - tu hành là diều kiện đủ để diệt khổ.

Vài hàng dông dài

Share this post


Link to post
Share on other sites

Định bàn vài điều xong lại thôi.

Thiên Sứ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôn giáo nào cũng có một số luật định đặt ra nhằm vào sự khổ hạnh , qua đó tự thân người được chọn sẽ đi vào khổ hạnh tự tại thong dong , không ràng buộc vào sự hưởng thụ đời thường lại dễ dàng gần với đường đạo . Cũng như chay tịnh phần nào loại bỏ sân si mà nguyên nhân từ nguồn thức ăn gồm động vật .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chuyện kể rằng có hai vị đạo sĩ tu theo lối của mình . Một người lấy khổ hạnh, tưởng mình là chó, nên tu theo kiếp chó . Người này ăn ít, nằm đất, trời rét không mặc áo ấm, trời nắng không ở bóng râm, đôi khi lại tru lên như chó . Người kia cũng tưởng mình là bò, ăn như bò, ngủ như bò, đôi khi rống lên như bò ...

Khi Phật đã thành đạo, hai người nghe danh, bèn tìm đến hỏi Phật:

-Thưa Đức Thế Tôn, chúng tôi tu theo khổ hạnh như thế ...như thế ...có đạt được hạnh nào, giác ngộ nào không ?

Phật trả lời:

-Phàm ai viên mãn hạnh nào sẽ được chứng hạnh nấy . Các ông tu theo hạnh con chó, làm viên mãn hạnh con chó thì được hạnh con chó ; làm viên mãn hạnh con bò thì sẽ được hạnh con bò .

Hai đạo sĩ kia nghe thế liền bật khóc thảm thương . Sau đó bỏ tất cả mà theo con đường trung đạo của Phật .

Lời bàn của LacTuong: Ngày nay tôi (LacTuong) biết có những người lấy hình ảnh truyền thuyết Tế Điên Hoà Thượng (Tế Công) mà "học theo" ăn mặn hả hê, kể cả nhảy đầm khiêu vũ, nói lý cao siêu vẫn cho rằng miễn sao cái "tâm là Phật" . Tôi chẳng chấp ngã nào, cũng chẳng tường tận lý cao siêu chỉ tự nghiệm suy vả chăng Tục - Thanh có thể chung sinh ? Lấy lý thô lậu để rèn nênthanh kiếm trí tuệ Văn Thù ? lấy lý Thanh nhã không thấy được Phổ Hiền cơ bản trí ?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chuyện kể rằng có hai vị đạo sĩ tu theo lối của mình . Một người lấy khổ hạnh, tưởng mình là chó, nên tu theo kiếp chó . Người này ăn ít, nằm đất, trời rét không mặc áo ấm, trời nắng không ở bóng râm, đôi khi lại tru lên như chó . Người kia cũng tưởng mình là bò, ăn như bò, ngủ như bò, đôi khi rống lên như bò ...

Khi Phật đã thành đạo, hai người nghe danh, bèn tìm đến hỏi Phật:

-Thưa Đức Thế Tôn, chúng tôi tu theo khổ hạnh như thế ...như thế ...có đạt được hạnh nào, giác ngộ nào không ?

Phật trả lời:

-Phàm ai viên mãn hạnh nào sẽ được chứng hạnh nấy . Các ông tu theo hạnh con chó, làm viên mãn hạnh con chó thì được hạnh con chó ; làm viên mãn hạnh con bò thì sẽ được hạnh con bò .

Hai đạo sĩ kia nghe thế liền bật khóc thảm thương . Sau đó bỏ tất cả mà theo con đường trung đạo của Phật .

Lời bàn của LacTuong: Ngày nay tôi (LacTuong) biết có những người lấy hình ảnh truyền thuyết Tế Điên Hoà Thượng (Tế Công) mà "học theo" ăn mặn hả hê, kể cả nhảy đầm khiêu vũ, nói lý cao siêu vẫn cho rằng miễn sao cái "tâm là Phật" . Tôi chẳng chấp ngã nào, cũng chẳng tường tận lý cao siêu chỉ tự nghiệm suy vả chăng Tục - Thanh có thể chung sinh ? Lấy lý thô lậu để rèn nênthanh kiếm trí tuệ Văn Thù ? lấy lý Thanh nhã không thấy được Phổ Hiền cơ bản trí ?

Bởi hai Đạo Sĩ ấy đã lấy khổ hạnh để VỌNG TƯỞNG cuối đường VIÊN MÃN mình sẽ đắc ngôi gì . Bao ngàn năm mới có 1 ĐỨC THẾ TÔN còn lại tất cả chỉ đắc HẠNH dẫn truyền Đạo Pháp và cũng VIÊN MÃN với sứ mệnh kế thừa .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phật giáo không chủ trương hành xác</FONT>

Posted Image

Ảnh chụp màn hình bài viết trên báo An ninh Thế giới

Hiểu như vậy chỉ đúng với một số tôn giáo ở Ấn Độ cổ đại mà thôi, chứ không đúng với Phật giáo, vì Phật giáo luôn chủ trương lấy từ bi và trí tuệ làm sự nghiệp và lánh xa hai cực đoan: khổ hạnh ép xác và hưởng thụ dục lạc.

Vậy thì sau một thời gian Thái Tử Tất Đạt Đa tự hành xác, ăn sương nằm tuyết, nhịn ăn nhịn uống, tóc tai rủ rượi...rồi chợt nhận ra rằng điều ấy không có lợi cho chí tuệ, cho khai ngộ nên mới từ bỏ, liền đi tắm rửa đàng hoàn, nhận cúng dường là những bát sữa bò của nữ thí chủ dâng, sức khoẻ dần hồi phục, từ đó mà ngồi ở gốc Bồ đề, rồi giác ngộ viên mãn, sự tích ấy rành rành. Thế thì hiểu như ông Nguyễn Duy Hinh như trên thì đã là thật hiểu của một vị "giáo sư"? Hay lại là lổ hỏng kiết thức?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lactuong viết:

Thế thì hiểu như ông Nguyễn Duy Hinh như trên thì đã là thật hiểu của một vị "giáo sư"? Hay lại là lổ hỏng kiết thức?

Lỗ hổng kiến thức đấy! Chắc chắn là như vậy. Có 8.4000 Pháp môn. Hành xác, làm phước hay uống rượu ăn thịt chó đều chỉ là nhân duyên không phải bản chất tạo ra sự giác ngộ.

Thiên Sứ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hành xác hay cái gì cũng chỉ là phương tiện mà thôi. Đã là phương tiện thì không thể mặc nhiên là là cái đích. Để đi đến một cái đích có thể có hàng vạn phương tiện.

X -------------------> ĐÍCH

PHƯƠNG TIỆN

Nếu Phật pháp không thấu lý và thông suốt điều này thì không thể gọi nó là một đại tư tưởng bao trùm toàn thế giới trong thời kỳ lâu dài đến vậy.

Share this post


Link to post
Share on other sites

CÁI GÌ QUÝ GIÁ NHẤT TRÊN ĐỜI ?

Ngày xưa, có một ngôi chùa Viên Âm nọ, hằng ngày đông đảo tín chúng đến đốt hương lễ bái. Hương hỏa trong chùa nhờ đó mà rất hưng thịnh. Trước chùa có một cây kèo gác ngang, bên trên có chú nhện giăng lưới và sinh sống ở đó. Do mỗi ngày đều hưởng cái khói hương và sự kiền thành lễ bái của tín chúng, chú nhện kia liền sáng ra cái Phật tánh của nó. Trãi qua một ngàn năm tu luyện, Phật tánh trong chú nhện tăng trưởng rất nhiều.

Bổng có một hôm, Đức Phật quang lâm đến ngôi chùa Viên Âm kia, thấy hương hỏa trong chùa hưng thịnh như thế lòng Ngài rất hoan hỷ. Lúc rời khỏi ngôi chùa, Đức Phật vô tình ngẩng đầu lên và thấy chú nhện trên cây kèo. Đức Phật liền nói với chú nhện: "Ta với ngươi, gặp nhau xem như cũng có duyên, thôi ta hỏi ngươi cái này nhé, xem ngươi trong một ngàn năm tu hành có gì sở đắc. Ngươi thấy thế nào?". Chú nhện gặp được Đức Phật nên rất là vui mừng vội vàng nhận lời Ngài. Đức Phật hỏi: "Trên đời này cái gì mới là đáng quí". Chú nhện suy nghĩ, rồi đáp: "Trên đời này cái đáng quí là cái "không đạt được" và cái "đã mất đi". Đức Phật gật gật đầu, rồi ra đi.

Và cứ thế lại qua một ngàn năm nữa, chú nhện vẫn ở nơi cây kèo chùa Viên Âm để tu luyện. Phật tính của nó lớn lên rất nhiều. Một hôm, Đức Phật lại đến và nói với chú nhện kia rằng: "Ngươi vẫn khỏe chứ, vấn đề của một ngàn năm trước ngươi có nhận thức gì sâu hơn chăng? Chú nhện đáp: "Con nghĩ cái đáng quí trên thế gian này là cái "Không đạt được" và cái "Đã mất đi". Đức Phật dạy: "Ngươi nên khéo suy nghĩ thêm, ta sẽ đến lại tìm ngươi."

Lại thêm một ngàn năm qua đi. Một hôm gió lớn thổi đến mang một giọt cam lồ rơi trên lưới của chú nhện. Chú nhện chăm nhìn vào cam lồ thấy nó tinh anh trong suốt rất đẹp, bổng chốc khởi lòng yêu thích. Chú nhện mỗi ngày đều ngắm cam lồ mà lòng rất vui, nó nghĩ có lẽ đây là những ngày vui nhất trong ba ngàn năm qua. Bổng gió lớn lại nỗi lên và thổi mất giọt cam lồ kia. Chú nhện trong phút chốc cảm thấy như đã mất đi cái gì đó, cảm thấy cô đơn buồn bã. Lúc ấy Đức Phật lại đến bên chú nhện, Ngài lại hỏi: "Nhện à, một ngàn năm lại đây, ngươi đã khéo suy nghĩ vấn đề này chứ: "Trên thế gian này cái đáng trân quí nhất?". Chú nhện đang nghĩ đến giọt cam lồ, bèn trả lời Đức Phật rằng: "Cái đáng trân quí trên thế gian này là cái "không đạt được" và cái "đã mất đi". Đức Phật liền nói: Thôi được, ngươi đã nghĩ như thế thì ta sẽ cho ngươi vào cõi nhân gian một chuyến nhé.

Thế là, chú nhện được đầu thai vào một gia đình quan lại, thành cô tiểu thư con nhà con nhà giàu có. Cô được đạt tên là Chu Nhi (Con nhện tiếng hoa là Tri Chu(hoặc đọc là Tri Thù) "蜘蛛"). Chẳng bao lâu cô bé Chu Nhi đã đến tuổi mười sáu, thành một cô gái yêu kiều diễm lệ, ai nhìn cũng cảm mến.

Hôm ấy, Tân khoa trạng nguyên Cam Lộc (Trong tiếng hoa Cam Lồ "甘露" chỉ giọt nước cam lồ và Cam Lộc "甘鹿" chỉ cho tên nhân vật hóa thân của giọt Cam Lồ, hai âm Lồ và Lộc phát âm giống nhau) vừa trúng cử khoa thi, nhà vua quyết định mở yến tiệc đãi tân khoa trạng nguyên ở hậu hoa viên. Đến dự có rất nhiều thiếu nữ ở tuổi trăng tròn, trong đó có Chu Nhi và còn có Trường Phong (Trường Phong là tên Công Chúa cũng ngụ ý là Gió lớn, yếu tố đã đề cập phần trước). Trong buổi tiệc, chàng trạng nguyên đã biễu diễn tài nghệ thi văn thơ của mình cho mọi người thưởng thức, bao cô gái trong buổi yến tiệc không ai không xiêu lòng trước tài hoa phong nhã của chàng trang nguyên. Riêng Chu Nhi thì vẫn bình thản chẳng hề nao núng hay ghanh ti gì, bỡi nàng biết, cuộc hôn nhân này là Đức Phật đã ban cho nàng.

Vài ngày sau, thật trùng hợp, Chu Nhi cùng với mẹ lên chùa thắp nhang lễ Phật thì cùng lúc đó Cam Lộc cũng cùng hầu mẫu thân mà lên chùa. Sau khi lễ Phật xong hai vị gia trưởng cùng đứng một bên để hàn thuyên. Chu Nhi và Cam Lộc bèn rảo bước ra hành lang trò chuyện. Chu Nhi rất vui vì cuối cùng nàng đã có thể gặp lại người mình mến thương, nhưng Cam Lộc thì chẳng hề có chút biểu hiện là yêu thích nàng. Chu Nhi bèn nói với Cam Lộc: "Lẽ nào chàng đã quên câu chuyện chú nhện ở chùa Viên Âm mười sáu năm trước sao? Cam Lồ rất đỗi ngạc nhiên bảo: "Này cô nương Chu Nhi, cô dễ thương và rất được người khác yêu thích, nhưng sức tưởng tượng của cô hình như hơi phong phú đấy!" Nói thế rồi cùng mẫu thân ra về.

Chu Nhi về nhà, lòng nghĩ thầm, Đức Phật đã sắp xếp cho ta cuộc hôn nhân này sao lại không để Cam Lộc nhớ lại câu chuyện năm xưa. Tại sao Cam Lộc đối với ta không có chút cảm giác nào...???

Ít ngày sau, hoàng đế truyền lệnh cho Cam Lộc và Trường Phong công chúa kết hôn; Chu Nhi và thái tử Chi Thảo (Chi Thảo芝草 tên một loài cỏ) kết hôn. Tin này đến với Chu Nhi như tiếng sét bên tai. Nàng cố nghĩ mãi không ra, Đức Phật lại đối xữ với nàng như thế chứ! Mấy ngày liền nàng bỏ ăn bỏ uống,đầu óc rối bời,hồn phách sắp rời khỏi xác, mạng sống trong sự nguy cấp. Thái tử Chi Thảo biết được điều này vội vàng với nàng túc trực một bên giường bệnh. Chàng nói với Chu Nhi đang trong thoi thóp nằm trên giường bệnh: "Hôm ấy, sau vườn thượng uyển trong các cô nương, ta thấy nàng liền sanh lòng thương mến, bèn một mực khổ cực cầu xin Phụ hoàng mới chấp thuận việc hôn nhân này. Nếu nàng không còn ở lại trần gian này thì ta cũng chằng muốn sống nữa". Chàng vừa nói vừa rút kiếm ra chuẩn bị tự vận.

Ngay lúc ấy, Đức Phật liền xuất hiện, Ngài nói với Chu Nhi trong cơn hấp hối rằng: "Nhện con à! con có từng nghĩ qua, Cam Lồ (Cam Lộc) là do ai mang đến cho con không? Đó chí là gió (Trường Phong công chúa) mang đến, cuối cùng cũng là gió mang nó đi, Cam Lồ thuộc Trường Phong công chúa, Cam Lồ chẳng qua chỉ là một đoản khúc ngắn ngủi trong cuộc đời của con thôi. Còn thái tử Chi Thảo là một cây cỏ nhỏ bé trước của chùa viên âm năm xưa, nó đã trông con lớn lên qua ba ngàn năm, thương mến con đã ba ngàn năm, thế nhưng, con không hề cúi đầu nhìn xuống nó một lần. Nhện con à! Ta lại hỏi con nhé "Thế gian này cái gì mới đáng cho ta trân quí?" Chu Nhi nghe xong chân tướng của sự tình, hình như nàng đã tỏ ngộ ra được tất cả. Nàng nói với Đức Phật: "Cái đáng trân quí nhất trên thế gian này không phải là cái "không đạt được" hay cái "đã mất đi" mà là hạnh phúc ta có được trong tầm tay ở phút giây hiện tại." Nàng vừa nói xong thì cũng vừa lúc Đức Phật ra đi. Chu Nhi cũng như vừa hoàn hồn lại, nàng mở to đôi mắt nhìn thái tử Chi Thảo đang cầm kiếm sắp sửa tự vận trước mặt nàng, nàng vội vàng đánh rơi cây kiếm trong tay thái tử và ôm chầm lấy chàng....

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đêm đông nọ, một sư già lạc bước đường, ngang một ngôi chùa, liền hỏi tá túc. Sư trụ trì cho ở. Trời quá lạnh. Sư già nhóm lửa sưởi ấm. Củi cháy hết. Nhìn quanh, sư già chẳng thấy gì để đốt thêm. Sư chạy vô điện. Hồi lâu, rinh ra một tượng phật gỗ, sư đốt lửa. Vị trụ trì chùa biết chuyện, chạy ra, nổi giận hỏi sư:

-Tại sao sư lại đốt tượng thế?!

Sư già chẳng nói, cầm cây củi khều khều trong đám lửa và tro than như tìm vật gì. Sư trụ trì thấy thế hỏi:

-Ông tìm gì thế?

Sư già từ tốn trả lời:

-Tôi đang tìm xá lợi của Phật.

Sư trụ trì lặng thinh chẳng nói.

Lời bàn của LacTuong:

Công nhiên đốt tượng ấy là lỗi trong con mắt phàm phu, lỗi ấy đáng trách. Nhưng lấy cớ ấy mà sân hận thì cũng là phàm phu khởi tâm. Phàm phu lấy hình tướng giả tạo mà chiêm bái, tưởng rằng đấy là chính đạo mà lẫn đường mê. Vì tìm đâu ra trí tuệ trong chiêm bái, kệ tụng? Việc ấy há chẳng khác chi mưu tìm xá lợi trong tượng gỗ sao? Thế gian biết có hạnh tuệ nhưng chẳng đi con đường tuệ như cá bắt bóng trăng, như lạy tượng mà cầu phúc hay tưởng thế là con đường đưa đến khai ngộ hay chứng quả. Thế là vẫn đọa địa ngục (mê vẫn hoàn mê).

Lại bàn thêm, vả chăng nếu khổ hạnh thì cần chi sưởi ấm? Cần chi chùa tự? Nghĩ thế chắc cũng cạn đường suy, vì lẽ ấy chẳng hợp thời chăng? Máy lạnh, lò sưởi, máy bay, xe hơi...sư đều có cả, sư đều dùng cả. Vậy khổ hạnh ở đâu? Nghĩ vậy chắc cũng chẳng hợp nhẽ...

LacTuong

Share this post


Link to post
Share on other sites

CÁI GÌ QUÝ GIÁ NHẤT TRÊN ĐỜI ?

Ngay lúc ấy, Đức Phật liền xuất hiện, Ngài nói với Chu Nhi trong cơn hấp hối rằng: "Nhện con à! con có từng nghĩ qua, Cam Lồ (Cam Lộc) là do ai mang đến cho con không? Đó chí là gió (Trường Phong công chúa) mang đến, cuối cùng cũng là gió mang nó đi, Cam Lồ thuộc Trường Phong công chúa, Cam Lồ chẳng qua chỉ là một đoản khúc ngắn ngủi trong cuộc đời của con thôi. Còn thái tử Chi Thảo là một cây cỏ nhỏ bé trước của chùa viên âm năm xưa, nó đã trông con lớn lên qua ba ngàn năm, thương mến con đã ba ngàn năm, thế nhưng, con không hề cúi đầu nhìn xuống nó một lần. Nhện con à! Ta lại hỏi con nhé "Thế gian này cái gì mới đáng cho ta trân quí?" Chu Nhi nghe xong chân tướng của sự tình, hình như nàng đã tỏ ngộ ra được tất cả. Nàng nói với Đức Phật: "Cái đáng trân quí nhất trên thế gian này không phải là cái "không đạt được" hay cái "đã mất đi" mà là hạnh phúc ta có được trong tầm tay ở phút giây hiện tại." Nàng vừa nói xong thì cũng vừa lúc Đức Phật ra đi. Chu Nhi cũng như vừa hoàn hồn lại, nàng mở to đôi mắt nhìn thái tử Chi Thảo đang cầm kiếm sắp sửa tự vận trước mặt nàng, nàng vội vàng đánh rơi cây kiếm trong tay thái tử và ôm chầm lấy chàng....

Cám ơn Trân Phương về câu chuyện như bài học về tính khai ngộ của Đức phật .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay