Trần Phương

Vấn đề nguồn gốc ngày Giỗ Tổ 10/3

8 bài viết trong chủ đề này

Quí vị ạ, đã từ lâu vấn đề nguồn gốc ngày Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3 đã làm tôi băn khoăn rất nhiều, bản thân tôi không dưới 2 lần được nghe các thông tin khác nhau về vấn đề này, nhưng tất cả chỉ nói lên 1 điều rằng : "Về nguyên thủy, thực chất không phải ngày 10/3 âm lịch" (?!)

Tôi xin được trích dẫn tài liệu dưới đây từ nguồn Tintuc online để quí vị tham khảo và minh xét :

http://tintuconline.vietnamnet.vn/vn/vanhoa/196017/

"Vì sao có ngày giỗ Tổ mồng 10 tháng 3?

Theo ý kiến của GS sử học Lê Văn Lan nguồn gốc của ngày giỗ Tổ Hùng Vương như sau: "Tại Kính thiên lĩnh điện (Điện núi thờ Trời) trên núi Hùng, còn gọi là đền Thượng, có hai tấm bia cổ.

Tấm bia thứ nhất có tên là "Hùng miếu điển lệ bia" có ghi: xã Hy Cương, phủ Lâm Thao có lăng miếu phụng thờ Hùng Vương ở núi Hùng, trải các năm cả nước đến lễ, thường lấy kỳ mùa thu, chọn vào ngày tốt làm lễ, chưa có việc định rõ ngày mà tục lễ của dân xã đó, lấy ngày 11/3, kết hợp với thờ thần thổ kỳ, làm lễ riêng, thường hứng bất kỳ, hội họp cũng lãng phí theo sở thích, còn lòng thành thì kém đi.

Nay cẩn thận tính lại rằng, từ đây về sau, lấy ngày 10/3, lĩnh tiền chi vào việc công, phụng mệnh kính tế trước một ngày so với ngày hội tế của bản hạt khiến dân sĩ mọi miền đến đây có nơi chiêm bái".

(Công văn Bộ lễ triều Nguyễn đề ngày 25/7 năm Khải Định thứ nhất tức 1917).

Tấm bia thứ hai mang tên "Hùng Vương từ khảo" (tức Đền Hùng Vương khảo cứu) do tham chi Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ lập, ghi: "Trước đây, ngày Quốc tế (lễ) lấy vào mùa thu làm định kỳ.

Đến năm Khải Định (dương lịch là 1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc có công văn xin Bộ lễ ấn định ngày 10/3 hằng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ Hùng Vương đời thứ 18, một ngày. Còn ngày giỗ (tức 11/3) thì do dân sở tại làm lễ. "

Bằng tất cả tình cảm và khách quan khoa học, tôi cho rằng tài liệu trên không đáng tin cậy, bởi 1 lẽ :

Chẳng lẽ từ trước năm 1917, hay cụ thể hơn, trước thế kỷ 20, dân tộc ta không có ngày chính xác nào là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (?!)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phoenix nhớ trước đây đã đọc một bài về nội dung này. Hiện chưa lục lại được trong đống tài liệu lưu. Pót cái này vào trước:

(Nguồn: http://vietnamese-law-consultancy.com/vietnamese/content/)

Sẽ được nghỉ ngày giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm 01-04-2007

Tất cả các đại biểu Quốc hội chiều 28/3 đã thống nhất với tờ trình của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về việc sửa đổi, bổ sung điều 73 của Bộ luật Lao động (cho phép người lao động được nghỉ việc, hưởng nguyên lương vào ngày giỗ Tổ Hùng Vương - 10/3 âm lịch hàng năm). Dự kiến, thời điểm thực hiện ngày nghỉ giỗ Tổ Hùng Vương sẽ được thực hiện từ năm 2007, sau khi được các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua việc sửa đổi Bộ luật Lao động vào tuần tới. Theo Tờ trình của Bộ LĐ-TBXH, do Thứ trưởng Huỳnh Thị Nhân trình bày, thì ngày giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm đã được Đảng, Nhà nước quy định là một trong những ngày lễ lớn của dân tộc. Trong khi đó, hiện người lao động Việt Nam chỉ được nghỉ hưởng lương 8 ngày lễ, Tết trong năm (chưa có ngày giỗ Tổ Hùng Vương) và từ 12 đến 16 ngày phép trong một năm tuỳ theo điều kiện làm việc.

Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì số ngày nghỉ lễ, Tết ở Việt Nam còn thấp (Indonesia và Thái Lan: 13 ngày, Philippin: 12 ngày, Trung Quốc: 10 ngày... ). Vì vậy, việc quy định nghỉ thêm 01 ngày trong năm, ngày giỗ Tổ Hùng Vương, sẽ được đông đảo người lao động ủng hộ, tạo tâm lý phấn khởi, hăng hái tham gia lao động sản xuất.

Lo lắng duy nhất hiện nay, bà Huỳnh Thị Nhân cho biết, là cả nước có trên 13 triệu người làm công, ăn lương (chiếm khoảng 29% lực lượng lao động). Trong khu vực sản xuất kinh doanh, nếu nghỉ thêm 01 ngày thì chi phí tiền lương sẽ tăng thêm (khoảng 1%). Ngược lại, ở khu vực hành chính sự nghiệp, nếu tổ chức thực hiện tốt thì có thể tiết kiệm thêm các chi phí về hành chính.

Do vậy, thay mặt Chính phủ, Bộ LĐ-TBXH đề nghị QH thống nhất cho người lao động nghỉ nguyên lương từ 10/3 âm lịch 2007 (tức 26/4/2007).

Thay mặt Ủy ban về Các vấn đề xã hội của QH, Phó Chủ nhiệm Đặng Như Lợi đánh giá, quy định ngày 10/3 âm lịch hàng năm - ngày giỗ Tổ Hùng Vương, người lao động được nghỉ việc, hưởng lương sẽ nâng tổng số ngày nghỉ lễ, tết trong năm lên 9 ngày. Tuy có thể ít nhiều ảnh hưởng tới chi phí tiền lương, tiền công của một số doanh nghiệp, song, ngày giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành tình cảm, tâm linh của người Việt Nam, có ý nghĩa chính trị - giáo dục đặc biệt.

Hơn nữa, khi nền kinh tế đã khởi sắc và dần đi vào thế ổn định thì việc quy định tăng thêm 1 ngày nghỉ cũng là hợp lý, có lợi nhiều mặt đối với người lao động và thu hút phát triển du lịch . Do vậy, Uỷ ban về Các vấn đề xã hội nhất trí với tờ trình của Chính phủ quy định 10/3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ Hùng Vương, người lao động được nghỉ làm việc và được hưởng lương.

Tuy nhiên, ông Lợi cho biết có ý kiến đề nghị lý giải căn cứ vì sao lại chọn ngày 10/3 âm lịch hàng năm.

"Đây là vấn đề tương đối phức tạp thuộc về lịch sử, cần được tiếp tục nghiên cứu. Ngày 10/3 âm lịch có thể còn mang tính ước lệ về thời gian nhưng thực tế từ nhiều năm và nhiều thế hệ, ngày này đã đi vào tiềm thức, tâm khảm của mọi người dân Việt Nam. Vì vậy, việc chọn ngày 10/3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ Hùng Vương cũng có tính kế thừa và hoàn toàn hợp lý", ông Lợi nói.

Ủy ban cũng nhất trí với đề nghị của Chính phủ, thời điểm thực hiện ngày nghỉ giỗ Tổ Hùng Vương - ngày 10/3 âm lịch hàng năm được thực hiện từ 2007.

Tại buổi thảo luận chiều nay, tất cả các đại biểu đã thống nhất với tờ trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Uỷ ban về Các vấn đề xã hội của QH liên quan đến vấn đề này. Tuần tới, các đại biểu sẽ biểu quyết thông qua việc sửa đổi này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giới thiệu bài của NNC Nguyễn Vũ Tuấn Anh lý giải

Ý nghĩa ngày 5/5 AL và 10/3 AL

"Ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm là một ngày lễ hội truyền thống không chỉ ở Việt Nam mà còn ở một số nước Đông phương khác là Triều Tiên và Trung Quốc . Đã có nhiều bài viết nghiên cứu về ngày 5 – 5 của nhiều tác giả. Thiên Sứ tôi cũng đã có bài viết về để tài này từ 2004 trên tuvilyso.com và trên ktcn.net. Hôm nay, nhân dịp có một người bạn hỏi về nguồn gốc của ngày này, nên tôi xin được trình bày lại ý nghĩa đích thực của ngày 5 – 5 và 10 / 3.

Tết Đoan Ngọ tồn tai từ lâu trong văn hoá dân gian Đông Phương và có một ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt văn hoá. Tết Đoan Ngọ còn gọi là tết Đoan Dương, tết Hàn thực vì trong ngày này theo tục lệ kiêng ăn món đồ nóng. Ngày này cũng còn gọi là ngày giết sâu bọ. Vì người ta tin rằng: Khi ăn món ăn đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ; giun sán trong người sẽ bị chết hết.

Truyền thuyết của Hioa Hạ về lịch sử ngày mùng 5 tháng năm thì lưu truyền rằng:

Vào thời Xuân Thu; có ông Giới Tử Thôi theo phò Tấn Văn Công (Công tử Trùng Nhĩ) bôn ba phục quốc trên 30 năm. Lúc gian khổ; ông cắt thịt đùi dâng vua ăn. Khi việc phục quốc thành công, ông vì khinh bỉ đám cận thần của vua, nên không nhận quan tước, mà bỏ về ở ẩn. Tấn Văn Công thân chinh mời ông ra. Ông cõng mẹ bỏ trốn vào rừng. Nhà vua ra lệnh đốt rừng; hy vọng ông sẽ ra. Nhưng ông cùng bà mẹ trọng nghĩa đã chịu chết cháy trong rừng. Theo truyền thuyết ngày đó là ngày mùng 5 tháng 5. Bởi vậy; nhà vua chọn ngày này làm ngày kỷ niệm Giới Tử Thôi và ra lệnh cấm đốt lửa trong ngày này. Đó là nguyên nhân để ngày này dân chúng chỉ ăn đồ nguôi.

Một truyền thuyết thứ hai nữa là:

Khuất Nguyên là một vị trung thần nước Sở, ông còn là một nhà văn hoá nổi tiếng với bài Ly Tao và Sở Từ, thể hiện tâm trạng buồn về sự suy vong với hoạ mất nước. Can vua không được, ông tự tử trên dòng sông Mịch La. Dân chúng trọng nghĩa ra sông tưởng nhớ anh linh của ông, cúng rất nhiều sản vật. Ngày đó, theo truyền thuyết là ngày mùng 5 tháng 5.

Như vậy, theo hai truyền thuyết trên thì ngày 5 – 5 có nguồn gốc từ văn hoá Trung Hoa.

Nhưng điều đáng lưu ý là – Hàn Quốc cũng coi ngày 5 – 5 là ngày lễ theo truyền thống văn hoá của họ .

Trong bài báo “Đừng đối đãi với di sản văn hoá như bánh mì” đăng trên báo Tuổi Trẻ trang 16, ngày 22 tháng 6 năm 2004, đã đưa tin:

Hàn Quốc đề nghị Liên Hiệp Quốc công nhận tết Đoan Ngọ vào ngày 5 tháng 5 là “di sản văn hoá phi vật thể” của Hàn Quốc”.

Bài báo cũng cho biết có nhiều tờ báo Trung Quốc xem đó là việc làm xâm phạm văn hoá, nhiều hoc sinh thành phố Nhạc Dương (Hồ Nam) ký tên bảo vệ tết Đoan Ngọ. Nhiều người Trung Quốc kiến nghị chính quyền đăng ký bản quyền di sản văn hoá… Bài báo có đoạn viết:

"Dẫu mọi việc chẳng có gì để ầm ĩ; nhưng nhân vụ việc này người Trung Quốc mới thấy giá trị của văn hoá dân gian."

Nhưng trong văn hoá Việt thì ngày mùng 5 tháng năm lại là ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ. Trong dân gian đã lưu truyền câu ca dao:

“Tháng Năm ngày tết Đoan Dương.

Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang”.

Như vậy; đây là một ngày tết có nguồn gốc từ văn hoá Việt. Nhưng tại sao ngày mùng 5 tháng 5 lại là ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ? Điều này có liên hệ gì với ngày 10 tháng 3 lại là ngày giỗ Quốc Tổ Hùng Vương của giống nòi Lạc Việt?

Là những người nghiên cứu nguyên lý học thuật cổ Đông Phương chắc chúng ta đều biết đến đồ hình Hà Đồ. Có lẽ ai cũng biết rằng trung tâm Hà Đồ là ngôi Hoàng Cực biểu tượng của sự thống trị tối cao; tức quyền uy của nhà vua. Trung tâm Hà Đồ có độ số 5 thuộc Dương và 10 thuộc Âm. Phần trung tâm Hà Đồ được miêu tả như sau:

ĐỒ HÌNH LẠC THƯ VÀ HÀ ĐỒ

Posted Image

Chúng ta cũng biết rằng: Trong nguyên lý Âm Dương thì Dương có trước và Âm có sau. Dương là giá trị trừu tượng, Âm là giá trị hiện hữu. Như vậy, tháng có trước thuộc Dương và ngày có sau thuộc Âm (Ngày là con của tháng). Ngày giỗ Quốc Tổ Hùng Vương (Giỗ Cha) được chọn là ngày 10 tháng 3 vì:

Tháng 3 là tháng Thìn/ Rồng biểu tượng của Vương quyền chính là tháng thứ 5 kể từ tháng Tý mà trong dân gian gọi là tháng Một (Tức tháng 11 Âm lịch). Đó chính là biểu tượng của 5 vòng tròn trắng ở trung tâm Hà Đồ thuộc Dương (Tháng có trước thuộc Dương). Ngày là con của tháng thuộc Âm, nên chọn ngày mùng 10. Đó đó chính là biểu tượng của 10 vòng tròn đen thuộc Âm trên Hà đồ.

Xin xem lại hình minh hoạ Hà đồ ở trên thì thấy rằngL: Trung Cung Hà đồ có 5 vong tròng trằng và 10 vòng tròn đen.

Cũng trên nguyên lý độ số Âm của Hà Đồ là sự hiện hữu, nên chọn là ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ. Ngày mùng 5 tháng 5 chính là biểu tượng của hai dãy mỗi dẫy 5 vòng tròn đen ở trung tâm Hà Đồ (Xin xem lại hình trên) . Ngày cực Âm, tháng cực Âm nên thuận theo tự nhiên, dân chúng ăn đồ nguội (Nguội thuộc Âm, nóng thuộc Dương). Chúng ta cũng lưu ý rằng: Ngày mùng 5 / 5 là ngày rất gần tiết Hạ Chí, tức là ngày nóng nhất trong năm theo thực tế thời tiết; hay nói theo thuyết Âm Dương Ngũ hành: Là ngày cực Dương thuộc Hoả khí (Trong Hậu Thiên Lạc Việt, Ly Hoả thay thế vị trí Càn trong Tiên Thiên). Bởi vậy, lấy số ngày và tháng cực Âm về biểu tượng là mùng 5 / 5 (Cân bằng Âm Dương). Vì là ngày cực Âm nên biểu tượng bằng ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ. (Cha thuộc Dương / Mẹ thuộc Âm).

Như vậy, nền văn hiến Lạc Việt qua ngày giỗ Quốc Tổ Hùng VươngQuốc Mẫu Âu Cơ, đã giải thích nguyên uỷ hai ngày này bằng chính nền tảng của nguyên lý học thuật cổ Đông phương, chứ không phải bằng những truyền thuyết mơ hồ nói trên .

Đây là một yếu tố sắc sảo nữa chứng minh rằng: Nguồn gốc của văn minh Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt một thời huy hoàng kỳ vĩ từ hàng ngàn năm trước ở miền nam sông Dương Tử. Nền văn minh này đã sụp đổ từ thế kỷ thứ III trước CN, nhưng dấu ấn của nó vẫn còn lưu giữ trong những giá trị văn hóa truyền thống ở nhiều quốc gia liên quan đến nền văn minh này.

Kính thưa quí vị quan tâm.

Những giá trị của thuyết Âm Dương Ngũ hành và sự nhận thức những thực tại của con người làm nên nó, là hệ quả tổng hợp của cả một nền văn minh phát triển tích lũy và kế thừa trong quá trình tiến hóa của nó, trải nhiều ngàn năm. Bởi vậy, khi một nền văn minh tạo ra nó đã sụp đổ thì sẽ kéo theo tất cả những mối quan hệ tri thức và hạ tầng cơ sở vật chất liên quan đến tinh hoa tri thức mà nó tạo ra. Do đó, để hiểu được bản chất những giá trị tinh hoa của nền văn minh này - Thuyết Âm Dương Ngũ hành - không thể là một tư duy dễ dãi, mà phải là sự tổng hợp những gì còn sót lại của nó và biết được một thực tại nào là cơ sở nhận thức đã tạo ra nó. Nền văn minh Lạc Việt với những dấu ấn còn lại trong những giá trị văn hóa truyền thống, có rất nhiều hiện tượng phù hợp với những giá trị nguyên lý của học thuyết này, mà không một nền văn hóa gần gũi nào liên quan có thể có được. Bởi vậy, những giá trị văn hóa phi vật vật thể chính là một bằng chứng rất rõ nét chứng minh cho cội nguồn văn hóa Việt là nền tảng của giá trị văn minh Đông phương cổ.

Cảm ơn sự quan tâm của quí vị!

Thiên Sứ

(hết).

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phiền chú Thiên Sứ cung cấp lại hộ đồ hình vì khi đưa bài lên Phoenix không làm nó hiển thị được.

Cảm ơn chú!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giới thiệu bài viết của tác giả Nguyễn Thiếu Dũng

Nguồn:
http://www4.thanhnien.com.vn/Vanhoa/2005/4/4/78563.tno


Ý nghĩa
ngày giỗ Tổ


30/03/2005



Con người ai cũng có thân xác, đó là cơ sở vật chất để sự sống tồn tại. Thân xác đó không thể tự ta mà có, nó có là do cha mẹ di truyền, đến lượt ta, ta lại trao truyền sự sống cho con, thành ra sự sống là một dòng tồn tục. Khi ta sống là cha mẹ ta đang sống. Khi ta chết ta vẫn còn sống nơi con ta, cháu ta.

Sinh huyết chảy mãi không ngừng từ vô thuỷ đến vô chung. Trân trọng sự sống, bảo tồn thân xác là bổn phận, là nhiệm vụ của con người vì thân xác đó không phải của riêng ta. Thân xác đó là của người trước, thân xác đó là của người sau. Thân xác đó cùng tồn tại với càn khôn, biến dịch cùng vũ trụ. Thế nên sống là tri ân. Sống là phải biết ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã cho ta sự sống. Đạo thờ cúng tổ tiên là đạo làm người. Người Việt Nam may mắn có chung một đạo, Đạo thờ cúng Ông Bà. Người Việt Nam còn may mắn hơn nữa khi có chung một Tổ để hướng về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một đền thờ Tổ để tri ân.

Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng: Đền Hùng.

Đền Hùng dựng trên núi Hùng

Sách Đại Nam nhất thống chí, phần tỉnh Sơn Tây viết: "Núi Hùng Vương ở xã Hy Cương, cách huyện Sơn Vi 12 dặm về phía đông, cũng gọi là núi Hy Cương, lại gọi là núi Bảo Thứu, hình thể tròn trĩnh xanh tốt lạ thường, Địa dư chí của Lê Đại Cương chép rằng: mạch núi từ núi Tam Đảo bổ xuống, kéo qua địa phận huyện Lập Thạch, xuyên qua sông Lô, đi qua địa phận các huyện Hùng Quan và Tây Quan kéo đến, ở phía tây núi non la liệt, ở phía đông có nước sông Đà lượn quanh, lại có các ngọn nước tụ hội ở ngã ba sông, thật là cục lớn về phong thuỷ" (1). Võ Văn Trực cực tả: "Núi Hùng vươn ra như một con rồng, đầu hướng về nam" (2) tr 419).

Núi Hùng cao 175m so với mặt biển. Núi còn nhiều tên gọi khác như Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương hay núi Cả. Núi Cả nhìn xuống làng Cả. Đời Lê, cư dân xã Hy Cương được ban làm con Cả, hằng năm giữ nhiệm vụ hương khói thờ phụng vua Hùng. Sách Ngọc phả Hùng Vương do Trực Học Sĩ Nguyễn Cố soạn năm 1470 có đoạn viết: "Phụng ban hương Trung Nghĩa (Cổ Tích) làm dân trưởng tạo lệ, cấp 500 mẫu ruộng tại xã Hy Cương, lại cho thu thuế ruộng của một vùng, trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới đến Việt Trì làm hương hoả phụng thờ". Hằng năm con trưởng chỉ có nghĩa vụ đi lính, còn được miễn thuế khoá, tiền thuế và ruộng chỉ để đèn nhang cúng lễ đền Hùng" (2) tr 380).

Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng ba:

Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba

Cả nước hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội Đền Hùng, 41 làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ. Trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới" (2) tr 382).

Nguyễn Thị Hạnh cho biết: "Xưa kia, việc cúng Tổ (cử hành) vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch)... Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch). Do đó ngày giỗ Tổ sau này mới là ngày 10 tháng 3 (âm lịch ) hàng năm. (2) tr 381).

Như thế ngày chính tế phải là ngày 12 tháng 3, ngày 10 tháng 3 chỉ là ngày quốc tế, ngày chính quyền Nhà nước đứng ra cúng tế. Và ngày 12 tháng 3 mới là ngày mang ý nghĩa của một thông điệp mà người xưa muốn gửi lại cho muôn đời sau.

Tại sao 18 đời Hùng Vương chỉ có một ngày lễ. Đồng ý đây có thể là hợp kỵ nhưng tại sao lại là ngày 12 tháng 3 mà không phải là ngày khác? Đây chắc không phải là ngày chọn lựa một cách tình cờ mà có dụng ý. Muốn giải mã được thông điệp của Tổ tiên; không thể chỉ dựa vào một sự kiện, vì như vậy người khác có thể cho là suy diễn, nhưng nếu vấn đề được giải đáp trong một hệ thống chúng ta không thể không quan tâm.

Chúng ta có thể đối chứng ngày giỗ Tổ Hùng Vương với ngày giỗ Tổ Phụ Lạc Long Quân và ngày giỗ Tổ Mẫu Âu Cơ. Ba ngày giỗ này có liên hệ mật thiết với nhau, thống nhất ý nghĩa trong cùng một hệ thống, tỏ rõ có bàn tay xếp đặt chứ không phải là ngẫu nhiên trùng hợp.

Trong sách Hùng Vương và lễ hội đền Hùng B.D.S cho chúng ta biết thêm một chi tiết khá quan trọng: ''Mãi gần đây chúng ta mới biết Lạc Long Quân được thờ tại Đình Nội, làng Bình Đà, huyện Thanh Oai, Hà Tây. Bình Đà có hai ngôi đình đẹp: Đình Nội (còn gọi là Đình Trong), Đình Ngoại (còn gọi là Đình Ngoài)... Dân làng Bình Đà tổ chức lễ hội từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 3 âm lịch. Ngày 6 tháng 3 là ngày chính hội, tương truyền đó là ngày sinh của Đức Lạc Long Quân (2) tr 371-373).

Theo Kinh Dịch, tính theo số Tiên-Thiên, quẻ Khảm hay còn gọi là quẻ Thuỷ đứng ở vị trí số 6, quẻ Ly hay còn gọi là quẻ Hoả đứng ở vị trí số 3. Vì vậy lấy ngày 6 tháng 3 để tưởng niệm Đức Lạc Long Quân là dựa vào tính chất của quẻ Khảm (số 6) và quẻ Ly (số 3). Hai quẻ này hợp lại là quẻ Thuỷ-Hoả-Ký-Tế, quẻ thứ 63 trong tổng số 64 quẻ Dịch.

Lạc Long Quân từng nói với Âu Cơ: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thuỷ tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng thuỷ hoả tương khắc, dòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia ly. Ta đem năm mươi con về thuỷ phủ, chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi xuống bể, hữu sự thì báo cho nhau biết" (Lĩnh Nam Chích Quái).

Lạc Long Quân tính thuỷ tương ứng với quẻ Khảm, loại quẻ dương. Âu Cơ tính hoả tương ứng với quẻ Ly, loại quẻ âm. Hai quẻ này âm dương tương hợp, tạo thành quẻ Ký-Tế. Hào cửu ngũ quẻ Ký-Tế là hào dương, biểu tượng cho vua, hào lục nhị quẻ Ký-Tế là hào âm, biểu tượng cho Âu Cơ, hai hào này là hai hào chính ứng với nhau.

Kinh Dịch chỉ có 8 quẻ đơn, từ quẻ Càn số 1 đến quẻ Khôn số 8, quẻ đơn không vượt quá số 8. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày 12 tháng 3, số 12 vượt quá giới hạn quẻ đơn, tuy nhiên ta biết rằng 12 là bội số của 6. Dịch lý luôn biến hoá, do đó số 12 vẫn hàm chứa số 6 nên ngày 12 tháng 3 về nội hàm vẫn là hoá thân của 6 tháng 3. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương và Ngày giỗ Tổ Lạc Long Quân cùng có chung một ý nghĩa.

Quẻ Ký-Tế là quẻ duy nhất trong số 64 quẻ Dịch đạt đến độ lý tưởng hoàn chỉnh. Dịch quy định những hào ở vị trí số lẻ 1, 3, 5 phải là hào dương mới được kể là chính vị, nếu là hào âm thì gọi là thất vị (không đúng vị trí). Ngược lại những hào ở vị trí số chẵn 2, 4, 6 phải là hào âm mới được kể là chính vị, không đúng quy định đó gọi là thất vị. Số thứ tự của hào quẻ được tính từ dưới lên. Riêng hào 5 (hào cửu ngũ) còn được gọi là hào trung chính vì là hào dương mà lại là hào ở giữa quẻ ngoại. Cũng thế, hào 2 (lục nhị) còn được gọi là trung chính vì là hào âm và là hào ở giữa quẻ nội. Quẻ Ký-Tế,hào dương ở đúng vị trí dương, hào âm ở đúng vị trí âm được xem là quẻ chuẩn, chuẩn cho Dịch, chuẩn cho người, chuẩn cả cho trời đất vì đã đạt đến trung chính, nghĩa là đã đạt được Đạo. Trời đất trung chính thì mưa thuận gió hoà, xã hội trung chính thì cuộc sống yên ổn, thái bình. Cho nên toàn bộ Kinh Dịch, có thể nói như Nguyễn Hiến Lê: "Liệt kê ra thì cực phiền toái mà tổng hợp lại thì rất đơn giản chỉ gồm hai chữ trung chính như Trương Kỳ Quân đã nói: "Đạo lý trong thiên hạ (theo Dịch) chỉ là khiến cho việc không trung trở về chỗ trung, việc không chính trở về chỗ chính" (3) tr161). Nguyễn Văn Siêu nhấn mạnh trung không phải là lưng chừng, không phải là trung bình cộng mà trung là đạt đến chỗ chí thiện.

Phải chăng qua ngày giỗ 6/3 và 12/3 Tổ tiên muốn để lại cho con cháu muôn đời lời di huấn về phép trị nước an dân cốt sao đạt đến chỗ trung chính.

Đạo trị nước tất cũng là đạo giữ nước, đó chính là thông điệp của ngày giỗ Tổ Hùng Vương, giỗ Tổ Lạc Long Quân.

Ký-Tế là đã thành, đã xong, nhưng Vương-Bật trong Chu Dịch chú nói rằng: "Đã qua sông (ký tế) đừng quên lúc chưa qua sông (vị tế)'' (4) tr870). Vua Đường Thái Tông từng hỏi các cận thần: "Về sự nghiệp của đế vương, việc sáng lập và giữ gìn thành quả cái nào khó hơn". Nguỵ Trưng đáp: "Đế vương dấy nghiệp, tất thừa cơ lúc đời suy loạn, lật đổ bọn tàn ác hôn ám, trăm họ đều đồng lòng ủng hộ, bốn biển đều theo về, đó là lúc trời trao cho mệnh, do vậy việc đó không phải là khó. Nhưng sau khi đã được thiên hạ, chí thường kiêu ngạo phóng dật, trăm họ muốn được yên vui, nhưng sưu thuế nặng nề, muôn dân khổ sở điêu tàn, mà phải phục dịch cho việc ăn chơi xa xỉ không ngớt. Đất nước suy vong đều từ đó mà ra. Cho nên nói giữ vững thành quả là khó hơn nhiều" (4) tr 867). Ý của Tổ tiên muốn nhắc nhở người đời sau qua quẻ Ký-Tế: ai ai cũng nên làm tròn bổn phận, nhiệm vụ và chức năng của mình, giữ đúng kỷ cương vua ra vua, cha ra cha, con ra con thì gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển.

Lời di huấn này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, trống thiêng của dân tộc, gởi gắm trong biểu tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng. Mặt trời trên trống đồng có nhiều tia, có trống 8 tia có trống 10, 12 hoặc 14, 16 tia, nhưng đều là tia khắc nổi, đó là tia dương ứng với hào dương. Ngoài ra những tia nổi này còn tạo ra những tia chìm, đó là tia âm, ứng với hào âm. Cứ mỗi hào dương hào âm như thế nối nhau sẽ tạo ra những quẻ Ký-Tế chạy thành vòng tròn mặt trời giữa trống đồng. Ý nghĩa của mặt trời trên trống đồng và những con số ẩn trong ngày giỗ Tổ là nhất quán.

Ngày giỗ Lạc Long Quân, ngày giỗ Hùng Vương có chung một ý nghĩa, gắn bó nhau trong một hệ thống, thế còn ngày giỗ cũa Âu Cơ có chuyển tải ý nghĩa nào không?

Giỗ cha có nghĩa, giỗ con có nghĩa, lẽ nào giỗ mẹ lại không?

Sách Non Nước Việt Nam của Tổng cục Du lịch Việt Nam giới thiệu: "Đền thờ Mẹ Âu Cơ nằm giữa cánh đồng lúa của xã Hiền Lương (huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ), dưới tán lá của cây đa xum xuê toả bóng mát. Trong đền thờ tượng mẹ Âu Cơ đặt ở vị trí cao nhất. Bức tượng là một người mẹ hiền từ, đẹp như tiên, thông minh và phúc hậu. Tại đây còn thờ phụng con trai thứ hai của Mẹ, một vị tướng tài ba, trung hiếu, được tôn là ''Thượng Đẳng Thần".

Lễ hội Đền Âu Cơ tổ chức hàng năm vào ngày 7 tháng giêng âm lịch" (tr291).

Theo số Tiên Thiên, 7 là số thứ tự của quẻ Cấn còn gọi là quẻ Sơn, có tượng là núi. Tháng giêng số 1 là số thứ tự của quẻ Càn cũng gọi quẻ Thiên, có tượng là trời.

Mẹ Âu Cơ là mẹ tiên, người ở núi "Mẹ Âu Cơ dẫn 50 con lên núi". Dựa theo Dịch lấy ngày 7, quẻ Cấn, để tưởng nhớ mẹ là tiên nhân, cũng như Lạc Long Quân là cha rồng, người ở nước, nên lấy quẻ Khảm số 6 làm ngày tưởng niệm.

Quẻ Cấn và quẻ Càn hợp lại là quẻ Sơn-Thiên-Đại-Súc: 7/1

Quẻ trên là núi, quẻ dưới là trời, đây không phải là chuyện thực mà chỉ là hình ảnh biểu tượng: trời chứa trong núi, tượng trưng cho sự chứa đựng, tích góp lớn lao. Hình tượng này dành cho bậc thánh nhân, những người có thể làm nên những công trạng vĩ đại như Mẹ Âu Cơ. Đại tượng truyện đưa ra một ý rất thích hợp với nội dung câu chuyện chúng ta đang đề cập ở đây: "Đại-Súc, quân tử dĩ đa chỉ tiền ngôn vãng hành, dĩ súc kỳ đức". Việc súc tụ lớn lao, người quân tử nhân đó phải ghi nhớ nhiều ngôn luận và sự tích của các vị thánh hiền xưa, lấy đó để súc tụ mỹ đức cho mình (4) tr536). Tuy chỉ là ý kiến suy tưởng của người Trung Hoa nhưng từ ý này cũng giúp cho ta hình dung được sự phối hợp kỳ lạ giữa hai quẻ Ký-Tế và Đại-Súc, một bên là lời di huấn của cha, một bên là lời khuyên của mẹ, phải nhớ lời cha dặn.

Đại-Súc có nghĩa là súc tụ, súc dưỡng và súc chỉ.

Súc tụ là sự tập hợp vĩ đại, người lãnh đạo phải biết đoàn kết rộng khắp các hạng dân "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng". Tập hợp thành một khối kiên cường trong tình yêu thương rộng mở. Làm được công cuộc súc tụ, thì phải biết súc dưỡng, nuôi dưỡng nhân tài vật lực để phát triển, nhưng trong mọi hành động phải biết dừng lại ở chỗ chí thiện, phải biết chế ước, súc chỉ. Nếu không biết kiềm chế sẽ dẫn đến vọng động hỗn loạn.

Người xưa khi thiết kế những ngày hội lễ đã có những chủ đích nhất định. Phần hội để làm sống lại quá khứ, phần lễ để tạ ơn, nhưng hội lễ không chỉ dừng lại ở đó. Thông qua ngày giỗ Tổ, thông qua những con số, thông qua quẻ Dịch Tổ tiên ta còn có hoài bão muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Đó là nỗi lo muôn thuở, là tấm lòng bao dung, tha thiết, rộng mở của Chư Tổ còn vang vọng mãi khắp núi sông: "Hãy chôn ta trên núi Cả, để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu".

Sách tham khảo:

- (1) Viện Sử Học: Đại Nam Nhất Thống chí - T 4, NXB Khoa học Xã Hội 1971
- (2) Ngô Văn Phú: Hùng Vương và Lễ Hội Đền Hùng, NXB Hội Nhà Văn 1996
- (3) Nguyễn Hiến Lê: Kinh Dịch-Đạo người quân tử, NXB Văn Học 1992
- (4) Trương Thiện Văn: Từ điển Chu Dịch, NXB Khoa học Xã Hội 1997


Nguyễn Thiếu Dũng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi nghĩ hình như có gì đó lấn cấn ở đây :

Tết Đoan Ngọ tồn tai từ lâu trong văn hoá dân gian Đông Phương và có một ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt văn hoá. Tết Đoan Ngọ còn gọi là tết Đoan Dương, tết Hàn thực vì trong ngày này theo tục lệ kiêng ăn món đồ nóng. Ngày này cũng còn gọi là ngày giết sâu bọ. Vì người ta tin rằng: Khi ăn món ăn đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ; giun sán trong người sẽ bị chết hết.

Tết Đoan Ngọ (hay còn gọi là tết Giữa Năm theo âm lịch) thì đúng là của các dân tộc phương nam, theo đó :

Chúng ta cũng lưu ý rằng: Ngày mùng 5 / 5 là ngày rất gần tiết Hạ Chí, tức là ngày nóng nhất trong năm theo thực tế thời tiết;

Nhưng tết Hàn Thực, kiêng ăn đồ nóng (ăn đồ nguội, cụ thể là bánh trôi, bánh chay : kỷ niệm Giới Tử Thôi) thì lại không phải là mùng 5 tháng 5 mà là : mùng 3 tháng 3 âm lịch.

Điều này cũng được nói đến trong cuốn : "Cơ sở văn hóa Việt Nam" của G/S Trần Ngọc Thêm.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi nghĩ hình như có gì đó lấn cấn ở đây :

Tết Đoan Ngọ tồn tai từ lâu trong văn hoá dân gian Đông Phương và có một ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt văn hoá. Tết Đoan Ngọ còn gọi là tết Đoan Dương, tết Hàn thực vì trong ngày này theo tục lệ kiêng ăn món đồ nóng. Ngày này cũng còn gọi là ngày giết sâu bọ. Vì người ta tin rằng: Khi ăn món ăn đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ; giun sán trong người sẽ bị chết hết.

Tết Đoan Ngọ (hay còn gọi là tết Giữa Năm theo âm lịch) thì đúng là của các dân tộc phương nam, theo đó :

Chúng ta cũng lưu ý rằng: Ngày mùng 5 / 5 là ngày rất gần tiết Hạ Chí, tức là ngày nóng nhất trong năm theo thực tế thời tiết;

Nhưng tết Hàn Thực, kiêng ăn đồ nóng (ăn đồ nguội, cụ thể là bánh trôi, bánh chay : kỷ niệm Giới Tử Thôi) thì lại không phải là mùng 5 tháng 5 mà là : mùng 3 tháng 3 âm lịch.

Điều này cũng được nói đến trong cuốn : "Cơ sở văn hóa Việt Nam" của G/S Trần Ngọc Thêm.

Lát nữa có thời gian Phoenix sẽ pót bài về 5/5 AL cho anh Trần Phương tham khảo.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xin cảm ơn anh Phoenix và sau đây tôi cũng giới thiệu 1 cách lý giải khác rất đáng suy nghĩ, từ nguồn :

http://www.khoahoc.net/baivo/nguyenxuanqua...tohungvuong.htm

"

Hàng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch chúng ta lại tổ chức ngày giỗ Tổ Hùng Vương:

Dù ai đi ngược về xuôi,

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba.

hay

Ai về Phú Thọ cùng ta,

Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mồng mười.

Theo âm lịch, một năm có mười hai tháng, ba trăm sáu mươi ngày, tại sao tổ tiên ta lại chon ngày mồng mười tháng ba âm lịch mà không chọn một ngày tháng nào khác? Hiển nhiên ngày giỗ Tổ Hùng Vương phải mang một ý nghĩa gì liên hệ với Tổ Hùng Vương. Bắt buộc. Bắt buộc. Và Bắt buộc. Trong Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt, tôi đã chứng minh là những ngày giỗ, tết, vía, kị, kỷ niệm trong văn hóa Việt Nam như ngày lễ Lạc Long Quân, Thánh Dóng, Hai Bà Trưng, vân vân, đều chọn ngày tháng theo Dịch lý. Vì vậy ngày giỗ Tổ Hùng Vương bắt buộc cũng phải chọn theo Dịch lý dựa vào bản thể của Hùng Vương.

Theo truyền thuyết ta đã biết Mẹ Tổ Âu Cơ “sinh ra một cái bọc trứng chim” nở ra trăm Lang Hùng. Cái bọc này là bọc gì? Cái bọc này mang hình ảnh của bọc, túi, nang, Trứng Vũ Tru (Cosmic Egg) (tương đương với đĩa thái cực). Như thế bản thể của các vua Hùng là bọc, bầu taọ hóa, bọc sinh tạo, bầu vũ trụ, bầu nòng nọc, bầu âm dương, bầu càn khôn.

Cái bọc, cái nang chỉ nở ra “một trăm Lang Hùng”, toàn là con trai, phái nam tức bọc nang này mang dương tính. Các Lang sinh ra từ một cái nang tạo hóạ. Đúng như ta đã bịết L là dạng nam hóa của N, Lang là dạng nam hóa của Nang (Tiếng Việt Huyền Diệu). Bọc mang dương tính ở cõi đại vũ trụ, cõi trời là bọc khí, gió ứng với Đoài vũ trụ và bọc mang dương tính ở cõi thế gian là bọc nước ấm tức ao đầm ứng với Đoài thế gian. Cái “bọc vất ra ngoài đồng” chỉ nở ra một trăm Lang Hùng cho thấy bản thể của Hùng Vương là “bọc” khí gió Đoài vũ trụ” (có bản thể là khí gió nên đóng đô ở đất Phong châu tức châu Gió) và “vất ra ngoài đồng” là ao đầm, ruộng đồng Đoài thế gian (nên đóng đô ở Việt Trì tức Ao Việt). Hùng Vương thuộc dòng thần mặt trời Viêm Đế, là những vua mặt trời hừng rạng. Như thế Hùng Vương có hai khuôn mặt chính là Đoài vũ trụ tức Mặt Trời Sinh Tạo, Tạo Hóa (Sun as Creator) đội lốt Thần Mặt Trời Viêm Đế tương đương với Thần Mặt Trời Ra của Ai Cập cổ và một khuôn mặt thứ hai là Đoài thế gian. Đây là các vị vua Hùng Mặt Trời cai trị vùng đất ao đầm, ruộng nước. Đây có thể là các vị Hùng Vương của lịch sử Việt đội lốt truyền thuyết.

Để hiểu rõ ý nghĩa của các con số 10 và 3 trong ngày giỗ Tổ, xin nhắc qua một chút về giá trị của các con số trong Dịch tính theo nhị nguyên so với các con số bách phân. Dịch có 64 quẻ chia ra làm 8 chuỗi luân chuyển, tuần tự hay 8 tầng. Mỗi chuỗi, mỗi tầng có 8 quẻ. Những số tương ứng (các số tương ứng là những bội số cộng 8 của nhau) trong 8 chuỗi, tám tầng đều mang một trị số như nhau nhưng mang ý nghĩa khác nhau vì ở các tầng, các tượng khác nhau trong Vũ Trụ luận. Ví dụ số 0 tầng 1, số 8 tầng 2, số 16 tầng 3, số 24 tầng 4, số 32 tầng 5 v.v… . . . đều là số Khôn cả nhưng số 0 là Khôn tầng 1 tức tầng tạo hóa (hư không), số 8 là số Khôn tầng 2 tức tầng đất dương thế gian. Vì cùng là Khôn cả nên các số Khôn đều có một trị số như nhau ví dụ số 0 = 32 . Điểm này ta thấy rất rõ như trong nhiệt học, 0 độ bách phân (celcius) = 32 độ Farenheit (Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt).

Theo Dịch, số 3 là số Đoài tầng 1 tức Đoài vũ trụ và số 11 là số Đoài tầng 2 tức Đoài thế gian (11 = 3 + 8). Như thế giỗ Tổ Hùng Vương vào tháng 3 là tháng Đoài vũ trụ ứng với khuôn mặt Đoài vũ trụ của Hùng Vương. Ngày giỗ là ngày10 tức Khảm tầng 2 thế gian (số 2 là Khảm tầng 1 và 10 = 2 + 8). Ta thấy Khảm 10 bước thêm một bước nữa về phía tay phải tức chiều dương là số Đoài 11, nói một cách khác, Đoài thế gian 11 là khuôn mặt dương của số Khảm thế gian 10 (Đoài IIO là thiếu âm IO, nguyên thể của khí gió của nọc dương I trong khi Khảm OIO là thiếu âm IO, nguyên thể của khí gió của nòng âm O). Như thế suy ra số Khảm 10 tầng 2 đất thế gian là khuôn mặt âm của Đoài đất thế gian 11. Do đó ngày giỗ Tổ Hùng Vương mồng 10 là khuôn mặt âm của Đoài đất thế gian 11 và tháng 3 âm lịch ứng với Đoài vũ trụ tạo hóa dương. Ngày tháng giỗ Tổ ứng với hai khuôn mặt âm dương của Tổ Hùng Vương có bản thể là Đoài thích hợp với hai khuôn mặt âm duơng của Hùng Vương chia ra làm hai ngành là ngành Nước, âm cha Lạc Long Quân xuống biển và ngành Lửa, dương mẹ Âu Cơ lên núi.

Hùng Vương Đoài sinh ra từ cái bọc, cái bao vũ trụ nên có một vật biểu là một con vật có cái mai khum tròn như con rùa, con cua biểu tượng cho bọc, bao, túi, bầu vũ trụ, bầu trời, vòm vũ trụ, vòm trời, biểu tượng cho vũ trụ, càn khôn. Phần trên của mai khum tròn biểu tượng cho trời (càn), phần dưới dẹt hình vuông biểu tượng cho đất (đất). Con cua tương đương với con rùa hộp, rùa ba ba, rùa qui vì con cua cũng có mai tương đương với mai rùa. Ta cũng thấy rùa và cua tương đương với nhau qua ngôn ngữ học, từ rùacua biến âm và ruột thịt với nhau. Mã Lai ngữ kura hay cuora là con rùa chính là Việt ngữ cua, chúng ta cũng gọi con rùa hộp ba ba là con “cua đinh”. Như thế rùa ruột thịt với cua. Con rùa có mai hình vòm được dùng làm biểu tượng cho cho vòm trời, vòm vũ trụ, bầu trời, bầu vũ trụ, khí gió tức, biểu tượng cho vũ trụ, càn khôn, trời đất, âm dương liên hệ với Dịch ví dụ như con rùa có mai “ba thước vuông” của Việt Thường của cổ Việt, con rùa ở sông Lạc dâng Lạc thư cho vua Vũ, con rùa thường thấy đi chung với Phục Hy. Dân gian Việt Nam sống ở vùng đất thấp ruộng nước nên dùng con cua, một con vật thân quen làm biểu tượng cho Dịch thay cho con rùa qui. Đó là Việt Dịch Con Cua Hùng Vương hay Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc (xin xem tác phẩm này). Trên bàn Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc, Hùng Vương Đoài có một khuôn mặt là con cua. Vì vậy ngày giỗ Tổ Hùng Vương liên hệ mật thiết với con cua. Muốn nhớ ngày giỗ tổ Hùng Vương chỉ cần nhớ tới con cua qua câu ca dao:

Con Cua tám cẳng hai càng,

Một mai hai mắt rõ ràng con cua.

Tám (8) cẳng cộng với hai (2) càng là 10. Cẳng và càng hình que mang dương tính ứng với mặt trời, với ngày (một ngày là một mặt trời, một dương). Vậy tám cẳng cộng hai càng là ngày mười. Một (1) mai cộng với hai (2) mắt là 3. Mai hình vòm ứng với vòm vũ trụ, vòm trời mang âm tính và âm đi với trăng là nguyệt, là tháng. Vậy một mai công hai mắt là tháng 3.

Câu ca dao này là cái bùa giúp trí nhớ, giúp ta nhớ ngày giỗ Tổ và cũng cho biết Hùng Vương có mạng Đoài có một khuôn mặt biểu tượng dân gian là con cua. Chúng ta có một loại Dịch con cua. Đó là Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc.

Tóm lại ngày giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng 3 âm lịch là ngày tháng liên hệ với hai khuôn mặt âm dương của bản thể Đoài của Tổ Hùng Vương, sinh ra từ một cái bọc, cái bầu tạo hóa, bầu vũ trụ. "

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay