Hà Uyên

HỆ THẦN KINH

1 bài viết trong chủ đề này

Hệ thần kinh cần thiết cho nhận thức cảm giác, nhận thức về sự đau đớn và thích thú, kiểm soát các vận động và điều chỉnh các chức năng của cơ thể. Chẳng những là mạng lưới phức tạp và quan trọng nhất của cơ thể, hệ thần kinh còn quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ, suy nghĩ và trí nhớ. Trung tâm của hệ thần kinh là não và dây cột sống, chúng điều khiển toàn bộ mô thần kinh trong các bộ phận khác của cơ thể.

Posted Image

Các tế bào thần kinh

Các bộ phận hoạt động của hệ thần kinh là hàng triệu tế bào thần kinh liên kết lại được gọi là các nơrôn. Chức năng của chúng khá giống với các dây điện trong một bộ máy điện phức tạp: chúng bắt tín hiệu trong một bộ phận của hệ thần kinh và chuyển các tín hiệu đến bộ phận khác, nơi mà chúng có thể được chuyển tiếp đến các nơrôn khác hoặc dẫn đến hoạt động nào đó.

Theo chức năng, các nơrôn được chia thành ba loại: các nơrôn cảm giác, truyền đạt thông tin từ các cơ quan cảm giác của cơ thể đến hệ thần kinh trung ương; các nơrôn hợp nhất - nơrôn trung gian xử lý thông tin nhận được và các nơrôn vận động, khởi phát các hoạt động ý thức và vô thức.

* CẤU TRÚC CỦA NƠRÔN:

Các nơrôn có hình dạng và kích thước khác nhau nhưng tất cả chúng đều có cấu trúc cơ bản giống nhau. Giống như mọi tế bào, chúng có một nhân hay điểm giữa được chứa trong một phần gần như hình cầu của nơrôn gọi là thân bào. Các rễ này là đuôi gai. Một sợi đơn dài cũng trải ra từ tế bào được gọi là sợi trục, sợi dẫn chính trong một dây thần kinh. Ở đầu xa của nó, sợi trục chia thành nhiều nhánh kết thúc bằng một số đầu mút nhỏ bé.

Mỗi đầu ở gần sát nhưng thực sự không chạm vào đuôi gai của một nơrôn khác. Khoảng cách này được gọi là liên hợp thần kinh, qua đó các thông tin được truyền đi do các hoá chất được gọi là chất dẫn truyền thần kinh.

Mỗi nơrôn được giới hạn bởi một màng bán thấm mỏng gọi là màng nơrôn, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc dẫn truyền các tín hiệu. Các tín hiệu này luôn luôn được bắt đầu đầu bằng sự kích thích của một hay nhiều đuôi gai của nôrôn và trước tiên được chuyển về thân bào. Sau đó, chúng được truyền ra xa thân bào dọc theo sợi trục. Để tăng tốc sự dẫn truyền các tín hiệu, nhiều sợi trục có một lớp bao bọc, gọi là myelin.

Khi một tín hiệu đi đến các đầu mút ở cuối sợi trục, trong hoàn cảnh nào đó, nó có thể nhảy qua liên hợp thần kinh đến đuôi gai của một nơrôn kế cận và cứ thế tiếp tục cuộc hành trình của nó.

Nơrôn không phải là loại tế bào duy nhất được thấy trong hệ thần kinh. Các tế bào được gọi là mô đệm hay thần kinh đệm, có mặt rất nhiều trong hệ thần kinh trung ương và các tế bào schwann được thấy trong hệ thần kinh ngoại biên. Cả hai loại kết hợp với nhau bảo vệ, nuôi dưỡng và còn cung cấp sự chống đỡ cho các nơrôn.

Hệ thần kinh ngoại biên

Posted Image

Các thành phần chính của hệ thần kinh ngoại biên là các dây thần kinh ngoại biên, các dây thần kinh này nối hệ thần kinh trung ương đến tất cả các bộ phận khác của cơ thể và các hạch, các nhóm tế bào thần kinh được đặt ở các điểm khác nhau trong hệ thần kinh.

Một dây thần kinh là một bó sợi vận động và cảm giác, cùng với mô liên kết và các mạch máu. Có tới 43 cặp dây thần kinh lớn thực sự xuất hiện trong hệ thần kinh trung ương : 12 cặp hiện ra từ phía dưới bộ não - thần kinh sọ và 31 cặp từ dây cột sống - thần kinh tuỷ sống.

Các dây thần kinh sọ chủ yếu cung cấp cho các cơ quan cảm giác và các cơ ở trên đầu, nhưng một dây thần kinh rất quan trọng - thần kinh phế vị cung cấp cho các cơ quan tiêu hoá, tim và không khí đi vào trong phổi. Một số dây thần kinh sọ như dây thần kinh thị giác cung cấp cho mắt chỉ chứa các sợi cảm giác.

Các dây thần kinh tuỷ sống xuất hiện ở khoảng giữa của dây cột sống và luôn chứa đựng cả hai sợi vận động và cảm giác. Chúng cung cấp tất cả các khu vực bên dưới cổ. Mỗi dây thần kinh tuỷ sống được gắn vào dây cột sống bằng hai rễ, một rễ mang các sợi vận động còn rễ kia mang sợi cảm giác. Ở bên kia rễ các sợi cảm giác và vận động gộp lại tạo thành dây thần kinh, tuy vậy mỗi sợi hoạt động độc lập với nhau, giống như hai dây trong một dây dẫn điện. (trong khi các dây thần kinh sọ cũng được gắn vào bên dưới não bằng các rễ, thì các sợi cảm giác và vận động tạo thành các dây thần kinh riêng rẽ).

Tại một khoảng cách nhỏ của dây cột sống mỗi dây thần kinh tuỷ sống tách ra thành các nhánh nhỏ hơn, tạo thành một mạng lưới toả ra cơ thể.

Cả hai sợi cảm giác và vận động là bộ phận của các nơrôn cảm giác và vận động. các sợi vận động và cảm giác của hệ thần kinh ngoại biên chỉ là các sợi dài nhất thuộc các nơrôn riêng của chúng. Thí dụ, một sợi thần kinh vận động từ một nơrôn riêng của chúng. Thí dụ, các sợi thần kinh vận động từ một nơrôn ở dây cột sống có thể kéo dài không gián đoạn đến một cơ ở bàn chân.

Hệ thần kinh soma và tự trị

Hệ thần kinh ngoại biên có hai nhóm chính: Hệ thần kinh soma có ý thức kiểm soát và hệ thần kinh tự trị không có ý thức kiểm soát.

Posted Image

Hệ thần kinh soma có một vai trò hai mặt. Thứ nhất nó tập hợp các thông tin về thế giới bên ngoài từ các cơ quan cảm giác như là mắt, có chứa các tế bào thụ thể đặc biệt. Các tín hiệu từ các thụ thể này sau đó được chuyển đến hệ thần kinh trung ương theo các sợi thần kinh cảm giác. Thứ hai, nó truyền tín hiệu qua các sợi vận động từ hệ thần kinh trung ương đến các cơ xương, như vậy sự chuyển động bắt đầu.

Hệ tự trị chủ yếu liên quan đến việc duy trì các chức năng tự động mà không có chủ ý của chúng ta hay nỗ lực khác của bộ phận cơ quan như tim, phổi, bao tử, ruột, bàng quang, các cơ quan sinh dục và mạch máu. Nó hoàn toàn gồm các dây thần kinh vận động được sắp xếp theo kiểu chuyển tiếp từ dây cột sống đến các cơ quan khác nhau.

Hệ thần kinh tự trị được chia thành hai phần, được gọi là thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Mỗi hệ dùng một hoá chất dẫn truyền khác nhau ở nơi mà sợi thần kinh đi đến cơ quan mục tiêu của nó, mỗi hệ được tạo nên khác nhau và mỗi hệ có một ảnh hưởng khác nhau đối với các cơ quan nó cung cấp. Thí dụ, các dây thần kinh phó giao cảm cung cấp các đường thông khí phế quản dẫn vào và ra khỏi phổi, làm cho chúng co khít lại hay hẹp dần. Các dây thần kinh giao cảm dẫn đến cùng một khu vực làm cho mở rộng, nghĩa là làm giãn nở các đường phế quản .

Toàn bộ hệ tự trị được một khu vực của não kiểm soát gọi là cấu tạo dưới đồi. thí dụ, khu não này nhận thông tin về bất kì sự biến đổi nào trong cấu tạo hoá học của cơ thể và điều chỉnh hệ tự trị để đưa cơ thể trở lại sự cân bằng thích hợp. Ví dụ, nếu mức oxy giảm xuống do tập luyện, cấu tạo dưới đồi ra lệnh cho hệ thần kinh tự trị tăng thêm nhịp tim để cung cấp thêm nhiều máu có oxy.

Hệ thần kinh trung ương

Hệ thần kinh ngoại biên chỉ giữ nhiệm vụ chuyển tiếp các thông tin vận động và cảm giác giữa hệ thần kinh trung ương và các cơ, tuyến, cơ quan cảm giác của cơ thể. Nó hầu như chẳng có vai trò gì trong việc phân tích các tín hiệu cảm giác, hoặc khởi đầu các tín hiệu vận động. Cả hai hoạt động này và ngoài ra có nhiều hoạt động khác nữa xảy ra trong hệ thần kinh trung ương.

Não và dây cột sống tạo thành đơn vị xử lý trung ương của hệ thần kinh. Chúng nhận thông tin qua các sợi cảm giác từ cơ quan cảm giác và các thụ thể của cơ thể, lọc và phân tích thông tin, sau đó chuyển đi các tín hiệu theo sợi vận động, tạo ra phản ứng thích hợp ở các cơ và tuyến.

Posted Image

Khía cạnh phân tích hoăc xử lý có thể tương đối đơn giản đối với những nhiệm vụ nào đó được tiến hành trong cột sống, nhưng sự phân tích trong não thường rất phức tạp, liên quan đến sự tham gia của hàng ngàn nơrôn khác nhau. Mặc dù, nhiều nơrôn cảm giác kết thúc trong não và nhiều nơrôn vận động bắt nguồn từ trong não, nhưng phần lớn các nơrôn của não là những nơrôn trung gian, công việc của nó là lọc, phân tích và lưu trữ.

Toàn bộ hệ thần kinh trung ương phải được nuôi bằng sự cung cấp đầy đủ máu, cung cấp oxy và cung cấp dinh dưỡng. Nó còn được bảo vệ bằng hai loại bao bọc. Thứ nhất là xương: hộp sọ bao bọc não và xương sống bao bọc dây cột sống. Thứ hai bao gồm ba lớp màng mô sợi được gọi là màng não. Các màng này được bao bọc toàn bộ não và dây cột sống.

Dịch não tuỷ là một chất dịch trong giống như nước chảy xung quanh màng não và tuỷ sống ( dây cột sống) và đi qua các não thất (các khoang). Dịch não tuỷ có tác dụng như một chất đệm vì thế giúp bảo vệ mô não quan trọng khỏi tổn hại.

Chất dịch được tạo ra liên tục từ máu do các tế bào chuyên hoá của đám rối màng mạch trong não thất. không giống như các tâm thất – có tên gọi, các não thất có số. sự đánh số đi từ phần cao nhất đến phần dưới cùng các thất thứ nhất và các thất thứ hai(được gọi là các não thất bên) là não thất lớn nhất.

Dịch não tuỷ chảy từ các thất bên, qua một lỗ hẹp vào trong não thất nhỏ thứ ba và sau đó qua một ống hẹp đều - cống não, và não thất thứ tư hơi rộng hơn. Từ đây nó thoát ra qua các lỗ trong vòm của não thất vào trong các khoảng chứa đầy dịch ( các bể chứa) bao quanh cuống não tại đáy não. Sau đó, chất dịch chảy ngược lên phía trên của não (hai bán cầu não) và được hút lại bởi các chồi lông đặc biệt, được gọi là nhung mao nhện, một trong ba màng của màng não.

* DÂY CỘT SỐNG (TUỶ SỐNG):

Dây cột sống là một hình trụ gồm các mô thần kinh ước chừng dài khoảng 40cm, chạy bên trong xương cột sống từ não đến dưới lưng. Nó được cấu tạo bởi sự tập hợp các nơrôn và bó sợi thần kinh. Chất xám là sự tập hợp tế bào thần kinh – có hình dạng chữ H trong hình cắt ngang, với một sừng sau chứa đựng các thân bào của nơrôn cảm giác và chỗ nối các nơrôn.

Chất xám được chất trắng bao bọc. Chất trắng này được chia thành ba cột và chứa đựng các dây thần kinh đi lên và đi xuống, chúng nối liền não và dây cột sống theo cả hai hướng. Các dây thần kinh đi xuống đưa xung lực vận động từ não đến hệ thần kinh ngoại biên, trong khi đó các dây thần kinh đi lên chuyển các xung lực đến não.

* CHỨC NĂNG CỦA DÂY CỘT SỐNG:

Posted Image

Dây cột sống có hai chức năng chính. Thứ nhất, nó giữ nhiệm vụ như một hệ thống dẫn hai chiều giữa não và hệ thần kinh ngoại biên. Đạt được điều này là do các sợi của nơrôn cảm giác và vận động kéo dài từ các bộ phận của não. Chúng chạy nhiều khoảng cách khác nhau xuống dây cột sống và tại các đầu mút cách xa nhất chúng tiếp xúc với các sợi hoặc thân bào của nơrôn cảm giác và vận động thuộc về hệ thần kinh ngoại biên. Các thông tin có thể được chuyển qua các liên hợp thần kinh, giữa các nơrôn ngoại biên và nơrôn cột sống.

Chức năng thứ hai của dây cột sống là kiểm soát các hoạt động phản xạ đơn giản. Điều này đạt được là nhờ các sợi nơrôn mở rộng các khoảng cách ngắn lên và xuống dây cột sống và nhờ các nơrôn trung gian chuyển tiếp các thông tin trực tiếp giữa các nơron cảm giác và vận động.

Thí dụ, nếu bạn tình cờ đặt tay lên chiếc lò nóng, các thụ thể đau ở da đưa thông tin theo các sợi cảm giác đến dây cột sống. Một số thông tin này được chuyển tiếp ngay lập tức bằng các nơrôn đến nơrôn vận động điều khiển chuyển động của cổ. Theo cách này đầu được tự động xoay về hướng nguồn gây đau. Các thông tin thêm nữa được đưa qua toàn bộ khoảng cách lên đến não và tạo ra cảm giác ý thức về sự nóng và đau.

* NÃO:

Về cơ bản não có thể được chia thành ba vùng khác nhau: não sau, não giữa và não trước. Mỗi vùng não này lần luợt được chia thành các khu riêng rẽ chịu trách nhiệm về những chức năng hoàn toàn khác biệt. Tất cả đề được kết nối một cách phức tạp vào các bộ phận khác của não.

Cấu trúc lớn nhất của não sau là tiểu não. Đây là khu có liên quan chủ yếu với hoạt động vận động. Nó đưa ra các tín hiệu tạo ra các chuyển động vô thức trong cơ sao cho tư thế và sự thăng bằng được duy trì và nó có nhiệm vụ hợp tác với các khu vận động của não bộ để phối hợp các chuyển động của cơ thể.

Posted Image

Cuống não - nối liền não với dây cột sống, gồm có một phần của não sau, toàn bộ não giữa và một phần não truớc. Chính tại cuống não này toàn bộ thông tin đi vào và ra đến cùng một lúc và đi ngang qua, đối với phần bên trái của cơ thể được phần não bên phải chi phối và ngược lại.

Các cấu trúc khác nhau trong cuống não – bao gồm cấu trúc có tên là hành tuỷ và cầu não của não sau và cấu tạo lưới (đôi khi được cho là hệ lưới hoạt hoá) của não giữa - tự đảm trách cuộc sống của nó. Chúng điều khiển nhịp tim, huyết áp, sự nuốt, ho, thở và bất tỉnh.

Sự kiểm soát mức độ ý thức là một trong những chức năng quan trọng nhất của não. Nó là cấu tạo lưới sàng lọc kỹ khối thông tin đi vào và quyết định khối thông tin nào đủ quan trọng để báo cho não. Các lộ trình của dây thần kinh từ khắp cơ thể phân nhánh đến cấu tạo lưới và nuôi nó bằng một luồng tín hiệu điện liên tục xuất hiện trong các tế bào thần kinh. Hoạt động này lần lượt tạo ra cấu tạo lưới để bắn tín hiệu đến các mục tiêu ở khắp cả não, đến các trung tâm thích hợp mà tín hiệu được tập hợp, đối chiếu và làm theo. nếu lực thúc đẩy này mà chậm lại hoặc bị ngăn cản không cho xảy ra thì bộ phận của não được gọi là vỏ não trở nên không hoạt động và người ta sẽ bị bất tỉnh.

* NÃO BỘ VÀ CẤU TẠO DƯỚI ĐỒI:

Bộ phận lớn nhất của toàn bộ não bộ, nằm trong não trước. Não bộ của con người phát triển hơn bất kì não bộ của động vật nào khác và chủ yếu cho suy nghĩ, trí nhớ, ý thức, và các quá trình trí tuệ cao hơn. Đây là nơi mà các bộ phận khác của não đưa thông tin vào để có một quyết định.

Não bộ được chia thẳng xuống chính giữa thành hai nửa gọi là hai bán cầu não. Chúng được nối ở đáy bằng một bó sợi thần kinh dày đặc gọi là thể chai. Mặc dù, hai bán cầu là hình phản chiếu của nhau (giống nhau về hình thức) nhưng có những chức năng hoàn toàn khác nhau và cùng nhau hoạt động thông qua thể chai.

Tại trung tâm của hai bán cầu não là nơi tập trung chất xám (các tế bào thần kinh gọi là hạch đáy). Các tế bào này tạo thành một hệ thống điều khiển phức tạp phối hợp hoạt động cơ cho phép cơ thể thực hiện các kiểu chuyển động đặc biệt tự do và không ý thức. Loại hoạt động cơ này có liên quan đến sự vung vẩy hai cánh tay trong khi bước đi, đến sự biểu lộ nét mặt và liên quan đến vị trí của tay chân trước khi đứng hoặc bước đi.

Cấu tạo dưới đồi nằm trên đáy của não, dưới hai bán cầu não. Nó ở trực tiếp bên dưới một cấu trúc quan trọng khác trong não trước - đồi não – có nhiệm vụ như một tổng đài giữa dây cột sống và bán cầu não. Cấu tạo dưới đồ thực sự là nơi tập trung các trung tâm thần kinh chuyên hoá, liên kết với các khu vực quan trọng khác của não, cũng như với tuyến yên. Nó là vùng não có liên quan đến sự kiểm soát các chức năng quan trọng như ăn, ngủ và kiểm soát thân nhiệt. Nó còn liên kết chặt chẽ với hệ nội tiết (hoocmôn).

Cấu tạo dưới đồi có những đường thần kinh nối liền với hệ bản tính, được liên kết chặt chẽ với trung tâm khứu giác của não. Phần não này cũng có mối quan hệ với các khu vực liên quan đến các giác quan khác, thái độ và sự tổ chức ghi nhớ.

* VỎ NÃO:

Vỏ não là lớp chất xám nhăn, dày 3mm gấp lên phía ngoài não bộ. Phần não này rất phát triển ở con người đến nỗi nó phải gấp nhiều lần để khớp với bên trong hộp sọ. Nếu trải ra, nó sẽ bao phủ một diện tích lớn bằng 30 lần khi được gấp lại.

Giữa tất cả các nếp gấp có những rãnh có phần rất sâu chia mỗi bán cầu của vỏ não thành bốn khu vực được gọi là các thuỳ. mỗi thuỳ phục vụ một hay nhiều chức năng riêng biệt. Các thuỳ thái dương liên quan đến sự nghe và cũng liên quan đến sự ngửi, các thuỳ đính với sự sờ và nếm, các thuỳ chẩm với sự nhìn và các thuỳ trán với sự chuyển động, ngôn ngữ và suy nghĩ phức tạp.

Bên trong những mỗi thùy này có phần riêng biệt dành để nhận các thông tin cảm giác từ một khu vực của cơ thể. Thí dụ, cảm giác sờ có một khu vực rất nhỏ trong thuỳ đính chẳng dành cho cái gì ngoài cảm giác từ đầu gối và một khu vực dưới ngón tay cái. Đây là lý do mà sao các khu vực giống như ngón tay cái nhạy cảm hơn các khu vực đầu gối, và nguyên tắc tương tự áp dụng cho các bộ phận cảm giác khác của vỏ não và cũng như các bộ phận vận động.

Tuy nhiên, ở vỏ não các thông tin nhận được từ năm giác quan - thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác. Được phân tích và xử lý để các bộ phận khác của hệ thần kinh trung ương và ngoại biên tạo ra các chuyển động phối hợp, các chuyển động này rất quan trọng đối với mỗi hoạt động ý thức mà cơ thể thực hiện.

Mắt

Mắt thiết kế thật tuyệt vời, khi người ta muốn giải thích cách mà chúng ta có thể nhìn thấy. Tuy nhiên, để hiểu đầy đủ làm sao mà thế giới bên ngoài có thể được nhìn thấy ở bên trong hốc mắt nhỏ bé, người ta phải đi trở lại những vấn đề thiết yếu.

Posted Image

Cách tốt nhất để tưởng tượng ánh sáng như là một môi trường dẫn truyền. Từ bất cứ nguồn nào, ánh sáng bật lên các vật thể theo mọi hướng, kèm theo khả năng các vật thể được nhín thấy.

Một điều quan trọng nữa cần hiểu về ánh sáng mà mặc dù ánh sáng thường đi theo các đường thẳng, nhưng nó có thể bị uốn cong nếu nó đi qua những chất nào đó, chẳng hạn như kính định hình của thấu kính máy chụp hình, hoặc thuỷ tinh thể được tạo nên từ mô trong mắt người.

Hơn nữa, mức độ uốn cong có thể được điều khiển chính xác nhờ hình dạng mà thấu kính được tạo ra. Thật ra, ánh sáng có thể được uốn cong vào trong, hoặc tập trung để tạo thành những hình ảnh nhỏ bé mà hình ảnh trọn vẹn của vật thể lớn hơn nhiều.

* GIÁC MẠC:

Khi gặp một tia sáng đập vào mắt, điều trước tiên nó bắt gặp là một cửa sổ tròn, trong suốt được gọi là giác mạc, là thuỷ tinh thể thứ nhất trong số hai thuỷ tinh thể của mắt. giác mạc tạo thành thấu kính hội tụ cố định mạnh mẽ của mắt. năng lực thị giác của giác mạc có tỉ lệ định rõ của 2/3 tổng số năng lực của mắt. Tuy nhiên, giác mạc chỉ dày có ½ mm tại trung tâm và dày 1mm ở nơi mà nó nối liền với tròng trắng của mắt, được gọi là củng mạc.

Giác mạc gồm có năm lớp. Ở phía ngoài là một lớp năm tế bào gọi là biểu mô, tương đương với da cơ thê. dưới lớp này là một lớp giống như sợi đàn hồi gọi là lớp Bawman. kể đến là lớp mô đệm cứng được tạo nên từ chất tạo keo(collagen). lớp mô đệm này là bộ phận dày nhất. mô đệm giúp cho giác mạc khỏi nhiễm trùng, bởi vì trong lớp này có những kháng nguyên chống nhiễm trùng khác nhau: mô đệm còn cho phép giúp kiểm soát sự viêm trong giác mạc.

Sau mô đệm là một lớp được gọi là nội mô chỉ dày có một lớp tế bào. lớp mỏng này giữ cho giác mạc trong suốt và duy trì sự cân bằng lưu lượng nước từ mắt đến giác mạc. một khi được hình thành, các tế bào của lớp này không thể tái sinh và vì thế tổn hại hoăc bệnh tật đối với nội mô có thể gây thiệt hại cho thị lực vĩnh viễn. lớp cuối cùng được gọi là màng Descimet, là một màng đàn hồi.

Một làn nước mắt bao phủ biểu mô. Không có nước mắt, giác mạc sẽ không che chở chống lại vi sinh vật vi trùng, sự ô nhiễm hay bụi bặm. màng nước mắt còn cung cấp lớp thị giác và không có nước mắt biểu mô sẽ mất sự trong suốt của nó và trở nên mờ đục.

Sau khi đi qua giác mạc, tia sáng đi vào phía ngoài của hai khoang bên trong mắt, gọi một cách thích hợp là khoang trước. khoang này chúa đầy chất dịch như nước được gọi là thuỷ dịch liên tục được thoát đi và được thay thế.

* MÀNG MẠCH NHO:

Màng mạch nho là tên đặt cho khu vực bao gồm ba cấu trúc riêng biệt nằm trong trung tâm nhãn cầu: màng mạch, thể mi và mống mắt, thỉnh thoảng cũng được gọi là màng bồ đào.

Posted Image

Màng mạch là một miếng màng mỏng ở giữa củng mạc bảo vệ bên ngoài và võng mạc. Màng này có nhiều mạch máu cung cấp cho võng mạc và tạo thành một mạng lưới phức tạp khắp cả mắt. Trong màng lưới này có các mô nâng đỡ chứa đựng một sắc tố khác nhau; số sắc tố này ngăn ánh sáng đi qua phía sau mắt làm cho hình ảnh không bị rối loạn.

Thể mi gồm một khu nổi lên thuộc màng bồ đào ngay tại phía trước mắt. Vai trò của nó là làm thay đổi hình dạng của thấu kính mắt thông qua chuyển động của cơ mi – cho phép chúng ta tập trung vào các vật thể gần – và cũng làm cho thuỷ dịch chất dịch luân chuyển trong khoang, giữa thuỷ tinh thể và mặt trong của giác mạc.

Gắn liền với thể mi là khu vực chuyên hoá thứ ba - mống mắt - tạo thành phía sau của khoang trước. đây là bộ phận của mắt mà sắc tố làm cho mắt có màu. Nó có nhiệm vụ giống cái chặn lỗ ống kính của máy chụp hình, các sợi cơ của nó làm giãn hoặc co con ngươi (đồng tử) và như vậy kiểm soát được cường độ ánh sáng đi đến võng mạc.

nếu ánh sáng quá mạnh chiếu vào nó, đồng tử dần dần trở nên nhỏ hơn mà không có bất kì ý thức nỗ lực nào của chúng ta. Trong ánh sáng lờ mờ, nó dần dần trở nên lớn hơn. Sự kích động, sợ hãi và sự sử dụng những dược phẩm nào đó cũng làm cho đồng tử giãn rộng hay co lại.

Ngay phía sau mống mắt là thuỷ tinh thể trong suốt, mềm, đàn hồi. nó là một bộ phận tương đối ít quan trọng bởi vì hầu hết công việc được giác mạc thực hiện.

* PHA LÊ DỊCH VÀ VÕNG MẠC:

Phía sau thuỷ tinh thể là khoang trong quan trọng nhất của mắt.

Khoang này chứa đầy một chất được gọi là pha lê dịch, có một kết cấu giống như thạch và làm cho mắt hình như vững chắc và dai như cao su. Chạy xuyên qua trung tâm của nó là ống pha lê, cái còn lại của một luồng mang một động mạch trong suốt.

Bên trong nhãn cầu cong, toàn bộ xung quanh khoang sau được lót bằng một lớp nhạy cảm với ánh sáng được gọi là võng mạc. trên thực tế lớp võng mạc này được cấu tạo bởi hai loại tế bào nhạy cảm ánh sáng gọi là những tế bào hình que và hình nón.

Các tế bào hình que nhạy cảm với ánh sáng có cường độ thấp và không phân biệt được màu sắc mà được phân biệt bằng các tế bào hình nón. Các tế bào này còn chịu trách nhiệm về sự rõ ràng sắc nét và có nhiều nhất ở phía sau mắt trong một khu được gọi là hố hay điểm vàng. Ở đây thuỷ tinh thể còn diễn ra hội tụ hình ảnh sắc nét nhất của nó và đây là nơi sự nhìn của chúng ta tốt nhất.

Bao quanh hố(điểm vàng), võng mạc vẫn nhận ra hình ảnh rõ ràng, nhưng ra phía ngoài rìa của nó. Vùng được gọi là thị lực ngoại vi, thì toàn bộ khu đó chúng ta “thấy không rõ”.

thị lực trung tâm và thị lực ngoại vi này cùng nhau tạo nên một tâm nhìn trọn vẹn về thế giới bên ngoài.

* DÂY THẦN KINH THỊ GIÁC:

Mỗi tế bào nhạy cảm ánh sáng trong võng mạc được nối liền bằng một dây thần kinh đến não, nơi mà thông tin về mô hình, màu sắc và hình dạng được tính toán. Toàn bộ sợi thần kinh này tập trung ở phía sau mắt tạo thành một dây chính được gọi là dây thần kinh thị giác. Dây này chạy phía sau từ nhãn cầu xuyên qua một ống xương trong hộp sọ và nhô lên bên trong xương sọ ngay bên dưới não trong vùng thuộc tuyến yên; tại đây nó được nối bằng dây thần kinh thị giác cùng loại. Các dây thần kinh từ mỗi bên sau đó giao nhau để thông tin nào đó từ mắt trái được chuyển sang phía mắt phải của não và ngược lại. Các dây thần kinh từ bên thái dương(gần hai thái dương) thuộc mỗi võng mạch không giao nhau và vì thế ở lại cùng một phía của não còn các bộ thần kinh bộ phận của mắt thực hiện hầu hết sự quan sát chạy đến hai bên của não.

Dây thần kinh thị giác chỉ là một bó sợi thần kinh mang xung lực điện nhỏ xuống các dây nhỏ bé được cách ly với các dây kế bên bằng một lớp myelin. Ở chính giữa các dây thần kinh chính là một động mạch lớn hơn chạy theo toàn bộ chiều dài của nó. Động mạch này được gọi là động mạch võng mạc trung tâm. động mạch này nổi lên ở phía sau mắt và các mạch từ nó toả ra khắp bề mặt của võng mạc. có một tĩnh mạch tương ứng chạy ngược xuống dây thần kinh thị giác dọc theo động mạch võng mạc trung tâm, dẫn lưu võng mạc.

Các dây thần kinh nổi lên từ võng mạc là dây thần kinh cảm giác, không giống như các dây thần kinh vận động trên đường đến não chỉ có một chỗ nối, các dây thần kinh thị giác tạo nên nhiều chỗ nối hơn. Chỗ nối đầu tiên nằm ngay phía sau điểm mà thông tin cảm giác từ mỗi mắt được trao đổi. điểm giao nhau này được gọi là giao thoa thị giác và nằm rất sát với tuyến yên. Ngay phía sau giao điểm này là chỗ nối đầu tiên hay trạm tế bào. Tại đây, thông tin từ bên trái và bên phải lại được trao đổi nữa qua đường các chức năng của điểm nối này được liên kết bởi các phản xạ của động từ.

Từ thể cong bên các dây thần kinh toả ra trên mỗi bên xung quanh phần thái dương của não tạo thành bức xạ thị giác. Chúng quay lại một chút và tập hợp lại với nhau và đi qua điểm trao đổi quan trọng – nang trong – nơi mà tất cả thông tin vận động và cảm giác cung cấp cho cơ thể được tập trung. Từ chỗ đó các dây thần kinh đi qua phía sau não đến vỏ thị giác.

Tai

Tai không những cung cấp cho chúng ta khả năng nghe mà nó còn cho chúng ta khả năng thăng bằng. Nó là một cơ quan phức tạp được chia thành ba phần: tai ngoài, thu thập âm thanh giống như một máy quét ra đa; tai giữa có sự lắp ráp các xương như hệ thống truyền động khuếch đại âm thanh chúng ta nhận được và tai trong chuyển đổi những rung động âm thanh thành các xung lực điện và tính ra vị trí trong đầu.

Các thông tin đưa đến được truyền vào não theo một cặp thần kinh nằm sát bên nhau: dây thần kinh tiền đình dành cho sự thăng bằng và dây thần kinh ốc tai dành cho âm thanh. Các tai ngoài và tai giữa chủ yếu liên quan đến thính giác, nhưng các cấu trúc tai trong lý giải vị trí và âm thanh trong đầu thì riêng rẽ, mặc dù chúng được thấy đồng thời trong cùng một cơ quan.

* THÍNH GIÁC/ NGHE:

Những gì chúng ta nghe là các sóng âm thanh được tạo ra nhờ những giao động của phân tử không khí. Kích thước và năng lượng các sóng này xác định độ lớn được đo bằng decibel(dB). số lần giao động hoặc chu kỳ trong một giây tạo nên tần số; càng nhiều giao động thì cường độ âm thanh càng cao. tần số âm thanh càng cao. tần số âm thanh được thể hiện bằng các thuật ngữ chu kỳ trong một giây, hoặc Hertz(Hz).

Posted Image

Ở những người trẻ tuổi, phạm vi các tần số có thể nghe thấy 20 đến 20.000Hz trong một giây. Tuy vậy tai nhạy cảm tốt nhất đối với các âm thanh phạm vi trung bình khoảng 500 đến 4000Hz. Khi chúng ta già đi hoặc nếu chúng ta bị đặt nơi tiếng ồn quá lớn qua một khoảng thời gian, thính giác của chúng ta sẽ trở nên kém thính nhạy trong những tần số cao hơn. để đo mức độ tổn hại khả năng nghe, các mức độ nghe bình thường được xác định bằng một tiêu chuẩn quốc tế . mức độ nghe của một người là sự khác nhau về các decibel giữa nốt nhạc trong trẻo nhỏ nhất được nghe thấy và nốt nhạc tiêu chuẩn được một chiếc máy đặc biệt phát ra được gọi là thính lực kế.

Tai giữ nhiệm vụ như một ống nghe(tai ngoài), một bộ khuếch đại(tai giữa) và một máy phát(tai trong).

ống nghe được tạo thành bởi một bộ phận giống như thịt của tai được gọi là loa tai. Tại điểm giữa của loa tai là một ống xương (ống tai ngoài) dẫn đến màng nhĩ. một chất giống như sắp được tiết ra từ các thành ống để ngăn ngừa da khỏi bị khô và bong ra.

Bộ khuếch đại được tạo nên bởi một hệ thống truyền động gồm có ba xương được gọi là các tiểu cốt. Các tiểu cốt này là xương búa, được gắn vào màng nhĩ; xương bàn đạp gắn vào tai trong và xương đe - một xương nhỏ nối liền hai xương trên. sự sắp xếp truyền động này phóng đại chuyển động màng nhĩ 20 lần.

Từ tai giữa có một ống hẹp được gọi là vòi Eustache, mở ra phía sau Amiđan và vòi này làm cân bằng áp suất không khí trên mỗi bên của màng nhĩ. tiếng lộp bộp trong hai tai từ chúng ta xuống nhanh trong tháng máy được gây ra do những chuyển động của màng nhĩ qua những biến đổi áp suất trong tai giữa.

bộ phận máy phát của tai rất phức tạp. các cơ cấu vừa để nghe vừa để giữ thăng bằng tạo thành một phòng chung chứa đầy chất dịch được gọi là nội dịch và các sóng áp suất được truyền qua chất dịch này từ tai giữa đến xương bàn đạp. bộ phận nghe nằm ở một đầu phòng và tạo thành một đầu cuộn khá giống vỏ ốc. nó được gọi là ốc tai và khắp cả chiều dài của nó phủ một màng mỏng được gọi là lá nền, lá này cung cấp hàng ngàn sợi thần kinh nhỏ bé cho dây thần kinh ốc tai. Những thay đổi về cường độ hay độ lớn của âm thanh được cảm giác bằng các lông liti trên lá nền qua các sóng áp suất truyền trong nội dịch truyền khắp cả chiều dài của ốc tai.

Dây thần kinh ốc tai chạy đến một bộ phận chuyên hoá của não được gọi là trung tâm thính giác .

Cách thức của sóng được biến đổi thành năng lượng điện và được lý giải bởi não không được hiểu rõ. Lý thuyết hiện hành cho rằng các tế bào của ốc tai đo các sóng áp suất trong nội dịch và biến chúng thành các xung lực điện. nó cũng không rõ ràng cách thức tai phân biệt giữa độ lớn và cường độ.

* GIỮ THĂNG BẰNG:

Vì là một cơ quan giữ thăng bằng, tai chịu trách nhiệm giám sát từng chút một về vị trí và các chuyển động của đầu. Và nếu vị trí đúng của đầu được giám sát phù hợp thì cơ thể có thể tự nó điều chỉnh để vẫn giữ thăng bằng nằm ở phần bên trong cùng của tai, được các xương của hộp sọ bảo vệ tốt được gọi một cách thích hợp là tai trong. Ở đây có một mê cung với những ống chứa đầy chất dịch, tất cả ở các mức độ khác nhau và ở những góc độ khác nhau. Trong số những ống này , có một ống liên quan đến sự giữ thăng bằng gọi là thông nang, tiểu nang và các ống bán nguyệt.

Posted Image

Thông nang và tiểu nang có liên quan đến việc nhận ra vị trí của đầu. mỗi khoang trong số hai khoang này chứa đựng một đệm tế bào được bao phủ bằng một chất giống như thạch được gắn vào các hạt phần nhỏ.

Khi cơ thể thẳng đứng, trọng lực khiến cho các hạt này ép vào các lông nhạy cảm trong chất thạch. Lúc đó các lông truyền tín hiệu thần kinh đến não cho biết “thẳng đứng”.

Khi đầu nghiêng tới trước, ra sau hoặc hai bên các hạt phấn đẩy mạnh vào các lông làm chúng cong theo một hướng khác nhau . điều này làm phát ra một thông tin mới đến não, mà lúc đó nếu cần thiết có thể đưa ra các lệnh cho cơ để điều chỉnh vị trí của cơ thể.

Thông nang cũng hoạt động khi cơ thể chuẩn bị di chuyển về phía trước hoặc phía sau. Ngay khi não nhận được thông tin này nó chuyển các tín hiệu tới cơ làm cho cơ thể nghiêng về trước, khôi phục lại sự thăng bằng của nó. tất cả các phản ứng này bị đảo ngược néu đứa trẻ dựa về sau của chiếc ghế.

* BẮT ĐẦU VÀ DỪNG CHUYỂN ĐỘNG:

Nhô ra ngay phía trên thông nang của tai là ba ống bán nguyệt chứa đầy dịch. Tại ống của mỗi ống là khối chất thạch hình bầu dục. bao bọc trong chất thạch này là các đầu lông nhạy cảm, chúng sẽ bị cong do các chuyển động của chất dịch trong ống khi đầu chuyển động.

Các ống bán nguyệt thu nhận thông tin khoảng thời gian bắt đầu và dừng chuyển động - đặc biệt quan trọng trong lúc chuyển động nhanh, phức tạp.

Khi đầu bắt đầu chuyển động về một hướng, chất dịch trong các ống có khuynh hướng vẫn đứng yên, làm cho chất dịch đẩy mạnh vào các lông nhạy cảm. lúc đó, các lông truyền thông tin đến não để cho não có thể hành động.

Nhưng khi đầu ngưng chuyển động, đặc biệt là khi đầu ngưng xoay vòng tròn, chất dịch tiếp tục chuyển động bên trong các ống bán nguyệt trong khoảng một phút hoặc hơn làm cho bạn cảm thấy chóng mặt.

* TRUNG TÂM ĐIỀU KHIỂN:

Một bộ phận của não chịu trách nhiệm nhiều nhất về hướng dẫn hoạt động của các cơ trong việc giữ cho cơ thể thăng bằng là tiểu não. Đôi mắt cũng thế, có một vai trò rất đặc biệt tham gia vào việc giữ thăng bằng, bởi vì chúng cung cấp thông tin sinh động về mối quan hệ của cơ thể đối với môi trường xung quanh nó. Mắt còn có mối liên quan quan trọng với các ống bán nguyệt. Thí dụ, khi bắt đầu di chuyển về bên trái, chuyển động của dịch trong các ống bán nguyệt làm cho mắt di chuyển về bên phải. Nhưng khi ấy cơ chế thăng bằng làm cho chúng di chuyển sang phía bên trái để điều chỉnh đến vị trí giống như của đầu.

Sự chuyển động mắt này giải thích một phần lý do vì sao người ta có nhiều khả năng bị buồn nôn nếu cố đọc trong khi đang đi trong suốt cuộc hành trình trên xe cộ đang di chuyển như là xe hơi hay xe buýt. Việc đọc có khuynh hướng chống lại các chuyển động mắt tự nhiên này, khiến gây ra những cơn buồn nôn khí chịu đó và sự nôn mửa tạo thành chứng say xe.

* HỌC TẬP VÀ GIỮ THĂNG BẰNG:

Đây là một quá trình dài mất hai năm đầu đời của một em bé, với một năm nữa nắm vững nghệ thuật đứng trên một chân. trước khi có thể đật được sự thăng bằng hoàn hảo, cả não lẫn các cơ phải đủ hoàn thiện để cung cấp sức mạnh và sự phối hợp cần thiết.

Các thụ thể khứu giác và vị giác / thụ thể mùi - vị

Khứu giác có lẽ được biết là một giác quan cổ nhất và nhỏ nhất trong số năm giác quan của con người. Trong suốt qúa trình tiến hoá, khứu giác đã giữ những liên kết của nó với các bộ phận của não mà phát triển thành ngôi nhà phân biệt đối với những phản ứng xúc cảm, liên kết mật thiết các mùi của sự vật với cảm xúc của chúng ta.

khứu giác của chúng ta còn đóng một vai trò quan trọng trong sự hấp dẫn tình dục, mặc dù điều này đã trở nên thầm lặng đáng kể trong sự tiến hoá của loài người. các vai trò quan trọng của nó là vai trò của một hệ thống báo trước và tập hợp thông tin: báo trước cho chúng ta sự nguy hiểm và cho chúng ta những thông tin có giá trị về thế giới bên ngoài.

Mối liên kết chặt chẽ giữa vị giác và khứu giác là một điều gì đó không phải lúc nào chúng ta cũng nhận thấy. chỉ đến khi bị cảm, ta mới nhận chẳng những ta không thể ngửi đồ vật, mà vị của thức ăn cũng biến mất.

Nguồn: phuongthaoherbal.com/vn/userfiles/image/H%C3%

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay